Tưởng niệm 50 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5507
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

50 NĂM TÌNH VẪN KHÔNG PHAI Sáng Tác NGUYỆT ÁNH

Bài viết bởi Bạch Vân »

          




50 NĂM TÌNH VẪN KHÔNG PHAI
_
Sáng Tác NGUYỆT ÁNH





Tuấn Minh trình bày


Karaoke







          
Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hoà Hải Ngoại
- Republic Of VietNam Next Generations





·
“50 Năm Tình Vẫn Không Phai“
________________________________

          

Để tưởng nhớ những hy sinh, để tri ân những người đã ngã xuống, và để khẳng định tinh thần bất khuất của dân tộc, nhạc sĩ Nguyệt Ánh sẽ trình bày ca khúc 50 Năm Tình Vẫn Không Phai trong Đại Lễ Tưởng Niệm 50 Năm Quốc Hận năm nay tại Washington, DC. 50 Năm Tình Vẫn Không Phai cũng là tựa đề của chương trình văn nghệ đấu tranh được tổ chức vào tối thứ Sáu sau đó ngày 2 tháng 5 năm 2025.

50 năm qua đi, vẫn còn những nỗi đau âm thầm, những tiếng kêu không lời giữa muôn vàn bất công. Biết bao người đã mất, biết bao người đã ra đi không ngày trở lại, nhưng tình yêu dành cho quê hương vẫn chưa một lần phai nhạt. Ở nơi quê hương xa xôi đó ĐCS tiếp tục đàn áp, tước đoạt quyền tự do của người dân, bóp nghẹt những khát vọng chính đáng của một dân tộc đã chịu quá nhiều mất mát.

50 Năm Tình Vẫn Không Phai không chỉ là cung điệu hoài niệm, mà còn là một lời nhắc nhở. Tình yêu quê hương không chỉ nằm trong ký ức, mà còn sống động trong từng hơi thở, từng giấc mơ. Dù trải qua bao sóng gió, dù tóc đã bạc màu, dù dáng xưa đã nhạt nhòa theo năm tháng, nhưng tình yêu ấy vẫn nguyên vẹn, không bao giờ phai. Đó là tình yêu của những con tim chưa bao giờ thôi khát khao một ngày quê hương thanh bình thật sự, nơi mọi người có thể trở về, nơi không còn chia cách, không còn bi thương, nơi tự do mãi mãi là chân lý bất diệt.

50 Năm Tình Vẫn Không Phai còn là một chứng nhân lịch sử, ghi dấu những năm tháng đau thương nhưng cũng đầy tự hào của dân tộc Việt Nam. Đó là tiếng nói của những con người xa xứ, của những chiến sĩ không tên, của những người luôn mang trong tim tình yêu quê hương cháy bỏng – một tình yêu không bao giờ phai nhạt.

Trong không gian trang nghiêm của Đại Lễ Tưởng Niệm, 50 Năm Tình Vẫn Không Phai cũng là một lời tuyên thệ – rằng dù có trải qua bao thăng trầm, dù có xa quê hương bao lâu, chúng ta vẫn luôn giữ vững lý tưởng, lòng thủy chung với Tổ Quốc, và quyết tâm đấu tranh cho một nước Việt Nam không còn độc tài, không còn cộng sản áp bức.

Hãy cùng tưởng nhớ, cùng hòa chung tiếng hát để vinh danh những người đã hy sinh, tri ân những người đã đấu tranh và tiếp nối ngọn lửa của chính nghĩa. Hãy cùng nhau dệt những ước mơ cho một đất nước cách xa muôn trùng. Những mơ ước đó, dẫu chưa thành hiện thực, nhưng vẫn khắc trong tâm khảm của những người con dân yêu nước. Bởi vì không ai đong tình yêu bằng sự thành bại, mà bằng tấm lòng thủy chung bất thoái.

Quê hương vẫn mãi trong tim – 50 năm rồi, tình vẫn không phai!

Hẹn nhau ở DC.


          

          


https://www.facebook.com/hauduevnch/pos ... fiArsignl?
          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21156
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Giới công nhân và người lao động Việt Nam qua 50 năm dưới sự cai trị của đảng cộng sản

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    Giới công nhân
    và người lao động Việt Nam
              
    qua 50 năm dưới sự cai trị
    của đảng cộng sản

    ___________________________
    Trần Ngọc Thành -27/04/2025





              

    Dân oan biểu tình đòi công lý.

              



    Vài lời dẫn nhập

    Những ngày này, trên phạm vi cả nước, đảng cộng sản việt nam đang tổ chức rầm rộ kỷ niệm 50 năm ngày “giải phóng” Miền Nam, thống nhất đất nước

    Thực chất, đây là cuộc nội chiến tương tàn giữa hai anh em Bắc- Nam cùng một Nước vì ý thức hệ cộng sản và dân chủ.

    Lẽ ra, sau khi đã “thống nhất”, “bên thắng cuộc” phải chủ động trong việc “hòa giải, hòa hợp” dân tộc để tái thiết và phát triẻn Đất Nước. Nhưng, 50 năm qua, hận thù vẫn luôn được nhà cầm quyền cộng sản nuôi dưỡng và khích lệ dưới mọi hình thức.

    Trong cuộc nội chiến tương tàn 50 năm trước, giới công nhân và người lao động tại miền Bắc là lực lương tiên phong mà đảng cộng sản tận dụng để chiến đấu chống lại Việt Nam Cộng Hòa và giữ vững “hậu phương” miền Bắc.

    Thế nhưng, sau 50 năm “thống nhất, giới công nhân và người lao động Việt Nam vẫn tiêp tục là đối tượng bị bóc lột và đối xử tàn tệ.

    Cũng những ngày này, hàng chục ngàn thanh niên trai tráng ớ nhiều tỉnh trong cả nước, thay vì “ hồ hởi, hân hoan đón mừng” ngày “giải phóng” lại chen chúc nhau tại các trung tâm tuyển dụng đi lao động xuất khẩu đến Hàn quốc, Nhật bản; hàng ngàn thanh niên vẫn tìm mọi cách sang các nước Âu châu để đổi đời.

    Xin được điểm lại những nét chính về những gì giới công nhân và người lao động được “thừa hưởng “ trong 50 năm qua.




    Giới công nhân và người lao động Việt Nam qua 50 năm dưới sự cai trị của đảng cộng sản và sự phản kháng của người dân đối với chính sách của nhà cầm quyền

    Việt Nam là một nhà nước độc tài cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam, nắm giữ quyền lực trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội tại Miền Bắc Việt Nam từ năm 1945 và trên cả nước Việt Nam từ năm 1975 đến nay, sau khi dung vũ lực cưỡng chiếm Việt nam Cộng Hòa.

    Tất cả các tổ chức xã hội đều do đảng cộng sản lập ra và lãnh đạo, nằm trong “ Mặt Trận tổ quốc Việt nam” do một Ủy Viên Bộ chính trị đảng cộng sản đứng đầu.

    50 năm qua, giới công nhân và người lao động Việt nam chỉ là phương tiễn, là nguồn lực để đảng cộng sản cướp chính quyền và duy trì quyền lực.

    Giới công nhân và người lao động cũng là đối tượng để đảng cộng sản bóc lột và trấn áp. Giới công nhân và người lao động không có bất cứ quyền gì, cuộc sống và sinh hoạt đều nằm trong sự kiềm tỏa gắt gao của nhà cầm quyền cộng sản.

    Cuộc sống của giới công nhân và người lao động Việt nam trong 50 năm qua có thể chia thành hai gia đoạn:

    • Giai đoạn 1: từ năm 1975 đến năm 1990, khi còn tồn tại khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô.
    • Giai đoạn 2: từ năm 1990, khi khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ đến nay.





    Giai đoạn 1.

    Sau khi cưỡng chiếm Việt nam Cộng Hòa, nhà cầm quyền cộng sản Bắc Việt đã dùng chính sách sai lầm và tàn bạo đối với người dân Miền nam, đã biến họ thành công dân hạng 3 trong xã hội.

              

    Hình ảnh đưa dân đi “Vùng kinh tế mới.

              

    Chính quyền cộng sản Việt Nam đã áp đặt thể chế cộng sản nguyên thủy với thể chế độc đảng, toàn trị, và nền kinh tế trung ương hoạch định trên toàn đất nước. Về tổ chức, để xây dựng thể chế, nhà cầm quyền tịch thu nhà cửa, đất đai, đánh tư sản, cưỡng bức người dân dân đi kinh tế mới, quốc hữu hóa, v.v…. Kết quả là đã đưa nền kinh tế Miền Nam từ chỗ phát triển vượt trội so với các nước trong khối đông nam Á trở nên nghèo đói như Miền Bắc (Tham khảo thêm:1, 2).

              

    Đỗ Mười, người chỉ đạo thực hiện “chiến dịch” đánh tư sản Miền Nam

              

    Về quản lý kinh tế, nhà cầm quyền áp dụng phương thức quản lý và phát triển kinh tế Miền Nam giống như Miền Bắc: vào hợp tác xã, chế độ tem phiểu, quản lý chặt chẽ mọi mặt hàng thiết yếu.

              

    Cảnh mua hàng tại Hà Nội những năm 1980.

              

    Từ một vựa lúa ở Đông Nam Á, phần lớn người dân 2 miền được phân phối sắn, khoai và hạt bo bo như là thực phẩm chính, là thứ các nước cộng sản Đông Âu và Liên xô dùng để nuôi súc vật. Chế độ tem phiếu được áp dụng (Tham khảo thêm: 7, 8,9)

              

    Phiếu thực phẩm.

              

    Công nhân, viên chức nhà nước mỗi năm được phát 4 mét phiếu vải, phiếu 13 cân lương thực, phiếu 500 gam thịt để mua, còn người nông dân phải tự túc không có bất kỳ quyền lợi nào.

              

    Phiếu mua vải.

              

    Thời gian này, nhà nước Việt nam tồn tại chủ yếu nhờ vào sự viện trợ tất cả các mặt của khối cộng sản Đông Âu, Liên xô và Trung quốc. Nền công nghiệp Miền nam bị tàn phá, nền công nghiệp Miền Bắc cũng rất lạc hậu.

    Công nhân là một lực lượng nhỏ bé, chủ yếu gia công và sửa chữa trong các xí nghiệp do nhà nước quản lý, sản xuất theo các chỉ tiêu đã được vạch sẵn không cần chú ý đến chất lượng và hiệu quả kinh tế, mức lương gần như cố định trong nhiều năm (Tham khảo: 7, 8,9)

              

    Hình ảnh công nhân Miền Bắc VN những năm 1980.

              

    Số lượng công nhân và nhân viên nhà nước xấp xỉ 3 triệu người làm việc ở các mỏ than, nhà máy dệt, các cảng biển, nhà máy sửa chữa xe lửa. Chính sách kế hoạch hóa quan liêu bao cấp theo chủ thuyết cộng sản đã làm cho nền kinh tế và xã hội kiệt quệ. Năng suất lao động không có, toàn xã hội sống trong cảnh nghèo đói, thiếu thốn từ cái kim, sợi chỉ.

    Nhưng, giới cầm quyền và gia đình họ có chế độ đặc biệt. Có những nông trường như nông trường Ba Vì chuyên chăn nuôi gia súc cung cấp thịt hay có những cánh đồng ở Thái Bình chuyên trồng lúa đặc sản cung cấp cho giới cầm quyền. Ngoài giới cao cấp được hưởng thụ theo nhu cầu, tem phiếu cũng được phân loại ABCDE cho các loại cán bộ từ trên xuống. Phiếu E là loại thấp nhất dành cho tầng lớp công nhân và nhân viên nhà nước.

    Vì nền kinh tế lạc hậu, các cơ sở công nghiệp tồi tàn làm ăn không bao giờ có lãi, nhà nước luôn phải xin tiền viện trợ từ các nước cộng sản để bù vào ngân sách. Hàng năm, phó thủ tướng Lê Thanh Nghị luôn dẫ đầu đoàn đại biểu đảng và chính phủ đi xin viện trợ từ các nước Xã Hội Chủ nghĩa “anh em”.

    Với chính sách duy ý chí và “thói kiêu ngạo cộng sản”, nhà cầm quyền cho rằng họ đã đánh thắng Mỹ thì có thể làm được mọi thứ nên những ai góp ý, đưa ra sáng kiến để cải thiện, phát triển kinh tế đều bị cho là theo tư bản, là chống đảng, bị quy kết là phản động, bị bỏ tù.

    Ba lần đổi tiền là những hình thức cướp đoạt tài sản người dân. Chính sách Giá-Lương- Tiền do Phó thủ tướng- Nhà thơ Tố Hữu chỉ đạo đã đẩy cuộc sống của người dân cả nước xuống vực thẳm.

    Tuy bị hệ thống đảng trị, công an trị theo dõi và kiểm soat gắt gao, nhưng do cuộc sống quá khốn khổ, trong xã hội xuất hiện nhiều “tiếu lâm” chính trị và các bài vè phê phán và nhạo báng chế độ (…)

    Vì lực lượng lao động dư thừa quá lớn, nên sản suất từ công nghiệp đến nông nghiệp đều thua lỗ. Từ năm 1980 nhà cầm quyền Việt nam bắt đầu xuất khẩu lao động đến các nước cộng sản Đông Âu và Liên Xô để lấy tiền duy trì chế độ; chủ yếu là các nước Đông Đức, Tiệp khắc, Bungary và Liên Xô. Ngoài ra, nhà cầm quyền còn xuất khẩu lao động đến các nước hồi giáo như Irak, Iran, Afganistan. Bình quân mỗi năm xuất khẩu 25.000 lao động.

    Đối tượng xuất khẩu cũng chỉ là con em của các cán bộ, đảng viên cộng sản, những người có công với chế độ. Tuy đồng lương ở các nước cộng sản lúc đó rất thấp so với các nước phương tây, nhưng so với mức lương ở Việt Nam thì giá trị nhiều hơn cả chục lần. Được đi xuất khẩu lao động là mơ ước của những thanh niên trẻ thời đó. Giới trí thức có trình độ trong nước cũng thất nghiệp nên nhà cầm quyền đã xuất khẩu họ qua các nước châu Phi như Angola, Angiery,…làm việc trong các bệnh viện, trường học để thu ngoại tệ. Từ năm 1980 đến năm 1990, nhà cầm quyền cộng sản xuất khẩu khoảng 300.000 lao động (Tham khảo thêm: 10,11,12).

    Thời gian này, tại Việt Nam cũng cho tồn tại cại gọi là “Tổng Công đoàn Việt Nam” nằm trong hệ thống các tổ chức chính trị do đảng cộng sản lãnh đạo. Chủ tịch “Tổng Công đoàn Việt Nam” qua các thời kỳ là Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Văn Linh, Phạm Thế Duyệt đều là các Ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản. Các nhà máy, công xướng ở Miền Bắc đều do nhà nước quản lý, không có cơ sở sản xuất tư nhân. Ở Miền nam, sau 1975, nhà cầm quyền đã “quốc hữu hóa” các cơ sở công nghiệp hoặc “công tư hợp doanh” nhưng từng bước, tước đoạt tư doanh để độc quyền quản lý.

    Hoạt động của “công đoàn” chỉ là phổ biến các chủ trương của đảng cộng sản và giám sát việc thực hiện, phân phát tem phiếu, tổ chức bình bầu các “danh hiệu thi đua” theo chỉ thị của đảng cộng sản.

    Công nhân và nhân viên nhà nước phải đóng “công đoàn phi” hàng tháng bằng cách trừ vào lương.




    Giai đoạn từ năm 1990 đến nay

    Khối cộng sản Đông Âu và Liên xô sụp đổ, nhà nước cộng sản Việt Nam không còn nguồn viện trợ nào, tình hình kinh tế và xã hội ở mức tồi tệ nhất.

    Để cứu nguy chế độ, chính quyền cộng sản bắt buộc phải chuyển hướng phát triển kinh tế bao cấp sang “kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa” để tạo điều kiện thuận lợi cho tư bản nước ngoài đầu tư ồ ạt vào VN.

    Cũng từ đây, giai cấp công nhân Việt nam phát triển không ngừng. Từ một nước nông nghiệp với một nền công nghiệp không đáng kể, Việt nam trở thành một công xưởng rộng lớn, chủ yếu chỉ là gia công các hàng công nghiệp nhẹ cho tư bản nước ngoài như hàng may mặc, giày da và các mặt hàng điện tử, đội ngũ công nhân ngày càng tăng, thời gian đầu phần lớn tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, Sài gòn, Bình Dương, Đà Nẵng, Hải phòng. Về sau, phát triển rộng rãi ở các tỉnh khác ở khu vực miền Bắc và miền Trung.

    Trải qua một thời gian dài từ năm 1975, do chính sách quản lý sai lầm, phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, nền kinh tế kiệt quệ. Khi kêu gọi các công ty tư bản nước ngoài vào đầu tư, không còn gì để “góp vốn”. Tháng 7 năm 1993, nhà cầm quyền ra luật đất đai số 24- L/CTN quy định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý”, người dân chỉ có quyền sử dụng (Tham khảo thêm: 13,14).



    Từ đây, nhà cầm quyền bắt đầu tiến hành hàng loạt vụ cướp đất hợp pháp của người dân từ Bắc chí Nam như một hình thức “góp vốn” hạ tầng với giới chủ tư bản, gây ra hàng ngàn vụ oan sai đẩy người dân vào cảnh bần cùng, điển hình là các vụ cướp đất ở Dương Nội, Thủ Thiêm, Đồng Tâm… Hàng ngàn cuộc biểu tình, khiếu kiện, nhà cầm quyền đã cho công an thẳng tay đàn áp, bắn giết.

    Những người dân ở nông thôn đời sống rất khó khăn, người đông ruộng ít, lại ngày càng bị thu hẹp do nhà nước cướp đất làm khu công nghiệp, làm khu vui chơi giải trí, buộc họ phải ra thành phố gia nhập đội ngũ công nhân.

    Đa số công nhân có tay nghề thấp, vì xuất thân từ nông dân, được đào tạo trong thời gian ngắn chỉ đáp ứng trình độ gia công hay lắp ráp các linh kiện được sản xuất tại nước ngoài.

    Việt Nam trở thành khu vực gia công lý tưởng cho các chủ tư bản nước ngoài vì giá lao động hết sức rẻ mạt cho lao động giản đơn.

    Là một nhà nước độc tài, giữ quyền cai trị bằng mọi giá, quyền lực tập trung trong tay rất ít người, người lao động VN, môi trường và tài nguyên thiên nhiên VN chỉ là phương tiện, là công cụ để những kẻ cầm quyền, là đảng viên, làm giàu. Người công nhân VN tuy là lực lượng chính sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội nhưng lại là những người bị bóc lột nặng nề nhất. Họ phải làm việc cật lực từ 10 đến 15 tiếng một ngày trong môi trường bị ô nhiễm, nhưng chỉ được trả lương bình quân từ 60 Mỹ kim/tháng (Những năm 1990), phải sống trong những khu nhà trọ ổ chuột, bẩn thỉu. Ngoài ra, chủ còn tìm mọi cách để cúp lương, không đóng bảo hiểm xã hội cho công nhân, phạt công nhân, thậm chí còn đánh đập, chửi rủa, làm nhục.

              

    Nhà trọ của công nhân.

              

    Tổng Công đoàn Viêt Nam được đổi tên thành Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (TLĐLĐVN) cũng chỉ là công cụ của đảng cộng sản, mục đích không thay đổi là kiềm tỏa và giám sát công nhân và người lao động. Chủ tịch Tổng liên đoàn là ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản, lãnh đạo công đoàn các cấp cũng đều là đảng viên.

    Phần lớn cán bộ công đoàn cơ sở thuộc lĩnh vực tư nhân do giới chủ trả lương, nên khi có tranh chấp quyền lợi thì thường đứng về phía chủ nhân, bảo vệ quyền lợi của giới chủ. Nhà cầm quyền VN đã tạo điều kiện cho giới chủ bóc lột công nhân, chia chác lợi nhuận với giới chủ.

    Những năm đầu, người công nhân chưa ý thức được quyền lợi của mình nên cam chịu,nhẫn nhục, không dám đấu tranh, giới chủ càng lợi dụng càng bóc lột nặng nề. Mâu thuẩn xẩy ra giữa công nhân với giới chủ không được giải quyết, giới chủ lại cậy thế có chỗ dựa là chính quyền nên công nhân bị đẩy vào bước đường cùng, không còn lựa chon nào khác là phải tổ chức đình công.

              

    Công nhân công ty PouYuen đình công đòi quyền lợi.

              

    Do đó, không có cuộc đình công nào trong gần 7.000 cuộc đình công, từ khi bộ luật lao động của VN có hiệu lực cho đến cuối tháng 12 năm 2020 trên toàn lãnh thổ được xem là hợp pháp theo rừng luật lao động VN.

    Khi các cuộc đình công đã lan rộng trong cả nước, những người quan tâm đến tình trạng

    bóc lột tồi tệ của giớí chủ bắt đầu vận động để thành lập “Công đoàn độc lập”. Ngày 20 tháng 10 năm 2006, tại Việt Nam tuyên bố thành lập “Công Đoàn Độc Lập Việt Nam” (CĐĐLVN) để bênh vực và bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. CĐĐLVN đã làm các thủ tục đăng ký pháp lý với nhà nước Việt Nam.

    Sự ra đời của CĐĐLVN đã được công nhân hoan nghênh và hưởng ứng mạnh mẽ.

    Đúng một tuần sau, từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 10 năm 2006, một cuộc hội nghi quốc tế gồm trên 70 đại biểu từ nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Canada, Úc châu, Pháp, Anh, Đức, Bỉ, Tiệp, Hà lan, Nga tại Warszawa, thủ đô nước Cộng Hòa Balan. Hội nghị mang tên “ Cơm Áo và Quyền lao động” được sự giúp đỡ của “Công Đoàn Đoàn Kết”, Ba lan, “Hiệp Hội Tự Do Ngôn Luận Ba lan”. Hội Nghị nhằm mục đích ủng hộ về mọi mặt cho “ Công đoàn Độc lập Việt Nam”.

    Các đại biểu hội nghị được các bộ trưởng, chánh văn phòng Tổng Thống Balan, văn phòng Thủ tướng chào đón. Các đại biểu cũng đến chào Chủ tịch Công đoàn đoàn kết, thăm viện bảo tàng “ Công đoàn đoàn kết tại Gdansk”.

              

    Các đại biểu tham dự Hội nghị Warszawa 10.2006 Thăm trụ sở Công Đoàn Đoàn kết tại Gdansk.

              

    Cùng tham dự hội nghị với đại biểu Việt Nam gồm Phó chủ tịch Công Đoàn Đoàn Kết Balan Tomasz Wojcik, Chủ tịch Hiệp Hội tự do ngôn luận Balan Miroslaw Chojecki. Và một số thành viên Công Đoàn Đoàn kết Ba lan (Tham khảo thêm: 15, 16).

              
              

    Các đại biểu tham dự Hội nghị tại sảnh đường Quốc hội CH Balan, 10. 2006.


              

    Hội nghi đã thành lập Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam (UBBV). Từ thời điểm đó, UBBV và CDĐL đã sát cánh cùng nhau trong việc tranh đấu cho quyền lợi của công nhân và người lao động Việt Nam (Tham khảo thêm: 17,18).

    Năm 2007, Việt nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, nhưng WTO đã phớt lờ các tiêu chuẩn về Lao động cho nhà nước CS Việt Nam, nên hàng hóa được sản xuất tại Việt Nam rẻ hơn rất nhiều so với các nơi khác, vì yếu tố bóc lột sức lao động chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị hàng hóa. Việt nam cũng là một trong những nước có số lượng tù nhân lớn nhất thế giới và nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt buộc tù nhân làm việc kể cả sản xuất hàng hóa xuất khẩu nhưng không trả lương.

              

    Lê Thị Công nhân bị tuyên án 4 năm tù

              

    Sau khi là thành viên chính thức WTO và tổ chức hội nghị APEC tại Hà Nội, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bắt đầu đàn áp dã man những thành viên sáng lập “ Công đoàn Độc lập”: Luật sư Lê Thị công Nhân, luật sư Nguyễn văn Đài và nhiều thành viên sáng lập khác bị vào tù; Phó chủ tịch Lê Trí Tuệ bị bắt cóc, biệt tích từ 18 năm nay, nhiều người buộc phải trốn chạy ra nước ngoài và xin tỵ nạn tại các nước dân chủ.

    Nhưng, những anh chị em tranh đấu cho quyền lợi của người lao động quyết không bỏ cuộc, tiếp tục hoạt động bí mật, tiếp cận các công ty, xí nghiệp để xây dựng phong trào.

    Ngoài việc liên kết với các cơ sở công nhân, UBBV đã phát hành hàng chục ngàn tờ rơi với nội dung ngắn gọn, dễ hiểu hướng dẫn công nhân tranh đấu bảo vệ quyền lợi, gửi tới người lao động bằng mọi hình thức.

    Hàng trăm cuộc đình công lớn nhỏ mỗi năm đã xẩy ra trong phạm cả nước, có những cuộc đình công có hàng chục ngàn công nhân tham gia. Những cuộc đình công đã buộc giới chủ phải nhượng bộ một phần những đòi hỏi chính đáng của công nhân.

    Cuối năm 2008, “Phong Trào Lao Động Việt” (PTLĐV) ra đời như là một sự tiếp nối để giúp đỡ công nhân không ngừng tranh đấu để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

    Tại Hải ngoại, anh chị em trong UBBV đã tranh thủ mọi lúc, mọi nơi, tiếp xúc với nghiệp đoàn các nước, chính phủ các nước để tố cáo nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam toa rập với giới chủ, tạo điều kiện cho giới chủ bóc lột thậm tệ người lao động Việt nam.

    Tính từ năm 1995 đến năm 2021 tại Việt nam đã có 6.364 cuộc đình công do công nhân tự tổ chức và “Liên đoàn lao động Việt Tự do” hướng dẫn. TLĐLĐVN không những không ủng hộ công nhân tranh đấu đòi quyền lợi mà còn toa rập với chính quyền dùng công an đàn áp bắt bở bỏ tù những người tổ chức đình công (Tham khảo thêm:21,22,23).

    Ngày 30.01.2008, Thủ tướng chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã ra nghị định số 11/2008/ND-CP cấm công nhân đình công và xử phạt nặng nề những người tổ chức. TLĐLĐVN ủng hộ quyết định của Thủ tướng.

    Ngày 17.06.2011, chủ tịch TLĐLĐVN đồng thời là Ủy viên trung ương đảng cộng sản Việt Nam Đăng Ngọc Tùng, trong buổi lam việc với Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã đề nghị chính phủ chỉ đạo bộ công an các tỉnh, thành phố có các biện pháp nghiệp vụ phát hiện và xử lý những người giúp đỡ công nhân mà họ gọi là băng nhóm xã hội đen nhằm ngăn chặn các cuộc đình công của công nhân.

    Tất cả các cuộc đình công của công nhân từ trước đến nay đều bị nhà cầm quyền cho công an đàn áp, truy tìm những người cầm đầu để phạt tù hoặc đuổi việc.

    Với một nền kinh tế kém phát triển, nguồn lao động dư thừa, để tăng thêm nguồn thu ngoại tệ duy trì chế độ, nhà cầm quyền gia tăng việc xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Tuy nhiên, là một nhà nước độc tài, tệ tham nhũng và cửa quyền đã đẩy người dân khi đi xuất khẩu lao động phải gánh chịu bao cảnh khổ cực và oan trái. Nhà cầm quyền cấp giấy phép tuyển dụng cho người nhà hoặc các công ty “sân sau” với những gói tiền lót tay hoặc ăn chia khi lấy tiền của người được đi xuất khẩu.

              

    Hình ảnh công nhân xuất khẩu.

              

    Đa số lao động xuất khảu là những người nghèo xuất thân từ nông thôn, để được xuất khẩu, phải chi cho các công ty môi giới hàng trăm triệu đồng, người lao động phải thể chấp nhà cửa, tài sản, ruộng vườn để vay ngân hàng, người lao động không hiểu biết về pháp luật thường bị môi giới lừa đảo, thu tiền xong, khi lao động ra nước ngoài là họ bỏ mặc, không chịu trách nhiệm. Người lao động ra nước ngoài bị thu hộ chiếu, làm việc cực nhọc, bị đối xử tồi tệ, bị quỵt lương, bị trao đổi, chuyển nhượng giữa các công ty.

    Đã có hàng chục ngàn lao động Việt Nam phải trốn ra ngoài sông bất hợp pháp, làm việc “chui”, bị cảnh sát và chính phủ sở tại trục xuất, phạt tiền hoặc xử tù.

    Theo các số liệu từ nhà cầm quyền Việt Nam, hàng năm Việt nam xuất khẩu trên 120 ngàn lao động đến hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, cao điểm là năm 2023 xuất khẩu 155 ngàn lao động, chưa kể hàng chục ngàn đi bất hợp pháp đến các quốc gia châu Âu và châu Mỹ.

    Nhờ hàng chục tỷ đô là hàng năm từ nguồn lao động xuất khẩu, nhà cầm quyền cộng sản coi đây là một ngành kinh tế mũi nhọn, thu ngoại tệ để duy trì chế độ.

    UBBV đã thường xuyên làm cho dư luận quốc tế thấy rõ việc xuất khẩu lao động của nhà cầm quyền Việt Nam thực chất là buôn nô lệ với tài sản thế chấp buộc các nạn nhân phải làm việc cật lực để trả lãi tiền vay ngân hàng trong nước.

    UBBV đã có mặt ở những nơi mà người lao động Việt Nam bị bóc lột và bị coi rẻ như Mã lai, nơi có nhiều công nhân xuất khẩu nhất Đông Nam Á, nơi mà năm 2007, 2008 đã có hàng trăm công nhân bị chết vì tai nạn lao động để giúp đỡ. UBBV đã gặp gỡ các giới chức Tổng Liên Đoàn Mã lai để can thiệp với giới chủ; hướng dẫn công nhân tham gia nghiệp đoàn Mã Lai, thành lập nghiệp đoàn của mình để tự bảo vệ.

    Để hướng dẫn cách xây dựng các cơ sở nghiệp đoàn, cách giúp đỡ công nhân phương pháp thương lượng với giới chủ, trao đổi kinh nghiệm của các Nghiệp đoàn có cùng hoàn cảnh, UBBV đã tổ chức nhiều khóa huấn luyện tại các nước Đông Nam Á cho anh chị em từ Việt Nam bí mật đến tham dự

              

    Ủy ban Bảo vệ Người lao động Việt Nam. Đại hội kỳ 2.

              

    Cuối năm 2009, UBBV tổ chức đại hội lần thứ 2 tại Kuala Lumpur, Thủ đô nước Mã Lai nhằm tạo điều kiện gần gũi hơn với công nhân Việt nam. Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ Thị Minh Hạnh thay mặt anh em trong nước tham dự hội nghị. Hội nghị được sự quan tâm của Tổng liên đoàn lao động Mã lai và các Nghiệp đoàn quốc tế (Tham khảo thêm: 19).

    Cuộc tranh đấu đòi quyền lợi bị giới chủ cướp đoạt những ngày tháng 1 năm 2010 của trên 10 ngàn công nhân công ty giày Mỹ Phong, Trà Vinh với sự hướng dẫn giúp đỡ trực tiếp của PTLDV đã mang lại thắng lợi, buộc giới chủ phải thỏa mãn phần lớn đòi hỏi của công nhân. Nhưng, nhà cầm quyền Việt Nam lại thẳng tay đàn áp.

    Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ Thị Minh Hạnh bị bắt và bị kết án nặng nề: 9 năm tù cho Nguyễn Hoàng Quốc Hùng; 7 năm tù cho Đoàn Huy Chương và Đỗ thị Minh Hạnh.

    Tháng 6 năm 2012, UBBV tổ chức đại hội lần 3 tại Washington DC, nhằm tiếp cận gần hơn với chính giới Hoa Kỳ, các tổ chức NGO của Mỹ và các Nghiệp đoàn Mỹ, kêu gọi dư luận tạo sức ép buộc nhà cầm quyền Việt Nam phải trả tự do cho Hùng, Hạnh, và Chương – làm cho chính giới và các Nghiệp đoàn Hoa kỳ thấy rõ hơn Tổng Liên Đoan Lao Động do đảng cộng sản lập ra chỉ là công cụ phục vụ cho đảng cộng sản.

              

    Nguyễn Hoàng Quốc Hùng bị tòa án cộng sản tuyên phạt 9 năm tù.

              

    Các đại biểu tham dự Đại hội III UBBV tại Washington DC- Có ông Trần Quốc Bửu nguyên Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công VNCH bà ông Nguyễn Văn Tánh nguyên đại diện Tổng Liên Đoàn Lao Công VNCH tại Tổng Liên Đoàn lao Động Thế Giới – ITUC.

              

    Các đại biểu tham dự Đại hội III UBBV tại Washington DC, Hoa kỳ.



    Ông Trần Quốc Bửu (CT liên đoàn lao công VNCH) và ông Nguyễn Văn tánh đại diên Liên đoàn lao công VNCH tại ITUC) tham dự Đại Hội III UBBV tại Washington DC.

              

    UBBV cũng đã nhiều lần tiếp xúc, gặp gỡ ban lãnh đạoTổng Liên Đoàn Lao Động Thế Giới (International Trade Union Confederation – ITUC) tại Bỉ.

              

    Lao Động Việt tại trụ sở ITUC, Brusell , Bỉ.

              

    UBBV đã cố gắng cho ITUC và nhiều nghiệp đoàn thành viên thấy rằng, giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam cần có một tổ chức Nghiệp đoàn đúng nghĩa, do công nhân tự lập ra, đại diện quyền lợi cho mình chứ không phải là nghiệp đoàn trá hình làm vật trang sức cho Đảng Cộng sản như TLĐLĐVN.

    Công Đoàn Độc Lập, UBBV và PTLDV đã chính thức liên kết thành “Liên Đoàn lao Động Việt Tự Do” (Viết tắt là Lao Động Việt – LDV) để tăng thêm sức mạnh, tăng cường sự hỗ trợ trong và ngoài nước.

    Giữa tháng 1 năm 2014, LDV đã tổ chức đại hội lần thứ 1 tại Bangkok, Thủ đô Thái Lan để tạo điều kiện cho anh chi em trong nước và vùng Đông Nam Á tham gia.

    Sau Đại Hội, LDV đã viết thư đến chính phủ các nước thành viên tham gia đàm phán Hiệp ước đối tác xuyên Thái Bình Dương – TPP, nêu rõ thực trạng của giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam, đề nghị nhà cầm quyền Việt Nam phải chấp nhận tính hợp pháp của LDV.

    LDV phải được hoạt động công khai tại Việt Nam, giai cấp công nhân Việt nam có quyền thành lập các Công Đoàn Độc lập của mình. LĐV đề nghị đây là một điều kiện bắt buộc khi ký kết TPP. Nếu không, giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam tiếp tục là những nô lệ ngay trên chính quê hương mình. Hàng hóa mà họ làm ra để xuất khẩu đến các nước TPP sẽ thấm đượm nước mắt, mồ hôi và cả máu của người công nhân.

              

    Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích và ông Trần Ngọc Thành tại ĐH 3 UBBV.

              

    Tại Việt nam, các thành viên LDV, dù bị nhà cầm quyền cho công an theo dõi, một số trường hợp bị công an giả dạng côn đồ đánh đập dã man, vẫn thường xuyên bám trụ các công ty, xí nghiệp hướng dẫn công nhân tranh đấu dưới nhiều hình thức.

    Các cuộc đình công vẫn liên tiếp nổ ra, phạm vi ngày càng lớn, đặc biệt là khu vực phía nam.

    Những ngày đầu tháng 4 năm 2015, cuộc đình công của hơn 90 ngàn công nhân công ty Poeu Yuen tai khu công nghiệp Bình Dương đã làm chấn động dư luận trong nước và thế giới.

    Cuộc tranh đấu không hướng tới giới chủ mà hướng tới nhà cầm quyền, chống lại điều 60 luật bảo hiểm xã hội, điều khoản gây thiệt hại lớn cho người công nhân, đã được quốc hội thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ năm 2016.

    Hàng ngàn công an và lực lượng an ninh đã được điều tới nhằm uy hiếp công nhân. Nhưng sức mạnh của gần trăm ngàn người đã buộc nhà cầm quyền không dám đàn áp.

    Cuộc đình công đã lan tỏa đến nhiều nơi khác trong cả nước đặc biệt là cuộc đình công của công nhân tỉnh Long An kéo dài hơn 10 ngày.

    Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đáng lẽ phải ủng hộ nguyện vọng chính đáng của công nhân, nhưng lại đe dọa công nhân. Chủ tịch Tổng Liên Đoàn, Đặng Ngọc Tùng, còn buộc tội công nhân là bị bọn phản động xúi dục.

    Nhà cầm quyền sau một thời gian dùng sức mạnh đe dọa, nhưng không ngăn cản được ý chí của người lao động đành phải xuống nước điều đình với công nhân. Quốc Hội Cộng sản Việt Nam buộc phải sửa lại điều 60 luật BHXH.

              

    Công nhân Long an Đình công

              

    LDV cũng đã luôn tác động để các chính phủ, các đối tác kinh tế của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam không thể thờ ơ trước cuộc sống tối tăm của công nhân và người lao động Việt Nam.

    LDV luôn luôn tranh đấu để quyền thành lập “ Công Đoàn Độc Lập” trở thành một điều kiện cứng rắn trên bàn đàm phán TPP.

              

    Tại Trụ sở Amnesty International.

              

    Ngày 5 tháng 10 năm 2016, TPP kết thúc đàm phán tại Mỹ và chính thức ký kết ngày 04 tháng 02 năm 2016 tại Auckland, New Zeland.

    Sau khi TPP được ký kết, đáng lẽ ra giai cấp công nhân và những người lao động Việt Nam phải biết được tường tận nội dung TPP, đặc biệt là điều 19 về quyền thành lập Nghiệp đoàn độc lập; các phương tiện truyền thông do nhà nước quản lý phải chuyển tải đến người dân những thông tin đó.

    Nhưng ngược lại, hầu như tất cả các loại báo chí và phương tiện truyền thông nhà nước Cộng sản VN được lệnh im lặng trong vấn đề này.

    Lao Động Việt, đã mở một cuộc vận động đến với công nhân, chuyển đến công nhân các thông tin liên quan đến trách nhiệm và quyền lợi của công nhân, sau khi TPP được ký kết. Ngoài việc đến các công ty, xí nghiệp để giải thích, LDV đã in ấn hàng chục ngàn tờ rơi, in lại nội dung phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về TPP, phân phát cho công nhân và người lao động.

    Những hoạt động của LDV đáng lẽ phải được nhà nước Việt nam khuyến khích, hoan nghênh. Nhưng ngược lại, họ lại dùng mọi hình thức ngăn chặn và đàn áp thô bạo.

    Năm 2016, Khi công ty Formosa thải chất độc hại ra biển, làm ô nhiễm môi trường hàng trăm km biển miền Trung, Hoàng Đức Bình, phó chủ tịch PTLĐV đã cùng những thành viên khác vận động thành lập “Hiêp Hội Ngư dân Miền Trung” để đoàn kết người dân đấu tranh bảo vệ môi trường, cùng với những Tổ chức khác giúp đỡ người dân trong lúc khốn khó, tranh đấu buộc Formosa phải bồi thường thiệt hại. Nhà cầm quyền đã dùng lực lượng quân đội, công an hùng hậu đàn áp dã man người dân. Phó chủ tịch Hoàng Bình bị nhà cầm quyền bắt cóc và xử án 14 năm tù.

              

    Biểu tình kỷ niệm ngày thảm họa Formosa.

              

    LĐV tranh đấu để cụm từ “Công Đoàn Độc Lập” trở thành nhóm từ được nhắc đến thường xuyên trên các phương tiện truyền thông và dư luận tại Việt nam; mặc dù nhà nước Cộng sản luôn kiểm duyệt. TPP có định chế nghiêm ngặt, buộc nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam tuân thủ khi thực hiện điều 19 về lao động.




    Tuy nhiên, sau khi trở thành tổng thống Mỹ, Donald Trump đã hủy bỏ TPP.

    CPTPP được đàm phán lại gồm 11 nước thành viên, không có Mỹ.

              

    Hoàng Đức Bình, phó chủ tịch PTLĐV.

              

    Chính phủ các nước có quan hệ với Việt Nam thường coi trọng giá trị kinh tế mà không chú ý đúng mức đến quyền lợi của người lao động, không chú ý đến giá trị nhân quyền, đặc biệt là giới chủ nhân ngoại quốc. Giới công nhân Việt Nam trở thành vật hy sinh cho sự tham lam, làm giàu của quan chức Cộng sản và giới tư bản nước ngoài.

    Việt Nam là thành viên của Tổ chức lao động quốc tế ILO, nhưng lần lữa, không ký Công ước quan trọng nhat liên quan đến quyền lợi của người lao động là: Công ước số 87 về tự do hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức;

    LĐV đã bí mật làm nhiều phóng sự điều tra về lao động tù, làm cho thế giới biết được có nhiều loại sản phẩm được nhập khẩu từ Việt nam có thấm máu của tù nhân.

    Hiệp ước tự do mậu dịch của Liên Hiệp Âu Châu và Việt Nam FTA đã kết thúc đàm phán vào tháng 12 năm 2015 và bắt đầu các thủ tuc pháp lý để ký kết, nhưng EU đã khước từ việc đặt vấn đề về quyền của người lao động, về nhân quyền nói chung khi đàm phán về tự do mậu dịch. Vấn đề này đã bị phân ban nhân quyền của quốc hội Âu châu phê phán mạnh mẽ trong phiên điều trần hôm 03.03 năm 2016.

    Ngày 30.06 2019, Việt Nam và EU chính thức ký kết EVFTA và IPA, Ngày 30.03.2020 Hội đồng Âu châu thông qua EVFTA, Ngày 08.06.2020 Quốc hội Cộng sản Việt nam thông qua EVFTA và IPA. Cả hai hiệp định CPTTP và EVFTA đều có những yêu cầu phia Việt Nam phải tôn trọng quyền của người lao động trong đó có quyền thành lập nghiệp đoàn độc lâp, nhưng không có điều khoản chế tài nghiêm ngặt như TPP.

    Trong suốt 50 năm qua nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn luôn vô trách nhiệm đối với cuộc sống và quyền lợi của người lao động Việt nam. Những năm gần đây, do chính sách kinh tế quan liêu, nạn tham nhũng, cửa quyền đã khiến hàng ngàn doanh nghiệp tư nhân giải thể, đẩy hàng triệu công nhân vào cảnh thất nghiệp phải tìm cách đi lao động xuất khẩu tại nhiều nước trên thế giới, nhiều nhất là tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan; Bất chấp nguy hiểm, hàng chục ngàn người đã vượt biên trái phép vào các nước châu Âu, Canada, Mỹ, nhiều người bỏ mạng trên dường đi.

    Quyền tự do nghiệp đoàn là quyền cơ bản của người lao động ở bất cứ quốc gia nào. Luật lao động quốc tế khẳng định quyền tự do thành lập công đoàn độc lập là nguyên tắc cơ bản trong lao động. Nhưng, tại Việt Nam nhà cầm quyền cộng sản đã thẳng tay đàn áp, bắt bớ tất cả những người tranh đấu cho quyền thành lập công đoàn độc lập (Tham khảo:24,25).

    Hàng chục người tranh đấu cho quyền thành lập nghiệp đoàn độc lập tại Việt Nam bị nhà cầm quyền tuyên án tổng cộng trên 100 năm tù.

    Cuối năm 2023, nhà cầm quyền cộng sản Việt nam ban hành “ Chỉ thị mật 24”. Chỉ thị mật 24 xác định việc thành lập các “Công đoàn độc lập” là vấn đề an ninh quốc gia.

    Cuối tháng 4 năm 2024, nhà cầm quyền Việt Nam bắt ông Nguyễn văn Bình, vụ trưởng vụ pháp chế Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

    Ngày 18 tháng 5 năm 2024, nhà cầm quyền cộng sản việt nam tiếp tục băt ông Vũ Minh Tiến, trưởng phòng chính sách, pháp luật của Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam, kiêm giám đốc Viện công nhân và Công đoàn, kết tội họ tội làm lộ bí mật nhà nước. Ông Bình và ông Tiến là những người tích cực vận động nhà cầm quyền cộng sản phê chuẩn công ước 87 của Tổ chức lao động Thế giới ILO nỗ lực đưa công ước 87 trình quốc hội.

    Đảng cộng sản thường xuyên tuyên truyền: đảng đại diện cho quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động, nhưng trong thực tế, kể từ khi họ cướp được chính quyền, giai cấp công nhân và người lao động là đối tượng chính để họ bóc lột và trấn áp.

    Phải khẳng định rằng lần nữa rằng, trên phạm vi cả nước, từ 50 năm qua, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam coi giới công nhân và người lao động là đối tượng để thu ngân sách, để tăng trưởng kinh tế kể cả lao đông trong nước và lao động xuất khẩu. Nhà cầm quyền luôn luôn dùng mọi thủ đoạn, lừa dối các tổ chức quốc tế, bóc lột thậm tệ người lao động, dồn ép người lao động vào cảnh bần cùng, triệt tiêu mọi sự phản kháng của người lao động nhằm duy trì chế độ độc tài. Nhà cầm quyền bằng mọi biện pháp ngăn cấm giới công nhân và người lao động thành lập nghiệp đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

    Chừng nào tại Việt Nam chưa có nghiệp đoàn độc lập thì giới công nhân và người lao động vẫn là đối tượng không được bảo vệ quyền lợi, vẫn nằm trong vòng kiềm tỏa của giới chủ nhân và nhà cầm quyền.

    Nghiệp đoàn độc lập vẫn là mục tiêu tranh đấu của những người quan tâm đến quyền lợi chính đáng của giới công nhân và người lao động.



    Các tư liệu tham khảo thêm

    1-Đánh tư sản Miền nam sau năm 1975

    2-Hình ảnh người dân Miền nam bị dồn đi vùng “kinh tế mới”

    3-Thời bao cấp, giai đoạn lịch sử đáng nhớ của Việt nam

    4- Báo tuổi trẻ -Nỗi ám ảnh hạt bo bo trong đêm dài đó kém.

    5- Hình ảnh cuộc sống người dân thời bao cấp.

    6- Những hình ảnh quý giá của Miền Bác thời bao cấp.

    7- Tạp chí công thương

    [url=https://dembuon.xn--vn%20-r13b/]8- Nhìn nhận công nghiệp Việt Nam giai đoạn 1976-1980[/url]

    9- Nền công nghiệp Việt nam nhưng năm 1980

    10- Tinh hình xuất khẩu lao động giai đoạn 1980-1990.

    11-Xuất khẩu lao động, 40 năm giải bài toán việc làm

    12- Tổng quan xuất khẩu lao động Việt nam

    13- Luật đất đai 1993

    14-https://laodong.vn/photo/nhung-phong-tr ... 070598.ldo

    15- Đài BBC: Hôi nghị về quyền lao động Việt Nam tại Ba lan

    16- Đài RFA: Hội nghị về quyền lao động Việt nam tại Warszawa.

    17- Đài RFA: Nghiệp đoàn độc lập chính thức của công nhân VN được thành lập

    18- Luật sư Lê Thị Công Nhân bị chặn tại cửa máy bay, không cho xuất cảnh tham dự Hội nghị Warszawa

    https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth ... 61020.html

    19- Đại Hội kỳ 2 Ủy Ban Bảo vệ Người lao động tại Kuala-Lumpur

    https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth ... 61020.html

    20- Các cuộc đình công tại Việt Nam

    21- Cuộc đình công của 90 ngàn công nhân công ty Pouyen.

    22- Các cuộc biểu tình của “Dân oan”

    23- Phiên tòa xử Nguyễn văn Đài và Lê Thị Công Nhân

    24- Phiên tòa xử Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương.

    25- Phiên tòa xử Hoàng Đức Bình 14 năm tù.

    26- Miền Trung biểu tình chống Formosa

    27- Nạn nhân Formosa liên tục biểu tình đòi công lý.

    28- Bắt vụ trưởng vụ pháp chế.

    29- Bắt ông Vũ Minh Tiến

    30 – Nguyen, C.V., Hiệp, N.P., Lộc, N.B. 2021. Một Góc Nhìn Về Chiến Tranh “Mậu Dịch” Mỹ-Trung Và Hệ Quả Đến Việt Nam. Nhóm Việt 2000, Houston, U.S.

    31- Thu Lan, P. T. 2017. Tại sao đình công ở Việt Nam luôn là tự phát? Column.global-labor-university.org, Number 290, November 2017. University of the Witwatersrand, Johannesburg, South Africa



    https://www.danchimviet.info/gioi-cong- ... 025/33949/
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5507
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Tháng Tư và Tôi

Bài viết bởi Bạch Vân »

          


Tháng Tư và Tôi





Có tiếng ai gõ cửa
Tôi xoay mình với đêm
Hình như tháng Tư gọi
Tháng Tư đợi ngoài thềm

Ngập ngừng mở cánh cửa
Đón tháng Tư vào nhà
Tháng Tư tràn mắt lệ
Cả hai cùng khóc òa

Giũ chiếc áo đêm thẳng
Nghẹn ngào nhìn tháng Tư
Cả hai cùng vuốt mặt
Lau nước mắt cho nhau

Cứ ngồi yên như thế
Căn nhà sao mênh mông
Chiếc ghế sao mà rộng
Mình sao bé vô cùng

Tôi gọi tên tháng Tư
Tôi gọi tên thành phố
Tôi gọi tên người yêu
Niềm đau và nỗi nhớ

Tháng Tư gọi tên tôi
Vỗ về trên vai mỏng
Luồn tay vào tóc trắng
Ôm tôi sát vào lòng

Năm mươi năm thức ngủ
Vẫn ngỡ là chiêm bao
Nước mắt nào giữ lại
Cho khi về khóc nhau.


Trần Mộng Tú
10 tháng 4 năm 2025


https://diendantheky.net


          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5507
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Tưởng nhớ và tri ơn trong ngày 30/4/2025

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           
    Tưởng nhớ và tri ơn trong ngày 30/4/2025






    Một năm chỉ có một tháng 4 và cứ mỗi năm khi tháng 4 về thì người Miền Nam có những cảm giác rất lạ, nó gợi nhớ, bồi hồi, bứt rứt, đau đớn, chạnh lòng và dằn xốc tâm hồn dữ dội.

    Cuộc sống bôn ba, cơm áo gạo tiền, thân phận hèn mọn bụi bậm tèm lem tuốt luốt quanh năm không làm người ta quên đặng.

    Những ngày tháng 4 trời nóng hừng hực, trời nóng bức, khô khan nực dông mà lòng người cũng chộn rộn dông dài. Người Nam nào cũng nhớ về cái ngày hằn vào lịch sử.

    Ngày giải phóng đương nhiên không phải, ngày thống nhứt cũng không xong vì sau ngày đó bao gia đình Miền Nam chia lìa mà lòng người đã hoà chung nhau bao giờ đâu?

    Ngày gì? là ngày dinh Độc Lập bị tông sập cánh cửa.

    Tháng 4 thân phận.

    Những người từng tham gia vào lịch sử, là một phần của Miền Nam thì ngày càng già, họ thấy họ bất lực trước thời cuộc và tuổi tác, họ cam chịu nhưng thấy ray rứt và xé lòng.

    Lớp sĩ quan đi HO giờ đã chết gần hết. Anh lính chiến trẻ măng tuổi 20 ngày nào giờ đã trên 70 tuổi.

    Những người sanh sau 1975, thế hệ con cháu kế tiếp của những kẻ chiến bại, đặc biệt những người kế tiếp sau 1975 tới 1980 là còn dính VNCH nhiều nhứt đã nhấp nhứ 50 tuổi. Những người tóc đã có sợi bạc đó có cảm giác rất khó tả, đôi lúc nhếch môi cười ngạo nghễ pha chút chua chát.

    Lịch sử của Miền Nam chúng ta chấm dứt từ ngày 30/4/1975 khi TT Dương Văn Minh cúi đầu giữa một rừng lính Bắc Việt nón cối dép râu súng AK.

    Đó là sự thực, chẳng ai đơm đặt, lịch sử ghi, không được bàn giao mà chỉ có cúi đầu và đầu hàng, báo chí ghi rõ, ông Minh phải và đã đầu hàng.

    Cũng từ đó vai trò người Miền Nam đã thay đổi.

    Chép ra dài dòng, thôi thì mượn lời học giả Nguyễn Hiến Lê trong hồi ký, ông ghi ngắn gọn vầy:
    "Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam như th... dân da trắng đối với dân "bản xứ", tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: "Tôi là kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lí, anh đừng nói nữa."
    Vậy mà cái đoạn này mà ông học giả bị làm khó khi đặt tên đường sau này.

    Đã 50 năm, thời gian tưởng dài, nửa thế kỷ, khi mà đứa trẻ đỏ hòn ngày đó nay đã có cháu ngoại cháu nội. Những người lính VNCH trẻ nhứt năm đó nay lưng đã còng tóc đã bạc, mắt đã mờ, chưn đã run.

    Nhưng nó vẫn ở chính lòng người, nghĩ nhớ nó hoài thì nó không chết, nó sống mãi.

    Chánh trị là quyền lợi, nó dính với quyền lợi của người ta, hỏi sao dân Miền Nam quên đặng?

    Chúng ta nhớ những vị tướng Việt Nam Cộng Hoà đã tuẫn tiết như: Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng....

    Kính tri ơn Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam (1927-1975).

    Vào lúc 11 giờ 30, ngày 30.04.1975, Thiếu Tướng Khoa Nam sau khi từ giã các binh sĩ đã tự kết liễu đời mình khi ông 49 tuổi, độc thân vui tánh. Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn bị xử tử vào ngày 14/8/1975 tại sân vận động Cần Thơ.

    • "Lưng đeo kiếm chừ, tay cắp cung
      Đầu tuy rơi chừ dạ chẳng chùng
      Thật hăng hái chừ thật can đảm
      Lấn hiếp nhau chừ chuyện không xong
      Thân đã chết chừ, thần phải thiêng
      Hồn vía ma chừ, vẫn anh hùng."
      Đó là dấu thiêng của những bậc anh hùng.


    Có hàng vạn người lính VNCH từ Miền Nam ấm áp bị bắt và giam giữ trong các nhà tù sau 1975 ở đất Bắc. Nhiều người đã bỏ xương cốt ở đất Bắc xa xôi.

    • "Trăng sao tin yêu ai dối trá đất trời hiền hòa ai đốt phá
      Và đem thê lương che kín núi sông này?"


    Nhiều gia đình Miền Nam vẫn thường nhắc nhớ: "Con phải ráng nhớ những người anh hùng đó, vì họ rất yêu cái đất Miền Nam này, ghi nhớ không được quên để có ngày tri ơn vinh danh họ nhằm giáo dục con cháu sống sao cho phải đạo."

    Phải nhớ, nhớ để làm người, nhớ để rồn tại, giữ bản sắc.

    Chúng ta sanh sau 1975 không trực tiếp hòa chung với VNCH, nhưng chúng ta giữ vững hình ảnh anh hùng đó vì đó là tổ tiên trực hệ của chúng ta.

    Hôm nay họ bị lãng quên nhưng ngày mai họ sẽ chói sáng nếu cháu con nhứt định phải ghi nhớ và kiên định.

    Xin vinh danh hết thảy những anh hùng thuộc ý thức hệ Quốc Gia đã nằm xuống góp máu xương, giữ quyền sống cho đất này!

    • "Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân
      Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ."

    Sống làm dân Miền Nam thì chết làm thần Miền Nam, đời đời phò trợ cho con cháu ngày sau!

    Đâu đây ở mảnh đất này, dòng sông này vẫn còn hồn linh tinh anh, máu xương của các vị.

    Nhớ tới những kẻ chiến bại tàn y gió lạnh, xương cốt rã rời sau tháng 4, những kẻ đã sống-chết để bảo vệ mảnh đất này.

    Họ không cần danh vọng, họ chỉ biết cố sức bảo vệ quyền lợi cho mảnh đất Miền Nam rồi bị miệt thị, chà đạp và quên lãng.

    Vậy thế hệ sau ráng cố sức mà nhắc nhớ nhau, nhớ để không quên, quên gì quên, quên nguồi cội gốc rễ mình là sẽ tiêu đời.

    • "Người còn đây đất còn đây
      Vàng son ngày ấy theo mây chốn nào?"
    .

    Qúa khứ không lành da, không thể khép lại dù cuốn sử này đã trở dày cui thêm vài trang. Tháng 4 nhắc cho con cháu biết sự cố gắng của người đi trước, sau là rèn cái tánh yêu thương xứ sở của mình.

    • “Ðể ông cha còn nắm đất phủ mình
      Ôi quê hương ta nước Việt Nam. “


    Cái cảm giác rất khó tả của những ai có mặt ở Sài Gòn vào những ngày tháng 4.

    Triết gia Kim Định từng cảnh báo rằng: ”Đạo mất trước, Nước mất sau.”

    Dầu thế nào, dầu ra làm sao thì chúng ta luôn yêu mến cái đất Miền Nam này, ý thức và đau đớn, sống chết cùng với nó. Chúng ta tự hào và nguyện cố giữ những tinh túy của một nền văn hóa đầy tính dân tộc, nhơn bản, khai phóng của Miền Nam chúng ta xưa rày.

    Chắc chắn một điều tương lai lúc nào cũng tươi sáng, lịch sử rất công bằng, mọi người phải rèn dũa nhiều, người trước đuối sức thì người sau bước tới liền.

    Chúng ta là những người sanh sau 1975, là thế hệ không máu đổ xương rơi với Việt Nam Cộng Hòa, nhưng chúng lại là con cháu trực hệ của những người VNCH và lịch sử sau 1975 cũng đã cho chúng ta một lòng tự hào về những gì đã có.

    Lịch sử Miền Nam chúng ta, lịch sử sôi động, phồn hoa, đau thương và chiến bại. Lịch sử Miền Nam biến động, nhưng người Miền Nam vẫn còn đây, vẫn còn yêu quý hai chữ Tự Do.

    Bao nhiêu người Miền Nam vẫn giữ giá trị, nhơn phẩm của mình dù cuộc sống có biến thiên qua bao dông gió, vinh nhục.
    Con cháu qua bao âm mưu,thủ đoạn, người vẫn vững lòng, nuôi niềm hy vọng, tay chắc cái dầm, cây chèo, vững chải bình tĩnh và quyết ý không dời đổi.

    Chúng ta tự hào có Võ Tánh, Lê Văn Duyệt, Mạc Cửu, Trần Thượng Xuyên, Phan Thanh Giản, Thủ Khoa Huân, Trương Vĩnh Ký, Tôn Thọ Tường, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương, Nguyễn Khoa Nam....và nguyện học hỏi, noi theo đặng cố giữ những tinh túy của một nền văn hóa đầy tánh dân tộc, nhơn bản, khai phóng của Miền Nam chúng ta!

    Thế hệ VNCH còn nhiều lắm. Dòng đời vẫn tiếp tục.

    Hãy đọc sử đấu tranh nội tại của xứ sở mình, đặt mình vào giữa đặng thấy rõ quyền lợi của xứ sở mình đang ở đâu!

    Học vấn là để đấu tranh, có ý thức chánh trị rõ ràng để phản kháng, để đồng hành và tồn tại.

    Nhắc nhớ và tri ơn những ai đã trót mang thân phận người Miền Nam!

    Nguyễn Gia Việt


    https://www.facebook.com/Conduongthienl ... %2CO%2CP-R


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5507
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

30/4/25 Biểu tình tại Canberra trước tòa Đại Sứ Việt Cộng .

Bài viết bởi Bạch Vân »

          




30/4/25 Biểu tình tại Canberra trước tòa Đại Sứ Việt Cộng .





          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21156
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Một Câu Chuyện Rất Buồn Ngày Mất Nước

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Một Câu Chuyện Rất Buồn Ngày Mất Nước
    ________________________
    Duy Trác - Âu Oanh _ 10/4/2021



              

    Tháng Tư Đen lại đến: Đây là trang lịch sử cận đại đầy nước mắt của dân tộc Việt Nam.

              



    Tôi nhớ rất rõ chuyện xảy ra rất lâu khi tôi gần tròn bốn tuổi. Hồi đó, gia đình tôi sống gần một làng chài ở Mỹ Khê, Đông Giang thuộc quận ba thành phố Đà Nẵng. Ba tôi phục vụ trong quân đội VNCH, đơn vị đóng ngoài Quảng Trị, cấp bậc Hạ Sĩ. Mẹ tôi bán cá ngoài chợ Sơn Trà. Mẹ tôi mua cá của những ghe chài cập bến vào sáng sớm, để đem ra chợ bán. Một buổi trưa Chúa Nhật, hai anh em tôi chơi banh ngoài sân cỏ bên cạnh nhà, chờ mẹ về cho ăn cơm. Anh tôi học lớp Đệ Thất trường Trung Học Đông Giang, tôi học lớp Mẫu Giáo của một trường tư trong phường. Đang chơi, vô tình trái banh do anh tôi đá quá mạnh, tôi đỡ không nổi nên bị trái banh trúng vào mặt. Đau quá tôi khóc ầm lên, anh tôi chạy đến dỗ dành tôi, lấy tay lau nước mắt cho tôi, xoa nhẹ vào má tôi, nơi bị đau.

    Vừa lúc đó mẹ tôi từ chợ về. Thấy mẹ, tôi càng khóc lớn thêm. Khi biết được sự việc, mẹ tôi quơ tay đập nhẹ mấy cái vào đầu anh tôi mắng: “Cha mi, làm em đau,” rồi vội dẫn tôi vào nhà, lấy khăn ướt lau mặt cho tôi, để tôi vào võng đưa qua đưa lại, dỗ dành: “Nín đi con, sau nầy đừng chơi banh nữa, tháng tới sinh nhật con ba về mẹ nói ba mua cho con chiếc xe đạp nhỏ, con đạp đi học giống như anh Hai của con.” Nói xong, mẹ tôi đi vào bên trong nhà rồi trở ra, một lá thơ trên tay: “Đây là thơ của ba con gởi về hôm tháng rồi” mẹ tôi đọc:

    – Tháng tới, ngày 27 tháng 4 sinh nhật của cu Tấn, anh sẽ xin phép về vài ngày. Em xem mấy cửa hàng bên chợ Hàn nơi nào bán xe đạp vừa tầm cỡ cu Tấn, anh về sẽ mua cho con một chiếc.

    Nghe vậy, tôi ngừng khóc. Mẹ tôi ngồi vào võng, ôm tôi nằm sấp vào lòng, vừa đưa võng vừa nói, “Bữa ni mới 10 tây tháng Hai, còn hơn hai tháng nữa ba mới về. Từ đây đến ngày đó, nếu con còn nhõng nhẽo không nghe lời của mẹ và anh hai thì mẹ nói ba không mua xe đạp cho con đâu.”

    Tiếng mẹ tôi nghe nhỏ dần, trong mơ tôi nghe tiếng ba tôi khen “Cu Tấn đạp xe giỏi quá”, tiếng mẹ và anh hai: “Coi chừng té! coi chừng té”, và tiếng vỗ tay của ba người.
    Một buổi sáng, tôi đã thức dậy nhưng còn nằm nướng trên giường với mẹ. Hôm đó biển động nên không có cá bán, mẹ ở nhà. Mẹ tôi ôm tôi: “Còn gần một tháng nữa, ba con về phép mua xe cho con, con lớn rồi, bốn tuổi đâu còn nhỏ nữa mà hở đâu khóc đó” tôi mắc cỡ, dụi đầu vào lòng mẹ thì nghe có tiếng đập cửa rất mạnh. Tiếng bác Hội hỏi lớn: “Thiếm Tiếng có nhà không? thiếm Tiếng có ở nhà không?“ Mẹ tôi vùng ngồi dậy, trả lời:

    – Dạ, có tôi ở nhà, hôm nay biển động nên không có cá. Có chuyện gì không anh?

    Mẹ tôi mở cửa. Tôi nghe tiếng bác Hội:

    – Tụi Việt cộng đã tấn công vào Quảng Trị. Kỳ nầy nghe đâu bọn nó tấn công khắp nơi. Đơn vị của chồng thiếm bị tan hàng, một số bị bắt, một số bỏ chạy, một số bị thương trước đó, được đưa vào bịnh viện Huế. Chú Tiếng, chồng thiếm nghe nói bị thương, đang nằm ở bịnh viện Huế. Tin nầy do thằng Báu vừa chạy về cho biết. Hai đứa nó cùng đơn vị…

    Mẹ tôi khóc. Tôi thấy mẹ tôi như tàu chuối héo, rũ người trên ghế. Tôi và anh hai tôi sợ sệt, vội chạy đến bên mẹ trố mắt nhìn mẹ, không biết nói gì. Nghe tiếng ồn ào, hàng xóm chạy qua, mỗi người một tiếng khuyên mẹ tôi bình- tĩnh nhưng mẹ tôi vẫn khóc.

    Hai ngày sau mẹ tôi đi Huế để tìm ba. Hai anh em tôi được mẹ nhờ bác Hội trông nom săn sóc. Mẹ tôi mua một bao gạo và kho sẵn mấy nồi cá dành cho hai anh em tôi ăn dần khi bà đi Huế.

    Bác Hội là bạn cùng xóm với ba tôi. Nhà hai gia đình sát vách nhau. Hai người chơi với nhau khi cả hai còn chưa biết hổ thẹn khi chỉ mặc áo. Bác hơn ba tôi năm tuổi. Ba tôi rất thương bác Hội vì ba là con duy nhất của ông bà nội. Bác cũng thương ba tôi như em. Sau nầy tôi được biết bác đã muốn gả em gái cho ba tôi, nhưng chuyện hôn nhân không thành. Bác Hội thi Tú Tài không đậu nên bác tình nguyện xin đi học Trung Sĩ để khỏi bị bắt làm lính khi đến tuổi thi hành quân dịch. Bác phục vụ tại Sư Đoàn 2 Bộ Binh đóng tại Quảng Ngãi. Năm 1972, bác bị thương, mất một chân và được giải ngũ. Ngày bác cưới vợ, ba tôi dự tiệc, uống rượu rồi gây gổ ồn ào với một ông khách tham dự lễ cưới. Cảnh Sát quốc gia can thiệp, bắt và chuyển ba qua Quân Cảnh Tư Pháp vì tội trốn quân dịch. Ra Tòa Án Quân Sự, ba tôi bị xử đi quân dịch. Ba tôi được đưa đi huấn luyện tại Trung Tâm Huấn Luyện Hòa Cầm ở quận Hiếu Đức, Tỉnh Quảng Nam. Lúc đó ba tôi đã có vợ và anh Hai tôi độ chừng bảy tuổi. Ba tôi đóng quân tại tỉnh Quảng Trị và hai lần được thưởng Anh Dũng Bội Tinh tại mặt trận. Bác Hội thường nói với anh Hai tôi: “Ba mầy hiền lành như con gái nhưng ra ngoài mặt trận với địch quân, ba mầy gan dạ, không biết sợ chết là gì, được gắn huy chương, được thăng cấp ngoài mặt trận, còn bác chẳng được gì ráo, lúc nào cũng chỉ mang lon Trung Sĩ quèn”.

    Mẹ tôi đi Huế tìm thăm ba đã hơn hai tuần mà chưa thấy về. Ba nồi cá kho ăn đã gần hết. Hai anh em tôi ngày nào cũng khóc vì nhớ mẹ. Buổi tối bác Hội thường qua nhà ngồi chơi, an ủi hai anh em tôi đến khuya với về lại nhà bác. Và từ đó hai anh em tôi không còn gặp lại ba và mẹ.

    Một hôm, trong xóm bỗng nhiên tiếng chó sủa vang, tiếng người gọi nhau inh ỏi, tiếng súng nổ, lính tráng từ đâu đổ về đầy xóm, đầy bãi biển. Xe cộ nối đuôi nhau nằm ụ hai bên vệ đường. Người dân đủ cỡ, đàn bà con nít, ông già bà cả dìu dắt nhau đi, vừa hớt hãi chạy, vừa khóc, tất cả đều theo hướng ra bờ biển. Trong xóm tôi, vài gia đình cũng bồng bế nhau chạy ra bãi biển. Vài người gọi với vào nhà tôi: “Chạy đi, cộng sản sắp vào tới rồi!”. Hai anh em tôi đứng trong nhà nhìn đoàn người lũ lượt đi… và nhớ đến ba mẹ, chỉ biết khóc. Tôi nghe tiếng bác Hội nói với những người cùng xóm rủ bác đi lánh nạn: “Tôi chỉ còn có một chân mà chạy đi đâu?” Tối hôm đó bác qua nhà tôi bảo anh Hai tôi hạ cây cờ vàng ba sọc đỏ xuống. Bác nói:

    – Thằng Tấn anh, mày leo lên đem lá cờ xuống giấu kỹ một chỗ, sau nầy dùng lại; nếu không, lũ khốn nạn đó vào mà thấy được, chúng sẽ không để yên cho sống đâu.

    Anh hai tôi đem lá cờ xuống xếp nhỏ lại, rồi thoăn thoắt leo lên cột nhà để vào chỗ nứt của đầu kèo nhà, nơi mà anh tôi hay giấu những đồ chơi quý mà anh không muốn cho tôi phá vì sợ bị làm hư.

    Rồi một ngày, đồng loạt tất cả nhà nhà trong xóm đều treo cờ đỏ sao vàng. Anh em tôi được phát mỗi đứa một khăn quàng đỏ và ngày nào cũng đi sinh hoạt thiếu nhi, có ngày mệt quá hai đứa tôi không ăn uống gì hết, tối về đến nhà là lăn ra ngủ, quên cả khóc nhớ ba mẹ.

    Ông thợ may đầu xóm thành ông tổ trưởng dân phố. Mấy con ông, cả trai và gái đứa nào cũng có súng, đi lục soát từng nhà tìm bắt những người đã làm việc cho “ngụy”. Tôi nghe bác Hội gọi lén lũ nầy là bọn “ôn dịch”, “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng-sản”. Cá kho hết, anh em tôi ăn cơm với nước mắm. Hết nước mắm, anh em tôi ăn cơm với muối. Đến khi hết gạo thì bác Hội cho tụi tôi ăn cơm độn khoai mì. Nhà bác Hội nghèo, có bác gái và hai đứa con nên phần cơm chia sẻ cho anh em tôi không đủ no bụng. Bác Hội giúp anh Hai tôi bán cái Radio, rồỉ đến chiếc xe đạp… rồi đến một ngày trong nhà không còn gì để bán. Nhà bác Hội cũng không còn gì để bán. Bắt chước mấy người trong xóm, hai anh em tôi đi khắp nơi lượm bao nylon đem ra biển rửa sạch, phơi khô, vài ba ngày gom lại đem bán lấy tiền mua gạo. Những lúc phơi bao nylon trên bãi biển,tôi phải ngồi canh chừng, nếu không kẻ khác lấy mất. Có lúc canh chừng mà tôi ngủ quên, kẻ gian lấy hết. Anh Hai tôi không nói gì, nhưng nhìn thấy mặt anh buồn thiu.

    Bác Hội gái không còn đuợc cho đi dạy học. Bác chuyển sang mua cá ngoài bến ghe chài đem bán dạo trong xóm. Nhớ trước đây mẹ tôi bán cá trong chợ, tôi hỏi tại sao bác không bán trong chợ như mẹ tôi trước đây? Bác nói “Bác không vào hợp tác xã nên không bán ngoài chợ được.” Bác phải mua cá của những ghe chài bán lậu trước khi cập bến… Để tránh sự giành giật nhau khi mua cá lậu, bác rủ anh tôi cùng phụ bác đi mua bán cá. Khi ghe bán lậu cá còn xa bờ, anh hai tôi bơi ra ghe mua cá rồi đem vào. Cá được cho vào một sô nhựa, bác Hội gái và anh tôi thay nhau xách đi bán khắp nơi trong phường, khóm, có khi đi qua trung tâm thành phố. Công việc kéo dài được vài tháng thì bị công an phường cấm. Anh em tôi không còn gì để ăn, tôi hay đói nên lúc nào cũng đòi ăn. Hàng xóm thương tình, người cho củ khoai, người cho củ sắn nhưng không làm sao hết đói.

    Rồi một buổi sáng sớm, anh hai tôi dắt tôi đến bịnh viện, anh tôi bảo tôi ngồi chờ anh trước cổng, anh đi vào bên trong. Tôi ngồi chờ lâu quá nên tựa lưng vào tường ngủ gật. Khi anh đánh thức tôi dậy thì mặt trời đã chiếu ngay trên đầu. Anh kéo tôi đi nhanh khỏi bịnh viện, anh nói: “Tấn em chắc đói nhiều lắm rồi phải không?”.

    Tôi chưa kịp trả lời anh rằng “từ hôm qua đến giờ em có gì để ăn đâu!” thì anh nói tiếp: “Anh cũng đói lắm, hai ngày ni anh cũng chẳng có gì để ăn hết… bây giờ anh em mình tìm gì để ăn.” Anh đi vào con hẻm bên kia đường. Tự nhiên tôi đứng lại không chịu đi theo anh. Kéo mạnh tay tôi, anh nói: “Vào đây anh em mình ăn bún.” Tôi lắc đầu: “Mình không có tiền mà!”. Anh khựng lại nhìn tôi, hai mắt anh sáng lên, giọng anh như reo vui: “Hôm nay anh có tiền!” Anh cho tay vào túi rút ra mấy tờ giấy bạc cho tôi thấy, lúc đó tôi mới chịu đi theo anh. Gánh bún bên lề đường đông người, hai anh em phải chờ khá lâu… Bụng tôi cứ vang lên tiếng rột… rột… nước miếng cứ chảy ra. Hôm đó anh mua ba tô bún, mỗi người một tô, tô thứ ba được chia làm hai, nhưng anh dồn hết phần thịt cho tôi, anh chỉ lấy phần bún.

    Ăn xong tôi theo anh vào chợ mua gạo khoai mì và nước mắm. Ngày hôm sau anh thức dậy sớm, nấu cơm ghế khoai mì. Hai anh em ăn cơm ghế khoai với nước mắm.

    Bắt đầu một ngày mới. Hai anh em tiếp tục đi nhặt bao nylon.

    Hai tuần sau, anh lại đưa tôi đến trước bịnh viện, tôi đứng chờ trước cổng, anh đi vào trong và khi anh trở ra anh lại đưa tôi đi ăn bún. Anh cũng mua ba tô, mỗi người một tô, tô thứ ba chia hai, anh chia hết phần thịt cho tôi. Từ hôm đó tôi cứ trông đến ngày anh hai tôi dẫn tôi đến trước bịnh viện, tôi sẽ đứng bên ngoài chờ, anh đi vào bên trong, lúc trở ra anh lại đưa tôi đi ăn bún.

    Lần thứ ba, anh hai tôi dẫn tôi đến bịnh viện, tôi cũng đứng trước cổng chờ. Lần này tôi nhìn thấy bác Hội từ bên trong bịnh viện đi ra, cùng lúc ấy bác cũng nhìn thấy tôi, bác hỏi: “Tấn em làm gì đứng đó?”. Tôi trả lời: ”Con đợi anh hai con, anh ấy vào trong đó” tôi vừa nói, vừa chỉ tay vào bịnh viện. Bác nói: “Anh hai con vào trong đó làm gì vậy kìa? Nó có nói với con không?”. Tôi lắc đầu. Bác đứng lại với tôi, lấy thuốc ra hút… Anh hai tôi từ trong bịnh viện đi ra. Bỗng nhiên anh đứng khựng lại, vẻ mặt sợ hãi, có lẽ vì nhìn thấy bác Hội? Cùng lúc ấy, bác Hội hỏi:

    “- Con vô đây làm chi rứa?”

    Anh hai tôi không trả lời, mặt nhìn xuống đất, tôi nhìn thấy trong mắt anh chớp chớp, như có những giọt nước. Bác Hội sẵng giọng: “Con vào đó bán máu phải không?”. Anh tôi không trả lời, hai vai anh run nhẹ, những tờ giấy bạc rơi lả tả xuống đất. Bác Hội lê bước tới nắm tay anh kéo đi. Tôi lượm lại mấy tờ giấy bạc chạy theo. Đến một khoảng vắng, bác vứt cây nạng gỗ xuống đất, bác kéo anh tôi vào lòng, bác khóc, anh hai tôi khóc và tôi cũng khóc.

    Về đến nhà, bác hỏi anh hai tôi ai chỉ vẽ cho anh đi bán máu, anh nói: “Trong xóm mình nhiều người đi bán máu lắm, họ rủ con đi”. Bác thở dài, lẩm bẩm: “Khốn nạn cho cái xã hội mới nầy”!

    Một hôm trời mưa, hai anh em tôi không đi lượm bao nylon. Tôi qua chơi với hai đứa con của bác Hội. Buổi trưa về, vừa mở cửa vào phòng, tôi thấy tên công an Được đang ở trong nhà. Nó vứt mấy đồng bạc trên giường và nói: “Giữ lấy mà mua gạo ăn!”. Tôi nhìn anh tôi dò hỏi nhưng anh im lặng.

    Từ đó, anh tôi không còn vui cười, mặt lầm lì, hay tránh mặt tôi. Vài ngày sau, bác Hội đưa anh vào bịnh viện vì anh bị đi cầu ra máu. Về nhà, bác lẩm bẩm suốt ngày: “Tên khốn khiếp! có súng, tau bắn nát đầu mầy”.

    Bác Hội xin được cho anh hai tôi công việc gỡ lưới bắt cá trên một ghe chài của một người bà con bên vợ.

    Hàng ngày tôi đi lượm bao nylon một mình. Buổi tối tôi ngủ một mình. Anh hai tôi theo ghe chài hai ngày mới về bến một lần. Tôi ăn uống bên nhà bác Lộc.

    Một đêm, tôi đang ngủ, có cảm giác như có ai ôm mình vào lòng. Tôi nghĩ chắc anh hai tôi đã đi biển về, tôi quay người lại nhưng cái cảm giác chạm vào da thịt của anh hai tôi không giống như thường ngày, tôi mở mắt, qua ánh sáng đèn từ ngoài đường chiếu vào, tên Được đang nằm bên tôi. Tôi hoảng sợ, dùng hết sức mạnh hai chân đạp vào bụng tên Được rồi nhảy xuống giường chạy ra khỏi nhà. Tiếng tên Được gọi theo: ”Đừng chạy, tao bắt đưa về công an phường bây giờ”. Nhưng tôi vẫn chạy, chạy qua bao nhiêu con hẻm trong xóm, chạy ra hướng biển và thẳng đến bến ghe chài.

    Tôi ngồi tựa lưng vào cái thúng chài trên bờ. Trước mặt tôi một màu đen mênh mông, tiếng gió hòa cùng tiếng sóng biển tạo ra một âm thanh kỳ bí làm tôi sợ hãi… Tôi ngồi chờ anh hai tôi trở về bến. Tôi không dám quay trở về nhà, tôi phải trốn tên công an Được.

    Bỗng có tiếng chân người đi ven mé biển trước mặt tôi, càng lúc càng nhiều. Tiếng thì thầm thúc giục mà mang âm điệu sợ hãi… Tiếng trẻ con khóc, tiếng “xuỵt xuỵt” bảo im lặng. Tiếng gọi tên nhau thì thầm. Tôi nghe tiếng máy nổ của một chiếc ghe từ xa càng lúc càng gần. Ở quanh tôi, đám đông đã đi lên hết trên cầu tàu.

    Chiếc ghe đã cập cầu bến cá. Mọi người lần lượt lên ghe… Tôi nghe tiếng một người đàn ông hỏi:

    – Bà con lên hết chưa? Đếm xem đủ người của mình chưa? Nhanh lên! để ghe rời bến, nhanh lên! nhanh lên! công an nó đuổi tới nơi bây giờ!” Tôi bủn rủn khi nghe mấy tiếng “công an đuổi đến bây giờ”, tôi nhớ đến lời của tên Được: “Tao bắt đưa về công an phường bây giờ!“ Sợ hãi, tôi leo nhanh lên cầu tàu. Một người chạy đến túm lấy tôi ném lên ghe: “Còn một đứa nhỏ, con ai đây?… xong rồi! mở máy cho ghe chạy đi, trời bắt đầu sáng rồi.”

    Trong ghe tối đen, tôi không nhìn thấy ai là ai. Một người lay tôi dậy. Trời đã sáng. Mọi người ngồi ép vào nhau. Vài người lao nhao hỏi tôi: “Cháu là con ai vậy? Tên là gì? Đi với ai?. Tôi chỉ khóc, không biết trả lời như thế nào. Một bà dang tay ra ôm và an ủi tôi. Tôi nói với bà: “Con chờ anh con đi theo ghe đánh cá trở về… rồi một người nào đó ném con lên ghe này khi ghe bắt đầu chạy”.

    Buổi chiều hôm đó, mọi người được chủ ghe cho phép lần lượt ra khỏi lòng ghe để thở chút gió mát. Quanh tôi, biển mông mênh không thấy đâu là bờ. Tôi nhớ đến anh hai tôi, nhớ ba mẹ tôi, nhớ gia đình bác Hội, nhớ mọi người trong xóm.

    Tôi nghe hai người đàn ông nói chuyện với nhau:

    – Chuyến này như vậy là thành công, hai lần trước bị bắt khi ghe vừa rời bến, nhưng lần nầy thì mình thoát, ghe đang chạy vào hải phận quốc tế rồi. …”

    Hai ngày sau ghe bị đột ngột chết máy, phải thả bồng bềnh trên biển. Trong lúc nguy khốn, may sao ghe được một tàu hàng Do Thái đi ngang cứu, và chúng tôi được đưa đến trại tỵ nạn cộng sản ở đảo Galang của nước Nam Dương.

    Tôi được một gia đình người Pháp gốc Do Thái nhận làm con nuôi, định cư tại Tel-Aviv sau mấy tháng sống tại tỵ nạn Galang.

    Hôm xuống tàu để sang Singapour, những người tỵ nạn còn đang bị tạm lưu lại đảo, tụ tập ngoài cầu tàu để tiễn những người được định cư, đi đến các nước đã nhận cưu mang họ. Con tàu xa dần bến, người đưa tiễn khuất dần trong tầm nhìn. Nỗi cô đơn ngập trong tôi, tôi cảm nhận kể từ phút đó, tôi mất tất cả những gì gọi là hình bóng Việt Nam.Tôi gục đầu vào thành tàu, nghe những thổn thức tràn ngập trong lòng. Tôi khóc.

    Ba mẹ nuôi người Do Thái của tôi không có con. Họ đã có hai người con nuôi trước khi nhận tôi. Ba nuôi tôi có một nông trại trồng cam còn mẹ nuôi tôi là một Giáo Sư Ngôn Ngữ Học. Hai người anh của tôi là một người da màu, gốc Madagascar còn nguời anh kia gốc Ai Cập. Trong ba người, tôi nhỏ tuổi nhất, kém người anh cả tám tuổi, kém người thứ hai năm tuổi.

    Chúng tôi được nuôi ăn học đàng hoàng, sống rất hòa thuận và đều theo Do Thái giáo. Bà mẹ nuôi tôi hay than với tôi: “Đất nước của con sao mà nhiều thống khổ quá! chỉ tội cho người dân… Con cố học hành và đừng quên tiếng Việt, sẽ cần cho con sau nầy khi con muốn tìm về cội nguồn.”

    Khi tôi lên Trung Học, mẹ nuôi tôi bắt đầu dạy tôi học tiếng Việt. Trong những giờ dạy tiếng Việt, bà yêu cầu tôi kể những gì liên quan đến gia đình tôi mà tôi còn nhớ được. Tôi kể bằng tiếng Việt gia đình và về hoàn cảnh của tôi. Mẹ tôi đã ghi lại trên giấy và vào buổi cơm tối ngày hôm sau bà đọc lại cho mọi người trong gia đình cùng nghe bằng tiếng Do Thái. Sự việc nầy kéo dài hàng năm cho đến lúc tôi không còn nhớ gì thêm để kể lại. Sau này những lúc chỉ có hai người, mẹ nuôi tôi thường nói tiếng Việt với tôi. Bà bảo đã hai lần đi Việt Nam, tìm đến những nơi mà tôi đã kể cho bà nghe để tìm tin tức gia đình tôi nhưng vô hiệu. Có lẽ trí nhớ và số tuổi nhỏ của tôi đã không kể lại đủ chuyện gia đình cũng như nơi chốn gia đình tôi sinh sống trước đây cho bà nghe.
    Sau khi tốt nghiệp Đại Học, tôi được học bổng của trường Đại Học Sorbonne Pháp để học tiếng Pháp tại Paris. Một hôm đang ăn trưa tại một tiệm phở thuộc khu phố người Việt quận 13, một bác phục vụ nhà hàng lại bàn nói chuyện với tôi. Bác hỏi thăm và cho biết bác cũng là người gốc quận ba Đà Nẵng trước đây. Bác và gia đình vượt biển sau khi thành phố Đà Nẵng bị mất vào tay Cộng sản. Bác khoe có trở về Đà Nẵng vài lần, nên bác cho biết các sự đổi thay và chỉ dẫn tôi cách tìm đường về nơi tôi đã được sinh ra và lớn lên. Bác khuyên tôi nên về Đà Nẵng một chuyến để tìm lại gốc gác gia đình.

    Tôi đi dạy được hai năm thì cưới vợ và rồi có hai con, một trai một gái. Khi đứa con trai đầu của tôi được tròn bốn tuổi, tôi mua cho nó một chiếc xe đạp nhân ngày sinh nhật của nỏ. Khi đem chiếc xe về nhà, kỷ niệm của ngày xa xôi ở quê nhà trở về… tôi nằm trên võng nghe mẹ tôi đọc lá thơ của ba tôi viết từ chiến trường… ba hứa khi về nhà sẽ mua cho tôi chiếc xe đạp mừng sinh nhật… nhưng rồi mơ ước đó không bao giờ đến. Nhìn con trai tập đạp xe, tôi ứa nước mắt, bùi ngùi nhớ lại tuổi thơ của mình, tội nghiệp cho thằng bé là mình hai chục năm trước. Tôi tự hỏi nếu ngày đó tôi có được chiếc xe, không biết tôi có những cử chỉ vụng về, loạng quạng khi tập đạp xe như con tôi bây giờ?

    Tôi hay nói với vợ tôi, ”Cho đến tuổi nầy, anh chưa bao giờ bước lên yên xe đạp”. Vợ tôi an ủi: “Anh lại trở về với quá khứ rồi, hãy quên đi!”

    Tôi chỉ biết thở dài… Làm sao mà quên được!

    Mùa hè năm 2010, mẹ nuôi tôi khuyên tôi nên trở về Đà Nẵng tìm thăm tin tức gia đình. Nếu tôi tìm được, bà định sẽ đem hết đại gia đình cùng đi với tôi trong một chuyến đi sau.

    Tôi về đến Đà Nẵng. Theo lời hướng dẫn của cô tiếp viên khách sạn và những chi tiết bác đồng hương tại một nhà hàng bên Pháp cho biết năm nào, tôi tìm đường ra bờ sông Hàn rồi tìm phà qua sông. Bến phà này mấy mươi năm trước anh hai đã đưa tôi qua lại mấy lần để đến bịnh viện bán máu lấy tiền mua gạo. Mọi vật đã đổi thay, phà đã ngừng đưa khách, chiếc cầu mới đã được bắt ngang hai bờ sông. Bác xe ôm lớn tuổi chở tôi chạy vòng qua bao nhiêu khu phố mà ở cái tuổi tôi thời ấy chưa có, bây giờ các khu phố đã mọc lên che lấp những bờ dương và bãi cát cùng sóng biển. Tôi ra đi ở cái tuổi lên năm, chưa có ý niệm gì về tên làng, tên xóm, tên phường, tên con đường hẻm chạy qua trước nhà… nên bao nhiêu năm qua tôi không thể nào liên lạc được về nhà cũ, quê hương dường như đã chết trong tôi. Tôi nhờ bác lái xe ôm hỏi thăm và đưa tôi đến nơi có bến ghe cá mấy mươi năm trước. Tôi hy vọng từ đó tôi sẽ tìm ra nhà cũ của ba mẹ tôi. Bác lái xe ôm đã đưa tôi đến bến ghe cá cũ, nhưng nay chỉ còn cái tên của ngày trước vì bến đã dời đi nơi khác, thay vào đó là một khách sạn đã được xây lên cùng những ngôi nhà cao tầng. Tôi hỏi thăm nhà ba mẹ tôi, hỏi thăm nhà bác Hội, hỏi thăm tên anh hai tôi, mọi người đều lắc đầu, trả lời với một giọng nói có âm sắc cao và sắc mà tôi chưa hề được nghe khi còn thuở thơ ấu.

    Lòng nặng chĩu và thấy lạc lõng, tôi rưng rưng muốn khóc. Cả buổi trưa tôi lang thang, từ khu nầy qua khu khác, áo đẫm mồ hôi, tôi đứng tựa vào một tường nhà có bóng mát tránh nắng. Tôi đã định quay trở về khách sạn nghỉ và sẽ tiếp tục trở lại khu nầy ngày hôm sau. Bỗng tôi nghe có tiếng ve sầu vang lên đâu đây nghe thật buồn não. Ngày xưa trong xóm chỉ có nhà tôi có cây phượng vĩ. Mùa hè hoa nở đỏ rực, lũ ve sầu từ đâu đến buông tiếng kêu râm ran và rầu rĩ, như ru tôi ngủ trong những buổi trưa hè nóng bức. Khi có cơn gió mạnh, những cánh phượng rơi lả tả xuống sân nhà, mẹ tôi cầm chổi quét. Một lần tôi nghe mẹ tôi phàn nàn với ba tôi: “Anh ơi, hãy đốn cây phượng làm củi cho rồi. Ngày nào cũng quét hoa và lá rụng, mệt quá”. Ba tôi cười trả lời: “Cây phượng nầy do ông nội trồng để tưởng nhớ bà nội sau khi bà nội chết, bà nội mấy đứa nhỏ tên Phượng, mình không đốn cây được đâu.” Tôi lần đi về hướng có tiếng ve rên rỉ… màu đỏ của hoa phượng chan hòa trước mắt tôi: một cây phượng to lớn im lìm dưới nắng chói chang… Tôi dừng chân bên cây phượng được trồng ngay bên cổng vào một căn nhà…

    Tôi nhìn kỹ, hình ảnh ngôi nhà xa xưa của tôi hiện ra rõ ràng trong trí nhớ. Tôi đã tìm ra được nhà tôi. Hàng hiên không có gì đổi thay, tất cả còn nguyên như cũ. Tôi lặng người vì vui mừng. Lòng hồi hộp nhưng cố giữ bình tĩnh, một lát sau, tôi gọi vọng vào bên trong:

    – Có ai trong nhà không, cho tôi hỏi thăm? Tôi gọi đến lần thứ ba thì cánh cửa nhà hé mở, một đứa bé trai bước ra nhìn tôi rồi vội quay vào đóng cửa lại. Tôi kiên nhẫn chờ. Cánh cửa lại mở, một người đàn ông râu tóc bạc phơ chống nạng bước ra. Tôi nhận ra ngay bác Hội ngày xưa của tôi. Bác già quá nhiều. Bác chống cây nạng gỗ mà người cứ run run. Bác lấy tay che trán nhìn tôi. Tôi bồi hồi, xúc-động nói lớn:

    – Bác Hội còn nhớ con không? Con là Tấn em đây. Bác đi khập khiễng ra cổng, giọng lắp bắp:

    – Tấn em hả? con còn sống hả? Trời ơi! con còn sống hả?… Vào đi, vào đi con.

    Hai bác cháu loạng choạng ôm nhau, cả hai cùng khóc, khóc vì mừng gặp lại nhau và khóc cho thân phận của mỗi người và thân phận của nhau. Tôi theo bác vào nhà, đưa mắt nhìn quanh, vội hỏi bác:

    – Ba mẹ cháu đâu? anh hai cháu đâu bác? Bác khựng lại rồi nói:

    – Chuyện còn dài, rồi bác sẽ kể lại cho con nghe. Con ngồi nghỉ cho khỏe đã!

    Và bác kể:

    “Ngày mẹ con đi Huế tìm thăm ba con bị thương ở Quảng Trị và được đưa vào điều trị tại bịnh viện Huế đến nay, bác chỉ nghe bạn đồng đội của ba con kể lại. Khi mẹ con ra đến bịnh viện thì ba con đã bị chính quyền mới của Cộng sản đuổi ra khỏi bịnh viện cùng với các đồng đội khác cũng bị thương. Những người thương binh và các người nuôi bệnh cùng cảnh này tụ tập sống dưới chân cầu Tràng Tiền, nhờ vào sự giúp đỡ của dân chúng. Sau đó họ dìu dắt nhau theo quốc lộ 1 trở về Đà Nẵng, ngày xin ăn, tối ngủ bờ ngủ bụi. Khi đến Cầu Hai thì ba con kiệt sức vì vết thương làm độc nên chết tại đây. Sau khi được dân Cầu Hai giúp chôn cất ba con xong thì ngày hôm sau mẹ con, lúc đó cũng đau yếu, thất thểu đi một mình trên đường vào Đà Nẵng. Rồi từ ngày ấy đến nay, không ai biết tăm tích của mẹ con ở đâu nữa. Chắc là chết ở đâu rồi, vì nếu còn sống mẹ con thế nào cũng tìm về nhà ở Đà Nẵng với hai anh em con.”

    Tôi gục đầu xuống bàn, thổn thức. Giọng bác đều đều:

    “Khi con mất tích, anh hai con, gia đình bác cùng bà con lối xóm ngày đêm tìm kiếm hoài không ra. Anh hai con buồn lắm, sống như một cái bóng thui thủi trong căn nhà này – bác nhìn quanh nơi bác và tôi đang ngồi. Ba năm sau, anh hai con đến tuổi “thi hành nghĩa vụ quân sự” thì bị đưa qua chiến trường Campuchia. Chỉ sáu tháng sau, địa phương báo cho bác biết anh hai con đã tử thương. Người ta hứa sẽ đưa xác về, nhưng đó chỉ là lời hứa suông thôi, không bao giờ có xác về. Bác đã lấy một mảnh đất sau vườn nhà con xây một ngôi mộ nhỏ, lập bia chung cho cả ba người, ba mẹ con và thằng Tấn anh của con. Hằng ngày bác thắp nhang cho linh hồn ba mẹ con và anh hai con khỏi lạnh lẽo. Còn riêng phần con, bác nghĩ là con không chết, có lẽ con đã đi lạc đến một nơi nào đó, có người đem về nuôi, một mai khôn lớn con sẽ tìm ra gốc gác gia đình để trở về…. Anh hai con cũng có ý nghĩ như bác nên trước ngày bị đưa đi Campuchia, anh con đã giao hết giấy tờ nhà đất cho bác giữ hộ và dặn: “Nếu con có mệnh hệ nào thì xin bác giao lại cho thằng Tấn em con.” Bác giữ đã lâu mà vẫn không có tin tức gì của con, bác sợ chính quyền sẽ tịch thu căn nhà nên bác đã xoay xở sang tên ngôi nhà cho bác, nhờ vậy, cái nhà vẫn còn. Nay con trở về, bác sẽ giao nhà lại cho con.

    Tôi theo bác ra sau vườn, ngôi mộ nằm bên một góc vườn. Mộ bằng xi măng, sạch sẽ. Tôi đọc tên ba, mẹ và anh hai tôi ghi trên mộ bia. Tôi quỵ người xuống, gục đầu vào thành bia, nước mắt trào ra. Lòng tê tái, tôi đau đớn nghĩ đến cha mẹ, đến anh hai tôi và tự xót thương cho thân phận mình mồ côi, cô độc, tìm ra gốc gác gia đình chỉ để nhận thêm một sự thực rằng trước sau gì tôi vẫn không còn cha mẹ, anh em, không có ai là người ruột thịt… đến lúc bác Hội nắm tay kéo tôi đứng lên, đèn trong nhà bác đã thắp sáng.

    Ngày hôm sau, tôi vẫn giữ căn phòng ở khách sạn nhưng về sống với gia đình bác Hội. Một hôm bác đưa tôi dạo quanh xóm cũ, phần lớn dân cư tù nơi khác đến. Tình cờ ngang qua một tiệm sửa xe, tôi gặp Hiền, người bạn cùng học lớp Mẫu Giáo với tôi ngày xưa. Hai đứa nhận ra nhau. Cả hai bồi hồi, xúc động. Bằng tuổi tôi nhưng Hiền mang dáng dấp của một ông lão. Ba của Hiền, ngày xưa là Trung Úy của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. bị chính quyền mới bắt đi tù cải tạo ở Trung Phước rồi chết tại đó. Vì có lý lịch con của “ngụy” nên Hiền không tìm được công ăn việc làm, nên đành lấy hiên nhà làm tiệm sửa xe từ mấy chục năm nay. Con cái học hành không tới đâu, nhà quá nghèo. Vợ cũng phải phụ chồng sửa xe. Bất chợt cơn mưa rào chợt đến. Hiền vội vã tìm thau và chậu để hứng nhưng cả tiệm sửa xe vẫn tràn đầy nước từ trên mái đổ xuống. Hiền nói: “Cái nhà đã ‘rệu’ từ chục năm nay, không tiền để sửa, bây giờ lo cái ăn cho gia đình khỏi đói là đủ mệt rồi”. Tôi nghe mà lòng bỗng dưng cồn cào như bị cái đói ngày xưa hành hạ, cái đói mà anh Hai tôi phải bán máu, chất dinh dưỡng cơ thể để đổi lấy cái ăn mà sự dinh dưỡng cơ thể đang cần… một cái vòng luẩn quẩn khốn nạn của nhu cầu sinh tồn.

    Buổi chiều trước ngày từ giã gia đình bác Hội để về lại Do Thái, bác cùng tôi ngồi tâm sự trong phòng khách. Bác kể lại tình bạn giữa bác và ba tôi, kể đến đâu, bác thở dài đến đó, bác ngậm ngùi nhớ đến kỷ niệm của một thời đã qua. Tôi tựa đầu vào thành ghế, tai chăm chú nghe nhưng mắt lơ đãng nhìn lên trần nhà. Tôi hướng mắt về phía cái kèo nhà có cái khe nứt, sực nhớ lại chuyện ngày trước bác Hội đã thúc hối anh hai tôi tháo cờ ba sọc đỏ giấu đi… anh hai tôi đã leo cột nhà đem giấu vào chỗ khe nứt đó… bỗng nhiên tôi đứng lên đi vòng vòng trong phòng khách, mắt cứ nhìn chăm chăm vào khe nứt trên kèo nhà. Có lẽ bác Hội ngạc nhiên nên hỏi tôi:

    – Con tìm cái chi rứa? Tôi trả lời:

    – Bác còn nhớ, ngày xưa khi cộng sản vào thành phố, bác thúc anh hai con đem cây cờ ba sọc đỏ giấu đi và anh Hai con đã đem lá cờ giấu vào cái lỗ đó, tôi vừa nói vừa chỉ tay lên lỗ nứt trên kèo nhà. Bác Hội “ờ” lên một tiếng rồi nói “thằng ni nhớ dai ghê, như vậy thì nó còn ở đó; từ đó cho tới ni, chỗ đó không ai động đến, mà lâu quá không biết lá cờ có mục có nát không?”

    Nói xong bác tiến đến cửa lớn nhìn ra ngoài và nói với vẻ thận trọng:

    – Sắp nhỏ chạy chơi đâu hết rồi, con muốn xem cái đó thì leo lên xem thử.

    Nói xong bác khép cửa lại, gài chốt ngang. Tôi đã định xin phép bác leo lên xem thử lá cờ còn đó không, thì nghe bác khuyến khích làm tôi vừa sung sướng vừa hồi hộp. Tôi đang loay hoay tìm cách leo lên cây cột (nhà xây theo kiểu xưa, có nhiều cột) thì bác đẩy cái bàn đèn sát cây cột nhà rồi để thêm cái ghế lên trên bàn, bác nói:

    – Làm như thế ni leo dễ hơn!

    Tôi thận trọng bước lên bàn, bước lên ghế, dùng hai tay đu lên xà nhà. Tôi chợt nhớ đến anh hai tôi, hồi đó anh leo lên cột sao dễ dàng và nhanh nhẹn như sóc vậy.

    Tôi thọc tay vào khe hở bên kèo nhà, tay chạm vào một vật mềm mềm, kéo ra, một cuộn vải màu vàng đã phai màu… Tôi nói với bác Hội:

    – Nó còn đây bác ơi!. Tôi ném cuộn vải màu vàng xuống cho bác… Bác nhặt cuộn vải lên, mở ra, tay giũ giũ mấy lần, lá cờ ba sọc đỏ hiện ra trước mắt tôi… tôi nghe bác nói:

    – Còn nguyên si, chỉ bạc màu chút thôi. Tôi tuột xuống đứng bên bác. Bác trùm lá cờ lên đầu bác. Tôi nghe bác hít… mấy cái rồi bác lặng yên, chừng một phút sau bác lấy lá cờ ra khỏi đầu. Tôi nhìn thấy hai mắt bác đỏ và long lanh nước. Bác trao lá cờ cho tôi giữ và mở cửa đi ra ngoài rồi quay lại với một lọ thủy tinh trên tay, bác nói với tôi:

    – Con cuộn lá cờ lại bỏ vài cái lọ ni, đem ra chôn bên mộ của ba con, ba con chết không có ai phủ cờ, mình nay đem chôn cạnh ba con như rứa ba con cũng ấm lòng.

    Tôi cuộn lá cờ cho vào lọ, đậy nắp lại. Bác và tôi cùng đi ra ngôi mộ sau vườn. Bác dùng con dao chẻ củi đào một cái lỗ trên đầu mộ, tôi để cái lọ vào đó và bác lấp đất lại. Tôi nghe giọng bác thì thào như người tâm sự:

    – Tổ quốc chưa kịp ghi ơn em thì Tổ quốc đã mất. Tổ quốc chỉ còn một chút nầy, em mang theo để sống với kỷ niệm của một giai đoạn lịch sử… và biết đâu Tổ quốc sẽ sống lại với con cháu của chúng ta sau nầy.

    Chiều hôm đó tôi từ giã gia đình bác Hội. Trên đường đi từ trong nhà bác ra đường lớn đón xe để về khách sạn, bác nhắc tôi:

    – Con nhớ đừng quên giúp đỡ Hiền, thằng bạn của con. Nó cần sửa lại căn nhà dột nát của nó, không biết cả đời nó có tiền sửa được không. Tôi nói:

    – Bác yên tâm, con sẽ giúp tận tình, con sẽ chuyển tiền về cho bác để bác đưa cho Hiền. Nếu không đủ con sẽ chuyển thêm cho đủ.

    Tôi lại nói với bác:

    – Dường như cả đời, bác đã lo hết cho gia đình ba mẹ con và anh em con, con nhớ ơn bác vô cùng. Nay bác có tuổi rồi, bác nên quan tâm cho sức khỏe bác nhiều hơn.

    Bác nắm chặt tay tôi hỏi:

    – Còn ngôi nhà của ba mẹ con, con tính sao đây? Nay con còn đó, bác tiếp tục giữ nhà thì lòng bác ngại quá…!

    Tôi trả lời trong nghẹn ngào:

    – Tình cảm và công ơn bác dành cho gia đình con như trời biển, có một trăm ngôi nhà như vậy cũng không thấm vào đâu đối với tấm lòng của bác… Con chưa bao giờ có một ý nghĩ nào về ngôi nhà đó là của ba mẹ con hay của con. Nó là của bác… nó là của bác. Bác nên lo cho Bác nhiều hơn!

    Thay vì đi máy bay từ Hà Nội thẳng về Do Thái, tôi đổi vé đi Paris. Nước Pháp có vài ngôi chùa Việt Nam còn bên Do Thái không có.

    Tôi tìm đến một ngôi chùa ở ngoại ô Paris để xin lập bài vị thờ ba mẹ và anh hai tôi theo như lời bác Hội khuyên.

    Vị sư trụ trì chùa tiếp tôi sau chánh điện, hỏi:

    - Anh cho biết tên thân sinh của anh.

    - Tên cha?

    - Đoàn Minh Tiếng.

    - Ngày và năm sinh?

    - Dạ, thưa thầy con không biết.

    - Ngày và năm chết?

    - Dạ, thưa thầy con không biết.

    - Pháp danh?

    - Dạ, thưa thầy con không biết.

    Vị sư trụ trì nhìn tôi với đôi mắt khác thường, rồi lắc đầu:

    - Ngày sinh, tháng đẻ của cha anh mà anh không biết, lạ thật!

    - Vậy tên của mẹ anh là gì?

    - Nguyễn Thị Kim Ngân.

    - Ngày và năm sinh?

    - Dạ, thưa thầy con không biết.

    - Ngày và năm chết?

    - Dạ, thưa thầy con không biết.

    - Pháp danh?

    - Dạ, thưa thầy con không biết.

    Vị sư trụ trì đứng dậy đi tới đi lui rồi nhìn tôi với đôi mắt nheo lại như nghi ngờ như tôi đang đùa với ông một cách không nghiêm chỉnh.

    Sư lại ngồi xuống, hỏi tiếp:

    - Anh còn muốn lập bài vị cho ai nữa không?

    - Dạ, còn người anh.

    - Tên gì?

    - Đoàn Tấn Anh.

    - Ngày sinh và năm sinh?

    - Dạ, thưa thầy con không biết.

    - Ngày chết và năm chết?

    - Dạ, thưa thầy con không biết.

    - Pháp danh?

    - Dạ, thưa thầy con không biết.

    Thầy trụ trì ném cây bút xuống bàn rồi niệm Phật:

    - “Nam mô A di Đà Phật”

    Thầy thở dài hỏi tôi:

    - Anh muốn lập bài vị để thờ người thân trong chùa mà không nhớ ngày sinh tháng đẻ, ngày chết, Pháp danh thì chùa làm sao cúng kiến cầu siêu được?

    - Dạ thưa thầy, con lạc gia đình cha mẹ và anh con từ lúc năm tuổi nên con không biết ngày sinh tháng đẻ….




    Duy Trác - Âu Oanh
    https://tongphuochiep.com/index.php/bao ... ac-au-oanh
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21156
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

CHUÔNG NGUYỆN HỒN AI

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          






CHUÔNG NGUYỆN HỒN AI
Tựa bài thơ mượn từ một tác phẩm của Hemingway về cuộc nội chiến Tây Ban Nha...





30 tháng 4 nóng như lửa
Cởi trần mà cũng rịn mồ hôi
Truyền hình giống như con chó sủa
Những tiếng tru chưa thấy luân hồi

Ai cũng mong chờ luật nhân quả
Nhưng tiểu nhân đắc chí dài dài
Áo cơm bịt miệng người quân tử
Biết bao giờ chuông gọi hồn ai

Trời cao sao không đổ sương xuống
Sao không mưa một đấng cứu đời
Bao nhiêu năm qua toàn xác sống
Buôn thần bán thánh lũ ma trơi

Bấy nhiêu năm qua như địa ngục
Kéo cưa lừa xẻ xứ Tiên Rồng
Ác với dân và hèn với giặc
Rồng Tiên giờ cũng né biển Đông

30 tháng 4 nóng như lửa
Ta đi tìm ngọn gió mát lành
Ôm em trong tay, đừng khóc nữa
Mai này mình chép lại sử xanh !





(BCV)






https://www.facebook.com/buichi.vinh.3/ ... j2VZdMMbVl
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21156
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

thương tiếc không nguôi

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    tri ân vị quốc vong thân
    thương tiếc không nguôi
    _____________________________
    Tôn Thất Tuệ _ 2015



              

              


    Khoảng 1967, tôi có đi theo một người bạn cốt ý ăn thịt bò nướng tại nhà một giáo sư Mỹ trên đường Duy Tân, Saigon. Cùng đến có Patrick Honey, chuyên viên về VN trong phái bộ Anh tại hội nghị Geneve 1954 và là cố vấn của ngoại trưởng Anthony Eden. Chừng mươi thực khách vây quanh ông trò chuyện một hồi không lâu lắm. Honey nói ông ta không ngạc nhiên khi nghe tin chiến tranh bùng nổ tuy dưới dạng du kích chiến, đánh dấu bởi trận Ấp Bắc Bà Bèo (29.09.1959). Theo ông, hơi hướng chiến tranh đã ngửi thấy khi hiệp định Genève xem như đi đến kết cuộc chia đôi VN tuy chưa ký kết. Ông đã đánh hơi trong khi tiếp xúc với nhân viên các cấp của phái bộ CS.

    Theo nhà ngữ học nầy, Phạm Văn Đồng tưởng chừng cường quốc giao hết cả nước Viêt Nam cho HCM vì nước Pháp còn tệ hơn một thương binh mất cả tứ chi. HCM đã căm hận đàn anh quốc tế không tiếp tục viện trợ quân sự. Trung Cộng muốn nhân cơ hội nầy chứng tỏ vai anh, ngang với Nga nên đã cố ép HCM chấp nhận cái khôn ngoan thường tình là có còn hơn không. CS chuẩn bị ngay từ đầu bằng cách hô hào tập kết ra bắc thành phần mới được tuyên truyền nhưng để lại thành phần cốt cán.

    Thật vậy, về đến Hà Nội, HCM gọi là tả khuynh các nhóm hay cá nhân nào chủ trương lấy hòa bình xây dựng kinh tế nâng cao mức sống dân chúng, cạnh tranh với miền Nam. Kinh nghiệm cho thấy rằng đi theo kiểu phát triển của Triều Tiên chỉ đưa đến thất bại vì phía nam vĩ tuyến 38, Mỹ đổ tiền rất nhiều mà tài nguyên thiên nhiên cũng hơn. Miền Nam VN lại được thiên nhiên ưu đãi giàu có hơn nếu đem so bắc nam Triều Tiên.

    Cải cách ruộng đất qua đấu tố, ngoài mục đích làm cho giống như đàn anh CS, nhằm đưa tất cả cơ cấu sản xuất tập trung cho nhà nước để chuẩn bị chiến tranh. Đoàn ngũ hóa nhân dân cũng đi vào mục đích ấy. Nền văn nghệ cũng quyết liệt hơn. Không còn nét dân tộc và lãng mạn như thời kháng chiến. Những tác phẩm có tính cách trực khởi từ tình tự dân tộc như của Hữu Loan, của Việt Lang... đều bị cấm triệt và các tác giả bị tù đày. Về lý thuyết và thực tế cái gọi là dân tộc không còn sức kêu gọi trong giai đoạn mới. Hơn nữa tính chất dân tộc là xương sống của những thứ cần đả phá để thay thế bằng lòng yêu đảng và lãnh tụ. Văn nghệ là văn nghệ sản xuất, là tin tưởng vào lãnh tụ.

    Mọi hình thái sinh hoạt, mọi chủ trương chỉ nhắm vào đánh chiếm miền nam dù với hình thức trường kỳ.

    Bằng chứng rõ ràng nhất của âm mưu được tìm thấy trong lời thuyết minh của Nguyễn Mạnh Tường trước hội nghị các luật gia về hòa binh 1956 tại Bruxelle (ghi lại trong một hồi ký). Ông đã kêu gọi các đồng nghiệp chấp nhận vũ trang và bạo động là hòa bình. Đừng ngây ngô mà nói hòa bình và võ trang khởi nghĩa là hai thực thể tách lìa và đối kháng; hai thứ đó không như ngày và đêm.

    Ông đã than khóc cho một nước VN bị chia cắt bằng con dao là sông Bến Hải. Nói với luật gia, ông dùng ví dụ trong nghề, là các phiên tòa ly dị, con sông nầy là nước mắt của đàn con. NMT đòi thế giới công nhận sự nổi loạn của luật sư Nguyễn Hữu Thọ trong Nam. "Chúng ta không nên hiểu chiến tranh là cái gì nguy hại, không có lằn ranh giữa chiến tranh và hòa bình". Ông lên án sự hời hợt trong sự suy nghĩ của người bình dân, và ông chủ trương nhìn chiến tranh và hòa bình trong lối suy nghĩ biện chứng, vượt qua lối giải thích nặng phần ngữ âm và cú pháp.

    Chỉ cách phía trên chừng mươi trang, NMT đã phân biệt chính trị và luật pháp. Một bên chính trị là mơ hồ như ma như quái; một bên là luật pháp rõ ràng có lằn mức giới định. Nhưng đến đây ông lại kêu gọi các luật gia đồng nghiệp dùng biện chứng cùng tính cách năng động để hiểu chiến tranh chính là hòa bình, vượt lên trên ngôn từ.

    NMT quên nói rằng hiệp định Geneve 1954 được ký kết giữa hai phái bộ quân sự CS và Pháp. Nó tạo nên một hình thái phần nào giống tình trạng ở vĩ tuyến 38; quân Nhật bị giải giới bởi Nga phía bắc, Mỹ phía nam; thực tế tạo nên hai nước Triều Tiên. CS đồng ý rút quân về cố thủ phần chia lãnh thổ, phía bắc vĩ tuyến 17.

    NMT mang sứ mệnh do CSVN giao phó, cùng với Nguyễn Huy Mân chủ tịch tòa án quân sự để chuẩn bị dư luận quốc tế về âm mưu xâm chiếm miền Nam bằng vũ lực.

    Ngoài thực tế chính trị với tiền lệ rút quân ở Triều Tiên, Miền Nam vẫn có sự liên tục chính thống từ khi Bảo Đại tuyên bố độc lập sau thế chiến hai. Miền Nam là một quốc gia; chính phủ vẫn trông vọng một nước Việt duy nhất qua hai phản ứng
    • 1. không chấp nhận dự Hội Nghị Á Phi với sự hiện diện của BV,
    • 2. không chấp nhận đề nghị cả hai miền vào Liên Hiệp Quốc
      (đúng sai không bàn ở đây).


    Kêu gọi luật gia thế giới ủng hộ một cuộc nổi loạn bạo động trong một quốc gia liên tục - ít nhất với lẽ thường - không có tí gì luật pháp. Đáng lý Hội Luật Gia Dân Chủ nầy phải để ý đến tình trạng luật pháp tại BV. Hà Nội đã đàn áp đẫm máu các cuộc nổ dậy, ví như vụ Quỳnh Lưu.

    Lời lẽ văn hoa và chuyên nghiệp trước hội nghị che dấu sư hiện diện của CS trong việc hình thành hiệp định Genève. Ông chỉ nói một cách trống rỗng về tình trạng chia cắt. Nhưng ai cũng biết ông đến với một mục đích rõ ràng là bênh vực khởi nghĩa võ trang tại miền Nam. Ông đã cố tình (hay vì không biết) bỏ lững mối liên hệ giữa Nguyễn Hữu Thọ và chính quyền BV. Nhưng thiển nghĩ ông dư sức hiểu ông được phái đi không phải là thừa giấy vẽ voi.

    Sau đó trong suốt cuộc hành trình, qua sinh hoạt với từng phái đoàn riêng, ông đã phê phán thậm tệ nền pháp luật BV trên lý thuyết và thực hành. Ông rất khắc khe với cải cách ruộng đất, không tiếc lời xấu xa cho chế độ CS. Nhưng học giả nầy quên hay cố quên rằng chính thể mà ông cho là tồi bại là phi nhân lại là guồng máy chỉ huy công cuộc mà ông ca ngợi. Đó là khởi nghĩa võ trang ở miền Nam. Nói khác ông mong chế độ ông chê trách phủ trùm đến Mũi Cà Mâu. Nếu mấy chữ kế cận trên đây không nằm trong ý tưởng của ông thì vị tiến sĩ đôi của chúng ta rất ngây ngô, hành sử như một luật sư chuyên nghiệp; làm việc cho một đơn đặt hàng nguy hiểm, như trường hợp biện hộ cho một kẻ sát nhân bị bắt quả tang và thú nhận cùng các bằng chứng rõ rệt.

    Đây chỉ dùng một đoạn ngắn minh chứng sự chuẩn bị và ý hướng xâm chiếm miền Nam. Ông đã cổ súy sự tự phát võ trang. Điều nầy không mới lạ mà là một đề tài chính trong tuyên truyền của Hà Nội.

    Tính cách gọi là "nhân dân" ấy dễ ngụy trang trong du kích chiến. Mà du kích chiến tự nó không thể giải quyết rốt ráo, phải nhường chỗ cho chiến tranh qui ước và diện địa. BV đã đi ngược lối tuyên truyền ấy khi cho những đơn vị lớn vượt Bến Hải xâm vào Quảng Trị 1972; và sau đó chúng ta chứng kiến những trận đánh lớn và xua quân ào ạt chiếm miền Nam ngày 30.04.75.

    Chiến trận kết liễu, phô bày trước mắt người miền Nam một miền bắc nghèo nàn và bưng bít; phô bày trước mắt người Bắc một miền Nam không phải là một nhà tù vĩ đại, dân chúng không ăn cơm với cái gáo dừa. Trước chính sách bần cùng hóa, người miền Nam còn ở trong nước, phải nghĩ đến cuộc sống khó khăn, ở ngoài nước chỉ nghĩ đến thân nhân. Họ không có thì giờ để nghĩ đến những người trong cùng chiến tuyến đã chết, vừa chết.

    Sự thương tiếc ấy cũng bị lu mờ vì lòng căm hận đối với ván cờ thí xe lấy chốt, căm hận đối với những kẻ có binh quyền để lại cái băng nhựa kêu gọi chiến đấu đến giọt máu cuối cùng mà người thật đã cùng vợ con xô chiếc trực thăng xuống biển sau khi đã đáp an toàn trên tàu chiến ngoài khơi. Dân chúng không tìm ra trung tướng Thiệu, cái trung tướng mà người bằng da thịt tên Nguyễn Văn Thiệu bảo đảm hiện hữu, còn cái tổng thống Thiệu sẽ mất đi. Thì ra tổng thống cũng không, mà trung tướng cũng không.

    Tôi không quen ca ngợi kể cả ca ngợi Phật Chúa. Tôi lại không quen ca ngợi những chiến sĩ mọi cấp đã hy sinh, vì chính tôi là một quân nhân biệt phái, đi từ quân trường về nhiệm sở cũ và làm việc tại Saigon cho đến ngày hạ màn. Tôi đã không thấy sự cơ cực của người lính chiến, tôi đã không trực diện với cái chết kề hông. Tôi cảm thấy không đủ tư cách đứng lên đọc một lời cảm niệm, khệ nệ đặt một vòng hoa trên mồ chiến sĩ. Tôi không có quyền hô hào một ai xông vào lửa đạn. Nhưng tôi thấy được phép ta thán sự vong ân bội nghĩa, "bạc như dân".

    Vừa đi tù về, một hôm chờ xe buýt, phải căng tai mà nghe để tách xa, khỏi di lụy; nhưng nhờ vậy tôi nghe hai bà nói về cái chết của Phan Thanh Giản mà các sử gia cách mạng cho là vô lối; Phan Thanh Giản không yêu nước, chỉ có những người như Lê Hồng Phong mới yêu nước. Chuyện nầy làm tôi liên tưởng sự phê phán của vài bà tướng bà tá đối với bà Lê Văn Hưng: ông Hưng tự sát là phí đời, không cần thiết, không khôn ngoan tí nào.

    Phải rồi, những bà ấy hằng ngày tại Saigon điều khiển mười sáu ông tướng bốn màu nên xem các ông tướng như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng không hơn gì con bài tứ sắc. Hàng ngày các bà điều khiển cả tiểu đội, nào lái xe cho bà đi chợ, lái xe cho con đi học, các bà có thể ăn lương của họ vì họ mưu cầu chữ thọ, điều khiển họ như tôi tớ. Vì vậy các bà không thể quan niệm cái hào hùng của anh lính trận, không thấy huynh đệ chi binh. Trong vài ngày cuối ở Cần Thơ, tướng Nguyễn Khoa Nam đi thăm bệnh viện dã chiến; một thương bệnh binh cố sức chồm ôm ông, vừa khóc vừa nói: trung tướng đừng bỏ em.

    Các bà mang cấp bậc của chồng ấy tốt nhất nên ngậm miệng ăn tiền, vì rất có thể các đức ông chồng đang hung hăng trên diễn đàn cộng đồng, đứng đầu các tổ chức cựu quân nhân, bộ trưởng trong các chính phủ lưu vong. Ở đời có những người mình gặp mà không nói thì mất người, có người mình nói thì mất lời. Chị Hưng ơi, nói với họ làm chi, chị ơi.

    Các bà thì sao cũng được còn các ông thì coi không được. Vài ông đã trở cờ. Nhưng điều buồn cười nhất là tất cả các vị ấy, dân sự, quân sự, văn nghệ sĩ đi đúng một khuôn thức: phải chửi lại cộng đồng, và chửi lại quân đội, hai tập thể đã cưu mang họ trong suốt cuộc đời họ. Không chửi như thế có được không? Đó là điều kiện của Hà Nội chăng?

    Tôi không nghĩ như vậy, mà đây do tâm thức của kẻ qui hàng rất chi là Đông Chu Liệt Quốc. Ngày xưa Ngô Khởi tự ý giết vợ để cho vua tin. CS đa nghi, các vị ấy phải theo bài học của nhà quân sự Xuân Thu nầy. Rõ ràng, cứu cánh biện minh cho phương tiện; mà đây lại là phương tiện không cần thiết.

    Nếu những người nầy thật sự là CS từ đầu (đảng viên hay nằm vùng) nay trở về chủ cũ; đó là những điều đáng buồn, họ không đáng trách. Nhưng đáng miệt thị là những kẻ từ trong trứng nước, lớn lên, giàu có trong ân huệ của miền Nam, hưởng không khí tự do (dù tương đối) quay trở lại làm hại cho miền Nam. Họ thuộc nhiều thành phần trong xã hội, và cũng là nhóm nhiều mồm mép nhất. Họ đáng bị nguyền rủa, trong lúc chúng ta không khinh thị những cán binh CS thực tâm tin tưởng như họ được tuyên truyền. Lớp nầy giống như kẻ bán khai chặt cây táo mà hái trái trong lúc người văn minh dùng thang mà hái rồi tưới nước cho cây.

    Trường hợp tệ hại nhất, theo tôi, một ông tướng đã nói rằng nếu quân miền Nam giải phóng miền Bắc thì sự sát hại còn ghê gớm bội phần những điều đã xẩy ra sau 1975 bởi CSVN. Con cá sẩy bao giờ cũng lớn; vì con cá ấy chưa có trong tay, tự mình cảm thấy nó to hay tự ý khếch đại. Có câu hỏi trong Cổ Học Tinh Hoa, vẽ ma dễ hay vẽ người dễ; vẽ ma thì dễ quá, cái mũi không cần cân xứng, vẽ năm mười cái sừng cũng chả sao, nanh dài đến rốn càng tốt.

    Biện lý cuộc đã xin tòa phán quyết tử hình cho một kẻ ăn cắp quả trứng gà. Quả trứng gà sẽ thành con gà, con gà sẽ thành bầy gà, sinh ra nhiều tiền, đem tiền đi đầu tư sinh lợi có thể xây cả trăm thành phố. Tòa giảm còn chung thân. Không một ai biết quả trứng có trống hay không.

    Hy vọng lối suy diễn ấy chỉ mới có trong sự thôi thúc đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, để xin điểm, để làm quà của hàng tướng như Ngô Khởi dâng thủ cấp của vợ. Nhưng nếu lối suy luận ấy nằm lòng từ khi các vị ấy còn nắm quyền ở VN, thì khỏi giải thích vì sao con cháu Lạc Hồng chạy re không đem theo được cái mền rách.

    Bên trên, tôi có nêu lời Nguyễn Mạnh Tường chỉ trích cái nhìn bình dân, chưa đạt đến mức biện chứng. Nhưng tôi là người bình dân, tôi có cái nhìn rất bình dân.

    "Thưa ông, đây là chồng tôi, mới được về hôm nay, xin ông vui lòng cho chồng tôi ở lại vài ngày". Tôi đi theo nhà tôi như đứa tớ dưới làng lên tỉnh giúp việc, qua nhà ông công an khu vực. Ông bất động như một thiền sư chìm sâu trong tam muội. Tôi nghĩ thầm nếu ông không gật đầu, thế nào tôi cũng phải ra chợ Nguyễn Tri Phương ngủ, chứ ở trong nhà thì trăm điều khốn khổ xẩy ra. Nhà tôi nhanh trí nói: Xin ông cho ở chừng ba ngày để sắp xếp đưa mẹ con tôi hồi hương, giao nhà cho chính quyền. Ông ta bậc dậy như ai lấy kim chích đít: "Được, lo sắp xếp mà đi đi nhe".

    Căn nhà xập xệ nầy cũng giống như con trâu của một nông dân ngoài Bắc. Con trâu phải dâng hiến cho hợp tác xã, mong họ lấy cho mà đừng đấu tố chủ nhân, đừng xếp vào hàng địa chủ. Cũng giống như nhân viên xã vào nhà đếm gà thấy thiếu một con, không tin là chồn bắt mà đưa gia chủ ra kiểm thảo giết lén con gà sản xuất, trái với tinh thần đạo đức cách mạng.

    Nhờ ơn trời đất, nhờ ơn ông bà tổ phụ, tôi có tròm trèm dăm ba chữ tuy không đi đến đâu về duy vật biện chứng, lý thuyết Marx. Tôi không dùng những thứ ấy để nhìn những việc xẩy ra chung quanh. Tôi chỉ là ông nông dân có con trâu làm việc trên đồng cạn dưới đồng sâu nay phải từ bỏ nó mà chưa chắc đã an thân.

    Tôi cầu mong các thân hữu chia xẻ cái nhìn bình dân của tôi. Tôi không muốn căn nhà bị chiếm đoạt (bị ép mà dâng hiến), tôi không muốn vợ tôi bị xỉ mặt mắng là thứ vợ ngụy, tôi không muốn con mất các quyền học hành ...và tôi biết trên cuộc đời nầy, có những con người - dù không thành công - hy sinh tính mạng trong mục đích làm cho những việc ấy không xẩy ra. Tôi tri ân những người ấy.

    Một ai đứng trên bờ nhìn ra đại dương mà thấy trong lòng biển nước có xác của vợ mình, của con mình cùng với cái máy đuôi tôm khi chiếc ghe không chịu nỗi sóng dập; người ấy cũng biết rằng trên mãnh đất đau khổ của quê nhà, có những kẻ - tuy chưa thành công - đã hy sinh cuộc đời trong mục đích làm cho việc ấy không xẩy ra. Hãy biết ơn những người vô danh ấy.

    Một ai thấy miếng đất hương hỏa của mình dành xây nơi thờ cúng tổ tiên nay nằm dưới khu nhà tắm cầu tiêu của một dinh thự mới, khi tự an ủi với lý thuyết vô thường, vô sở trụ ... vẫn biết có những kẻ đã hy sinh trong mục đích ngăn chân điều nầy xây ra; họ thất trận, lắm người quên đi.

    Tôi đã mời các thân hữu dạo quanh một vùng rất rộng lớn với ý niệm chiến lược cùng vài nét sơ phát của bối cảnh 1954 rồi đi đến cái nhìn rất nhỏ hẹp bình dân, không kinh điển, không học vị. Cũng giống như hình cái phểu lớn trên bé dưới, đầu voi đuôi chuột. Tôi ước mong cái nhỏ nhoi ấy là nhịp thở e ấp, thầm kín, chân thật và có thật. Mỗi cái nhìn riêng tuy nhỏ bé mà sâu sắc cho từng cá nhân. Cọng chung những thể nghiệm ý thức ấy, chúng ta sẽ có một luồng hơi ấm mới, khơi nóng bầu không khí có phần lạnh nhạt vì thời gian và những yếu tố xâm thực từ bên ngoài. Những khẩu hiệu to lớn ồn ào làm điếc tai không ai nghe; những lời sâu sắc từ tốn thì cô đơn, ít ai nghe.

    Giữa hai sự thể ấy là những con người sống thực như mỗi chúng ta trực diện những mất mát, những khổ đau cho chính mình, cho gia đình, cho những người chung quanh. Chúng ta không bị xung động bởi bất cứ ngọn gió nào. Chúng ta có những câu hỏi rất người rất đơn giản và giải đáp ngay.

    30.4 chấm dứt một sự cố gắng vô song của rất nhiều chiến sĩ trong mục đích tối hậu chận đứng ngày thảm não ấy. Rất tiếc, thiên cơ đã không giúp họ ngăn chận cảnh nước mất nhà tan và giúp chúng ta khỏi gánh chịu những tai ách trong từng hoàn cảnh cá nhân riêng rẻ.

    Những hy sinh âm thầm ấy biết kể làm sao cho hết. Nhưng có kể, cũng xin đừng quên những di lụy trực tiếp của sự kiện những người nằm xuống. Đó là những "sư đoàn" cô nhi quả phụ, những thiếu phụ lo cho chồng thương tật, những bà mẹ cưu mang những đứa con trở thành bất túc, những đứa con không cha như nhà không nóc.

    Bức tượng Thương Tiếc đã bị đánh ngã ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Đầu ngàn năm mới, Taliban đã phá hủy hai tượng Phật vĩ đại từ thời A Lịch Sơn Đại Đế (Alexandre le Grand). Hành vi ấy chỉ thỏa mãn sự kiêu căng của lãnh tụ Hồi giáo nầy và thiệt hại kỹ nghệ du lịch tại chỗ; nó không suy siển tinh thần tôn giáo của thế giới và của người theo Phật.

    Cũng thế, Taliban VN đã phá hủy tượng Thương Tiếc bên xa lộ Biên Hòa; nhưng họ không thể trục hạ sự thương tiếc trong mỗi chúng ta. Bức tượng tâm thức ấy, ít nhất, mỗi năm được đem ra sơn phết một lần vào ngày mất nước. Bức tượng ấy không có quá khứ, không có hiện tại, không có tương lai; bức tượng ấy không riêng gì của người mặc áo trận mà của mọi người. Trong tượng ấy, có người đã chết, có người đang sống và còn sống mãi.-





    tôn thất tuệ
    https://tonthattue.blogspot.com/2025/04/30.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21156
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Việt Nam – 50 Năm Nhìn Lại

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Việt Nam – 50 Năm Nhìn Lại
    ___________________________________
    Vĩnh Chánh

    Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2013. Năm 2019, tác giả nhận thêm giải quán quân Chung Kết Vinh Danh Tác Giả Tác Phẩm Viết Về Nước Mỹ hay còn gọi là giải Hoa Hậu. Tốt nghiệp Y Khoa Huế, thời chiến tranh bác sĩ Vĩnh Chánh đã là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù.



              

              



    Ngay sau ngày Miền Nam Việt Nam bị cưỡng chiếm, Cộng sản Bắc Việt nhanh chóng thống nhất hai miền Nam Bắc dưới lá cờ màu máu sao vàng, đồng thời giải thể xóa bỏ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN), cho thấy rõ MTGPMN, với lá cờ riêng và chính phủ riêng, chỉ là một công cụ múa rối của miền Bắc, dù từng là một thành viên tham dự Hiệp Định Paris 4 bên vào năm 1973.



    “Tôi bước đi. Không thấy phố. Không thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa. Trên màu cờ đỏ” (Trần Dần)



    Xin được xác nhận chế độ Cộng Sản ở Việt Nam chẳng qua thành công được vì luôn dựa trên Hận Thù và Giai Cấp. Vì Hận Thù là một yếu tố không thể không có trong cuộc đấu tranh giai cấp, đưa đến sự căm ghét không khoan nhượng đối với kẻ thù, khiến con người Cộng Sản (CS) được học tập tẩy não vượt ra ngoài giới hạn bình thường và biến họ thành một cỗ máy xảo quyệt, âm mưu, bạo lực, lạnh lùng giết, và giết không gớm tay – cho dù cùng một dòng máu.



    Với CS, không có lòng căm thù thì không thể chiến thắng kẻ thù. Và mỗi hành động của người CS luôn là một tiếng kêu chiến đấu (a battle cry) trong mọi hình thức chống lại với thế lực thù địch. Không những giết và tàn sát kẻ địch, mà còn thanh trừng nội bộ, ám sát những đối tượng từng giúp đỡ mình – không có hòa hoãn. Không một do dự. Không một hạn chế. Và không một ân hận. Rằng nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, thà giết hết còn hơn bỏ sót.



    Từ sau ngày thứ Tư, 30 tháng 4, 1975, chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa được áp đặt lên cho cả 2 miền Nam Bắc, và cũng từ đó dân chúng Miền Nam mới biết thế nào là chế độ “Xuống Hố Cả Nước”. Dưới đây xin vắn tắt các chủ trương, các chính sách của Cộng Sản Việt Nam (CSVN):

    – Cho phép trộm cướp, hôi của, vơ vét của cải miền Nam Việt Nam. Chắc mọi người còn giữ hình ảnh các chú bộ đội đạp xe đạp, chạy xe gắn máy mang theo radio, đồng hồ 2 cửa sổ, cassettes, hay từng đoàn xe molotova nối đuôi chở đầy vật dụng, tivi, tủ lạnh, quạt máy, bàn ghế… trực chỉ miền Bắc… “Cái đạp cái đồng cái đài. Có ba cái ấy đời ta huy hoàng”, dưới chủ đích 4 chữ V: Vào Vơ Vét Về.



    – Bần cùng hóa dân miền Nam Việt Nam với các chính sách phiếu thực phẩm, đăng ký hộ khẩu, kiểm soát bao tử người dân. Một nhân vật Cộng sản Nga (không biết có phải là Maxim Gorky hay không?) từng viết “tôi đã thấy nhiều quái thai, nhưng không có quái thai nào mà không có bao tử”. Rồi cửa hàng nhà nước, hợp tác xã, ngăn sông cấm chợ, chủ trương cấm buôn bán tự do,… Mua cái đinh cũng phải xếp hàng. Rồi đánh triệt “tư sản mại bản”, đổi tiền. ”cướp đêm kiểm soát-cướp ngày kiểm kê”. Rồi quy hoạch chiếm nhà, cướp đất của dân. Đuổi dân đi “Kinh tế mới” – Sỏi đá có ngày cũng thành cơm. Ăn bobo mà còn phải độn bắp độn sắn. Rồi lớp trẻ bị bắt hoặc dụ dỗ đi “Thanh niên xung phong”. Dân chúng Miền Nam nghèo khổ lại càng kiệt quê lầm than hơn. Đúng như câu vè: Con đường bác đi – con đường bi đát. “Có đói mà chẳng có no – Lấy gì độc lập tự do hỡi trời.”



    – Chính sách trả thù quân dân cán chính Miền Nam: phân biệt “ngụy quân ngụy quyền”, thanh lọc, xử tử – nhất là những thành phần như Phượng Hoàng, cảnh sát đặc biệt, an ninh quân đội, xây dựng nông thôn… , dùng thủ đoạn xảo quyệt “học tập 10 ngày”, thành ra tù tập trung trong các trại giam từ Nam ra Bắc, từ vài năm cho đến cả mươi năm hơn hơn, biến Việt Nam thành nhà tù nhỏ và nhà tù lớn.


              
    Nước ta không có nhà tù
    Chỉ toàn trường học tít mù rừng sâu
    Học cho trắng xóa mái đầu
    Thân làm phân bón tưới màu cỏ hoa
    Học cho tan nát cửa nhà
    Biến thành dã thú thì ra khỏi trường

              

    – Chủ trương xóa bỏ tàn tích chế độ miền Nam, xóa sổ nền văn hóa nghệ thuật miền Nam, bỏ tù các văn nghệ sĩ, đốt sách, cấm hát “nhạc vàng”. Trong nhà triển lãm “Tội ác Mỹ Ngụy”, có trưng bày và đóng đinh các sách miền Nam, như Giải Khăn Sô Cho Huế… Đánh phá, kiểm soát các nhà chùa, nhà thờ. Viết lại lịch sử. Cùng lúc nuôi thù ngay cả với những nấm mồ tử sĩ VNCH, phá bỏ những nghĩa trang quân đội Miền Nam, và ngay cả những nghĩa trang tư nhân cũng bị buộc dời chuyển đi nơi khác. Đảo lộn tôn ti trật tự của một xã hội nhân bản qua giáo dục từng trân trọng nhân phẩm, tư cách con người, truyền thống gia đình.



    – Kiểm soát dân chúng với hệ thống công an đến tận phường xóm, phân biệt các gia đình chế độ cũ trong học đường, trong việc làm, học tập chính trị thường xuyên, lý lịch 3 đời, họp tổ điểm danh kiểm thảo bình bầu, với khẩu hiệu, biểu ngữ, loa phường trong các xóm làng ra rả cả ngày đêm: Đại thắng mùa Xuân. Đánh cho Mỹ Cút Ngụy Nhào. Như có bác hồ trong mùa xuân đại thắng. Yêu nước tức là yêu XHCN. Mất đảng là mất nước. Môi hở răng lạnh. Đỉnh cao trí tuệ. Lao động là vinh quang. Thi đua vượt chỉ tiêu. Đảng chọn-Dân bầu. Cháu ngoan bác Hồ. Nhân dân làm chủ… Đối lại, dân Miền Nam nhẹ nhàng đổi câu đổi ý: “Nam Kỳ Khởi Nghĩa Tiêu Công Lý, Đồng Khởi Vùng Lên Mất Tự Do”; “Xạo Hết Chỗ Nói. Xếp Hàng Cả Ngày. Xiết Họng Công Nhân. Xóa Hết Chữ Nghĩa. Xuống Hàng Chó Ngựa”; “Đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ-Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai.”



    – Hiện tượng vượt biển, vượt biên của trên triệu người ở miền Nam và hàng vạn người ở Miền Bắc, nhất là sau chiến tranh biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam năm 1979, nói lên sự dứt khoát chọn lựa cuộc sống trong tự do, thà chết ngoài biển khơi hơn là tiếp tục sống trong nhà tù lớn Việt Nam, mà chứng nhân đau đớn là khoảng trên hai trăm ngàn nạn nhân bị chôn vùi dưới Biển Đông, đã đánh động lương tâm của thế giới tự do. Ai cũng từng nghe “Một là má nuôi con. Hai là con nuôi cá. Ba là con nuôi cả nhà”.



    Trước những hình ảnh đau thương, khốn cùng của các thuyền nhân, từ Pháp, Úc, Canada và Hoa Kỳ, các tổ chức tư nhân, các bác sĩ ngoại quốc và Việt Nam, trong đó có quý Bs.Nguyễn Ngọc Kỳ, tham dự 7 chuyến liên tiếp trong 7 năm, và quý Bs.Lê Văn Châu, Nguyễn Thượng Vũ, Đường Thiện Đồng, Đinh Xuân Anh Tuấn, tiếp tục mỗi người một chuyến, đã lần lượt tổ chức các chuyến ra khơi cứu người vượt biển. Phong trào này đã tạo ra nhiều hy vọng và đã cứu được hàng ngàn thuyền nhân trên Biển Đông. Bs. Tôn Thất Sơn được tàu Na Uy vớt nhưng cũng tình nguyện ở 7 tháng trên tàu giúp những người vượt biển khác. Một cuộc biểu tình thắp nến trước Bạch Cung đã được Tổng thống Carter đáp ứng và ra lệnh cho Đệ Thất Hạm Đội tiếp tay cứu thuyền nhân vượt biển.



    Hàng ngàn thương thuyền trên biển Đông hoàn toàn không tuân thủ luật lệ đạo đức hàng hải vì tất cả đã làm ngơ cho thuyền nhân chết trên biển cả. Lần đầu tiên và duy nhất trên thế giới chính phủ Việt Nam công khải tổ chức cho dân vượt biên để thu góp toàn bộ tài sản để lại, trong khi ấy đa số ngư dân Thái Lan lần lượt trở thành hải tặc ghê sợ suốt 2 thập niên. Ngoài thuyền nhân, còn có cả trăm ngàn người vượt biên bằng đường bộ. Tổng kết từ năm 1975 đến 1995 con số thuyền nhân Việt Nam đã đến trại tị nạn là 796,310 người và bộ nhân là 42,918 người. Trong số này đã có 822,977 người định cư tại Hoa Kỳ, và 2 quốc gia Úc và Canada, mỗi nước nhận đồng đều 137,000 thuyền nhân tị nạn.



    Qua cuộc chiến tranh Việt Nam, ta nhìn thấy lần lượt có cuộc di cư sau hiệp định Geneve 1954 (với gần 1 triệu người miền Bắc di cư vào Nam, và 130 ngàn dân miền Nam tập kết ra Bắc); các cuộc di tản của người dân trong chiến tranh để tránh bom đạn, nhiều nhất là tại vùng hỏa tuyến; cuộc di tản vào tháng Tư, 1975, gồm 130 ngàn người, đa số định cư tại Hoa Kỳ với đạo luật khẩn cấp Indochina Migration and Refugee Act 1975 do tổng thống Ford ban hành; trên một triệu quân dân cán chính bị cải tạo tập trung; trên 2 triệu người miền Nam bị đẩy vào các khu kinh tế mới; tống xuất 250 ngàn Hoa kiều từ cuối năm 1978 với nhiều nhất vào năm 1979 cho đến đầu thập niên 1990, với đa số định cư tại Trung Quốc. Và nhiều hơn tất cả là hơn một triệu người Việt Nam, vì hai chữ TỰ DO, đã đến được những miền đất hứa sau vượt biên và vượt biển.



    Song song với nhận các thuyền nhân và bộ nhân tỵ nạn chính trị, Hoa Kỳ còn mở cửa đón nhận sau này người Việt Nam qua các chương trình Đoàn Tụ Gia Đình, Ra Đi Có Trật Tự ODP, Tái Định Cư Nhân Đạo HO (với khoảng 5 trăm ngàn người), Chào Đón Con Lai qua American Homecoming Act (với 25 ngàn em cùng cả trăm ngàn thân nhân), và trở về sau: di dân hợp pháp, di dân kinh tế… cộng đồng người Việt tỵ nạn CS ở hải ngoại lớn dần, mạnh dần, qua những nỗ lực quả quyết từ bàn tay trắng đạt được thành công vượt bực. Họ và các thế hệ tiếp nối đã không ngừng tích cực hội nhập vào xứ sở tạm dung đã cho họ cơ hội, đóng góp tài năng trí tuệ, văn học nghệ thuật và chính trị, trong khi vẫn cố gắng duy trì văn hóa quê hương. Sự lớn mạnh qua thời gian của cộng đồng Việt Nam chống CS tại hải ngoại làm CSVN rất e ngại, muốn đánh phá và tìm cách chia rẽ.



    Nói tóm lại, cuộc di cư năm 1954 và cuộc di tản và rời bỏ Việt Nam sau 1975, với sự kiện vượt biên vượt biển, là một minh chứng hùng hồn cho toàn thế giới tự do thấy rõ tính chất tàn bạo và vô nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN, khiến chính nhà triết gia cực tả Jean Paul Sartre sáng mắt, giác ngộ tuyên bố “Người CS chỉ có mục đích duy nhất: dùng vũ lực chiếm đoạt và cũng cố quyền lực”. Và người Saigon nói “Đi được, cái cột đèn cũng đi”.



    Đọc đến đây, xin quý bạn tạm ngưng vài giây, hãy cùng nhau đốt nén nhang lòng tưởng nhớ và cầu nguyện cho hàng trăm ngàn quân dân cán chính miền Nam Việt Nam đã bị CS trả thù giết chết sau 1975 hay chết mòn mỏi trong các nhà tù, và mấy trăm ngàn sinh linh chết trên đường vượt biên, vượt biển tìm Tự Do.


              
    “Hỡi hồn ba mươi tháng tư
    Thuyền nhân ngày ấy phiêu du phương nào?
    Gió vùi, sóng dập, thuyền chao
    Mồ chôn đáy bể, thân vào tay ai?”

    (Trang Châu)

              


    Từ sau 1975 và trước bang giao giữa hai nước cựu thù Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Sản (VNCS), nền kinh tế trong nước tiếp tục cạn kiệt, nghèo nàn, lạc hậu. Vào năm 1986, nhất là sau khi được Hoa Kỳ bật đèn xanh cho phép gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO), VNCS bắt đầu đổi mới, biến dạng từ nền kinh tế nhà nước bao cấp để trở thành sân chơi riêng của những lợi ích nhóm – y theo mô hình của đàn anh Trung Quốc. Kinh tế bần cùng XHCN nay trở thành Kinh Tế Thị Trường Định Hướng XHCN – vắn tắt hiểu là chính sách Tư Bản Đỏ (Crony Red Capitalism – Tư Bản Cấu Kết) – có nghĩa là kinh tế tự do hơn nhưng dưới sự quản lý của Đảng và số vốn đầu tư từ chính phủ, hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sỡ hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò nền tảng của kinh tế trong nước, nhưng dưới sự chủ đạo của nhà nước và cấp lãnh đạo càng ngày càng giàu.



    Trong chế độ CS độc tài, không có bầu cử tự do thì giai cấp trung lưu là giai cấp thụ động và yếu thế nhất. Họ rất sợ mất địa vị “vô cùng mong manh” của mình, vì chỉ cần bị mất việc là họ đã phải trở về với giai cấp… vô sản lưu manh. Còn giới tư bản đỏ của các Thái Tử Đỏ, tư bản thân hữu do liên hệ nối vòng của đảng… được đảng chống lưng để trở thành những nhóm lợi ích có địa vị chính trị, từ trung ương đến địa phương. Lúc này họ đua nhau toa rập với nhau để cùng hưởng lợi, cùng bóc lột tài nguyên, tài sản quốc gia, bóc lột dân chúng…



    Một khi các vị lãnh đạo đảng và nhà nước đã thâu tóm hết mọi quyền lợi cả vật chất lẫn tinh thần, và duy nhất chỉ có giai cấp thống trị là đối tượng được hưởng lợi trong xã hội, thì nhân dân là giai cấp bị trị, là nạn nhân của đói nghèo, của mọi đàn áp, bóc lột kèm theo sự tước đoạt từ của cải đến các quyền tự do dân chủ, cũng như quyền làm người. Người Cộng sản xảo quyệt, rất giỏi dùng các xảo ngữ để tuyên truyền, đánh tráo khái niệm. Chẳng hạn trong quá khứ, họ đã dùng “chuyên chính” để thay cho “độc tài” khiến cho toàn dân miền Bắc ai cũng ủng hộ “chuyên chính” nhưng đả đảo “độc tài” và hiện nay cũng để tranh thủ sự ủng hộ của nhiều người, họ đã thay “Chủ Nghĩa Tư Bản Đỏ” bằng “Nền Kinh Tế Thị Trường Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”. Nhờ chính sách đánh lận con đen này mà chủ nghĩa tư bản Đỏ hiện vẫn đang phát triển, và những nhà Tư Bản Đỏ vẫn đang sống hiên ngang, đang rất an nhiên tự tại trên đầu trên cổ của cả 95 triệu người dân Việt, mà trong đó không ít các nhân sĩ trí thức với đầy đủ chức danh và bằng cấp.



    Chính vì những tư lợi dành riêng cho đảng viên và gia đình chúng, nên khi chúng tuyên truyền “Còn đảng thì còn nước- Mất đảng thì mất nước” người dân hiểu thành “Còn đảng thì còn quyền – Mất đảng thì mất tiền”. Từ đó nên hiểu thêm: tự do, dân chủ nhân quyền chỉ là đặc quyền của giai cấp thống trị, tức là của tập đoàn tư bản Đỏ, còn đối với người dân, với giai cấp bị trị thì Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền chỉ tồn tại trong giấc mơ của họ mà thôi.



    Vì cần đồng Đôla hải ngoại, cần vốn đầu tư, cần chuyên viên khoa học kỹ thuật, chính quyền VNCS bắt đầu chơi trò kêu gọi hoà hợp hòa giải, ve vãn cộng đồng người Việt hải ngoại mà trước đây họ luôn khinh khi, xem thành phần người Việt hải ngoại là thành phần chống Cộng, bất hảo, ăn bám đế quốc. Nhưng nay họ giở trò bịp bợm khuyến dụ, kêu gọi “khúc ruột ngàn dặm” về lại với “quê hương tôi là chùm khế ngọt” …
              
    Ngày đi, đảng gọi “Việt gian”. Ngày về thì đảng chuyển sang “Việt Kiều”
    Chưa đi phản động trăm chiều. Đi rồi trở thành khúc ruột ngàn trùng

              
    Chẳng qua chúng chỉ muốn tiền bạc, chất xám của người Việt hải ngoại đổ về trong nước làm lợi cho nhóm đặc quyền. Có một số không nhỏ thật tình tin tưởng lời kêu gọi hòa hợp hòa giải, dù họ chỉ vì hám danh, hám sắc, hay/và hám tiền, trong đó có một số người tên tuổi của chế độ cũ… kẻ trước người sau lần lượt kéo về, hay được mua chuộc, huênh hoang áo gấm về làng. Có khá nhiều người được chúng tặng cho danh phong Việt kiều yêu nước… Không bao lâu sau đó, đa số cũng những người ấy ôm đầu máu dứt khoát bỏ của chạy lấy thân. Nếu không sẽ bị, không những thân bại danh liệt mà còn tiền mất tật mang, kể cả vào tù… Thêm một lần nữa, họ học được bài học thực chất lừa đảo, dối trá, mị dân, vắt chanh bỏ vỏ, ăn cháo đá bát… của CS. Không hề sai với với câu “nói láo như Vẹm”. Câu “Đừng nhìn những gì CS nói, mà nhìn những gì CS làm” của Cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ngàn năm vẫn đúng khi nói về bản chất gian manh, lừa lọc của CS, nói một đường làm một ngã.



    Đảng Cộng sản VN bắt mạch biết người Việt ở hải ngoại luôn muốn báo hiếu với cha mẹ, vẫn còn thân nhân ruột thịt cần giúp đở, nên họ mở rộng chính sách cho gửi tiền về quê hương. Rồi từ từ, giúp các thương phế binh VNCH, giúp nhà thờ nhà chùa, trẻ em mồ côi, người khuyết tật, người nghèo khó, nạn nhân thiên tai, xây mộ phần cho đại gia đình… Dù biết chuyện gửi tiền là con dao 2 lưỡi, dù mục đích tốt là lòng thiện nguyện, nhưng con số khổng lồ trên cả mươi tỷ đô la mỗi năm do người Việt hải ngoại đổ về Việt Nam chắc hẳn gián tiếp giúp cho chế độ độc tài đảng trị CS tiếp tục sống mạnh.



    Trong nước, dân chúng trong tuổi lao động khó tự nuôi sống bản thân, ngay những sinh viên tốt nghiệp đại học cũng không có việc làm tương xứng vì chế độ “Con Ông Cháu Cha” và tham nhũng… nên chính quyền cổ vũ phong trào gái Việt làm dâu người nước ngoài, mà thực chất là buôn bán con người, qua hình ảnh các cô gái uốn éo trưng bày trong chuồng lớn. Ngoài ra chủ trương Xuất Khẩu Lao Động – được nhà nước CS đánh bóng cho rằng đi lao động chân tay nước ngoài là yêu nước, yêu tổ quốc- tại các nước giàu, cũng cốt để có ngoại tệ gởi về cho quê nhà. Con số lao động nước ngoài trong 11 tháng của 2024 là 143 ngàn người. Chúng ta thường đọc những mẫu tin người lao động Việt Nam ăn cắp, phạm tội… làm tăng quan niệm và hình ảnh người Việt xấu xa. Một nỗi nhục quốc thể.



    Với bao nhiêu tỷ đô la đổ vào VN, sự bành trướng và phát triển các thành phố lớn mà đa số chú trọng cho kỹ nghệ du lịch, đã làm không ít người về thăm quê hương ngỡ ngàng. Sự phát triển đô thị không cân xứng và không có kế hoạch gây nên nạn ù tắc giao thông, úng nước, ô nhiễm; những thị xã xa xôi, hẻo lánh vẫn còn lạc hậu, nghèo khổ, học trò phải bước trên cầu dây để đến trường.



    Tại các thành phố, thị xã, đảng chủ trương ru ngủ, băng hoại xã hội không ngoài mục đích làm yếu tinh thần trách nhiệm, sự hiểu biết chính trị và lòng tự trọng của thế hệ thanh thiếu niên bằng cách khuyến khích cuộc sống xa hoa, ăn chơi trụy lạc, thả lỏng đạo đức. Ngược lại tại nông thôn, công an có khuynh hướng quản lý chặt chẽ hơn vì trong quá khứ, nông thôn là căn cứ địa nuôi dưỡng du kích, là bàn đạp tiến quân trong thời kháng chiến nên công an luôn cảnh giác từng biến chuyển nhỏ của người dân quê, hòng ngăn chặn và dập tắt sớm sự chống đối phát xuất từ đây. Ngoài ra, công an còn có một đạo quân chuyên giám sát các mạng xã hội, chặn đứng ảnh hưởng từ bên ngoài nước, trấn áp dân lành, theo dõi những kẻ nghi ngờ phản động, đe dọa những người khác chính kiến, bắt giữ những Tù Nhân Lương Tâm, phong tỏa kinh tế của gia đình họ… Có tin cho biết, trong tương lai gần, chính quyền VNCS sẽ bỏ cấp huyện, chỉ tập trung vào các cấp xã và cấp tỉnh, cho thấy đảng CS rất chú trọng đến kiểm soát hạ tấng cơ sở.



    Dân trong nước đều biết câu “Hèn với giặc, Ác với dân” dảnh cho chính quyền CS Việt Nam. Khác với trận hải chiến Hoàng Sa giữa VNCH và Trung Quốc (TQ) đầu năm 1974, trong đó Hải quân VNCH thua trận dù chiến đấu với Hải quân TQ cho đến phút cuối. Thế nhưng vào tháng 3, 1988, trong cuộc đối đầu chống xâm lăng của TQ tại đảo Gạt Ma thuộc quần đảo Trường Sa, 64 binh sĩ của VNCS nhận lệnh từ trung ương đảng không được chống trả nên đều bị giết chết trên đảo. Từ đó, những tin “tàu lạ” thường xuyên quấy nhiễu, đâm hư hại, chận đánh các thuyền cá của ngư dân VN và bắt giam họ, cho thấy sự hèn nhát của chế độ VNCS không dám nói rõ đó là thuyền TQ. Không những thế, công an còn cấm, làm khó dễ, bắt tù những cựu bộ đội từng chiến đấu trong chiến tranh biên giới, và cấm ngư dân dọc duyên hải biểu tình chống đối hiện tượng các “tàu lạ” tiếp tục ăn hiếp tàu đánh cá VN, cũng như cấm dân chúng biểu tình đả đảo, thưa kiện công ty Formosa khi nước thải đường ống của nhà máy Formosa ở Vũng Áng, Hà Tĩnh, làm ô nhiễm biển cả một vùng rộng lớn bao gồm Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên, khiến cả trăm ngàn cư dân sống về nghề biển bị ảnh huởng trầm trọng. Rồi đã bao lấn dân lành kéo ra Hà Nội, Saigon hay đến tận các cơ quan nhà nước đem theo đơn thỉnh nguyện xin nhà nước giải quyết những oan ức, nhiều nhất là phần đất 3-4 đời của tộc nhà họ bị quan chức địa phương cưỡng chiếm, đều được công an làm khó dễ, hốt trọn.



    Nhiều nhân tài “thật” khó có thể phát triển tài năng của họ vì cấp trên kém khả năng nên thường bị đố kỵ, như trường hợp Đặng Thái Sơn, Ngô Bảo Châu… “Hồng” hơn “Chuyên” là vậy đó. Một số đông người tốt nghiệp ở ngoại quốc không muốn quay trở về lại VN… Do đó mới xẩy ra chuyện các quan lãnh đạo nhà nước, các giám đốc cơ quan từ trên xuống dưới rủ nhau chạy mua bằng giả, tiến sĩ giả treo lên tường. Các đầy tớ nhân dân học đòi làm sang, tậu xe hơi, đua nhau xây biệt thự lớn cho bà chính, rồi nhà nhỏ cho bà bé. Phong trào quần short trắng ôm vợt tennis đi dạo phố, rồi lại đến mặc áo quần xịn xách gậy đánh golf ra vào sân cỏ, rủ nhau du lịch, tham quan nước ngoài, chơi sang ăn thịt bò dát vàng…



    Với số tiền lớn không vốn do từ tham những, các tư bản Đỏ tìm cách rửa tiền, chuyển ngân ra ngoại quốc, mua bất động sản tại nước ngoài. Tìm đường cho con ra nước ngoài bằng cách mua dâu mua rể, cho con du học… mươi năm sau, họ chính thức được con cái bảo lãnh rời Việt Nam. Trớ trêu thay, đây là một cuộc vượt biên bằng máy bay, có tính toán và an toàn. Tham nhũng trong nước hết thuốc chữa vì ai cũng coi tham nhũng là chuyện bình thường, đâu đâu cũng cũng có thủ tục “đầu tiên”, ngay cả trong học đường, trường thi, bệnh viện… “Thượng Bất Chính Hạ Bất Tuân”. Bao nhiêu đất công lần lượt chuyển nhượng thành đất tư, bao nhiêu công ty lớn nhỏ thay nhau sụp đổ khiến chính phủ VNCS thua lỗ, mất hàng triệu tỷ đồng. Chịu khó vào ngồi tù một vài năm, nhưng vợ con an nhàn, vài năm sau ra tù thì xuất ngoại với tiền có sẵn trong ngân hàng nước ngoài. “Hy sinh đời cha, củng cố đời con” là vậy đó!



    Để củng cố và mở rộng thế lực trung ương, chính phủ VNCS hoạch định thành lập một số thành phố trực thuộc trung ương, đầu tiên là Hà Nội, rồi đến Saigon, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ và Huế (năm 2025), và về sau có thể Nha Trang, Bà Rịa-Vũng Tàu… Với sự bổ nhiệm những cá nhân tuyệt đối trung thành với đảng làm bí thư thành ủy, nhà nước chủ ý tập trung quyền lực và quản trị trực tiếp lên mọi sinh hoạt từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho đến an ninh, giáo dục, y tế… không ngoài mục đích tối hậu làm sao “vắt” ra nhiều tiền và thật nhiều tiền cho trung ương tiêu xài và các ông lớn bỏ túi.



    Từ khoảng hai thập niên trở lại, với sự cò mồi của đảng CSVN, một số tổ chức và cá nhân nhẹ dạ kêu gọi hòa hợp hòa giải với nhà cầm quyền trong nước. Đây là một vấn đề rất phức tạp, cần có cái nhìn chính xác từ quá khứ trong chiến tranh trải rộng đến tương lai dân tộc VN. Vì vậy chúng ta cần phải mổ xẻ vấn đề này một cách rõ ràng, minh bạch hòng tránh mắc phải âm mưu CS.



    Trước tiên ta nên tìm hiểu hòa hợp là gì? Theo định nghĩa trong Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông của nhị vị Bs. Lê Văn Thu và Ds. Nguyễn Hiền, hòa hợp là sống chung hay sinh hoạt chung trong sự hòa thuận, như vợ chồng hòa hợp, tát biển Đông cũng cạn. Hòa giải là dàn xếp để hai bên đang xung đột hay tranh chấp làm hòa hay đồng thuận với nhau, như hòa giải chuyện xích mích giữa hai dòng họ, hay hòa giải việc tranh chấp đất đai. Hòa hợp hòa giải cộng lại với nhau trong chính trị mang ý nghĩa to lớn hơn, tức là bỏ qua bao nhiêu mâu thuẫn, bao nhiêu hận thù để hai bên thù địch ngồi lại với nhau cùng xây dựng đất nước.



    Nếu không có hay chưa có hòa hợp thì làm sao có được hòa giải. Và thông thường bên thắng cuộc phải chủ động bày tỏ trước thái độ hòa hợp với phe thua cuộc một cách chân thật thì họa may mới có hòa giải. Đâu có phải chỉ dễ dãi cho dân hát lại “nhạc vàng” (vì rõ ràng muốn cấm nhưng không làm được), hay in lại những sách văn học thời “ngụy” là hòa hợp!? Trong Nội Chiến Nam Bắc nước Mỹ 1861-1865, Bắc quân thắng trận, tù binh miền Nam trải qua một thời gian ngắn bị giam giữ trong các trại tù binh cho đến khi được ân xá vào cuối tháng 5, 1866 và 6 năm sau họ được trao lại hoàn toàn quyền công dân. Và trong suốt thời gian trên, các sĩ quan cao cấp của miền Nam vẫn được phép giữ vũ khí cá nhân, một hành động giữ thể diện cho họ rất đáng ngưỡng mộ từ phe thắng cuộc. Cũng vậy, nhìn vào lịch sử chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc tại Nam Phi, Tổng Thống da trắng De Klerk can đảm trao trả tự do cho thủ lãnh da đen Nelson Mandela sáng suốt và đạo đức, biết tha thứ và khoan hồng, rồi cả hai cùng đàm phán trong tinh thần thật sự hòa hợp hòa giải dân tộc đưa đến chuyện trao chính quyền vào tay người da đen bản xứ mà không có một tắm máu trả thù nào giữa đôi bên về sau, nhất là từ người da đen từng gánh chịu bao đau đớn tủi nhục đổ xuống cho họ trong cả thế kỷ.



    Vậy chúng ta xét lại sau 1975 phía CS đã làm gì để chứng mình họ sẳn sàng cho giải pháp hòa hợp hoà giải. Câu trả lời: Không Hề Có. CSVN phát động chính sách trả thù, bắn bỏ hàng chục ngàn người của VNCH sau 30 tháng 4, 1975, bỏ tù tẩy não quân dân cán chính miền Nam một cách tàn bạo và khắc nghiệt, hạ nhục nhân phẩm tù nhân, dùng chữ ngụy quân ngụy quyền để nhận dạng. Hạch sách, đày đọa và phân biệt các gia đình chế độ cũ trong học đường, trong việc làm. Phá hoại các nghĩa trang quân đội, cụ thể nghĩa trang Biên Hòa. Xua đuổi gia đình thân nhân “ngụy quân ngụy quyền” đi kinh tế mới. Luôn cho kẻ khác quan niệm chính trị với mình là kẻ thù. Bắt nhốt những người bất đồng chính kiến, kể cả những tu sĩ. Kiểm soát báo chí, đàn áp nhân quyền. Chi phối kềm kẹp tôn giáo. Giam giữ các tù nhân lương tâm. Tiếp tục theo dỏi và chia rẽ cộng đồng tỵ nạn CS tại hải ngoại.



    Phải chăng một khi chúng ta chấp nhận hòa hợp hòa giải với CS, chúng ta mặc nhiên công nhận CS đúng trên mọi chính sách của chúng, có nghĩa giúp cho chúng xóa bỏ lịch sử để viết lại lịch sử theo cái nhìn vô sản của chúng, là giúp chúng che dấu những tội ác mà chúng đã và đang gây ra. Xin đơn cử: sách giáo khoa trong nước viết cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 vào Huế là một thành công của Mặt trận Giải phóng miền Nam (MTGPMN) và của đảng CS, nhưng họ không nhắc đến những hố chôn tập thể, những gia đình tan tác trong cơn bão lửa, những người dân vô tội bị xử tử chỉ vì có liên hệ với chính quyền miền Nam. Họ không nói chính họ đã xé bỏ lệnh ngưng bắn, rằng giữa lúc giao thừa, trong giờ khắc linh thiêng nhất của Tết cổ truyền, khi người dân lẽ ra phải sum họp quỳ lạy trước bàn thờ tổ tiên, và thay vì pháo hoa và lời chúc năm mới truyền thống, Cố Đô Huế chìm trong khói lửa, tiếng súng và tiếng khóc than. Không phải từ kẻ ngoại xâm mà từ chính người Việt cùng một dòng máu Việt đã giết hại người Việt. Trong Thế chiến thứ Hai, những người lính Đồng minh và lính Đức tạm ngưng chiến trong ngày Giáng Sinh, bước ra khỏi chiến hào, cùng nhau hát bài Thánh Ca, nói lên được họ vẫn chưa mất nhân tính, cho dù họ là kẻ thù với nhau trên chiến trận. Nhưng ngược lại trong Mậu Thân 1968, hàng ngàn người bị thảm sát do chính bàn tay khát máu CS gây ra, phơi bày rõ ràng đây không phải là một chiến tranh giành lãnh thổ hay khác biệt ý thức hệ, mà là một cuộc chiến bất chính, bất chấp tình nhân đạo vì một tham vọng chiến thắng bất chấp đạo lý bình thường. CS cho đó là “trận đánh vinh quang,” nhưng với bao nhiêu gia đình, đó là ngày họ mất đi cha mẹ, vợ chồng, con cái – là những mất mát không thể nào bù đắp, và muôn thuở để lại vết nhơ cho chiến thắng của CS.



    Chấp nhận hòa hợp hòa giải với CS sẽ không bao giờ xẩy ra!! Vì hòa hợp hòa giải chỉ thật sự có ý nghĩa khi có sư thay đổi ở tận gốc. Viết như vậy để cho thấy rõ hòa hợp hòa giải chỉ là lời nói trên đầu môi chót lưỡi nhiều đường lắt léo ngụy biện của CS. Họ không bao giờ chấp nhận và luôn từ chối giá trị đích thật của tự do và dân chủ. Vì họ không bao giờ buông bỏ chính sách độc đảng, độc tài. Chế độ CS không hề tỏ ra có thiện chí để thể hiện chân thành hay có thành ý muốn đi đến một giải pháp hòa giải niềm đau chung của dân tộc. Ngược lại họ xử dụng hòa hợp hòa giải như một chiêu bài tuyên truyền. Hòa hợp với CS chẳng khác gì là chơi với ma quỷ mà chắc hẳn phần thua thiệt là về phía chúng ta.



    Theo dõi tình hình chính trị trong nước, nhất là trước mỗi cuộc thay đổi guồng máy chính trị tại Hà Nội, chạy đua các chức cao như tổng bí thư, chủ tịch nhà nước, thủ tướng chính phủ, chủ tịch quốc hội, ủy viên bộ chính trị… hầu như mọi người đều thấy rõ tiếng nói cuối cùng từ TQ vô cùng quan trọng, thông qua sự việc nhiều quan chức cao cấp VN qua về thăm viếng, hứa hẹn, xin xỏ các nhân vật cao cấp đảng CS TQ trước. Cho nên, nếu có sự thay đổi nào về đường lối cai trị của đảng CSVN sau 50 năm tiến chiếm miền Nam, câu trả lời là thay đổi đó, nếu có, phải xuất phát đầu tiên từ thay đổi chính trị cốt lõi bên trong của đảng CS TQ trước. Một động đất bom tấn chính trị ở TQ đương nhiên sẽ lan rộng và ảnh hưởng đến chính trị VN.



    Trong thời gian chờ đợi, và nào ai biết chờ đợi bao lâu, sự “thoát Trung” tự nó là một điều không tưởng để đảng CSVN nghĩ đến, trừ phi sau một cuộc hội nghị kiểu Diên Hồng, hay là xuất phát từ sự nổi dậy đồng loạt của toàn dân trong nước. Một sự kiện rất khó xẩy ra, khi chế độ công an trị càng ngày càng tinh xảo và sẵn sàng đàn áp đẫm máu mọi chống đối, ngay từ trong trứng nước. Câu chuyện đại tướng công an Tô Lâm bẻ gãy công ước ngoại giao quốc tế, chủ mưu đưa thủ hạ mình sang tận nước Đức bắt cóc một cán bộ cao cấp đem về nước, cho thấy, trong tư cách ông ta đang giữ chức Tổng Bí Thư, ông ta bất chấp những điều trái phép, trái lương tâm để phục vụ chỉ cho lợi ích đảng CS. Không những vậy, mà ông ta còn đưa bao người thân tín của mình trong bộ công an và quân đội vào trong bộ chính trị và ban bí thư trung ương đảng, như đại tướng Lương Cường, đại tướng Phan Văn Giang, thượng tướng Trịnh Văn Quyết, thượng tướng công an Nguyễn Duy Ngọc, thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, thiếu tướng công an Nguyễn Hòa Bình, đại tướng công an Lương Tam Quang, trung tướng Lê Minh Hưng…



    Hơn nữa, xin cùng nhau tìm hiểu và so sánh ngân sách 2024 của Bộ Công an với trên 113 ngàn tỷ đồng, tăng khoảng 14 ngàn tỷ đồng, từ hơn 99 ngàn tỷ đồng năm 2023; ngân sách của Bộ Giáo dục và Đào tạo được tăng từ khoảng 6200 tỷ đồng lên hơn 7700 tỷ đồng, và ngân sách Bộ Y tế bị cắt giảm khoảng 400 tỷ đồng, từ hơn 7400 ngàn tỷ vào năm nay, chỉ còn hơn 7000 tỷ đồng cho năm tới. Như vậy, trong năm 2025, chỉ riêng số tiền mà Bộ Công an được cho tăng thêm cũng gần bằng ngân sách dành cho cả ngành y tế và giáo dục cộng lại. Đó là chưa kể tiền “bồi dưỡng” thêm của các sở Công an các thành phố, tỉnh huyện xã từ tiền xử phạt giao thông, tiền thực thi chữ ký làm giấy tờ… Cho thấy: Công an là lá chắn của đảng CS. Giáo dục và sức khỏe của người dân trong nước càng xuống cấp, đất nước càng bị kềm kẹp hơn nhiều, thì đảng càng sống mạnh.



    Thật sự, trên tất cả chiến thắng từ quân sự, nhất là chính trị, chiến thắng cho chính dân tộc mình mà không là của một phe phái, của một đảng, vẫn chưa hề được nhắc nhở trong tầm ngắm tại VN. Dấu hiệu mong đợi cho một bó nhang thắp trong một ngày giỗ chung của dân tộc, trên bàn thờ tổ quốc, vẫn chưa hề biết đến. Và cũng vì vậy hòa hợp hòa giải không thể đạt được nếu những mâu thuẫn không được giải quyết tận gốc rễ. Ngày nào còn chế độ CS độc đảng, ngày nào mà chưa có một thay đổi chính thể hiện tại trong nước thì ngày đó hòa hợp hoài giải vẫn chỉ là một đùa cợt viễn vông.



    Tôi mong ước một ngày nào đó, đảng CSVN tuyên bố lập đàn cầu nguyện cho hương linh bao nạn nhân cả 2 bên chiến tuyến trong chiến tranh VN, cầu nguyện cho hương hồn những nạn nhân trong Tết Mậu Thân và những nạn nhân vượt biên vượt biển. Tôi cũng mong một ngày nào đó, đảng CSVN tỏ thiện ý, ăn năn sám hối về những tai họa giáng xuống cho dân tộc VN trong suốt chiều dài lịch sử từ khi có đảng. Tôi cũng mong ước một ngày nào đó đảng CSVN chấm dứt chính sách ác với dân hèn với giặc, và trả lại lịch sử thật của bốn nghìn năm văn hiến xây dựng nước của tiền nhân chúng ta. Và riêng với cá nhân tôi, tôi cũng mong chờ một ngày nào đó, tượng đài do chính các sinh viên ĐH YK Huế chúng tôi xây dựng để tỏ lòng tri ân bốn vị giáo sư Y Khoa người Đức bị CS thảm sát tại Huế trong Tết Mậu Thân, mà sau ngày 30 tháng 4 bị chính quyền CS chủ trương đập phá vứt bỏ trong đêm, sẽ được chính thức dựng lại trước sự chứng kiến của anh chị em trong hội YKH hải Ngoại.


              
    “Năm mươi năm nhìn tương lai
    Vẫn mơ sông núi, vẫn hoài biên cương
    Quyết tâm dành lại phố phường:
    Sài Gòn! tên vẫn thân thương đợi chờ!”

    (Trang Châu)

              


    Cho phần kết, xin bạn đọc hãy tự hỏi và tự trả lời. Đảng CSVN sẽ thay đổi chính sách sau 50 năm tiến chiếm Miền Nam VN trong bạo lực để thể hiện việc hợp thức sự hóa thống nhất Việt Nam không?? Đảng CSVN thành thật và tỏ thiện chí hòa hợp hòa giải dân tộc VN không?? Nếu câu trả lời là chúng không bao giờ thay đổi bất cứ cái gì mà có thể làm mất quyền lợi riêng tư của chúng, thì bấy giờ tinh thần Ngày 30 tháng 4 mãi là lời thềnguyềnvớisông núi rằngchúng ta đừng bao giờ ngây ngô tin vào lời kêu gọi đường mật của CS, rằng ngày 30 tháng 4 vĩnh viễn là ngày Quốc Hận cho tất cả chúng ta. Danh xưng Việt Nam Cộng Hòa với lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và Quốc Ca “Nầy công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi” sẽ mãi mãi tồn tại trong xương cốt tro bụi của hàng triệu quân dân cán chính Miền Nam từng chiến đấu và hy sinh cho Tự Do hiện nằm rải rác khắp nẻo đường đất nước, và sẽ vĩnh viễn lưu lại trong giòng máu Việt củanhiều thế hệ kế tiếp, trong các cộng đồng người Việt trên thế giới và cả trong nước.



    Xin hãy nhớ, quyền tha thứ kẻ giết người chỉ thuộc về những nạn nhân bị CS ám sát, mưu sát, những nạn nhân của Cải Cách Ruộng Đất, những nạn nhân bị thảm sát trong Mậu Thân, trong các vụ nổ mìn xe hành khách, đặt plastic, ném lựu đạn, pháo kích bừa bãi vào các thành phố trường học, và những oan hồn chết tức tưởi trên đại dương.





    Viết cho ngày Quốc Hận, thứ Tư, 30 tháng 4, 2025
    Vĩnh Chánh



    Nguồn: https://vietbao.com/a322020/viet-nam-50-nam-nhin-lai
    https://hon-viet.co.uk/VinhChanh_VietNa ... hinLai.htm
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”