"Nghe khúc điệu rộn ràn đôi cánh mỏi
Cũng có lúc đi qua chiến trường:
Chiến binh và cổ mộ
Nắng tắt chiến trường
Giọt máu quạnh hơi sương
Đạo sĩ đã từng “soi hình bên suối”, hay “chơi vơi đỉnh thác”, có lúc đứng nhìn “mặt hồ im ánh nước chập chờn”. Đã thấy bóng hình một người mà thi sĩ “nhớ mênh mông đôi mắt giả từ” và không thể “quên đâu con mắt giữa đêm”. Một hình bóng mơ hồ như một “công nương bỏ quên chút hờn trên dấu lặng”, một người không ở trên trần gian, mà “trên đài cao em ngự mấy tầng”…
Khi dây đàn chợt đứt, thấy “bóng ma đêm như thật”, lúc “hương tan trên dấu lặng”, thấy “mặt đất rung ma quỷ rộn phương trời”. Mỗi lần gặp dấu lặng người nhạc sĩ xúc cảm có lẽ nhiều hơn khi nhìn thấy những nốt nhạc trên bản nhạc, khi thấy dấu thăng thì “âm đàn trĩu nặng”, khi đàn nhiều thì “rát đầu tay nốt nhạc triền miên”, khi đánh những nốt nhạc kết thúc thì “chuỗi cadence day dứt ngón tay” và “ấn sâu xuống ưu phiền trên phím trắng”, khi đàn phím trắng phím đen trộn nhau thì “đen trắng đuổi nhau thành ảo tưởng”, khi gặp “dấu lặng tròn xoe” thì “ta gửi đó ưu phiền năm tháng”. Có lúc “hương tan trên dấu lặng” nghe “giai điệu tròn lung linh”, có lúc “chút hơi thở mong manh trên dấu lặng” thì không nghe chi cả “đêm huyền vi giai điệu không lời”.
Trong cả tập thơ thường mang mác một nỗi buồn “bóng sao đêm dài vời vợi, thật hay hư chiều nhỏ ưu phiền”, “ấn sâu xuống ưu phiền trên phím trắng”, “ta gửi đó ưu phiền năm tháng”, “tay buồn vuốt mãi tờ hương rã”, “giai điệu cổ thống buồn u uất”, “ta sống lại trên nỗi buồn ám khói”, “giăng mộ cổ mưa chiều hoen ngấn lệ”…
Cuối cùng, khi gặp một mộ cổ thì thấy như là một tượng đài huyền sử:
Giăng mộ cổ
mưa chiều hoen ngấn lệ
Bóng điêu tàn
huyền sử đứng trơ vơ
Sương thấm lạnh
làn vai hờn nguyệt quế
Ôm tượng đài
Yêu suốt cõi hoang sơ
Sau cuộc phiêu du huyền thoại, có lẽ Thầy chưa tìm được những gì Thầy muốn gặp, nên khi xếp tập thơ ta có cảm giác như là “chưa đi đến nơi, chưa về đến chốn”.
Lời thơ mang màu sắc huyền bí mênh mông, chất Thiền vị nhiều hơn thi vị, nhưng người đọc bị hấp dẫn từ đầu đến cuối bằng nội dung và hình thức, có cảm giác không rời được bước chân Thầy. Tôi không phân tích tập thơ này, nhưng chỉ nói qua cảm giác của bản thân, của một người không phải là thi sĩ, một người nghiên cứu âm nhạc mà yêu thơ.
Ngoài lời thơ của Thầy Tuệ Sĩ, bản dịch tiếng Pháp của Dimonique de Miscault còn làm cho tôi thêm phần thích thú vì những chữ dịch chẳng những chính xác mà còn gợi lên được những hình ảnh đẹp và tư tưởng Thiền.
Đặc biệt một từ “vô biên” (infini) mà khi dịch câu:
Cánh chim bạt ngàn, từ quảng vô biên
Thành là:
Au delà des sommets, un oiseau plane
Entre deux notes l’intervalle est infini
Nhưng đến câu
Một màu xanh mù tỏa vô biên
Lerre bleue s’étend à perte de vue
Chữ vô biên của quảng nhạc thì thuộc về tai nghe, nhưng vô biên của màu xanh thì thuộc về mắt thấy.
Bà dùng danh từ rất chính xác:
Dịp tim ngừng trống trải thời gian
Nếu chữ trống trải mà dịch thành chữ “vide” thì không trật…
Nhưng lại không lột tả được tư tưởng Thiền là trong cái trống trải vẫn tồn tại mọi điều, tuy nghĩ là “không” mà vẫn hiện hữu “có”.
Nên dịch là:
Le coeur s’arrête dans la “vaculté” dutemps. Chữ đó thường được dùng để dịch chữ “không” trong ngôn ngữ Phật giáo.
Nhiều khi Bà không dịch theo cách “trực dịch” mà “ý dịch”:
Cánh mỏng phù du
Trực dịch: “les ailes fragiles de l’éphémère”
Ý dịch: “Mes ailes sont aussi fragiles que calles de l’éphémère”
Văn phong giản dị, bản dịch đi sát lời thơ cũng tạo nên một cảm giác phiêu diêu. Phần minh họa chụp Thầy ngồi trước đàn Piano… xem qua nửa hư nửa thực. Mỗi bức ảnh như một bức họa, trong đó phần “hiện thực” pha trộn hài hóa với màu sắc có phong cách trừu tượng. Tác giả cho rằng những bức ảnh đó là một “biểu tượng tình cảm” (expresison graphique) theo cụm từ Đặng Tiến đã dùng.
Lời thơ, ý thơ đầy Thiền vị, bản dịch chính xác, giản dị, và giàu thi vị, hình ảnh lộng lẩy như những bức tranh, sắp xếp rất hài hòa nghệ thuật, lại in trên loại giấy tuyệt đẹp, làm cho tập thơ này trở thành một “nghệ phẩm” toàn diện, cũng như điệp khúc từ những phím dương cầm đang mênh mang bát ngát trải dài trên những ngón tay."
Nguồn: Bài Thuyết trình GSTS. Trần Văn Khê nói về tập thơ “Những điệp khúc cho dương cầm” của Thầy Tuệ Sĩ, ngày 27/9/2009 tại khách sạn Legend.
