Linh bắt gặp nó rất tình cờ khi một buổi sáng rảnh rỗi ghé chơi gian hàng của người bạn bán chim cảnh. Nó như một miếng thịt bèo nhèo, tai tái. Hai khoé mỏ còn vàng ươm, hai mắt chưa mở, chỉ là hai đốm đen. Cái cổ ngẳng, quẹo một bên, thỉnh thoảng lại cố vươn lên, ngáp ngáp như người khó thở. Hai cái cánh bé xíu, cặp chân cũng nhỏ tí, co quắp lâu lâu lại giật giật như người mắc bệnh kinh phong. Cả thân hình trơ trụi, lông chưa lún phún. Nó nằm trong thùng giấy, trên mấy cọng rơm khoanh vội, rải thêm mấy giấy vụn. Lại gần nghe mùi thum thủm của phân. Có cảm tưởng như nó đang đói, cái mỏ cứ mở ra, nhưng chắc không thấy gì, khép lại sau cái giẫy. Bỗng dưng Linh thấy nó tội quá, anh quay qua hỏi tay chủ tiệm:
- Con chim gì ghê thế?
- À! Hoạ mi con. Mới vào từ Lạng Sơn một ổ mấy con, người ta lựa hết còn mình nó.
- Trông nó èo uột quá
- Ừ! Chắc không sống nổi đêm nay.
Linh chợt nghĩ đến một sinh linh đang đi đến một cái chết được báo trước. Chắc chắn nó sẽ chẳng thấy khổ đau thương tiếc cuộc đời như con người, vì tất thảy sinh vật, chỉ có con người mới ý thức được sinh ra để rồi chết. Nhưng nó sẽ bị quăng vào chuồng của lũ chim ăn thịt, nó sẽ bị xé xác. Anh rùng mình khi nghĩ cảnh đó. Nó như đứa bé sơ sinh. Vốn Linh là người nhạy cảm, anh yêu cuộc sống và yêu những sinh vật có mặt trong đời sống. Giữa cuộc sống nháo nhào hôm nay, người như anh bị mọi người nhìn với cặp mắt kỳ dị, bởi anh nghĩ mọi sinh vật đều có quyền có được một cuộc sống, mọi sinh vật đều có một tâm hồn, đều khát khao sống. Không biết từ đâu khiến anh buột miệng:
- Nhiêu vậy?
- Gì? Con này hả, gần chết rồi, mua chi ông?
- Thì kệ tui, tui muốn lấy nó.
- Mua bán con mẹ gì, ông thích thì mang về, nhưng nó sắp đai rồi, nuôi không được đâu. Ông thích thì tui cho ông.
- Không có chuyện cho, mua bán đàng hoàng. Ông biết tánh tui mà, tui không thích lấy không của ai bao giờ.
- Thôi được. Chiều ông. Năm chục. Nhưng tui nhắc lại là không sống nổi đâu, nó yếu quá rồi.
- Kệ!
Thế là Linh bỏ túi giấy mang về. Vẫn biết có thể nó không sống nổi, nhưng anh sẽ chôn nó dưới gốc cây nguyệt quế, còn hơn là để cho lũ diều hâu kia xé xác nó ra từng mảnh. Nó yếu quá rồi, nhưng Linh nghĩ với số vốn kiến thức dở dang mấy năm học trường Nông Lâm Súc, biết đâu sẽ cứu được nó. Linh đang nuôi mấy con vẹt, con cockatoo mào vàng la hét suốt ngày, con Rainbow sặc sỡ và con xám đuôi đỏ Phi châu thông minh. Ái dà! Lại bận rộn rồi đây. Anh hoạ mi này phải theo dõi hăm bốn trên hăm bốn mới được. Nó dặt dẹo quá! Đang có sẵn mấy hộp sữa bột cho vẹt con, Linh đem ra khuấy thử cho nó ăn. Nó há mỏ, nhem nhép, sữa tràn ra đầy khoé, thêm chút nữa, nó nuốt, vô được miệng chút xíu, nuốt được là hi vọng sống. Tin vậy đi. Anh lấy cái rổ nhựa nhỏ, lót vải vụn, bỏ nó vào. Cầm trên tay thấy nó chút nị, nhẹ như không. Khoảng hơn giờ sau, thấy có chút phân, hi vọng sống tăng thêm một chút. Anh cockatoo đứng trên giàn ngó xuống, chắc ngạc nhiên nên cứ ngóng cổ hét làm con Rainbow nhảy cà tưng cà tưng.
Suốt tuần lễ Linh không làm được gì, cứ rảnh lúc nào là ngồi bên rổ nhựa, lúc thì bôm thức ăn, khi thì bôm chút nước, lâu lâu lại giọt cho chút thuốc bổ. Và nó sống được. Nó khoẻ ra từng ngày, cái cần cổ có thêm chút thịt, không còn quặt quẹo nữa. Sau hơn tuần lễ, hai cánh và đuôi đã thấy ló ra mấy cọng lông lún phún. Rồi đến lông đầu. Qua tuần thứ ba thì nó đứng được trên hai chân hai chân như cọng nhang, run rẩy bước từng bước nhỏ rồi bẹp xuống. Linh chắc chắn là nó đã được tái sinh. Cái mỏ đã bớt một chút khoé vàng, đã biết đòi ăn và lúc được hơn tháng thì hám ăn bất kể. Nó bắt đầu phổng phao, nhưng cái phổng phao của anh còi chậm lớn. Bộ lông bắt đầu mọc đầy, con mắt đã lộ dấu vết của giống nòi.
Linh bắt đầu chán mấy con vẹt, lần lượt cho chúng về chủ mới, chỉ còn lại chú hoạ mi còi cọc chậm lớn trong rổ nhựa. Sau một năm, nó trổ hết lông đầu, lông cánh, lông đuôi, bộ lông màu vàng khoác lên thân mình bé bé. Nó vẫn là con chim còi cọc, nhưng rất khôn ngoan. Nó đã biết bay vòng vòng bằng đôi cánh nhỏ trong chiếc lồng tre. Mi mắt cũng bắt đầu lộ ra, xanh xanh khéo như một nét cọ vẽ. Mỗi lần thấy bóng Linh, nó kêu khèn khẹt, hai cánh đập liên hồi như quạt gió. Linh mở cửa lồng, nó bay ra đậu trên tay Linh, chiếc mỏ quẹt qua lại trên tay anh đòi ăn, anh cho nó con cào cào non, nó nhận lấy bằng cú đớp rất lẹ. Anh mở băng cho nó nghe tiếng hót hàng ngày để hi vọng nó sẽ học giọng. Nó đã bắt đầu trổ mã của con chim mùa đầu, dáng cũng cao cầu, mi dài, mỏ dày, đầu xà, mắt trường mi xanh biếc chỉ tội nhỏ con, nhiều khi còn nhỏ hơn con chích choè than, kiểu này chỉ nuôi nghe hót chơi. Một buổi trưa, đang nằm thiu thiu, nghe ngoài hiên có tiếng chim đi giọng gió. Thật ra ở giống chim, giọng gió của chúng nhiều khi nghe đã hơn giọng hót, bởi nó dìu dặt, đều đặn, không cao giọng chát chúa như giọng hót. Thế là anh chàng đã chuẩn bị trưởng thành, đã bắt đầu đi giọng. Và trưa trưa, thỉnh thoảng đã có mấy giọng hót ngắn. Mỗi lần bắt ra chơi, nó đã mở miệng nhay nháy kiểu của anh chàng trẻ tuổi muốn khoe giọng vỡ của mình. Từ lúc đấy, Linh thường mang nó vào mấy cội chim chơi, ai thấy nó cũng buồn cười vì trông nó dị dạng quá đỗi, lốt chim hoạ mi trong xác con chích choè. Nhưng khi thay xong mùa lông thứ nhất, rồi đến hết mùa lông thứ hai thì mọi người quên mất thân hình bé nhỏ của nó mà cứ trầm trồ giọng hót. Linh cứ sợ nó hót giọng chim con, không ngờ nó hót giọng đặc rừng, lanh lảnh, vút cao, bộ ngực bé của nó sao lại chứa đựng hơi dài đến thế. Nó hót liên tục, lẹ miệng vô cùng, chỉ cần nghe tiếng chim hay chỉ nhảy lên tay là nó ngóng cổ hót, hót say sưa và không bao giờ có tiếng đề pa cạp cạp như những con chim khác. Khi hót đuôi nó xoè ra như cánh quạt, nhịp theo giọng hót, có khi lại lắc lư người, trông rất điệu. Mỗi lần đi chuyện cũng vậy, giọng nó véo von, trầm bổng, du dương nghe như một khúc nhạc giao hưởng của bầy chim trong rừng sâu. Đặc biệt, tuy thân hình bé nhỏ, nhưng nó không bao giờ sợ những con chim khác. Nhiều con chim to khoẻ nhưng nghe giọng nạt của kẻ mạnh hơn là xù đầu nhảy loạn trong lồng. Nó không bao giờ, cứ nghe giọng nạt là nó nạt lại, giọng khè là nó khè lại, đứng vươn cồ trên cầu mà thảnh thơi hót. Đám chơi chim khoái nó lắm, bởi dễ gì kiếm được con hoạ mi đứng trên vai, trên tay hay trên nóc chuồng hót giọng rừng mà lại hót liên tu từ bắt đầu ra cho đến lúc về. Linh cưng nó lắm, ngày nào cũng có cào cào, thức ăn thì kiểu cách kê lột trộn trứng gà và chút gan heo sấy. Trưa nào cũng được tắm, thức ăn, thuốc men đầy đủ nên lông lúc nào cũng mượt mà. Anh bạn chủ tiệm cũng không ngờ nó sống nổi và càng ngạc nhiên khi nghe giọng hót của nó, giọng hót đầy chất hoang dã của núi rừng. Đám chơi chim thích nó, nhiều lần muốn mua, nhưng Linh không bán. Anh bảo:
- Tôi mua con chim này chỉ năm chục ngàn. Tôi mua để cứu sống nó, ai dè được có giọng hay. Tôi sẽ không bao giờ bán nó với bất cứ giá nào.
Linh lại đặt nó trên tay, nó cất cao giọng, anh nói với nó: - Hoạ mi nhỉ! Ở với anh suốt đời nghe chú em!
_____________________
Cuối năm đó, bà chị ruột của Linh từ Canada về thăm quê sau ba mươi năm xa nhà. Linh bảo chị không được ở khách sạn, nhà Linh neo người mà phòng trống còn nhiều. Hai đứa con lớn Linh lấy vợ lấy chồng ra riêng cả, chỉ còn đứa út ở nhà. Hôm đầu tiên nói chuyện, Linh cứ ngờ ngợ về bà chị của mình. Ngày xưa, chị làm xướng ngôn viên truyền hình, quen toàn các ông to bà lớn thời ấy, cũng ăn chơi theo kiểu quý tộc. Bây giờ, chị toàn nói chuyện Phật pháp tu hành, nói toàn duyên với kiếp, toàn ngộ với vô thường, nghe phát mệt. Kiểu nói của các đạo hữu lúc nào cũng chắp tay Mô Phật liên hồi mà chẳng hiểu chút gì cái sâu xa của Phật pháp.
Chị thấy Linh ngồi đùa với chim, chị bảo:
- Cậu biết nhốt con chim vào lồng là tàn ác không? Con chim thân của nó phải bay ngoài trời, phải tự do tung cánh. Cậu nhốt nó vào lồng, dù là lồng son, vẫn là nhà tù, tước đoạt cái quyền tự do bay nhảy của chim, như thế là cậu có tội
- Em chẳng thấy tội lỗi gì, em cứu sống nó, nó thân thiết với em, nó sống tự do trong khung trời của nó. Khái niệm tự do của nó là chiếc lồng này. Tự do đôi khi không phải là tung cánh trên bầu trời mà là cách cảm nhận tự do tuỳ mỗi hoàn cảnh.
- Cậu lý luận tào lao, làm gì có thứ tự do trong tù đày?
- Mỗi người tự chọn cho mình kiểu tự do theo ý mình. Khi người ta chấp nhận hôn nhân, có phải là người ta đã tự nguyện bỏ một kiểu tự do này để đến một kiểu tự do khác không?
- Thôi không nói lý sự cùn với cậu nữa, theo chị, cậu nên thả chim về với bầu trời của nó đi, chỉ có khoảng không gian rộng lớn ngoài kia mới là nơi chốn đi về của chúng
Linh cười ha hả:
- Nói chuyện với bà chị chẳng đi đến đâu, em với chị vẫn là hai đường thẳng song song.
Gần Tết, Linh phải bay ra Đà Nẵng năm ngày để thanh toán công nợ cho công ty, cũng như mọi lần, anh chuẩn bị cho con hoạ mi rất chu đáo. Anh gài thêm ba cóng nước, đổ đầy hai cóng thức ăn. Anh biết anh sẽ nhớ chim và con chim cũng sẽ buồn. Đừng nghĩ chim không có cảm xúc nhé. Chim cũng biết buồn, biết nhớ, cũng bị stress khi không được chăm sóc thường xuyên, không được chủ vuốt ve, lưu ý.
Công việc xong xuôi, Linh bay về ngay. Đến cửa anh huýt gió như mọi lần, bình thường chim sẽ vẫy cánh, hót một giọng dài trầm bổng như đón anh. Hôm nay im lặng như tờ, vợ anh nhìn anh khang khác. Anh bỏ va li, chạy lên balcon, lồng trống trơn. Anh huýt thêm mấy đợt, không một vọng âm. Vợ anh cũng vừa lên, nói nhỏ:
- Chị Hai thả chim rồi, chị bảo anh sẽ đồng ý với chị thôi. Hồi nhỏ, chị bảo gì anh cũng nghe.
Linh muốn nổi đoá, muốn hét lên cho đỡ bực mà không hét được. Miệng anh há ra, hai tay anh ôm đầu rồi ngồi phịch xuống ghế. Anh hỏi vợ:
- Chị Hai đi đâu rồi?
- Chị lên chùa từ hồi sáng, chiều tối mới về
Linh ra lại balcon, nhìn quanh quất, huýt mấy tiếng, cũng chẳng thấy bóng dáng chim.
- Quái, làm sao nó đi xa được, chỉ quanh quẩn đây thôi, hay là ai bắt nó rồi.?
Anh đem cào cào non đặt một hàng trên thành balcon. Anh rải thức ăn cũng một hàng dài. Anh mở rộng cửa lồng, châm thuốc ngồi đợi, hi vọng chim đói sẽ về. Mà chắc nó phải về thôi. Ra khỏi lồng, vào thiên nhiên chim làm sao sống được vì đã quen với thức ăn người nuôi, rồi mèo, rồi chuột cống, rồi con người tham lam và gian ác.
Buổi tối chị Hai về, Linh chỉ gượng chào, chị bảo:
- Chị thả chim là chị tạo nghiệp cho cậu đó. Cậu cứ ôm lấy nó, nhốt nó trong nhà tù của chú, nghiệp chú càng lúc càng nặng thêm. Linh chẳng buồn cãi, ngồi hút thuốc lá, nhả khói um.
Đến đêm, giờ chim về tổ, Linh mấy lần ra cũng chẳng thấy gì, đang ngủ, nghe lịch kịch ngoài hiên, anh cũng thức giấc rọi đèn ra xem khắp mà cũng chẳng thấy tăm hơi.
Đã hai hôm rồi, chẳng thấy bóng chim, đi làm về anh cứ ngồi nhìn chiếc lồng mà nhớ chim. Chắc nó đã bay xa rồi. Chắc nó đã gặp bạn rồi nhập đàn đâu đó rồi. Thôi thì cũng cầu mong thế.
Sáng ba mươi, cây nguyệt quế nở bông trắng thơm ngát, Linh định lấy cái xẻng nhỏ xới gốc cây, châm thêm chút phân thì nhìn thấy con chim hoạ mi. Nó đã chết, chắc mấy hôm rồi, kiến bu đầy đã ăn hết khoang ngực. Màng trắng đầy mắt, kiến đục một lỗ sâu, hai chân co quắp với thân hình teo tóp, cánh rũ và thân đã có mùi. Nó đã chết mấy hôm rồi, nó đói, nó về nhưng cũng không tìm thấy thức ăn quen thuộc và nó gục chết dưới gốc cây nguyệt quế. Ngày xưa khi đem nó về, Linh cũng nghĩ nếu nó chết,anh sẽ chôn nó dưới gốc cây này. Bây giờ sau gần ba năm nuôi nó, nó đã chết vì cái tự do nó không cần thiết. Anh chôn nó và thầm nghĩ: Đôi khi con người cứ nghĩ rằng đang làm việc thiện nhưng thật ra đang làm kẻ ác. Mỗi người, mỗi sinh vật đều có cách sống riêng của nó. Cách sống đó tạo ra từ hoàn cảnh, từ thói quen. Anh bứt người ta ra khỏi thói quen đôi lúc anh trở thành kẻ sát nhân. Bởi vậy, đem những người dân tộc rời rừng để trở về cộng đồng văn minh, chưa chắc đã là việc tốt. Bứng họ ra khỏi đại ngàn lâu nay họ đã sống chính là cắt đứt mạch máu của họ. Họ cũng sẽ chết như con chim hoạ mi này.
Sài Gòn có những con hẻm, có hẻm cạn, có hẻm sâu hun hút chạy ngoằn nghèo dẫn ta đi miết đến những xóm nhà khác nếu không quen sẽ khó tìm lối ra. Cách đây hơn nửa thế kỷ có chàng trai tỉnh lẻ vào đất này kiếm chữ. Vì hoàn cảnh nên ở trọ trong những xóm nghèo của những con hẻm. Phương tiện di chuyển là đôi chân nên anh chàng len lỏi trong hẻm mà đi và nhờ vậy anh ta khám phá ra cái duyên của những con hẻm Sài Gòn. Ở đó người ta chen chúc nhau trong những căn nhà nhỏ. Ở đó người ta sống ở ngoài ngõ nhiều hơn ở trong nhà. Sáng ngồi cà phê ăn gói xôi, tô cháo, ổ bánh mì, dĩa bánh cuốn...rồi tản đi kiếm cơm. Chiều chiều, tối tối tụ lại, bắt ghế ra ngồi tán bao nhiêu là chuyện. Đúng với câu tối lửa tắt đèn có nhau. Đùm bọc, chở che, giúp nhau lúc đau yếu, hoạn nạn. Nhưng cũng không thiếu những trận cãi cọ, xô xát nhau. Con hẻm đủ cả hỉ nộ ái ố của cuộc đời. Có sống trong những con hẻm với bà con lao động, những người nghèo tay làm hàm nhai mới hiểu hết lòng người Sài Gòn. Thành phố này không chỉ là những toà nhà cao, những nhà hàng sang trọng, những cuộc vui thâu đêm suốt sáng với ánh đèn màu xanh đỏ. Mà Sài Gòn là những con hẻm chằng chịt từ quận giàu cho đến quận nghèo. Sài Gòn ở đâu cũng có hẻm. Và là những con hẻm rất Sài Gòn.
Sài Gòn có hàng nghìn con hẻm. Có hẻm giàu với những biệt thự kín cổng cao tường. Cũng có rất nhiều con hẻm nghèo với những người lao động gắn bó với nhau qua mấy đời. Mỗi con hẻm có đặc trưng riêng và nó làm nên diện mạo của một thành phố. Hẻm Sài Gòn không chỉ có cái duyên mà nó còn chứa cái tình. Tình người.
Trong cơn đại dịch đi qua thành phố này. Khi những con đường phố vắng tanh vì phong toả. Khi con hẻm bị giăng dây và kéo kẽm. Những con hẻm đầy tình người vẫn duy trì được tấm lòng của người Sài Gòn che chở, giúp đỡ nhau trong cơn hoạn nạn. Củ khoai, con cá, bó rau, ký gạo đã được chia sẻ để tạm sống qua ngày trong thời gian bi thảm của thành phố. Những con hẻm đầy nước mắt khi những người ra đi và trở về trong hũ cốt. Những đứa bé ngơ ngác khi mồ côi cha mẹ được vòng tay thương yêu của những người hàng xóm chở che. Người ta quên mất những giận hờn, những cãi cọ thường ngày để cùng nhau đi qua những ngày giông bão.
Khi chán với cảnh người xe chen chúc, hãy đi về với hẻm. Về với những xóm nhỏ, những quầy hàng cũng nhỏ, những căn nhà cũng nho nhỏ, những con đường xi măng cũng nhỏ đôi chỗ chỉ lách được một chiếc xe qua. Ở đó ta sẽ tìm lại được tình cảm chân chất, giản dị, mộc mạc và bộc trực của người Sài Gòn. Ngồi với dân hẻm một buổi chiều, nghe người ta nói chuyện, nhấm một chút rượu, nâng một cốc bia, xé một con khô với tiếng khà sảng khoái, nhìn những đứa trẻ đùa vui trong tiếng nhạc, tiếng hát, tiếng ti vi vọng ra từ những căn nhà, sự lộn xộn có sắp xếp của một hẻm nhỏ, ta hiểu được thêm tấm lòng của người Sài Gòn một thuở.
Những con hẻm vẫn còn đó. Và sẽ còn mãi đó để làm nên một Sài Gòn. Nó cũng là cái hồn của một thành phố mà thiếu nó sẽ không trọn vẹn một Sài Gòn.
Ngày này cách đây 70 năm, gia đình tôi chuẩn bị di cư vào Nam. Hồi đó nhà tôi ở Đồng Hới, di cư bằng máy bay chứ không đi tàu há mồm như những người ở miền Bắc. Trong trí nhớ của tôi, chẳng có một hình ảnh nào của chuyến bay đó vì lúc đấy tôi còn nhỏ, chỉ mới có mấy tuổi. Bay vào Quảng Trị, sau đó vào Huế rồi vào Đà Nẵng ở đó mấy chục năm. Hồi mới lớn, tôi thấy trong tủ sách của Ba tôi có một tờ báo với một bài phóng sự của một phóng viên người Pháp, trong đó có một đoạn phỏng vấn Ba tôi kèm hình chụp gia đình tôi cạnh chiếc phi cơ. Ba tôi mặc veste trắng, anh tôi và tôi đội chiếc mũ phớt, mặc áo khoác màu sáng. Mẹ tôi mặc áo dài và chị tôi mặc đầm chân mang sandale. Hình ảnh đó chứng tỏ chuyến đi được chuẩn bị rất chu đáo chứ không có gì gấp gáp. Tôi nhớ trong ảnh mặt tôi ngu ngơ lắm, hình như là ngạc nhiên trước khung cảnh mới và chưa hết ngỡ ngàng vì lần đầu tiên được đi phi cơ. Lúc này gia đình tôi chỉ có 5 người gồm Ba Mạ và anh Hai, chị tôi và tôi. Đến năm 1972 có đến 10 người con không kể 4 người đã mất. Những người sau đều sinh ở Đà Nẵng.
Sau này nhà tôi chuyển nhà cũng là lúc tôi bắt đầu quan tâm đến tờ báo đó thì tôi không tìm thấy nữa. Chắc nó đã thất lạc khi gia đình tôi dọn dẹp để thay đổi chỗ ở.
Tôi rời quê khi tuổi còn bé, ký ức về quê nhà tôi chẳng nhớ rõ. Chỉ nhớ hồi vào ở Huế gần dốc Nam Giao, tôi ngồi trên xe đẩy bị lao xuống dốc giờ vẫn còn vết sẹo trên đầu. Mười mấy năm ở Đà Nẵng, tuổi thơ tôi lớn lên ở đó, nhiều kỷ niệm khắc ghi cũng ở đó, ký ức một thời của lứa tuổi mới lớn cũng đều ở đó nên lắm khi người ta hỏi quê quán, tôi thường trả lời là Đà Nẵng. Ở Đà Nẵng thời ấy cũng có nhiều người quê Quảng Bình di cư vào. Phần đông là người Công Giáo khu Tam Toà. Vào Đà Nẵng họ cũng gắn bó nhau và thành lập khu Tam Toà ở Đà Nẵng.
Theo tư liệu, cuộc di cư 1954 đã có hơn một triệu người vào Nam. Đã có nhiều hình ảnh ghi lại cuộc di cư có một không hai này. Tuy nhiên, rất ít công trình nghiên cứu nghiêm túc và sâu sắc về cuộc di cư vĩ đại ngoài những bài viết của các nhà văn, nhà báo, nhà thơ thể hiện tâm trạng nhớ nhung về nơi chôn nhau cắt rốn mà họ đã lìa xa. Nỗi nhớ đó thành thơ, thành nhạc viết từ cảm xúc nhưng thiếu một công trình khoa học có giá trị. Thời gian sẽ trôi đi, những chứng nhân của lịch sử sẽ khuất bóng, những tư liệu sống sẽ không còn nữa, rồi đây ai sẽ viết để sự kiện này sẽ không bị chìm khuất bởi thời gian.
Đa số người miền Bắc đều đi vào các tỉnh miền Nam và nhà nước non trẻ của chính phủ Ngô Đình Diệm đã bố trí cho họ vào những khu vực ven đô, một cách để ngăn ngừa sự xâm nhập của những người hoạt động Cộng Sản. Gia Kiệm, Phương Lâm, Biên Hoà...Hố Nai, Xóm Mới, khu Ông Tạ được hình thành trong giai đoạn này. Những người di cư đã mang lại cho miền Nam một luồng không khí mới trong văn học, nghệ thuật cũng như trong sinh hoạt xã hội. Ổn định được hơn triệu người di cư trong một thời gian ngắn là công lao của chế độ Đệ nhất Cộng Hoà. Và người di cư đã đạt được nhiều thành tựu trên nhiều lãnh vực trong khoảng 20 năm từ 1954 đến 1975. Từ một triệu người, giờ đây con số của các gia đình di cư chắc đã hơn 10 triệu. Sau 1975 họ được gọi là Bắc Kỳ 9 nút để phân biệt với Bắc Kỳ 2 nút là những người miền Bắc vào Nam sau 1975.
Đã 70 năm. Ngày này bây giờ ngoài những gia đình di cư còn nhắc lại với cháu con, báo chí nhà nước không đả động tới. Đất nước đã thống nhất, con sông Bến Hải, cầu Hiền Lương không còn là nhát dao chia cắt. Nhưng sao lòng người vẫn cảm thấy chia xa. Chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên:
"Ở xứ chim không di cư, người phải di cư
Lưu vong chính trên mình Tổ quốc".
Hồi xưa ở Đà Nẵng có cái bàu lớn lắm. Hoặc có lẽ lúc đó tui còn nhỏ nên thấy nó lớn. Nó nằm ở trong hẻm bến xe chợ Cồn đi vào. Khu đó thì có nhiều hẻm, dân gọi là kiệt, hẻm nào cũng vô tới bàu. Còn đi đường Ông Ích Khiêm xuống tới Hoàng Diệu thì kiệt nào cũng dẫn đến bàu. Nó nằm song song với đường rầy. Đi từ Ông Ích Khiêm xuống thì gặp một đường xe lửa, cứ men theo đường đấy thì một bên là nhà dân một bên là bàu nước mênh mông và ở giữa là đường tàu lửa chạy. Hồi tui học lớp nhất, ba tui bệnh một thời gian nằm điều trị trong cơ quan của ba tui là Tổng y viện Duy Tân, ngày nào tui cũng đi dọc theo đường rầy mang cơm cho Ba, thích lắm vì vừa đi vừa bắt chuồn chuồn, châu chấu, ngắm hoa và cỏ dại ven đường. Thú thế cho nên tui hay giành lấy việc này mà chẳng ngại trưa nắng, chiều mưa. Những trò mà ngày thường không thể nào làm được. Nhà tui ở khu Chợ Cồn trên đường Ông Ích Khiêm, hồi đó Ba tui nghiêm khắc, sáng cả nhà phải thức dậy lúc năm giờ, trưa phải ngủ trưa. Tui hay trốn ngủ trưa mò vô bàu để săn những con chuồn đỏ, những con chuồn chuồn có màu đỏ rực với hai cánh mỏng, đậu lắt lay trên cành lá cỏ hay những đọt cây thấp, những con chuồn chuồn voi to kềnh với hai con mắt to, hàm răng khoẻ cắn đau điếng. Có khi lại chạy theo những con chuồn kim bé xíu có thân dài ngoằng bé tẹo. Có lúc lại ngồi ở mấy gốc tre nghe mấy con chim chích chòe than hót trầm bổng giữa buổi trưa hè, rất thú vị. Cũng có khi ngồi nhìn lên mấy đọt tre trên cao đung đưa xào xạc với gió, mê ly. Khu này có nhiều cây tre trồng hai bên vệ đường, lúc đó chỉ là những con đường đất đỏ, nên xóm này còn có tên gọi là xóm Tre. Hậu quả của những buổi trưa thơ mộng đó là những trận đòn nát đít, nhưng tui vẫn không chừa. Và cũng vì nó hoang vắng cho nên Ba tui hay đem quỷ ma ra doạ, Ba tui bảo khu đó toàn ma ở với người nên nhiều lúc trốn vô đó chơi mà thấy vắng quá lòng tui cũng hơi hoảng, nhất là khi nghe hai thân tre cọ vào nhau kêu kót két là lúc đầu toàn nghĩ chuyện ma bắt người đem vô bụi.
Khi lính Mỹ đổ quân vào miền Nam, khu đường rầy biến thành xóm đĩ. Lúc đó ai nói đi đường rầy là người ta nghĩ đến đi chuyện giải quyết sinh lý. Nơi nào có đĩ thì có du đãng, bụi đời, xì ke, thuốc phiện. Do đó, có một thời khu này khét tiếng lộn xộn, lính lác, cô hồn choảng nhau như cơm bữa.
Lúc mới lớn, có đôi chút chữ nghĩa tui cứ thắc mắc về cái chữ bàu này. Tìm hiểu thì được giải thích người miền Trung thường gọi hồ là bàu. Tui vẫn thấy hình như chưa đúng. Tìm hiểu mãi cho đến giờ cũng chưa trả lời được khi nào thì gọi là bàu và như thế nào thì gọi là hồ, là ao. Và giờ đây, người ta vẫn gọi là bàu Thạc Gián.
Theo những người nghiên cứu về Đà Nẵng thì xưa kia vùng này chia làm sáu xứ. Ở hữu ngạn sông Hàn là xứ Bà Thân (một trong các tiền hiền làng An Hải), là làng An Hải ngày nay. Năm xứ còn lại ở tả ngạn, có xứ Bàu Lác (xưa có nhiều cỏ lác, nay thuộc phường Thạc Gián, quận Thanh Khê) là cái bàu mà tui đang nói tới. Rồi đến xứ Rẫy Cu (ngày trước nơi đây có nhiều lùm bụi, vùng lý tưởng cho chim cò trong đó có loài chim cu đất sinh sống và là nơi hội tụ các tay say mê trò gác cu, nay thuộc địa phận các phường Bình Thuận, Hòa Thuận Đông, Hòa Thuận Tây). Xứ Giếng Bộng (gọi tên thế vì nơi đó có một giếng nước ngọt mát phục vụ nhân dân quanh vùng thuộc làng Nại Hiên xưa, nay thuộc phường Bình Hiên, quận Hải Châu). Tiếp đó là xứ Trèm Trẹm (hay gọi tắt là Trẹm, thuộc các phường Thiệu Bình, Thạch Thang). Cuối cùng là xứ Đà Nẵng, tức vùng trung tâm thành phố ngày nay, phần lớn nằm trên địa bàn các phường Hải Châu 1, Hải Châu 2.
Như vậy bàu Thạc gián chính là bàu Lác, một trong sáu xứ của Đà Nẵng xưa. Gọi tên bàu Lác vì khi xưa là vùng mênh mông cỏ lác, sau đó nó nằm trong khu Thạc Gián nên mang tên là bàu Thạc Gián. Hồi tui hay trốn vô đó, đất đai còn mênh mông, đa số nhà nào cũng có vườn trồng tre và cây ăn trái. Nó như một vùng quê yên ả trong thành phố nhộn nhịp. Dân ở đây hồi đó cũng thường là bà con, giòng họ với nhau. Tui có nhiều người bạn ở vùng này, nhưng rất tiếc họ đã qua đời gần hết. Năm 1972, đôn quân, bạn Lưu Văn Thành ở đoạn đầu của xóm Tre tử trận khi mới ra trường Thủ Đức. Tiếp đó là bạn Ý cũng bị bắn tỉa trên cầu ở Cẩm Lệ. Trong vùng này có ông Tùng, thầu khoán, giàu có, nhà cửa đất đai vô số kể. Con trai đầu của ông là anh Thành, du học Pháp, học ngành y, ra trường mở một bệnh viện khá nổi tiếng ở Pháp. Hồi nhỏ tui rất kính phục anh này. Kế anh Thành là chị Minh, yêu một anh ở sát nhà tui, ảnh cũng tên Ngọc, hi sinh năm 1971. Ông Tùng này nhiều vợ, có một đứa con bà thứ, sống lang bạt kỳ hồ sau này vào sống căn biệt thự của ông ở cổng xe lửa số 6 Trương Minh Ký, hơi tưng, cũng chết mấy năm rồi. Một người bạn nữa cũng ở xóm Tre, bàu Thạc Gián, cũng là cháu ông Tùng này, học chung với tui ở trường Kỹ thuật thời trung học, tên Nguyễn Ngọc Chi, một người bạn hiền lành, năm trước đây cũng đi luôn trong giấc ngủ. Tui nhớ năm tui học đệ thất, một hôm được nghỉ mấy tiết cuối, tụi tui rủ nhau về nhà một người bạn ở bàu chơi. Nhà anh này ở bên kia bàu Thạc Gián, hồi đó đi vào như là về quê, trâu bò, rơm rạ đầy đường, lúa phơi giữa lộ, khói đốt mù mịt. Mấy thằng dân phố công tử bột như tui lấy làm lạ lẫm. Đến khi về, đã quá trưa, cả bọn rủ nhau lội qua bàu về. Áo quần ướt sũng, tui sợ về bị đánh đòn nên cởi truồng vắt phơi cho khô, tồng ngồng bên xóm vắng, tui khóc tu tu vì sợ khi nghĩ đến bó roi mây của ba tui. Anh bạn Thể chủ nhà hôm đó giờ cũng mất rồi.
Đất ở khu này như thung lũng, trồi lên trụt xuống ngộ ghê. Tui nhớ ở vùng thung lũng đó có hai gia đình có nhiều cô gái xinh đẹp. Đầu tiên là cô tên Hoá, con ông Giảng. Ông này làm nghề hàn máng xối, cao cao gầy gầy, mặt lúc nào cũng buồn buồn nhưng con gái ông thì quá xinh, bọn con trai ai cũng làm kẻ si tình. Khi tuổi vừa lớn, tui rời Đà Nẵng đi học xa nên không biết có ai trong xóm ấy có lấy được cô này không? Gia đình thứ hai là nhà ông Tư hớt tóc. Ông có một miếng đất ven đường Ông Ích Khiêm làm nơi hành nghề. Ông có ba bốn cô con gái, tuy nhà nghèo nhưng cô nào cũng có nhan sắc. Tui nhớ tên cô Liễu vì cô này trạc tuổi tui. Mấy cô này mà còn chắc đã lên chức bà cố, bà ngoại hết rồi.
Năm 1956, gia đình tui mới vào Đà Nẵng thì trong khu xóm Tre này có một ông giáo mở một lớp học trường làng. Ông tên Thức nên mọi người gọi là Thầy Thức. Trong khi mấy ông giáo làng còn mặc áo the đen với khăn đóng thì Thầy Thức luôn mang bộ veston trắng, giày da trắng, đội mũ phớt và đôi lúc cầm baton trông rất ư là thanh lịch. Thầy Thức là dân Tây học dù vợ chỉ là người bán gà vịt đã nhổ lông ở Chợ Cồn. Tui không học trường này nhưng anh Hai tui thì tốt nghiệp lớp ba trường làng rồi mới vào trường Nam tiểu học. Tuy không học với Thầy Thức nhưng tui ngưỡng mộ Thầy lắm. Mỗi lần gặp Ba tui, hai người nói chuyện bằng tiếng Pháp với phong cách thật thanh lịch. Cung cách ấy sau này tui không tìm thấy nữa ở ngoài xã hội, kể cả ở miền Nam những năm gần 75.
Năm 1966, tướng Nguyễn Chánh Thi cùng với Phật giáo miền Trung ly khai. Ông tướng này là chồng của Dì Tá, là chị họ của Mạ tui cho nên tui gọi là dì. Ông Nguyễn Cao Kỳ cho quân nhảy dù ra đánh, súng nổ tơi bời. Nhà tui dính hai trái M79, sợ quá cả nhà chạy vào xóm Tre tránh đạn. Đó là lần đầu tiên tui biết súng nổ đạn bay của chiến tranh. Cả nhà tui tạm lánh ở nhà ông Tư hớt tóc, nhà có nhiều cô gái xinh xinh đấy. Nhưng lúc đó sợ quá nên cũng chẳng dám nghĩ chuyện ghẹo gái.
Bàu Thạc Gián, xóm Tre là nơi tui có nhiều kỷ niệm. Những kỷ niệm gắn với tuổi thơ và thời mới lớn. Cuối những năm 60 của thế kỷ trước, tui rời Đà Nẵng đi học xa rồi chẳng có dịp trở về. Rồi biến cố của lịch sử, tui chẳng còn ai thân thuộc để có cớ mà về. Đến khi bắt đầu già, nhớ quá khứ, trở về thăm thì cảnh chẳng còn như xưa nữa. Bàu Thạc Gián, xóm Tre giờ giống như bài Sông Lấp của Trần Tế Xương:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
Bàu Thạc Gián giờ thuộc quận Thanh Khê, chỉ còn là cái ao bé xíu. Chung quanh người ta xây cao ốc rầm rộ. Bàu lấp thành đất vàng. Vào xóm Tre cũng chẳng còn tre, nhà cửa lố nhố, bạn cũ chẳng còn, người xưa đâu tá? Vẫn biết cuộc bể dâu là quy luật của đất trời, sao lòng bỗng thấy thật buồn. Tìm nhà bạn cũ, cũng một thời học cùng trường, bố bạn ấy làm điền địa, cũng khá thân với Ba tui, lại thấy hình bạn ấy đặt trên bàn thờ, ánh mắt trong hình buồn bã nhìn mọi người. Bạn ấy là Trương Minh Tú có nick name là Tú Bà. Cảnh chẳng còn, người đã mất, lòng lại buồn hơn.
2.9.2018 DODUYNGOC
Muốn tìm một hình ảnh của Bàu Thạc Gián hồi xưa mà tìm hoài không thấy. Lên Google chỉ thấy hình của các dự án bất động sản xây dựng trên nền của Bàu Thạc Gián đã bị lấp. Tiếc một hình ảnh của ký ức không còn tìm lại được.
ĐÌNH THẠC GIÁN, ĐÀ NẴNG
_____________________ Do Duy Ngoc
Hôm trước có viết một bài về Bàu Thạc Gián, còn có tên là Bàu Lác. Nơi tui có nhiều kỷ niệm lúc tuổi mới lớn. Một ông bạn già của tui đang định cư ở Canada nhắn về bảo rằng ở Bàu Thạc Gián có cái đình to lắm, sao không nhắc tới. Ừ! Đúng rồi, nói đến vùng Thạc Gián, nhắc tới Bàu Thạc Gián mà không đề cập đến cái Đình Thạc Gián là chưa đủ bộ, vẫn còn thiếu thiếu, bởi Đình Thạc Gián là một trong những di tích lâu đời của vùng đất này, là niềm tự hào của người dân đất ấy. Nên phải nhắc cho cháu con, cho thế hệ đời sau biết để giữ gìn và tôn tạo.
Thời còn bé, tui cũng thường đến đình này chơi. Đình nằm gần Bàu Thạc Gián. Hồi nhỏ, đối với tui, đây là nơi trang nghiêm nên dù rất nghịch ngợm, khi đến đây tui luôn có một sự tôn kính. Tui thích nhất là khoảng sân trống trước đình, trồng hai hàng mù u cao tít. Thuở bé thấy gì cũng rộng, cũng lớn nên tui vẫn hình dung cái sân ấy mênh mông trong trí tui cho đến bây giờ. Thời thanh niên, tui đến đó, nghe chim hót, lá xào xạc từ những bụi tre trong xóm gần đấy, nhìn màu xanh mát mắt của cỏ cây, lòng thấy thanh thản với những ý nghĩ thánh thiện. Có lẽ vì vậy mà có một thời tui gần gũi với kinh kệ và ham đọc sách về giáo lý nhà Phật, khoái đọc sách Thiền. Lượm những trái mù u làm những viên bi để chơi bắn bi, cho mấy đứa em gái chơi đồ hàng, lại ngửi mùi là lạ của tinh dầu mù u phát ra từ trái, lại thấy vui vui. Lại nghe dầu mù u dùng được chữa nhiều bệnh, nhất là những bệnh về da nên càng khoái lượm về để đầy hộc tủ.
Được biết, căn cứ theo lời của truyền thuyết và các văn tự, văn bia… còn giữ được, Làng Thạc Gián vốn ban đầu có tên là Thạc Giản và nhiều cách gọi khác như Thạch Giản, Thạch Gián là mảnh đất được khai phá sớm, vào khoảng nửa thế kỷ XV, hình thành sau khi vua Lê Thánh Tôn mở mang bờ cõi đất nước về phương Nam vào năm Canh Thìn – 1470. Ngài Huỳnh Văn Phước đã từ miền Bắc là người chiêu tập dân binh vào khai khẩn vùng đất Thạc Gián. Lần lượt các bậc tiền nhân của các Tộc Nguyễn Ngọc, Tộc Lê, Tộc Ngô, Tộc Phạm, Tộc Trương, Tộc Trần đã tiếp tục khai canh, khai cư xây dựng nên làng Thạc Gián.
Trong quá khứ, Thạc Gián là một làng rộng. Cho đến đầu thế kỷ XIX, địa giới: Đông giáp làng Hải Châu và thẳng đến Vũng Rong; Tây giáp làng Xuân Đán, vịnh Đà Nẵng và Nam giáp các làng Bình Thuận, Liên Trì (nay thuộc phường Hòa Thuận Đông, Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu).
Ngày xưa, khi chưa có đường đèo Hải Vân, từ Huế vào Đà Nẵng phải đi bằng đường biển. Một đường vào cửa Thanh Bình, theo lạch lên bến sông trước đình Thạc Gián. Một đường vào cửa sông Phú Lộc, đi qua Quán Cơm, rồi đến vùng Thanh Lộc Đán ngày nay.
Như tên gọi, địa danh Quán Cơm là nơi có quán cơm cho khách bộ hành vãng lai. Cửa sông Phú Lộc xưa nước trong xanh, tương truyền, khi Cao Bá Quát qua đây, nhìn cảnh sắc lạ lùng, bảo: Đất nước mình phong phú thật, ngay sát cửa biển lại có một vùng Thanh Khê (khe nước xanh), trong khi ở Trung Hoa thì trên núi mới có.
Sau khi thực hiện công cuộc khai khẩn, khai canh, khai cư hoàn tất, khi cư dân bước đầu có cuộc sống ổn định. Các vị tiền hiền làng Thạc Gián lúc đó đã kêu gọi cư dân xây dựng Đình Làng Miếu Vũ nhằm đưa hồn thiêng quê cũ vào vùng quê mới. Thực hiện tín ngưỡng Thờ Phụng Tổ Phụ, Tổ Mẫu, Anh hùng dân tộc, các Bậc Tiền nhân, Tiền hiền. Đình được dựng lên từ ý tưởng ấy.
Ban đầu, ngôi Đình xây dựng bằng tre; nằm riêng trên một khu đất giáp với bàu sen, gọi là bàu Làng, nối với biển Thanh Bình bằng một con lạch nhỏ. Đời Minh Mạng (1819-1040) được làm lại bằng gỗ, mái lợp tranh; Năm Tự Đức thứ Bảy (1854) các bậc kỳ lão trong làng đã đứng ra vận động nhân dân trong làng kiến tạo lại ngôi Đình bằng gạch, mái lợp ngói âm dương; năm Duy Tân thứ Ba (1909), dân làng lại cùng nhau góp sức tôn tại Đình. Vào năm Khải Định nguyên niên (1916) dẫn làng một lần nữa lại góp công tu sửa Đình do bão tố làm hư hại.
Đình làng Thạc Gián có diện tích rộng hơn 2.000mét vuông, giờ đây lọt thỏm giữa khu dân cư đông đúc tại con hẻm nhỏ gần ngã ba Cai Lang, thuộc Tổ 5, Phường Chính gián, Quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng.
Trải qua mấy trăm năm tồn tại, qua bao biến cố của thời cuộc, tàn phá bởi thời gian và mưa nắng, quần thể di tích gồm đình làng, nhà hồi hương, nhà trù, miếu âm linh - những nét độc đáo của văn hóa làng ở Đà Nẵng vẫn còn nguyên giá trị. Nhà hồi hương đấu lưng với đình làng, có ba bộ cửa thoáng đãng, từng là nơi hội họp của các bậc kỳ lão, hương thân, chức sắc trong làng. Khi đình còn tranh tre thì nhà hồi hương được gọi là dịch trạm - nơi dừng chân ngơi nghỉ của quân lính đưa văn thư hoặc các quan từ Huế vào.
Mái đình lợp ngói âm dương, bờ nóc được trang trí hình “lưỡng long triều nguyệt” ghép bằng sành sứ, các bờ góc được trang trí hình rùa và phượng. Diềm mái hiên gắn đĩa men lam Huế. Đình có hai bộ phận kiến trúc chính là nhà chính điện và hậu tẩm nối liền phía sau.
Đáng chú ý ở trước sân đình, hai bên bình phong có cặp voi phục được xây bằng gạch, vôi vữa chầu vào chính điện. Về phía Đông Bắc của đình là miếu âm linh, phía sau đình có một nhà hồi hương được xây dựng bằng gạch, vi kèo, đòn đông bằng gỗ, mái lợp ngói âm dương, nền lát gạch… Nơi đây, ngày xưa là nơi hội họp của các bậc kỳ lão, hương thân, chức sắc. Hai gian tả, hữu mọi người dự họp tùy theo thứ bậc, tuổi tác mà ngồi trước hoặc sau. Đây là nơi để các vị chủ tế, bồi tế, học trò gia lễ, các chấp sự…chuẩn bị lễ phục trước khi vào tế lễ. Sau khi tế lễ, nhà hồi hương còn được dùng làm nơi dân làng ăn cỗ.
Đình có một cái giếng xưa. Nhiều buổi trưa nắng, lang thang ở đó, tui thường dùng gàu múc lên những gàu nước lạnh mát, ngon còn hơn những chai La Vie bây giờ. Nghe nói giếng làng đã trên 200 năm, nước rất tốt, mỗi khi có cúng giỗ, lễ Tết, dân làng gánh nước về nấu cúng. Chếch về phía hữu đình có miếu Âm linh với tấm bia sa thạch ghi bốn chữ Hán “Thạc Gián xã Nghĩa trũng” được lập năm Thành Thái thứ 19 (Đinh Mùi - 1907).
Ngày xưa ở Đình có lưu giữ và chôn cất một số hài cốt của các nghĩa sĩ hi sinh rong các cuộc chiến đấu, Sau này, cốt của các anh hùng nghĩa sĩ an táng ở nghĩa trủng đó đã được dời lên Gò Cà. Đình làng hiện còn lưu giữ 18 sắc phong, 38 chiếu chỉ của các triều đại hậu Lê, Nguyễn. Tuy thế, lúc còn nhỏ mỗi lần bước vào chánh điện của Đình, nhất là những trưa vắng, tui vẫn cảm thấy rờn rợn. Đúng là hồi đó tui nhát gan thiệt.
Ở ngoài sân đình có xây một bình phong, trên đó đắp nổi bằng những mảnh sành màu một con bạch hổ rất đẹp. Tui cũng sợ khi nhìn đôi mắt của bạch hổ, đôi mắt đe doạ thằng bé nhiều tưởng tượng.
Ngôi đình được xây dựng điều hoà âm dương theo quan niệm phương Đông. Âm dương hiện hữu ngay trong cấu trúc của ngôi đình với những chi tiết: cổng tam quan, bức bình phong và lối kết cấu rường chồng ở phần mái của ngôi đình. Triết lí âm dương không những có một vị trí thiết yếu trong việc tạo lập sự bền vững ở kết cấu của ngôi đình mà còn tôn lên những giá trị, phẩm chất đẹp của con người. Đó chính là những giá trị văn hoá của người Việt mà ta có bổn phận phải giữ gìn.
Lâu lắm rồi, tui mới về thăm lại Đình sau khi đã chiêm ngưỡng biết bao lâu đài tráng lệ, bao nhiêu nhà thờ cao vút ở Châu Âu và những di tích kỳ vĩ trên thế giới. Đẹp đấy! Nhưng với tui, nó thiếu hồn của riêng mình, nó không có kỷ niệm của riêng ta, nó không có ký ức của một thời của một cá nhân là ta. Nên khi trở về nhìn cái Đình nho nhỏ, trầm mặc với thời gian, khép nép giữa những ngôi nhà, sau những hàng cây lại chứa bao nhiêu hình ảnh của ký ức, bao nhiêu kỷ niệm của một thời, lòng lại thấy rộn ràng, mừng vui như tìm lại được cái tưởng là đã bị đánh mất. Có phải chăng là hồn của một di tích, hồn vía của quê nhà.
Những cây mù u đã chết với thời gian, con bạch hổ bằng sành không khiến tui sợ nữa, nhưng trong tui lòng tôn kính ngôi Đình mấy trăm tuổi với nhiều vết tích thời gian, với những giá trị của một vùng đất, một dân tộc, một giá trị văn hoá mà khi bay đi bốn bể vẫn không tìm thấy được vẫn còn mãi. Lòng bỗng rưng rưng. Có lẽ hồn rêu xanh, xanh mãi ở trong lòng.
Gia đình tui di cư vào Nam năm 1954. Ở Quảng Trị một thời gian ngắn, sau đó Ba tui vào làm Bệnh viện Trung ương Huế, cũng chỉ một thời gian ngắn, năm 1956, cả gia đình vào Đà Nẵng vì Ba tui lại nhận công việc mới ở Tổng Y Viện Duy Tân, một bệnh viện quân y lớn nhất miền Trung thời bấy giờ. Vào Đà Nẵng, gia đình tui ở khu ngã tư chợ Cồn mấy chục năm, do vậy trong trí nhớ của tui, khu vực này là nơi tui nhớ nhất, đó là nơi tôi sống từ tuổi thiếu nhi cho đến tuổi trưởng thành rồi bay đi xa không về lại.
Chợ Cồn được hình thành từ những năm 40 của thế kỷ trước. Đầu tiên được dựng lên từ trên một cồn cát, nên chết tên luôn là chợ Cồn. Nói là cái cồn, chứ thật sự đây là nơi đổ rác của thành phố Đà nẵng. Vào thời đó, khu vực Chợ Cồn được xem là ngoại ô thành phố. Người ta đổ rác ở khu vực Hầm Bứa, có người không lên tới Hầm Bứa, mà đổ rác ở cồn. Lâu ngày, rác chất cao, tạo thành một cái cồn, bên tay trái đường Hùng Vương. Dân chúng họp chợ trên cái cồn nầy, nên gọi là Chợ Cồn. Lúc đầu, Chợ Cồn nằm ở chỗ đống rác đó, lúc ấy chỉ là chợ nhỏ, bán buôn lèo tèo. Sau này dời về cồn cát phía đường Khải Định, lúc ấy mới đúng là chợ.
Thập niên 40, Ba tui vừa học ra trường có đi làm việc một thời gian ở Đà Nẵng, hồi đó còn có tên là Tourane. Theo lời kể của Ba tui, lúc ấy nhà cửa còn thưa thớt lắm, chung quanh chợ chỉ có lau sậy, xương rồng và dương liễu vì gốc gác của nó là cồn cát biển. Lại có mấy lạch nước. Các gian hàng tạm bợ bằng chòi tre, mái tranh đơn giản. Lần hồi người ta xây dựng bằng các vật liệu kiên cố hơn. Khi gia đình tui đến ở khu này, chợ Cồn đã là một khu chợ sầm uất nhất Đà Nẵng, buôn bán đủ thứ trên đời.
Trước đó, người Pháp đã xây dựng đường sá và phố phường cũng được quy hoạch xây dựng đàng hoàng và mang nét văn minh phố thị. Chợ nằm trên trục đường quan trọng của Đà Nẵng. Đường này chạy từ bờ sông Hàn đến gần khu Bàu Thạc Gián. Thời Pháp tên là đường Rue de la Republique (nay là đường Hùng Vương). Nó nằm ngay giao lộ của đường Sabiella (nay là đường Ông Ích Khiêm). Nối đường Ông Ích Khiêm là đường Khải Định. Đường này hồi trước chạy dài cho đến biển Thanh Bình. Những con đường đó tạo nên giao lộ là ngã tư chợ Cồn một thời khét tiếng. Sau lưng chợ có một đường rầy, đường này chạy qua một cái hầm nhỏ dưới Cầu Vồng. Từ dưới chợ muốn lên cầu Vồng phải leo một con dốc đất đỏ là lên đường Thống Nhất. Đứng trên Cầu Vồng ngay địa điểm đó, ta có thể nhìn thấy sân vận động Chi Lăng. Trên con đường này tui có một kỷ niệm. Thời mới lớn tui làm thơ, cũng có lần được giải của tỉnh. Trên đường đến trường đi học năm đệ tam, đệ nhị tui thường theo đuôi một cô cùng trường có nhà trên đường Thống Nhất. Theo thế thôi, chẳng nói gì và về nhà làm biết bao nhiêu là thơ. Sau đó, tui có in tập thơ Khung tình vỡ, toàn là thơ tình chưa nói được. Tui học nhảy, cuối năm đệ nhị ở trường Kỹ thuật, tui đã có bằng Tú tài hai phổ thông. Tổng cộng tui có đến bốn cái bằng Tú Tài. Hai bằng Kỹ Thuật và hai bằng Phổ thông. Trước khi bay vào Sài Gòn thi đại học, tui gởi theo đường bưu điện cho cô ấy chục tập thơ rồi biến mất. Ôi cái thuở yêu em thơ dại.
Phía dối diện chợ, bên kia đường là Trung tâm cải huấn, nơi nhốt những người hoạt động Việt Cộng bị bắt, cũng là nơi giam giữ tù thường phạm cướp của, giết người. Gần đó có kho đạn và phía sau kho đạn là trại gia binh dành cho gia đình quân đội. Cạnh đó có nhà sách Ngày mới, và một trụ xăng nhỏ, nhưng tiệm sách này buôn bán ế ẩm không bằng nhà sách Văn Hoá nằm ở đầu đường. Ngày đó đây là một trong những nhà sách lớn nhất Đà Nẵng. Tui thường mua sách ở đây. Chủ nhà sách người Huế, trắng trẻo, nhìn rất thư sinh, có đứa con trai cũng trạc tuổi tui, cũng tên Ngọc đi tắm biển bị sóng cuốn trôi ở biển Mỹ Khê. Gần nhà sách Văn Hoá là một Pharmacie khá lớn của một gia đình người Quảng Nam. Con chủ nhà thuốc này cũng là người bạn của tui mà mấy chục năm rồi không gặp nên quên mất tên, anh này có nước da đen ngược lại với cô em gái trắng nõn. Ở khu đó bên kia chợ có một tiệm bán nước mắm có cô con gái học Bồ Đề. Cô gái dong dỏng cao, tóc để bom bê trước trán với chiếc áo dài trắng ngắn tà đã có một thời làm tui mê đắm. Sau này mới biết cô ấy là em gái của một người bạn tui. Cả gia đình giờ định cư bên Mỹ, cô ấy giờ chắc cũng đã là bà nội, bà ngoại rồi.
Từ những năm cuối của thập niên 50, Chợ Cồn đã được xây dựng kiên cố với những ngôi nhà lồng rộng và thoáng mát. Chung quanh chợ người ta đã xây những ki ốt cho thuê bán đủ mặt hàng cao cấp nên chợ Cồn được khang trang và lịch sự. Ngay ngã tư phía bên kia góc dường Ông Ích Khiêm và Hùng Vương có một cây xăng lớn. Đi tới chút nữa là đụng đường rầy. Chỗ đó lộn xộn mấy nhà nhỏ lụp xụp vá xe, làm vỏ xe, những người thợ lúc nào cũng đen nhẻm. Phía bên kia là một dãy phố có căn nhà tui không bao giờ quên. Đó là xưởng vẽ của người hoạ sĩ già Nguyễn Viết Hậu. Ông này chuyên vẽ chân dung truyền thần nhưng lại vẽ Phật rất đẹp, nhất là vẽ Phật Thích Ca đản sinh, bước trên những toà sen với câu nói:" Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn". Hồi còn bé trên đường đi học, bữa nào tui cũng chắp tay sau đít đưng ngó ông ấy và những người đệ tử vẽ vời. Tui mê hội hoạ cũng từ xưởng vẽ của ông và tui theo nghiệp vẽ cũng từ những nhát cọ của ông.
Xây xong cây xăng, người ta cũng xây một bến xe ngay góc Hùng Vương, xế xế với chợ Cồn. Bến xe có tên bến xe Chợ Cồn. Xe đò là xe đi hai chiều từ Đà Nẵng ra Quảng Nam, Huế cùng các tỉnh miền Trung khác và cả Tây Nguyên. Từ khi có bến xe, khu vực này nhộn nhạo hẳn lên, hàng quán mọc đầy phục vụ cho hành khách. Nổi bật ngay góc bến xe là bánh mì Ông Tý, chỉ là xe bánh mì chả nhưng khách đông vì chả có vị lạ. Mạ tui thích ăn bánh mì Ông Tý, nhiều khi khuya rồi cũng phải chạy ra mua cho Mạ. Gần đó có bún bò bà Hưng. Bà này người Huế có chồng là thợ may âu phục. Bà có mấy cô con gái ngang tầm tuổi tui, sau này có hai chị em lấy hai người bạn tui, cả đôi bây giờ định cư ở Houston. Bún của bà Hưng ngon đúng điệu bún Huế, dù chỉ là quán bình dân. Khu này hồi đó mấy ông Việt Cộng hay rải truyền đơn dù thật ra cũng chẳng có tác dụng gì. Nơi này còn có tiệm bò Thái Ngư, bánh kẹo Quánh Hưng… cùng hàng chục cửa hiệu tạp hoá, đại lý trái cây, dụng cụ cơ khí, gạo buôn bán sầm uất, là đại lý của nhiều hãng lớn và là nơi cung cấp hàng sỉ đi khắp nơi ở miền Trung. Tui có anh bạn cùng trường nổi tiếng dân chơi nhà là một tiệm buôn lớn góc phố này. Anh tên Lâm Thành mất cũng khá lâu rồi.
Gần đó, ngay đầu đường Ông Ích Khiêm là cư xá Độc Lập, dành cho hạ sĩ quan quân đội VNCH. Khu này trước đó người ta chỉ dùng để ở, nhà nào cũng có khoảng sân trống sát đường. Phía sau là một sân cát rộng. Chiều chiều tụi nhỏ tuổi như tui thường đến đó thả diều và đá banh. Đến những năm cuối của thập niên 60 bỗng dưng người ta tận dụng sân trước để mở hàng quán. Một loạt quán bò tái ra đời. Khu gia binh mất dấu đề trở thành phố chợ. Mà cũng lạ, cả dãy quán ăn, quán nhậu lại có một căn là tiệm vẽ của ông hoạ sĩ Hải Triều. Ông này cũng chuyên vẽ chân dung, có thể thời đó có nhu cầu vẽ truyền thần. Hình như ông này trước đó ở trong quân đội, có nhờ Ba tui giúp cho giải ngũ nên có vẻ rất quý Ba tui. Thấy hay tặng quà và vé xem hát. Dãy nhà sau cũng lấn chiếm sân chơi, tui tui mất chỗ để thả diều và đá bóng. Thật ra, lúc đó tụi tui cũng đã đến tuổi thanh niên, chẳng còn mê diều và trái bóng mà đã bắt đầu biết chải đẩu và diện áo quần đẹp để đi tán gái rồi.
Từ chỗ cư xá đi xuôi xuống đường Ông Ích Khiêm, ta gặp bên ka đường một château d'eau cao lừng lững. Tháp nước này cung cấp nước thuỷ cục cho cả khu vực. Đối diện tháp nước là Bình dân thư quán, là nơi cho thuê truyện của một ông Tàu già. Ông này trước đó cũng có một tiệm cho thuê sách đầu đường Nguyễn Thị Giang hay ĐKNT, không nhớ rõ. Tiệm nhỏ thôi, nhưng sách nào cũng có. Nhất là truyện kiếm hiệp. Thời này, người ta mê truyện chưởng của Kim Dung nên quán lúc nào cũng đông khách. Ông chủ người Tàu có trí nhớ siêu phàm. Sách của ông luôn bọc ngoài bìa là giấy bao ciment. Sau tờ bìa là ông ghi ký hiệu ngày mượn chi chít. Thế mà khi nói tựa sách là ông lấy ngay đúng phóc, không chút chần chừ. Cuốn nào đã có người thuê chưa trả ông cũng báo ngay. Hay thật. Tui là tín đồ của quán này, ngày nào cũng thuê đôi ba cuốn, đủ loại, đọc muốn lòi con mắt.
Nhắc đến Chợ Cồn ngày xưa mà không nói đến cà phê Xướng là điều thiếu sót. Ít ra là đối với bản thân tui. Cà phê Xướng là một ki ốt nằm trước chợ Cồn, trên đường Khải Định xưa. Tiệm bán cà phê và các thức uống. Khách của tiệm là giới công chức, giáo sư, doanh nghiệp, quân nhân. Đó không phải là tiệm dành cho giới bình dân. Có một thời, sáng nào tui cũng phải ra đấy mua cà phê sáng cho Ba tui uống trước khi đi làm. Lúc nào cũng mang theo một cái chén lớn để đổ nước sôi vào đấy cho cà phê đến nhà vẫn nóng. Quán trang trí như mấy quán cà phê nhỏ bên Tây. Có quầy với mấy ghế cao và những cái bàn nhỏ trải những khăn bàn kẻ ca rô. Có hai điều mà tui không bao giờ quên được tiệm cà phê này đó là mùi cà phê rang thơm phưng phức, mỗi tách cà phê lại bỏ thêm chút bơ Bretel beo béo thơm thơm. Điều nữa mà gần hết đời, tui vẫn thấy không có chỗ nào có bánh mì thịt ngon như ở cà phê Xướng. Thịt là thịt ba chỉ, có mỡ được rim vàng với ngũ vị hương và có thể có chút hồi. Bước vào quán là nghe mùi này ngay. Mùi thịt hơi cháy vàng tươm mỡ, nước thịt màu hổ phách sậm thơm nức mũi. Ổ bánh mì dòn tan, được dồn thịt và rưới nước vàng óng đó lên, rắc thêm ít tiêu sọ xay, chẳng cần xì dầu, hành ngò mà ối chao ôi là ngon! Sau này, lớn lên, già đi, cũng nhiều lần rim thịt thế, cũng bánh mì giòn thế, miếng ăn sao lại thấy chẳng ngon như xưa nữa.
Bây giờ, lúc đã đi bốn phương trời, trở về chốn cũ. Đứng giữa ngã tư chợ Cồn với biết bao kỷ niệm nhưng tui lại thấy xa lạ biết chừng nào? Chẳng còn ai quen, những con phố lạ, đường xưa không dấu vết. Tui làm người khách lạ tiếc nhớ những chốn xưa và ký ức của mình. Thời gian nhanh quá! Mới tuổi thanh niên giờ đã là ông lão. Những bạn bè, người thân lần lượt ra đi. Cảnh cũ chẳng còn dấu tích. Nghĩ đến chuyện bể dâu. Buồn ơi là buồn!
Mùa Vu Lan, mùa chay, mùa báo hiếu, mùa xá tội vong nhân. Trong Phật giáo Nguyên thuỷ không có lễ này. Vu Lan là sản phẩm của Phật giáo Trung Hoa, là phái Bắc tông (Đại Thừa). Suy cho cùng về mặt nguồn gốc thì xuất xứ của Lễ Vu Lan gần với đạo Lão hơn là Đạo Phật.
Và trong tháng bảy này, các đạo hữu, tín đồ Phật giáo siêng năng đi chùa, tụng kinh, niệm Phật. Và trong làn sóng người đông đảo đó, sẽ bắt gặp rất nhiều người rất cung kính, rất siêng tụng niệm, lúc nào cũng nhắc nhở người khác giữ đạo hạnh, dạy dỗ đạo đức mà thật ra chẳng hiểu gì về con đường mình đang theo, chẳng biết gì về Đạo Phật, cũng chẳng ý thức gì về những hành động mình làm ở trong các buổi lễ cũng như ở khuôn viên chùa. Họ như những con vẹt, như máy hát bấm nút là tụng, có lệnh thì quỳ, có chuông thì lạy. Tuy thế họ rất cuồng tín và cực đoan. Họ hay mua chim về phóng sinh, mua cá về thả và cho đó là đang làm việc Đạo. Họ quỳ lạy, họ xá nhau, họ tụng niệm, họ làm từ thiện... Họ A Di Đà Phật như máy. Nhưng họ chẳng hiểu gì những hành động họ đang làm, những gì họ đang tụng.
Trong Đạo Phật, khi ta cúi Lạy, nghiêng mình xuống là ta đang buông bỏ cái ngã của mình, buông bỏ cái tôi ngạo mạn để ta nhẫn nhịn, để ta tập buông xả. Do đó, khi cúi Lạy, ta không chỉ cúi lạy Đức Phật trên kia mà ta còn cúi Lạy chính ta để rèn chữ nhẫn, để tự sám hối những lỗi lầm.
Khi ta Niệm, ta có thể lần tràng hạt, ta có thể đếm số lần niệm để khỏi lầm lẫn. Nhưng thực chất là để tập thân tâm thanh tịnh, trí tuệ tập trung, không bị chi phối những tà niệm. Do vậy, khi Niệm không nên liếc ngang liếc dọc, không có cử chỉ chi khác ngoài việc tập trung cao độ.
Khi ta chắp tay Xá, cái Xá ấy không chỉ là để chào hỏi nhau mà còn là để thể hiện thái độ trân trọng, cung kính người đang đối diện với ta. Xá là một thái độ văn hoá, mà ở đây là văn hoá của người tu học, cho nên trong cái Xá phải chứa đựng sự thành tâm đầy tôn kính.
Người tu học cũng như người theo Đạo, phải luôn hoan hỷ. Hỷ ở đây là khuôn mặt phải tươi vui, khoan hoà. Không chỉ là sự vui tươi ở khuôn mặt mà còn là sự thanh thản, thư thái của tâm hồn. Chính sự hoan hỷ đó truyền cho mọi người sự lạc quan, an nhiên và an lạc. Thế là không những Hỷ cho chính ta niềm vui mà còn truyền niềm vui cho tha nhân.
Tu trong Đạo Phật không chỉ là để giác ngộ, không phải chỉ để bỏ tham ái, để lánh xa được tham, sân, si mà còn là để cho con người không còn ích kỷ, biết quan tâm đến người khác, biết xem mọi người cũng như bản thân mình. Tu không phải để cho riêng mình mà còn dẫn đường cho nhiều người khác. Tu đề sống nhân ái hơn, khoan hoà hơn. Là mở lòng ra để không còn vô cảm trước con người và cuộc sống.
Đạo Phật còn có chữ Thí. Thí không phải là bố thí mà là sự sẻ chia. Thí cũng không phải là từ bỏ tất cả mà còn là giữ lại để chia sớt, để từ bi với chúng sanh. Có người cứ làm từ thiện với thái độ của người dư giả, giàu có bố thí cho người nghèo, hoạn nạn. Nghĩ chữ Thí như thế là sai. Làm từ thiện chỉ là sự chia sẻ, không mưu cầu ghi ơn, báo đáp. Chẳng cần phải lưu danh, ca ngợi. Đó mới đúng nghĩa của chữ Thí của Phật giáo.
Học Phật là tìm con đường để giác ngộ, tích luỹ tri thức, hiểu được Phật pháp. Con đường đó phải do chính mình tìm thấy. Phật dạy : "Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi". Học Phật còn là để thực hành cái vô ngã. Tu Phật, học Phật mà còn mang trong mình cái bản ngã quá lớn, không quên được cái tôi thì chỉ là một lối giả tu, một kẻ tu giả. Loại này bây giờ đầy dẫy trong các chùa to tượng lớn.