-
Cuối năm lại viết về
“Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ”
càng thương thêm
thân phận người lính VNCH
_____________________
Mường Giang
“Chiều buông xuống bầy dế mèn inh ỏi
Ánh đèn dầu sáng dưới mái tranh
Mẹ ngồi đan áo cho cha
Thầm thì lời cầu nguyện
Chữ A, B con đọc
Số Một, Hai con đếm
Đếm bao giờ cho tới
Ngày nghỉ phép cha về
Mùa đông đến áo mẹ đan xong
Mong cha sớm trở về
Mặc vào cho mẹ vui
Vất vả mẹ không nề
Hằng đêm bầy dế mèn vẫn gọi
Con đếm từng ngày mong đợi
Biết con học giỏi cha mừng
Biết mẹ đan áo cha vui
Chuyến hành quân gian khổ
Không giấy mực biên thư
Cha đành phải quên lời
Không hẹn kỳ trở lại
Hôm sau có người đến
trao mẹ một món quà
Tay run run nhận lấy
Nước mắt mẹ trào dâng
Con hồi hộp muốn biết
Món quà nào cho Mẹ
Món quà nào cho con
Chú quân nhân nghiêm chỉnh
Con dại khờ không hiểu
Mẹ đau lòng ngã quỵ
Trên tay ôm lá cờ
Mảnh vải phủ thân người
Mẹ bảo đây là kỷ Vật quý nhất của con
Bây giờ con mới hiểu thứ gì quý nhất trên đời!!!
(Kỷ vật quý nhất – thơ Cát Trắng- Cựu HS TH Phan Bội Châu PT)”
Đêm buồn đọc lại thơ của Cát Trắng, khiến cho người lính già cảm động muốn khóc trước nỗi đau lòng của người vợ lính, thảm thê đã ngã quỵ khi nhận được tin chồng “tử trận”, mà kỷ vật còn lại là “Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, đã phủ thây chàng”, chẳng khác gì “da ngựa bọc thây” người lính thú đời xưa. Mẹ bảo đây là Kỷ vật quý nhất của con và bây giờ con mới hiểu thứ gì quý nhất trên đời!!!
Trong suốt cuộc chiến VN kéo dài gần 20 năm (1955-1975), những ai đã từng là người dân trong vùng chiến nạn, xôi đậu, bị giặc chiếm hay là lính trận chiến đấu nơi sa trường, đồn nghĩa quân cheo leo miền biên tái, những biệt chính, biệt kích cảm tử hoạt động riêng rẽ và các quân nhân bị thất lạc trong lúc đụng trận, mới cảm nhận được “sự thiêng liêng của lá cờ vàng ba sọc đỏ và bản quốc ca hùng tráng, được thổi lên khi xung trận”.
Quốc kỳ của Quốc Dân VN (chứ không phải của VNCH hay bất kỳ cá nhân nào dù đó là Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương..) như một ngọn đuốc, soi đường mở lối đấu tranh cho thanh niên nam nữ miền Nam trong suốt 20 năm đoạn trường máu lệ, vì đất nước bị cọng sản đệ tam xâm lăng cướp đoạt. Cũng nhờ Lá Quốc Kỳ, mà những người Việt lưu vong tị nạn khắp bốn phương trời, sau ngày mất nuớc 30-4-1975 đã ngồi lại với nhau để cùng sớt chia buồn vui vận nước. Đó mới chính “là cấp lãnh đạo tối cao nhất của Cộng Đồng VN Tị Nạn Hải Ngoại” hầu như từ truớc tới nay chưa có ai dám phản đối hay xúc phạm.
Có còn nhớ hay không những ngày tang tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân (1968), mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc (Bình Long), Quảng Trị, Kon Tum, Bình Định.. Rồi những ngày thi hành cái gọi là hiệp định ngưng bắn vào tháng 1-1973 và sau rốt là 55 ngày cuối cùng của VNCH vào năm 1975, lá cờ lại đẳm thêm thịt xương, máu và nước mắt Lính trận và hàng triệu người dân Việt Miên Nam, trên khắp các nẻo đường trốn chạy sự truy sát có một không hai của bộ đội Bắc Việt.
Tại chiến trường, để treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ “ biểu tượng của quốc dân” lên Kỳ Đài Huế trong Tết Mậu Thân, trên ngọn Đồi Đồng Long (An Lộc), Tòa Hành Chánh Kon Tum và nhất là tại Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị.. đã có không biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong mọi binh chủng từ NQ+DPQ, Bộ Binh, Biệt Động Quân, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù, đã hàng nối hàng gục ngã, trong quyết tâm làm thang cho đồng đội, tiếp nối hết lớp này tới đợt khác, mới đạt được thắng lợi cuối cùng.
Năm 1973, cọng sản Hà Nội qua đồng thuận của Mỹ, được công khai đóng quân trên lãnh thổ VNCH theo tinh thần hiệp ước ngưng bắn. Chúng đã cố gắng treo dán khắp nơi từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu, khiến cho người lính VNCH, lại phải chịu nhiều thương vong, dễ bảo vệ xóm làng, dân chúng, không để mất vào tay cọng sản. Điều vinh hạnh nhất hiện nay tai hải ngoại, đối với những người lính già mang mọi cấp bậc, thành phần, giai cấp xã hội.. ai mà chẳng mơ ước được Cộng Đồng người Việt Quốc Gia và đồng đội, phủ cho mình một Lá Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ trên nắp quan tài, trước khi vĩnh viễn bước vào cõi niết bàn thênh thênh không vướng bận.
Rồi những ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975, hằng vạn người lính chết hay bị thương, vì đã ở lại để bảo vệ thủ đô, bến tàu, phi trường, xa lộ và những bãi đáp trực thăng, giúp Mỹ và hậu phương bạc bẽo, có cơ hội chạy.
Thử hỏi trong giờ thứ 25, tính sổ lại xem có bao nhiêu tướng lãnh đã bỏ chạy? Hay nói đúng hơn gần hết đã ở lại chiến đấu với đồng đội thuộc cấp, cho tới lúc tàn cuộc. Những danh tướng Lý Tòng Bá, Lê Minh Đảo, Trần Quang Khôi, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Tấn Nghĩa.. há không có phương tiện để trốn chạy ra tàu Mỹ hay sao? Nhưng họ là thanh niên thời đại, là kẻ sĩ nên coi trọng khí tiết làm tướng, hơn sinh mạng phù vân một đời.
Vì vậy biết ở lại sẽ bị giặc đày đọa lăng nhục tới chết nhưng vẫn chấp nhận hoàn cảnh. Cuối cùng, kẻ thì tự tử, còn người bị giam cầm nhiều chục năm nơi tận cùng biên tái, làm gương muôn đời cho hậu thế soi chung, vì hai chữ hy sinh cao quý ‘lưu thủ đan tâm, chiếu hãn thanh’, được tất cả mọi người từ dân tới lính, thương mến trân trọng.
Hơn 80 năm qua, CSVN lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để trương ngọn cờ máu trên lãnh thổ Hồng Lạc. Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai miền riêng biệt tại vĩ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới. Theo quy định, mỗi một miền được đặt hai đồn canh, dọc theo bờ sông giới tuyến: Đồn Hiền Lương và Cửa Tùng (Bắc Việt), Xuân Hòa và Cát Sơn (VNCH), cả hai phía đều có treo cờ hằng ngày. Và đó là nguyên nhân đã làm hai phía đổ máu nhiều lần vì ‘Lá Cờ’ được treo ở hai đầu cầu Hiền Lương.
Thời gian đầu thi hành Hiệp định (1954-1956) còn có sự hiện diện của các toán kiểm soát đình chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cở lá cờ được qui định 3,2x 4,8m. Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân Hòa luôn thay đổi khổ lá cờ Vang ba Sọc Đỏ, theo lệnh của các đơn vị trưởng trấn đóng miền giới tuyến. Thế là trận giặc ‘Chọi Cờ’ bùng nổ hai bên bờ sông Bến Hải, mà phần thắng luôn về phía VNCH vì có đủ phương tiện và được tự do quyết định hơn phía CSBV. Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết suốt 20 năm chia cắt, cả hai phía đã thay đổi cở ‘ cờ ‘ tới 267 lần để ăn thua, trong đó nhiều lần cột cờ phía Bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng nhất vào năm 1967, cả cột cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về phía CS bị bom đánh xập.
Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch sử, chúng ta mới thấy được tầm mức quan trọng và thiêng liêng của lá cờ. Cho nên không ai có thể muốn người khác phải theo ý mình “ đứng chung dưới một ngọn cờ “mà trong thâm tâm của họ, đã coi nó như là biểu tượng của một chế độ dã man, xấu xa bán nước như lá cờ máu đỏ sao vàng của Cộng Đảng VN.
Theo sử liệu, thì quốc hiệu VIỆT NAM chính thức xuất hiện vào niên lịch 1802 là năm mà Đức Gia Long Hoàng Đế, đã có công thống nhất được toàn cõi sơn hà từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến triền miên, giữa các dòng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.
Thật ra từ thế kỷ thứ XIV, hai tiếng Việt Nam đã thấy xuất hiện trong nhiều tác phẩm lúc đó như “Nam Thế Chí của Hồ Tông Thốc, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú, Du Địa Chí của Nguyễn Trải, Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ Văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm..” Ngoài ra, các nhà khảo cồ sau này, còn tìm thấy nhiều bia đá có niên lịch ghi trước thế kỷ XVIII ở Bắc Việt. Trong tất cả các bia ký này, đều thấy có khắc hai chữ Việt Nam. Theo nhận xét của các học giả, sử gia hiện tại, thì hai chữ Việt-Nam lúc đó, mang chung ý nghĩa rất thiêng liêng, nhằm chỉ về một nước Việt ở Nam Phương. Để đối chọi với sự mai mỉa khinh nhờn của người Tàu phương Bắc, mà suốt dòng lịch sử, luôn coi VN như một quận huyện bản xứ, qua danh từ miệt thị ‘An Nam hay Giao Chỉ’. Thời Pháp thuộc, thực dân cũng sử dụng những danh từ hạ bạc của người Tàu trong quá khứ, mục đích cũng chỉ để làm nhục dân tộc VN mà thôi.
Theo Dự Am Thi Tập của Phan Huy Chú viết năm 1792, cho biết vào thời Quang Trung thứ 5 nhà Tây Sơn, đã ban chiếu đổi quốc hiệu An Nam thành Việt Nam. Tiếc thay triều đại trên quá ngắn ngũi, nên việc sử dung quốc hiệu VN cũng theo vận nước trôi vào quên lãng.
Riêng hai tiếng VN cũng đâu có khác gì thân phận của dân tộc Hồng-Lạc nhược tiểu, luôn bấp bênh trong dòng sinh mệnh lịch sử. Năm 1802 ngay khi thống nhất được đất nước, vua Gia Long đã cử Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định đi sứ sang nhà Thanh, trả lai ấn phong của vua Quang Trung và xin nhận quốc hiệu cũ là Nam Việt.
Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời nhà Triệu (207-111 trước tây lịch), có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc Việt và ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tỉnh phía bắc Trung Phần. Do đó, chừng nào vua Càn Long mới chịu chấp nhận. Bởi vậy cho tới năm Gia Long thứ 3 (1804), nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn là Việt Nam thay vì Nam Việt. Tuy nhiên phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng VN mới được cả trong và ngoài nước, sử dụng với tất cả ý nghĩa thiêng liêng và toàn bích.
1- Cờ Đỏ Sao Vàng Của Đảng CSVN:
Về lá quốc kỳ VN hiện tại, lại càng thêm phức tạp vì đang sử dụng hai lá cờ: Đảng cọng sản quốc tế đệ tam đang đô hộ VN, được Bắc Bộ Phủ tại Hà Nội, xài lá cờ máu đỏ sao vàng, nhái theo lá cờ của đảng cong sản Trung Hoa tỉnh Phúc Kiến. Ngoài ra Việt Cộng còn xài thêm lá cờ đảng giống cờ nước VN xã nghĩa có vẻ thêm búa liềm, theo nguyên mẫu lá cờ của Liên Bang Xô Viết cũ.
Căn cứ các nguồn sử liệu hiện tại, thì lá cờ máu trên được gọi là Hồng Kỳ (Cờ Đỏ), do Nguyễn Hửu Tiến đã vẽ và xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 11-1940. Tuy nhiên Lá Cờ Đảng đã xài từ sau ngày 20-7-1954 tới nay, đã khác với Kỳ Hiệu của Phong Trào Việt Minh, vì các cạnh của Ngôi Sao Vàng không còn là đường cong, mà đã trở thành đường thẳng, y chang Cờ Liên Xô và Trung Cộng
Tổng hợp các tài liệu viết về phong trào đầu tiên của Cộng Sản Tàu tại Huyện Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến, vào năm 1934, đã tìm thấy Lá Cờ Đỏ Sao Vàng, mà CSVN đang sử dụng làm quốc kỳ từ đó đến nay. Ngoài ra Đảng còn xài thêm Lá Cờ Búa Liềm, đã sao chép của Liên Xô. Đây là những lá cờ của ngoại bang đem về, nên làm sao có thể bắt buộc mọi người phải tôn trọng, trừ phi họ bị áp buộc và khủng bố.
2- Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ:
Quốc dân VN thì chính thức sử dụng lá cờ màu vàng ba sọc đỏ, xuất hiện từ ngày 2-6-1948 cho tới tháng 7-1954. Sau đó, dù đất nước bị chia đôi nhưng chính phủ VNCH ở phía nam vĩ tuyến 17, từ Đồng Hà-Quảng Trị, vào tới Mũi Cà Mâu, vẫn tiếp tục sử dụng quốc kỳ của quốc dân VN. Kể từ ngày 1-5-1975, tuy đất nước VN bị cọng sản quốc tế đô hộ nhưng cũng từ đó, trên khắp mọi nẻo đường hải ngoại, hơn ba triệu ngươì Việt tị nan cọng sản, vẫn theo truyền thống của ông cha, trân quý và chấp nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ, như một biểu tượng của Tổ Quốc và Dân Tộc VN.
Tại Úc và nhất là Hoa Kỳ, hai quốc gia tự do có nhiều người Việt tị nạn định cư, sau bao chục năm đấu tranh liên tục, nên đã đạt được ý nguyện, thỉnh cầu chính quyền sở tại, công nhận ‘Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ’ của VN, như là một biểu tượng tinh thần cao quý nhất của Cộng Đồng VN tị nạn. Sự kiện mới đầy, chính quyền tại Tiểu Bang California (Hoa Kỳ), ban hành quyết định công nhận Lá Quốc Kỳ VN Hải Ngoại, là một chiến thắng lớn của người Việt, trên đường đấu tranh quang phục đất nước.
Về nguồn gốc của Lá Cờ, căn cứ theo tác phẩm ‘Quốc Kỳ Việt Nam’ của tác giả Quốc Duy Nguyễn Văn An, thì quốc kỳ VN được khởi đầu từ sáng kiến của Phan Thanh Giản. Năm 1863 khi làm Chánh sứ hướng dẫn phái đoàn đi sứ sang Pháp, để xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Phần: Gia Định, Biên Hòa và Định Tường, đã bị thực dân Pháp cưỡng chiếm vào năm 1862. Khi tàu vào tới hải cảng, Pháp yêu cầu phái bộ VN treo quốc kỳ, để họ tổ chức bắn súng đại bác chào đón theo nghi cách ngoại giao quốc tế. Vì không chuẩn bị trước, nên Phan Thanh Giản phải lấy tạm chiếc khăn lụa màu vàng và dùng son đỏ viết trên đỏ bốn đại tự ‘Đại Nam Khâm Sứ’. Cũng từ đó, lá cờ trên đã trở thành Cờ Long Tỉnh, tượng trưng cho Triều Đình Nhà Nguyễn, với lãnh thổ còn lại gồm Bắc và Trung Phần.
Ngày 16-4-1945, học giả Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Đại, ủy nhiệm lập Chính Phủ với nội các gồm 10 Bộ Trưởng. Ngày 2-6-1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim quyết định chọn quốc kỳ mới cho VN. Đó là lá cờ nền vàng, ba sọc đỏ theo hình quẻ Ly (–-)trong kinh Dịch. Ngày 30-6-1945, Ông lại chọn bài Đăng Đàn Cung làm Quốc Thiều.
Tháng 2-1946, D’Argenlieu được cử làm Cao Ủy Đông Dương, mục đích tái lập lại sự đô hộ trên ba nước Việt-Miên-Lào, mà Pháp đã bị quân phiệt Nhật đánh đuổi khỏi vùng vào ngày 3-9-1945. Để tiến tới ý đồ bất lương trên, thực dân mưu toan nhiều lần tách hẳn Nam Kỳ của VN, để nhập vào lãnh thổ Pháp, đồng thời cai trị Bắc và Trung Phần như trước tháng 3-1945. Tuy nhiên âm mưu xảo trá và nguy hiểm của giặc, lần lượt bị quốc dân VN phát hiện và chống trả, khiến cho các chính phủ Nguyễn Văn Thinh và Lê Văn Hoạch, cũng lần lượt sụp đổ theo ý đồ thâu tóm đất đai của người Việt.
Ngày 8-10-1947, Nguyễn văn Xuân làm Thủ Tướng và lập nội các mới, trong đó Trần Văn Ân được cử làm Thứ Trưởng Thông Tin. Trong giai đoạn này, hầu như tất cả các vị trí thức yêu nước cũng như những đảng phái quốc gia, đều cực lực chống lại chiêu bài chia cắt Nam Phần thành một miền tự trị thuộc Pháp.
Nương theo lòng dân lúc đó, cụ Trần Văn Ân qua tư cách của một chính khách kiêm Thứ Trưởng Chính Phủ, đã đề nghị Thủ Tướng Xuân, sử dụng danh xưng ‘Nam Phần VN’, để thay thế cái gọi là ‘Nam Kỳ Cộng Hòa Tự Trị’, mà Pháp và bọn Việt Gian lúc đó đã ngụy xưng một cách trơ trẽn. Ngoài ra ông cũng đã chọn Quốc Ca – Quốc Kỳ cho cả nước.
Vào thời điểm 1948, lúc đó trên lãnh thổ VN đang sử dụng năm lá cờ khác nhau: Ba lá của ba kỳ Bắc-Nam-Trung, một của đạo Cao Đài và lá thứ năm của Phật Giao Hòa Hảo.
Trong thành phần Ủy Ban chọn Quốc Ca và Quốc Kỳ cho Quốc Gia VN độc lập, lúc đó có Nguyễn Hữu Thiều là chủ tịch, cùng các đại diện Đổ Quang Giai (Miền Bắc), Trần Văn Lý (Miền Trung), Nguyễn Văn Xuân (Miền Nam) cùng hai đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài. Cuộc triển lãm năm mẫu cờ tại Phòng Khánh Tiết Sài Gòn. Cuối cùng Uỷ Ban đã quyết định chọn Lá Cờ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ, làm Quốc Kỷ của Quốc Dân và Quốc Gia VN.
Sự kiện lịch sử trên, về sau được Cựu Hoàng cũng là cựu Quốc Trưởng Bảo Đại, đề cập tới trong tác phẩm ‘ Con Rồng Việt Nam (Le Dragon D’Annam)’, xuất bản năm 1990. Ngày 5-6-1949, trên chiến hạm Duguay Trovin, bỏ neo trong vịnh Hạ Long. Lúc đó trên tàu có sự hiện diện của Quốc Trưởng Bảo Đại, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, Cao Uỷ Pháp tại Đông Dương là Emile Bollaert đại diện nước Pháp, thừa nhận nền độc lập của VN, mà quốc kỳ là lá cờ vàng ba sọc đỏ như chúng ta hiện tại đang trân quý trên khắp mọi nẻo đường lưu vong hải ngoại và cả trong hồn tim của triệu triệu người VN trong nước đang sống nơi xã nghĩa thiên đàng.
Cho nên Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ có một ý nghĩ khác biệt với Lá Cờ Máu của Cọng Sản VN, vì nó không phải là của riêng bất cứ ai, từ Bảo Dại tới Nguyễn Văn Xuân, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương hay Dương Văn Minh. Trong khi đó là cờ máu sao vàng, từ hình thức tới nội dung là tài sản riêng của đệ tam cọng sản quốc tế, của Liên Xô, Trung Cộng và Việt Cộng. Đó cũng là lý do thiêng liêng mà người Việt qua mọi giai đoạn lịch sử, từ trong nước cho tới cuộc sống lưu vong, vẫn quyết tâm gìn giữ và đấu tranh để quốc tế công nhân, dù hiện nay ngươi Việt quốc gia không có lãnh thổ, từ sau ngày 30-4-1975, quốc hận, gia vong, đổi đời, súc vật lên làm chánh quyền, cai trị cả nước.
Lá quốc kỳ VN là biểu tượng cao quý nhất trong linh hồn người Việt. Tháng 7-1954 hơn hai triệu người đất Bắc và các tỉnh miền Trung bên kia vĩ tuyến 17 vì công nhận lá cờ vàng ba sọc đó của quốc dân, nên cắt ruột gạt nước mắt, bỏ xứ vào Nam tìm tự do dưới bóng lá quốc kỳ màu vàng. Ngày 30-4-1975 người Việt lại bỏ nước ra đi vì không sống nổi đưới lá cờ máu của đảng cọng sản, cho tới ngày nay, lập trường chính trị vẫn không hề thay đổi.
Lá Cờ của quốc dân VN hiện tại, nền màu vàng, hình chữ nhật bề ngang bằng 2/3 chiều dài. Trên nền vàng, ở phần giữa là ba sọc đỏ có kích thước bằng nhau. Màu vàng của lá cờ tượng trưng cho dân tộc VN, trong cộng đồng các dân tộc Châu Á da vàng. Màu đỏ tượng trưng cho sự đấu tranh gian khổ, đẫm đầy huyết hận, nước mắt đoanh tròng, trong suốt chiều dài của lịch sử chống ngăn ngoại xâm. Riêng Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba phần của đất nước VN.
Lúc đó, chính ký giả Nguyễn Kiên Giang (tên thật Lý Thanh Cần ), giữ chức Giám Đốc Phòng Báo Chí thời Thủ Tướng Xuân. Ông là người được chính phủ giao phó thực hiện lá quốc kỳ. Song song Thủ Tướng Xuân còn chấp nhận bài hát ‘ Thanh Niên Hành khúc ‘ của Lưu Hữu Phước sáng tác làm Quốc Ca, vì lúc đó đương sự cũng như hằng triệu triệu thanh niên nam nữ VN yêu nước, đang dấn thân đấu tranh chống thực dân Pháp, trong hàng ngũ Việt Minh.. nên tim-óc, chữ nghĩa, chỉ hướng về hồn nước, hồn người. Đó cũng là lý do mà Chính phủ VNCH khi trước và Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại hiện nay, không thay đổi bài hát nào khác, dù bài ‘ VN-VN của Phạm Duy, rất được nhiều người ưa thích nên đề nghị dùng nó để thay thế bài hát của họ Lưu.
Cũng liên quan tới Lịch sử Lá Quốc Kỳ, trong tác phẩm ‘Việt Nam Nhân Chứng’, cựu tướng Trần Văn Đôn đã viết là, chính ông ta và tướng Lê Văn Kim, là tác giả đã đề nghị thực hiện quốc kỳ và quốc ca VN hiện tại. Nhưng sự xác nhận trên, chẳng những bị cụ Trần Văn Ân là nhân chứng, tác giả cờ và quốc ca, cực lực phản đối, mà còn bị nhiều người gạt bỏ không tin là sự thật. Bởi vào năm 1948, Trần văn Đôn cũng như Lê Văn Kim.. chỉ là sĩ quan cấp nhỏ trong quân đội Pháp, thì chừng nào mới tới phiên được mời vào phòng hội, để nghị sự một vấn đề trong đại của quốc gia lúc đó, chỉ có Nguyên Thủ, các cấp Bộ Trưởng, Thủ Hiến ba kỳ và lãnh đạo cao cấp của của các giáo phái.. mới được mời họp với ý kiến và quyết định.
Gần hai trăm năm trước (1858), vua Tự Đức nhà Nguyễn vì thiển cận, không chịu nghe theo lời canh tân đất nước của các sĩ phu trí thức thời đó như Nguyễn Trường Tộ, Đinh văn Điền, Bùi Viện.. mà cứ chạy theo ôm chân người Tàu lúc đó cũng lạc hậu yếu hèn, nên rốt cục dân tộc phải bị thực dân Pháp đô hộ đày đọa gần 100 năm tủi nhục thương đau. Ngày nay Việt Cộng cũng đã bước vào lối mòn năm cũ, đã và đang ôm chân Tàu đỏ lẩn Tàu trắng một cách tận tuyệt, để có một chỗ dựa an toàn cho đảng sinh tồn. Rồi tháng lại ngày qua làm ngơ nhắm mắt, mặc kệ cho đồng bào cả nước càng lúc càng lầm than đói rách, qua cái vỏ phát triển tiến bộ, được sơn phết và tuyên truyền, khiến cho bất cứ ai còn một chút hơi hám của con người, thấy ngó cũng phải đau lòng cho vận nước, chỉ vì một gã Hồ Chí Minh trôi sông lạc chợ, đã làm cho non sông gấm vóc phải tan hoang, không biết đến bao giờ mới được quang phục.
Bốn mươi hai năm rồi, Việt Cộng vẫn là Việt Cộng dù ngày nay hình người có thay đổi từ quần áo vải thô sang lụa tơ gấm nhiễu. Tất cả vẫn nguyên vết như cái thuở hồng hoang mới rời hang Pắc Pó, rừng Bắc Sơn hay chui ra trong các hang Củ Chi, Vĩnh Mốc. Vẩn đảng cọng sản là trên hết, còn nước thì nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy cả nước, đều là tài sản của đảng, của cán bộ nên cứ ngang nhiên xén bán, cầm thế, mà không cần biết tới hậu quả di hại cho con cháu mai sau.
Tám mươi lăm năm qua, người Việt đã trăm lần hòa hợp, hòa giải, hòa bình với cọng sản nhưng trăm lần như một, lần nào cũng bị chúng xảo quyệt, lường gạt, đâm sau lưng, mà lần cuối cùng đau đớn nhất là ngày 30-4-1975. Cho nên bốn mươi hai năm qua, kể cả trẻ con cũng không còn ai tin vào sự hứa hẹn của cọng sản, trừ cây cột đèn không nói được…
Chừng nào CSVN còn nắm giữ quyền hành và súng đạn trong tay, ngày đó đừng hòng chúng san sẻ hay nhượng bộ bất cứ ai, nhất là giai đoạn đảng đang sống sướng trên núi bạc rừng vàng, lại được cả Tàu và Mỹ chống lưng, còn nhân quyên, tự do dân chủ, chủ quyền đất nước, sinh mạng người dân... Tất cả coi như là cỏ rác.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Cuối năm 2017
Mường Giang
https://hon-viet.co.uk/MuongGiang_CuoiN ... nhVNCH.htm
Xuân .. Xuân .. Xuân .. Ất Tỵ ...
Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Ất Tỵ ...
Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Ất Tỵ ...
RẮN
TRÀO LỘNG PHÚ
__________________
Kha Tiệm Ly
1/1/2025

Rồng lui chân theo cựu Đông Quân,
Rắn ngỏng cổ mừng tân niên kỉ.
Nhân ngày tư ngày tết, rắn em bày tỏ đôi lời,
Mong năm mới năm mung, mọi người được nhiều đại hỉ.
Nghĩ phận em,
Thân dài vai… nhỏ, ngàn đời không đứng được… hai chân!
Họ gần họ xa, thể tạng cũng cân non mấy kí!
Ở hang sâu hốc tối, bụi rậm tàn cây, mơ gì cửa rộng nhà cao,
Ăn bữa đói bữa no, ểnh ương cóc nhái, dám đâu sơn hào hải vị.
Chẳng truyền bệnh sán như anh chó anh heo,
Không ăn vụn cơm như anh mèo anh Tí.
Biết thân hèn vóc mọn, em cứ loay hoay tìm chốn vườn rậm rừng sâu
Mà cạn lý hết tình, người hung hãn cứ dồn vào đường cùng thế bí.
Trong mười hai con giáp, riêng rắn em thường bị lắm tiếng tai.
Dưới cặp mắt người đời, cả họ hàng luôn bị coi xúi quảy.
Lại thoang thoảng bị móng vuốt diều hâu,
Cũng đều đều gặp con thần ve xị:
Mỏ dài vuốt nhọn, cắp lên non, cho con cháu chén no nê,
Dao bén thớt dày, đem vào bếp, đủ một bàn say bí tỉ!
Cho rằng,
Lũ chúng em luôn mang nọc độc giết người,
Mà bọn họ cố quên những lời chí lí:
Rắn giết người, tự cổ đếm được bao nhiêu?
Người giết người, đến nay xem ra hàng tỉ!
Lại chẳng nhớ:
Xà tửu vô ưu,
Đông y hữu lý.
Chẳng những nọc độc thuộc hàng quý dược của y sư
Mà cả xương da cũng dạng ngãi phương trong điều trị.
An tì, bổ thận; chánh tông Gò Đen ngâm cùng thục địa, táo nhơn….
Tăng lực cường dương, rặc ri Bàu Đá hãm với đương qui, cao kỉ…
Ngửi một hơi cũng đủ sảng khoái tinh thần,
Hớp một ngụm lại càng nâng cao sĩ khí!
Chiều về các cụ nhâm nhi,
Tối đến mấy bà yêu quý!
Hay cho câu “ông uống bà khen”
Thú cho chữ “ nhỏ nghe lớn chỉ! (bảo) ”
Cao nọc rắn, trị thần kinh tọa, thoái khớp mau lành,
Rượu mãng xà, chữa gai cột sống, thống phong hết ý!
“Bách xà diệu dược”, công năng nổi tiếng ngập Trời Nam
“Ngũ độc gia truyền” chất lượng vượt qua bờ Âu Mỹ.
Mua nếu đúng căn nguyên thì chẳng sợ mất tiền,
Dùng chẳng rõ cội nguồn phải coi chừng lép ví!
Có hết đâu!
Xào lăn bầm nhuyễn, cuốn bánh tráng lá thơm,
Chặt khúc hầm nhừ, ngấm xả gừng ngũ vị.
Mặc cho nào gà tiềm, bê tái… món ngon sa số hàng hà.
Sánh sao với rắn nướng, rắn nhồi…đặc sản độc chiêu vô nhị?
Tuy nhiên,
Nếu đi đường chẳng nên lạng lách lung tung,
Thì uống rượu cũng đừng nhềnh nhàng bí tỉ!
Dù mồi “bắt”, có nhiều món để đầy mâm,
Nhưng dược tửu, cũng vài li cho có vị.
Quên ăn ham uống, sẽ tan nát thận tì,
Nhậu rượu bỏ mồi, ắt tổn hao chân khí.
Dùng vừa độ, hồn lâng lâng như lạc cõi thần tiên,
Nốc quá đà, trí mê muội sẽ theo loài ngạ quỉ!
“Chừa đường về”, để còn biết ngõ trước, ngõ sau,
Chớ “tăng hai”, mà lọt xuống bờ dưa, bờ bí!
Như nói trên,
Chẳng phải thân em phận rắn cắn người,
Mà là dược liệu thần y điều trị:
Cho quí ông sinh lực vô song,
Cho quí bà dung nhan tuyệt mĩ.
Nhậu rượu, mồi gà mồi cá, chỉ loại bá vơ.
“Đưa cay”, với rắn với trăn, mới là “mậu kị”!
So với rồng, với cọp, hình tướng nầy dù hơi kém oai phong,
Đọ cùng chuột, cùng heo, hương sắc đây chẳng lấy gì xấu xí.
Vậy cớ sao?
Dù em có cao chay xa bay,
Mà người cũng truy cùng đuổi bí.
Thế giới “thả” để bảo vệ môi trường,
Quí anh “giết” thì còn chi đạo lí?
Nay đây,
Nhân ngày xuân mới, hoa lá dâng hương sắc nồng nàn,
Mượn chén rượu đầy, rắn em tỏ đôi lời thủ thỉ:
Rắn có ích, không hề tội nhỏ tội to,
Rắn có công, chẳng có điều kiêng điều kị.
Năm nay rắn sẽ hóa rồng,
Mọi sự công thành như ý!
Bách phúc mãn đường.
Cung hỉ! Cung hỉ!
https://www.facebook.com/khatiemly1252/ ... c8rGVcWPil
Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Ất Tỵ ...
Nắng Đẹp Tình Xuân - Mưa Hồng Cassette4

Mặt A
https://od.lk/s/MzVfNTU4MTg4NjRf/XuanCa ... _SideA.mp3
Mặt B
https://od.lk/s/MzVfNTU4MTg4Nzlf/XuanCa ... _SideB.mp3
https://noralangdu.blogspot.com/2025/01 ... te-32.html
Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Ất Tỵ ...
-
Từ choáng đến choáng...!
Chiều đi làm về, đang bon bon bỗng xe cán phải đinh xịt lốp.
Vào tiệm vá xe, nàng choáng váng gặp lại người tình cũ thời sinh viên.
Chàng vẫn vậy, phong trần, nam tính và hấp dẫn. Giờ làm chủ tiệm sửa xe, chàng làm việc và điều hành công việc ở tiệm luôn.
Kỷ ức ngày xưa ùa về, ngày xưa 2 đứa yêu nhau say đắm nhưng vì chút hiểu lầm mà phải chia tay.
Nàng giờ đã chồng con đề huề. Chàng vẫn vậy , cô đơn và lãng tử…
Vá xe xong, nàng ra về, lòng ngổn ngang …
Tối, đang xem tivi cùng chồng, nàng thỏ thẻ :
"Em có chút việc phải sang nhà ngoại nhen, sáng mai mới dìa “.
Vẫn dán mắt vào tivi, chồng nói : "Sáng mai dìa sớm em nhen ! “ .
“ Dạ", nàng đáp.
Nàng đi như bay đến trước nhà chàng, hồi hộp, chỉ dám núp gốc cây nhìn vào, chờ đợi … và, thật bất ngờ :
Dưới ánh trăng vàng lung linh, chàng mở cửa, ngó nghiêng như tìm ai rồi bước chậm, khẽ về phía nàng .
Tim nàng đập rộn ràng, có lẽ chàng đã cảm nhận và biết được là nàng đã đến và đợi ở đây, thần giao cách cảm chăng …!?
Nàng định lao ra ôm chầm lấy chàng ngay, nhưng kịp kìm lại, nàng muốn chơi trò ú tim, buộc chàng phải khó khăn mới bắt được nàng và nàng lặng lẽ núp sau gốc cây và quan sát …
Chàng tiến đến, gần lắm rồi nhưng vẫn không phát hiện ra nàng ở đâu, chàng ngó trước ngó sau một lúc rồi từ từ bước qua chỗ nàng núp, tiến ra đường …
“Em ở đây kia mà !!!” Nàng định hét lên, nhưng kịp dừng lại, muốn kéo dài trò ú tim thêm chút nữa …
Chàng vẫn chưa thể nhận ra nàng ở đâu, “ Quay lại đi anh, em ở đây nè “, nàng thầm nói trong đầu.
- Nàng thầm gọi và cầu mong chàng sẽ quay lại và tiến đến gốc cây…
Nhưng không . Hình như chàng không nhận ra. Chàng tiếp tục tiến ra đường …
Đường vắng tanh, mà sao anh lại ra đó, quay lại đi anh
- Nàng khẽ gọi, tiếng gọi lọt thỏm trong cơn gió…!!!
Dường như chàng không nghe thấy, chàng lại tiếp tục tiến ra đường. Dưới ánh đèn vàng vọt, phía xa xa, nàng chợt thấy chàng dừng lại, ngó trước ngó sau lần nữa, rồi từ từ thò tay vào túi, bốc từng nắm, từng nắm đinh rải ra đường...
Lúc giờ, nàng lại thêm một lần choáng nữa .
( Sưu tầm )
Saint Louis City,
Jan 2nd, 2025
https://www.facebook.com/groups/3958533 ... 6927285278
Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Ất Tỵ ...
-
Bếp Lửa
Năm ấy má về, cái dáng thoăn thoắt bước trong đêm lạnh, trên đôi vai với chiếc quang gánh hiện rõ dưới ánh đèn đêm giao thừa. Đêm chợ Tết chẳng còn ai, người người ở nhà chuẩn bị đón giao thừa bên gia đình. Chỉ còn những chậu hoa cúc chưa bán hết, nằm sót lại ngả nghiêng giữa một góc chợ trông thật tiêu điều.
Như hàng năm, gánh hàng trái cây của má dù bán còn hay hết, vẫn tranh thủ về lo nhà cửa, bếp núc với hàng trăm thứ việc, có lẽ đêm 30 là đêm cực nhất đối với má. Trong đôi thúng gánh là hai chậu hạnh trái sum sê chín vàng mọng trĩu. Tôi ôm đặt vào trước hành lang, gắn thêm vài dây đèn chớp trông thật rực rỡ để có không khí xuân về trong nhà. Má lau bàn thờ đặt xuống đó một ít bánh mứt, vài gói trà, quay sang dặn tôi.
“Con đi xuống lấy cái dĩa đem lên. Sắp năm loại trái này để lên bàn thờ. Xong rồi xuống bếp nhóm lửa, để má luộc trứng kho thịt, rồi còn gói bánh tét nấu, nhanh lên trễ lắm rồi”.
“Ủa sao lại là năm trái hả má?”.
“Đó là mâm ngũ quả đó con. Chỉ có trong ngày Tết. Trước hết là mãng cầu, dừa, xoài, đu đủ, cuối cùng là sung. Năm trước đã xếp lên bàn, giờ con quên rồi sao?”.
“Dạ! Để con sắp lên bàn thờ rồi xuống bếp nhóm lửa”.
Ngoài sân từng cơn gió mang hơi thở của tiết xuân tháng giêng, lùa qua khe cửa se lành lạnh từ trên tới nhà bếp. Hai người anh đã quấn mền ngủ từ bao giờ, tư thế nằm ngang nằm dọc chẳng hề chút ý tứ, tiếng ngáy đều đều nối tiếp trút vào đêm.
Tôi nhóm lên bếp lửa thấy lòng mình rạo rực. Cái giá lạnh cũng dần dần tan biến, miệng không còn đơ cứng, những ngón tay cũng chẳng còn nhăn buốt. Mỗi năm giao thừa thích được ở dưới bếp, nấu bánh tét và nghe mẹ kể về những gì đã qua.
“Những mùa xuân xưa rất nghèo, thèm tiếng sôi ùng ục của nước, thèm nghe mùi hương bánh tét được gói trong chiếc lá chuối với vị nếp chín thơm nồng. Thèm nghe tiếng lửa bập bùng. Không phải tiếng bom rơi đạn nổ, khói lửa điêu tàn giăng kín khắp quê hương. Những gì bây giờ đã có trước mắt, là thứ xa xỉ và ước mơ của những thế hệ trước”. Đôi mắt má đăm chiêu rưng rưng theo tiếng nói nghẹn ngào. Ôi đôi mắt Miền Nam vời vợi trời thương nhớ.
Tôi nhìn dáng của má bên bếp lửa cháy hồng, đôi bàn tay gầy guộc khéo léo gói từng chiếc bánh. Những giọt mồ hôi ướt đẫm trên gương mặt, một hình ảnh quá quen thuộc lẫn ấm lòng mấy chục cái xuân qua. Đó là một thời khắc mà vĩnh viễn không bao giờ quên cho được.
Má nấu luôn trời tuổi thơ nên mỗi dịp xuân về nghe hương vị nồng nàn. Mùi thơm của nếp đã thấm vào hồn mê mang từ thuở lên bảy đọng lại cho tới nay. Ánh sáng của muôn nhà đang thức đón giao thừa, như chính má thức cặm cụi lo chu toàn để mùa xuân đủ đầy. Dẫu nghèo hay sang vẫn là mùa xuân đẹp nhất, có má mùa xuân ngọt như hoa quả mật đời. Má nhìn sang tôi dặn dò.
“Lấy cái nồi bỏ trứng vô luộc đến chín thì vớt ra, lột vỏ cho má kho thịt”.
“Dạ chín rồi đó má”.
“Xong rồi lên đi mặc thử bộ đồ xuống cho má coi đẹp không?”.
“Má có mua quần áo mới cho con hả?”.
“Ừ! Má để bên trong buồng, thử xong rồi cất đi để ngày mai mặc đi lễ chùa”.
Tôi vui mừng chạy vào trong buồng, thấy bộ đồ mới tinh còn mùi thơm của vải! Vội vàng ngắm nghía thích thú mặc vào.
Chiếc áo sơ mi trắng rộng thùng thình, cái quần tây cũng dài quá cỡ. Mỗi năm má đều mua quần áo lớn hơn một ít, tôi lật đật chạy xuống bếp cho khoe với má.
“Ý trời ơi, đẹp quá! Bộ đồ vừa như khuôn in”.
“Cái gì mà vừa như khuôn, nó rộng như cái bao bố vậy mà”.
“Thì sang năm thêm lớn lại mặc vừa. Mua nhỏ quá qua năm lớn lên rồi lại bỏ thì uổng phí lắm. Đẹp rồi đó, lột ra cất đi”.
Mỗi năm má đều nói câu này, có lẽ đó là câu nói huyền thoại của những người mẹ mỗi lần mua áo quần cho con. Tôi tháo bộ đồ mới cất xếp gọn gàng ngăn nắp, chạy xuống bếp quay quần bên má.
Bên bếp lửa bập bùng, một số chiếc bánh má đã gói xong cho vào nồi, mùi hương này cứ nhắc tôi nhớ miên man về khoảng trời xa xăm của ngày ấy! Chẳng nơi đâu ấm áp bằng nhà mình. Ngoài kia là những cơn lạnh thấu lòng, gió phảng phất se sắt vào da thịt, hàng cây trước ngõ cũng tái tê trong một đợt giao mùa.
Tôi hiểu ra rằng không có mùa xuân nào ấm đẹp bằng chính nét xuân của quê nhà. Tôi ngồi nghe má kể chuyện bên bếp lửa. Nồi thịt kho trứng sôi ùng ục lẫn hương vị bánh tét, thả vào đêm ba mươi làm người ta nôn nao nhớ về những kỷ niệm vắng xa. Những tháng ngày ấy là khoảng trời hạnh phúc và êm đẹp. Chúng ngọt ngào như miếng mứt dừa gặm nhấm mấy dịp tết, như bếp lửa có dáng mẹ xua tan những đêm đông.
“Sao con không ngủ? Sắp xong hết mọi chuyện rồi”.
“Con muốn ở đây đón giao thừa với má”.
“Trời ơi! Đón giao thừa nữa, năm nào thằng hai, thằng ba, cũng ngủ say. Miệng thì cứ nói tối nay đón giao thừa với má, mà về thì thấy tụi nó đã ngáy khò khò. Mấy năm nay chỉ có 2 mẹ con dưới cái bếp thế này, người ta đón giao thừa là cả nhà sum vầy bên nhau. Thôi vô ngủ có 2 người mà giao thừa với giao thiết gì”.
“Thì như mọi năm ấy, gọi là đón giao thừa đi. Con nôn Tết quá nên không ngủ được”.
“Ngày xưa khi má còn ở nhà ngoại, cứ mỗi đêm giao thừa, cả nhà sum họp đông vui lắm, chủ yếu quay quần bên bếp lửa, tiếng nói cười rộn ràng. Hồi đó nghèo nhưng Tết rất ý nghĩa đối với văn hóa của người Việt Nam chúng ta. Ra chợ đông kín người đi chơi, chùa chiền vui như lễ hội, giờ càng ngày thấy Tết càng nhạt nhẽo.
“Con có thấy nhạt đâu, đối với con chỉ đơn giản thấy cái dáng của má bên bếp lửa nấu bánh là có cả một trời xuân hiện về vui tươi và hạnh phúc quá rồi”.
“Cái thằng này, còn nhỏ mà y như ông già tám mươi”.
“Mấy năm má đều mua chậu cúc vạn thọ, sao năm nay má lại mua cây hạnh?”.
“Ừ, cho khác với mọi khi vậy mà”.
“Sao Tết người ta hay mua bông vạn thọ vậy má?”.
“Để má nói ý nghĩa vì sao bông vạn thọ có trong dịp Tết cho con nghe: Vì cầu bình an và cũng chính là lòng hiếu thảo đối với cha mẹ ông bà. Những bông cúc vạn thọ tượng trưng cho sự ấm áp của ánh mặt trời, là khát khao một cuộc sống sung túc, giàu sang. Vạn thọ còn hiểu nôm na là tuổi thọ nhiều đó con.
“Sao năm nay má lại chọn cây hạnh, tượng trưng cho điều gì?”.
“Nó cũng có một ý nghĩa gần giống vậy. Thường thì người ta sẽ chọn cây hạnh thật nhiều trái. Trong quan niệm dân gian là biểu tượng cho sức khỏe, bình an, trường thọ và sự may mắn trong tình duyên, thể hiện sự sum vầy của nhiều thế hệ trong gia đình. Những cây hạnh lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống đó con.
“Con hiểu rồi. Vậy là nhà mình năm nay được mùa”.
Má lắc đầu khẽ cười, nụ cười hòa lẫn vào tiếng củi cháy, những làn khói ảo huyền bao trùm không gian chái bếp. Xuân đến xuân lại đi, và mỗi mùa xuân luôn đẹp trong đôi bàn tay của má tô lên cuộc đời những gam màu với hồi ức thật đẹp. Thật bình dị và nhẹ nhàng như những sợi khói len lỏi mái nhà tranh.
Má ướp vào hương vị Tết nồng nàn. Mỗi năm xao xuyến trong căn nhà bếp đôi mắt cay nồng cứ nhớ những mùa xuân đã qua với hình dáng của má.
Má đã mang mùa xuân về cho cuộc đời, bằng bếp lửa khói nồng, bằng những câu chuyện kể. Nếu một mai má không còn! Mùa đông lạnh giá sẽ phủ vùi lấy đời tôi. Còn má có nghĩa là mùa xuân sẽ đến mỗi ngày, là tuổi thơ còn đây là hương vị Tết say. Là những điều tuyệt vời đã có trên trái đất này.
Cho đến bây giờ tôi đã trưởng thành, mỗi năm Tết về, vẫn thấy má như thuở ấy thắp lên cái bếp đầy ấm cúng chan chứa. Ngọn lửa ấy chính là tấm lòng của má đã sưởi ấm cho đời con.
Giờ mái tóc má đã trắng xóa, có phải những sợi khói của thời gian đã đọng lại không bao giờ bay đi. Hương vị của ngày ấy vẫn còn đó, vẫn như tuổi hồng quay quần bên má của những đêm giao thừa.
Mùa xuân xin hãy cứ tới, nhưng đừng cho má thêm bất cứ tuổi nào. Nếu một mai má về trời, hương vị Tết sẽ nhạt mất, và cuộc đời tôi là những đợt lạnh trong ngõ gió heo may, hình dáng ấy sẽ không còn dưới bếp. Bếp lạnh đến không ngờ nếu vắng đôi tay má. Hương vị tuổi thơ sẽ không được lặp lại mỗi năm xuân về. Mùa xuân của tôi là hình bóng của má trong gian bếp một trời đẹp ấu thơ. Miền Nam ơi! Đôi mắt má sao buồn hiu quá đỗi! Chẳng phải tại khói bếp. À thì ra! Má nhớ người con xa đã giáp tết vẫn chưa thấy trở về.
Quang Nguyễn
Nguồnhttps://www.facebook.com/groups/3958533 ... 147401548/
https://www.facebook.com/groups/3958533 ... 2193869418
Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Ất Tỵ ...
-
Lẩy Kiều
- Ê cu! Mày đang đọc cái gì đó?.
- Đui hả mày! Không thấy truyện Kiều sao? Đui hay không biết chữ đó.
- Không biết chữ sao tao làm được tới chức này hả thằng ngu?.
- Anh em với nhau hỏi nhỏ để biết chơi, hồi đó mày mua bằng ở Đại học Đông Đô đúng không?
- Ê, không có nhé! Tao ăn học đàng hoàng. Mà sao mày lại hỏi câu này.
- Vì tao thấy cái bản mặt của mày đầy uy tín. Trong khi đó trường Đông Đô chỉ bán cho người có uy tín. Với lại tao tưởng mày không biết chữ, cái tựa sách to đùng vậy mà hỏi đang đọc cái gì.
- Mặt tao uy tín, chẳng lẽ mày lại không. Nhìn là biết có chữ ngu trên trán rồi. Thứ này người ta gọi là lưu manh giả danh trí thức. Bày đặt đọc sách nữa chứ.
- Còn thứ của mày học sinh ngày xưa hay gọi với nhau là “ngu lâu dốt bền, khó đào tạo”.
- Ý hỏi đang đọc cái gì mà trông có vẻ chăm chú, chứ không phải là tao chẳng nhìn thấy cái tựa sách. Hiểu chưa thằng ngu.
- Mày ngu thì có? Ngu mà biết chữ để đọc truyện Kiều. Biết lấy tiền bỏ túi xài chơi.
- Thì tao cũng vậy. Không biết chữ sao làm cán bộ, rồi tham gia vô chuyến bay giải cứu để hốt bạc.
- Mày tưởng mày thông minh ư? Mày hốt bạc chẳng lẽ tao hốt cứt bò. Thằng tào lao, mình là đồng hội đồng thuyền kia mà.
- Nhưng bị bắt rồi thì mày đọc truyện Kiều để làm gì?
- Lại ngu. Để ra trước tòa ngâm thơ. Mày có thấy bị cáo nào từ xưa tới nay đứng trước tòa mà ngâm thơ bao giờ chưa? Tao là người đầu tiên.
- Vậy mà cũng được sao?
- Sao không được. Mấy bà ngâm củ kiệu ngoài chợ chưa chắc ngâm chua bằng tao. Cán bộ là phải thể hiện trí thức trước nhân dân cùng hội đồng xét xử. Văn chương, thi ca, là thứ luôn cần thiết để thể hiện cái trình của bản thân mình. Dù trời có đổ mưa rào/ Ta thì cứ táp, rồi trào thi ca/
- Hay... Hay... Công nhận mày xuất khẩu thành thơ, hay thật.
- Hay nào bằng được lấy tiền/ta mang bao chứa, hóa tiên trên trời/ Mặc kệ người khổ tơi bời/ Ta gom ta đớp mà đời ngợi khen/ khen vì ta chẳng đớn hèn/ chuyến bay giải cứu dân đen gọi hùng.
- Hay... Hay... Phải công nhận, mày còn hơn cả cụ Nguyễn Du.
- Chứ còn gì nữa mày! Nhờ đọc cái sách này đấy. Bí quyết dẫn tới thành công.
- Công nhận cuốn truyện Kiều hiệu quả thật. Nhưng khi ra tòa mày đọc như thế nào?
- Trót mang phận cướp giả hùng/ Thôi thì đành chịu, trả chung vụ này/ tiền thì hoàn lại nơi đây/ Gọi là khắc phục ai rầy ai la/.
- Hay... Hay... Tao phục mày rồi đó. Mà thơ gì nghe nó sao sao ấy? Cứ như là thằng ăn vạ?
- Thơ này mà gọi là ăn vạ ư! Đúng là óc trái nho! Mày không biết gì hết. Đó gọi là “Lẩy Kiều”.
- Sao mày đọc tao nghe như “lẩy cầy” vậy.
- Cán bộ cấp cao, ăn nói chuyện bậy bạ. Không có nghệ thuật tu từ, tính Văn Chương thẩm mỹ, cấu trúc thi ca để làm chân lý gì hết.
- Ví dụ mày ngâm trước tòa như vậy. Lỡ dư luận nó lên án thì sao?
- Tưởng gì. Nghe đây. Hỡi ôi bọn ngạo nghễ kia/ Đừng hòng chống phá, gây chia một nhà/ Căn nhà phát triển nguy nga/ Đừng dùng thủ đoạn, phá ra tanh bành. Đấy.
- Hay... Tao phục mày sát đất rồi. Mày đọc sách Truyện Kiều đúng không?
- Đúng! Rồi sao?.
- Thế trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du có nhân vật Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân đúng chưa?. Vậy mày có cuốn sách nào, điển hình như Truyện Vân không?
- Chi vậy?
- Thì để tao “Lẩy Vân”. Mày Lẩy con chị, tao lẩy con em. Hai thằng mình ra tòa cùng song kiếm hợp bích.
- Nhưng không có sách truyện Vân đâu cu. Chỉ có truyện Kiều. Thôi để tao lẩy Kiều cho. Còn mày muốn lẩy Vân thì cứ mà suy nghĩ tìm tòi nhé. Mà dặn đây! Tránh ăn cắp bản quyền.
Quang Nguyễn
https://www.facebook.com/tacgiaquangnguyen
Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Ất Tỵ ...
-
Gió tháng chạp
_______________________
Hồi tôi còn nhỏ ở quê , cứ gió tháng Chạp vừa về … là Ba Má tôi lại cuống cuồng hẳn lên như thể ngày mai đã là Tết . Ba tôi , ngoài việc chăm ruộng lúa mùa đã qua cái thời ngậm sữa đang cong như trái me , thời gian còn lại ông thường dành cho việc chọn họng ao , họng đìa nào “ ngon lành ” một chút để làm hầm bắt cá , chủ yếu là chuẩn bị cho bà con trong họ để ăn Tết . Ngoài ra , Ba tôi còn gieo cấy những loại rau cải ngắn ngày , để kịp dùng ngay trong dịp Tết về với quan niệm , cứ cây nhà lá vườn , vừa dân dã , vừa ngon lại cũng vừa đậm đà cái tình quê … Giờ đây , dù đã không còn nữa nhưng mỗi khi gợi lại những ký ức về Người trong tự đáy lòng mình , tôi luôn bùi ngùi với một lòng nhớ thương vô hạn và một lòng kính yêu khôn nguôi .
Bên cạnh hình ảnh dãi nắng của Ba , là hình ảnh Má tôi dầm sương với những bông vạn thọ , bông cúc , bông mào gà … như trong một vườn ươm buổi sớm . Bên ngoài , Má tôi thường khoác chiếc áo dài tay đã cũ sờn vai , dù trời đang mênh mang với những cơn gió mùa se lạnh , Má tôi vẫn vui vẻ để làm những công việc hàng ngày là nâng niu với những mầm non vừa nhú và tự tin rồi tất cả sẽ kịp ra hoa để đón Tết , sẽ kịp có mặt trong mâm cơm cúng tất niên của gia đình vào ngày ba mươi tháng Chạp .
Mỗi năm , khi gió tháng Chạp về … ở miệt quê tôi như bắt đầu trở mình để bừng lên một sắc thái tươi mới , khi mọi nhà đều nhộn nhịp cùng chung một không khí hồ hỡi dành tất cả để lo cho ngày Tết . Rồi thì trang hoàng lại nhà cửa , mấy bà , mấy má , mấy chị thì khoe sự khéo léo từ những đôi bàn tay của mình : Nào là mắm tép , dưa cà … đến bánh bông lan , bánh da lợn , mứt dừa , mứt bí . Cánh đàn ông thì tát đìa , thu hoạch cá để dành sẵn cho vào những ao nhỏ ở gần nhà .
Bên cạnh đó , việc làm cỏ sơn phết lại mộ phần của Tổ tiên dòng tộc cũng là việc thường được làm trong tháng Chạp , bởi chim có tổ người có tông , luôn luôn tỏ lòng thành kính và tri ân những thế hệ đi trước là truyền thống tốt đẹp của người dân quê tôi đã có tự bao đời .
Những ngày cuối cùng trong tháng Chạp là các công đoạn chuẩn bị cho việc mấy nhà cận kề hùn nhau làm thịt con heo cỏ , hùn nhau đẻ nấu nồi bánh tét . Thậm chí , nhà nào lúa mùa chín sớm , thì cùng “vần công” gặt hết cộ vào sân để chờ sau Tết mà chà luôn một thể , tránh để những bông lúa vàng ươm no căng rụng rơi hết ngoài ruộng nhìn mà tiếc hùi hụi … Đời nông dân , mỗi khi gió tháng Chạp về có viết tràn kín mấy trang giấy cũng không kể hết những nỗi nhọc nhằn , lam lũ nhưng lại rất hào sảng , lạc quan và đầy tình làng , nghĩa xóm . Gió tháng Chạp , chỉ đơn cử cho những ngày chớm xuân mà thôi , chứ mùa nào thì cũng có vẻ đẹp riêng vốn có của quê nhà với biết bao là niềm thương , nỗi nhớ khi từng cơn gió se lạnh lại ùa về tràn kín từng con ngõ nhỏ ở làng quê .
Tôi luôn sống trong hoài niệm , nên phải tiếc nuối để nghĩ rằng một mai khi trẻ con ở quê mình lớn lên , khi tôi kể về những nhịp chày quết bột với những cái ống to tròn và nặng nề dùng để cán mà làm bánh phồng , chắc hẳn sẽ là một sự ngạc nhiên và cũng rất thú vị đối với bọn nhỏ thời sau nầy . Có lẽ tôi là một người hoài cổ nên đã đơn độc trong từng nỗi nhớ về những điều xưa chuyện cũ , nhưng nó lại luôn đong đầy những cảm xúc để nhớ mãi về cội nguồn của mình khi những ngày Tết lại sắp về
Người miền Tây
https://www.facebook.com/permalink.php? ... __cft__[0]