Nhơn đọc Hà sĩ Phu ” Hán văn là một bộ phận cấu thành tiếng việt “

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21158
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Nhơn đọc Hà sĩ Phu ” Hán văn là một bộ phận cấu thành tiếng việt “

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Nhơn đọc Hà sĩ Phu
              ” Hán văn là một bộ phận cấu thành tiếng việt “
    _________________________________________
    Nguyễn thị Cỏ May - 08-10-2016




    Xin thưa Cỏ May tôi xưa nay vẫn giữ riêng đối với Tiên sinh Hà Sĩ Phu sự kính trọng và cảm tình thật lòng bởi đã từ sớm lần bước theo Tiên sinh “Dắt tay nhau đi dưới những tầm bảng chỉ đường trí tuệ ” . Tâm đắc nhứt với Tiên sinh, đại ý
    • “... đảng cộng sản là người dẫn đường mà không có bản đồ nên đoàn người đi theo bị lọt xuống vực thẳm, cố trèo lên được, cùng nhau hô thắng lợi . Và cứ như vậy, họ đưa nhau đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác …”


    Nhận xét của Tiên sinh thú vị lắm . Cùng ý đó, gần đây, Hàn lâm Học sĩ D’Ormesson của Pháp nhận xét đảng xã hôi Pháp (Parti Socialiste), một cách dí dỏm tuyệt vời bởi làm bộc lộ rõ đặc tính và khả năng lãnh đạo đất nước của đảng xã hội vốn cùng ông tổ Karl Marx với cộng sản, tuy là kẻ thù không khoan nhượng của cộng sản . Ông dịch nghĩa GPS, máy định vị dành cho người lái xe, như sau :
    • G = Guide, hướng dẫn,
      P = Parti, đảng,
      S = Socialiste, xã hội chủ nghĩa .

    Tuyệt chưa ?
    Thật vậy. Ở Pháp, cho tới nay, sau hơn 4 năm cầm quyền, dân vẫn không biết ông Tổng thống François Hollande (cựu Tổng Bí thư đảng PS) muốn đưa mình đi tới đâu và hiện đang ở đâu nhưng ông vẫn kêu gọi nhân dân Pháp hãy chờ ngày mai này kinh tế sẽ tăng trưởng, thất nghiệp sẽ giảm, ….mà chỉ còn mấy tháng nữa, ông mản nhiệm kỳ . Ông nhiều lần cam kết nếu thất nghiệp không cải thiện, ông sẽ không tái ứng cử . Thực tế hoàn toàn khác hẳn vì ngày càng thấy tình hình nước Pháp càng thêm thảm hại :
    • nợ vẫn tràn ngập,
      kinh tế không tăng trưởng,
      xã hội thường xuyên bị khủng bố hăm dọa,
      thất nghiệp tháng 8/16 tăng 50 000 người, .. .

    Nhưng ông vẫn can đảm chuẩn bị sẽ ra tranh cử Tổng thống kỳ tới nữa ! Vì ông thấy nhơn dân cần ông lãnh đạo . Phải người xã hội chủ nghĩa mới có lý luận . Cũng giống như ông Nguyễn Phú Trọng ở Hà nội .


    Mạn phép vài dòng giao duyên với Hà Tiên sinh. Giờ đây Cỏ May tôi bắt đầu thưa chuyện với Tìên sinh .
    Tìên sinh viết
    • “Với Việt Nam, Hán văn là một bộ phận cấu tạo nên tiếng Việt, nên dạy Hán văn cũng là dạy một phần của tiếng Việt chứ không phải dạy một ngoại ngữ như Trung văn, Anh văn, Pháp văn… Để có cốt cách Việt cần trau dồi Việt văn, Hán văn, đồng thời để hòa nhập tốt với thế giới thì cần giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp…. » .

    Rất đúng nhưng cần phân biệt rỏ «Hán văn» với «Sinh ngữ tàu» của chương trình giáo dục hiện nay .
    • Trước 30/04/75, hai Trung tâm Đại Học Sài gòn và Huế đều có dạy Hán văn, môn học bắt buộc cho sinh viên Cử nhân Việt Hán . Sau đó, ai học lên có thể chọn chuyên sâu Hán văn (Cổ văn) .

      Trước kia, hồi còn thi Văn bằng Cao Tiểu (DEPSI), từ Đệ Nhứt niên tới Đệ Tứ niên (1ère Année – 4è Année), chương trình có môn Hán văn . Cả Lớp Nhì, lớp Nhứt cấp Tiểu học cũng có 1 tuần 2 giờ Hán văn .

      Riêng ở Đại Học Huế, còn có Ban Hán văn ròng dành cho sinh viên chọn ngành khảo cổ, ngoại vụ hoặc thư viên sau văn bằng Cử nhân Hán văn .

      Hiện nay, ở hải ngoại còn khá nhiều người đã học và tốt nghiệp Ban Hán văn hay Việt Hán .


    Mãi tới khi chương trình Hán văn ở Trung học hoặc Ban Hán học ở Đại Học Huế bị bải bỏ, Cỏ May không hề nghe thấy có ai phản ứng và đặt thành vấn đề như hiện nay khi được tin nhà cầm quyền cộng sản Hà nội sẽ đưa môn «Hán văn» vào chương trình Trung học và có những lớp Tiểu học, Mẫu giáo dạy tiếng tàu do cô giáo, thầy giáo người tàu phụ trách .
    Như vậy, phản ứng của người dân trong và ngoài nước chắc không nhằm ở việc học Hán văn,càng không phải ở vai trò chữ Hán/chữ Nho trong tiếng việt mà phải ở chỗ khác hơn .

    Vậy Hán văn là một bộ phận cấu thành tiếng việt, như Tiên sinh nói, tưởng sẽ không còn cần thiết bởi đó là thực tế trong đời sống hằng ngày của người Việt Nam rồi . Tuy nhiên, nếu nói lại xem có rõ hơn không :
    chữ Hán góp phần làm cho chữ/tiếng việt thêm phong phú
    hay nó phải là một bộ phận cấu thành?

    Chúng ta thử nhìn lại
    • phải chăng người Vìệt Nam đã có thứ tiếng Việt tinh ròng mà ngày nay chúng ta còn giữ ít nhiều câu ca dao.
    • Bên cạnh đó, chúng ta có thêm dòng «bác học » với tìếng Hán pha trộn để diển đạt những vấn đề trừu tượng
    • Như vậy, có thể nói tiếng việt tinh ròng đã có từ trước khi có chữ viết và dĩ nhiên, trước khi có chữ Hán tới .
    • Nhận xét này sẽ làm rõ thêm sự kiện khi ông cha ta,
      • duới sự đô hộ nặng áp lực hán hóa của Tàu, học chữ tàu
        mà vẫn đủ sức bảo vệ sự độc lập dân tộc nên mới có chữ « Hán việt và Việt Nho » .
        Không nói tiếng tàu thay tiếng Việt .

    Tiếp tục tinh thần giữ độc lập dân tộc này, ông cha ta lại một lần nữa sáng tạo ra chữ Nôm để sẽ thay thế chữ Hán/chữ Nho . Nhưng các quan nhà ta quá nặng đầu óc bảo thủ, phản đối để bảo vệ hia mảo của mình nên hai lần chữ Nôm ra đời đều không sống thọ . Sau này, con cháu biết được giá trị chữ nôm nhờ ở những tác phẩm văn học chữ nôm để lại .

    Vận nước vẫn bị hắc ám theo đuổi . Tây tới . Nhà truyền giáo dùng chữ la-tinh ghi tiếng việt . Chúng ta nhờ đó có thêm tiếng Việt thuận tiện sử dụng nhờ tính đơn giản của nó .
    Nên nhớ là các nhà truyền giáo sáng tạo ra chữ quốc ngữ để họ dùng trong việc truyền đạo Thiên chúa cho dễ, chớ hoàn toàn không vì để giúp dân việt nam có thứ chữ tìện lợi . Nhưng chúng ta đã sử dụng hằng trăm năm nay thì nó là thật sự của chúng ta . Không ai tranh cãi được, mặc dầu có dẩn chứng « quyền lịch sử » đi nữa .

    Có cái lợi to lớn thì cũng có cái bất lợi liền đó . Kể từ lúc có chữ quốc ngữ lưu hành rộng rãi thì không thấy xuất hiện những tác phẩm văn chương lớn như Truyện Kiều, Chinh phụ, thi ca như của Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Lục vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, những bài thơ yêu nước, . ..nữa . Dỉ nhiên, nói như vậy hoàn toàn không có nghĩa là muốn xóa bỏ quốc ngữ, lấy lại hán/nôm, mà phải biết mang trọng ơn đối với người đã sáng tạo ra quốc ngữ .

    Thưa Hà Sĩ Phu Tiên sinh,
    Cỏ May tôi xin nhắc lại một kỷ niệm nhỏ để chia sẻ với Tiên sinh về những thí dụ « chữ việt thuần Hán » do Tiên sinh dẩn chứng .

    • Cách nay hơn mươi năm, lần đầu tiên, tới chợ Đồng Xuân ở Đông Bá-linh, đoc khẩu hiệu viết chữ đỏ trên nền vàng «Phong phú mặt hàng phục vụ khách hàng» treo trước cửa hàng thực phẩm và tạp hóa « Nông Ích Qưân » (nghe giới thiệu là cháu họ của Nông Đức Mạnh), Cỏ May tôi cũng một lần bàng hoàng muốn xỉu .

      Vào năm 76, lối 10 giờ sáng, tôi ngồi lề đường Lê Quí Đôn, ngang hông Trường Lê Quí Đôn, dưới bóng mát hàng me, uống cà-phê . Bỗng một người lối bốn mươi đi vespa tới, kéo chiếc ghế đẩu thắp, ngồi chung bàn một cách tự nhiên . Người khách mới tới ăn mặc khá Sài gòn, mang xăng-đan da chớ không dép râu nên tôi thấy dễ cảm tình . Tôi bèn bắt chuyện . Nửa giờ sau, tôi đứng dậy đi thì người này vừa bắt tay từ giã tôi, vừa hỏi tôi đang « công tác » ở đâu?
      Tôi giựt mình, vội thót lên xe Honda đi, vừa bảo thầm «Bố tiên sư . Nãy giờ mình nói chuyện với một tên Vc mà không biết . Cũng may mình không nói gì bậy bạ để có thể bị học tập mút mùa» .

    Thưa Hà Tiên sinh,
    • «Công tác» trong câu nói này có thật sự là một «bộ phận cấu thành tiếng Việt» không?
      Nếu không có nó thì có tiếng Việt không?
      Hay nó thể hiện một bản chất lệ thuộc Tàu từ sự lệ thuộc chánh trị tự nguyện «môi hở răng rụng»?

    Ở Miền Nam trước 75, «công tác » vẫn phổ thông . Khi một nhân viên lãnh một công việc đặc biệt, trong một thời hạn qui định, ở một địa điểm khác hơn nhiệm sở hằng ngày thì mọi người sẽ nói nhân viên đó «đi công tác » . Còn làm việc hằng ngày, dù công việc lớn hay nhỏ, quan trọng hay không, mọi người đều nói «đi làm, đi làm việc, làm việc » . Dân Nam kỳ nói mộc mạc hơn « Đi mần, Đi mần ăn, Mần việc » .
    Ở Miền Bắc xhcn đều nói «công tác» vì mọi sanh hoạt của dân chúng đều bị chế độ hoá nên không còn việc làm nào là không phải việc công . Hơn nữa, chủ trương dùng chữ hán việt để phân bìệt người của cách mạng, nay phải khác hơn khi anh ta thiến heo, sửa ống khóa dạo . Vì lúc đó thì làm gì biết nói «công tác», nói «phục vụ», …

    Những tiếng Viêt mà Tìên sinh trích dẫn qua các thí dụ trong bài viết của Tiên sinh chỉ có trong ngôn ngữ tuyên truyền chánh trị của chế độ . Trong sách vở biên khảo văn học, cả trong các bài viết của Tiên sinh, cũng không thấy thứ «tiếng Việt » quá nặng mùi xì dầu đó nữa .
    Chúng ta cứ nhìn lại sách vở, báo chí trước 54 ở Miền Bắc cũng không có thứ tiếng Việt đó . Hiện tượng nô dịch này xuất hiện sau khi Hồ Chí Minh vâng lịnh Mao tiến hành cải cách ruộng đất, cố vấn Tàu ra lịnh tiêu diệt từng lớp trí thức yêu nước tiểu tư sản đi theo Cách mạng chỉ vì lòng yêu nước để chỉ còn lại lớp bần cố nông không biết chữ, dễ cho Tàu đào tạo trở thành cán bộ cách mạng nồng cốt .

    Dân miền nam sau 30/04/75 đều ngỡ ngàng trước những khẩu hiệu, tên cửa hàng, ngôn ngữ của cán bộ . Như «Công ty cung tiêu than củi», «xưởng đẻ» …Lúc này, đảng Lao động đang lên do lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến thần thánh nên từ ngữ «lao động» thay thế hầu hết những tiếng có nghĩa tương tự.
    Và cũng như vậy, tìếng «tốt» thay thế «giỏi», «hay», … Nhu cầu chánh trị đã làm nghèo đi tiếng việt .

    Nhân đây, tưởng cũng nên nhắc lại sách vở, báo chí Miền Nam trước 30/04/75 đều tiếp nối nhuần nhuyễn dòng ngôn ngữ và văn học từ lúc có chữ quốc ngữ, từng bước cải thiện cho nó trong sáng hơn, hoàn thiện hơn, không bị gián đoạn như ở Miền Bắc . Ngày nay, nhìn lại một ít sách vở ở Việt nam – báo còn dưới sự kiểm soát gắt gao của đảng cs – thấy có nhiều nét mới, văn chương, chữ nghĩa trong sáng hơn, nhẹ nhàng hơn những sản phẩm trước đây .
    • Phải chăng nhờ ảnh hưởng Miền Nam,
      tuy đó là điều chế độ không muốn . Nhưng là cái may của đất nước !
      Hảy nhìn qua kinh nghiệm thống nhứt của nước Đức để thấy ngày nay tại sao Đức chỉ giử lại 1 km bức tường làm kỷ niệm nên văn hóa xhcn một thời .


    Thưa Hà Tiên sinh,
    Cách giãi bày của Tiên sinh «Hán văn là một bộ phận cấu thành của tiếng Việt» dễ làm cho nhiều người đọc qua không kịp thấy «Hán văn là một bộ phận do ông cha ta tiếp thu» để làm phong phú tiếng Việt, nhưng rất bác học, rất chuẩn xác, chớ hoàn toàn không phải thứ tiếng việt đặc sệt xì dầu của chế độ cộng sản Hà Nội như Tiên sinh trích dẫn . Cái tai hại có thể có là lập luận của Tiên sinh sẽ làm cho một bộ phận lớn cán bộ cộng sản vỡ lẽ ra là tiếng tàu và tiếng Việt không thể tách rời thì mai này Việt Nam có sáp nhập vào Tàu là tất yếu lịch sử . Vì văn hóa ngôn ngữ đã vậy rồi .
    Tuy nhiên, Tiên sinh đã cảnh cáo ở kết luận:
    • «Nhưng nay, trong tình huống quan hệ Việt Trung đang gặp thử thách sống còn thì đặt vấn đề chữ Hán lúc này là không đúng lúc, phải đối phó với sự lợi dụng và sự nghi ngờ, nếu tiến hành càng phải thận trọng, từng bước thăm dò và cảnh giác.
      Cùng một việc nhưng hiệu quả sẽ tốt hay xấu phụ thuộc vào con người: ai chủ trương, bộ máy nào thực hiện, thực hiện với động cơ gì? Văn hóa không thể tách rời chính trị, và đấy mới là ẩn số lớn nhất, quyết định việc dạy chữ Nho rộng rãi cho học sinh nên bắt đầu lúc nào và tổ chức thực hiện ra sao » .

    Hà Tiên sinh ơi,
    • Tìên sinh đã hơn một lần can đảm «chia tay ý thức hệ»
      thì nay còn tiếc gì nữa mà không rũ bỏ luôn cái não trạng xã hội chủ nghĩa để dứt khoát hơn trong tư tưởng .


    Nguyễn thị Cỏ May



              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21158
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Nguyễn thị cỏ may

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           



    Sau đây là bài viết của Hà Sĩ Phu



    Hán văn là một bộ phận cấu thành của tiếng Việt
    ______________________________________
    Hà Sĩ Phu

    Đang lúc cần chống âm mưu Hán hóa của giặc bành trướng Đại Hán mà nói chuyện dạy chữ Hán cho học sinh phổ thông thì thật không phải lúc, vì tính “nhạy cảm” của thời sự. Tuy nhiên, xin hãy tạm chế ngự xúc cảm nhất thời (tuy rất đáng quý) để bàn một việc về lâu về dài, đáng lẽ phải đặt ra từ rất lâu rồi.

    Trong đề tài này hai phái tán thành và phản đối dường như đã bộc lộ khá đầy đủ những luận cứ chính của mình.

    Để góp thêm, mở đầu, tôi xin lấy vài ví dụ vui để thấy chữ Hán đã dính chặt vào dân tộc Việt Nam như thế nào, người mù chữ Nho tuyệt đối cũng đang dùng chữ Nho một cách tự nhiên, vô thức. Không phải là chuyện vay mượn vài chữ như vay mượn tiếng Anh, tiếng Pháp, mà người Việt dùng chữ Nho tự nhiên, tuôn chảy như viết, như nói tiếng mẹ đẻ của mình.

    - Có thể đâu đó đã xuất hiện những tấm biển quảng cáo thế này:

    “Kinh doanh quần áo các loại - hoa quả thời vụ - tạp hóa tổng hợp”.

    “Phục vụ học sinh: sách giáo khoa, bút mực, dụng cụ thủ công, truyện cổ tích thế giới”.

    Chẳng mấy ai bảo các tấm biển kia đã dùng chữ Hán. Nhưng xin thưa đó là ngôn ngữ Hán học hay Nho học trăm phần trăm, thuần Nho, không lẫn một chữ thuần Việt nào hết. Bạn có thể nghĩ “quần áo” hay “hoa quả” là tiếng thuần Việt chứ gì, không đâu, quần áo là hai chữ Nho 裙襖, đúng cả về phát âm và ngữ nghĩa. Quần 裙 là cái quần, áo 襖 là cái áo, cứ tra từ điển Hán Việt Đào Duy Anh thì biết. Hoa quả 花果 cũng vậy, vốn là chữ Nho. Cũng hai ký tự ấy nhưng người Tàu Bắc Kinh phát âm hơi khác, người Tàu Quảng Đông phát âm hơi khác mà thôi (nên mặc dù là tử ngữ nhưng bằng chữ Hán người Việt và người Tàu có thể bút đàm).

    - Không phải chỉ những câu ngắn mà có thể cả một buổi thuyết trình một ông cán bộ Việt mù chữ Nho có thể dùng toàn ngôn ngữ Hán, vốn chỉ là “tử ngữ” (mà không lẫn một chữ thuần Việt nào mới khiếp!), chẳng hạn ông ấy nói thao thao bất tuyệt như sau:

    “Các đồng chí cán bộ chính trị, cán bộ quân đội, sĩ quan công an cần đề cao tinh thần phục vụ nhân dân, kính trọng nhân dân, đề cao tinh thần trách nhiệm, phục tùng ý kiến đa số, bảo lưu ý kiến thiểu số, vận động các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, công đoàn tích cực đấu tranh, bài trừ nạn tham ô, hối lộ, trấn áp quần chúng. Đề cao tinh thần học tập quần chúng, đề cao tình hữu ái giai cấp, tận dụng thời gian học tập tu dưỡng bản thân, khẩn trương phát hiện các thủ đoạn thù địch tinh vi, hành động xâm phạm lợi ích cộng đồng, giả danh đảng hoặc nhân danh đảng kỳ thực phá hoại uy tín đảng, cảnh giác âm mưu ly gián, tạo cơ hội chiếm đoạt tài sản, tham quyền cố vị, mưu lợi bất chính. Tiếp xúc nhân dân cần quần áo chỉnh tề, thái độ nghiêm túc, tế nhị, phương pháp cần minh bạch, linh hoạt, chuẩn bị công phu, kết quả tất nhiên mỹ mãn. Các cấp tỉnh, cấp thành phố chấp hành nghị quyết tương đối khả quan, tiến bộ, Trung ương tuyên dương. Duy các huyện các xã đa phần lạc hậu, tình hình thực hiện tùy tiện, vi phạm các nguyên tắc căn bản, kết quả tất nhiên thất bại, nhất định tạm thời bị Trung ương khiển trách”.

    Có thể ghi lại toàn bộ đoạn diễn thuyết bằng chữ Nho, đọc lên nghe hệt như đọc bản quốc ngữ Latinh này, không sai một tiếng, nghĩa là nguyên văn chứ không phải bản dịch.

    Chẳng hạn câu đầu tiên “Các đồng chí cán bộ chính trị, cán bộ quân đội, sĩ quan công an cần đề cao tinh thần phục vụ nhân dân…” sẽ ghi ra giấy thành 各同志幹部政治, 幹部軍隊,士官公安勤提高精神服務人民, 敬重人民…, đọc lên cũng y như đọc bản quốc ngữ vậy, bảo rằng thuyết trình viên đã nói tiếng Việt hay đọc “Hán văn” đều đúng.

    - Trong những cuộc thảo luận của giới trí thức hiện nay, cả người thân Tàu hay ghét Tàu cũng có thể nói toàn chữ Hán:

    Ví dụ ông Cộng sản thân Trung Quốc thì giữ lập trường “Độc quyền lãnh đạo, kiên trì định hướng Xã hội chủ nghĩa” 獨 權領導,堅持定向社會主義. Toàn chữ Nho!

    Ông Dân chủ tiên tiến không biết mặt một chữ Nho nào cũng “Quyết tâm thực hiện Dân chủ đa nguyên Pháp trị” 决心實現民主多元法治. Cũng toàn chữ Nho!

    Ông thứ ba quyết chống Hán học thì hô lớn “Kiên quyết phản đối chủ trương phổ cập Hán tự trong giáo dục phổ thông, vì Hán tự có YẾU ĐIỂM là phức tạp, khó học, sử dụng cầu kỳ, không thể là CỨU CÁNH giúp nhân dân chấn hưng văn hóa, chấn hưng dân tộc”. Trong 46 chữ thì 38 chữ là chữ Nho (chỉ có 8 chữ tô đậm là chữ thuần Việt), nhưng vì ông này không học chữ Nho nên ở đây có hai từ Hán dùng bậy là YẾU ĐIỂM 要点và CỨU CÁNH 究竟, dùng sai hai từ này là điều đáng xấu hổ đối với không ít trí thức Việt Nam hiện nay.

    Trong những ví dụ nói trên, người Việt chúng ta cứ mở miệng ra là nói rất nhiều chữ Nho, thậm chí nói toàn chữ Nho, nhưng thuần thục và tự nhiên như tiếng mẹ đẻ, đến mức ta không nhận thấy. Ngay cà tên, họ, bút danh của một người chống Hán học thì cũng đều từ chữ Hán mà ra. Vậy ngôn ngữ Hán học đâu phải ngoại nhập, hoặc nếu ngoại nhập thì nhập ngay từ thuở hồng hoang, từ lúc bắt đầu biết mặc quần áo 裙襖, gọi cái này là “quần” cái kia là “áo”, biết thế nào là quả 果 là hoa 花… thì yếu tố bên ngoài đã thành bên trong rồi. Nói khác đi, tiếng Việt được cấu thành bởi hai bộ phận: tiếng thuần Việt và tiếng Hán Việt. Bộ phận Hán Việt tuy có ưu thế diễn tả các khái niệm của ý thức, xã hội, khoa học, tư duy… và có văn tự (chữ viết) để ghi chép, nhưng không át được sức sống tuy còn thô sơ nhưng tự nhiên và mãnh liệt của bộ phận thuần Việt vốn phong phú về ngôn ngữ biểu cảm, về các mối quan hệ và sự cố kết gia đình - làng xóm, đặc biệt ở trúc câu (tính từ phải đi sau danh từ) và giàu các từ liên kết, từ chuyển tiếp trong câu. Hán ngữ tuy giàu danh từ nhưng được sử dụng, được đồng hóa nhuần nhuyễn trong một cú pháp thuần Việt.

    Về mặt văn tự, chữ Nho không chỉ là ký tự mang giá trị ký hiệu mà còn mang trong nó cái hồn của nội dung khái niệm. Khi chữ Hán không đủ để ký hiệu những âm thuần Việt tổ tiên ta phải sinh ra chữ Nôm, là sáng kiến lắp ghép dựa trên các chữ Hán có sẵn để bổ sung.

    Đến khi có ký tự Latinh để ghi chép thì sách vở tiếng Việt bước sang một thời kỳ phát triển thuận lợi. Với ký tự Latinh tiếng Việt nào cũng diễn tả được bằng ký hiệu, không cần dùng chữ Nôm nữa. Nhưng Latinh chỉ là ký hiệu đơn thuần, vô hồn. Phải là chữ Hán mới mang được cái hồn của chữ, tức cái khái niệm được hình tượng hóa, nhìn chữ đã toát lên nội dung chính của khái niệm, điều này GS Nguyễn Huệ Chi đã mô tả khá chi tiết. Vì thế, dù đã có chữ Quốc ngữ Latinh, người Việt vẫn cần có kiến thức tối thiểu về Quốc ngữ Hán tự, không phải để viết chữ Hán, không phải chỉ để đọc và hiểu một tư liệu cổ (việc này có thể ỷ lại vào các chuyên gia Hán Nôm), mà chủ yếu để hiểu và sử dụng tốt chính cái ngôn ngữ mà mình đang nói và đang viết hôm nay: tiếng Việt!

    Hán văn là một trong hai nguồn gốc tạo ra tiếng Việt, nó không phải ngoại ngữ như Trung văn, Pháp văn, Anh văn, Nga văn… Hán văn không phải của Tàu mà vốn của Việt Nam hoặc đã Việt hóa thành của Việt Nam. Hiểu biết Hán văn không chỉ nhằm hiểu quá khứ mà chủ yếu phục vụ hiện tại.

    Và điều này mới quan trọng: Hán văn không phải công cụ để nô lệ Tàu mà là công cụ chống Tàu xâm lược.

    Tuy còn có những ý kiến khác nhau về xuất xứ của nền “Hán học” và từ đó có những cách gọi tên khác nhau, chữ Hán, chữ Nho, chữ Hán-Việt, chữ Việt cổ… nhưng dù thế nào thì loại chữ viết này cũng xuất hiện ở nước ta rất sớm, có thể từ thuở sơ khai, nên đã cùng dân tộc ta suy tư, biểu cảm, phát hiện, lưu trũ, chia vui sẻ buồn , cùng dân tộc Việt Nam trải qua mỗi bước thăng trầm, tạo ra một tầng lớp sĩ phu có học, và xây dựng nên con người Việt Nam, tạo dựng nhân cách…, trong đó tuy có ưu có khuyết nhưng góp phần quan trọng trong việc hình thành một Dân tộc Việt Nam, một Văn hóa Việt Nam. Qua Hán văn ảnh hưởng của Trung hoa tuy rất mạnh, nhưng những yếu tố Trung Hoa vào Việt Nam đều bị Việt Nam hóa để phục vụ cho cuộc sinh tồn của nòi giống Việt.

    Sự gạn lọc của học giả Phan Châu Trinh đối với Nho học, bỏ thô lấy tinh, chọn lấy cái phù hợp và đồng hóa nó là một ví dụ điển hình. Tác giả Trần Gia Ninh có nhận xét đúng “Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm”.

    Chữ Hán vào Việt Nam được dùng theo cú pháp Việt Nam, yếu tố coi rẻ nữ giới (nữ nhân nan hóa, thập nữ viết vô) hầu như không còn, yếu tố bạo lực, báo thù phải nhường chỗ cho nhân ái, bầu bí tương thân của dân tộc Việt. Suy luận rằng một nền văn hóa “quân-sư-phụ” đã cúi đầu “trung với vua” thì cũng cúi đầu trước giặc Hán ngoại xâm là một suy luận nhầm. Trung quân phải đi đôi với ái quốc và tư cách trượng phu “uy vũ bất năng khuất” nên chính Nho học đã tạo nên những nhân cách Giang Văn Minh, Mạc Đĩnh Chi, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung…, những anh hùng chống Tàu xâm lược, trong khi những kẻ một chữ Nho bẻ đôi không biết thời nay có thể lại chui dưới háng Tàu!

    Việt Nam với Trung Quốc có quan hệ đồng văn - đồng chủng, liên quan với nhau về nhiều mặt, điều ấy không cần tránh né, vì điều đó không phải là cớ khiến Việt Nam phải lệ thuộc Tàu. Nguồn gốc, tầm văn minh và tính độc lập của quốc gia là ba yếu tố hoàn toàn độc lập với nhau. Không phải loài người khởi xuất từ châu Phi thì châu Phi là gốc văn minh, và khi hình thành quốc gia thì các quốc gia lớn bé đều độc lập như nhau, không thể phân biệt “quốc gia mẹ” hay “quốc gia con” để đòi con phải về với mẹ!

    Nước lớn hoặc giàu mạnh hơn thường dễ có ý đồ lấn át hoặc xâm lược nước nhỏ yếu hơn. Điều này rất cần cảnh giác và chống lại. Tuy vậy cần thấy mâu thuẫn giữa ý đồ chủ quan và hiệu quả khách quan, có thể hoàn toàn trái ngược.

    Ví dụ: Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam để khai thác lợi ích là ý đồ xấu, nhưng hiệu quả khách quan là nâng dần trình độ của Việt Nam, đến một lúc chế độ thuộc địa sẽ phải chấm dứt. Ngược lại, chủ nghĩa Mác muốn làm điều tốt nhưng ảo tưởng, phi khoa học và độc đoán nên gây hiệu quả xấu, nên chế độ cộng sản kết cục cũng phải chấm dứt. Chủ nghĩa Đại Hán có ý đồ xấu nhưng sẽ gây hiệu quả xấu hay tốt cho Việt Nam thì chưa biết được, còn phụ thuộc vào sức sống của dân tộc Việt Nam, có khi yếu tố xấu lại gây hiệu quả tốt, kích thích Việt Nam vững mạnh thêm lên. Cho nên không phải thấy họ có ý đồ xấu là ta phải sợ đến mức phát hoảng mà rũ bỏ bất cứ thứ gì liên quan đến Tàu, kể cả những thứ đã được Việt hóa và trở thành sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

    Kết luận:

    - Với Việt Nam, Hán văn là một trong hai bộ phận cấu tạo nên tiếng Việt, nên dạy Hán văn cũng là dạy một phần của tiếng Việt chứ không phải dạy một ngoại ngữ như Trung văn, Anh văn, Pháp văn… Để có cốt cách Việt cần trau dồi Việt văn, Hán văn, đồng thời để hòa nhập tốt với thế giới thì cần giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp…

    - Để có kiến thức Hán văn thì các loại từ điển là cần thiết, nhưng từ điển không thay được giáo dục để trang bị một cái nền căn bản cần thiết tối thiểu. Không thể đem tâm lý nhất thời học sinh thích hay không thích để xác quyết nhu cầu một môn học.

    - Việc này đáng lẽ phải đặt ra từ lâu và phải chuẩn bị mọi mặt cần thiết rồi, nhất là chuẩn bị đội ngũ giáo viên Hán văn, và phải tiến hành từng bước, từ diện nhỏ rồi mở rộng dần ra thành phổ cập.

    - Nhưng nay, trong tình huống quan hệ Việt Trung đang gặp thử thách sống còn thì đặt vấn đề chữ Hán lúc này là không đúng lúc, phải đối phó với sự lợi dụng và sự nghi ngờ, nếu tiến hành càng phải thận trọng, từng bước thăm dò và cảnh giác.

    - Cùng một việc nhưng hiệu quả sẽ tốt hay xấu phụ thuộc vào con người: ai chủ trương, bộ máy nào thực hiện, thực hiện với động cơ gì? Văn hóa không thể tách rời chính trị, và đấy mới là ẩn số lớn nhất, quyết định việc dạy chữ Nho rộng rãi cho học sinh nên bắt đầu lúc nào và tổ chức thực hiện ra sao.

    H.S.P. (10-9-2016)




              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21158
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Nguyễn thị cỏ may

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Hà Sĩ Phu là ai ?
    Học lực như thế nào ?




    theo Wiki
    Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, tên thật là Nguyễn Xuân Tụ, sinh ngày 22 tháng 4 năm 1940 tại Thuận Thành, Bắc Ninh là một nhà khoa học tự nhiên và là nhà văn. Ông là người bất đồng chính kiến với chính phủ Việt Nam, là một trong bốn thành viên ban đầu của Nhóm Thân hữu Đà Lạt.

    Tiểu sử

    Sau khi lấy tú tài vào năm 1958, ông làm giáo viên phổ thông rồi tiếp tục học đại học. Tốt nghiệp đại học ngành Sinh Học năm 1965 rồi làm giảng viên Đại học Dược Khoa Hà Nội và nghiên cứu ở Viện Dược Liệu Hà Nội. Năm 1979 ông sang Tiệp khắc học, bảo vệ bằng phó tiến sĩ tại Praha, năm 1982 về ngành Sinh Học Tế Bào. Sau đó ông về nước giữ chức vụ Viện Phó Phân Viện Đà Lạt của Viện Khoa Học Việt Nam, về hưu năm 1993[1]. Ông tham gia Hội Văn Nghệ Lâm Đồng Đà lạt năm 1987, là cộng tác viên của tạp chí Langbian từ năm 1988. Hà Sĩ Phu là ủy viên của Ban Cố vấn Hội Ái hữu tù nhân chính trị và Tôn giáo Việt Nam[2].
    Ông bắt đầu nổi tiếng với các tác phẩm "Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ" (1988), "Ðôi điều suy nghĩ của một công dân" (1993), "Chia tay ý thức hệ" (1995). Ông bị bắt giữ trong chuyến ra Hà Nội vào ngày 5 tháng 12 năm 1995 sau khi bài viết "Chia tay ý thức hệ" được công bố trong và ngoài nước[3]. Ngày 6 tháng 12 tư gia của ông bị công an tỉnh Lâm Đồng lục soát, nhiều tư liệu bị tịch thu. Sau gần một năm bị bắt giữ ngày 22 tháng 8 năm 1996 ông bị tuyên án một năm tù ở vì tội "có hành vi tiết lộ bí mật nhà nước". Cùng bị xử trong phiên tòa này là hai ông Lê Hồng Hà[4] và Nguyễn Kiến Giang[5].
    Năm 1998 ông (và Hoàng Tiến, nhà văn Lữ Phương, Phạm Thái Thụy, Nguyễn Ngọc Tần, Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ) được tổ chức Human Rights Watch trao tặng Giải Hellmann/Hammett[6]. Ngày 28 tháng 4 năm 2000 do viết thư trao đổi với 2 ông Nguyễn Gia Kiểng và Đỗ Mạnh Tri công an đã khám xét nhà riêng của ông, tịch thu máy tính cá nhân và nhiều tài liệu. Ngày 12 tháng 5 năm 2000 ông nhận 2 văn bản của công an, quy định không được phép rời nơi cư trú và buộc ông tội "phản bội tổ quốc" chiếu theo điều 72 Bộ Luật Hình Sự Việt Nam[7]. Cùng bị khởi tố với ông là ông Mai Thái Lĩnh - một nhà giáo, nguyên Phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt.[8]
    Đầu năm 2001, mặc dù vụ án "phản bội Tổ quốc" bị hủy bỏ vì không đủ căn cứ để buộc tội, ông bị quản chế hai năm dựa theo Nghị Định 31/CP (một hình thức buộc tội không xét xử). Từ khi hết hạn quản chế (tháng 2 năm 2003) đến nay, thỉnh thoảng ông vẫn bị sách nhiễu bằng cách này hay cách khác, Năm 2012, không được cấp hộ chiếu vì lý do thuộc diện "không được phép xuất cảnh". Mới nhất là vào ngày 20-3-2014, ông bị cơ quan An ninh điều tra tỉnh Lâm Đồng mời lên "làm việc". Phản ứng lại hành động sách nhiễu này, ông công bố một lá thư "khước từ làm việc".[9]



              
Trả lời

Quay về “Nguyễn thị Cỏ May”