-
Nguời hùng trận Đồng Xoài bỏ trốn
Biệt tăm suốt 35 năm sau khi bỏ trốn khỏi nước Úc, cuối cùng cũng có người lần ra tung tích cựu giám đốc ngân hàng Nugan Hand Bank (NHB) Michael Jon Hand, người hùng trận Đồng Xoài trong chiến tranh Việt Nam và kẻ là bị truy nã số một tại Úc.
Kẻ để lại ở nước Úc số nợ $50 triệu (năm 1980) và một vụ tự sát mờ ám của đồng giám đốc Frank Nugan, Hand hiện đang “hưởng phước” tại thị trấn Idaho Falls thuộc tiểu bang Idaho của Mỹ. Đổi họ nhưng không thay tên, ông ta hiện là Michael Jon Fuller, đang làm chủ một công ty chuyên sản xuất dao găm, mỗi năm sản xuất hàng chục ngàn dao găm bán đi khắp thế giới, trong đó khách hàng chính là lực lượng đặc biệt Mỹ.
Hand sinh năm 1941 tại New York, theo học đại học Syracuse University nhưng sau một năm thì tình nguyện đi lính, gia nhập Lực lượng đặc biệt “Green Beret”. Đó là năm 1963 và sau khi thụ huấn tại Fort Bragg, Hand được đưa đến Việt Nam và đến năm 1965 đã được tặng thưởng ba huy chương: Purple Heart, Silver Star và Distinguished Service Cross.
Distinguished Service Cross là huy chương cao thứ hai của quân đội Mỹ giành quân nhân chiến đấu, chỉ dưới Medal of Honor. Hand được trao huy chương này sau trận đánh khuya ngày 9 rạng sáng ngày 10 tháng Sáu năm 2015 tại Đồng Xoài.
Người hùng Đồng Xoài
Đồng Xoài cách Sài Gòn 110 km, cách biên giới Campuchia 110 km là vị trí trọng yếu để chặn đường tiến và đường tiếp tế của Cộng quân.
Ngay nay Đồng Xoài thuộc tỉnh Bình Phước nhưng trước đây thuộc tỉnh Phước Long, là một trong bốn tỉnh tách ra từ tỉnh Biên Hòa vào năm 1956 dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm (1956), sau khi được cấp thêm một phần đất của tỉnh Thủ Dầu Một.
Đồng Xoài là nơi tập trung chi khu Đôn Luân và một căn cứ của lực lượng đặc biệt Mỹ. Ngày 25.5.1965, Biệt đội A-342 (Detachment A-342) trong đó có Hand - nhân viên truyền tin với cấp bậc binh nhất - chuyển đến căn cứ vừa mới xây dựng xong.
Ngay từ đầu đơn vị này đã bị Cộng quân tấn công liên tiếp bằng súng cối nhưng lại chủ quan, cho rằng đó là họat động quấy nhiễu thông thường. Trên thực tế thì Cộng quân chuẩn bị đánh lớn với một sư đoàn, trong đó hai trung đoàn tấn công và hai trung đoàn dự bị. Đây cũng là lần đầu tiên, Cộng quân đánh vào một quận ly và chiếm giữ gần hai ngày.
Khuya ngày 9 rạng sáng ngày 10.6.1965 trận đánh bắt đầu. Từ các khu rừng chung quanh, 2000 cộng quân tràn vào chi khu Đôn Luân và căn cứ đặc biệt theo chiến thuật biển người, tiền pháo hậu xung, tràn ngập phòng tuyến chỉ 400 binh sĩ. Bên trong quận lỵ hình thành một tình thế kiểu chiến tranh thành thị: đơn vị VNCH cố thủ trong các lô cốt giằng co với quân chính quy Bắc Việt. Tình trạng này kéo dài suốt ngày hôm sau sau cho đến khi Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân đến giải tỏa.
Cộng quân rút thì Quân đội VNCN truy kích, do một Tiểu đoàn Nhảy Dù đảm nhận. Tuy nhiên từ các cánh rừng chung quân, hai trung đoàn Bắc Việt đã mai phục sẵn, nhưng đó là chuyện khác, ở đây chúng ta nói về vai trò của Hand.
Khi căn cứ bị Cộng quân tràn ngập, vị trí cố thủ của Hand có 19 người nhưng chỉ còn 6 người sống sót, trong đó Hand cứu sống 4 đồng đội khi tả xung hữu đột với con dao găm trên tay và tiêu diệt hàng lọat đối thủ. Với chiến công này Michael được trao huy chương cao qúy thứ hai của quân đội và được CIA chú ý.
Lúc đó CIA đang tổ chức “Nhóm hành quân đặc biệt” để thu lượm tin tức tình báo (Special Operations Group: SOG) với nhân lực tuyển thẳng từ Green Beret. Mô hình họat động này vẫn được CIA áp dụng tại châu Châu Mỹ La-tinh và tại Afghanistan.
Theo điều tra của nhà báo Jonathan Kwitny thì Hand giải ngũ vào tháng Năm năm 1966, tuy đến năm 1967 vẫn còn “làm việc trực tiếp với chính phủ Mỹ”. Đó là việc huấn luyện Biệt kích Lào, trực tiếp làm việc với phi hành đoàn của công ty Air America.
Tiền thân của Air America là Công ty Vận chuyển hàng không dân sự (Civil Air Transport: CAT) ra đời đầu năm 1950. Năm 1959 hãng được đổi tên thành Air America, do CIA bí bật sở hữu thông qua một công ty tên là Pacific. Ngày 9 tháng 3 năm 1961 tổng thống Kennedy chỉ đạo CIA tiến hành cuộc chiến bí mật ở Lào và lúc này các hoạt động của CIA liên quan đến người H’mong, vua Vàng Pao,… đều sử dụng phi công và máy bay của Air America, chủ yếu cất cánh từ Thailand.
Trưởng trạm CIA tại Việt Nam lúc này là Theodore Shackley thừa nhận đã gặp Hand trong giai đọan này.
Tuy nhiên đến tháng 9 năm 1967 thì Hand bỏ cuộc chơi, sang Úc làm ăn!
Sang Úc lập nghiệp
Tháng 9 năm 1967 Hand chuyến đến Úc , làm việc cho công ty địa ốc R&R, phụ trách việc môi giới bán bất động sản tại Úc cho các cựu chiến binh Mỹ: ai muốn đầu tư hay sang sống tại Úc thì qua tay ông ta. Chỉ chưa đầy hai năm sau thì Hand đã có thể thành lập công ty của riêng mình và quen biết với Francis John Nugan.
Năm 1973 Hand và Francis John Nugan, thường gọi tắt là Frank Nugan, thành lập ngân hàng Nugan Hand Bank (NHB) với Nugan phụ trách thị trường Úc còn Hand phụ trách thị trường quốc tế. Đầu tiên ngân hàng này mang tên Nugan Hand Needham vì có sự tham gia của nhà kinh doanh đua ngựa John Needham. Tuy nhiên ông này nhận thấy cách làm ăn bất bình thường của Hand và Nugan nên rút lui.
Frank Nugan (giữa) và Michael Hand (phải)
Hand và Nugan thu hút vốn bằng cách thu hút tiền ký thác của khách hàng với lãi suất cao, đến 16% một năm. NHB nhanh chóng phát triển, từ một văn phòng ở Sydney, NHB có thêm nhiều chi nhánh ở mọi nơi trên thế giới như ở đảo quốc Cayman, Chiang Mai, Hawaii, Cape Town, Hong Kong, Đài Loan và Thủ đô Washington DC.
Nếu đảo quốc Cayman là “thiên đường rửa tiền” thì Chiang Mai ở Thái Land là cửa ngỏ của Tam Giác Vàng, sào huyệt bạch phiến của thế giới lúc đó. Hành tung của NHB dẫn đến các tin đồn: NHB có sự bảo trợ của CIA, NHB chuyên rửa tiền cho các tổ chức buôn bán ma túy và vũ khí, NHB liên quan đến các băng đảng ma túy tại vùng Tam Giác Vàng.
Tin đồn này càng rộ lên khi NHB sử dụng nhiều cựu sĩ quan quân đội và nhân viên tình báo Mỹ, trong đó có cựu phó đề đốc Earl Yates trong vai trò chủ tịch và đặc biệt là ông Willam Colby. Colby là Cựu giám đốc Cục tình báo CIA1973 – 1976 từng là phó rồi trưởng trạm CIA tại Việt Nam (1959 – 1962), trở thành cố vấn pháp lý cho NHB vào năm 1979.
Theo Alfred W. McCoy, tác giả cuốn The Politics of Heroin: CIA Complicity In The Drug Trade thì bề ngoài NHB thành lập với số vốn $1 triệu từ cổ phần của các cổ đông nhưng thực chất đây là trò lừa đảo. Ngân hàng chỉ có $80 trong trương mục nhưng Frank Nugan đã lấy chi phiếu công ty địa ốc của mình để viết khống $980,000 rồi mua 490,000 cổ phiếu của ngân hàng.
Cũng theo McCoy thì từ đầu năm 1975 Hand bỏ ra một năm trời sống tại các nước năm Phi châu để bắt mối buôn bán vũ khí. Sự việc diễn ra giữa lúc CIA hỗ tợ lực lượng UNITA tại Angola. Theo cáo buộc thì năm 1974 NHB giúp CIA buôn bán vũ khí với Angola thông qua hai nhân viên CIA ở Indonesia là James Hawes và Robert Moore. Sau đó NHB còn hỗ trợ CIA nhiều vụ khác, trong đó có hợp đồng mua vũ khí cho Iran.
Tháng Ba năm 1976 Hand trở lại Sydney và kết thân với Murray Riley. Riley là sĩ quan cảnh sát NSW từ năm 1943 và bị sa thải năm 1962 vì quan hệ với giới tội phạm, năm 1978 Riley bị bắt quả tang buôn lậu 2.7 tấn cần sa và sau đó bị phạt 10 năm tù.
Theo cáo buộc thì ngay trong sau khi trở lại Sydney, Hand bắt đầu chuyển tiền của Riley sang chi nhánh của NHB tại Hong Kong.
Năm 1980, giữa lúc NHB bị các tổ chức giám sát kinh doanh, Cục tình báo an ninh Úc và cả FBI điều tra và kiểm tóan thì Frank Nugan dùng súng tự sát.
Cái chết của Nugan
Nugan sinh nhăm 1942 tại Griffith, vùng đất khét tiếng với các băng đảng cần sa gốc mafia Ý.
Cha của Nugan là một di dân Đức tên in Alfredo Neugarten, tuy nhiên đã lấy quốc tịch Tây Ban Nha trước khi đến Úc vào năm 1939. Tại Úc ông mở một cơ sở đóng gói trái cây còn Nugan học luật tại Sydney University và sau đó là Đại học California tại Berkeley. Xong việc học tại Mỹ, Nugan đến Canada làm luận án tiến sĩ nhưng rồi bỏ ngang để làm công chức.
Năm 1968 Nugan trở lại Úc hành nghề luật sư, đầu tiên làm cho một công ty luật nhưng nghĩ rằng gốc gác di dân sẽ khiến mình khó tiến thân, ông bỏ ra ngoài lập công ty riêng.
Nugan gặp Hand tại nhà hàng Bourbon and Beefsteak nổi tiếng tại Kings Cross vào năm 1968. Nhà hàng này là nơi mà Nugan đến để thực hiện các giao dịch địa ốc trong khi Nugan đến để giao tế nhằm quảng bá công ty luật của mình.
Cả hai mau chóng kết đôi và kết quả là ngân hàng trên ra đời. Nhưng Nugan nhận thấy mình đã nhận lầm người, hoàn toàn mất kiểm sóat ngân hàng, số nợ ngày càng phình to trong khi ngày kiểm tóan đến gần.
Ngày Chủ Nhật, 27.1.1980 người ta phát hiện Nugan gục chết trên vô lăng chiếc Mercedes với một phá súng duy nhất vào đầu. Chiếc xe đậu trên đường Forty Bends Rd tại Bowenfels gần Lithgow, cách Sydney 160 km.
Trên xe có cuốn Kinh thánh ghi tên Bill Colby- tức cựu trùm CIA William Colby và Bob Wilson, hạ nghị sĩ Mỹ, thành viên Tiểu ban quốc phòng Hạ viện. Ngoài ra trên xe còn có cuốn số ghi tên những khách hàng của NHB, trong đó có nhiều tay buôn ma túy .
Bằng chứng giảo nghiệm cho thấy Frank Nugan tự tay dùng súng bắn mình tuy nhiên các nhà điều tra cho rằng ông ta không tự ý hành động mà bị đe dọa: nếu không tự xử, không chỉ thanh tóan ông ta mà giết cả nhà. Lý do là cuốn Kinh thánh trên được “high light” tại vài chỗ để gây chú ý, trên những từ như “giết vợ”, “giết con”.
Điều tra
Hai ông chủ thì một ông đã tự tử, một ông đã bỏ đi để lại số nợ nhất là 50 triệu Úc kim, trong đó có gần 20 triệu tiền thuê trụ sở tại Sydney chưa thanh toán.
Chính phủ Úc đã mở ba cuộc điều tra riêng biệt đối với NHB. Đầu tiên là cuộc điều tra của
Joint Task on Drug Trafficking (JTDT) do tiểu bang NSW cùng chính phủ liên bang thực hiện, kéo dài từ năm 1980 đến 1983.
Cuộc điều tra thứ hai là của Ủy ban điều tra độc lập (Royal Commission of Inquiry into the Activities of the Nugan Hand Group) từ 1983 to 1985.
Một cuộc điều tra khác là của Corporate Affairs Commission of New South Wales (CAC), cơ quan đặc trách việc giám sát họat động của các tông ty tại của chính phủ NSW .
Theo điều tra cua CAC thì NHB có quan hệ với cựu Tổng thống Ferdinand Marcos của Philippines thông qua Ludwig Petre Rocka, em rể của Marcos, có công ty kinh doanh tại Melbourne và Manila. Rocka và vợ là Elizabeth E. Marcos, em gái Marcosn, đều có trương mục tại NHB. Chính Roka đã giúp đỡ NHB thành lập chi nhánh tại Manila với địa chỉ đặt ngay tại văn phòng của mình tại Manila.
Ủy ban kết luận NHB vi phạm quy chế họat động ngân hàng rất nhiều lần, có dấu hiệu rửa tiền và trốn thuế, tuy nhiên không tìm đủ bằng chứng cho các nghi ngờ buôn bán vũ khí, ma túy và quan hệ với CIA.
Trong cuộc điều trần của ủy ban, một cựu quản trị viên cho biết đã bị là nếu làm không đúng theo lệnh thì sẽ giết vợ.
Hand chạy trốn
Sau khi Nugan chết thì Hand phá hủy toàn bộ các sổ sách chứng từ tại văn phòng cũng như tại nhà riêng, sau đó bỏ trốn khỏi Úc bằng sổ thông hành giả.
Lúc đó Hand giả làm một người bán thịt tên Alan Glenn Winter sống tại Sydney. Hand đã lấy được khai sinh của Winter nên xin passport, gởi kèm theo hình của mình có kèm râu giả.
Thọat đầu Hand trốn đến Fiji, từ đây trốn sang Vancouver trước khi trở lại Mỹ và biến mất.
Ký giả Peter Butt sống tại Sydney, đã bỏ ra nhiều năm điều tra và phát hiện Michael Hand đang sống với cái tên mới là Michael Jon Fuller. Theo Peter Butt thì 18 tháng sau khi rời khỏi Úc, Hand đã trở lại làm việc cho CIA tại Trung Mỹ.
Câu chuyện được trình bày trong cuốn sách điều tra, Merchants of Menace và tác giả này đã hướng dẫn Đài truyền hình số 9 đến tận nơi quay phim và phát trong chương trình 60 Minutes vào tối 8.11.2015. Với thông tin do Butt cung cấp, nhóm quay phim “60 minutes” của Đài số 9 đã đến tận nơi để quay phim. Khi bị các phóng viên đã chặn đường đưa tấm hình cũ và mới của mình bên ngoài một thương xá tại Idaho Fall, Michael Hand đã hoàn toàn bất ngờ và lúng túng. Ông ta không nói lời nào, lên xe hơi của mình rồi phóng thắng về nhà và đóng chặt cửa.
Rõ ràng là Hand đã nhận sự bảo vệ của thế lực ngầm nào đó tại Mỹ và có thể tiếp tục kinh doanh với nhiều khách hàng “tên tuổi” , trong đó có hợp đồng với lực lượng đặc biệt Mỹ.
Ma tuý và quyền lực chính trị
Việc NHB mở chi nhánh tại Chieng Mai, cửa ngõ của vùng Tam Giác Vàng cho thấy ngay rằng ngân hàng này có mùi ma túy.
Và để yên tổ làm ăn, yên ổn vào Mỹ bằng sổ thông hành giả, Hand phải có sự trợ giúp nào đó.
Từ xưa đến nay, kỹ nghệ trồng trọt, chế biến và vận chuyển ma tuý chỉ được dung dưỡng bởi những ý đồ chính trị hay chiến lược của các tay chơi quyền lực lớn. Trong chiến tranh Lạnh thì chính phủ Mỹ lại dung dưỡng các nhóm tàn quân của Tưởng Giới Thạch khi họ chạy xuống ẩn nấp ở vùng Tam Giác Vàng, ủng hộ các thế lực quân phiệt địa phương khác tại khu vực. Với ý đồ ngăn chặn cộng sản, họ đã nhắm mắt cho những đội quân này sản xuất và buôn bán ma tuý để có thể tồn tại và hoạt động, cho dù những hoạt động này trực tiếp làm băng hoại xã hội Mỹ.
Sau đó thì sau cuộc chiến chống Nga rồi chống khủng bố tại Afghanistan, xứ sở này bắt đầu trở thành vựa thuốc phiện của thế giới. Afghanistan là một phần của “vành đai thuốc phiện Á châu”. Đó là những vùng đất cao, có thời tiết khô và lạnh, vốn chạy dài từ vùng cao nguyên miền Bắc của Thổ Nhĩ Kỳ qua Iran, Afghanistan, miền bắc Ấn Độ rồi tới Đông Nam Á hay vùng Vân Nam của Trung Quốc.
Đầu tiên vùng thuốc phiện này khởi sự với cuộc kháng chiến chống Nga (1979 – 1992). Dù có sự tài trợ của người Mỹ, các lãnh tụ du kích Hồi giáo cũng không muốn phụ thuộc hoàn toàn vào người Mỹ do đó phải tìm đường tự lực cánh sinh. Lúc đó nông dân ở các vùng chiến khu thuộc miền nam và miền tây Afghanistan, được khuyến khích bỏ cây lúa mì để chuyển sang trồng thuốc phiện “ủng hộ kháng chiến”.
Trồng càng nhiều thì thuốc càng rẻ và người hút càng nhiều, dẫn đến nhu cầu càng cao hơn. Đến năm 1995 khi Taliban chiếm được tỉnh Herat giáp giới với Iran, là nơi có đất đai thích hợp với thuốc phiện, kỹ nghệ “tiên nâu phục vụ cách mạng” càng tiến nhanh và tiến mạnh.
Sau khi thống nhất Afghanistan, Taliban tuyệt đối cấm dân hút thuốc hay uống rượu nhưng lại trồng thuốc phiện với mục đích kinh tài. Vì bị Mỹ và LHQ gây sức ép khá mạnh, Taliban buộc lòng phải chứng tỏ nỗ lực bài trừ ma tuý để được công nhận và thoát khỏi chính sách cấm vận: tháng 7.2000 Taliban ban hành chính sách cấm sản xuất thuốc phiện.
Nhưng vụ khủng bố 11.9.2001 diễn ra, Mỹ bắt đầu tấn công Afghanistan và Taliban bị lật đổ. Lúc này Afghanistan sa vào cảnh hỗn quân hỗn quan với các nhóm tàn quân Taliban, Al-Qaeda, các sứ quân v.v.... Để có tiền mua vũ khí và nuôi quân, họ chỉ có thể nhắm vào con đường thuốc phiện. Kỹ nghệ trong thuốc phiện lại bùng phát trở lại. Mà ở đâu có thể hái ra ma tuý thì ở đó có mafia, và thế là mafia Nga nhảy vào.
Vựa thuốc phiện Afghanistan là “thành quả” của mối liên minh tay ba: khủng bố, sứ quân và mafia Nga. Vựa có đầu ra là thị trường gần nhất là Âu châu và Phi châu, Trung Á và Nga. Thuốc phiện ở đây được thu hoạch và chế biến tại các phòng thí nghiệm ngay trên đất Afghanistan, sau đó được các băng mafia Nga đưa về phía Bắc, ngang qua biên giới Iran và cuối cùng xuất hiện trên các đường phố London hay Paris, Moscow.
Một phần thuốc phiện được đưa về phía Nam, ngang qua Paksitan, và trở thành một nguồn kinh tài đáng kể cho các nhóm khủng bố.
Phạm Đức Đồng Hùng
Nguồn: http://www.vietluan.com.au