Công cụ "Biến đổi khí hậu"

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Công cụ "Biến đổi khí hậu"

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    Biến đổi khí hậu
    có trở thành công cụ kiểm soát xã hội không?
    (Kỳ 1)

    ______________________________________
    Thủy Tiên - Trà Nguyễn • 11:44, 07/09/21





    Ngày nay, nỗi lo sợ biến đổi khí hậu đã hình thành thể chế khắc nghiệt, một cú đánh bồi thêm lên sự què quặt của tăng trưởng, việc làm sau hàng thập kỷ liên tiếp chìm trong khủng hoảng tài chính và hậu quả của nó.


    Hiếm có một tổ chức nào - công hay tư - không nêu lại giáo lý khí hậu nói rằng khí hậu là một mối đe dọa hiện hữu: tổng thống Hoa Kỳ; Fed; IMF, Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Y tế Thế giới; Davos (chủ nghĩa toàn cầu), Phố Wall, và mọi giám đốc điều hành của công ty khi muốn tránh một cuộc tranh quyền cổ đông.



    Nỗi hoảng sợ cực đoan

    “Hãy xử lý cuộc khủng hoảng khí hậu như một cuộc khủng hoảng thực sự”, nhà hoạt động khí hậu tuổi thiếu niên Greta Thunberg có vẻ đã nói quá lời. Đáng tiếc, ‘thể chế’ biến đổi khí hậu đang gạt những người trẻ tuổi như cô bé Greta khỏi các cơ hội của cuộc sống…

    “Bạn nói rằng bạn yêu con mình hơn tất cả những thứ khác, nhưng bạn đang đánh cắp tương lai của chúng ngay trước mắt chúng”, Thunberg phát biểu tại hội nghị khí hậu LHQ 2018 ở Katowice.

    Không chỉ cô bé tuổi thiếu niên Thunberg hoảng sợ đến mức gay gắt trước biến đổi khí hậu. Không chỉ hàng loạt các tổ chức quốc tế và chính phủ đồng điệu trong vấn đề biến đổi khí hậu và carbon mà tất cả các nghiên cứu khoa học có kết luận khác hoặc tiếng nói nghi hoặc về biến đổi khí hậu lập tức được xem là tội đồ của loài người.

    Biến đổi khí hậu đã thực sự bị biến thành một loại tôn giáo mà không một số liệu, một nhà khoa học nào được phép nghi ngờ, không một ai được chất vấn lại, những người ‘dám làm điều đó’ lập tức bị kết án. Dù vậy, rất nhiều bằng chứng đanh thép, nhiều nghiên cứu khoa học vẫn dũng cảm lội ngược dòng bất chấp sự ủng hộ cực đoan của truyền thông, chủ nghĩa toàn cầu cho vấn đề này.

    Bài báo khoa học “sự sai lầm của các mô hình [dự báo] khí hậu, công bố trên trang web của Viện Hoover danh tiếng năm 2017 đã đặt câu hỏi về việc liệu carbon có thực sự là tội đồ của nóng lên toàn cầu hay không?

    Bầu khí quyển ngày nay ấm hơn khoảng 0,8 độ C so với năm 1850. Lý thuyết biến đổi khí hậu cho rằng nồng độ carbon dioxide trong khí quyển đã tăng 40% kể từ năm 1750 và CO2 là khí nhà kính. Từ đây, giả thuyết rằng khí CO2 chính là tội đồ gây ra 0,8 độ C ấm lên toàn cầu dựa trên hai thông tin nóng lên 0,8 độ C và 40% CO2 gia tăng. Và từ đây, CO2 được đưa vào thể chế để triệt tiêu trong hoạt động sản xuất kháp toàn toàn cầu.

    Nhưng các nhà nghiên cứu của Viện Hoover cho rằng, chúng ta [khoa học hiện đại] hầu như không có khả năng thực hiện các thí nghiệm có kiểm soát, chẳng hạn như tăng và giảm mức CO2 trong khí quyển và đo lường sự thay đổi dẫn đến nhiệt độ. Con người còn làm gì khác được nữa? Con người đã xây dựng các mô hình máy tính phức tạp sử dụng vật lý để tính toán cách năng lượng chảy vào, xuyên qua và ra khỏi đất, nước và bầu khí quyển của hành tinh. Những mô hình như vậy đã được tạo ra và thường xuyên được sử dụng ngày nay để đưa ra những dự đoán thảm khốc về số phận của Trái đất.

    Theo viện nghiên cứu Hoover, vấn đề là các mô hình này có những hạn chế nghiêm trọng làm hạn chế đáng kể giá trị của chúng trong việc đưa ra các dự đoán và trong việc chỉ đạo chính sách. Cụ thể, có ba vấn đề lớn tồn tại: Sai số, sự không chắc chắn về số liệu đầu vào từ năng lượng mặt trời, giả thuyết đầu vào không đáng tin của mô hình về mây. Các nhà nghiên cứu của Hoover khẳng định rằng, chỉ một trong ba vấn đề ở trên cũng đủ khiến người ta nghi ngờ về những dự đoán. Cả ba cùng nhau giáng một đòn mạnh vào dự báo của các mô hình hiện tại. Ví dụ, nồng độ mây trên bầu trời, cho đến nay vẫn là một bất lực của khoa học hiện đại. Bao nhiêu lớp mây, đến và đi thế nào trên bầu trời, cách hình thành và tụ hội của chúng hiện nằm ngoài mọi dữ liệu khoa học, mọi hiểu biết toàn cầu.

    Thực tế, các dự báo nhiệt độ toàn cầu 1998-2014 cho kết quả như sau: chỉ có có 2,6% mô hình dự báo nhiệt độ toàn cầu giảm; 97,6% dự báo cho kết quả nóng lên. Nhưng đáng tiếc, nhóm thuộc 97,6% dự báo nóng lên này lại cho ra kết quả nóng lên tới 2,2 lần so với kết quả thực tế. Với kết quả nóng hơn thực tế lên tới 2,2 lần, sự trầm trọng đang bị đẩy lên thảm kịch khác xa so với thực tế.

    Dù vậy, chưa bàn đến việc biến đổi khí hậu và biện pháp khử carbon đang gây tranh cãi như thế nào, tuyên bố gay gắt của các nhà hoạt động chống biến đổi khí hậu cho thấy khử cacbon phải làm từ các thế hệ hiện tại với hy vọng làm điều hòa sự nóng lên toàn cầu cho các thế hệ chưa sinh.

    Tức là lý thuyết biến đổi khí hậu đang tạo một sức ép cực lên thế hệ lao động hiện tại, những người phải có trách nhiệm hy sinh cơ hội cuộc đời của họ để trả cho thế hệ tương lai một quả tinh cầu ít nóng hơn (dù giả định nóng trầm trọng đang hết sức đáng ngờ).



    Đánh đổi tăng trưởng, việc làm và thao túng giới trẻ

    Sản xuất năng lượng không có hydrocacbon tốn nhiều chi phí hơn và đòi hỏi nhiều tài nguyên hơn. Nó có nghĩa là tăng trưởng chậm hơn - điều mà thế hệ trẻ ngày nay đã phải đổi mặt gặp phải kể từ cuộc sụp đổ tài chính 2008-2009 diễn ra.

    Tăng trưởng kinh tế là thần dược của tuổi trẻ. Nó có nghĩa là tăng trưởng thu nhập nhanh hơn, nhiều cơ hội việc làm hơn, nhiều chuyến du lịch hơn, nhiều thứ hơn để tiêu tiền và khả năng tiết kiệm lớn hơn khi mang lại tự do và độc lập. Nó ít quan trọng hơn đối với các những lớn tuổi. Họ có thể sống bằng những gì họ đã làm (lương hưu, tiền tiết kiệm) hoặc phụ thuộc vào an sinh xã hội được tài trợ bằng tiền từ những người trẻ tuổi.

    Nhưng quá trình khử carbon tàn khốc của “thể chế” biến đổi khí hậu sẽ khiến ước mơ việc làm tăng trưởng của thanh niên thêm tan vỡ, bên cạnh những thống khổ mà thế hệ người trẻ ngày nay phải chịu đựng: tăng trưởng ỳ ạch sau khủng hoảng tài chính Dotcom (2001) và khủng hoảng tài chính toàn cầu (2008-2009) và giờ là đại dịch Covid-19. Tất cả cánh cửa cơ hội của cuộc sống dường như đang đóng sập lại; đặc biệt gay gắt với thế hệ trẻ đương đại khắp toàn cầu.

    Quá trình khử cacbon đã đẩy nhanh sự suy thoái tương đối của phương Tây, khiến các nền kinh tế này khó khăn phục hồi trong khủng hoảng.

    Từ năm 2002 đến năm 2014, phương Tây đã cắt giảm 10,2% lượng khí thải carbon dioxide. Phần còn lại của Thế giới đang sử dụng hydrocacbon để thúc đẩy sự phát triển nó - theo đúng nghĩa đen. Trong cùng thời kỳ, lượng khí thải carbon dioxide của họ đã tăng 76,8%.

    Trên thực tế, mức tăng phát thải không phải phương Tây trong 12 năm đã lớn hơn đáng kể so với lượng phát thải của phương Tây trong một năm (11,6 Gigatons từ năm 2002 đến 2014, so với 9,5 Gigaton của phương Tây năm 2014). Đây không phải là một cuộc đua mà tất cả mọi người đều là người chiến thắng. Nếu nó tiếp tục được vận hành như vậy, thế hệ trẻ sẽ sống trong một thế giới mà phương Tây và các giá trị của nó đang thoái trào, và thậm chí có thể bị tiêu tan.

    Khi phô trương tuổi trẻ là nạn nhân vô tội của biến đổi khí hậu trong tương lai, những người lớn tuổi của họ đang cướp từ người trẻ bất kỳ lời biện minh cho hành động chiến tranh chống lại một thế hệ đã khiến họ cực kỳ thất vọng. Hậu quả - dù có ý đồ hay không - là biến biến đổi khí hậu thành một công cụ kiểm soát xã hội.

    Những người trẻ tuổi có thể bị thao túng. Trong chiến tranh Việt Nam, với các cuộc biểu tình của sinh viên đang quét qua thế giới phương Tây, chính phủ của Đảng Dân chủ Xã hội Thụy Điển đã quyết định một cách tiếp cận khác. Theo Roland Huntford, tác giả của “Những người theo chủ nghĩa toàn trị mới”, “khi các chính phủ phương Tây chống lại xu hướng này, các nhà cầm quyền của Thụy Điển đã trở thành đồng minh của nó”. Họ ủng hộ các cuộc biểu tình. Thủ tướng Thụy Điển tố cáo Washington và ca ngợi Hà Nội. Đài truyền hình và đài phát thanh nhà nước đã đưa tin rộng rãi về mọi cuộc biểu tình và dành sự kính trọng cho những người ủng hộ Việt Nam ở Thụy Điển. “Tất cả những điều này đều có lợi cho chính phủ”, Huntford viết. “Thanh niên có một lối thoát cho năng lượng của mình, và đảng [Dân chủ Xã hội] đã đứng về phía họ”. Thanh thiếu niên và những người biểu tình trong độ tuổi 20 chống Mỹ, với “mái tóc dài, cài cúc, phù hiệu và ăn mặc giống dân hippie”, đã trở thành một phần được chấp nhận của cảnh quan này.

    Ở Mỹ vào năm 1967, thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh đầu tiên đang chia sẻ một Mùa hè yêu thương khi những người khác trong thế hệ của họ bị chuyển đến chiến đấu ở Việt Nam (và vẫn còn những người khác đang chịu đựng những cuộc bạo động chết người ở đô thị). Nét đặc biệt mới của giới trẻ thời đó là tìm quên trong phong trào giải phóng tình dục. Quan hệ tình dục với người lạ được xem như hợp thời. Có lẽ sự cận kề của chiến tranh và sự nguy hiểm thực sự đã tạo ra mối liên hệ giữa thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh đang tắm mình trong Kỷ nguyên Bảo Bình và cuộc nổi loạn của giới trẻ trong những năm ngay sau Thế chiến thứ I mà Zweig mô tả là “một kỷ nguyên của sự cực lạc điên cuồng”; của sự nổi loạn "hoàn toàn vì niềm vui nổi loạn chống lại mọi thứ"; một cuộc cách mạng trí tuệ đang tiến triển với “năng lượng dẻo dai” đã xóa tan bầu không khí của “truyền thống mốc meo, giải tỏa những căng thẳng trong nhiều năm”.

    Cực lạc điên cuồng? Năng lượng dẻo dai? Hoàn toàn để giải trí? Những chiến binh khí hậu trẻ trung ngày nay không chịu áp lực chiến tranh, nhưng vì biến đổi khí hậu, cũng đang buộc phải chịu đựng phải áp lực đúng như thế.

    Đối với họ, chống lại biến đổi khí hậu là một công việc nghiệt ngã, không mấy vui vẻ. Có ai thấy cô Thunberg mỉm cười, huống chi là cười lớn? Khác xa với việc nổi loạn chống lại chính quyền, giới trẻ ngày nay đang tuân theo một kịch bản được viết bởi những nhà chức trách và bởi những người giàu có và những người có mối quan hệ tốt trong các tổ chức trị giá hàng tỷ USD và trong các tổ chức phi chính phủ. Đối với các chính trị gia - đặc biệt là những người châu Âu - cứu hành tinh là một sự chuyển hướng dễ chịu khỏi nhiệm vụ khó khăn, không được ưa chuộng khi trẻ hóa các nền kinh tế xơ cứng của họ. Thế hệ trẻ ngày nay (Millennials và Gen Z) sẵn sàng tuân theo câu chuyện về khủng hoảng khí hậu vì nó coi họ là bên mắc sai lầm và cha mẹ của họ là người có tội, những người vẫn có thể tự tha thứ cho mặc cảm về khí hậu bằng cách tham gia vào các công trình khí hậu — và kiếm được nhiều tiền khi làm như vậy — hoặc chỉ đơn thuần đăng ký học giáo lý về khủng hoảng khí hậu.



    Con ngáo ộp ‘biến đổi khí hậu’ đầy sai lầm và mơ hồ từ 1970

    Tháng 6/1988, nhà khoa học khí hậu NASA James Hansen có bài phát biểu gây hoảng sợ cho nhân loại trước quốc hội. Sau đó bài phát biểu của Thủ tướng Anh Margaret Thatcher về sự nóng lên toàn cầu gây hoang mang. Sau đó, tại hội nghị khí hậu Toronto, người ta nhanh chóng so sánh biến đổi khí hậu với chiến tranh hạt nhân.

    Dự báo về ngày tận thế đã là một yếu tố quan trọng ngay từ đầu của cuộc khủng hoảng khí hậu. Rất thú vị là hiện nay, chúng đã đã có đủ thời gian để kiếm chứng sự thật về con ngáo ộp được tô vẽ suốt 33 năm qua.

    Một bài báo năm 2021 của các nhà nghiên cứu David Rode và Paul Fishbeck của Đại học Carnegie Mellon đã theo dõi các tiên tri về ngày tận thế kể từ Ngày Trái đất đầu tiên vào năm 1970. Trong suốt nửa thế kỷ dự báo, ngày tận thế luôn là con ngáo ộp trong hơn 20 năm nữa. Vào cuối năm 2020, 61% dự báo về sự sụp đổ của hành tinh đã đến, đi và không được chứng minh. Chúng ta biết, bởi vì chúng ta vẫn ở đây. Trong hầu hết các lĩnh vực, một sự ghi nhận cho đến nay là 100% thất bại liên tiếp sẽ gây ra một mức độ giễu cợt, chưa nói đến sự hoài nghi có lý do.

    Một cuộc khảo sát vào tháng 4/2021 đối với những người trưởng thành ở Anh được thực hiện thay mặt cho Tổ chức Chính sách Ấm lên Toàn cầu có trụ sở tại London cho thấy một nghịch lý gợi lên rằng nỗi sợ hãi về biến đổi khí hậu ở những người trẻ tuổi có thể yếu hơn so với mức bình thường. Khi được hỏi về nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng bao nhiêu trong 150 năm qua, những người trẻ tuổi được hỏi tiết lộ rằng họ có quan điểm cực đoan (và thiếu hiểu biết nhất): 54% những người từ 18 đến 24 tuổi và 60% những người từ 25 đến 34 tuổi nghĩ rằng nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng từ 5º C trở lên, trong khi 45% người lớn tuổi nghĩ vậy. Tuy nhiên, cuộc khảo sát tương tự cũng cho thấy tỷ lệ người được hỏi cho rằng “rất quan tâm” đến biến đổi khí hậu là thấp nhất trong hai nhóm tuổi trẻ nhất (lần lượt là 26% và 24%); mối quan tâm đó tăng lên theo độ tuổi, đạt mức cao nhất là 35% đối với những người trên 65 tuổi.

    Điều này cho thấy một sự khác biệt rõ ràng: các nhóm tuổi trẻ có quan điểm cực đoan nhất về biến đổi khí hậu trong quá khứ cũng ít quan tâm nhất về nó (họ có tỷ lệ người trả lời “rất quan tâm” thấp nhất). Nó cũng cho thấy sự không kết nối với chính sách khí hậu. Mục đích của các chính sách khí hậu Net Zero được công bố rộng rãi là ngăn chặn sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu lên 1,5º C so với mức tiền công nghiệp. 1º trong 1,5º C đó đã xảy ra. Tuy nhiên, chỉ 18% thanh niên 18-24 tuổi và 15% thanh niên 25–34 tuổi trả lời đúng rằng nhiệt độ trung bình toàn cầu chỉ tăng 1º C, trong khi tương ứng là 22% và 20,5% cho rằng nhiệt độ toàn cầu đã tăng 10º C trong 150 năm qua. Tại sao phải lo lắng về tương lai ấm lên 0,5º nếu thế giới đã ấm lên 5 hoặc 10º?

    Việc từ bỏ chính sách khí hậu cho thấy rằng những biểu hiện lo ngại về biến đổi khí hậu là mang tính trình diễn thay vì phản ánh niềm tin được xem xét sâu sắc từ góc độ khoa học. Chúng được thiết kế để báo hiệu sự thừa nhận về sự đồng thuận đối với điều “tạo nên hương vị tốt và quan điểm đúng đắn về mặt đạo đức” để sử dụng những lời của Elisabeth Noelle-Neumann trong “Vòng xoáy của sự im lặng”.

    Noelle-Neumann, nhà thăm dò hàng đầu của Đức về thời kỳ hậu chiến, đã ví dư luận như một lớp da xã hội. Các cá nhân có nỗi sợ hãi về sự cô lập xã hội. Bà đã trích dẫn câu nói của James Madison: “Lý lẽ của con người, giống như bản thân con người, là rụt rè và thận trọng khi bị bỏ lại một mình; và có được sự vững chắc và tự tin, tương ứng với con số mà nó có liên quan".

    Quan điểm xung quanh biến đổi khí hậu là một lực lượng xã hội mạnh mẽ - quả thực là lực lượng xã hội mạnh mẽ nhất ở phương Tây hiện nay. Nó hoạt động độc lập với các sự kiện và khoa học về biến đổi khí hậu. Nó không có gì là tai họa cho thế hệ millennials và Gen Z, tuy nhiên cấu trúc của nó được thiết kế để thu hút họ: nó cho họ một vầng hào quang của việc trở thành nạn nhân của khí hậu trong khi che giấu sự thật rằng để thực thi thể chế khí hậu, kẻ mất mát và thua cuộc là chính họ.

    Họ thực sự là nạn nhân; triển vọng của họ đã bị tàn phá bởi cuộc khủng hoảng tài chính và sự tích tụ của các khoản nợ công lớn, họ là thế hệ sẽ gánh chịu gánh nặng chính của các chính sách về biến đổi khí hậu. Quá trình khử cacbon sẽ hút oxy ra khỏi các nền kinh tế vốn đã suy yếu. Thế hệ người trẻ và con cái của họ sẽ không được bất kể lợi ích gì từ các chính sách khí hậu, mà ngược lại.

    Vòng xoáy của sự im lặng — một hình thức phủ nhận khí hậu nghiêm trọng duy nhất — ngăn cản những người trẻ tuổi nhận thức được những thực tại này. Họ đã bị tước vũ khí trong cuộc chiến vì lợi ích kinh tế của chính họ. Trừ khi họ loại bỏ được những ràng buộc vô hình của chế độ chuyên chế của cha mẹ, họ sẽ vẫn là nạn nhân chính của biến đổi khí hậu.

    Không chỉ để kiểm soát xã hội, biến đổi khí hậu còn trở thành công cụ sắc bén của Chủ nghĩa toàn cầu, một con ngáo ộp hoàn hảo để chủ nghĩa toàn cầu phát triển, bảo vệ loài người. Và song song với nghị trình chủ nghĩa toàn cầu, ngay hôm nay, biến đổi khí hậu đang tạo ra một nền tài chính xanh - công cụ tài chính được cho là để ngăn biến đổi khí hậu - nơi các tài phiệt nhiệt tình với chủ nghĩa toàn cầu, đầy trách nhiệm với nhiệt độ trái đất, đang nỗ lực đầu cơ, thao túng… Một cuộc khủng hoảng tài chính xanh sẽ xảy ra. Thế hệ trẻ và con cái của họ sẽ lại trở thành nạn nhân lớn nhất của nghị trình này khi họ đã, đang và sẽ phải cõng trên lưng một khối nợ khổng lồ mới.

    Mời các bạn đón đọc Kỳ 2: Kế hoạch kiếm hàng ngàn tỷ USD nhờ 'tài chính xanh' của tài phiệt Phố Wall?





    Thủy Tiên - Trà Nguyễn

    Bài viết sử dụng các phân tích và lập luận từ tác giả Rupert Darwall, trong bài viết “Biến đổi khí hậu đã trở thành công cụ kiểm soát xã hội”, đăng tại Epoch Times.

    Tác giả Rupert Darwall là thành viên cấp cao của Tổ chức RealClear và là tác giả của
    • “Chế độ chuyên chế xanh : vạch trần gốc rễ toàn trị của Tổ hợp công nghiệp khí hậu”
    • và báo cáo “ Thòng lọng khí hậu: Kinh doanh, Net Zero, và Chủ nghĩa chống tư bản của IPCC .”







    https://www.ntdvn.com/kinh-te/bien-doi- ... 44376.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Kế hoạch kiếm hàng ngàn tỷ USD nhờ 'biến đổi khí hậu' của tài phiệt Phố Wall? (Kỳ 2)

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    Kế hoạch kiếm hàng ngàn tỷ USD
    nhờ 'biến đổi khí hậu' của tài phiệt Phố Wall?
    (Kỳ 2)

    ______________________________________
    Thủy Tiên - Trà Nguyễn • 08/09/21






    Thị trường trái phiếu xanh có thể trị giá 2,36 nghìn tỷ đô-la vào năm 2023. Các siêu ngân hàng toàn cầu vô cùng 'háo hức' và ủng hộ nhiệt thành cho tài chính xanh - công cụ tài chính của thế chế 'biến đổi khí hậu'. Các tài phiệt toàn cầu đang nhiệt thành vì tình yêu với môi trường? Vì trách nhiệm với hành tinh? Nhưng báo cáo về việc các tài phiệt thâu tóm dự án xanh yếu kém, thua lỗ, ủng hộ chính trị gia 'biến đổi khí hậu' và chủ nghĩa toàn cầu trong gần một thập kỷ vừa qua dường như đang kể cho chúng ta một câu chuyện khác...


    Tài chính xanh là bất kỳ hoạt động tài chính có cấu trúc nào - một sản phẩm hoặc dịch vụ - được tạo ra để đảm bảo một kết quả tốt hơn về môi trường. Nó bao gồm một loạt các khoản vay, cơ chế nợ và đầu tư được sử dụng để khuyến khích phát triển các dự án xanh hoặc giảm thiểu tác động đến khí hậu của các dự án thường xuyên hơn. Hoặc là cả hai.

    Thị trường tài chính xanh mở rộng chóng mặt, béo bở trong thời đại 'biến đổi khí hậu' là con ngáo ộp lớn nhất của mọi chương trình nghị sự trên khắp toàn cầu và nhanh chóng được thể chế hóa vào chính sách kinh tế - tài chính của mọi chính phủ.

    Bất kỳ nghiên cứu khoa học nào có kết quả chống lại các luận thuyết của biến đổi khí hậu có thể trở thành tội đồ của truyền thông và giới nghiên cứu, bất chấp sự vững chắc của số liệu hay phương pháp tiếp cận. Bất kỳ chính trị gia nào quay lưng lại với chính sách 'biến đổi khí hậu', nơi chỉ có thể được giải quyết bởi 'chính phủ toàn cầu' thì đó chính là tội đồ của nhân loại chứ không phải là quốc gia.

    Với tinh thần như vậy, tài chính xanh, không chỉ được ủng hộ bởi hệ thống chính sách nhất quán của các chính phủ mà nó còn nhận được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của các tài phiệt Phố Wall, các tỷ phú thành danh từ công nghệ, dược phẩm và các thế lực của chủ nghĩa toàn cầu. Thời đại của tài chính xanh đã đến, không còn nghi ngờ gì nữa, thế giới không còn bất cứ rào cản nào với thị trường tài chính được ưu ái vào bậc nhất này.



    Thị trường béo bở

    Một công cụ tài chính xanh phổ biến là trái phiếu xanh. Mỹ, Trung Quốc và Pháp là ba nhà phát hành trái phiếu xanh lớn nhất. Hiện tại, Ngân hàng Trung ương Châu Âu nắm giữ khoảng 20% ​​tổng số nợ xanh bằng đồng euro, mặc dù họ chỉ mới bắt đầu mua trái phiếu doanh nghiệp vào năm 2016, điều này cho thấy ngân hàng coi đây là một cách để tiếp tục chương trình nghị sự xanh của chính mình.

    Phát hành trái phiếu xanh toàn cầu có thể đạt 400 - 450 tỷ USD trong năm nay so với gần 270 tỷ USD của năm ngoái, Climate Bonds Initiative ước tính.

    Marilyn Ceci, người đứng đầu toàn cầu về thị trường vốn phát triển Tiêu chuẩn môi trường, Xã hội và Quản trị - ESG (DCM) tại JP Morgan kỳ vọng thị trường tổng thể cho trái phiếu xanh, trái phiếu xã hội và trái phiếu bền vững sẽ tăng 49% trong năm nay lên khoảng 690 tỷ USD.

    Enel của Ý đã phát hành trái phiếu liên kết bền vững đầu tiên vào năm 2019 trị giá 1,5 tỷ USD. Tháng 9, nhà sản xuất giấy và bột giấy của Brazil Suzano’s đã bán trái phiếu liên quan đến lượng khí thải carbon trị giá 750 triệu USD.

    Drugmaker Novartis, thương hiệu cao cấp Chanel, nhà điều hành siêu thị Tesco và nhà bán lẻ H&M cũng đã phát hành trái phiếu liên kết bền vững (SLB) gần đây.

    Ở cấp độ quốc gia, các ngân hàng trung ương đang gây chú ý về việc ưu tiên đầu tư xanh hơn. Ngân hàng Riksbank của Thụy Điển đã bắt đầu thoái vốn cổ phần hóa thạch, bán trái phiếu từ một số tỉnh của Úc và Canada.

    Còn theo một giám đốc ngân hàng cấp cao của JP Morgan cho biết, thị trường trái phiếu liên kết với các công ty đáp ứng các mục tiêu môi trường nhất định có thể tăng gấp 20 lần trong năm nay lên từ 120 tỷ đến 150 tỷ USD, do đó các doanh nghiệp đang tìm cách khai thác nhu cầu đang bùng nổ này.



    Một kế hoạch đầu cơ hoàn hảo?

    Tại sao JP Morgan lại tin vào sự phát triển vượt bậc của tài chính xanh? Bởi vì hơn ai hết, họ chính là người đã lặng lẽ mua lại các dự án xanh khắp toàn cầu trong gần một thập kỷ để chuẩn bị cho sự bùng nổ của 'tài chính xanh'. Nên nhớ rằng, nếu JP Morgan đã thực thi một kế hoạch dày công như vậy, không có lý gì các siêu ngân hàng thương mại toàn cầu khác không có một chiến lược tương tự.

    Theo cơ sở dữ liệu Sáp nhập và Mua lại trong Bản ghi nhớ thông tin bí mật của ngân hàng (PitchBook), các thực thể liên quan đến JPMorgan Asset Management đã và đang mua các tài sản năng lượng và cơ sở hạ tầng trên khắp thế giới bao gồm các nhà máy điện mặt trời, trang trại gió, sân bay, công ty nước và El Paso Electric 120 tuổi cung cấp cung cấp điện cho khoảng 437.000 khách hàng bán lẻ và bán buôn ở tây Texas và nam New Mexico.

    Quỹ Đầu tư Cơ sở hạ tầng (IIF) đã thực hiện các việc mua lại này. Trong khi IIF đang tìm cách để các điều khoản được chấp thuận, như trong trường hợp mua El Paso Electric, quỹ này cho rằng họ không bị JPMorgan kiểm soát. Nhưng khi JPMorgan giới thiệu quỹ này cho các nhà đầu tư tổ chức trên toàn cầu, ngân hàng này chỉ ra rằng 50 nhân viên của ngân hàng đang tích cực tham gia vào quỹ này - cùng với “70 giám đốc công ty danh mục đầu tư độc lập”.

    Các tài liệu quảng cáo về IIF được gắn nhãn là “Bí mật” nhưng giới thiệu về IIF năm 2019 nói rằng IIF được thành lập vào năm 2006 và “phát triển từ Tập đoàn Bất động sản JPMorgan”. Vào thời điểm đó, theo giới thiệu, IIF có 6,1 tỷ USD trong 15 công ty danh mục đầu tư ở 15 quốc gia. Tài liệu này năm 2020 cho biết IIF có 17 công ty đầu tư tại 22 quốc gia với giá trị tài sản ròng là 12,4 tỷ USD.

    Theo giới thiệu quảng bá IIF, các công ty mà IIF nắm 100% quyền kiểm soát bao gồm Värmevärden, một công ty sưởi ấm có trụ sở tại miền Trung Thụy Điển; Summit Utilities , công ty sở hữu các công ty con phân phối và truyền tải khí tự nhiên hoạt động tại Arkansas, Colorado, Maine, Missouri và Oklahoma; Công ty SouthWest Water sở hữu và vận hành các hệ thống nước và nước thải theo quy định phục vụ hơn nửa triệu khách hàng dân cư và doanh nghiệp ở Alabama, California, Florida, Oregon, South Carolina và Texas. Theo Bản ghi nhớ thông tin bí mật của ngân hàng, một công ty con của Công ty SouthWest Water, thông qua JPMorgan Asset Management, năm ngoái đã mua lại các hoạt động cung cấp dịch vụ xử lý nước thải ở Nam Carolina của Ni Pacolet Milliken Utilities (Ni) từ công ty TNHH Pacolet Milliken. Ni sở hữu các công ty cấp nước và xử lý nước thải theo quy định phục vụ khách hàng ở Nam Carolina và Florida. Cổ phần của Ni bao gồm Palmetto Utilities, Palmetto Wastewater Reclamation và Ni Florida.

    Sách giới thiệu năm 2020 của IIF nói rằng họ có quyền kiểm soát 100% điện năng được tạo ra bởi Sonnedix Power Holdings, công ty sở hữu các nhà máy năng lượng mặt trời và Ventient Energy, một danh mục đầu tư gồm các trang trại gió.

    Thương vụ mua Ventient Energy của IIF đang khiến dư luận châu Âu phải chú ý. Theo trang web của Ventient Energy, công ty “hiện đang sở hữu và vận hành các trang trại gió trên bờ ở Bỉ, Pháp, Đức, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Anh, với tổng công suất lắp đặt là 2,5GW”.

    Tháng 11 năm ngoái, tờ báo The National ở Scotland đưa tin rằng Ventient là “một công ty con của một công ty đăng ký tại Luxembourg. Công ty đó lần lượt thuộc sở hữu của một công ty ở Caymans… ”, tờ báo lưu ý thêm rằng“ Luxembourg và Caymans đều được sử dụng hợp pháp làm thiên đường thuế để giúp giảm số tiền mà các công ty phải trả cho chính phủ - và để giữ bí mật về tài chính”.

    Tyson Slocum, Giám đốc Chương trình Năng lượng tại nhóm lợi ích công, Public Citizen, đã đệ đơn khiếu nại vào tháng 8 năm ngoái với FERC rằng “JP Morgan Chase & Co. đã thành lập IIF như một bộ phận cổ phần tư nhân ngoài sổ sách một năm sau khi cam kết với Cục Dự trữ Liên bang rằng họ sẽ không 'mua lại hoặc vận hành' các nhà máy điện”.

    “Một năm sau khi đưa ra cam kết này với Cục Dự trữ Liên bang, JP Morgan Chase & Co. đã tạo ra một nhánh vốn cổ phần tư nhân mới được quản lý chặt chẽ của bộ phận quản lý tài sản của ngân hàng và được gọi là JP Morgan IIF một cách hợp pháp”.

    Và “… JP Morgan đã thiết kế các biện pháp kiểm soát doanh nghiệp yếu kém của IIF để tối đa hóa khả năng của ngân hàng trong việc chỉ đạo và quản lý tất cả các hoạt động và đầu tư của IIF. Để đánh bật sự tò mò của cơ quan quản lý về việc kiểm soát ngược dòng của JP Morgan, ngân hàng đã thiết kế một cấu trúc 'quyền sở hữu' giả bao gồm ba cá nhân có giới hạn thời hạn, những người này lần lượt ủy thác tất cả các thẩm quyền hàng ngày cho JP Morgan Chase & Co”.

    Trong Sắc lệnh hành pháp ngày 9/7/2021 của Tổng thống Biden cảnh báo các cơ quan liên bang bắt đầu thực thi luật chống lại rủi ro tập trung quá mức của thị trường, ông cũng yêu cầu các cơ quan quản lý liên bang phải “đảm bảo rằng các bên tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp không làm sai lệch hoạt động bình thường của quá trình cạnh tranh hoặc nhận được một lợi thế hơn các đối thủ tuân theo luật”.

    Nhưng với JPMorgan Chase, ngân hàng lớn nhất Hoa Kỳ, thì đó chính xác là điều mà các cơ quan liên bang đã cho phép xảy ra; ngân hàng này được phép tích lũy rủi ro tập trung. Bằng cách không thắt chặt điều lệ ngân hàng của JPMorgan Chase, bằng cách không giải tán ngân hàng, bằng cách không buộc loại bỏ đi người đứng đầu tội phạm hàng loạt, Jamie Dimon, các nhà quản lý liên bang đã cho phép gã khổng lồ này “có được lợi thế không công bằng trước các đối thủ tuân theo luật”.

    Sự tăng trưởng của tài chính xanh dường như chắc chắn sẽ tiếp tục khi hầu hết các chính phủ trên toàn thế giới tập trung vào cách cắt giảm ô nhiễm và khí nhà kính và nhiều cơ quan quản lý yêu cầu các công ty tiết lộ các rủi ro liên quan đến khí hậu - dẫn đến nhiều dữ liệu cho thấy công ty nào tiếp xúc nhiều nhất và hiểu rõ hơn về cách kiếm tiền trong khi cứu hành tinh.

    Bức tranh về tài chính xanh bắt đầu dần rõ nét. Có một kế hoạch thôn tính, thu gom mọi dự án gắn mác 'xanh' của tài phiệt Phố Wall trên toàn cầu. Có một kế hoạch chống biến đổi khí hậu buộc NHTW các nước dùng một khoản tài chính khổng lồ mua các trái phiếu xanh dù nó có hiệu quả hay không. Nhưng chưa hết, ở Mỹ, còn có một kế hoạch về ngân hàng xanh tạo lập bởi chính phủ Mỹ bằng tiền thuế của người Mỹ, sẵn lòng tài trợ cho bất kỳ dự án nào được gắn mác xanh theo ý chí chính trị mạnh mẽ...




    Thủy Tiên - Thanh Đoàn

    Mời các bạn đón đọc
    Kỳ 3: Cuộc chơi của giới tài phiệt trong Biến đổi khí hậu: Kiếm tiền - Tạo khủng hoảng - Các chính phủ nợ nần










    https://www.ntdvn.com/the-gioi/ke-hoach ... 24400.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Hậu trường chính sách biến đổi khí hậu: Tạo khủng hoảng tài chính và các chính phủ nợ nần (Kỳ 3)

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Hậu trường chính sách biến đổi khí hậu:

    Tạo khủng hoảng tài chính
    và các chính phủ nợ nần
    (Kỳ 3)

    ______________________________________
    Thủy Tiên - Thanh Đoàn _ 10:05, 10/09/21




              

    Hệ thống tài chính hiện đại đang thúc đẩy lòng tham và sự tha hóa đạo đức trong ngành tài chính một cách tồi tệ.
    Điều này sẽ liên tiếp tạo ra các cuộc khủng hoảng tài chính ngày một lớn, như một xu hướng của giai đoạn 'hoại',
    khá tương thích với quy luật phát triển của đời người hay vũ trụ về "thành - trụ - hoại - diệt" vậy.

              

    Có một kế hoạch thôn tính, thu gom mọi dự án gắn mác 'xanh' của tài phiệt Phố Wall trên toàn cầu. Có một kế hoạch chống biến đổi khí hậu buộc NHTW các nước dùng một khoản tài chính khổng lồ mua các trái phiếu xanh dù nó có hiệu quả hay không. Có một kế hoạch về ngân hàng xanh tạo lập bởi chính phủ Mỹ bằng tiền thuế của dân, sẵn lòng tài trợ cho bất kỳ dự án nào được gắn mác xanh theo ý chí chính trị mạnh mẽ...



    Chương trình nghị sự về tài chính xanh khiến bất kỳ ai có chút hiểu biết sơ bộ về an toàn tài chính phải hoảng hốt.

    Dòng tiền tài chính nhân danh "môi trường xanh" để ngăn chặn biến đổi khí hậu có thể đổ vào bất cứ dự án nào gắn mác xanh. Các quyết định tài trợ được đưa ra bởi các chính trị gia nhiệt thành với môi trường chứ không phải là các chuyên gia thẩm định rủi ro tài chính của các ngân hàng.

    Hiển nhiên, một cuộc chơi như thế sẽ dẫn dòng vốn đổ vào các sản phẩm tài chính dưới chuẩn [tức là cực kỳ rủi ro]. Bong bóng tín dụng dưới chuẩn sẽ được thổi phồng một cách có tính toán bởi các chính trị gia, bởi sự hậu thuẫn chính trị của truyền thông và các tài phiệt Phố Wall.

    Lúc này, các tài phiệt Phố Wall, những kẻ đổ tiền ủng hộ các chính trị gia ủng hộ tài chính xanh được tại vị, lại là những người nắm giữ các dự án đầu tư xanh, nắm giữ nguồn cung của tài chính xanh. Các nhà tài phiệt Phố Wall là những kẻ tạo lập thị trường, quyết định giá cả, cung cầu của thị trường thông qua rất nhiều các sản phẩm tài chính xanh có những cái tên mỹ miều như trái phiếu xanh, bảo hiểm xanh, phái sinh tài chính xanh....

    Các hãng xếp hạng tín nhiệm sẽ mặc nhiên cho điểm ưu tiên với mọi sản phẩm tài chính có chữ 'xanh' gắn vào. Các hãng xếp hạng tín nhiệm sẽ làm vậy bởi họ cũng là tài sản của các tài phiệt Phố Wall, họ cũng kiếm tiền nhờ tài phiệt Phố Wall, không phải chịu bất cứ trách nhiệm giải trình gì khi xếp hạng không trung thực. Họ sẽ làm thế bởi họ vẫn luôn làm thế trong lịch sử của mọi cuộc khủng hoảng.



    Cái bẫy lớn: Ngân hàng xanh

    Chính quyền Tổng thống Biden đang có kế hoạch dành hơn 1% của gói chi tiêu cơ sở hạ tầng 2,3 ​​nghìn tỷ USD để tạo ra “Máy tăng tốc năng lượng sạch và bền vững”, tương đương 27 tỷ USD, công cụ này sẽ “huy động đầu tư tư nhân” vào “nền kinh tế năng lượng sạch”.

    Thông qua tiếng nói xanh, ông Biden đang đề xuất thành lập một ngân hàng do Bộ Tài chính Hoa Kỳ vận hành, đóng vai trò như một đường dẫn tài chính, chuyển tiền thuế của người Mỹ để trợ cấp cho các dự án năng lượng sạch được ưa chuộng về mặt chính trị. Nói cách khác, đó là một ngân hàng nhà nước, trực thuộc Chính phủ liên bang, bộ chủ quản là Bộ Tài chính Mỹ, rót tiền theo các dự án được chính phủ, các chính trị gia ưa thích, miễn là dự án đó có khoác danh "dự án xanh, năng lượng xanh.." Sẽ có một hệ thống các ngân hàng con tại các tiểu bang, trực thuộc ngân hàng nhà nước xanh liên bạng này.

    Dự luật thành lập “Ngân hàng Xanh Hoa Kỳ” và “Ngân hàng Khí hậu Quốc gia” này đang được vận động hành lang để Quốc hội thông qua. Nhưng con số ước tính cho Ngân hàng xanh hoạt động bằng ngân sách này có thể tiêu tốn gấp 40 lần so với 27 tỷ USD hiện được tô vẽ trong Kế hoạch việc làm Mỹ của ông Biden.

    Ngân hàng xanh đề xuất bởi đảng Dân chủ và chính quyền ông Biden hết sức rủi ro. Các ngân hàng là những tổ chức tài chính được quản lý một cách thận trọng, được điều hành một cách chặt chẽ, chủ yếu tham gia vào hoạt động nhận tiền gửi ở bên nợ và cho vay ở bên có của bảng cân đối kế toán — cả hai đều không phải là trọng tâm trong hoạt động kinh doanh hỗn hợp của một ngân hàng xanh liên bang. Thay vào đó, theo tưởng tượng của Đảng Dân chủ, hoạt động kinh doanh cung cấp vốn cốt lõi của ngân hàng xanh liên bang sẽ bao gồm các hoạt động rủi ro cao như nhận cổ phần tư nhân không cần kiểm soát trong các dự án năng lượng xanh và tài trợ cho nghiên cứu về các công nghệ sạch đột phá mới.

    Điều này có nghĩa, chỉ cần một dự án, một doanh nghiệp khoác chiếc áo xanh của môi trường, họ được nhận tiền mà không cần phải thẩm định hiệu quả cho hoạt động kinh doanh hay kế hoạch kinh doanh của họ. Điều gì xảy ra với các khoản "tài chính xanh" như vậy trong tương lai? Điều gì xảy ra nếu dòng tiền từ khoản nợ công, từ thuế của người Mỹ đổ vào các doanh nghiệp cánh hẩu của các đảng phái quyền lực và chính quyền, doanh nghiệp sân sau của các chính trị gia? Một thể chế xin - cho hệt như các nước XHCN đang được cổ vũ hình thành trên đất Mỹ.

    Hiển nhiên, việc ra quyết định đầu tư của ngân hàng xanh sẽ chủ yếu được thúc đẩy bởi các yếu tố chính trị, phi thương mại, bao gồm yêu cầu 40% dòng vốn phải hướng đến “các cộng đồng thiệt thòi đang đối mặt với tác động khí hậu” và nhu cầu về các dự án do ngân hàng tài trợ để trả mức lương công đoàn hiện hành.

    Việc cung cấp các khoản tài trợ để xây dựng quá trình phong hóa và lắp đặt bảng điều khiển năng lượng mặt trời, mua thiết bị giảm khí thải, trả tiền điện theo quy định để đóng cửa các nhà máy nhiệt điện than ngay lập tức và chấp nhận quyên góp từ thiện từ các tỷ phú có ý tưởng xanh cũng sẽ là một phần của nhiệm vụ này.



    Chính trị hóa tài chính sẽ tạo ra rủi ro đạo đức tồi tệ

    Một ngân hàng khí hậu quốc gia như vậy không thể cung cấp bất kỳ động lực có ý nghĩa nào cho vốn đối ứng của khu vực tư nhân đối với các khoản đầu tư xanh do loại ngân hàng này thiếu chuyên môn thẩm định; nó đã chính trị hóa tài chính, kết quả sẽ hết sức tồi tệ.

    Hầu hết các nhà quản lý cấp cao, giám đốc và cố vấn của ngân hàng này sẽ không bắt buộc phải có bất kỳ kinh nghiệm nào về ngân hàng, cho vay hoặc đầu tư; chứng chỉ lao động, nhiệt huyết trong hoạt động môi trường và phi lợi nhuận sẽ được đánh giá cao hơn trong hồ sơ xin việc. Nôm na là những người ra quyết định rót tiền thuế của người Mỹ sẽ là những kẻ chả có kiến thức gì về tài chính, hiệu quả dự án, hiệu quả vốn; nó không khác gì giao việc này cho những kẻ ngu dốt nhưng nhiệt tình. Kết quả sẽ là sự phá hoại khó tưởng tượng.

    Và trong khi một ngân hàng xanh liên bang sẽ không được hưởng sự hậu thuẫn hoàn toàn bằng lòng tin và tín dụng của chính phủ Hoa Kỳ, thì việc Bộ Tài chính Hoa Kỳ cấp vốn cổ phần hóa và có thư ký làm chủ tịch sẽ tạo ra một rủi ro đạo đức cho cơ quan bán liên bang không có bảo đảm này — đặc biệt nếu ngân hàng phát hành nợ dưới danh nghĩa của chính mình. Trên thực tế, hầu hết “vốn tư nhân” được một ngân hàng xanh liên bang tạo chất xúc tác thực tế sẽ được gia tăng bởi công cụ đòn bẩy nợ. Ngân hàng xanh như vậy có thể cho vay dựa trên đòn bẩy gấp 7 - 8 lần vốn tự có. Có nghĩa là bảng cân đối tài sản của nó sẽ nhanh chóng đạt 1 nghìn tỷ USD trong vòng 5 đến 10 năm năm.

    Sự kết hợp giữa các tiêu chuẩn tín dụng dưới chuẩn và sự đảm bảo ngầm của chính phủ Hoa Kỳ gợi nhớ đến các gói cứu trợ thế chấp của Hiệp hội Thế chấp Quốc gia Liên bang (Fannie Mae) và Công ty Thế chấp Nhà Liên bang (Freddie Mac) trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009.

    Bên nợ của ngân hàng xanh tiềm ẩn cũng sẽ trở thành một vấn đề ngày càng tăng đối với các chính quyền tiểu bang và địa phương do đảng Dân chủ muốn phát triển hệ thống ngân hàng xanh như vậy trên toàn nước Mỹ, khoảng 21 ngân hàng như vậy đã hoạt động ở 15 tiểu bang và đặc khu Columbia.

    Phong trào đầu tư bền vững hoặc ESG (môi trường-xã hội-quản trị) đang quét qua Phố Wall — được thúc đẩy bởi các cơ quan quản lý tài chính toàn cầu — đã thúc đẩy một lượng vốn đáng kể vào các dự án xanh và tái tạo ở mọi quy mô và mức độ phát triển thương mại và công nghệ.

    Tài chính và các công cụ nợ của nó luôn là con dao hai lưỡi. Các chuẩn mực an toàn của tài chính chỉ đủ để giảm thiểu tính sát thương. Nhưng với tài chính xanh, vì có chữ xanh hợp thời, các chuẩn mực an toàn tài chính thông thường đều bị gạt bỏ đi, điều này sẽ khiến mũi dao tài chính sắc ngọt hơn bao giờ hết. Sẽ rất sớm 'mũi dao' tài chính xanh đang hướng vào bong bóng tài sản tài chính toàn cầu sẽ sát thương hệ thống có vẻ bề ngoài hào nhoáng nhưng đã hết sức ốm yếu này.



    Tạo khủng hoảng - bình cũ rượu mới:
    chứng khoán hóa các khoản vay xanh dưới chuẩn


    Quy trình cơ bản của chứng khoán hóa các khoản vay xanh có thể được minh họa như sau:

    Đầu tiên, các khoản cho vay và cho thuê tài chính hiện có được phát hành và các dự án mới được dán nhãn xanh được cấp vốn. Các dự án này để sản xuất các tài sản được gắn nhãn xanh ví dụ, các tòa nhà được chứng nhận, ô tô điện hoặc ô tô lai điện, tấm pin mặt trời và tuabin gió. Đây chính xác là những dự án mà siêu ngân hàng toàn cầu JPMorgan đã mua lại trong gần một thập kỷ qua (xem Kỳ 1).

    Các khoản cho vay và cho thuê tài chính này được đóng gói cùng nhau thành các loại chứng khoán bảo đảm bằng tài sản xanh (ABS) khác nhau, chẳng hạn như ABS tự động xanh, chứng khoán được bảo đảm bằng thế chấp xanh (MBS) và nghĩa vụ cho vay thế chấp xanh (CLO). Các chứng khoán này cũng có thể được hỗ trợ bởi các tài sản không phải xanh.

    Chứng khoán này sau đó được bán cho các nhà đầu tư, những người hiện đang thể hiện nhu cầu cao đối với các sản phẩm được dán nhãn xanh, họ nhanh chóng mua các dịch vụ chứng khoán xanh mới. Các nhà đầu tư có thể giao dịch chứng khoán trên thị trường thứ cấp nếu họ muốn, nhưng hiện tại, họ có xu hướng nắm giữ bất kỳ sản phẩm xanh nào mà họ có thể mua được.

    Số tiền thu được và/hoặc vốn được giải phóng (tùy thuộc vào loại thương vụ) sẽ được sử dụng để tài trợ cho các dự án và tài sản khác. Nếu ABS được hỗ trợ bởi các tài sản được gắn nhãn xanh, thì số tiền thu được/số vốn được giải phóng có thể được sử dụng để tài trợ cho các khoản cho vay không phải xanh. Nếu ABS được hỗ trợ bởi các tài sản không có nhãn xanh, thì số tiền thu được / vốn được giải phóng phải được dành cho các tài sản và dự án được gắn nhãn xanh.

    Một ví dụ điển hình về các dự án / tài sản carbon cao đang được sử dụng để chứng khoán hóa xanh là các ABS tổng hợp xanh trị giá 3 tỷ USD của Crédit Agricole. Danh mục các khoản vay hỗ trợ cho việc chứng khoán hóa này bao gồm dầu / khí đốt và hàng không. Do đó, trong khi nguồn vốn được giải phóng từ hợp đồng được dành cho các khoản vay xanh, dự án này được kích hoạt bởi việc tiếp tục (chứ không phải tạm dừng) tài trợ cho các tài sản và dự án màu xám/ nâu.

    Tương tự, Toyota Finance đã phát hành ba ABS tự động xanh trị giá 4,6 tỷ USD được hỗ trợ bởi các hợp đồng cho thuê xe ô tô có khí thải cao hiện có, số tiền thu được dành để tài trợ cho các khoản vay mới và cho thuê xe "phát thải thấp".

    Điều đó có nghĩa là một số khoản đầu tư có khả năng “xanh” hơn những khoản đầu tư khác. Không có định nghĩa thống nhất nào được coi là tài chính xanh hoặc bền vững. Có lo ngại rằng các định nghĩa rộng về tính bền vững như vậy có khả năng cho phép một số quỹ tự bán cái được coi là xanh hoặc thậm chí là có đạo đức ngay cả khi chúng không tốt cho môi trường.

    Như vậy, kể cả các khoản vay dưới chuẩn cũng được chứng khoán hóa để buôn bán trên toàn thế giới. Thị trường tín dụng nợ dưới chuẩn "màu xanh" sẽ phình to lên.

    Hơn nữa, Cục Dự trữ Liên bang đã tích cực khuyến khích cho vay dưới chuẩn bằng cách trực tiếp thông qua chính sách tiền tệ lãi suất thấp và thông qua cơ quan quản lý của họ. Điều này tương tự thời kỳ suy thoái năm 2008, bong bóng chứng khoán vỡ đã gây ra tổn thất tín dụng hàng nghìn tỷ đô-la, Cục dự trữ liên bang đã cứu trợ các ngân hàng bằng cách tái thổi phồng bong bóng nhà đất và trợ cấp cho các ngân hàng khoảng 50 tỷ đô-la hàng năm bằng thuế và các khoản tiết kiệm phí bảo hiểm rủi ro được tạo điều kiện bằng đòn bẩy quá mức. Thất bại trong nỗ lực đánh thuế khoản tiết kiệm hưu trí của hộ gia đình thông qua lạm phát, nó đã áp dụng chính sách lãi suất bằng không. Sự đàn áp tài chính của thế kỷ 21 ở Mỹ vượt quá bất cứ điều gì trước đây.



    Khủng hoảng tài chính xanh 'được thiết kế' không còn xa

    Háo hức với chương trình biến đổi khí hậu rồi net zero C02, các CEO của Phố Wall, các đại gia ngân hàng đang gấp rút áp dụng các mục tiêu khí hậu khi Tổng thống Biden thực hiện cách tiếp cận “tất cả của chính phủ” đối với sự nóng lên toàn cầu.

    Mong muốn thúc đẩy các cam kết bền vững của riêng mình, các ngân hàng bán các công cụ phái sinh, khóa tỷ giá hối đoái trong tương lai, chào mời chúng như một cách để các công ty khai thác nhu cầu về tài chính ESG, một thị trường đã trở nên phổ biến nhưng mà các nhà phê bình cho rằng mánh lới quảng cáo tiếp thị thường nhiều hơn là một động lực thực sự để thay đổi.

    Tài chính bền vững được định nghĩa quá lỏng lẻo, với nhiều sản phẩm không chỉ là các công cụ tiếp thị mà dễ bị gọi là rửa sạch xanh khi các tuyên bố về môi trường không trùng quan điểm.

    Các công ty cũng vội vàng thúc đẩy các tuyên bố về tính bền vững của họ đã tiếp cận thị trường ngoại hối dưới dạng các sản phẩm bảo hiểm rủi ro tiền tệ, nơi chi phí được gắn với các mục tiêu về môi trường, xã hội và quản trị (ESG) của một công ty.

    Cách tính rủi ro cũng sẽ thay đổi khi thực hiện hình thức cho vay, mặc dù mức độ rủi ro thực tế của các khoản vay không thay đổi. Những người đi vay sẽ cố gắng đưa mình vào nhóm 'xanh' vì điều này sẽ khiến họ có nhiều khả năng được vay hơn và với các điều khoản tốt hơn.

    Không khó để thấy tất cả những điều này có thể kết thúc ở đâu, với một thị trường tràn ngập cái gọi là các khoản vay xanh, sau đó được dồn vào chứng khoán hóa và được xếp hạng AAA cho đến khi tất cả sụp đổ. Kết quả sẽ có hại cho các ngân hàng nhưng cũng có hại cho môi trường và phản ứng của các cơ quan quản lý sau đó sẽ là kìm hãm mạnh mẽ hoạt động cho vay xanh.

    Khi Ủy ban Châu Âu bắt đầu thảo luận về việc nới lỏng các quy định về vốn ngân hàng cho tài chính xanh, thì những hồi chuông cảnh báo đã bắt đầu vang lên. Hãy nhớ đến sự việc tương tự - khuyến khích những người vay dưới chuẩn bước lên nấc thang nhà ở của Hoa Kỳ - dẫn đến sự sụp đổ tài chính gần đây.





    Thủy Tiên - Thanh Đoàn

    Mời các bạn đón đọc
    Kỳ 4: Biến đổi khí hậu - 'Con ngáo ộp' tiến lên Chủ nghĩa toàn cầu










    https://www.ntdvn.com/the-gioi/ke-hoach ... 24400.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Sự diệt vong do biến đổi khí hậu - 'Con ngáo ộp' tiến lên Chủ nghĩa toàn cầu (Kỳ 4)

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Sự diệt vong do biến đổi khí hậu -

    'Con ngáo ộp'
    tiến lên Chủ nghĩa toàn cầu

    (Kỳ 4)

    ______________________________________
    Thủy Tiên _ 13/09/21






    Đúng là môi trường cần được bảo vệ đúng cách. Nhưng các chính sách giảm thải CO2 sẽ chẳng tác động gì tới nóng lạnh toàn cầu khi 97% khí thải CO2 toàn cầu do tự nhiên tạo ra. Các dự báo dày đặc, phần đa đã được chứng minh là sai về thảm họa diệt vong do trái đất nóng lên lại đang biến vấn đề biến đổi khí hậu thành một thứ gì đó khải huyền hoặc tôn giáo, như thế giới sắp kết thúc. Đằng sau kịch bản này là một thế lực khác và một câu chuyện hoàn toàn khác...


    Cuộc vận động bảo vệ môi trường mang tính toàn cầu này đã liên quan đến rất nhiều những nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội, những người làm truyền thông v.v.

    Có ba nhóm chịu trách nhiệm cho chủ nghĩa môi trường ngày tận thế.
    • Thứ nhất là nhóm các nhà khoa học theo học thuyết dân số của Malthus. Họ nghĩ rằng có quá nhiều người trên thế giới, rằng dân số quá đông, rằng tất cả mọi người cần tiêu thụ ít hơn và sinh sôi ít hơn.
    • Nhóm thứ hai là các nhà báo, bản thân họ thường là những người phóng đại câu chuyện. Báo chí có động lực để làm điều đó, nhưng nhiều người trong số họ có một nền chính trị cực tả mà họ đang cố gắng sử dụng khoa học để ủng hộ.
    • Và nhóm thứ ba là các nhà hoạt động như Greta Thunbergs, nhóm Extinction Rebellions...
    Ba nhóm người này kết hợp lại để tạo nên một câu chuyện đáng sợ.

    Chuyên gia về vấn đề Liên-Xô – người có nghiên cứu chuyên sâu đối với “chiến tranh tin đồn”, Natalie Grant Wraga (đã quá cố) từng viết:
    • “Bảo vệ môi trường đã trở thành công cụ chủ yếu để chỉ trích tất cả những thứ của phương Tây. Có thể mượn cớ bảo vệ môi trường, để làm một loạt biện pháp phá hoại cơ sở công nghiệp của các quốc gia phát triển. Nó còn có thể thông qua việc hạ thấp mức sống (của các quốc gia phát triển) và dẫn dắt các giá trị quan của chủ nghĩa cộng sản vào để thực hiện mục đích quấy rối phá đám.”

    Cựu tổng thống Cộng hòa Séc Vaclav Klaus nói :
    • “Chủ nghĩa môi trường chỉ giả vờ đối phó với vấn đề bảo vệ môi trường. Đằng sau thuật ngữ thân thiện với con người và thiên nhiên của họ, những người theo chủ nghĩa môi trường thực hiện những nỗ lực đầy tham vọng để tổ chức lại và thay đổi hoàn toàn thế giới, xã hội loài người, hành vi và giá trị của chúng ta… Họ coi chúng ta là những sinh vật nguy hiểm và tội lỗi phải bị chúng kiểm soát. Tôi đã từng sống trong một thế giới tương tự được gọi là chủ nghĩa cộng sản. Và tôi biết nó đã dẫn đến sự tàn phá môi trường tồi tệ nhất mà thế giới từng trải qua….

      Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường vẫn tiếp tục đưa ra cho chúng ta những kịch bản thảm khốc khác nhau với ý định thuyết phục chúng ta thực hiện ý tưởng của họ…. . Các khuyến nghị của họ sẽ đưa chúng ta trở lại thời đại của thống kê và tự do bị hạn chế… Hệ tư tưởng sẽ khác. Tuy nhiên, bản chất của nó sẽ giống hệt nhau — ý tưởng cao cả hấp dẫn, đáng thương, thoạt nhìn vượt lên trên cá nhân nhân danh lợi ích chung, và sự tự tin to lớn ở phía những người ủng hộ về quyền hy sinh của họ đối với con người và sự tự do của con người để biến ý tưởng này thành hiện thực…. Nó không phải là về khí hậu học. Đó là về tự do”.

    E.Calvin Beisner, tiến sĩ, nhà khoa học, đã tham dự hội nghị khí hậu Copenhagen và báo cáo một trải nghiệm rất khác so với những gì được truyền thông báo chí truyền đạt cho người dân Mỹ. Trong Bản tin Liên minh Cornwall tháng 1/2010, ông viết :
    • “Chúng tôi là một nhóm nhỏ (khoảng 30 hoặc 40 người) ở giữa một biển người biểu tình (gần như tất cả ở 'phía bên kia'), có lẽ là 20 nghìn hoặc hơn, ở trung tâm thành phố Copenhagen, các biển hiệu vẫy tay, hô khẩu hiệu, v.v. Các nhóm lớn nhất dường như là Đảng Cộng sản (vâng, các biển hiệu của họ đã nói lên điều đó), Phong trào Thanh niên Xã hội Chủ nghĩa Quốc tế, Các Nhà hoạt động Khí hậu Cấp tiến và Tổ chức Hòa bình Xanh”.
    Khi diễn giả là cố Tổng thống Venezuela Hugo Chavez phát biểu, đám đông đã im lặng khi ông nói, có một “bóng ma im lặng và kinh khủng trong căn phòng – 'chủ nghĩa tư bản’”. Nhưng khi ông nói “chủ nghĩa xã hội, con ma khác có lẽ đang lang thang quanh căn phòng này, đó là cách để cứu hành tinh, chủ nghĩa tư bản là con đường dẫn đến địa ngục… Hãy chiến đấu chống lại chủ nghĩa tư bản và làm cho nó tuân theo chúng ta; đám đông các đại biểu chính thức đã dành cho ông ấy một sự hoan nghênh nhiệt liệt”.

    Cựu Tổng thống Donald Trump đã nói trong bài phát biểu khai mạc tại cuộc họp thường niên của Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos, Thụy Sĩ hồi tháng 1/2020 :
    • “Nhưng để nắm lấy những gì có thể xảy ra của ngày mai, chúng ta phải từ chối những nhà tiên tri lâu năm về sự diệt vong và những tiên đoán của họ về ngày tận thế. Họ là người thừa kế của những ông thầy bói khờ khạo của ngày hôm qua. Và tôi nắm được họ, và bạn nắm được họ, và tất cả chúng ta đều nắm được họ. Và họ muốn thấy chúng ta làm điều xấu, nhưng chúng ta không để điều đó xảy ra.

      Họ đã dự đoán về một cuộc khủng hoảng dân số quá mức vào những năm 1960, nạn đói hàng loạt trong những năm 70 và sự kết thúc của dầu mỏ vào những năm 1990”, ông Trump nói tiếp. “Những người báo động này luôn đòi hỏi một điều tương tự: quyền lực tuyệt đối để thống trị, biến đổi và kiểm soát mọi khía cạnh của cuộc sống của chúng ta. Chúng tôi sẽ không bao giờ để những kẻ xã hội chủ nghĩa cấp tiến phá hủy nền kinh tế của chúng ta, phá hủy đất nước của chúng ta hoặc xóa bỏ quyền tự do của chúng ta”.

    Sự phủ nhận của Tổng thống thứ 45 của Mỹ, đồng điệu với một số nhà khoa học, chính trị gia, lãnh đạo quốc gia khác, lập tức bị xem như là tuyên bố của một kẻ rối trí, của tên hề kệch cỡm như hầu hết phát biểu khác của ông, nhiều trong số đó giờ đã được chứng minh là sự thật.



    Chủ nghĩa bảo vệ môi trường cực đoan đến mức khủng bố

    Chủ nghĩa bảo vệ môi trường chịu ảnh hưởng của cánh tả, từ lúc mới sinh ra đã khá là cấp tiến. Khẩu hiệu “Bảo vệ mẹ trái đất, quyết không thỏa hiệp!” là của nhóm “Ưu tiên Trái đất”. Các phong trào nhiều khi cực đoan tới mức biến thành bạo lực và vi phạm pháp luật.

    Năm 1992 những thành viên cấp tiến hơn trong đó đã khởi xướng một nhánh gọi là “Mặt trận giải phóng trái đất”, dùng biện pháp phóng hỏa. Cuối năm 2000, 9 biệt thự sang trọng trên đảo Long của Mỹ bị thiêu thành tro chỉ trong một đêm. Nguyên nhân là vì nó được xây dựng trong một vườn đào thiên nhiên. Mặt trận giải phóng trái đất, tổ chức khủng bố môi trường khét tiếng này, như thường lệ, sau khi phóng hỏa còn hiên ngang ghi lại dưới đất dòng chữ “nếu lại xây lại, chúng tôi lại đốt”. Năm 2005, Cục điều tra Liên bang Mỹ đã tuyên bố, “Mặt trận giải phóng trái đất” là mối đe dọa khủng bố lớn nhất trong nước ở Mỹ, nó đã gây nên hơn 1200 “sự kiện phạm tội”, tạo ra thiệt hại hơn 10 triệu USD.

    Ông Michael Shellenberger, một nhà môi trường học đã nói :
    • “Và sau đó, mọi trạng thái, đức tính mà bạn thấy là mọi người muốn tự cảm thấy tốt hơn khi dựa vào những lý do tâm lý, cũng như lý do chính trị mà lên án người khác vì đã ăn thịt, đi máy bay hoặc lái xe ô tô, hoặc sử dụng ống hút nhựa. Tôi nghĩ động lực mạnh mẽ nhất, đó là chủ nghĩa môi trường đã trở thành tôn giáo thế tục thống trị của những người không còn tin vào Chúa nữa. Những người không theo tôn giáo theo cách truyền thống. Và khi bạn không có điều đó, bạn bắt đầu tìm cách để lên án cả thế giới một cách cơ bản. Vì vậy, có điều gì đó về câu chuyện ngày tận thế của chủ nghĩa môi trường rất đáng thất vọng, nó rất tiêu cực và chứa đầy sự tức giận và căm thù thực sự đối với sự giàu có và sự văn minh đáng kinh ngạc mà chúng ta có ngày nay. Chủ nghĩa môi trường đang chán nản, hay những người chán nản bị thu hút bởi chủ nghĩa môi trường? Tôi nghĩ chúng ta phải bàn lại về điều đó”.

    Ông Paul Watson là người thuộc cộng đồng những người sáng lập Hòa bình xanh và đã rời khỏi tổ chức này năm 1977, ông từng miêu tả như sau về bí quyết thành công của David McTaggart (nguyên chủ tịch Hòa bình xanh) cũng chính là bí quyết thành công của tổ chức Hòa bình xanh:
    • “Không quan trọng cái gì thật sự là thật, chỉ quan trọng cái gì mà mọi người tin là thật…… Truyền thông nói bạn là thế nào thì bạn chính là thế ấy. Hòa bình xanh trở thành thần thoại, đã trở thành công cụ để sinh ra thần thoại”.

    Ông Patrick Moore cũng từng là một trong những người đồng sáng lập tổ chức bảo vệ môi trường Hòa bình xanh, từng bỏ rất nhiều công sức cho sự nghiệp bảo vệ môi trường. Ông Moore sau đó đã từ bỏ chức vụ ở “Hòa bình xanh”, nguyên nhân là do ông phát hiện tổ chức này không thuần túy về môi trường, nó hoạt động chính trị ngả về cánh tả, biến đổi thành một tổ chức cực đoan và có cả chương trình nghị sự chính trị, các chính sách của nó dựa trên các mục đích chính trị hơn là căn cứ vào bằng chứng khoa học.



    “Câu lạc bộ tỷ phú” - nhà tài trợ chính cho chủ nghĩa môi trường cực đoan

    Phần lớn các hành vi của chủ nghĩa môi trường cực đoan này được sử dụng để biện minh cho các chính sách không công bằng. Ví dụ, trước đây, Ngân hàng Thế giới và các ngân hàng phát triển khác mà các nước đóng góp đã từng tài trợ cầu, đường, thủy lợi, phân bón cho các nước nghèo phát triển. Hiện nay, số tiền đó được chuyển thành nhiều nguồn năng lượng xanh khác nhau, các tấm pin mặt trời và pin không cung cấp năng lượng mà các quốc gia cần để phát triển. Điều này rất đáng báo động.

    Chắc chắn có những lợi ích tài chính khổng lồ ở đằng sau, ví dụ như năng lượng gió công nghiệp và năng lượng mặt trời công nghiệp. Những công ty này cần nhiều đất hơn gấp 3-4 lần để tạo ra lượng điện tương đương với một nhà máy khí đốt tự nhiên hoặc một nhà máy hạt nhân, chúng có những tác động tiêu cực rất lớn đến môi trường khi pin hết hạn sử dụng và xả thải.

    Trên thực tế, phần lớn kinh phí nghiên cứu khí hậu đến từ chính phủ liên bang và các tổ chức cánh tả. Và trong khi ngành công nghiệp năng lượng tài trợ cho cả hai bên của cuộc tranh luận về khí hậu, các khoản tiền của chính phủ, tổ chức quốc tế chỉ dành cho nghiên cứu thúc đẩy chương trình nghị sự quản lý nóng lên của trái đất. Các kết quả nghiên cứu càng trầm trọng (dự báo nóng lên càng trầm trọng) thì chi tiêu chính phủ, tổ chức quốc tế để giảm xả thải carbon càng lớn. Tiền càng chi nhiều thì một nhóm nào đó sẽ càng giàu có nhanh hơn. Nguồn tiền cực lớn từ các chính phủ giàu có và tổ chức quốc tế là một mối đe dọa lớn hơn nhiều đối với tính liêm chính của khoa học.

    Theo Viện Khoa học và Chính sách Công, Chính phủ liên bang Mỹ - sẽ có quyền lực điều tiết chưa từng có nếu luật khí hậu được thông qua - đã tài trợ cho nghiên cứu khoa học với trị giá 32,5 tỷ USD kể từ năm 1989. Đó là một số tiền nhỏ hơn số tiền mà các công ty dầu khí và các công ty tiện ích đã đóng góp nghiên cứu. Những công ty này đã tài trợ cho cả hai bên của cuộc tranh luận trong lịch sử.

    Ví dụ, theo một nghiên cứu của The American Spectator, Michael Mann, giám đốc Trung tâm Khoa học Hệ thống Trái đất của Bang Pennsylvania, đã nhận được khoảng 6 triệu USD, chủ yếu là trợ cấp của chính phủ, bao gồm 500.000 USD tiền của liên bang chi để bảo vệ ông ta khi bị điều tra về các email liên quan đến vụ bê bối Climategate của mình.

    Mặc dù tuyên bố rằng họ là những người kiểm soát, các phương tiện truyền thông như Times đã bỏ qua vai trò quá phận của chính phủ trong việc chỉ đạo nghiên cứu. Và họ đã lờ đi hàng triệu khoản đóng góp từ các tổ chức cánh tả - những khoản đóng góp, giống như tài trợ của chính phủ, tìm cách đưa cuộc tranh luận trệch hướng.

    Mùa hè năm 2014, một báo cáo quan điểm bất đồng từ Ủy ban Môi trường và Công trình Công cộng của Thượng viện Hoa Kỳ đã đưa ra thông tin chi tiết về “Câu lạc bộ tỷ phú” - một mạng lưới các quỹ từ thiện mờ ám phân phối hàng tỷ USD để thúc đẩy báo động khí hậu. Các tổ chức phi lợi nhuận mờ ám như Quỹ Năng lượng và Tides Foundation đã phân phối hàng tỷ USD cho các nhóm xanh cực tả như Hội đồng Bảo vệ Tài nguyên Thiên nhiên. Hội đồng này lại cử nhân viên đến Cục Bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ, Cục chỉ đạo các khoản tài trợ của liên bang quay trở lại các nhóm xanh này. Một sự mờ ám như vậy nhưng các phương tiện truyền thông lớn đã bỏ qua báo cáo này.



    Phân phối lại sự giàu có của thế giới bằng chính sách khí hậu

    Việc làm sai lệch hồ sơ nhiệt độ cũng như di chuyển vị trí của các nhiệt kế sẽ không có bất kỳ ảnh hưởng nào đến sự nóng lên toàn cầu. Nhưng chúng sẽ có tác động chính trị. Các các quy định chính trị sẽ không ảnh hưởng đến CO2 trên toàn thế giới theo bất kỳ cách nào có ý nghĩa vì 97% lượng khí thải CO2 trên trái đất là do tự nhiên tạo ra. Chỉ riêng biển Thái Bình Dương ở xích đạo đã tạo ra 72% lượng khí thải của hành tinh; phát thải của con người là rất nhỏ, và bằng chứng địa chất hàng triệu năm chứng minh rằng hiệu ứng nhà kính không dẫn đến biến đổi khí hậu. Vì vậy, hàng trăm tỷ USD đã được chi để theo đuổi một chính sách môi trường không để làm gì (và sẽ gây bất lợi nếu có thể làm được gì đó) - trừ khi bạn tin rằng số tiền đó đã được chi tiêu hợp lý cho các quy định chính trị với một mục đích khác.

    Năm 2010, một thành viên hàng đầu của Uỷ ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) của Liên Hiệp Quốc đã nói:
    • “Người ta phải giải phóng bản thân khỏi ảo tưởng rằng chính sách khí hậu quốc tế là chính sách môi trường. Điều này hầu như không liên quan gì đến chính sách môi trường nữa”.
    Ottmar Edenhofer, đồng chủ tịch Nhóm công tác III của IPCC và là tác giả chính của Báo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC (2007) cho biết, giờ đây không phải là việc cứu môi trường mà là phân phối lại của cải :
    • "Chúng tôi phân phối lại sự giàu có của thế giới bằng chính sách khí hậu".

    Ông tiếp tục:
    • “Các nước phát triển về cơ bản đã chiếm đoạt bầu không khí của cộng đồng thế giới, và vì vậy họ phải trưng thu tài sản của mình và phân chia lại cho các nạn nhân chịu tội ác mà họ bị cáo buộc. Những người ủng hộ nhiệt thành của Liên hợp quốc đang tìm cách áp thuế bồi thường khí hậu toàn cầu đối với mọi thứ, từ các chuyến bay của hãng hàng không và vận chuyển quốc tế đến các giao dịch tài chính và nhiên liệu….”

    Edenhofer nói với một hãng tin Đức (NZZ AM Sonntag ) rằng hội nghị thượng đỉnh về khí hậu ở Cancun
    • “không phải là một hội nghị về khí hậu mà là một trong những hội nghị kinh tế lớn nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ II”.
    Thỏa thuận Cancun thành lập “Quỹ Khí hậu Xanh” để hỗ trợ các quốc gia nghèo bị lũ lụt và hạn hán do trái đất nóng lên. Liên minh châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã dẫn đầu cam kết 100 tỷ USD mỗi năm cho các quốc gia nghèo đến năm 2020, cộng với 30 tỷ USD hỗ trợ ngay lập tức.

    Christine Stewart, Bộ trưởng Bộ Môi trường Canada, 1997-1999 cho biết:
    • “Dù khoa học có là giả mạo hay không, thì vẫn có những lợi ích môi trường làm vật hy sinh…. Biến đổi khí hậu [cung cấp] cơ hội lớn nhất để mang lại công lý và bình đẳng trên thế giới”.

    • “Chúng ta phải giải quyết vấn đề nóng lên toàn cầu. Ngay cả khi lý thuyết về sự nóng lên toàn cầu là sai, chúng tôi sẽ làm đúng về chính sách kinh tế và chính sách môi trường”
    - Tim Wirth, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ về các vấn đề toàn cầu và là người chịu trách nhiệm chính trong việc thiết lập Hiệp ước Kyoto.



    Biến đổi khí hậu là cái cớ của chủ nghĩa toàn cầu, một hình thức khác của chủ nghĩa xã hội toàn cầu

    Mượn cớ bảo vệ môi trường, người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường tăng mạnh tuyên truyền, xây dựng pháp luật bảo vệ môi trường, số lượng công ước môi trường tăng nhanh, lớn thêm về quy mô, chủ nghĩa bảo vệ môi trường đã trở thành công cụ chủ yếu để hạn chế quyền tự do công dân các nước, tước đoạt chủ quyền quốc gia dân tộc, hạn chế và công kích xã hội tự do phương Tây.

    Việc đàm phán các hiệp ước môi trường và các công cụ quốc tế khác đã gia tăng đáng kể sau Hội nghị năm 1972 của Liên hợp quốc về môi trường con người, chẳng hạn như Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp, Công ước về ô nhiễm không khí xuyên biên giới tầm xa, Công ước Vienna về bảo vệ tầng ôzôn, và Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu. Ngoài ra, nhiều lời kêu gọi thành lập một tổ chức môi trường toàn cầu rất may đã không thành hiện thực.

    Cho đến ngày nay, gần như tất cả các tổ chức quốc tế đã đưa các vấn đề về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững vào các chương trình làm việc của họ. LHQ đã tham gia vào các mối quan tâm về môi trường từ những năm 1960 và hầu hết các cơ quan chuyên môn của LHQ đã đảm nhận trách nhiệm bảo vệ môi trường.

    Một loạt các tổ chức quốc tế chính thức khác cũng đã tham gia vào các vấn đề về môi trường, ngay cả khi họ chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực khác (ví dụ: Tổ chức Thương mại Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế). Hầu hết các tổ chức khu vực đều tham gia vào các vấn đề môi trường.

    Đây chính là quá trình toàn cầu hóa với sự xuất hiện các loại tổ chức quốc tế mới, đặt ra các loại điều ước quốc tế và nghị trình chính trị, hạn chế chủ quyền quốc gia, chuyển dần quyền lực của chủ quyền quốc gia sang cho các tổ chức quốc tế. Sau khi phương thức quản lý giám sát, quy tắc và cơ cấu quốc tế siêu vượt khỏi quyền quản hạt của quốc gia, thì bắt đầu tiến hành thâm nhập toàn diện vào cuộc sống xã hội, văn hóa và chính trị của các nước, quyền lực quản lý tập trung hướng về một loại giống như một cơ cấu quốc tế chính phủ toàn cầu, có xu thế diễn biến thành “đại chính phủ thế giới”. Nó ăn mòn chủ quyền quốc gia, làm suy yếu cơ sở đạo đức và tín ngưỡng truyền thống của xã hội nhân loại, phá hoại văn hóa truyền thống, làm điên đảo các quy tắc quốc tế bình thường.




    Thủy Tiên





    https://www.ntdvn.com/kinh-te/su-diet-v ... 47506.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Dự báo ‘Ngày Tận Thế’ do Biến đổi khí hậu là Lời nói dối thế kỷ? (Kỳ 5)

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Dự báo ‘Ngày Tận Thế’ do Biến đổi khí hậu
              
    là Lời nói dối thế kỷ?
    (Kỳ 5)

    ______________________________
    Chi Anh _ 20/09/21



              

    Chúng ta rất cần bảo vệ Trái đất này đúng cách, chứ không phải với sự sợ hãi và thiếu lý trí
    đến mức để ai đó nhân danh ‘khoa học còn tranh cãi’ để thổi phồng thảm họa,
    biến nó thành ‘Kinh Thánh’ nhằm tước đoạt sự thịnh vượng và tự do của chúng ta.

              

    Sự thật là có đến gần 70% dự báo về thảm họa khí hậu từ năm 1970 cho tới nay đã được chứng minh là sai, 30% còn lại cần thời gian để kiểm định. Sự thật là các mô hình dự báo khí hậu chưa có năng lực mô tả hết các yếu tố phức tạp của tự nhiên. Chúng ta rất cần bảo vệ Trái đất này đúng cách, chứ không phải với sự sợ hãi và thiếu lý trí đến mức để ai đó nhân danh ‘khoa học còn tranh cãi’ để thổi phồng thảm họa, biến nó thành ‘Kinh Thánh’ nhằm tước đoạt sự thịnh vượng và tự do của chúng ta.


    Chúng ta đang sống trong một thế giới ‘hỗn loạn’ thông tin về Biến đổi khí hậu. Rất nhiều tổ chức, rất nhiều kênh truyền thông, rất nhiều cá nhân đang không ngừng cảnh báo về sự nóng lên toàn cầu và hậu quả khủng khiếp của nó. Họ nói với công chúng rằng, các cảnh báo của họ được đưa ra dựa trên số liệu đáng tin cậy lấy từ các mô hình khí hậu được thiết kế công phu với vô số thuật toán phức tạp, và đa phần những mô hình này cho một kết quả đồng nhất: Trái đất đang đi đến diệt vong bởi hiệu ứng nhà kính.

    Tuy nhiên, cùng lúc đó cũng có rất nhiều nhà khoa học khác đã viết các bài nghiên cứu chứng minh rằng:
    • Các mô hình khí hậu hiện tại đều không hoàn hảo,
    • và các sai số trong các phép toán khiến số liệu không còn chính xác.
    Nhưng tiếng nói của họ dường như bị cô lập và phớt lờ bởi truyền thông.



    Các mô hình khí hậu hiện nay chỉ là sự mô phỏng ‘thô thiển’ các yếu tố phức tạp của tự nhiên

    Các cơ quan và tổ chức khoa học hàng đầu của Mỹ đã công nhận sự nóng lên toàn cầu là một vấn đề do con người gây ra và cần sớm được giải quyết. Chương trình Nghiên cứu Biến đổi Toàn cầu của Mỹ đã xuất bản một loạt các báo cáo khoa học ghi lại các nguyên nhân và tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu. NOAA, NASA, Quỹ Khoa học Quốc gia, cùng nhiều tổ chức khác đều đã công bố các báo cáo khẳng định Trái đất đang nóng lên chủ yếu bởi sự gia tăng các loại khí nhà kính do con người tạo ra.

              

    Các mô hình khí hậu hiện có nhiều hạn chế nghiêm trọng,
    tác động đáng kể đến kết quả mà dựa vào đó,
    các nhà khoa học đưa ra các dự đoán và các chính trị gia đề ra các chính sách.

              

    Hiệp hội Khí tượng Hoa Kỳ (AMS) đã tuyên bố:
    • "...nguyên nhân hàng đầu của biến đổi khí hậu trong nửa thế kỷ gần đây là sự gia tăng các loại khí nhà kính trong khí quyển, bao gồm
      • carbon dioxide (CO2),
        chlorofluorocarbons,
        methane
        ...".


    Tuy nhiên, theo Giáo sư Kinh tế Ross R. McKitrick tại Đại học Guelph - chuyên gia về chính sách môi trường, năng lượng, và khí hậu - các mô hình khí hậu hiện nay cho dù sử dụng những công thức toán học phức tạp nhất thì vẫn chỉ là một sự mô phỏng ‘thô thiển’ các yếu tố phức tạp của tự nhiên, chẳng hạn như các yếu tố trong hệ thống khí quyển. Trong khi các mô hình khí hậu luôn dự đoán rằng nhiệt độ Trái đất sẽ tăng lên đáng kể thì trên thực tế, từ năm 1998 đến năm 2014, nhiệt độ đã không thay đổi. Theo ông McKitrick, hiện có những lỗ hổng cơ bản trong các mô hình khí hậu.

    Trong bài báo xuất bản năm 2017 trên tạp chí Hoover danh tiếng, hai tác giả David R. Henderson và Charles L. Hooper đã lập luận rằng: Các mô hình khí hậu cho thấy Trái đất đang nóng hơn khoảng 0,8°C so với năm 1850. Nếu như nồng độ CO2 trong bầu khí quyển đã tăng 40% kể từ năm 1750 thì chúng ta có thể đưa ra một giả thuyết tương đối hợp lý là: Sự gia tăng CO2 này đã gây ra, và đang gây ra, sự nóng lên toàn cầu. Tuy nhiên trên thực tế, chúng ta hầu như không có khả năng thực hiện các thí nghiệm có kiểm soát, chẳng hạn như tăng hay giảm mức CO2 trong khí quyển và sau đó đo lường sự thay đổi nhiệt độ Trái đất.

    Vậy chúng ta có thể làm gì? Chúng ta có thể xây dựng các mô hình phức tạp trên máy tính, nhập vào đó các dữ liệu vật lý, từ đó tính toán cách năng lượng chiếu tới, xuyên qua, và thoát ra khỏi đất, nước, và bầu khí quyển. Vài thập kỷ trở lại đây, những mô hình như vậy đã được tạo ra và đang được sử dụng thường xuyên để đưa ra những dự đoán thảm khốc về số phận của Trái đất.

    Vấn đề là các mô hình này có những hạn chế nghiêm trọng, tác động đáng kể đến kết quả mà dựa vào đó, các nhà khoa học đưa ra các dự đoán và các chính trị gia đề ra các chính sách. Cụ thể, có ba vấn đề lớn mà chỉ với một vấn đề riêng lẻ thôi cũng đủ để khiến các dự đoán không còn chính xác. Cả ba vấn đề hợp lại đã giáng một đòn mạnh vào các dự đoán hiện tại.



    Sai số lớn hơn kết quả: Sự nóng lên của khí hậu là kết luận không chắc chắn về mặt khoa học!

    Hai tác giả Henderson và Hooper đã bắt đầu việc miêu tả lỗi đo lường bằng ví dụ rất dễ hiểu. Hãy tưởng tượng vào đầu năm học, bạn đo thời gian cho một vận động viên điền kinh trung học chạy quãng đường 400m. Chiếc đồng hồ bấm giờ của bạn có độ chia nhỏ nhất là 0,01s; bạn đo được cậu học sinh này chạy trong 56s; sai số tạo ra bởi phản ứng bấm giờ của bạn là ± 0,2s.

    Đến cuối năm học (tức là 30 tuần sau), bạn đo được cậu học sinh này chạy quãng đường tương tự chỉ trong 53s. Mức cải thiện từ 56s lên 53s lớn hơn nhiều so với độ chia nhỏ nhất của đồng hồ và thời gian phản ứng không hoàn hảo của bạn. Điều đó cho phép bạn kết luận rằng cậu học sinh đã đạt tiến bộ với mức tiến bộ là 0,1s/tuần (3s trong 30 tuần).

    Tuy nhiên, nếu bạn kiểm tra lại cậu học sinh này sau nửa tuần và cố gắng đo lường sự cải thiện dự kiến là 0,05s thì bạn sẽ gặp phải vấn đề. Bạn không thể đo được sự khác biệt nhỏ như vậy với chiếc đồng hồ bấm giờ và thời gian phản ứng không hoàn hảo của bạn. Nói cách khác, bạn không thể làm được điều đó bởi mức độ của thứ mà bạn đo nhỏ hơn sai số trong phép đo của bạn.

    Các nhà khoa học đã trình bày sai số trong đo lường bằng cách mô tả khoảng sai số của phép đo. Ví dụ, họ có thể nói rằng nhiệt độ là 20°C ± 0,5°C; tức là nhiệt độ có thể là 20,0°C, nhưng cũng có thể là 20,5°C hoặc 19,5°C.

    Bây giờ hãy xem nhiệt độ được ghi lại bởi các trạm thời tiết trên khắp thế giới. Hai tác giả Henderson và Hooper đã nhắc đến ông Patrick Frank, một nhà khoa học tại Đại học Stanford, tác giả của hơn 68 ấn phẩm đã được bình duyệt bởi hội đồng chuyên gia. Ông Frank đã xuất bản các bài báo giải thích về việc sai số của nhiệt độ đo được ở các trạm thời tiết đã bị xử lý không chính xác như thế nào.

    Ông Frank phát hiện ra rằng, các chỉ số nhiệt độ có sai số lớn gấp đôi so với mức sai số thường thấy. Dựa trên quan sát này, Frank đã viết một bài báo năm 2011 trên tạp chí Năng lượng & Môi trường, trong đó có đoạn:
    • “…sự bất thường trong nhiệt độ không khí bề mặt toàn cầu từ năm 1856 - 2004 với khoảng tin cậy 95% là 0,8˚C ± 0,98˚C”.
    Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra, khoảng sai số (± 0,98˚C) lại lớn hơn mức tăng (0,8˚C) đo được (?!!). Như vậy, có thể nói một cách không chắc chắn rằng nhiệt độ có xu hướng tăng lên; và cũng không thể bác bỏ giả thuyết rằng nhiệt độ của thế giới không hề thay đổi.



    Năng lượng từ C02 do con người tạo ra nhỏ hơn rất rất nhiều so với năng lượng tự nhiên của mặt trời

    Rất nhiều mô hình khí hậu hiện tại được dùng để đánh giá giả thuyết CO2 là nguyên nhân của sự nóng lên toàn cầu, cũng như để định lượng mức CO2 tạo ra bởi con người. Tuy nhiên vấn đề ở chỗ, năng lượng (sức nóng) do C02 tạo ra bởi con người so với sức nóng tự nhiên từ mặt trời là vô cùng nhỏ bé.

    Để chứng minh cho luận điểm này, hai tác giả Henderson và Hooper đã đặt ra câu hỏi: CO2 do con người tạo ra có mức độ lớn nhỏ như thế nào so với các yếu tố không chắc chắn khác trong các mô hình khí hậu? Các dòng năng lượng trong mô hình được đo bằng watt trên mét vuông (W/m²). Năng lượng từ mặt trời truyền đến bầu khí quyển trái đất trung bình ngày và đêm, các cực, và đường xích đạo là 342 W/m². Điều này giữ trái đất đủ ấm áp để chúng ta tồn tại và phát triển. Theo Frank, năng lượng ước tính tạo ra từ lượng CO2 từ các hoạt động của con người nhỏ hơn rất nhiều, ở mức 0,036 W/m² - tương đương 0,01% năng lượng từ mặt trời. Nếu tính toán của chúng ta về năng lượng từ mặt trời bị sai số hơn 0,01% thì sai số đó sẽ lớn hơn, hay nói cách khác là bao gồm năng lượng tạo ra từ lượng CO2 từ các hoạt động của con người.



    Bất khả thi trong việc đo lường các đám mây

    Theo báo cáo của Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO), nồng độ khí gây hiệu ứng nhà kính như CO2, methane, và nitrogen dioxide vào năm 2020 tiếp tục tăng dù nền kinh tế toàn cầu đã và đang đình trệ bởi tác động nặng nề của đại dịch Covid-19. Từ đó, một số nhà khoa học đã đổ lỗi việc gia tăng CO2 này là do vị trí các đám mây.

    Nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học tại Đại học East Anglia và Đại học Hoàng gia London đã cho rằng các đám mây có thể khiến nhiệt độ Trái Đất tăng cao bằng cách phản xạ ít bức xạ mặt trời ra khỏi Trái Đất hơn và làm gia tăng hiệu ứng nhà kính gây biến đổi khí hậu.

    Đồng tác giả Peer Nowack từ Đại học East Anglia cho biết:
    • "Trong vài năm qua, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy các đám mây có thể gây hiệu ứng khuếch đại đến sự nóng lên toàn cầu".


    Trên thực tế, việc mô hình hóa các đám mây và các hiệu ứng liên quan đến mây là rất khó khăn. Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) đã thừa nhận điều này trong một báo cáo năm 2013:
    • “Việc mô phỏng các đám mây trong các mô hình khí hậu vẫn còn nhiều thách thức”.


    Tại sao lại khó tạo mô hình cho những đám mây? Bởi vì chúng có muôn hình vạn trạng; xuất hiện ở các độ cao khác nhau, và xếp chồng lên nhau; đồng thời các nhà khoa học cũng không hiểu đầy đủ về cách chúng hình thành. Kết quả là, việc mô hình hóa các đám mây có độ chính xác thấp. Theo hai ông Henderson và Hooper, điều này dẫn đến sự sai số khoảng ±4,0 W/m² của nhiệt năng của khí quyển.

    Sai số này lớn gấp khoảng 110 lần năng lượng ước tính tạo ra từ lượng CO2 từ các hoạt động của con người (0,036 W/m²). Nếu sai số của mô hình đám mây chỉ giảm 0,9% - tức là giảm 0,036 W/m² (0,9% x 4,0 = 0,036) - thì sai số đó sẽ đủ để bù cho lượng năng lượng tạo ra từ CO2 từ các hoạt động của con người.



    Truyền thông dòng chính phớt lờ các nghiên cứu trái chiều hoặc các sai lầm trong dự báo nóng lên toàn cầu

    Một nghiên cứu của nhóm các nhà khoa học hàng đầu đến từ nhiều quốc gia xuất bản ngày 31/10/2018 đã đưa ra một mô hình mới để đo lượng nhiệt mà các đại dương đang hấp thụ.

    Về cơ bản, các tác giả đo thể tích của các loại khí, đặc biệt là khí oxy (O2) và CO2, đã thoát ra khỏi đại dương trong những thập kỷ gần đây và đi vào bầu khí quyển. Họ phát hiện ra rằng các đại dương trên Trái đất đã hấp thụ một lượng nhiệt nhiều hơn 60% so với các tính toán trước đó, tốc độ nóng lên của Trái đất đang được đẩy nhanh hơn, và chúng ta có ít thời gian hơn để hạn chế phát thải nhà kính.

    Nghiên cứu đã thu hút sự chú ý đáng kể từ giới truyền thông và công chúng. Rất nhiều tờ báo đã đăng tải bài viết xung quanh nghiên cứu này, khiến nó trở thành đề tài bàn luận sôi nổi.

    Tuy nhiên, không lâu sau khi xuất bản, Nicholas Lewis - một nhà nghiên cứu độc lập ở Anh - đã nói rằng ông tìm thấy một "vấn đề lớn" trong nghiên cứu của nhóm tác giả trên.

    Không rõ liệu nhóm tác giả có đồng ý với tất cả những luận điểm mà ông Lewis đưa ra hay không nhưng họ đã lên tiếng thừa nhận rằng: Công trình của họ có những sai sót khiến kết luận ‘Ngày tận thế gây ra bởi Biến đổi khí hậu’ không còn chính xác.

    Do vậy, 2 tuần sau khi nghiên cứu nổi tiếng này được công bố trên tạp chí Nature, các tác giả đã gửi đi thông báo chỉnh sửa.

    Ralph Keeling, một nhà khí hậu học tại Viện Hải dương Scripps và là một trong những đồng tác giả, nói với tờ The San Diego Union-Tribune:
    • “Sau khi đọc những lập luận sắc bén của ông ấy [Lewis], chúng tôi rất biết ơn vì các lỗi sai đã được chỉ ra, từ đó mà chúng tôi có thể nhanh chóng sửa lỗi”.


    Ông Keeling thừa nhận rằng:
    • "Biên độ sai số trong nghiên cứu hiện quá lớn để xác định chính xác được mức độ nóng lên đang diễn ra trong đại dương".


    Điều đáng nói ở đây không phải là việc các nhà khoa học đã tính toán sai và đã sửa lỗi sai. Trên thực tế, đó là chuyện thường xuyên xảy ra.

    Điều đáng nói là: Các phương tiện truyền thông trên khắp thế giới đã nhiệt tình đưa tin về bản phát hành đầu tiên của bài nghiên cứu, từ đó thu hút chú ý của công chúng về sự nóng lên toàn cầu và sự diệt vong gây ra bởi Biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, họ lại không hề dùng lòng nhiệt tình tương tự để nói về việc có những lỗi sai được tìm thấy. Vì vậy, rất nhiều độc giả đã mang một ấn tượng sai lầm rằng thế giới đang trải qua quá trình nóng lên thảm khốc.

    Trong vài chục năm qua, các phân tích từ nhiều nhà khoa học khí hậu nổi tiếng đã đánh sập các kịch bản của IPCC về ngày tận thế. Tuy nhiên, truyền thông dòng chính thường phớt lờ những nghiên cứu này, và nếu có nhắc đến thì họ sẽ chỉ trích các tác giả là "những người theo chủ nghĩa hoài nghi”.

    Trong khi đó, rất nhiều thế lực đang sử dụng kết quả từ các mô hình khí hậu đầy thiết sót để đưa ra các chính sách nhằm thay đổi sâu rộng lối sống của chúng ta và nền kinh tế toàn cầu. Những điều này sẽ không chỉ tiêu tốn hàng nghìn tỷ USD mỗi năm mà còn dẫn đến việc giảm mức sống và mất tự do của con người.




    Chi Anh




    https://www.ntdvn.com/kinh-te/du-bao-ng ... 50785.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Kinh tế toàn cầu không thể ‘sống sót’ nếu thực hiện các cam kết chống biến đổi khí hậu (Kỳ 6)

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           



    Kinh tế toàn cầu không thể ‘sống sót’ nếu thực hiện các cam kết chống biến đổi khí hậu
              
    (Kỳ 6)

    ______________________________
    Đức Duy - Bảo Nguyên _ 25/10/21





    Biến đổi khí hậu đã trở thành mối bận tâm lớn của thời đại. Nhiều quốc gia trên thế giới, gồm 2 nước lớn là Mỹ và Trung Quốc đều đã lên tiếng cam kết chống biến đổi khí hậu. Tuy vậy, cả 2 quốc gia này đang gặp phải vô số trở ngại khi thực hiện cam kết của họ, từ đó làm dấy lên câu hỏi về tính khả thi của các biện pháp chống nóng lên toàn cầu. Những yêu cầu từ thực tế cuộc sống, xã hội, và kinh tế khác xa với những cuộc thảo luận trên các bàn hội nghị chính trị.


    Từ ngày 31/10 sắp tới, Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (COP26) sẽ diễn ra tại Glasgow, vương quốc Anh. Khoảng 20.000 nguyên thủ quốc gia, các nhà ngoại giao, và các nhà hoạt động dự kiến sẽ gặp mặt trực tiếp để đặt ra các mục tiêu mới nhằm cắt giảm lượng khí thải CO2 từ than đá, dầu mỏ, và khí đốt. Các nhà khoa học cho rằng thế giới phải ngay lập tức hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nhằm ngăn nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng hơn 1,5°C so với mức trước Cách mạng Công nghiệp.

    Biến đổi khí hậu đã trở thành mối bận tâm lớn của thời đại dù còn rất nhiều tranh cãi. Mỗi năm, các nước trên thế giới chi ra tổng cộng hàng tỷ USD để ngăn chặn ‘thảm họa’ trong tương lai. Tuy nhiên, liệu thảm họa có thực sự xảy ra hay không? NTDVN đã có bài phân tích về những sai sót của các mô hình khí hậu đang được sử dụng để đưa ra dự báo về thảm họa.

    Rõ ràng là con người phải bảo vệ môi trường tự nhiên, nhưng chúng ta cần hành động một cách có lý trí. Nhiều nhà khoa học, nhà hoạt động, và giới phân tích đã dựa trên những dữ liệu thực tế và thực trạng cuộc sống mà cất tiếng nói lương tri rằng: ‘Bảo vệ môi trường’ đã bị biến thành một loại chủ nghĩa cực đoan, và ‘chống biến đổi khí hậu’ đã trở thành một công cụ để kiểm soát xã hội, lũng đoạn tài chính, và một cái cớ để bành trướng chủ nghĩa toàn cầu. Mời quý độc giả ghé đọc chuyên đề: "Biến đổi khí hậu: Công cụ kiểm soát xã hội, lũng đoạn tài chính tiến lên Chủ nghĩa toàn cầu" của NTDVN để hiểu rõ về ‘thể chế’ chống biến đổi khí hậu hiện nay.

    Quay trở lại Hội nghị COP26, vào tháng 9/2021, Liên hợp quốc đã lên tiếng cảnh báo rằng: Mục tiêu mà các nước đưa ra là chưa đủ để làm giảm mức độ nóng lên toàn cầu. Trong đó, Trung Quốc - nước phát thải lớn nhất thế giới - vẫn chưa đệ trình NDC (đóng góp do quốc gia tự quyết định). Các nhà cung ứng nhiên liệu hóa thạch lớn như Ảrập Xêút, Nga, và Úc dường như không muốn tăng cường cam kết của họ. Ấn Độ - quốc gia tiêu thụ, sản xuất, và nhập khẩu than lớn thứ 2 thế giới - cũng chưa đưa ra cam kết...

    Tại sao lãnh đạo các quốc gia kể trên và nhiều quốc gia khác lại dè dặt trong việc đưa ra các mục tiêu mà đáng lẽ theo các nhà khoa học thì chúng sẽ ngăn chặn lũ lụt, hạn hán, cháy rừng… từ đó tiết kiệm hàng nghìn tỷ USD giải quyết thiệt hại, đồng thời đảm bảo cuộc sống bình yên và hạnh phúc cho người dân toàn thế giới cũng như thế hệ tương lai? Có lẽ nào người trong cuộc mới hiểu cuộc chơi? Phải chăng các vị lãnh đạo đều biết rõ về công cụ ‘chống biến đổi khí hậu’? Nếu như dự báo về ‘Ngày tận thế’ do biến đổi khí hậu là lời nói dối thế kỷ thì phải chăng những công ước toàn cầu về chống biến đổi khí hậu chỉ là bước đi chính trị, và chúng đang đi ngược lại với lợi ích của người dân toàn cầu?

    Trước các áp lực ngày càng gia tăng về phục hồi kinh tế và đảm bảo sinh kế cho người dân hậu đại dịch, chúng ta đang chứng kiến sự khác biệt to lớn giữa những lời tuyên bố của các vị nguyên thủ và hành động thực tế của họ. Hãy cùng nhìn vào 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Trung Quốc.



    Mỹ

    Những gì truyền thông dòng chính quảng bá rầm rộ

    Tổng thống Joe Biden đã vận động tranh cử với lời hứa khôi phục vai trò đầu tàu của Mỹ trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Ông Biden đã ban hành một lượng lớn các lệnh hành pháp và các mục tiêu đầy tham vọng nhằm cắt giảm lượng khí thải.

    Tổng thống Mỹ cũng đã đưa quốc gia này quay lại hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu, huỷ bỏ dự án đường ống dẫn dầu thô Keystone XL từ Canada, tạm dừng các hợp đồng cho thuê dầu khí mới trên các vùng đất liên bang, đồng thời đình chỉ quyền khoan tại Khu bảo tồn Quốc gia động vật hoang dã Bắc Cực.

    Chính quyền Biden cũng đặt mục tiêu loại bỏ khí CO2 trong ngành điện vào năm 2035, một dấu mốc quan trọng trên con đường hướng tới mục tiêu của thỏa thuận Paris về không phát thải vào năm 2050.


    Những gì truyền thông ít đề cập

    Trong 9 tháng đầu nhiệm kỳ Tổng thống, ông Biden đã có nhiều bước đi hỗ trợ phát triển nhiên liệu hóa thạch ở cả trong và ngoài nước Mỹ.

    Chính quyền Biden đã ủng hộ các dự án cơ sở hạ tầng dầu khí như đường ống Line 3 của Enbridge từ Canada, đồng thời đẩy nhanh quá trình xử lý giấy phép khoan dầu khí. Các quan chức dưới thời Tổng thống Biden đã phê duyệt hơn 2.600 giấy phép cho các hợp đồng khoan dầu trên đất liền, điều này thậm chí còn nhanh hơn tốc độ dưới thời cựu Tổng thống Trump.

    Vào tháng 08/2021, Nhà Trắng đã thúc giục Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) nâng sản lượng nhằm giúp phục hồi nền kinh tế sau tác động của cuộc khủng hoảng COVID-19, đồng thời giúp giữ giá xăng bán lẻ ở mức mà những người lái xe ở Mỹ có thể chi trả được.

    Hiện tại, các phản đối về mặt chính trị khiến kế hoạch của chính quyền Biden liên quan đến chống biến đổi khí hậu khó có thể được thông qua tại quốc hội Mỹ. Ngay cả Thượng Nghị sĩ Joe Manchin, một thành viên Đảng Dân chủ, đã chỉ trích các chính sách chống biến đổi khí hậu của Đảng mình trên kênh CNN. Ở bang West Virginia của ông, khoảng 91% lượng điện toàn bang đến từ than đá. Trong một cuộc phỏng vấn với đài địa phương, ông Machin đã phản bác quan điểm cho rằng nền công nghiệp than đá của Mỹ gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến khí hậu. Theo ông Manchin, nền công nghiệp than đá cần được bảo vệ, vì nước Mỹ không thể tồn tại nếu thiếu than đá, theo Theo Epoch Times.

    The Epoch Times cũng đưa tin, các thành viên đảng Cộng hòa tại Hạ Viện, dẫn đầu là lãnh đạo phe thiểu số Kevin McCarthy, đã kêu gọi Tổng thống Biden huỷ bỏ các lệnh hành pháp và các chính sách khác trong việc hạn chế nguồn cung dầu và khí đốt tự nhiên ở Mỹ.

    Dưới thời chính quyền Trump, vào năm 2019 Mỹ đã lần đầu tiên trong 62 năm trở thành nước độc lập về năng lượng. Tháng 4/2020, những chính sách của ông Trump đã khiến giá dầu giảm xuống chỉ còn khoảng 1,94 USD/gallon. Tuy nhiên, những quyết định hành pháp ngay trong những ngày đầu nhậm chức của ông Biden đã đảo ngược các thành quả của ông Trump. Dữ liệu từ EIA - cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ - cho thấy giá dầu đã liên tục tăng trong các tháng qua, từ 2,42 USD/gallon vào tháng 1 lên 3,272 USD/gallon vào tháng 9. Giá dầu thô cũng đạt mức cao nhất trong 7 năm qua, lên mức 80 USD/thùng.

    Ông McCarthy cũng chỉ trích các cuộc thương thảo của ông Biden với OPEC+, tổ chức bao gồm cả Nga, Iran, và Venezuela, cho rằng Mỹ không nên dựa vào những quốc gia này để đảm bảo nhu cầu năng lượng của mình. Theo ông McCarthy, việc nới lỏng các hạn chế về sản xuất năng lượng sẽ cải thiện tình hình kinh tế và việc làm của Mỹ, đảm bảo an ninh năng lượng và an ninh quốc gia, đồng thời giảm giá năng lượng cho các hộ gia đình Mỹ.

    Trên thực tế, một số cử tri và lãnh đạo cấp cao trong Đảng Cộng hòa luôn nghi ngờ về việc liệu biến đổi khí hậu có thật sự là do con người gây ra hay không, theo Reuters.



    Trung Quốc

    Những gì Trung Quốc tuyên bố

    Vào tháng 9 năm ngoái, chủ tịch Tập Cận Bình đã tuyên bố Trung Quốc sẽ đạt tới ngưỡng tối đa về khí thải carbon (CO2) trước năm 2030 và đạt tới trung hoà carbon vào năm 2060, theo South China Morning Post.

    Ngành thép của Trung Quốc, ngành chiếm đến 15% lượng khí thải carbon của quốc gia này, nhắm tới một mục tiêu sớm hơn là đạt ngưỡng tối đa vào năm 2025, và sẽ cắt giảm 30% lượng khí thải vào 5 năm sau.

    Theo tờ Nhật báo thông tin kinh tế của nhà nước Trung Quốc, 237 doanh nghiệp sản xuất thép, chiếm 60% sản lượng toàn Trung Quốc, đã hoàn thành hoặc bắt đầu quá trình cải cách hướng tới giảm thiểu lượng khí thải.

    Các nhà lãnh đạo Trung Quốc phát biểu rằng, cắt giảm CO2 là nhu cầu cấp bách không chỉ vì chống biến đổi khí hậu mà còn vì mục tiêu hiện đại hoá của quốc gia này.

    Tại cuộc họp bộ chính trị, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thúc ép các tỉnh thành hạn chế các dự án tiêu thụ nhiều năng lượng và tạo ra nhiều khí thải. Sau đó, các tỉnh thành này đã yêu cầu các nhà máy thép hạn chế sản xuất để giảm lượng khí gây hiệu ứng nhà kính.

    Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tuyên bố rằng Trung Quốc sẽ dừng việc xây dựng các nhà máy điện chạy bằng than tại nước ngoài - một động thái thể hiện sự ủng hộ của Trung Quốc với việc phát triển năng lượng xanh.

    Cơ quan quản lý năng lượng Trung Quốc đặt mục tiêu giảm tỷ lệ phần trăm năng lượng từ than đá từ 57% vào năm 2020 xuống còn 56% vào năm 2021.


    Nền kinh tế Trung Quốc phụ thuộc vào than đá

    Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu năng lượng và không khí sạch CREA và Cơ quan Giám sát năng lượng toàn cầu GEM, trong nửa đầu năm 2021, có tới 35 triệu tấn thép của Trung Quốc được sản xuất bằng than, nhiều hơn số lượng của cả năm ngoái. Điều này cho thấy ngành thép Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào than. Báo cáo này cũng đặt ra câu hỏi rằng, liệu chính phủ Trung Quốc có ủng hộ việc ‘giảm nhiệt’ ở các ngành tạo ra nhiều khí thải, hay vẫn thúc đẩy các dự án bất động sản và cơ sở hạ tầng, vốn là các hoạt động làm gia tăng nhu cầu cho ngành sắt thép và ngành năng lượng, từ đó tạo ra nhiều khí thải hơn?

    Nhà nghiên cứu Yang Fuqiang tại Viện năng lượng Đại học Bắc Kinh đánh giá, tuy Trung Quốc đã tăng cường sản xuất điện hạt nhân và các nguồn năng lượng xanh khác nhưng nhu cầu sử dụng điện tăng cao, cộng với áp lực kinh tế, đã khiến lượng tiêu thụ than ở nước này tiếp tục tăng.

    Trung Quốc hiện đang dẫn đầu thế giới về điện than. Trong năm 2020, nước này tạo ra tổng lượng công suất điện than mới nhiều hơn 3 lần tổng lượng công suất mới của tất cả các nước khác trên thế giới. Trung Quốc hiện có kế hoạch xây mới 43 nhà máy điện than và 18 lò luyện.

    Phó tổng thư ký Su Wei của Uỷ ban phát triển và cải cách quốc gia phát biểu rằng: “Cấu trúc năng lượng của Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào than đá. Đây là một thực tế khách quan”. Ông Su Wei cũng cho rằng Trung Quốc không có lựa chọn nào khác ngoài năng lượng than đá bởi các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng gió hay năng lượng mặt trời thường bị gián đoạn và không ổn định. Theo báo cáo của Tổ chức Phục hưng Trung Quốc, than đá vẫn luôn là lựa chọn phù hợp nhất với nền kinh tế Trung Quốc.

    Hiện tại, tình trạng thiếu điện đang khiến Trung Quốc bị ảnh hưởng nặng nề. Nước này đã tăng đáng kể sản lượng nhiệt điện vào ngày 13/10. Các mỏ than chưa có giấy phép bị đóng cửa trước đó đã được mở cửa trở lại. Các mỏ than và nhà máy nhiệt điện đóng cửa để nâng cấp công nghệ cũng được khởi động lại. Chính quyền Bắc Kinh sẽ đưa ra các ưu đãi thuế với các nhà máy điện than. Ngoài ra, các ngân hàng cũng được lệnh cung cấp nhiều khoản vay lớn cho các công ty khai thác than. Có thể khẳng định, sự phát triển kinh tế của Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào than đá, theo CNBC.

    Qua dẫn chứng từ 2 quốc gia Mỹ và Trung Quốc, hẳn độc giả cũng nhận ra sự khác biệt to lớn giữa những bước đi chính trị nhằm ‘phụ họa’ cho trào lưu chống biến đổi khí hậu với hành động thực tế của các vị lãnh đạo nhằm cứu vãn tình hình kinh tế, xã hội của đất nước. Khi mà giả định về một trái đất ngày càng nóng hơn chưa được xác thực, thì quá trình khử cacbon lại đang 'hút hết oxy' ra khỏi các nền kinh tế, tạo sức ép cực lớn lên thế hệ lao động hiện tại và tương lai. Và khi các chính sách chống biến đổi khí hậu chưa mang lại lợi ích gì, thì các nhà chức trách buộc phải quay trở về với thực tế và sử dụng đến các nguồn năng lượng truyền thống.





    Đức Duy - Bảo Nguyên



    https://www.ntdvn.com/kinh-te/kinh-te-t ... 67285.html
Trả lời

Quay về “Quốc Tế”