-
Không còn là mối nguy cơ.
Bài Thứ Nhất
______________________
Bằng Phong Đặng văn Âu
Lời mở đầu :
Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.
________________________________________________________________
“… Giống như người lính vừa thua trận,
Nằm giữa sa trường nát gió mưa …
… Một năm người có mười hai tháng,
Ta trọn năm dài một Tháng Tư …”
Hơn 47 năm qua rồi, mấy câu thơ của Thanh Nam cứ mãi quấn quýt bên tôi, như cái niềng kim cô thắt vào tim óc. Nhiều lúc tôi van xin những câu thơ ấy buông tôi ra để cho tôi có được một đêm ngủ thẳng giấc. Chẳng hay bạn bè tôi, đồng đội tôi có bị nỗi trăn trở ám vào người giống như tôi không? Tôi là chiến sĩ từng xông pha trận mạc, chứ đâu phải là nho sinh chân yếu tay mềm, bi lụy như tao nhân mặc khách, thế mà tại sao tôi cứ bị trằn trọc suốt canh thâu? Tôi bị cái nghiệp yêu nước, yêu dân tộc dày vò?!
Tôi thường xuyên tự hỏi tại sao một dân tộc thông minh, oai hùng, bất khuất mà ngày nay phải gánh chịu bao nhiêu điều cay đắng, tai ương, nhục nhã? Cay đắng thì chịu được, còn nhục nhã là do lỗi tại người dân mình? Theo truyền thuyết, nòi giống Việt có thời sống rải rác hai bên bờ sông Dương Tử bên Tàu. Nòi giống Hán đã đồng hóa nhiều dân tộc, nhưng riêng dòng giống Việt tồn tại, là vì tổ tiên ta quyết không để bị đồng hóa, nên bồng bế nhau xuôi dần về phương Nam, đến vùng núi non hiểm trở, ma thiêng nước độc để hùng cứ một phương. Tuy nhiên, nhiều triều vua Tàu, Nguyên Mông, Mãn Thanh vẫn chưa chịu buông tha chúng ta. Bọn giặc phương Bắc quyết lấn chiếm cho bằng được. Tổ tiên ta đã vùng lên: Anh thư Trưng Trắc, Trưng Nhị dấy binh đánh đuổi quân Đông Hán. Hưng Đạo Đại Vương ba lần đánh bại Nguyên Mông. Quang Trung Hoàng Đế đánh đuổi quân Mãn Thanh trong chớp mắt. Quân sử thế giới còn khắc ghi những chiến công lẫy lừng.
Là hàng con cháu, chúng ta ghi ơn các bậc tiền bối đã có công mở nước, dựng nước và giữ nước. Nhưng chúng ta không khỏi tự hỏi rằng tổ tiên mình đã làm gì nên tội tày đình, khiến cho con cháu ngày nay bị rơi vào thảm cảnh tự chém giết lẫn nhau, tự làm nhục nhau? Tổ tiên mình ắt hẳn có “ăn mặn”, thì đời con cháu mới bị “khát nước” khủng khiếp đến vậy chứ, đúng không?
Cơn khát “Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc” làm cho trí óc mất sáng suốt, thấy chai nước trước mặt là cứ thế mà nốc vào. Không ngờ đó là chai thuốc độc phá nát lục phủ ngũ tạng!
Dưới thời đại Quân chủ chuyên chế, chắc chắn các sử gia không dám viết Sự Thật. Tuy nhiên, với một chút ánh sáng, chúng ta cũng thấy được phần nào Sự Thật về các vua triều Nguyễn đã phạm tội ác. Chúa Nguyễn Phúc Ánh cũng giống như Lê Chiêu Thống đi cầu viện nước ngoài để giành ngai vàng. Chẳng qua, Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ qua đời sớm, Quang Toản còn nhỏ, Chúa Nguyễn Phúc Ánh mới có thể lập lên Nhà Nguyễn. Nếu Quang Trung Hoàng Đế không chết sớm, lịch sử sẽ viết: “Nguyễn Phúc Ánh là một kẻ bán nước giống Lê Chiêu Thống” mà thôi! Vì sao Nhà Nguyễn không thể “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” như Trạng Trình đã dạy? Có phải tại vì các bậc Tiên Đế Nhà Nguyễn ăn ở thất đức, khiến cho hung thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn văn Tường lộng hành để đưa kết cuộc “Nhất giang lưỡng quốc nan phân Thuyết, Tứ nguyệt tam vương triệu bất Tường” trong tang thương? Phải chăng phương cách trả thù quá sức man rợ và ti tiện (tru di tam tộc) của vua Gia Long đối với dòng dõi Nhà Tây Sơn và đối với dòng dõi các quan quân theo hầu vua Quang Trung mà Nhà Nguyễn bị bạc phước? Phải chăng sự tiêu diệt giống dân Chàm của vua Minh Mệnh một cách có hệ thống, mà ngày nay con dân Việt Nam lãnh hậu quả bởi lời nguyền rủa:- “Ta (người Chàm) sẽ làm cho cả dân tộc Việt Nam chúng bay trở nên ngu si, đần độn, tàn bạo, điêu ngoa, gian ác, tôn thờ ĐẠO QUỶ SỨ, khiến cho anh em dòng họ chúng bay đấu tố nhau, chém giết nhau, phản bội nhau, chia rẽ nhau, đố kỵ nhau, người yêu nước bị chà đạp, đứa gian manh được tôn vinh cho đến khi nào nòi giống chúng bay bị tận diệt như chúng tao thì mới thôi!”?
Nhân Quả là một định luật khoa học tự nhiên trong vũ trụ. Dù hữu thần hay vô thần đều bị luật Nhân Quả tác động. Nó không trừ một ai. Vấn đề là nhãn tiền hay hậu vận mà thôi.
Tôi xin trình những dữ kiện đã xảy ra trên đất nước để cho độc giả thấy rằng lời nguyền rủa của những oan hồn người Chàm đã tác động lên chúng ta, khiến cho dòng giống Tiên Rồng đang trên đà bị hủy diệt, chứ không còn là mối nguy cơ. Nếu ai thấy được một chút ánh sáng cuối đường hầm, xin vui lòng chỉ cho tôi thấy để tôi hy vọng có một ngày mai tươi sáng.
Karl Marx viết cuốn “Tư Bản Luận” (Capitalist) kết tội bọn Tư Bản hà khắc, bóc lột xương máu người dân lao động. Karl Marx và Frederick Engels viết cuốn “Tuyên Ngôn Cộng Sản” (The Communist Manifesto) kích động nhân dân lao động toàn thế giới đoàn kết lại và đứng lên lật đổ bọn Tư Bản nhằm xây dựng một xã hội không còn đấu tranh giai cấp. Thực ra, Capitalism không phải là Chủ nghĩa như ta thường nghĩ.- Capitalism là Chủ thuyết – Theory – vì nó không đề ra một nhân sinh quan, vũ trụ quan và bắt buộc người khác phải theo.
- Communism mới là Chủ nghĩa vì nó có giáo điều giống như Tôn giáo.
Hai bộ sách của Karl Marx và Frederick Engels sẽ bám đầy bụi nằm trong một xó xỉnh nào đó ở Thư viện, nếu không có Vladimir Lenin sử dụng để làm cuộc Cách mạng Vô sản Toàn Thế giới (The World Proletarian Revolution). Nhằm chống lại chính sách thuộc địa của các quốc gia kỹ nghệ tiên tiến Tây Phương, Lenin đã sử dụng sách của Karl Marx làm Kinh Thánh của Đạo Ma Quỷ để khuynh đảo ít nhất một nửa nhân loại. Lenin luôn luôn nhấn mạnh với thuộc hạ mình câu:“Tổ Chức! Tổ Chức! Không có Tổ Chức là không có gì cả”.- Đảng Cộng sản của Lenin là một băng đảng tội ác có tổ chức,
- với phương châm hành động “Cứu cánh biện minh phương tiện”, nghĩa là làm bất cứ điều gì, dù tàn ác đến thế nào, miễn là đoạt được quyền hành.
- Mao Trạch Đông còn thêm: “Họng súng đẻ ra Quyền lực”
và “Trường kỳ mai phục” (luôn luôn rình rập sự sơ hở của đối phương để đâm sau lưng).
- Đó là tuyên truyền nhồi sọ (brainwash) để vẽ lên một hình ảnh đẹp đẽ của chủ nghĩa, hứa hẹn một Thiên đường ảo,
- nhưng nếu chúng gặp sự nghi ngờ hay chống đối thì hăm dọa, thủ tiêu, ám sát.
“Đạo Ma Quỷ” ra đời là thời điểm để cho oan hồn Người Chàm thể hiện lời nguyền rủa ứng vào nòi giống Việt Nam ta. Hồ Chí Minh chính là con Quỷ của Đạo Cộng sản, có một nhân thân rất mập mờ. Không ai có thể quả quyết hắn là Người Việt hay là Người Tàu đội lốt Việt.
Dựa theo tình báo của Pháp, trên giấy căn cước (carte d'identité) của Hồ Chí Minh cao 1 mét 65 khi hoạt động ở Paris với nhà cách mạng Phan Chu Trinh. Nhưng thực tế Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước ở Bắc Bộ phủ thì Hồ Chí Minh cao 1 mét 75. (Xem hình ở cuối bài). Như thế, có nghĩa Hồ Chí Minh này không phải là Nguyễn Sinh Cung, con Cụ Nguyễn Sinh Sắc quê ở Nghệ An. Một độc giả trong nước gọi điện thoại cho tôi và nói rằng bằng chứng tôi đưa ra chưa đủ thuyết phục “Bác Hồ” là một người Tàu đóng vai Việt Nam. Được rồi! Hãy tạm coi Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Cung mang dòng máu Việt Nam là thực. Nhưng xét những hành động của y qua vai trò lãnh đạo nước Việt Nam, ta sẽ thấy Hồ Chí Minh là “Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt” (tên một vở kịch của Lưu Quang Vũ).
Các nhà cách mạng chống Pháp như Cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Trương Tử Anh, Lý Đông A … đều là những nhà yêu nước tự phát. Họ không hề được đào tạo kỹ thuật của “nghề chiến tranh khuynh đảo” như Hồ Chí Minh được Quốc tế Cộng sản đào tạo về tuyên truyền xảo trá, về khủng bố, về Tình Báo Phản Gián từ các cơ quan KGB của Nga, Stasi của Đông Đức và Tình báo Hoa Nam của Trung Cộng. Hồ Chí Minh là cán bộ Tình Báo của Quốc Tế Cộng Sản, là một tên tay sai đắc lực của Cộng sản trong ý đồ nhuộm đỏ toàn cầu.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh là một chính trị gia “điếm thúi” phản quốc.
- Hắn thờ chủ nghĩa cộng sản vô thần, nhưng tha thiết nài nỉ xin Đức Cha Lê Hữu Từ rửa tội để trở thành tín đồ Công giáo.
- Hắn hô hào: “Đoàn kết! Đại đoàn kết! Thành Công! Đại Thành Công!” trong khi đó hắn chỉ thị cho đàn em ám sát, thủ tiêu các nhà cách mạng ái quốc chống Pháp. Hắn dạy cán bộ “trung với nước, hiếu với dân”, nhưng hắn lại sai Thủ tướng Phạm văn Đồng ký văn kiện chấp nhận biển đảo VN là của Trung Cộng và gửi cán bộ sang Tàu học cách chửi cha mắng mẹ để về nước làm cuộc Cải cách Ruộng Đất giết oan hàng trăm ngàn người vô tội.
- Hắn dùng chính sách “bao tử trị” học từ cách dạy chó của nhà sinh vật học người Nga – Ivan Pavlov – để biến toàn xã hội thành trại súc vật. Chẳng ai còn nhân phẩm, nhân quyền.
- Hắn làm nhục trí thức, vì coi trí thức không bằng cục cứt. Hắn lập ra một bộ máy cai trị dựa trên tiêu chí “Hồng hơn Chuyên” thì chỉ có cái thứ thiến heo hoạn lợn lên làm lãnh đạo mà thôi!
Tất cả những tội ác của Hồ Chí Minh đã được những đảng viên trung kiên cộng sản viết ra, chứ tôi không bịa đặt để bôi bẩn Hồ Chí Minh. Một người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Thực dân để giành độc lập mà ác hiểm, đạo đức giả như hắn thì chắc chắn hắn có chủ trương tiêu diệt nòi giống Việt. Hầu hết tinh hoa của đất nước đã bị quỷ ám, mới nhắm mắt đi theo phục vụ, tôn thờ, sùng bái thì có phải lời nguyền rủa của oan hồn người Chàm là quá đúng, phải không?
Đại sứ Bùi Diễm viết cuốn “Trong Gọng Kìm Lịch Sử” (In The Jaws Of History) để nói lên sự khó khăn của các chiến sĩ cách mạng Quốc gia vừa chiến đấu chống Thực dân Pháp vừa lo đối phó với Việt Minh (bọn cộng sản trá hình). Điều đó đúng! Nhưng sau năm 1954, cái gọng kìm oan nghiệt ấy đâu còn nữa? Mỹ Quốc viện trợ kinh tế, vũ khí để Chính quyền tổ chức gần 1 triệu người Miền Bắc vào Miền Nam tị nạn cộng sản định cư, lập khu dinh điền và xây dựng guồng máy Quốc gia. Mỹ đâu phải là Thực dân Pháp? Chính quyền Ngô Đình Diệm đâu phải là Việt Minh? Vấn đề là lãnh tụ đảng phái, tôn giáo không ý thức hiểm họa cộng sản, nên chia rẽ nhau, xung đột nhau và chống Chính quyền Quốc gia còn mạnh mẽ hơn là chống Việt Cộng, nên Miền Nam mới mất!
Theo tôi biết, những lãnh đạo Đại Việt đều xuất thân con nhà danh giá, dù được Thực dân Pháp đào tạo, nhưng họ đều là những người yêu nước, nên mới dấn thân tham gia vào cuộc tranh đấu giành độc lập. Họ không phải là những kẻ cơ hội. Thế nhưng, họ đã không tuân theo lời dạy của tổ tiên: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”. Chẳng qua, họ bị lời nguyền rủa của oan hồn người Chàm thì mới ra tình trạng chia rẽ đó. Tôi xin dẫn chứng một số trường hợp cá biệt để chứng minh.
- Lúc Bố tôi đang làm Giám đốc Bệnh viện Phan Rang, được Cụ Thủ tướng Trần trọng Kim gọi về Huế để đảm nhiệm chức vụ Đổng lý Văn phòng. Bác sĩ Lê Khắc Quyến đến thay. Bác sĩ Quyến tạm ở tại tư dinh của Bố tôi, trước khi Mẹ tôi dọn nhà ra Huế. Bác sĩ Quyến cưng yêu tôi giống như chính con ruột của ông. Sau khi Nhật đầu hàng, quân Pháp trở lại Việt Nam. Bác sĩ Quyến trở về Huế hành nghề, có một phòng mạch nằm trên đường Đinh Tiên Hoàng đi vào Cửa Thượng Tứ. Mỗi lần Mẹ con tôi ốm đau, đều được bác sĩ Quyến chăm sóc tận tình miễn phí, chúng tôi ghi ơn. Bác sĩ Quyến là một người đạo đức, có uy tín trong thành phố, được gia đình ông Ngô Đình Diệm mời làm bác sĩ riêng chăm lo sức khỏe cho thân mẫu. Năm 1954, ông Ngô Đình Diệm về nước tặng riêng cho bác sĩ Quyến một chiếc xe Mercedes để trả ơn. Chính quyền từ Đệ Nhất Cộng Hòa đến Đệ Nhị Cộng Hòa đều ưu đãi và trọng dụng ông. Thế mà đêm 23 tháng Giêng năm 1965, ông Chủ tịch Phong trào Nhân Dân Cứu Quốc Lê Khắc Quyến, phát động cuộc nổi loạn đốt cháy thư viện Hoa Kỳ tại Huế có trên 10 ngàn cuốn sách. Phong trào lan rộng rất nhanh, chạy dài từ Quảng Trị đến Nha Trang, tưởng chừng Miền Trung rơi vào tay Việt Cộng lúc bấy giờ. Chính quyền kịp thời dẹp tan Phong trào, nhưng oái oăm thay! Bác sĩ Lê Khắc Quyến vẫn được mời làm thành viên Thượng Hội đồng Quốc gia. Như vậy làm sao Miền Nam không mất?
Sau Tháng Tư năm 1975, một Sự Thật động trời được tiết lộ:- “Bác sĩ Lê Khắc Quyến là Bí thư Chi bộ Thuận Hóa, gồm có những trí thức tên tuổi của thành phố Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo (đã đào tẩu thiên đàng CS, chạy qua Paris!), Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Thân Trọng Phước, Võ Đình Cường , Bà Tuần Chi và Hòa thượng Thích Đôn Hậu…
- Bà Tuần Chi tên thật là Đào thị Xuân Yến, lấy quan Tuần phủ Nguyễn Đình Chi, nên dân Huế quen gọi bà là Bà Tuần Chi. Đa số những trí thức Miền Nam như bà Tuần Chi đều yêu nước, tham gia Mặt trận Việt Minh chống Pháp từ năm 1945. Sau 1955, Thực dân Pháp rời Việt Nam, chủ quyền Quốc gia thuộc về tay Việt Nam Cộng Hòa, nhưng các trí thức vừa được Miền Nam trọng dụng, lại vừa bí mật hoạt động cho Việt Cộng. Ở Miền Bắc, Hồ Chí Minh coi trí thức không bằng Cục Cứt. Ở Miền Nam lại có một số thành phần trí thức được chế độ và nhân dân kính trọng, lại tự biến mình thành Cục Cứt cho chế độ cộng sản man rợ ở Miền Bắc. Vậy có phải những lời nguyền rủa của các oan hồn người Chàm đã tác động vào đầu óc trí thức, đúng không?
- Nay tôi xin nhắc đến những lãnh tụ đảng Quốc gia chống cộng sản. Đó là Văn hào Nhất Linh, từng làm Bộ trưởng Ngoại Giao trong Chính phủ Liên Hiệp Hồ Chí Minh và đã thấy bộ mặt đểu cáng của Hồ Chí Minh, nên từ chức. Lẽ ra, với uy tín của nhà văn lớn, một lãnh tụ tên tuổi, Nhất Linh đứng ra hô hào toàn dân Miền Nam cùng nhau đoàn kết với chính thể Ngô Đình Diệm được Hoa Kỳ viện trợ tài chánh, quân sự để tiêu diệt ý đồ xâm lăng Miền Nam của Hồ Chí Minh thì hay biết mấy! Trái lại, Văn hào Nhất Linh lại dính líu đến cuộc đảo chánh của Vương văn Đông và Trần Đình Lan – hai sĩ quan Phòng Nhì của Thực dân Pháp – vào năm 1960. Ngoài ra, Văn hào Nhất Linh đã không có cái dũng của kẻ sĩ vì không dám ra tòa nhận lấy trách nhiệm. Ông để lại một bức thư tuyệt mệnh mà lời lẽ có mục đích kết án chế độ hết sức gắt gao. Một người nổi danh như Văn hào Nhất Linh mà kết án một cách vô tội vạ chế độ đàn áp đối lập, đàn áp tôn giáo thì khác nào cung cấp đạn dược cho bộ máy tuyên truyền dối trá của Việt Cộng! Trong khi ở Miền Bắc đập phá đền chùa miếu mạo, coi trí thức như cục cứt thì lại “phất cờ” giải phóng dân tộc. Dù quân sĩ của các Sư Đoàn Việt Nam Cộng Hòa thiện chiến đến mấy cũng phải thua thôi!
- Nhân vật thứ hai là Cụ Nguyễn văn Lực – một trong những lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng – đã chứa chấp Nguyễn văn Linh – Bí thư Thành Ủy Sài Gòn của Việt Cộng – bí mật hoạt động nội thành Sài Gòn. Cụ Lực và Nguyễn văn Linh đã xúi giục con trai – phi công Nguyễn văn Cử – và Phạm Phú Quốc ném bom Dinh Độc Lập ngày 27 tháng 2 năm 1962. Cụ Nguyễn văn Lực là bạn đồng chí Quốc Dân Đảng với Nguyễn văn Linh. Sau khi Nguyễn văn Linh bị Thực dân Pháp bắt bỏ tù chung với Lê Duẩn tại Côn Đảo thì Nguyễn văn Linh tuyên thệ vào đảng Cộng Sản. Giống như trường hợp Trần Huy Liệu – một đảng viên cao cấp Quốc Dân Đảng – khi ở tù Côn Đảo cũng tuyên thệ vào đảng Cộng sản. Cụ Nguyễn văn Lực có bốn người con trai đều là sĩ quan Phi công trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa. Chẳng hay bốn anh em phi công Nguyễn văn Cử có biết bố mình thông đồng với Nguyễn văn Linh hay không? Các con đều gia nhập Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, bố là lãnh tụ Quốc Dân Đảng mà tư thông với cán bộ Việt Cộng là nghĩa làm sao? Nếu không bảo là bị quỷ ám, thì giải thích sự kiện này thế nào cho hữu lý đây?
Sau năm 1975, anh Nguyễn văn Cử bị kẹt lại, vẫn bị giam vào trại Tập Trung, không được Nguyễn văn Linh can thiệp trả tự do! Gọi Việt Cộng là quân chó đẻ thì đâu có sai?
Mời độc giả xem Video do ông Bộ trưởng Nội Vụ Lâm Lễ Trinh phỏng vấn Đại tá Đào Quang Hiển https..://www.youtube.com/watch?v=fYUDrm9Y7dM ở 1 giờ 03 phút để biết tình tiết.
- Tiếp theo, mời độc giả xem Video cũng do ông Bộ trưởng Nội vụ Lâm Lễ Trinh phỏng vấn Đại tá Nguyễn văn Y – thân phụ ca sĩ đấu tranh Nguyệt Ánh – nói về việc Tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh Đại tá Nguyễn văn Y – Giám đốc Cảnh sát Quốc gia – đốt hồ sơ Đại tướng Dương văn Minh thông đồng với Việt Cộng:
Đại tá Dương văn Minh không theo Tướng Nguyễn văn Hinh, ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm, nên được ông Diệm cử làm Tư Lệnh Chiến dịch Hoàng Diệu tiêu diệt Bình Xuyên. Thành công, ông Minh được phong Tướng. Nhưng khi Thủ tướng Diệm biết tin ông tịch thu thùng phuy tiền của Bình Xuyên mà không giao nộp cho Ngân khố Quốc gia, thì ông Diệm tỏ ra lạnh nhạt với ông, cho ông ngồi chơi xơi nước, nhưng không phạt quân kỷ. Thừa lúc ấy, em ruột của Dương văn Minh là Dương văn Nhựt – một cán bộ Việt Cộng – tiếp xúc anh mình và thuyết phục theo Việt Cộng! Tướng Dương văn Minh phản Quốc gia từ bấy giờ và lãnh đạo cuộc đảo chánh năm 1963 để giết anh ông Ngô Đình Diệm!
- Ngoài ra, có ba điệp viên đắc lực của Việt Cộng là: nhà báo Phạm Xuân Ẩn, ký giả của tờ báo Times. Đại tá Đinh văn Đệ, nguyên Tỉnh trưởng tỉnh Tuyên Đức, Chủ tịch Ủy ban Quốc Phòng Hạ Viện thời Đệ Nhị Cộng Hòa, được Tổng thống Nguyễn văn Thiệu cử làm Trưởng Phái đoàn sang Hoa Kỳ vận động Quốc Hội Mỹ viện trợ và Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đình Ngọc, dạy Đại học Sài Gòn.
Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc là chồng của cháu ruột bà Đặng thị Lý – phu nhân Thủ tướng Phan Huy Quát và là chị ruột Hùm Xám Đặng văn Việt – từ Pháp về Sài Gòn dạy Đại Học và tá túc tại nhà bác sĩ Phan Huy Quát. Nguyễn Đình Ngọc cũng là anh em đồng hao với Đại tá Hải Quân VNCH Nghiêm văn Phú. Với bề ngoài nho nhã, đẹp trai, hơi lập dị, không quan tâm đến tiền bạc, chỉ ăn một bữa mỗi ngày, Nguyễn Đình Ngọc vốn là sĩ quan Tình báo Việt Cộng, trà trộn vào đoàn người di cư năm 1954, rồi sang Pháp du học và trở về Saigon dạy học. Biết người Quốc gia đặt nặng tình nghĩa gia đình, bọn Việt Cộng đã khai thác tối đa sự liên hệ bà con để phục vụ cho đảng của chúng. Thủ tướng Phan Huy Quát không hề biết người cháu rể của mình là cán bộ tình báo cao cấp của Việt Cộng. Có phải đấy là “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà” không? Ai có thể bảo vệ Miền Nam Tự Do khi những con vi khuẩn Việt Cộng đục nát cơ thể?
Năm 1975, Thủ tướng Phan Huy Quát bị kẹt lại. Chính Nguyễn Đình Ngọc, Đại tá Tình Báo Việt Cộng, đã dàn cảnh để bắt ông Quát vào giam tại Khám Chí Hòa. Thủ tướng Phan Huy Quát bị Việt Cộng bắt buộc phải nằm nền xi-măng (không có mền chiếu), không được cho ăn uống thức ăn sạch, không được tắm rửa, mình mẩy bị ghẻ lở và mắc bệnh kiết lỵ mà không được cấp thuốc. Nguyễn Đình Ngọc từng ăn cơm nhà ông Quát mòn răng, nhưng không hề bước chân vào thăm ông Quát một lần. Ông Quát chết, bị đem chôn mà không có một chiếc chiếu quấn quanh mình. Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc và nhà báo Phạm Xuân Ẩn được đảng thăng cấp Thiếu tướng. Trước khi chết, nhà báo Phạm Xuân Ẩn trối trăng với vợ con: “Đừng chôn ông cạnh mồ của mấy thằng Việt Cộng”. Cộng sản là đồ chó đẻ ở chỗ đó. Việt Cộng vắt chanh bỏ vỏ là thế đấy!
Ba điệp viên chiến lược gạo cội là Phạm Xuân Ẩn, Đinh văn Đệ và Nguyễn Đình Ngọc sau khi thu lượm tin tức từ Hoa Kỳ, đã báo cáo một cách quả quyết với Bộ Tư Lệnh đoàn quân xâm lăng Việt Cộng là Hoa Kỳ sẽ không đưa quân trở lại Việt Nam. Vì thế, xe tăng Việt Cộng cứ ào ào tiến như chẻ tre.
Mời quý vị độc giả nghe sau đây Nghê Lữ đọc bài viết của ký giả Trúc Giàng về Việt Cộng Nằm Vùng trong Chính phủ VNCH :
Việt Cộng động viên toàn lực nhân dân Miền Bắc để hoàn thành nghĩa vụ Quốc tế do Liên Xô và Trung Cộng sai khiến. Cuộc xâm lăng của Việt Cộng không đơn thuần về Quân Sự. Đó là một cuộc chiến toàn diện, gồm: Chính trị, Tôn giáo,Tình báo, Phản gián, Tâm lý, Địch vận, Tuyên truyền. Trong khi đó sự phòng thủ của Miền Nam không có chiến thuật, chiến lược toàn diện nhất quán để đáp trả ý đồ của Việt Cộng. Dù ông Ngô Đình Nhu – một nhà chiến lược đại tài – cũng không thể cứu Miền Nam vì sự thiếu cán bộ chuyên nghiệp và sự phản phúc của thuộc cấp.
Hãy xét về chính sách Giáo dục. Như trên đã viết, Việt Cộng phát động cuộc xâm lăng toàn diện. Nhưng chương trình Giáo dục Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa chỉ nhắm đào tạo học sinh, sinh viên thành chuyên viên, chứ không dạy cho thanh niên hiểu biết cộng sản là một kẻ thù hung hiểm hơn bất cứ quân xâm lược nào từng đô hộ Việt Nam. Ngay cả thanh niên muốn dấn thân hy sinh, gia nhập Quân Đội để chống lại kẻ thù, cũng không thấy được Miền Nam sẽ mất vào tay Việt Cộng, vì trí thức, lãnh đạo chính trị, lãnh đạo tôn giáo hầu như đa số đều bị quỷ ám.
Đường lối cai trị của Đảng Việt Cộng cho đến ngày hôm nay vẫn không một mảy may thay đổi. Việt Cộng vẫn triệt hạ trí thức, vẫn triệt tiêu khí phách dân tộc để hoàn thành công việc Hán hóa do Hồ Chí Minh đã thiết lập từ năm 1930. Người dân trong nước chỉ được quyền sống như những tên nô lệ, câm nín trước sự bất công, tham nhũng của quan chức cộng sản.
Mời quý độc giả xem tiếp những chứng minh của người viết trong bài tới để thấy dân mình bị lời nguyền rủa của oan hồn người Chàm là có thật.
Bằng Phong Đặng văn Âu, ngày 2 tháng 6 năm 2022.
Telephone: 714 – 276 – 5600
Email Address: [email protected]
Trên đây là Căn cước (Carte d’Identité) của Hồ Chí Minh cao 1 mét 65.
Và dưới đây là hình Hồ Chí Minh chụp cùng với thành phần Chính phủ Liên Hiệp mà Hồ Chí Minh lập năm 1946. Mặc dù Hồ Chí Minh đứng ở bậc cấp thấp nhất, nhưng hơn nhiều người. Ước chừng Hồ Chí Minh cao 1 mét 75. Vậy thì “Hồ Chủ Tịt” không thể là Nguyễn Sinh Cung, con trai ông Nguyễn Sinh Sắc được.
https://khongquanc130.blogspot.com/2022 ... chive.html
Không còn là mối nguy cơ.
Không còn là mối nguy cơ.
Re: Không còn là mối nguy cơ.
-
Không còn là mối nguy cơ.
Bài Thứ Hai
______________________
Bằng Phong Đặng văn Âu
Lời mở đầu :
Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.
________________________________________________________________
Ý thức rằng không ai có thể quay trở về quá khứ để thay đổi lịch sử, tôi chỉ làm công việc phân tích để tìm hiểu tại vì sao một dân tộc thông minh, dũng cảm mà trở nên ngu độn và hèn nhát. Cô giáo Trần thị Lam làm bài thơ “Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh” và nữ doanh gia Hân Phan viết bài “Người Việt Nam Hèn Hạ” không có nghĩa là hai cô có ý miệt thị, chê bai dân tộc mình. Hai người phụ nữ trẻ cảm thấy mình là nạn nhân của một thời đại quái đản mà viết ra thành lời.
Dân tộc Việt Nam đang mắc phải căn bệnh rất trầm trọng. Không thể ra sau vườn kiếm mớ lá vào xông mà khỏi bệnh. Cần phải mổ xẻ để tìm căn nguyên thì mới mong chữa lành khối u được. Và một khi phải dùng dao kéo để mổ xẻ, ắt gây đau đớn. Người viết không phải là thầy thuốc, chỉ làm việc định bệnh mà thôi. Còn muốn được lành bệnh hay không là do quyết định của con bệnh.
Có một độc giả viết Email chất vấn người viết như sau:- – Ông bảo rằng vua chúa triều Nguyễn phạm tội diệt chủng dân Chàm, con cháu Nhà Nguyễn chịu tội quả báo thì còn nghe được. Những người họ Trần, họ Lê, họ Phạm … mắc mớ gì phải chịu chung số phận?
Tôi xin thưa:- – Luật Nhân Quả, có biệt nghiệp và cộng nghiệp. Thí dụ, một người chưa tới số chết, nhưng đi trên chiếc tàu mà người điều khiển con tàu tới số chết, phạm vào lỗi lầm kỹ thuật, khiến cho những hành khách trên tàu cùng bị chết theo. Đó gọi là cộng nghiệp. Nhà lãnh đạo Đất Nước cũng giống như người cầm lái con tàu.
Tôi không vô lễ, vô ơn đối với các bậc tiền bối. Chẳng qua vì lời nguyền rủa của những người vô tội bị chết oan, mà dân mình mới ra nông nỗi này. Chủ nghĩa cộng sản là một tôn giáo (đạo) của ma quỷ. Nó trở nên thích hợp cho những oan hồn sử dụng để báo thù. Trong Kinh Thánh cũng có nói đến Thiên thần Lucifer chống Chúa Trời, bị Thiên thần Michael đánh bại và bị đặt tên là Satan. Cộng sản chính là con quỷ Satan đã nhập vào thân xác Việt Nam để hủy diệt nòi giống Việt Nam. Người Cha đẻ của chế độ Cộng Hòa Việt Nam đã bị giết chết, vì không có kính chiếu yêu giống như Tề Thiên Đại Thánh sở hữu, để biết trong đám cận thần đứa nào là người, đứa nào là ma.
Hãy cho rằng những trí thức Việt Nam quá khát khao độc lập, tự do, hạnh phúc, nên họ không nhìn thấy Hồ Chí Minh là một tên cờ gian bạc lận, đạo đức giả, bày trò kháng chiến chống Thực dân Pháp là bịp. Nhưng sau cái gọi là Cải Cách Ruộng Đất long trời khiến hàng trăm ngàn người dân vô tội bị đấu tố một cách nhục nhã, bị giết hại một cách tàn bạo, tại sao lại có bọn người mang danh nghĩa trí thức ở Miền Nam được tự do sung sướng, ăn trên ngồi trước vẫn không thấy sự bất nhân bất nghĩa của quân cộng sản khát máu, mà lại âm thầm làm tay sai cho quỷ sứ? Vậy chỉ còn câu trả lời xác đáng nhất là bọn trí thức, bọn Tướng lãnh phản bội ấy bị ma ám, quỷ hành mà thôi!
Năm 1954, hai phe Cộng sản và Tư bản cắt đôi nước Việt Nam ra làm hai mảnh. Cựu Hoàng Bảo Đại mời ông Ngô Đình Diệm từ Hoa Kỳ sang Paris để giao trọng trách lãnh đạo Miền Nam. Cựu Hoàng chọn ông Ngô Đình Diệm là đúng, vì biết ông Diệm là một người hết lòng yêu nước Việt Nam. Khi mới ngoài 30 tuổi, ông Diệm từ chức Thượng Thư Bộ Lại (Thủ tướng) vì Thực dân Pháp không thỏa mãn yêu sách của ông, đủ chứng tỏ ông không tham quyền cố vị. Mấy ai có hành động bất khuất, không ham chức tước, không ham quyền hành như ông Diệm? Thấy tình hình quá khó khăn, ông Diệm ban đầu từ chối vì tự nghĩ không thể đảm đương nhiệm vụ. Cuối cùng, Cựu Hoàng đã phải kêu gọi tình thần ái quốc, trách nhiệm đối với các bậc Tiên Đế thì ông Diệm mới nhận lời. Bọn Việt Cộng tuyên truyền ông Diệm là tay sai của Hoa Kỳ, mà trong đó có bọn trí thức ngu đần ở Miền Nam cũng phụ họa theo.
Nếu nước Việt Nam nằm vào vị trí trong một góc khuất của thế giới, như Tân Cương, Tây Tạng thì không việc gì Hoa Kỳ phải nhảy vào can thiệp. Theo thuyết Domino, Hoa Kỳ cho rằng nếu quân cờ Domino Miền Nam đổ, thì sẽ kéo những quân cờ khác như Thái Lan, Nam Dương, Mã Lai, Tân Gia Ba … đổ theo. Đáng lý ra, trí thức Miền Nam phải vui mừng vì nhờ vị trí đặc biệt của nước mình, nên được Hoa Kỳ giúp đỡ để có phương tiện tài chánh, quân sự nhằm trả thù cho những đồng chí của mình bị cộng sản thủ tiêu và nhằm chống làn Sóng Đỏ đang ập tới. Trái lại, họ chia rẽ nhau và chống đối nhau còn quyết liệt hơn cả chống lại kẻ thù của dân tộc. Tại sao giai cấp trí thức được chế độ Miền Nam trọng vọng, ưu đãi không thấy rằng nếu Việt Cộng chiếm được Miền Nam thì số phận của họ chẳng khác gì các địa chủ ở Miền Bắc bị Việt Cộng đem ra đấu tố, tàn sát? Chỉ có hai chữ “quỷ ám” thì mới lột tả nổi sự ngu độn của trí thức mà thôi!
Có một số bạn đọc tỏ ra bất bình vì tôi thường chê bai giai cấp trí thức. Không! Tôi rất kính trọng người trí thức, vì tôi cho rằng họ được trời ban cho trí thông minh để học hành đỗ đạt. Bằng cấp là thước đo trình độ nhận thức để biết cái đúng, cái sai hơn người kém học vấn. Không ai gọi người lao động, người nông dân chân lấm tay bùn là trí thức cả. Người trí thức là sự kết tụ của khí thiêng sông núi. Họ phải tự nhận thấy họ có trách nhiệm và bổn phận hướng dẫn tư tưởng quần chúng để đưa dân tộc lên một tầng cao Văn Hóa. Những sinh viên đã dấn thân tham gia vào các đảng cách mạng như Đại Việt, Quốc Dân Đảng vừa chống Pháp vừa chống Cộng, đều là những người yêu nước, có lý tưởng dân tộc. Tại sao họ không lợi dụng việc Hoa Kỳ giúp phương tiện tài chánh, quân sự cho Miền Nam là cơ hội bằng vàng để trả thù cho những đồng chí bị Việt Cộng thủ tiêu, mà lại chia rẽ nhau và chống lại chính quyền ông Diệm một cách quyết liệt. Chẳng lẽ họ không hiểu “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết” hay sao?
Ông Ngô Đình Diệm về nước lãnh một bãi rác khổng lồ. Những đầu nậu của ổ điếm Bình Khang, sòng bạc Kim Chung và sòng bạc Đại Thế Giới là dân dao búa lũng đoạn nền hành chánh do Thực dân Pháp để lại. Công An và Cảnh sát là hai cơ quan giữ gìn an ninh, trật tự xã hội đa phần là tay sai Thực dân Pháp hoặc là đàn em của đầu nậu tứ chiếng giang hồ như Năm Lửa, Bảy Viễn.
Mặc dầu biết Trung tướng Nguyễn văn Hinh – một người Việt Nam mang Quốc tịch Pháp – làm Tổng Tham Mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia do Pháp thành lập, nhưng ông Diệm vẫn mời giữ nguyên chức vụ cũ để xây dựng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Ông Tướng Hinh từ chối và trả lời một câu rất ngạo mạn: “Tôi không biết ông là ai!”. Ông Tướng Hinh bỏ nước Việt Nam, trở về Pháp, gia nhập Quân Đội Pháp và được Pháp ban đầu gắn cho cái lon Trung tá. Những sĩ quan Việt Nam trước kia phục vụ dưới quyền Tướng Hinh, giữ chức vụ cao nhất là Tiểu Đoàn trưởng (nhưng vẫn còn làm phụ tá cho sĩ quan Pháp), như các ông- Dương văn Minh, Lê văn Kim, Trần văn Đôn, Phạm Xuân Chiểu, Thái Quang Hoàng, Dương văn Đức, Tôn Thất Đính, Nguyễn văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh v… v…
Tuy mang danh là sĩ quan Quân Đội Quốc Gia, nhưng có thể nói rằng khi các vị trở thành Chỉ huy Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, chưa chắc đã có vị nào từng đọc bài “Hịch Tướng Sĩ” của Đức Trần Hưng Đạo. Tôi từng có dịp lái máy bay chở các vị đi họp, đi thị sát mặt trận. Tôi thường nghe họ trao đổi giữa nhau bằng tiếng Pháp. Với cái thái độ coi thường tiếng Mẹ Đẻ, thì tinh thần Quốc Gia đâu có, để chống lại chủ nghĩa “Vô Tổ Quốc” của cộng sản? Nhất là khi thấy Tướng Tôn Thất Đính lúc nào cũng cầm cây gậy chỉ huy (bâton de commandement) trên tay có vẻ hách, giống như các ông quan Tây mà hồi nhỏ tôi từng chứng kiến.
Cán bộ hành chánh cũng do Thực dân Pháp đào tạo, nên phần lớn là công chức “cạo giấy”, chứ chẳng có một chút gì tinh thần Quốc Gia và hiểu biết gì về thủ đoạn tàn ác chủ nghĩa cộng sản để có thể tranh luận tay đôi với Việt Cộng, mặc dầu cán bộ Việt Cộng chỉ là những con vẹt, nói thao thao bất tuyệt, nhưng toàn là ngụy biện. Những quan Đốc Phủ sứ vẫn với tác phong “tối sâm-banh, sáng sữa bò”, thì ông Diệm có muốn làm cuộc cách mạng chống Cộng sản cũng khó lòng thực hiện. Bà Ngô Đình Nhu – Dân biểu Quốc Hội – làm Luật Gia đình nhằm mục đích nâng cao phẩm giá người phụ nữ Miền Nam, cũng bị xuyên tạc. Với dân trí thấp kém do bị đô hộ lâu ngày, làm sao ông Ngô Đình Nhu có thể thực hiện chủ thuyết “Cần Lao Nhân Vị”?
Tuy bị Giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo chống đối và đảng phái chính trị như Đại Việt và Quốc Dân Đảng bất hợp tác, chúng ta phải cảm phục Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã mang lại sự ổn định. Guồng máy Chính quyền từ Hành Chánh đến Quân Đội không có nạn tham nhũng, vì cái uy và sự sống thanh bạch của ông Diệm đã làm cho các quan chức không dám lộng hành. Năm 1959, Tổng thống Diệm sang thăm Hoa Kỳ được Tổng thống Dwight Eisenhower và Ngoại trưởng Foster Dulles ra tận phi trường đón tiếp với nghi lễ ngoại giao rất trịnh trọng. Ông Diệm là nhà lãnh đạo Á Châu duy nhất được Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ mời đọc diễn văn. Báo chí Mỹ cũng ca ngợi và so sánh tài năng và uy tín của Tổng thống Ngô Đình Diệm ngang hàng với Thủ tướng Nehru của Ấn Độ. Từ một đống rác, Saigon trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông, khiến cho các nước chung quanh như Mã Lai, Tân Gia Ba, Thái Lan mơ ước.
Năm 1960, có hai biến cố quan trọng. Thứ nhất, Trung Ương Đảng Lao Động (Cộng sản) ra Nghị quyết thay đổi chủ trương đấu tranh chính trị chống chính quyền Ngô Đình Diệm bằng đấu tranh quân sự. Việt Cộng thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và chính thức ra mắt vào ngày 20 tháng 12 tại Tây Ninh. Thứ hai, Tổng thống John Kennedy đắc cử vào tòa Bạch Ốc.
Chính sách của Mỹ dưới thời đảng Cộng Hòa ở tòa Bạch Ốc cũng bị thay đổi. Cố vấn chính trị về Đông Dương của Tổng thống John Kennedy là Averell Harriman có vợ người Pháp, chủ trương trung lập hóa nước Lào giống như đề nghị của Tổng thống Pháp Charles De Gaulle. Tổng thống Ngô Đình Diệm không đồng ý, vì như thế là giúp Hà Nội đưa quân qua ngã Lào để xâm lăng Miền Nam. Cùng năm đó, Trung tá Vương văn Đông – một sĩ quan tay sai của Pháp – làm cuộc đảo chánh ngày 11 tháng 11 với sự tham dự của Đại tá Nguyễn Chánh Thi – Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy Dù – một người rất được Tổng thống Diệm tin cậy. Phía dân sự có Hoàng Cơ Thụy – anh của Tướng Hoàng Cơ Minh – và một số đảng viên Quốc Dân Đảng tham gia. Nhà văn Nhất Linh cũng bị đàn em cung khai có dính líu đến cuộc đảo chánh. Năm 1963, Nhất Linh đòi hỏi không đối chất với đàn em trước tòa. Yêu sách của Nhất Linh không được chính quyền chấp thuận và ông quyết định tự tử với bức thư tuyệt mạng- “Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người trà đạp mọi thứ tự do. Ngày 7-7-63”.
Người Mỹ dùng Miền Nam làm tiền đồn ngăn làn sóng Đỏ Cộng sản, đồng thời đòi hỏi lãnh đạo Miền Nam thiết lập một chế độ dân chủ là phi lý. Việt Nam nhiều năm sống dưới nền quân chủ chuyên chính và nền đô hộ của Thực dân, người dân chưa hề có ý niệm về dân chủ thì không một lãnh tụ nào có thể kiến tạo nền dân chủ. Miền Nam đang đứng trước nguy cơ xâm lăng của một bầy dã thú được huấn luyện để trở thành người máy không tim, không óc. Bằng cớ là những Tướng lãnh Việt Cộng như Văn Tiến Dũng, Nguyễn Chí Thanh, Trần Độ, Trần văn Trà … đều ngu, vì không thấy mình là công cụ của một lũ người man rợ đi tiêu diệt nền văn minh như nhà văn Dương Thu Hương nhận ra ngay sau khi bước chân vào một hiệu bán sách của Sài Gòn. Tướng Trần Độ, Trần văn Trà khi bị Đảng thất sủng, thì mới biết mình ngu!
Người Mỹ quan niệm rằng chỉ cần Chính quyền cho mỗi gia đình người dân Việt Nam một cái nhà, cái máy truyền hình, cái tủ lạnh, cái xe máy thì tự nhiên hết cộng sản. Đó là một quan niệm hoàn toàn sai lầm. Biết bao trí thức ở Miền Nam được địa vị cao, ở dinh thự của chính phủ, xe hơi có tài xế lái mà vẫn ngấm ngầm làm việc cho cộng sản đấy thôi! Miền Nam muốn chống Cộng hữu hiệu thì cần phải có một chính quyền mạnh về tình báo, phản gián và tuyên truyền. Tình báo, phản gián bí mật cài người vào các tổ chức quần chúng nhằm dập tắt kịp thời hành động phản phúc của những phần tử nằm vùng. Một hệ thống kiểm soát báo chí gắt gao để tìm ra tên ký giả nào chớm có tư tưởng phản động, ngầm ca ngợi kẻ thù là tóm ngay.
- Nhờ có một nhà nước độc tài của Tưởng Giới Thạch mà Đài Loan được giữ vững và có chế độ dân chủ.
- Nhờ có Phác Chính Hi độc tài mà Nam Triều Tiên mới trở thành nước Đại Hàn tân tiến, giàu mạnh và dân chủ tự do.
- Nhờ Lý Quang Diệu độc tài, dùng kỷ luật sắt dạy cho người hiểu thế nào là dân chủ, thì Tân Gia Ba chỉ là một đảo quốc nhỏ mà không thèm ngửa tay xin viện trợ của thế giới.
Để có một nền dân chủ thực sự, vấn đề giáo dục phải đặt lên hàng đầu. Miền Nam có một nền giáo dục nhân bản, khai phóng rất đáng ca ngợi. Nhưng đó cũng là cái chết của Miền Nam. Tại sao ư?- Tại vì Miền Nam đang đối đầu với cuộc chiến chống ý thức hệ cộng sản, mà chương trình giáo dục không hề dạy cho học sinh, sinh viên những tiểu xảo, thủ đoạn tàn ác của cộng sản là hoàn toàn khiếm khuyết.
- Lại thêm hễ người nào có bằng cấp cao là được tuyển vào dạy học, mà không hề có cuộc sưu tra quan điểm, lập trường của đương sự thì càng nguy hiểm hơn. Cái thứ phản động như Hoàng Phủ Ngọc Tường mà cho nó đi dạy học thì nó chỉ tiêm thuốc độc vào đầu óc học sinh ngây thơ.
- Đa số học sinh Miền Nam cố gắng học hành chăm chỉ để kiếm cơm, để có địa vị xã hội, không ý thức vai trò tượng lai của mình là khai dân trí, chấn dân khí. Đặc biệt họ né tránh vấn đề chính trị, trong khi Việt Cộng vận dụng chính trị tối đa để ngu dân.
- Tổng thống Diệm đề cao Giáo dục, nhưng không ra lệnh cho Bộ Giáo dục dạy cho học trò hiểu cộng sản là loài quỷ sứ không tim không óc. Vì thế, Đại Học Huế là một hang ổ Việt Cộng nằm vùng dưới sự chỉ đạo của bác sĩ Lê Khắc Quyến, Bí thư Chi bộ Thuận Hóa.
Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng do Dương văn Minh đứng đầu lật đổ “chế độ độc tài Ngô Đình Diệm” là bất chính. Tại sao ư?- Nếu kết tội anh em ông Diệm là độc tài, tại sao Quân Đội không đưa anh em ông Diệm ra tòa án xử như một Quốc gia thượng tôn luật pháp?
- Nếu bảo rằng ông Diệm là tội đồ, tại sao không có ông Tướng nào đứng ra tuyên bố “tôi là người xử bắn anh em ông Diệm” để được quần chúng tôn vinh là người hùng?
Dù là một sĩ quan cấp nhỏ, tôi khinh các ông Tướng vì không ông nào đứng lên chống cái việc Dương văn Minh hủy bỏ quốc sách Ấp Chiến Lược. Quốc sách Ấp Chiến Lược rất hữu hiệu, vì nó đã phá vỡ chủ trương “lấy nông thôn bao vây thành thị của cộng sản”. Vậy cuộc đảo chánh lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa năm 1963 phế bỏ Quốc Sách chống Cộng hữu hiệu mà gọi là “Cách Mạng”, thì chính danh hay phi nghĩa?
Ông Ngô Đình Nhu đã tiên đoán trong sách “Chính Đề Việt Nam” do ông viết rằng nếu chế độ này mà sụp đổ thì chừng 9 hoặc 10 năm sau Miền Nam sẽ rơi vào tay cộng sản Bắc Việt. Ông Nhu tiên đoán đúng, vì bọn Tướng phản bội ít học, không được tình yêu nước hun đúc, không có tầm nhìn để thấy nguy cơ cộng sản trước mắt, nhưng lại có súng trong tay thì chỉ đảo chính, chỉnh lý nhau liên tục để tranh quyền đoạt lợi mà thôi!
Cộng sản Hà Nội khinh bỉ trí thức, coi trí thức không bằng cục cứt. Ở Miền Nam, có một bọn trí thức được trọng vọng, được ưu đãi, được hưởng đặc quyền đặc lợi, lại tự động biến mình thành cục cứt đi làm tay sai cho cộng sản. Sau khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa bị bọn Việt Cộng giả danh Phật giáo lật đổ, anh em ông Diệm không còn, các cuộc đấu tranh của những anh đội lốt Thầy Tu vẫn tiếp tục tranh đấu, mà không một nhà trí thức Phật giáo nào lên tiếng phản đối, thì có phải trí thức Phật giáo đồng lõa với quân cướp nước, đúng không? Mời các nhà trí thức Phật giáo hãy lên tiếng biện minh cuộc đấu tranh của Trí Quang là thực sự bảo vệ Đạo Pháp cho mọi người xem.
Cuộc chiến đấu gan dạ, dũng cảm của quân và dân Việt Nam Cộng Hòa để có đời sống Tự Do, Cơm No, Áo Ấm là hoàn toàn có chính nghĩa. Nhưng vì lời nguyền rủa của một dân tộc bị tổ tiên Việt Nam xóa sổ, khiến cho- hàng Tướng lãnh chỉ huy Quân Đội trở nên ươn hèn, bất xứng ;
- hàng lãnh đạo tôn giáo phá đạo của mình;
- lãnh tụ đảng phái chia rẽ; xôi thịt;
- giai cấp trí thức trở thành khoa bảng, không đóng vai trò kẻ sĩ cần thiết cho trí tuệ dân tộc.
- Nhà ái quốc Ngô Đình Diệm bị giết chết một cách man rợ.
- Tên tội đồ Hồ Chí Minh được đúc tượng đem vào Chúa thờ.
Xin bạn đọc theo dõi bài viết tới.
Bằng Phong Đặng văn Âu
Email Address: [email protected]
Telephone: 714 – 276 – 5600
Westminster, ngày 14 tháng 6 năm 2022
https://khongquanc130.blogspot.com/2022 ... chive.html
Re: Không còn là mối nguy cơ.
-
Không còn là mối nguy cơ.
Bài Thứ Ba
______________________
Bằng Phong Đặng văn Âu
Lời mở đầu :
Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.
________________________________________________________________
Tôi từng thưa với độc giả nhiều lần rằng tôi không phải là nhà văn, vì tự biết mình không có văn tài, nên không dám mang sứ mệnh “tải đạo”. Cũng không phải là nhà viết sử, tôi chỉ là người có cơ duyên “lạc đường vào lịch sử”, vì đã đích thân tham dự vào cuộc chiến chống Con Ma Cộng Sản, thì viết lên suy nghĩ của mình để giải thích vì sao nòi giống Việt Nam anh hùng mà phải mang nỗi ô nhục này. Tôi công khai nêu lên ý nghĩ để biết đâu có vị cao minh nào đó có lời giải thích tình trạng xuống cấp của dân tộc một cách thuyết phục hơn.
Do sự xung khắc gia đình, Chúa Nguyễn Hoàng nhờ bà chị của mình – vợ Chúa Trịnh Kiểm – xin cho mình đi về Miền Nam khai hoang lập ấp. Nếu gia đình êm thấm, các bậc tiền bối không phạm tội với Thiên đình vì tiêu diệt nòi giống Chàm, thì dân Việt ta không bị quả báo như ngày nay.- Đây không phải là lời oán trách tiền nhân.
Đây chỉ là sự suy nghiệm của hàng hậu bối đi tìm căn nguyên vì sao một dân tộc thông minh, anh hùng mà trí óc không chịu lớn.
Đất Thuận Hóa là nơi hậu duệ của Chúa Nguyễn Hoàng – Nguyễn Phúc Ánh – chọn Phú Xuân để lập Đế đô Nhà Nguyễn và mang Đế hiệu Gia Long. Theo lời dạy của Thầy Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”.- Tại sao chỉ mới 143 năm tính từ năm 1802 là năm Chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi đến năm 1945 vua Bảo Đại thoái vị, mà Nhà Nguyễn mất ngôi vào tay một tên gian hùng, cùng hung cực ác Hồ Chí Minh?
- Tại sao con cháu Nhà Nguyễn không thể dung thân vạn đại?
- Tại sao chỉ 143 năm là mất ngai vàng và con cháu phải mang nỗi nhục ăn nhờ ở đậu nơi đồng đất nước người?
Có phải“Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” là hậu quả tất yếu, đúng không?
Năm 1627, do xung đột dòng họ, cuộc nội chiến xảy ra chia đôi đất nước tại sông Gianh.
Năm 1954, nước Việt Nam lần này bị Quốc tế chia đôi tại sông Bến Hải, vĩ tuyến 17. Huế không còn là Kinh đô của Nhà Nguyễn, mà nước Việt Nam bị chia làm hai thủ phủ: Hà Nội và Sài Gòn.- Thủ phủ Hà Nội – chốn ngàn năm văn vật – thuộc về bọn quỷ sứ ma vương do tên đại ma đầu Hồ Chí Minh cai trị, biến toàn xã hội thành Trại Súc Vật đói rách;
- còn thủ phủ Sài Gòn từ một bãi rác được nhà ái quốc Ngô Đình Diệm biến thành Hòn Ngọc Viễn Đông, nhân dân được sống tương đối tự do và no cơm ấm áo.
Lẽ ra Miền Nam trù phú, tự do, hùng mạnh được cường quốc số 1 thế giới – Hoa Kỳ – yểm trợ mọi mặt, thừa sức giải phóng nhân dân Miền Bắc. Nhưng tại sao “một nền văn minh lại bị một chế độ man rợ đánh bại?”. Tôi thấy chỉ có cách đem Luật Nhân Quả ra để mà luận giải cái lẽ “vô thường” như những bài viết trước tôi đã trình bày. Không một ai chính danh lên tiếng phản bác một cách nghiêm túc những luận điểm của tôi. Điều đó chứng tỏ lập luận của tôi là hữu lý, chứ còn gì nữa?
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, có ba Quốc gia bị chia đôi. một nửa thuộc phe Cộng sản, một nửa theo phe Tự do. Đó là Đức Quốc (Germany), Triều Tiên (Korea) và Việt Nam.- Nước Đức được thống nhất trong tự do, thịnh vượng nhờ Liên Xô sụp đổ.
- Triều Tiên nhờ nhà độc tài Phác-Chính-Hy mà vẫn nguyên trạng chia cắt, chưa thống nhất được, nhưng Nam Hàn (ROK) trở thành Quốc Gia giàu mạnh, cạnh tranh kinh tế với Nhật.
- Trong khi ở Miền Nam Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm làm cho bãi rác trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông, bị quy tội đàn áp Phật giáo và đàn áp đối lập, giúp cho Hồ Chí Minh và bè lũ thống nhất đất nước. Thống Nhất mà “cái cột đèn biết đi, cũng bỏ nước ra đi”?
- Tại sao văn hào Nhất Linh không thấy trong Nội các Chính phủ Ngô Đình Diệm đa số Bộ trưởng là Phật giáo?
- Tại sao văn hào Nhất Linh không thấy đa số Tướng lãnh trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa là Phật giáo?
- Văn hào Nhất Linh ca ngợi cái chết vì Đạo Pháp của Ngài Quảng Đức là đúng hay sai?
Thử bàn láo chuyện thiên cơ một chút chơi. Có mất gì?
- Nguyễn Huệ tên thật là Hồ Thơm, vốn dòng dõi họ Hồ, vào Bình Định lập nghiệp, đổi sang họ Nguyễn. Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm La (Thái Lan) ở trong Nam do Chúa Nguyễn phúc Ánh cầu viện sang giúp. Nguyễn Huệ đánh bại quân Mãn Thanh ở ngoài Bắc do vua Lê Chiêu Thống cầu viện sang giúp. Nguyễn Huệ đánh hai kẻ thù do chính người Việt Nam rước voi về giày mồ, thống nhất đất nước, lên ngôi vua, lấy hiệu là Quang Trung Hoàng Đế. Nếu nói cho chính xác triều đại Nhà Tây Sơn đúng là Nhà Hồ. Chúa Nguyễn Phúc Ánh thừa dịp Hoàng Đế Quang Trung mất sớm, Quang Toản còn nhỏ, nên lật đổ Nhà Tây Sơn (Nhà Hồ), lập lên Nhà Nguyễn. Các sử gia dưới triều Nhà Nguyễn viết công lao thống nhất đất nước do Chúa Nguyễn Phúc Ánh là không đúng sự thật. Chính vua Quang Trung Hồ Thơm mới là người có công thống nhất.
Hồ Chí Minh vốn họ Nguyễn, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, con ông Nguyễn Sinh Sắc. Nguyễn Sinh Cung đi làm bồi tàu thủy cho Thực dân Pháp là để sinh nhai, chứ không phải là nhà ái quốc đi tìm đường cứu nước. Bằng cớ là Nguyễn Sinh Cung làm đơn xin vào học trường Trường Thuộc Địa của Thực dân Pháp để phục vụ Thực dân Pháp. Nhưng vì Trường Thuộc Địa của Pháp không nhận, thì Hồ Chí Minh mới gia nhập đảng Cộng sản để bán nước Việt Nam cho Tàu. Đó là sự thật lịch sử. Người viết không bịa chuyện.
Chúa Nguyễn Phúc Ánh cướp ngôi Nhà Hồ (Nhà Tây Sơn) của Hoàng Đế Quang Trung. Hồ Chí Minh cướp lại ngôi Nhà Nguyễn (Vua Nguyễn văn Thiệu phải bỏ chạy).
- Huế là nơi vua Gia Long đặt làm kinh đô, là nơi vua Minh Mạng ra lệnh cho quan chức dưới quyền hàng tháng phải nộp đầu người dân Chàm để lãnh thưởng. Năm 1963, Huế là sào huyệt của bọn quỷ sứ dùng bọn Việt Cộng giả Sư để phát động cuộc “tranh đấu vì Đạo pháp” để lật đổ nền Cộng Hòa của Miền Nam. Năm Mậu Thân 1968, người dân vô tội của Thành phố Huế bị Việt Cộng chôn sống nhiều hơn tất cả các thành phố khác.
Bạn đọc có thấy sự đời vay trả, trả vay đã xảy ra trong dòng sinh mệnh dân tộc Việt Nam chưa?
Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu viết cuốn Chính Đề Việt Nam đã tiên đoán, nếu nền Cộng Hòa của Việt Nam sụp đổ, chừng 9 hoặc 10 năm sau thì toàn thể đất nước Việt Nam rơi vào tay cộng sản Hà Nội và trở thành một phiên thuộc của Trung Cộng. Tại sao ông Ngô Đình Nhu đoán biết trước được điều đó?- Tại vì ông Nhu là người thông minh, sáng suốt, ông nhìn thấy trong số các Tướng lãnh, trong số các nhà hoạt động chính trị, không có một ai có tài, có lòng yêu nước để lãnh đạo toàn dân đoàn kết chống lại âm mưu bán nước của Hồ Chí Minh. Nạn Sứ Quân sẽ xảy ra vì ông Nhu thấy được tất cả đều tham chức, tham quyền, chứ không có người thực tâm yêu nước, dũng cảm để lái con thuyền Việt Nam giữa phong ba, bão táp (họa cộng sản diệt chủng).
Quả nhiên, sự thể đã xảy ra giống như ông Ngô Đình Nhu đã tiên đoán.
- Cái gọi là Cuộc Cách Mạng ngày 1 tháng 11 năm 1963
không phải là Cách Mạng để lật đổ một Chính quyền thối nát, nhằm xây dựng một Chính quyền lành mạnh hơn, dân chủ hơn, an ninh hơn.
- Tướng Dương văn Minh – người đứng đầu – ra lệnh phá bỏ Quốc sách Ấp Chiến Lược
- và cho phép các tiệm Nhảy Đầm (dancing) hoạt động trở lại, vui chơi thâu đêm suốt sáng.
- Quyền lực điều khiển Quốc gia nằm trong tay các tu sĩ Phật giáo, vì các Tướng lãnh, các nhà hoạt động chính trị đảng phái đều “nể” mấy anh nhà Sư đầy tham vọng chính trị!
Thầy dạy học Phan Quang Đông cùng quê Nghệ An – Hà Tĩnh với tôi. Cha Mẹ thầy đều bị Việt Cộng đấu tố và giết trong Cải Cách Ruộng Đất. Thầy Phan Quang Đông là một người hiền lành, sống kín đáo, dạy tại trường Thiên Hựu (Providence) ở Huế, được bác sĩ Trần Kim Tuyến tuyển mộ vào làm việc tại Sở Nghiên Cứu Chính trị (thực chất là cơ quan Tình Báo). Về sau, thầy Đông được giao nhiệm vụ Giám đốc Sở Bắc, tức là cơ quan lo việc gửi gián điệp hoạt động trong lòng địch. Thầy Đông hoàn toàn không dính đến an ninh, mật vụ của ông Ngô Đình Cẩn ở Miền Trung.
Lúc nghe tin quân phản phúc đảo chánh ông Diệm ở Sài Gòn thành công, thầy Phan Quang Đông mang tất cả hồ sơ của những gián điệp hoạt động trong lòng địch trao cho Tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Quân Khu I và yêu cầu Tướng Trí chăm lo an ninh cho những anh em hoạt động gián điệp. Nhưng Tướng Trí không giữ lời, có lẽ sợ hãi thanh thế của Trí Quang, nên ông đã giao tất cả danh sách gián điệp của ta cho Trí Quang. Tướng Đỗ Cao Trí còn sợ Trí Quang, nói gì đến ai?
Vợ của thầy Phan Quang Đông là Nguyễn Thúy Toan học lớp Đệ Nhất C trường Quốc Học, tôi học lớp Đệ Nhất ban B. Tuy khác ban, nhưng chúng tôi có thể biết hầu hết tên các nữ sinh Đệ Nhất C1 (Pháp văn) và C2 (Anh văn). Sau khi thầy Phan Quang Đông bị xử tử hình ngày 28 tháng 3 năm 1964 tại sân Vận Động Huế, tôi có gặp nàng nữ sinh Quốc Học tên Thúy Toan. Nàng kể với tôi trong nước mắt:- “Em có gặp Tướng Nguyễn Chánh Thi để nhờ ông can thiệp cho chồng em bị xử oan, nhưng Tướng Thi từ chối và bảo em đi gặp thầy Trí Quang để mà xin. Thầy Trí Quang cũng từ chối. Thầy nói Thầy là người tu hành, không dính dáng đến chính trị (!), hãy đi gặp các ông Tướng mà xin”.
Sau năm 1975, tôi nghe nói Thúy Toan đem con xuống thuyền đi vượt biên và cả mẹ lẫn con đều chết trên biển? Thương tâm hết sức! Bạn đọc có thấy sự nghiệt ngã của một người có cha mẹ chết dưới bàn tay Cộng sản, bản thân chống Cộng để trả mối thù cho cha mẹ mình, thì bị tử hình vì những viên đạn của phía mệnh danh là Quốc Gia?- Thầy Trí Quang, thủ lãnh Phật giáo tranh đấu lật đổ nền Cộng Hòa đã chối mình không làm chính trị, thì có đáng khinh bỉ hay không?
- Cao Huy Thuần tôn Trí Quang là vị Bồ Tát, thì có xứng đáng phỉ nhổ vào mặt tên Tiến sĩ ấy hay không?
Một giờ sau khi lãnh nhận bản án tử hình, trở lại nhà giam trung ương của tỉnh Thừa Thiên, ông Đông lấy giấy viết lá thư vĩnh biệt hiền thê dấu ái tên Margarita Thúy Toan như sau :- “Tòa án cách mạng vừa kết án tử hình cho anh. Anh cố gắng cầm nước mắt để viết cho em những hàng chữ cuối cùng này, vì ngày còn lại cuộc đời anh nơi dương thế có thể đếm được trên các đầu ngón tay. Anh chỉ nghĩ đến duy nhất một mình em. Trong 5 tháng tù đày, hình ảnh em là suối nguồn mang niềm an ủi đến cho anh. Giờ đây đứng trước cái chết gần kề, anh giữ lại âu lo cho riêng mình và nguyện cầu cùng THIÊN CHÚA, Đức Mẹ MARIA ban cho chúng ta niềm an bình nội tâm và được hàn huyên lần cuối. Em yêu dấu, quả thực, không gì mạnh hơn tình yêu. Tình yêu xóa tan nỗi lo sợ cái chết gần kề. Tình yêu chiến thắng tất cả. Mấy tháng nay, anh cầu nguyện thật nhiều cùng Chúa và Mẹ Ngài, cùng Thánh Cả GIUSE và thánh nữ Magarita. Xin Các Ngài phù hộ chúng ta”.
Xin bạn đọc hãy lấy lương tâm trong sáng của mình để so sánh, lượng giá bức thư tuyệt mạng của văn hào Nhất Linh lên án chế độ Ngô Đình Diệm với bức thư của Thầy Đông viết cho vợ, mà không một lời phiền trách bọn phản bội giết oan ông, thì có thấy sự khác xa nhau một trời một vực giữa người chiến sĩ Chống Cộng có niềm tin Thiên Chúa với lãnh tụ Đại Việt Quốc Dân Đảng kiêm nhà văn hóa viết tiểu thuyết luận đề không? Tôi đã ngậm ngùi thương tiếc thầy Phan Quang Đông và người nữ sinh Thúy Toan – đồng môn Quốc Học – khi đọc lại bức thư này.
Ông Ngô Đình Cẩn bị Tướng Đỗ Cao Trí – Tư lệnh Quân Khu I – giải giao về Sài Gòn và giao cho Quân Cách Mạng giam giữ. Chánh án xử ông Cẩn là Đại tá Đặng văn Quang, con đỡ đầu của mẹ Đức Cha Nguyễn văn Thuận và chị của ông Ngô Đình Cẩn. Luật sư bào chữa cho ông Cẩn là luật sư Võ văn Quang (nếu tôi nhớ không lầm). Ông Ngô Đình Cẩn bị bệnh tiểu đường rất nặng, khi bị tù không được cho thuốc uống, nên ông không ngồi dậy được. Theo luật nhân đạo quốc tế, không xử tử khi phạm nhân mắc trọng bệnh. Luật sư Quan viết đơn gửi lên Quốc trưởng Nguyễn Khánh xin ân xá. Nhưng Nguyễn Khánh vì sợ hãi quyền hành của Trí Quang, nên bác đơn. Vì vậy, Tổng thống Lyndon B. Johnson mới gọi bọn Tướng lãnh phản bội giết gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm là một lũ côn đồ (gang of thugs). Các chiến sĩ anh hùng VNCH nghĩ gì về các ông Tướng của mình?
Tướng Edwards Lansdale, một sĩ quan Không Quân, đổi sang làm việc cho CIA. Lansdale là người có công giúp Tổng thống Ramon Magsaysay của Phi Luật Tân tiễu trừ quân phiến loạn Cộng sản. Năm 1954, Lansdale sang Việt Nam giúp ông Diệm thuyết phục lãnh tụ Cao Đài, Hòa Hảo trở về hợp tác với Chính quyền. Năm 1960 Trung tá Vương văn Đông – một sĩ quan trong Quân Đội Quốc Gia, nhưng là tay sai của Thực dân Pháp – làm cuộc đảo chánh. Lansdale yêu cầu Tướng Khiêm đem quân về Thủ đô chống cuộc đảo chánh. Tổng thống Diệm tưởng rằng Tướng Trần Thiện Khiêm trung thành với chế độ, nên thăng cho Tướng Khiêm làm Tham Mưu trưởng Liên Quân, được quyền tuyển chọn sĩ quan trung thành giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn đóng quân gần Sài Gòn để cứu giá trong trường hợp Sài Gòn có biến. Đại tá Nguyễn văn Thiệu là người bạn thân của Tướng Khiêm, nên được ông Khiêm đề cử làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh.
Tháng 11 năm 1963, Sài Gòn có biến, Đại tá Nguyễn văn Thiệu đem quân về Thủ đô, nhưng áng binh bất động, chờ xem bên nào thắng thế thì ngã theo. Những Tướng lãnh sau khi đảo chánh Tổng thống Diệm vẫn còn tiếp tục đảo chánh, chỉnh lý liên tục đều bị cháy. Hai ông Trần Thiện Khiêm, Nguyễn văn Thiệu được ông Nguyễn văn Kiểu – anh ruột ông Thiệu – giới thiệu gia nhập đảng Đại Việt. Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và kỹ sư Hà Thúc Ký nhận lời tuyên thệ của hai ông Thiệu, ông Khiêm trước bàn thờ Tổ Quốc và di ảnh cố đảng trưởng Trương Tử Anh. Chủ thuyết của đảng Đại Việt do đảng trưởng Trương Tử Anh viết ra là “Dân Tộc Sinh Tồn”. Ông Thiệu và ông Khiêm gia nhập đảng Đại Việt không phải vì lý tưởng Dân Tộc Sinh Tồn, mà có mục đích đầu cơ chính trị. Bằng cớ là sau đó, ông Thiệu âm thầm lập đảng Dân Chủ cho sự nghiệp của riêng mình.
Trong cuộc họp thống nhất Đại Việt năm 1988 tại tư gia người bạn cùng khóa phi công với tôi – anh Nguyễn Quan Vĩnh – tại Thành phố San Jose, bắc California, tôi nói:- “Đảng Đại Việt có nhiều dịp cầm quyền, nhưng các anh lãnh đạo đảng không nghiêm túc, làm cho nước mất. Theo quy luật đảng, người nào tự ý rời bỏ đảng đều phải chịu kỷ luật. Ông Thiệu bỏ đảng Đại Việt, tự động lập ra đảng Dân Chủ cạnh tranh với Đại Việt, mà các anh không phản ứng, lại còn chia quyền với ông Thiệu, thì các anh đã làm mất tư thế lãnh đạo quần chúng.
Cho đến nay vẫn còn có người trách ông Ngô Đình Diệm gia đình trị, đầu óc địa phương, chân tay bộ hạ đa số gốc Miền Trung. Năm 1959, sau khi đọc cuốn “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” do cụ Hoàng văn Chí biên soạn, nói về Phong trào Nhân văn Giai Phẩm, tôi suy nghĩ rất nhiều và tự ý đi tìm một đảng có quá trình Chống Cộng để tham gia. Bởi vì Việt Cộng có tổ chức, thì mình phải gia nhập một tổ chức để chống lại âm mưu Việt Cộng thôn tính Miền Nam. Tôi gia nhập Đại Việt, vì đảng trưởng đảng này bị Việt Cộng giết, thì nhất định đảng sẽ quyết tâm diệt Cộng để báo thù. Vậy những gì tôi sắp sửa viết ra đây là từ một cựu đảng viên Đại Việt, chứ không phải bênh vực ông Diệm vì “hoài Ngô” như bọn dư đảng Ấn Quang chụp mũ tôi.
Ông Ngô Đình Diệm người Miền Trung, cựu quan lại của Triều đình Nhà Nguyễn ở Huế, tất nhiên ông cần người tâm phúc để đặt niềm tin.- Đỗ Mậu gốc lính Khố Xanh, cùng quê Quảng Bình với ông Diệm, phục vụ dưới quyền Tổng Đốc Ngô Đình Khôi, anh ruột Tổng thống Diệm. Ông Diệm từ chức Thượng Thư Bộ Lại vì Thực dân từ chối thi hành yêu sách của ông. Không còn chức vụ, ông Diệm không còn có lính hầu. Ông Ngô Đình Khôi biệt phái Đỗ Mậu sang kéo xe cho ông Diệm. Đỗ Mậu tỏ ra lễ phép, kính trọng vị quan thanh liêm Ngô Đình Diệm. Từ đó, tình thầy trò trở nên sâu đậm. Ông Diệm chọn ông Đỗ Mậu, một bề tôi tâm phúc của mình, làm Giám đốc An Ninh Quân Đội để làm tai mắt cho mình là hết sức đúng. Ai cũng làm như vậy thôi!
- Nhân vật số 2 của chế độ là Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, người Miền Nam.
- Nhân vật số 3 của chế độ là Ngoại trưởng Vũ văn Mẫu, người Miền Bắc.
Tiếc cho ông Diệm không cái kính chiếu yêu như Tề Thiên Đại Thánh để biết lòng dạ của thuộc cấp. Những kẻ chịu ơn mưa móc của ông Diệm đều phản ông.- Đỗ Mậu là người đi móc nối các đơn vị trưởng chỉ huy Quân Đội để làm cuộc đảo chánh năm 1963.
- Trung tướng Tôn Thất Đính nhờ tài nịnh hót ông Cụ, lúc nào cũng xưng con với ông Diệm, nên cùng một lúc được trao ba chức vụ quan trọng: Tư Lệnh Quân Đoàn III, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, Tổng trấn Saigon – Gia Định. Nhưng Tướng Tôn Thất Đính lại là người phản bội đầu tiên, chịu trách nhiệm về cái chết tức tưởi của anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm. Kẻ phản bội được bầu làm Thượng Nghị sĩ Quốc Hội VNCH!
Dưới thời Tổng thống Eisenhower, báo chí Mỹ ca ngợi ông Diệm không tiếc lời. Sang thời Tổng thống Kennedy, báo chí tả khuynh bắt đầu chê bai ông Diệm. Nếu bất bình chính sách của Tổng thống Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ thiếu gì cách để đẩy anh em ông Diệm ra khỏi vai trò lãnh đạo Miền Nam? Chẳng hạn, cúp viện trợ tài chánh thì ông Diệm lấy tiền đâu để trả lương cho quân nhân, công chức? Cúp viện trợ quân sự, không súng đạn, không có xăng dầu cho cho tàu thủy, tàu bay và xe cơ giới, chẳng lẽ Tổng thống Ngô Đình Diệm chống Cộng bằng hai bàn tay trắng được sao? Lucien Conein là nhân viên Tình Báo CIA, gốc Pháp có máu Thực dân, là người chủ chốt bỏ tiền ra mua chuộc một số Tướng lãnh phản phúc làm đảo chánh. Theo tường thuật của một vài sĩ quan tùy viên của các ông Tướng âm mưu đảo chánh như sau:- “Lucien Conein tuy chỉ là Trung tá, nhưng tỏ ra hách dịch. Ông ta gác hai chân lên bàn, ngồi dựa ngửa vào thành ghế và ra lệnh cho mấy ông Tướng phải làm gì, làm gì”.
Giết anh em ông Diệm, Hoa Kỳ đã tự tạo cho bạn Đồng Minh thấy rõ bộ mặt tàn ác của mình. Uy tín của Hoa Kỳ bắt đầu sa sút trên thế giới kể từ ngày đó.- Chơi với Hoa Kỳ rất khó, bởi vì chính sách của Mỹ thay đổi tùy theo thời điểm đảng Cộng Hòa hay đảng Dân Chủ ngồi vào Tòa Bạch Ốc.
- Nhật Bản “chơi” với Mỹ dài lâu được là vì chính trị gia Nhật yêu nước, biết đặt quyền lợi nước Nhật lên trên hết, nên ngoại ban khó lòng mua chuộc.
- Không có cộng sản, thì làm gì có cuộc chiến tranh Việt Nam?
- Không có cộng sản thì dân Việt Nam đâu phải mang nỗi nhục mất nước?
Rất có thể bạn đọc cho rằng cái gì xấu xa, thối nát tôi đều đổ cho cộng sản? Không! Tôi không đổ tội cho cộng sản mà không có lý do.- Nếu trí thức Việt Nam ta khi thấy Hồ Chí Minh nhận Trung Cộng – kẻ thù tiền kiếp của ta – làm anh em, thì tẩy chay ngay, đừng nhắm mắt cúi đầu phục vụ nó, làm sao Hồ Chí Minh có thể vận động toàn dân hy sinh xương máu giành độc lập?
Hẹn bạn đọc bài viết tiếp theo. Xin quý bạn đọc kiên nhẫn theo dõi, vì đây là vấn đề tồn vong của nòi giống Việt Nam, xin đừng quên!
Bằng Phong Đặng văn Âu, ngày 18 tháng 6 năm 2022.
Địa chỉ Email: [email protected]
Telephone: 714 – 276 – 5600.
https://khongquanc130.blogspot.com/2022 ... chive.html
- Đây không phải là lời oán trách tiền nhân.
Re: Không còn là mối nguy cơ.
-
Không còn là mối nguy cơ.
Bài Thứ Tư
______________________
Bằng Phong Đặng văn Âu
Lời mở đầu :
Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.
________________________________________________________________
Nước Việt Nam ta không có những nhà hiền triết như Ấn Độ, như Tây phương. Nhưng Tổ tiên ta đã để lại cho con cháu một kho tàng Ca dao, Tục ngữ vô giá mà con cháu biết tuân theo, thì ngày nay cả thế giới kính trọng người Việt Nam chẳng kém gì kính trọng người Nhật Bản.
Chẳng hạn, chỉ bằng hai câu lục bát:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng,
tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
vừa nhẹ nhàng vừa thiết tha tình người. Trong Cộng Đồng Dân Tộc có người Kinh, người Thượng, tuy chủng tộc khác nhau như bí với bầu, nhưng cùng chung sống trên một mảnh đất (tức là cùng một giàn) thì hãy tương thân tương trợ để cùng tồn tại có phải là tốt đẹp hơn không? Nếu vua Gia Long thấm nhuần ý nghĩa sâu sắc câu ca dao ấy thì đâu đến nỗi xuống tay một cách tàn nhẫn, nhỏ mọn đối với anh em dòng dõi Nhà Tây Sơn, đối với những tùy tướng của Nhà Tây Sơn? Sự kiện đào mả vua Quang Trung, lấy thủ cấp của kẻ thù làm cái chậu để ngày ngày phóng uế vào đó, là hành vi bất xứng của Đấng Quân Vương. Dù mối thù riêng đối với Nhà Tây Sơn cao đến mấy, là người lãnh đạo quốc gia, vua cũng phải tỏ ra kính trọng một bậc anh hùng dân tộc đánh đuổi quân thù ra khỏi nước. Giá như vua Gia Long có lối hành xử mã thượng anh hùng, con cháu của Ngài sẽ noi gương tâm hồn cao thượng vĩ đại của Vua Cha để mà trị nước, thì xã tắc sơn hà bền vững lâu dài.
Nếu vua Gia Long hiểu lời cảnh báo của tiền nhân “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” thì phải biết Luật Nhân Quả sẽ không trừ một ai, thì Ngài đã không để lại cho lịch sử một vết dơ đáng xấu hổ như thế! Vì Thái Tổ Nhà Nguyễn đã lạnh lùng, tàn nhẫn sử dụng sự báo thù để hả dạ, nên con dân nước Việt mới bị lãnh hậu quả như ngày nay.
Dân tộc ta có- những bậc khí phách như Thầy Chu văn An,
- dũng cảm như Tướng Trần Bình Trọng,
- thông minh như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Quê Nghệ An của tôi có một nhà trí thức tên là Tạ Quang Bửu nổi tiếng giỏi đủ các bộ môn khoa học, văn chương, ngoại ngữ, triết học. Bộ trưởng Thanh Niên – Luật sư Phan Anh – trong Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ định Giáo sư Tạ Quang Bửu làm Hiệu trường Thanh Niên Tiền Tuyến, một trường Quân sự đầu tiên của Việt Nam, gồm những tinh anh của nước nhà. Nhưng không ngờ Giáo sư Tạ Quang Bửu là người có tư tưởng cộng sản, nên hầu hết “rường cột nước nhà” đều trở thành công cụ cho Hồ Chí Minh thực hiện ý đồ diệt chủng dân tộc Việt Nam. Giáo sư Tạ Quang Bửu làm Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, dưới quyền Võ Nguyên Giáp, là người ký Hiệp Định Geneve chia đôi đất nước. Mặc dầu chứng kiến Hồ Chí Minh ngược đãi, đàn áp trí thức như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo … trong vụ Nhân văn Giai Phẩm, tại sao một người nổi tiếng thông minh về nhiều bộ môn như Tạ Quang Bửu không thấy đất nước sẽ bị thụt lùi trong ngu dốt? Nếu đánh đuổi Thực dân Pháp thành công, thử hỏi chế độ cộng sản chủ trương ngu dân, làm sao có thể mang lại một nền văn minh, một xã hội nhân ái, hài hòa bằng sự đô hộ của Thực dân? Bị bệnh tiểu đường, hai chân sưng húp, Tạ Quang Bửu vẫn cố gắng đứng cả ngày trong xưởng chế tạo vũ khí đánh cho “Mỹ cút, Ngụy nhào”, vậy chỉ có hai chữ “quỷ ám” mới giải thích nổi sự ngu si, đần độn của thầy Tạ Quang Bửu mà thôi. Giáo sư Tạ Quang Bửu phải thấy sau Hoa Kỳ dội hai quả bom nguyên tử để sớm chấm chiến tranh với Nhật. Nhưng sau đó Hoa Kỳ đã đưa nước Nhật đến chế độ Dân Chủ và thịnh vượng đứng vào hàng thứ hai trên thế giới. Vậy có phải Hoa Kỳ là Đế Quốc hay không? Vậy tôi nói rằng trí thức Việt Nam thông minh, càng có bằng cấp to, càng ngu là đúng hay sai?
Hình như chủ nghĩa cộng sản có bùa mê thuốc lú hay sao đó, nó mới có thể làm cho nhiều nhà trí thức thức thông minh cỡ Giáo sư Tạ Quang Bửu trở thành ngu si, đần độn, điên say phục vụ cho một chế độ biến con người thành súc vật. Gần một triệu người Miền Bắc phải rời bỏ nơi chôn dau cắt rốn để chạy trốn vào Miền Nam tìm tự do,- không thể làm trí thức mở mắt,
- không ngăn được sự phản bội của bọn Tướng lãnh, Tổng thống Ngô Đình Diệm và gia đình đành phải chết bởi chân tay bộ hạ mà thôi.
Sau cái chết của Tổng thống Diệm vào ngày 2 tháng 11 năm 1963, tình hình chính trị thêm bết bát. Tu sĩ Phật giáo trở thành bọn kiêu tăng. Các Tướng lãnh trong cái gọi là “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng” tổ chức đảo chánh, chỉnh lý liên tục. Ba Tàu Chợ Lớn thừa cơ khuynh đảo thị trường. Việt Cộng thừa dịp tiến dần về thành thị. Quân sĩ vốn sống thiếu thốn vật chất, nay tinh thần thêm sa sút, hoang man, thì sự mất nước chỉ còn là vấn đề thời gian. Tướng Nguyễn Khánh trở thành anh hề chính trị, lúc để chòm râu dê, lúc cạo nhẵn thín theo sự chỉ dạy của các thầy tướng số. Kéo các Tướng lãnh ra Vũng Tàu làm Hiến Chương, bị Việt Cộng kích động sinh viên biểu tình phản đối, Tướng Nguyễn Khánh nhảy lên chiến xa, tung quả đấm tay lên trời và miệng hô lớn “Đả đảo Nguyễn Khánh”. Mang danh là lãnh đất nước, lại vung tay hô đả đảo chính mình, thì đất nước còn ra cái quái gì nữa! Tại sao ông Khánh không nghĩ đến câu “Nhất Tướng công thành, vạn cốt khô” mà hành xử cho ra tư cách của người làm Tướng? Thật là một cảnh tượng đáng xấu hổ trước mắt thế giới, trước Đồng Minh Hoa Kỳ! Quý vị chiến hữu còn hãnh diện mình là Người Lính Việt Nam Cộng Hòa nữa không, khi phải chịu sự chỉ huy của thành phần Tướng lãnh bất xứng?
Chính phủ Dân Sự ra đời, dưới sự lãnh đạo của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát. Người dân hy vọng các Tướng lãnh trở về vị trí của mình, lo việc “Bảo Quốc, An Dân” để dân chúng an cư lạc nghiệp. Tôi nghĩ rằng chọn bác sĩ Phanh Huy Quát làm Thủ tướng là đúng, vì ông là một chính trị gia lương thiện, có đạo đức và có kinh nghiệm, vì lúc trẻ từng làm Bộ trưởng trong Chính phủ Trần Trọng Kim và sau đó lần lược làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao. Quốc trường Phan Khắc Sửu là một nhà hoạt động chính trị yêu nước, luôn luôn tranh đấu đòi hỏi Thực dân Pháp trả độc lập cho nhân dân Việt Nam, từng bị tù Côn Đảo. Ai cũng tưởng hai nhà lãnh đạo cùng họ Phan có kinh nghiệm chính trị, có lòng yêu nước sẽ ổn định tình hình sau khi các Chính phủ Quân nhân thay nhau sụp đổ. Không ngờ chỉ vì mối hiềm khích rất nhỏ, hai vị không thể hòa giải nhau, đưa đến sự từ chức của Thủ tướng Phan Huy Quát vào ngày 18 tháng 6 năm 1965 và trao trách nhiệm cho Quân Đội. Có phải vì bị oan hồn người Chàm hành, đã khiến cho hai nhà chính trị yêu nước không thể đoàn kết với nhau? Đâu phải tại vì hai vị lãnh đạo đều ngu!?
Đêm 18 tháng 6, Thủ tướng Phan Huy Quát mời các Tướng lãnh đến Dinh Thủ tướng để tường trình sự xung khắc với Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và tuyên bố quyết định giải tán Nội Các để giao lại cho Quân Đội. Lúc bấy giờ, Tướng Tư lệnh Không Quân Nguyễn Cao Kỳ lên tiếng đề nghị:- “Hai nhà lãnh đạo cố gắng hòa giải với nhau, anh em quân nhân chúng tôi chán ngán chính trị lắm rồi, chúng tôi chỉ chú tâm lo đánh giặc”.
- “Tại sao Cụ Phan Khắc Sửu và bác sĩ Phan Huy Quát đều là hai nhà trí thức yêu nước nhiệt tình, không thể vì sự sống còn của Tổ Quốc để cùng nhau điều khiển con thuyền đang chồng chềnh trong giông bão giữa biển khơi? Giông bão đây là Nhóm Phật giáo Ấn Quang – tay sai Việt Cộng – đang mưu toan dâng Miền Nam cho cộng sản ở Miền Bắc? Đâu phải hai ông không đủ trí tuệ để không thấy âm mưu của Việt Cộng dùng Phật giáo làm quân cờ?”
Ngày hôm sau, các Tướng lãnh họp nhau tại Câu Lạc Bộ Hải Quân ở Bến Bạch Đằng để chọn người lãnh đạo Quốc Gia. Trước hết, Tướng Kỳ đề nghị Trung tướng Nguyễn văn Thiệu làm Thủ tướng – một vị Tướng cao niên và đương kim Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc Phòng trong Nội các Phan Huy Quát, một đề nghị rất chính đáng, nên được các Tướng lãnh vỗ tay tán thưởng. Nhưng Tướng Thiệu không nhận. Tướng Kỳ vẫn kiên nhẫn thuyết phục thêm ba lần nữa, đến nỗi Tướng Thiệu cứng rắn phát biểu:- “Nếu anh em cứ ép buộc tôi làm Thủ tướng, tôi sẽ tuyên bố giải tán Đại Hội hôm nay”.
- “Moa (Tướng Thiệu) và anh Thi bàn tính nhau đưa toa (Tướng Kỳ) ra đảm nhiệm chức Thủ tướng. Khi xong buổi ăn trưa, vào họp tiếp, moa sẽ đề nghị toa giữ chức Thủ tướng, đừng từ chối nhé! Bọn moa sẽ yểm trợ toa hết mình”.
Vào họp lại, Trung tướng Nguyễn văn Thiệu – Chủ tọa phiên họp – dõng dạc tuyên bố:- “Chúng tôi đã bàn tính với nhau, chúng tôi đề cử Thiếu tướng Tư Lệnh Không Quân Nguyễn Cao Kỳ trách nhiệm thành lập Chính phủ”.
- “Là quân nhân, được Trung tướng đương kim Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Quốc phòng chỉ định thi hành phận sự, tôi xin tuân lệnh. Nhưng tôi có một yêu cầu, các Tướng vỗ tay ủng hộ tôi, thì các vị phải nghiêm chỉnh thi hành mệnh lệnh của tôi giao phó”.
Tôi thuật đoạn này để độc giả nhận thấy Tướng Kỳ làm Thủ tướng là do Tướng Thiệu và Tướng Thi có cấp bậc cao hơn trốn tránh trách nhiệm, đùn đẩy cho Tướng Kỳ, chứ chẳng phải vì lợi ích Quốc gia.- Trung tướng Thiệu giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia,
- Thiếu tướng Kỳ giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương
- và Trung tướng Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tổng Thư ký.
Trước hết tôi xin đưa lên đây bài tường thuật của bà Fallaci, một ký giả tả khuynh, phỏng vấn Tướng Kỳ để độc giả biết nhà báo ngoại quốc đánh giá Tướng Kỳ là người thế nào:
Và sau đây là mẩu chuyện do Đại tá Dương Thiệu Hùng kể cho tôi về cuộc họp đơn vị trưởng dưới sự chủ tọa của Tư lệnh Không Quân Nguyễn Xuân Vinh, Về sau, Đại tá Trần Đỗ Cung viết Hồi ký cũng thuật lại cuộc họp đơn vị trưởng này, nhưng với luận điệu chế giễu:- “Trong cuộc họp đơn vị trưởng, Trung tá Nguyễn Cao Kỳ – Chỉ huy trưởng Liên Phi Đoàn Vận tải – rút khẩu súng lục đeo bên người và nói:
- “Tôi không đồng ý chính phủ đưa chính trị vào Quân Đội. Vì làm như thế, cấp Chỉ Huy Quân Đội sẽ chỉ là kẻ bất tài và khéo nịnh. Còn người có tài, nhưng không muốn lệ thuộc vào đảng, sẽ bị loại.”
- “chiều nay có trận đá banh giữa Áo quốc với Hội tuyển Việt Nam, tôi đề nghị ngưng buổi họp hôm nay, rồi ngày hôm sau chúng ta sẽ tiếp tục họp”.
Mọi người thư thái ra về. Tư Lệnh Nguyễn Xuân Vinh gọi điện thoại trách ông Kỳ:- “Tại sao toa không nói riêng quan điểm của toa với moa, mà lại đem ra giữa buổi họp để làm cho moa khó xử?”.
- “Tôi muốn nói cho các đơn vị trưởng hiểu rằng đem chính trị vào Quân đội thì sẽ gây bè cánh, mất đoàn kết giữa anh em. Tôi nói riêng với Đại tá thì giải quyết được gì?”.
- “Kỳ là con người bộc trực và lãng mạn, nhưng yêu nước. Tôi sẽ gặp riêng Kỳ và giải thích cho anh ta hiểu tại sao Quân Đội cần chính trị hóa trong hoàn cảnh đánh nhau với cộng sản”.
Tôi nghĩ rằng có lẽ ông Cố vấn Ngô Đình Nhu noi gương Tổng Thống Tưởng Giới Thạch sau khi rời lục địa, chạy ra đảo Đài Loan thì đem chủ nghĩa Tam Dân của Quốc Dân Đảng áp dụng vào tổ chức Quân Đội, giống như phía đảng Cộng sản có chính trị viên. Ông Kỳ may mắn phục vụ chế độ dân chủ dưới sự lãnh đạo của anh em ông Diệm. Nếu ở Miền Bắc, ông Kỳ bày tỏ sự bất đồng với chính sách của chế độ, ông Kỳ sẽ bị triệt tiêu ngay. Kết tội chế độ Ngô Đình Diệm độc tài là một sự vu khống trắng trợn, đáng khinh bỉ.
Dưới đây, tôi xin kể ra một số việc làm mà các sử gia có thể biết mà không viết ra, nhưng có một số anh em Không Quân chúng tôi biết:
- 1/ Chế độ Ngô Đình Diệm đã bị thanh toán, nhưng các nhà sư Phật giáo vẫn tiếp tục tranh đấu. Các Tướng lãnh, các chính trị gia có vẻ sợ thế lực Phật giáo Ấn Quang. Nhưng ông Kỳ không sợ. Vì ông Kỳ bị Quân Đội đẩy ra làm Thủ Tướng. Tuy là “Buddha Child” (Con Phật) nhưng ông không mắc nợ Phật Giáo, nhất là Phật Giáo Ấn Quang. Với tư cách Thủ Tướng, ông Kỳ cho người đi mời các nhà sư “tranh đấu” vào tư dinh trong Tân Sơn Nhất để nghe quyết định của ông. Đợi các tu sĩ yên vị xong, ông nói:
- “Về chính trị, tôi không bằng cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhưng về sự can đảm, tôi hơn Tổng thống Diệm. Tôi sẽ ra tay giết quý vị trước khi quý vị có thể giết tôi như giết ông Diệm”.
- “Chúng ta đều là con Phật. Tôi đề nghị Thiếu tướng đừng nặng lời, sinh ra khẩu nghiệp không tốt”.
- “Tôi mới thực sự là con Phật. Các vị chỉ là đầy tớ của Phật”.
- “Quý vị đừng hòng giết được tôi. Nếu quý vị không chịu trở về Chùa tu tập, cứ tiếp tục gây rối loạn, tôi sẽ trừng trị thẳng tay. Tôi nói thật, chứ không phải đe dọa đâu!”.
Quả nhiên, mấy ông sư cũng sợ ông Tướng Cao Bồi làm ẩu. Kể từ cuộc họp hôm đó, Sài Gòn không còn có cuộc biểu tình xuống đường của Phật giáo Ấn Quang như trước.
2/ Ông Âu Trường Thanh, Ủy viên Kinh tế, vào căn cứ Tân Sơn Nhất báo cáo mấy xì thẩu Ba Tàu trong Chợ Lớn đầu cơ tích trữ gạo, khiến giá gạo tăng lên vùn vụt. Tướng Kỳ cho người gọi mấy xì thẩu Ba Tàu vào tư dinh trong Tân Sơn Nhất trình diện. Các xì thẩu Ba Tàu tỏ ra coi thường ông Tướng trẻ. Họ ăn mặc nhếch nhác, chân mang giép lẹt xẹt. Tướng Kỳ bắt họ ngồi trong phòng đợi chừng một giờ đồng hồ, không mở máy lạnh, các xì thẩu người nào người nấy toát mồ hôi vì cái nóng của Sài Gòn giống như lò lửa. Khi Tướng Kỳ bước vào phòng, các xì thẩu Ba Tàu vẫn ngồi nguyên, không thèm đứng dậy. Ông Kỳ nghiêm sắc mặt, đảo mắt nhìn quanh một vòng, rồi ra lệnh sĩ quan tùy viên mang vào giấy bút và cái hộp. Ông bảo các xì thẩu ghi tên lên giấy, xếp làm bốn và bỏ vào hộp. Xong xuôi, ông cho tay vào hộp lấy ra một tờ giấy thứ nhất xướng danh từ người, đến tờ giấy cuối cùng. Người sĩ quan tùy viên ghi tên từng người một, thành danh sách, ông tuyên bố:- “ Sau cuộc trình diện của quý vị với tôi hôm nay, tôi ra lệnh các ông phải mở kho gạo ra bán cho dân chúng theo giá trước kia. Nếu người nào không tuân lệnh, tôi sẽ đưa ra pháp trường cát lãnh án tử hình. Tôi không đùa với các ông.
Người ta cho rằng lối giải quyết vấn để của ông Kỳ là kiểu “cao bồi”. Nhưng đừng quên nước Việt Nam đang có chiến tranh với cộng sản chỉ có Tướng Kỳ mới dám sử dụng. Nhưng thời buổi chiến tranh, nếu không sử dụng theo kiểu đó, thì làm sao điều khiển được đất nước có bọn gian thương coi thường pháp luật?
3/ Giám đốc ngành xuất nhập cảng Tạ Vinh bị kết tội đầu cơ tích trữ, thao túng thị trường. Tòa Án Quân sự tuyên bố tử hình. Hội Tam Hoàng của Ba Tàu trong Chợ Lớn dùng tiền mua chuộc ông Thủ tướng trẻ không xong. Vợ Tạ Vinh nhờ Lý Long Thân đưa vào Tân Sơn Nhất, bỏ ra 250 triệu tiền Việt Nam để xin tha tội cho chồng. Tướng Kỳ bảo:- “Bà hãy mang tiền về để nuôi con, dạy dỗ chúng nó làm ăn lương thiện”.
Mời quý bạn đọc mở cái Video Clip sau đây ra xem(Dù cái Clip do Việt Cộng thực hiện, nhưng rất đúng với những gì đã xảy ra).
4/ Đại tá Nguyễn Chánh Thi là con cưng của Tổng thống Ngô Đình Diệm, được trao chức Tư lệnh Chiến đoàn Nhảy Dù, một đơn vị thuộc hạng thiện chiến nhất Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1960, ông Thi theo Trần Đình Lan, Vương văn Đông làm cuộc đảo chánh, lật đổ ông Diệm. Cuộc đảo chánh thất bại, ông Thi được Đại úy Phan Phụng Tiên lái máy bay sang Kampuchia tị nạn. Ông Thi không có khả năng tìm kế sinh nhai, sống nhờ vào tiền của phi công phản loạn Nguyễn văn Cử đi dạy Pháp văn. Về sau, có một cô gái tới phục dịch ông vì thương một người già neo đơn tội nghiệp! Sau đó, cô gái có lòng từ tâm giúp đỡ người già, giới thiệu một ông cậu tên Sáu (giả) đến làm bầu bạn với ông, để ông dỡ buồn chán. Sau cuộc đảo chánh 1963, Đại tá Nguyễn Chánh Thi hồi hương, mang theo ông Sáu về làm quản gia. Một người phản chế độ, về nước được thăng cấp Thiếu tướng.
Trong Đại Hội ngày 19 tháng 6 năm 1965, Hội đồng Quân nhân Cách Mạng chọn người làm Thủ tướng. Thiếu Tướng Kỳ đề cử Tướng Thi, nhưng ông nhất định không chấp nhận. Tới khi thấy Tướng Kỳ làm Thủ tướng một cách dễ dàng, Tướng Thi bèn trải lòng tham vọng với thuộc cấp:- “thằng Kỳ làm Thủ Tướng được, thì tau cũng làm Thủ Tướng được và tau sẽ làm hay hơn nó”.
Trong chuyến kinh lý Vùng I Chiến Thuật, Tướng Kỳ nhận thấy Tướng Thi tỏ thái độ coi thường Tướng Kỳ, khi Tướng Thi cử một nhân viên cấp thấp báo cáo tình hình chính trị và quân sự tại địa phương thay vì Tướng Thi phải đích thân đứng ra thuyết trình với Thủ tướng. Khi lên máy bay trở về Sài Gòn, Tướng Kỳ nhìn qua cửa sổ máy bay, thấy Tướng Thi đưa tay lên cao “high five” với một sĩ quan khác, một cử chỉ chứng tỏ với thuộc cấp “ tau chẳng coi lão Kỳ ra gì. Tướng Kỳ dùng điện thoại trên phi cơ gọi cho Tướng Nguyễn Hữu Có – đương kim Ủy viên (Bộ trưởng Quốc Phòng – làm lệnh cách chức Tư Lệnh của Tướng Nguyễn Chánh Thi. Lập tức, Trí Quang tập hợp sư sãi biểu tình phản đối sự độc tài của Nguyễn Cao Kỳ và yêu cầu Nguyễn Cao Kỳ phải phục hồi chức vị Tư Lệnh cho Tướng Nguyễn Chánh Thi. Thế là cuộc Biến Động Miền Trung nổ ra. Luận điệu của Trí Quang tuyên truyền trong dân chúng là: Chính quyền Quân nhân của Thiệu Kỳ là bất hợp pháp, vì không do dân bầu để coi cuộc đấu tranh của Phật giáo là vì lý tưởng Dân Chủ – Tự Do . Đó là luận điệu mị dân, rất được quần chúng và một số quân nhân tin theo. Làm sao có thể bầu cử khi đang đánh nhau với quân xâm lược và bọn Việt Cộng đội lốt Phật giáo làm nội tuyến?
Tướng Kỳ cử Tướng Nguyễn văn Chuân – người Huế – ra Huế dẹp loạn, nhưng thất bại.
Tướng Kỳ cử Tướng Huỳnh văn Cao – người Huế – ra Huế dẹp loạn, rồi cũng thất bại. Tướng Cao viện cớ mình là người có đạo Công Giáo, nếu thẳng tay thì mang tiếng với Phật Giáo!
Tướng Kỳ cử Tướng Tôn thất Đính – cũng người Huế – thì Tướng Đính láu cá, nhảy sang phe Phật giáo Ấn Quang (để đồng hành với dân tộc?) nhằm chống là Chính Quyền Trung Ương.
Cuối cùng Tướng Kỳ phải cùng Tướng Nguyễn Ngọc Loan – Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia– đích thân ra Huế dẹp loạn. Trong cuốn sách Biến Động Miền Trung, tác giả Liên Thành vì lý do “tế nhị”, chỉ đề cao vai trò của Tướng Loan, mà không nhắc đến vai trò chỉ huy cuộc dẹp loạn là Tướng Kỳ. Tất cả những trở ngại không thể giải quyết, Tướng Loan đều xin chỉ thị của Tướng Kỳ.
Chẳng hạn, vị trụ trì Chùa Phổ Đà yêu cầu đạo hữu “tử thủ”, nhất định không thi hành lệnh của Quân Đội phải giải tán cuộc tập họp bất hợp pháp. Tướng Loan phải gọi điện cho Tướng Kỳ để giải quyết thế nào. Tướng Kỳ bảo Tướng Loan cúp điện, cúp nước thì với cái khí hậu khắc nghiệt của Đà Nẵng vào mùa Hè mà không có điện nước thì không ai có thể chịu đựng cái nóng và sự mất vệ sinh do không nước. Ngoài ra, Tướng Kỳ còn ra lệnh cho Đại tá Dương Thiệu Hùng – Tư lệnh Không Đoàn 41 – đưa phi tuần Khu trục bốn chiếc Skyraider bay thấp trên mái Chùa để uy hiếp tinh thần. Không bao lâu sau, các đạo hữu tự động giải tán. Tướng Kỳ đã có quyết định sáng suốt, nên sự đổ máu đã không xảy ra.
Tướng Lewis William Walt – Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đóng ở căn cứ Chu Lai – cho phi cơ Phantom F-4C lên uy hiếp phi cơ Không Quân Việt Nam. Tướng Kỳ dùng tần số “Guard” của phương tiện vô yêu cầu phi cơ Hoa Kỳ phải trở về căn cứ, nếu bất tuân lệnh, pháo binh Việt Nam sẽ biến Chu Lai thành bình địa. Thế là phi cơ Hoa Kỳ trở về đáp, vì sợ Tướng Kỳ là người dám nói, dám làm, thì không có phi trường để đáp.
Sau khi cuộc biến loạn chấm dứt, Tướng Tư lệnh TQLC Lewis Walt vào căn cứ Không Quân Đà Nẵng xin gặp Tướng Kỳ. Tướng Walt bước vào phòng làm việc của Đại tá Dương Thiệu Hùng (nơi Tướng Kỳ tạm dùng đại bản doanh), đứng nghiêm chào đúng với lễ nghi quân cách. Tướng Kỳ không nhìn lên, vẫn cúi mặt đọc báo cáo tình hình. Chừng 10 phút sau ông mới ngẩng mặt lên và hỏi Tướng Walt vào gặp ông có chuyện gì. Tướng Walt lễ phép thưa:- – Tôi vào gặp ông Thủ tướng để hỏi tại sao ông đưa quân đến vùng trách nhiệm của tôi, mà không cho tôi hay biết?
Tướng Kỳ hỏi:- – Ông Tướng đã phục vụ bao nhiêu năm trong Quân Đội? Trung tướng có hiểu hệ thống quân giai là gì không? Tôi đang là người lãnh đạo đất nước này. Tôi có phải xin phép Trung tướng để điều hành đất nước này không? Trung tướng có biết rằng chỉ cần một cú điện thoại của tôi gọi Tổng thống Lyndon B. Johnson, thì Trung tướng phải rời chức vụ trong vòng 24 tiếng đồng hồ không?
Trung tướng Walt nghe xong câu hỏi của Tướng Kỳ, vội vàng đưa tay lên chào kính và “đàng sau” quay!
Sau năm 1975, biết Tướng Kỳ định cư tại California, Tướng Walt đến nhà Tướng Kỳ thăm viếng và thổ lộ:- “Tôi rất biết ơn Ngài Phó Tổng thống, vì Ngài đã dạy cho tôi một bài học về lãnh đạo và chỉ huy. Chúng tôi rất tiếc là Chính phủ Hoa Kỳ đã bỏ rơi một dân tộc dũng cảm, anh hùng”.
Đại tá Dương Thiệu Hùng – Tư Lệnh Không Đoàn 41 ở Đà Nẵng – hiện diện trong cuộc gặp gỡ giữa Tướng Walt và Tướng Kỳ, đã vô cùng hãnh diện cấp chỉ huy của mình, đã làm cho ông Tướng Mỹ cảm phục dân tộc Việt Nam.
Tôi thuật lại mẩu chuyện này để bạn đọc biết một nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ mới 36 tuổi, người nhỏ thó, đối diện với một ông Tướng Thủy Quân Lục Chiến cao hơn 6 feet, nhưng không hề có một chút mặc cảm về thân hình nhỏ bé của mình. Với giọng nói uy nghiêm, dõng dạc và thông minh của Tướng Kỳ với ông Tướng Mỹ, tôi tin rằng không một nhà lãnh đạo chính trị nào, một vị Tướng nào của Việt Nam Cộng Hòa có thể làm cho Trung tướng Walt bày tỏ niềm cảm phục để nhìn nhận mình đã học được một bài học về lãnh đạo, chỉ huy. Đại tá Dương Thiệu Hùng – Tư Lệnh Không Đoàn 41 ở Đà Nẵng cũng như Đại tá Lưu Kim Cương, hiện diện trong phòng họp Hành Quân của Không Đoàn 41, không ngớt bày tỏ sự ngưỡng mộ cung cách ứng xử của Tướng Kỳ đối với Đồng Minh.
Tôi tin rằng, chẳng phải riêng tôi, mà bất cứ quân nhân nào khác, đều muốn mình được phục vụ dưới quyền của một vị chỉ huy thông minh, có bản lĩnh và không có mặc cảm đối với Đồng Minh. Một số anh em Không Quân chưa được dịp tiếp xúc với Tướng Kỳ, khi đọc báo chí của đối phương gièm pha, thì cũng về hùa với dư luận. Tướng Nguyễn Cao Kỳ là vị Tư Lệnh Không Quân duy nhất dám gọi điện thoại cho Trung tướng Đỗ Cao Trí – Tư Lệnh Vùng II Chiến Thuật – để yêu cầu thả Đại Úy Trương Dzù ra khỏi quân lao ngay lập tức. Sở dĩ, Đại Úy Trương thường được anh em Không Quận gọi ông bằng ngoại danh “Trương Dzù”, vì ông nguyên là sĩ quan Nhảy Dzù được chuyển sang Không Quân.
Xin nói một chút về điểm này. Từ khi Tướng Kỳ làm Tư Lệnh KQ, thì mới được các ông Tướng Bộ Binh bên Tổng Tham Mưu nể trọng. Sự thật này chỉ có những Không Quân thâm niên cỡ tuổi tôi trở lên, thì mới biết mà thôi. Mời quý vị độc giả kiên nhẫn theo dõi những bài kế tiếp của tôi để biết về một giai đoạn lịch sử đã qua, mà không một nhà viết sử nào đề cập tới.
Bằng Phong Đặng văn Âu, ngày 25 tháng 6 năm 2022.
10200n Bolsa Avenue, Westminster, California 92683.
Email Address: [email protected]
Telephone: 714 – 276 - 5600
https://khongquanc130.blogspot.com/2022 ... chive.html
Re: Không còn là mối nguy cơ.
-
Không còn là mối nguy cơ.
Bài Thứ Năm
______________________
Bằng Phong Đặng văn Âu
Lời mở đầu :
Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.
________________________________________________________________
Năm 1948, Tổng thống Harry Truman yêu cầu những Quốc gia Đồng minh phải chuẩn bị chấm dứt chế độ thuộc địa để Quốc Tế Cộng Sản không thể có lý do hô hào giải phóng các dân tộc bị trị. Để thực hiện yêu cầu của Tổng thống Harry Truman, nước Anh lo đào tạo những nhà Hành chính (Administrator) bản địa có khả năng điều hành việc nước để trao trả độc lập. Nhà tranh đấu bất bạo động giành độc lập cho Ấn Độ – Mahatma Gandhi – thành công là nhờ Thực Dân Anh đã có chủ trương thực tâm trao trả độc lập. Sự cai trị của Thực Dân Anh khôn ngoan, nên không có thuộc địa nào của Anh bị rơi vào tay cộng sản.
Nếu Thực Dân Pháp cũng có cách cai trị khôn ngoan như Anh Quốc, đối xử với nhà cách mạng Phan Chu Trinh như Anh Quốc đối xử với Mahatma Gandhi, thì nhà cách mạng Phan Chu Trinh cũng sẽ được nhân dân Việt Nam phong Thánh. Bởi vì Cụ Phan Chu Trinh cũng chủ trương tranh đấu bất bạo động và chấp nhận độc lập trong Khối Liên Pháp. Nhưng Thực Dân Pháp tham lam, nhất định bám lấy thuộc địa, bỏ tù chung thân Cụ Phan Chu Trinh và thẳng tay đàn áp đẫm máu phong trào chống sưu cao thuế nặng. Đó là nguyên nhân vì sao Hồ Chí Minh mới có thể lôi cuốn những thanh niên trí thức yêu nước tham gia Việt Minh, mà không biết đấy là một tổ chức cộng sản trá hình. Ngoài ra, Mặt Trận Bình Dân của Pháp có xu hướng xã hội chủ nghĩa do Léon Blum cầm đầu là cơ hội bằng vàng cho Hồ Chí Minh phát triển tổ chức đảng. Trong khi đó lãnh tụ Đại Việt, lãnh tụ Quốc Dân Đảng vừa bị Thực dân Pháp đàn áp vừa bị Hồ Chí Minh thủ tiêu.
Cùng một lúc, nước Pháp phải đối phó mặt trận Bắc Phi gồm những quốc gia như Maroc, Tunisie, Algérie và mặt trận Đông Dương gồm ba nước Việt Miên Lào. Dần dần nước Pháp bị kiệt quệ. Sau trận Điện Biên Phủ, nước ta bị chia đôi, Hoa Kỳ nhảy vào, dùng Miền Nam làm cái nút chặn, ngăn cản sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tới các quốc gia vùng Đông Nam Á. Hoa Kỳ tưởng rằng dân tộc Việt Nam giống như dân tộc Nhật, Hoa Kỳ có thể biến một Quốc gia Quân chủ thành một Quốc gia Dân chủ. Nhưng Hoa Kỳ đã lầm, vì Việt Nam là quốc gia bị đô hộ lâu dài (80 năm), bị chính sách chia để trị của Thực dân, những cán bộ Hành Chính và Quân Sự đều do Thực dân đào tạo, thì không thể giúp cho bất cứ nhà lãnh đạo Việt Nam nào muốn xây dựng chế độ dân chủ! Tôi xin nói rõ điều này để độc giả đừng hiểu lầm.
Đông đảo thanh niên trí thức Việt Nam yêu nước vì khát khao độc lập mà tham gia Việt Minh. Tới khi Việt Minh ló mòi cộng sản, thì thanh niên yêu nước không thể rút chân ra được, đành làm tay sai cho bọn Hồ Chí Minh phục vụ Quốc tế Cộng sản. Còn những quân nhân, công chức làm việc cho Pháp đều mang mặc cảm làm tay sai cho Thực Dân, thì khó lòng giương cao ngọn cờ độc lập. Do sự oái oăm của lịch sử, hai phía đều làm tay sai mà vô tình cứ ngỡ mình đang chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp! Nỗi bất hạnh của dân mình là ở chỗ đó!
Hồ Chí Minh được các cơ quan Tình Báo như KGB của Nga, Stasi của Đông Đức, Hoa Nam của Trung Cộng đào tạo để thực hiện cuộc cách mạng (!) cướp chính quyền . Trong khi đó, những nhà ái quốc như Nguyễn Thái Học, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ do lòng yêu nước mà đi làm cách mạng, chứ không được ai huấn luyện kỹ thuật đấu tranh cách mạng, mà lại vừa bị Thực Dân đàn áp, vừa bị một kẻ thù cực kỳ hung ác, gian manh là Việt Cộng thủ tiêu.
Do yêu cầu của vua Bảo Đại, ông Ngô Đình Diệm về nước với hai bàn tay trắng. Quyền hành vẫn còn nằm trong tay Thực dân Pháp. Tới tháng 7 năm 1955 ông Diệm mới lấy lại được chủ quyền. Cán bộ hành chính và quân sự có tiền sử làm việc cho Thực Dân Pháp với nếp sống và tác phong “tối sâm-banh, sáng sữa bò” thì làm sao có thể làm cách mạng để xây dựng một chế độ dân chủ?
Mời quý độc giả xem cái “Clip":để biết tất cả Tướng Lãnh VNCH đều từ Quân Đội Quốc Gia do Pháp thành lập. Họ chưa hề chỉ huy trận đánh nào, mà được Tổng thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm vào chức vụ như Tư Lệnh Quân Khu, Tư Lệnh Sư Đoàn, vì nhu cầu thời thế, là vượt quá khả năng của họ. Thủ tướng Ngô Đình Diệm đành phải dùng những ông Tây con như Tướng Trần văn Đôn, hoặc những nhân vật chẳng phải là Tây Con, nhưng chẳng có ý thức Quốc – Cộng để hết lòng chiến đấu.
Những thương gia ở Huế như nhà thầu khoán Nguyễn đắc Phương, nhà buôn Nguyễn văn Yến không phải là Việt Cộng, nhưng đều bị Việt Cộng ép buộc làm kinh tài cho chúng, khiến cho Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung của ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn không bắt, không được! Việt Cộng phao tin đồn Mật Vụ của Cậu Cẩn giết người để đoạt của! Quần chúng không biết rõ sự việc, lại bị Việt Cộng tuyên truyền “Cậu Cẩn” là hung thần Miền Trung, thì cứ thế mà tin theo! Từ đó, Cậu Cẩn bị gán cho cái danh hiệu: “Hung Thần Miền Trung” là do Việt Cộng tuyên truyền.
Hoa Kỳ đã phạm một sai lầm rất lớn khi yêu cầu Tổng thống Ngô Đình Diệm xây dựng chế độ Dân Chủ.- Muốn kiến tạo thành công một chế độ dân chủ để chống lại chủ nghĩa cộng sản,
- trước hết Chính quyền phải thiết lập một chế độ Cảnh Sát, Công An trị gồm có những cán bộ tình báo, phản gián rất lành nghề và tuyệt đối trung thành với Lý tưởng Quốc gia để tiêu diệt bọn gián điệp cộng sản chui vào bộ máy Chính Quyền và dạy cho dân hiểu cộng sản là con rắn độc, không thể chung sống với chúng.
Những con cưng của Tổng thống Diệm phản bội là vì họ không có ý thức Quốc Gia và không hiểu nếu cộng sản thắng thì họ sẽ chết. Cũng vậy, những trí thức như- Lê Khắc Quyến, Dương Quỳnh Hoa, Chu Phạm Ngọc Sơn, Ngô Bá Thành, Trương Như Tảng, Châu Tâm Luân, Lê Hiếu Đằng …
Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị giật sập, Miền Nam xảy ra nạn Kiêu Binh, Kiêu Tăng tưởng chừng như vô phương chấm dứt. Tướng Nguyễn Cao Kỳ bị đẩy ra làm Thủ Tướng do Tướng Nguyễn văn Thiệu và Tướng Nguyễn Chánh Thi mưu mô bàn tính nhau. Ai nấy đều cho rằng Tướng Kỳ quá trẻ, một tay ăn chơi, không có kinh nghiệm chính trị, thì chỉ “ba bảy hăm mốt ngày” là sụp đổ. Nhưng ngược lại, tình thế dần dần ổn định: Phật giáo Ấn Quang không dám lùa đạo hữu xuống đường và không một ông Tướng nào còn dám âm mưu đảo chánh. Chỉ bằng một thái độ cương quyết, quả cảm, không sợ chết, Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã dẹp bọn Kiêu Tăng, bọn Tướng lãnh tạo phản một cách êm thấm. Và bọn gian thương Ba Tàu ở Chợ Lớn cũng không dám sử dụng môn võ “đầu cơ tích trữ” bóp nghẹt bao tử của dân nghèo.
Theo nhận định của nhà báo thân Cộng Fallaci:- “Nguyễn Cao Kỳ đáng... là lãnh tụ của một vùng đất thiếu lãnh tụ một cách đau đớn”. Qúy vị sẽ nhận thấy điều đó khi ngỡ ngàng lắng nghe ông ta khoảng hơn 10 phút. Tướng Kỳ không phải là một anh chàng ngố, ông ta có điều muốn nói, và ông nói huỵch toẹt mà không sợ vạ miệng.”
Độc giả hãy bỏ ra ngoài tinh thần phe phái, hãy lấy lương tâm vô tư, trong sáng để xét xem một chàng phi công Việt Nam nổi tiếng ăn chơi, có phải là một thứ vô tài, bất tướng, ăn hại đái nát? Dẹp cơn Biến Động Miền Trung mà trước đó ba vị Tướng Lục Quân đã thất bại, Tướng Kỳ đã tái lập trật tự một cách êm thấm không đổ máu, chẳng là một kỳ công hay sao? Theo tôi, Tướng Kỳ đã sai lầm vì đã không đưa những sĩ quan chống Chính quyền Trung ương ra Tòa Án Mặt Trận để giữ sự nghiêm minh của phép nước!
Giả thiết rằng Tướng Kỳ cũng thất bại trong vụ dẹp loạn như ba ông Tướng Nguyễn văn Chuân, Huỳnh văn Cao, Tôn Thất Đính và Phong Trào Nhân Dân Cứu Quốc của bác sĩ Lê Khắc Quyến đạt được mục đích dâng Miền Trung cho Việt Cộng, liệu Trường Đại Học Y Khoa Huế có tồn tại để đào tạo những bác sĩ danh giá và giàu sang như ngày nay?
Trí Quang thất bại trong cuộc bạo loạn Miền Trung, Phong trào Nhân Dân Cứu Quốc của Bác sĩ Lê Khắc Quyến cũng tàn lụi.
Trí Quang bị Tướng Loan dẫn độ về Saigon. Lo ngại Tướng Kỳ đối xử mạnh tay với Trí Quang, Đại sứ Henry Cabot Lodge dặn dò Tướng Kỳ:- “Xin ông Tướng đừng sử dụng biện pháp mạnh để Trí Quang có cớ mà phát động bạo loạn thêm nữa”.
- “Xin ông Đại sứ đừng lo! Tôi đã có cách”.
- – Ngày mai ông Trí Quang đến tuyệt thực tại công viên Alexandre de Rhode gần nhà thương của anh. Tôi giao cho anh trách nhiệm buổi tối mang Trí Quang vào nằm phòng lạnh, lo tẩm bổ sâm nhung cho Thầy béo tốt, da dẻ hồng hào. Nếu anh không làm được việc đó, tôi đóng cửa bệnh viện của anh.
Bác sĩ Nguyễn Duy Tài vâng dạ, rồi ra về, nghĩ cách làm sao cho Trí Quang lên cân, béo tốt. Sau hơn 40 ngày tuyệt thực, tình trạng sức khỏe của Trí Quang không một chút suy giảm. Trái lại, da dẻ của ông hồng hào, làn môi bớt thâm hơn trước. Lúc bấy giờ quần chúng Phật tử biết rằng vị Thầy khả kính của mình bày trò tuyệt thực là bịp. Ngồi kiết già tuyệt thực chán chê hơn 40 ngày, thấy chẳng có tác dụng với quần chúng, Thầy lặng lẽ cuốn chiếu, trở về Chùa để nhận lãnh mệnh lệnh mới của Trung Ương Cục Miền Nam.
Ông Đại sứ Cabot Lodge đích thân vào tư dinh Tướng Kỳ ở Tân Sơn Nhất để bày tỏ sự cảm phục cách hành xử khôn ngoan của Tướng Kỳ làm cho Trí Quang mất uy tín với đồng đạo. Ai dám bảo Tướng Kỳ là kẻ vũ biền it học, không có mưu trí? (Ở đây tôi xin nhấn mạnh một điều: Kể từ khi sự kiện ngoạn mục của Tướng Kỳ đối với Trí Quang, Đại sứ Mỹ như Henry Cabot Lodge, Ellsworth Bunker thường xuyên đến tư dinh Tướng Kỳ để tham khảo ý kiến).
Vũ văn Mẫu là người có bằng cấp to, nhưng là một nhà chính trị bất lương, cơ hội (opportunist), được Tổng thống Ngô Đình Diệm trong vọng, lại ngu dốt chạy đi làm đầy tớ cho Trí Quang, bày trò xuống tóc để ủng hộ cuộc đấu tranh vì Đạo Pháp của Trí Quang. Loại trí thức như Vũ văn Mẫu rất đáng khinh vì không đủ trí tuệ để nhìn thấy Trí Quang là một tên tay sai đắc lực của Việt Cộng. Các Tướng lãnh, các Chính khách thời bấy giờ đều tỏ ra nể sợ Trí Quang thì cũng là loại hèn và ngu dốt. Chỉ có Tướng Kỳ mới có thể làm cho Trí Quang bẽ mặt, nên tự ý chấm dứt cái trò Xuống Đường đấu tranh vì Đạo Pháp!
Vào giai đoạn cực kỳ khó khăn của đất nước, Tướng Thiệu và Tướng Thi không dám nhận lời đề nghị của Tướng Kỳ để làm Thủ tướng, vì sợ thất bại. Trong khi đó Tướng Kỳ, một quân nhân trẻ tuổi, không có kinh nghiệm chính trị, chỉ có lòng yêu nước và lòng quả cảm, dám nói dám làm, đã khiến cho các nhà sư trong Khối Phật giáo Ấn Quang chấm dứt cuộc tranh đấu bạo loạn; nạn các Tướng đảo chánh, chỉnh lý cũng ngưng, gian thương Ba Tàu Chợ Lớn cũng không còn dám khuynh đảo thị trường, giới lao động và quân nhân lạc quan tin tưởng nhờ những biện pháp hữu sản hóa dân nghèo. Đặc biệt, triệt hạ cuộc Biến Động Miền Trung trong hòa bình là thành tích đáng ghi nhớ nhất. Đó là những sự kiện thực sự đã xảy ra. Người viết không bịa chuyện để tâng bốc ông Kỳ như một số độc giả lầm tưởng. Tuy không phải là nhà sử học, nhưng tôi đang viết những vấn đề liên quan đến lịch sử, dựa trên sự kiện mà tôi có may mắn biết đến.
Tướng Kỳ ý thức rằng việc Chống Cộng là nhiệm vụ của các Quốc gia Tự Do, chứ không riêng gì Hoa Kỳ hay Việt Nam. Vì thế, khi nhận lãnh chức vụ Thủ tướng, tuy ông Kỳ vẫn lưu giữ Cụ Trần văn Đỗ làm Bộ trưởng Ngoai giao trong Chính phủ Phan Huy Quát, nhưng phần lớn công tác vận động Ngoại giao đều do Tướng Kỳ đích thân đảm nhiệm bằng những chuyến công du các nước.
Tướng Kỳ công du Đài Loan, Thống Chế Tưởng Giới Thạch sau khi đàm đạo với Tướng Kỳ, vị Thống Chế già rất tâm đắc, tặng thanh bảo kiếm khắc bốn chữ “Uy Dũng Tướng Quân” tượng trưng cho quyền lực lãnh đạo Quốc Gia với hy vọng Tướng Kỳ sẽ là người kế thừa sự nghiệp Chống Cộng của mình. Thủ tướng Tunku Abdul Rahman Mã Lai đề nghị Quốc vương Mã Lai phong cho Tướng Kỳ chức TUN, giống chức Bá Tước của nước Pháp. Trong cuộc họp của Khối Liên Phòng Đông Nam Á (ASEAN giống NATO của Âu Châu) tại Phi Luật Tân, , các nguyên thủ Quốc gia đều mặc quốc phục truyền thống của nước chủ nhà. Riêng Tổng thống Đại Hàn Phác Chính Hy và Tướng Kỳ vẫn mặc y phục của nước mình. Tổng thống Phác Chính Hy tỏ ra tâm đắc, nói: “You are Number One!”. Tướng Kỳ vội chữa: “No! General Thiệu is Number One”. Tổng thống Phác Chính Hy vẫn khăng khăng lặp lại: “No! No! You are Number One!” Tức là Tổng thống Phác vẫn đánh giá Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ mới thực sự là người Số 1 lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa.
Năm 1966, Thủ tướng Harold Holt gửi thư mời Tướng Kỳ sang thăm viếng nước Úc. Tòa Đại sứ Mỹ ở Saigon khuyên Tướng Kỳ không nên đi, vì Phong trào Chống Chiến Tranh ở Úc rất mạnh. Nhưng Tướng Kỳ vẫn đi để chứng tỏ mình là người có bản lĩnh, dám đương đầu với thử thách. Thủ tướng Holt ra đón Tướng Kỳ tại sân bay Melbourne. Lãnh tụ đối lập Arthur Caldwell, chừng 60 tuổi, là một người chống chiến tranh Việt Nam dữ dội nhất. Ông ta đã huy động 100 ngàn dân Úc biểu tình chống Nguyễn Cao Kỳ bằng những khẩu hiệu “Child Killer”, “Fascist” “War Monger” dọc bên đường từ phi trường đến địa điểm họp báo. Thủ tướng Holt ngồi chung xe với Tướng Kỳ. Tướng Kỳ yêu cầu tài xế dừng xe lại, bước xuống xe và đi thẳng tới đoàn người biểu tình. Nhân viên bảo vệ an ninh bị một phen lên ruột, vì lo sợ tính mạng của vị khách đặc biệt của nước mình. Tướng Kỳ giải thích với người chống đối rằng nước Việt Nam đang bị xâm lăng bởi cộng sản. Ông là lãnh tụ của Quốc gia bị xâm lăng, thì phải chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc và Tự Do. Quý vị có thấy cuộc chiến đấu của chúng tôi là chính đáng không? Xin những người Úc bạn với dân tộc Việt Nam hãy yêu cầu cộng sản Miền Bắc buông súng, ngưng cuộc xâm lăng, hòa bình lập tức được tái lập ngay. Chỉ bày tỏ một cách giản dị như vậy, người Úc hiểu ngay và đoàn biểu tình không còn la hét nữa. Thủ tướng Holt khen Tướng Kỳ là một người rất can đảm và thông minh, đã hóa giải cuộc biểu tình bằng mấy câu nói ngắn ngủi.
Tới địa điểm họp báo với 500 phóng viên chờ sẵn, tướng Kỳ ung dung bước vào phòng hội với dáng vẻ rất tự tin. Một nhà báo hỏi:- “Ông Thủ tướng nghĩ thế nào về những lời kết tội “Child Killer”, “War Monger”, “Fascist” của Dân biểu Caldwell?
- “Như các bạn biết, tôi là người Á Châu được dạy câu ‘Kính Lão Đắc Thọ’, nên tôi coi Cụ Caldwell giống như Người Ông của mình. Ông ta có nói gì về tôi, tôi vẫn kính trọng ông ấy”.
Một nhà báo cộng sản nói rằng Tướng Kỳ chỉ là Thủ tướng của Saigon, vì các tỉnh của Miền Nam đã được Miền Bắc giải phóng. Tướng Kỳ ngỏ lời mời người ký giả theo chuyến bay của ông về Saigon để biết sự thật. Chính Quyền sẽ dành cho ký giả quyền đi bất cứ nơi nào trên mảnh đất Miền Nam mà ký giả muốn. Sau chuyến đi Việt Nam, thăm viếng các nơi một cách thong thả, người ký giả cộng sản trở về Úc và tuyên bố bỏ đảng, vì đảng cộng sản Úc nói láo!
Viên chức làm công tác truyền thông của nền Đệ Nhất lẫn Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa rất bết, vì không cung cấp đầy đủ thông tin cho quần chúng biết thành quả của Tổng thống Ngô Đình Diệm, cũng như của Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ. Vì thế, Việt Cộng mới có thể lợi dụng để tuyên truyền. Tôi tin rằng những quân nhân từng chiến đấu dũng cảm dưới cờ cũng không biết hề biết những sự kiện mà tôi nêu trên.
Mời độc giả kiên nhẫn đọc những bài viết tiếp theo để tôi chứng minh nước Việt Nam đã mất vào tay Việt Cộng và nòi giống Việt Nam rồi cũng không còn.
Bằng Phong Đặng văn Âu, ngày 30 tháng 6 năm 2022.
Địa chỉ nhà: 10200 Bolsa Avenue, Westminster, CA.92683.
Địa chỉ Email: [email protected]
Điện thoại: 714 – 276 – 5600.
https://khongquanc130.blogspot.com/2022 ... chive.html
Re: Không còn là mối nguy cơ.
-
Không còn là mối nguy cơ.
Bài Thứ Sáu
______________________
Bằng Phong Đặng văn Âu
Lời mở đầu :
Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.
________________________________________________________________
Hôm nay, tôi xin viết tiếp bài thứ sáu của chủ đề “KHÔNG CÒN LÀ MỐI NGUY CƠ”.
Như tôi đã thưa: Việt Nam mắc phải căn bệnh rất trầm kha. Không thể ra sau vườn hái một mớ lá, rồi mang vào nhà xông là khỏi bệnh. Cần phải mổ xẻ để định bệnh thì mới chính xác. Mà mổ xẻ, tất nhiên gây đau đớn! Viết để lý giải bằng sự kiện với mục đích tìm hiểu vì sao nước ta ra nông nỗi này, chứ tôi không hề đả kích cá nhân, đảng phái hay tôn giáo nào.
Tuy tôi không có cơ duyên làm người thân cận của Tướng Kỳ, khi ông đang cầm quyền. Nhưng tôi có cơ duyên quen biết với những nhân vật làm việc trực tiếp với ông khi ông làm Thủ tướng, như:- Đại sứ Bùi Diễm, Giáo sư Nguyễn Ngọc Linh, Đại tá Quân Y Nguyễn Tấn Hồng làm Bộ trưởng Thanh Niên trong Nội Các Nguyễn Cao Kỳ, Trung tá KQ Vũ Đức Vinh, (Tổng Cục trưởng Tổng Cục Truyền Thanh), Trung tá KQ Nguyễn Khoa Dánh, Luật sư Đinh Trịnh Chính (Đại Việt), Cố vấn Chính trị Như Phong Lê văn Tiến và nhiều người nữa,
Sau khi gây nên cuộc Biến Động Miền Trung thất bại và mất uy tín vì Tướng Kỳ đã cho đồng bào thấy sự kiện tuyệt thực hơn bốn mươi ngày mà vẫn béo tốt, da dẻ hồng hào, Trí Quang không còn tiếp tục đấu tranh kiểu lùa Phật tử xuống đường nữa. Trí Quang đổi chiến lược, đòi hỏi Đại sứ Cabot Lodge buộc Tướng Kỳ tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để viết Hiến Pháp nhằm trao quyền lại cho dân sự. Tướng Kỳ nói với Đại sứ Cabot Lodge rằng đây là một trò hề của Trí Quang có mục đích giải tán Nội Các Chiến tranh và cài người của của Trí Quang vào Quốc Hội. Cabot Lodge nói rằng ông ta cũng hiểu âm mưu đó của Trí Quang, nhưng Miền Nam cần có Hiến Pháp của một Quốc gia Dân Chủ để sự viện trợ của Chính phủ Hoa Kỳ cho Việt Nam mới được quần chúng Hoa Kỳ ủng hộ. Cabot Lodge hay bất cứ ông Đại sứ nào của Hoa Kỳ đều có bổn phận bắt buộc Miền Nam phải có nền dân chủ (dù là dân chủ hình thức) thì mới có chính nghĩa để chống lại độc tài cộng sản. Đòi hỏi Miền Nam phải có dân chủ là nguyên nhân cái chết của Miền Nam.
Thực sự, Trí Quang chẳng có mưu mô hay tài cán gì. Tất cả sách lược, chiến lược hành động của Trí Quang đều do Bộ Chính trị Cộng sản đứng đàn sau chỉ đạo. Biết âm mưu của Trí Quang, nhưng Tướng Kỳ vẫn tổ chức bầu cử để chiều theo yêu cầu của Đại sứ Cabot Lodge. Cuộc bầu cử Quốc hội Lập Hiến đã diễn ra ngày 11 tháng 9 năm 1966.
Tôi có thể nói mà không sợ sai lầm rằng tại Việt Nam. Phật giáo chiếm đa số, nhưng không có người Phật tử trí thức đích thực, vì họ không áp dụng lời dạy “BI – TRÍ – DŨNG” của Đức Phật. Sau khi vu khống cho chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo và đã hoàn thành cuộc lật đổ, Trí Quang vẫn tiếp tục xách động đệ tử biểu tình để lật đổ các chính quyền kế nhiệm thì ai ai cũng thấy Trí Quang có mưu đồ tiếp tay với quân xâm lược Việt Cộng. Thế mà không một trí thức Phật giáo nào nghiêm khắc lên tiếng để ngăn cản hành vi phản đạo Phật, phản Quốc Gia của Trí Quang. Biết đường lối tranh đấu của Trí Quang là phản Đạo Phật, phản Quốc Gia mà không dám lên tiếng, thì rõ ràng người trí thức Phật giáo hèn, đã đánh mất chữ DŨNG của Nhà Phật.
Tôi cũng có thể nói mà không sợ sai lầm rằng tại Việt Nam có đông khoa bảng, nhưng hiếm có KẺ SĨ, tức là trí thức. Ngoại trưởng Vũ văn Mẫu cạo trọc đầu, a dua theo hầu Trí Quang là thái độ của một chính khách cơ hội. Cái việc Trí Quang liên tục xách động quần chúng biểu tình, gây xáo trộn tại hậu phương là có mục đích làm nản lòng chiến sĩ ngoài mặt trận. Thế mà Vũ văn Mẫu vẫn được đi dạy ở Trường Luật, thì làm sao có thể đào tạo thanh niên biết nghĩa vụ công dân trong thời chiến? Thứ chính trị gia hoạt đầu như Vũ văn Mẫu có xứng đáng làm thụ ủy Liên danh Hoa Sen đại diện Phật giáo để được bầu làm Thượng Nghị sĩ Việt Nam Cộng Hòa? Tướng Kỳ rất chính xác, khi đánh giá Trí Quang đòi hỏi Chính phủ phải tổ chức bầu Quốc Hội là một trò hề. Tướng Trần văn Đôn, người Sài Gòn, ra tranh cử Dân biểu tại Quảng Ngãi thì ông có đại diện cho dân Quảng Ngãi không? Đinh văn Đệ – một cán bộ cộng sản nằm vùng – là người đại diện cho Mặt trận Giải phóng Miền Nam hay cho nhân dân Việt Nam Cộng Hòa ư?
Bộ Giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa nhượng bộ sự đòi hỏi của các Giáo sư khuynh tả muốn Tự Trị Đại học giống như Đại Học ở các nước dân chủ Tây phương là có ý đồ thể hiện âm mưu của Việt cộng, vì Việt Cộng xâm lăng Miền Nam không phải chỉ thuần trên mặt trận Quân Sự, mà còn cả mặt trận Giáo Dục, Văn Hóa và Tôn Giáo. Vì Tự Trị Đại Học, nên Đại Học Huế mới có thể là hang ổ của Việt Cộng. Giáo sư Lý Chánh Trung có tư tưởng cộng sản, mà vẫn được dạy môn Đạo Đức Học ở Đại học Văn khoa, thì làm sao sinh viên không bị ảnh hưởng tư tưởng cộng sản?
Giáo sư dạy triết Nguyễn văn Trung viết:- “Người trí thức không phải là người có kiến thức Đại học hoặc sau Đại học, mà là người có kiến thức chuyên sâu nhờ đọc sách và kinh nghiệm tiếp xúc. Thực ra, điều cốt yếu đáng nói không phải là vốn kiến thức, mà là thái độ trí thức đối với các vốn ấy và, nhất là, đối với những vấn đề cuộc sống trước mặt đặt ra”.
Năm sau 1967, Nội Các Chiến tranh tổ chức bầu cử Tổng thống, Thượng Viện và Hạ Viện. Trung tướng Nguyễn văn Thiệu – Chủ tịch Ủy Ban Lãnh đạo Quốc gia – và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ – Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung ương – đều nạp đơn tranh cử Tổng thống. Lo sợ hai ứng cử viên gốc quân nhân cùng ra tranh cử Tổng thống thì e rằng khó thắng ứng cử viên dân sự, Hội Đồng Quân Lực họp để lấy quyết định sẽ ủng hộ một ứng cử viên Quân Đội mà thôi. Hoặc Tướng Thiệu, hoặc Tướng Kỳ. Đa số Tướng lãnh ủng hộ Tướng Kỳ, vì họ thấy thành tích của Tướng Kỳ trong hai năm cầm quyền. Suốt thời gian ở vai trò Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Tướng Thiệu chỉ âm thầm đi lập đảng Dân Chủ và để mặc cho Tướng Kỳ tả xung hữu đột, nên Tướng lãnh không “mặn mà” với Tướng Thiệu. Biết Quân Đội không ủng hộ mình, Tướng Thiệu tuyên bố với báo chí một câu bất hủ:- “Làm chính trị là phải lì, dù chỉ đạt được một lá phiếu của vợ tôi, tôi vẫn ra tranh cử”.
Vì mục đích danh chánh ngôn thuận, Hội Đồng Quân Lực họp để lấy quyết định chọn ông Tướng nào đại diện Quân Đội. Tướng Nguyễn Cao Kỳ cùng ông Nguyễn văn Lộc thuộc đạo Cao Đài đứng phó, thành một Liên danh. Tướng Nguyễn văn Thiệu chọn ông Trình Quốc Khánh thuộc Phật giáo Hòa Hảo đứng phó thành một liên danh. Trong khi Hội Đồng Quân Lực họp, Tướng Thiệu và Tướng Kỳ ngồi ở phòng ngoài để chờ nghe kết quả. Dường như đã biết trước cuộc họp của Hội đồng Quân Lực chỉ có tính hình thức, nên khi Đại tướng Cao văn Viên mở cửa ra đón hai vị vào nghe Quyết Định, Tướng Thiệu bỗng nhiên đổ gục xuống và đôi mắt đỏ hoe khóc. Tướng Kỳ cảm thấy xót xa trước sự mong muốn được làm Tổng thống quá độ của Tướng Thiệu. Vì thế, khi vừa bước chân vào Hội trường, Tướng Kỳ tuyên bố:- – Vì tình đoàn kết Quân Đội, tôi nhường Tướng Thiệu ra tranh cử, còn tôi trở về với anh em Không Quân. Sau 8 năm hết nhiệm kỳ làm Tổng thống của Tướng Thiệu, tôi cũng hãy còn trẻ để tranh cử Tổng thống, đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo Quốc Gia.
Thiếu tướng Trần văn Minh – Quyền Tư lệnh Không Quân – đứng lên nói:- – Xin tất cả anh em trong phòng họp cho một tràng pháo tay để hoan hô tinh thần đoàn kết của Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Sau tràng pháo tay vừa dứt, Trung tướng Hoàng Xuân Lãm – Tư lệnh Vùng I Chiến thuật – bước lên bục và phát biểu:- – Nếu anh Kỳ đã thương Quân Đội, nhường chức Tổng thống cho anh Thiệu, thì hãy thương cho trót. Tôi đề nghị anh Kỳ đứng phó cho anh Thiệu, thì mới mong thắng Luật sư Trương Đình Du. Nếu anh Kỳ không đồng ý, tôi xin trả cặp lon Trung tướng này cho Quân Đội và trở về đi dạy học. (Trung tướng Hoàng Xuân Lãm có gốc làm thầy giáo).
Một lần nữa, cả Hội trường đồng loạt vỗ tay, như thể áp lực Tướng Kỳ làm theo lời yêu cầu của Tướng Hoàng Xuân Lãm. Tướng Kỳ đành làm theo ý muốn của các Tướng lãnh.
Để đáp lại thiện chí của Tướng Kỳ, Tướng Thiệu cam kết trao chức Thủ tướng Chính phủ cho ông Nguyễn văn Lộc, người đứng phó của Liên danh Nguyễn Cao Kỳ. Nhưng Trung tướng Nguyễn Đức Thắng chưa đủ tin vào thiện chí của Tướng Thiệu, nên ông yêu cầu Đại Hội đồng thành lập cơ chế Quân Ủy Trung Ương gồm các Tư lệnh Quân Đoàn, Tư lệnh các Quân Binh Chủng làm thành viên và Tướng Nguyễn Cao Kỳ sẽ là Chủ tịch Quân Ủy. Trung tướng Thiệu cũng tình nguyện làm thành viên và đặt bút ký. Cơ chế Quân Ủy sẽ hoạt động giống như Bộ Chính trị Cộng sản, Tổng thống và Thủ tướng phải tuân hành theo Nghị Quyết của Quân Ủy về vấn đề Ngoại giao và Quốc phòng. Chỉ bằng mấy giọt nước mắt và đổ gục người xuống, giống như Lưu Bị đánh rơi ly rượu trước mặt Tào Tháo, Tướng Thiệu đạt được chức Tổng thống, quyền hành trùm thiên hạ!
Thái độ Trung tướng Nguyễn văn Thiệu hoan hỉ tình nguyện làm một thành viên trong Quân Ủy và chấp nhận thi hành chủ trương, đường lối của Quân Ủy làm cho toàn thể Tướng lãnh quá đỗi vui mừng. Chưa bao giờ tình Chiến Hữu tỏ ra thấm thiết đến mức đó. Hội nghị kết thúc trong tinh thần đoàn kết hân hoan. Ai nấy đều hy vọng Quân Đội sẽ làm nên lịch sử!
Tướng Kỳ trở về Phòng Hành Quân Chiến Cuộc (War Room) của Bộ Tư lệnh Không Quân. Đại tá Lưu Kim Cương được tin Tướng Kỳ nhường cho Trung tướng Nguyễn văn Thiệu đại diện Quân Đội ra tranh cử Tổng thống, ông tức tối đập đầu vào tường đến sưng cả trán. (Anh Nguyễn Quốc Phiên, cựu phi công của Biệt Đoàn 83, hiện còn sống tại Thành phố Westminster, Quận Cam, là người chứng kiến sự kiện này).
Nửa giờ sau, William Colby – Trưởng cơ sở tình báo CIA ở Saigon – vào Tân Sơn Nhất, xin gặp Tướng Kỳ. Ông Colby nói:- – Tôi được lệnh của Tòa Bạch Ốc, Bộ Ngoại giao và Pentagon phải yểm trợ phương tiện Tướng Nguyễn Cao Kỳ tối đa để thắng cuộc tranh cử Tổng thống. Nay nghe tin Thiếu tướng Kỳ rút lui, nhường cho Tướng Nguyễn văn Thiệu, tôi phải vào đây để đề nghị Tướng Kỳ rút lại quyết định đáng tiếc ấy.
Tướng Kỳ bình thản đáp:- – Chúng tôi người Việt Nam, theo truyền thống Văn hóa Phương Đông, tôn trọng lời cam kết. Tôi không thể thay đổi quyết định giống như đứa con nít.
– Nhưng thưa Thiếu tướng. Đây là vấn đề trọng đại của Quốc gia của Ngài, chứ không phải là chuyện trẻ con. Xin Thiếu tướng hãy nhớ điều đó!
Có lẽ vì tự ái dân tộc, Tướng Kỳ đã coi câu nói của ông William Colby là một sự xúc phạm, nên ông gay gắt hỏi:- – Ông Giám đốc Tình Báo hãy cho tôi biết, người Mỹ lãnh đạo đất nước Việt Nam hay người Việt Nam lãnh đạo Việt Nam? Chúng tôi – người Việt Nam – có quyền tự quyết định vận mệnh đất nước chúng tôi không?
Sau câu hỏi của Tướng Kỳ, ông William Colby nhún vai, nói một câu ngắn ngủi “It’ s up to you, General!” và quay gót ra khỏi Phòng Hành Quân Chiến Cuộc mà không một lời từ biệt.
(Ghi chú của người viết: "Tổng thống Ngô Đình Diệm và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đều mắc phải căn bệnh "Tự Ái Dân Tộc", trong khi nước mình Chống Cộng với hai bàn tay trắng, nên hỏng việc lớn. Có thể do nỗi oan cừu?)
Kết quả cuộc bầu cử Tổng thống, Liên danh Thiệu – Kỳ đắc cử 38% và Liên Danh Trương Đình Du về hạng nhì, nhờ được Phật giáo Ấn Quang và Mặt Trận Giải phóng Miền Nam ủng hộ, vì chủ trương hòa bình bằng mọi giá với Hà Nội. Đấy là nhờ có Tướng Nguyễn Cao Kỳ – đương kim Thủ tướng – đứng chung Liên danh với Tướng Thiệu thì mới đắc cử 38%. Nếu không có ông Kỳ đứng phó, chưa chắc Tướng Thiệu đã trở thành Tổng thống. Ngoài phố, mấy ông chính trị gia “salon” ngồi ở Givral hoặc Brodard bàn tán nhảm nhí “Kỳ phải nhường chức Tổng thống cho Thiệu là vì Đại sứ Ellsworth Bunker không ưa Nguyễn Cao Kỳ” là hoàn toàn thất thiệt.
Chẳng bao lâu sau, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu hủy bỏ lời cam kết, thay Thủ tướng Nguyễn văn Lộc bằng Trung tướng Trần Thiện Khiêm. Đồng thời Tổng thống Nguyễn văn Thiệu lấy tư cách Tổng Tư lệnh Quân Đội giải tán Quân Ủy Trung Ương. Trung tướng Nguyễn Đức Thắng tức giận, vào tận Dinh Độc Lập yêu cầu Tướng Thiệu đến Tổng Tham mưu để giải thích với các thành viên Quân Ủy, tại sao ông không giữ lời cam kết? Tướng Thiệu lắc đầu và nói rằng tôi đến Tổng Tham Mưu để bị các anh bắt à? Tướng Thắng đùng đùng nổi giận, xắn tay áo như thể định đánh nhau với Tướng Thiệu:- – Anh là Trung tướng, tôi cũng là Trung tướng. Chẳng qua, Nguyễn Cao Kỳ nhường cái chức Tổng thống cho anh và được các Tướng lãnh chấp thuận. Nếu không, giờ này chỉ là viên Tướng hồi hưu giống như Dương văn Minh, Trần văn Đôn, Tôn Thất Đính mà thôi!
Tôi hy vọng Tướng Nguyễn Đức Thắng còn sống và còn minh mẫn để có thể xác minh những gì ông đã to tiếng với Tổng thống Nguyễn văn Thiệu.
Đó là sự kiện đã xảy ra vào thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Sự thiếu sót của Nội Các Nguyễn Cao Kỳ là không thành lập ban lịch sử để ghi lịch trình công tác hàng ngày giống như các Tổng thống Hoa Kỳ. Đáng lý ra công tác này, Trung tá Không Quân Vũ Đức Vinh – Tổng Cục trưởng Cục Truyền Thanh – phải đề cử người đảm nhiệm, thì hôm nay tôi không cần phải làm công việc này.
Anh Đỗ Văn, cựu bỉnh bút của đài BBC, trong dịp ngồi ăn phở với Tướng Kỳ, đã hỏi Tướng Kỳ:- “Tại sao anh nhường chức Tổng thống cho Thiệu?”.
- “Thấy Thiệu say mê cái chức Tổng thống quá sức, tôi thương tâm, nhường cho lũy. Còn tôi, tôi coi cái chức Tổng thống không hơn bát phở”.
- ông có nhận thấy ông có lỗi với đồng bào Miền Nam không?
Tại sao ông trao quyền lãnh đạo đất nước cho một người từng có quá khứ phản bội?
Đại tá Nguyễn văn Thiệu phải được Tổng thống Ngô Đình Diệm tín nhiệm lắm thì mới trao chức Tư lệnh Sư đoàn V Bộ binh đóng gần Thủ Đô cho ông, để cứu giá trong trường hợp có Binh biến. Nhưng cái ngày gọi là Cách Mạng 1 Tháng 11 năm 1963, Đại tá Nguyễn văn Thiệu kéo quân về Sài Gòn, nhưng ngả theo phe phản loạn đảo chính! Tướng Thiệu đã phản Tổng thống Diệm. Ông Thiệu đã tuyên thệ vào đảng Đại Việt, rồi bỏ đảng và đi lập đảng Dân Chủ là một người phản đảng. Thiếu tướng có biết mình đã trao quyền lực Quốc Gia cho một người có máu phản không?
- – Trong bao năm nay, tôi sống trong sự ân hận, hối tiếc, vì đã nhầm người để trao trách nhiệm lãnh đạo Quốc dân. Tôi không tiếc vì mất chức Tổng thống, tôi hối tiếc vì mình có lỗi với anh em Quân Đội và đồng bào mình. Có lẽ giờ phút đó, tôi bị ma đưa lối quỷ đưa đường?”.
Từng ở cạnh ông, từng bàn bạc việc nước với ông, tôi tin rằng Tướng Kỳ nói những lời thú tội ấy là thành thật. Trong lịch sử dưới đời Nhà Trần, các vua Cha khi về già thì trao chức cho con và lên làm Thái Thượng Hoàng. Tôi chưa từng thấy đời vua nào trong lịch sử Việt Nam có vị Hoàng Tử tự ý nhường ngôi cho anh em.
Xin hẹn độc giả bài viết tới.
Bằng Phong Đặng văn Âu.
10200 Bolsa Avenue, Westminster, CA. 92683
Email Address: [email protected]
Telephone: 714 – 276 – 5600
https://khongquanc130.blogspot.com/2022 ... chive.html
Re: Không còn là mối nguy cơ.
-
Không còn là mối nguy cơ.
Bài Thứ Bảy
______________________
Bằng Phong Đặng văn Âu
Lời mở đầu :
Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.
________________________________________________________________
Hôm nay, ngày 20 tháng 7 năm 2022, tưởng nhớ 68 năm chia đôi đất nước, tôi viết tiếp bài “Không Còn Là Mối Nguy Cơ” để mai sau những nhà nhân chủng học đỡ mất công đi tìm nguyên do nào mà nòi giống Việt Nam bị diệt chủng. Mỗi khi viết xong bài nào, tôi đều gửi đến những nhà trí thức mà tôi có địa chỉ Email và đến các Diễn Đàn để được nhận những phản biện của các bậc thức giả.
Nước Nhật về diện tích lớn hơn nước Việt ta không bao nhiêu và về dân số người Nhật không đông bằng dân ta. Trong nhật ký của một nhà hàng hải Phương Tây (quên tên) viết vào cuốn sổ hành trình:- “Phải đến tận nước Nhật, mới tìm thấy một dân tộc thông minh như dân tộc Việt Nam”.
- “Một người Việt Nam thông minh hơn một người Nhật. Nhưng ba người Việt Nam ngồi với nhau, thì không bằng một người Nhật”.
Hoa Kỳ đã chiến thắng Đệ Nhất và Đệ Nhị Thế Chiến. Hoa Kỳ đã giúp nước Đức thống nhất trong hòa bình. Hoa Kỳ đã giúp Nam Triều Tiên chiến thắng cuộc xâm lăng của Mao Trạch Đông. Tại sao Hoa Kỳ không thể giúp một nền văn minh chiến thắng một chế độ man rợ, để cho cái bọn man rợ đó biến người dân Việt thành súc vật? Tôi tin rằng bất cứ ai quan tâm đến sự tồn vong của nòi giống đều thắc mắc, trăn trở bởi những câu hỏi nêu trên. Về phần tôi, sau khi chiêm nghiệm trong nhiều năm, thì dựa vào lời dạy “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” của tổ tiên để lý giải cho bài toán Việt Nam.
Một người bạn thân khuyên:- “Bạn đang được nhiều độc giả ái mộ. Tôi khuyên bạn đừng đề cập đến Nguyễn cao Kỳ để cho bọn chúng nó có cớ bôi nhọ bạn”.
- “Tôi không phải là nhà văn viết theo thị hiếu quần chúng hoặc viết theo đơn đặt hàng để câu độc giả. Tôi rất biết nếu viết về Nguyễn Cao Kỳ thì sẽ bị bọn chúng nó bôi bẩn. Nhưng tôi bất chấp, vì tôi cần đưa ra “hiện tượng Nguyễn Cao Kỳ” thì mới chứng minh được cái nhìn của tôi: “Nước Việt Nam đã mất vào tay bọn tay sai Trung Cộng và rồi đây nòi giống Việt Nam cũng sẽ không còn”.
Dù đồng ý hay không đồng ý với quan điểm chính trị của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhưng ai đã trải qua thời đại chiến tranh Quốc – Cộng, đều nhận thấy câu hát “Gia tài của Mẹ để lại cho con một bọn lai căng, một lũ bội tình” phản ảnh đúng với thực tế.
Năm 1930, Hồ Chí Minh lập Đảng Cộng Sản Đông Dương, dựa vào triết thuyết của Marx-Lenin với chủ trương “Vô Gia đình – Vô Tổ quốc – Vô Tôn giáo”. Được bác sĩ Lê Đình Thám thuyết phục tham gia vào đảng Cộng Sản, Bố tôi đặt câu hỏi:- “Tại sao anh khuyên tôi tham gia vào đảng cộng sản – một cái đảng đòi hủy diệt tình yêu Gia đình, tình yêu Tổ quốc và tình yêu Tôn giáo – để chống Pháp giành độc lập? Dù Pháp đô hộ chúng ta, nhưng ít nhất chúng ta hãy còn Gia đình và Tôn giáo. Nếu cộng sản thành công đuổi Thực dân Pháp về nước, mình chẳng còn thứ gì để làm nền tảng, thì cuộc sống sẽ ra sao?”
Các lãnh tụ của Đại Việt, của Quốc Dân Đảng đều có suy nghĩ giống như Bố tôi, nên họ đã triệt để chống lại Chủ nghĩa Cộng sản. Và lãnh tụ của họ đã bị Hồ Chí Minh thủ tiêu.
Thực dân Pháp đặt đảng Cộng Sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật. Các nhà trí thức Việt Nam bị Hồ Chí Minh đứng trong bóng tối “chỉ đạo”, lập ra cái gọi là Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Marx. Thử hỏi, cái chủ nghĩa chủ trương “Vô sản chuyên chính” để bần cùng hóa nhân dân thì có đáng gì để mất công nghiên cứu? Tại sao các nhà trí thức mê say triết thuyết này, triết thuyết nọ, mà không nhớ đến lời dạy của tiền nhân: “Bần cùng thì sinh đạo tặc”? Có phải vì cái căn bệnh vọng ngoại (lai căng) nên tầng lớp trí thức không chịu noi theo những lời dạy quý báu của tiền nhân? Cái ngu của trí thức Việt Nam chính là tinh thần vọng ngoại!
Càng suy nghĩ về Đất Nước, tôi càng thấy rõ ràng dân tộc mình vì bị quỷ ám thì Tổ Quốc mới lâm vào hoàn cảnh không lối thoát. Vì vậy, tôi vẫn tin những oan hồn đã nguyền rủa dân Việt Nam như sau:- “Ta (dân Chàm) sẽ làm cho cả dân tộc Việt Nam chúng bay trở nên ngu si, đần độn, tàn bạo, điêu ngoa, gian ác, tôn thờ ĐẠO QUỶ SỨ, khiến cho anh em dòng họ chúng bay đấu tố nhau, chém giết nhau, phản bội nhau, chia rẽ nhau, đố kỵ nhau, người yêu nước bị chà đạp, đứa gian manh được tôn vinh cho đến khi nào nòi giống chúng bay bị tận diệt như chúng tao thì mới thôi!”
Sau khi Việt Nam bị các thế lực Quốc tế cắt làm đôi vào năm 1954, đảng Đại Việt cử bác sĩ Đặng văn Sung sang Pháp để mời Cựu Hoàng Bảo Đại về lãnh đạo Miền Nam, chống lại chủ nghĩa vô thần cộng sản.- Dù bác sĩ Đặng văn Sung đã dùng đủ lý lẽ để thuyết phục Ngài, tại sao Cựu Hoàng nhất mực từ chối? Chẳng lẽ Ngài không quan tâm bảo vệ Kinh thành Huế, đang còn nằm trên phần đất tự do, mà các Tiên Đế đã dựng lên?
- Tại sao Ngài không tự đảm nhiệm công cuộc cứu nước, mà lại giao cho ông Ngô Đình Diệm, mặc dầu ông Diệm do dự không nhận lời? Trong khi đó có nhiều nhân vật chính trị khác rất muốn được làm Thủ tướng, thì Ngài không trao?
Ông Ngô Đình Diệm về nước với hai bàn tay trắng. Không có cán bộ để thi hành đường lối, chính sách của mình. Ông Diệm đành sử dụng cái “gia sản” do Thực Dân Pháp để lại. Dưới sự cai trị của Thực dân, Quân đội Quốc Gia do Thực dân Pháp đào tạo. Vị chỉ huy Quân đội đó là Tướng Nguyễn văn Hinh, con trai Thủ tướng Nguyễn văn Tâm. Tuy là Việt Nam, nhưng ông Hinh có quốc tịch Pháp. Ông Diệm yêu cầu Tướng Nguyễn văn Hinh vẫn giữ chức Tổng Tham Mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia. Nhưng Tướng Nguyễn văn Hinh đã tạt vào mặt ông Diệm một thau nước lạnh:- “Tôi không biết ông là ai”!
- “Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc”
Về phía Hành chánh, đứng đầu là các quan Đốc Phủ Sứ cũng do Thực dân Pháp đào tạo, quen lối sống “tối sâm-banh” (champagne), sáng sữa bò” thì không thể nào làm cuộc cách mạng chống lại bọn cầm quyền Hà Nội đầy mưu mô và đầy thủ đoạn … bán nước.
- Ông Dương văn Minh không theo Tướng Hinh, chấp nhận phục vụ Chính phủ Ngô Đình Diệm. Đại tá Dương văn Minh thành công tiêu diệt Bình Xuyên trong chiến dịch Hoàng Diệu, được Thủ tướng Diệm phong Tướng, nhưng Dương văn Minh tịch thu tiền của địch mà không giao nộp cho Ngân khố Quốc gia, nên bị Thủ tướng Diệm mất sự tin cậy. Kể từ đó Tướng Dương văn Minh căm thù Thủ tướng Ngô Đình Diệm, mặc dầu ông Minh không hề bị kỷ luật, vẫn được ở trong ngôi biệt thự có tên là Dinh Hoa Lan, đi đánh Tennis ở Câu Lạc Bộ Lido của Quân đội thoải mái.
Chiến thuật của cộng sản gồm có:- Trường kỳ mai phục,
mười năm trồng cây trăm năm trồng người,
dùng củi đậu để nấu đậu
và vắt chanh bỏ vỏ.
- Trường kỳ mai phục là kiên trì rình rập, chờ cho đối phương sơ hở để thực hiện thủ đoạn diệt đối phương.
- Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người tức là cấy sinh tử phù vào cơ thể đối phương để chờ ngày địch phát sinh bệnh. Nếu ai đã đọc cuốn “Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc” của Luật sư Phạm Khắc Hòe thì mới biết kỹ thuật cài người của Việt Cộng. Phạm Khắc Hòe là cán bộ cộng sản, làm Đổng Lý Ngự Tiền Văn Phòng cho vua Bảo Đại và cũng là người soạn bức thư thoái vị cho vua Bảo Đại vào ngày 22 tháng 8 năm 1945.
- Củi đậu nấu đậu hay cướp súng địch để giết địch là sử dụng Người Việt Quốc gia giết Người Quốc gia, mà chúng ta thường gọi là “ăn cơm Quốc gia, thờ ma cộng sản”.
Việt Cộng thừa lúc Dương văn Minh bất mãn chế độ Ngô Đình Diệm, chúng liền sai người em ruột của ông Minh – Đại tá Việt Cộng Dương văn Nhựt – tiếp cận để dụ Dương văn Minh làm phản.
Sau khi Miền Nam mất, chúng ta mới biết nhiều nhân vật giữ chức vụ quan trọng trong Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là cán bộ Việt Cộng nằm vùng. Mời quý bạn đọc đường link dưới đây để thấy cách thức Việt Cộng cấy sinh tử phù vào Dương văn Minh nhằm làm cuộc đảo chánh vào năm 1963:
Trước kia, tôi đã trình cuộc phỏng vấn của Cựu Bộ trưởng Lâm Lễ Trinh với Đại tá Nguyễn văn Y – Tổng Giám đốc Cảnh sát dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm – tiết lộ rằng Tổng thống Diệm ra lệnh Đại tá Y đốt hết hồ sơ của Cơ quan Phản gián báo cáo Dương văn Minh làm việc cho Việt Cộng. Chính Tổng thống Diệm còn đứng quan sát để biết chắc Đại tá Y đã đốt sạch tất cả các tài liệu, không chừa một tờ nào. Đại tá Y hỏi:- – Thưa Tổng thống, tại sao Tổng thống không ra lệnh bắt nhốt Dương văn Minh, mà lại sai tôi đốt tất cả hồ sơ của Dương văn Minh làm tay sai cho Việt Cộng?
– Tại vì tôi không muốn cho Người Mỹ biết Tướng lãnh của ta làm tay sai cho Việt Cộng, Tổng thống Ngô Đình Diệm trả lời.
Xin lỗi vong linh Tổng thống Ngô Đình Diệm. Con nghĩ rằng Tổng thống là một người Công Giáo tuyệt đối vâng theo lời Chúa dạy: “Các con hãy yêu thương kẻ thù”. Nhưng kẻ thù này là một loài quỷ cực kỳ hung ác, nên Ngài và anh em Ngài đã phải trả cái giá vì tuân theo lời dạy của Thiên Chúa. Con tự hỏi, phải chăng cái chết của anh em dòng họ Ngô Đình là để chịu tội thay cho nhân dân Việt Nam, vì tiền bối của chúng con đã phạm tội giết dân Chiêm Thành? Nếu quả đúng như thế, con tin rằng dù Ngài không được Vatican phong Thánh, nhưng Ngài đã hiển Thánh ở cõi trên. Đây là niềm hối hận của một thanh niên tuyên thệ vào đảng Đại Việt – một đảng có bề dày chống Cộng – mà không biết thủ lĩnh của mình lập Chiến khu Ba Lòng để chống Ngài!
Tôi tự hỏi tại sao Tổng thống Ngô Đình Diệm không kêu Dương văn Minh vào Dinh Độc lập để chỉ cho ông ta thấy Chính quyền có đầy đủ hồ sơ ông ta làm tay sai cộng sản? Để tỏ lượng khoan hồng, Ngài mới ra lệnh cho Đại tá Y đốt hồ sơ trước mặt ông Minh, liệu Dương văn Minh có dám cầm đầu cuộc đảo chánh, vì cơ mưu đã bị bại lộ?
Nếu Tổng thống Ngô Đình Diệm không phải là Công giáo, theo đạo Phật, Ngài vẫn bị bọn Việt Cộng nằm vùng trong Phật Giáo tìm cách giết Ngài. Bằng cớ là Hòa thượng Thích Tâm Châu – Chủ tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo vệ Phật Giáo – vì không chấp nhận đường lối đấu tranh của Trí Quang chống nền Cộng Hòa, nên đã bị Trí Quang sai đệ tử đặt trên đầu nằm của Ngài một dĩa máu, một con dao và một tờ giấy với lời hăm dọa giết. Chủ tâm của bọn Ấn Quang- muốn triệt hạ nền Cộng Hòa để mở đường cho Việt Cộng xâm lăng Miền Nam,
chứ không phải chỉ diệt gia đình Họ Ngô mà thôi.
- Trường kỳ mai phục,
-
Nhân vật nổi tiếng thứ hai đã nhúng tay vào việc giết chết nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa mà chỉ có tôi mới dám bạo gan đề cập đến. Đó là “đại văn hào” Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, một cây đa cây đề trong giới trí thức. Nhà văn Nguyễn Tường Tam nổi tiếng hơn ông Ngô Đình Diệm đối với người từng cắp sách đến trường. Ông Nguyễn Tường Tam là Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh, đại diện nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đi dự Hội nghị Ngày 6 tháng 3 năm 1945 với Pháp tại Đà Lạt. Thấy rõ chân tướng đểu cáng của Hồ Chí Minh, ông Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam từ chức.
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một nhà Cách mạng Văn hóa, chứ không đơn thuần là một nhà văn viết tiểu thuyết để độc giả tiêu khiển. Ông muốn thay đổi xã hội, bằng cách vận động xóa bỏ những hủ tục làm cho xã hội thoái hóa. Lập ra nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Nhất Linh bài xích cái sự quê mùa Lý Toét – Xã Xệ. Nhất Linh còn muốn giải phóng phụ nữ bằng cách phủ nhận cái câu “Tiết Hạnh Khả Phong” của Nho giáo đã giam hãm người phụ nữ chịu thiệt thòi khi chồng chết. Bà Dân biểu Ngô Đình Nhu trình Đạo luật Cấm Bạo Hành Gia đình và Cấm Đa Thê để bảo vệ phẩm giá người phụ nữ. Tại sao Cụ Nhất Linh không thấy Đạo Luật Gia Đình phù hợp với sự tranh đấu nữ quyền mà Cụ đã cố gắng dùng ngòi bút để cải tạo phong hóa nước nhà?
Nhất Linh không chỉ đơn thuần là nhà văn. Ông còn được đảng Đại Việt và Quốc Dân Đảng kết hợp, bầu làm lãnh tụ. Năm 1954, theo Hiệp Định Paris, Thực dân Pháp phải rời Đông Dương, trao trả độc lập cho Việt Nam. Vì chủ thuyết “Domino”, người Mỹ nhảy vào giúp Việt Nam ngăn chặn làn sóng Đỏ của bọn Hà Nội làm tay sai Cộng sản Quốc tế. Đó là thời cơ vàng để cho nhà Văn Hóa kiêm nhà Cách Mạng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam thực hiện giấc mơ của mình.
- Năm 1959, cụ Hoàng văn Chí xuất bản cuốn “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” mô tả trí thức, văn nghệ sĩ bị chế độ Hồ Chí Minh đàn áp một cách tàn nhẫn. Đó là một tài liệu vô cùng quý giá do CIA mang về cho Việt Nam Cộng Hòa. Tại sao ông Nhất Linh không đề nghị Bộ Quốc gia Giáo dục đưa tài liệu ấy vào chương trình giảng dạy cho học sinh, sinh viên để học sinh, sinh viên không bị cộng sản lôi cuốn vào địa ngục trần gian?
- Tại sao lãnh tụ Nhất Linh không thành lập một đội ngũ cán bộ để giảng cho trí thức Miền Nam thấy Hà Nội đã triệt hạ những trí thức Miền Bắc từng lên chiến khu kháng chiến chống Pháp, để cho trí thức Miền Nam mở mắt đừng “ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản”?
- Với uy tín và kiến thức của Cụ Tam thì các nhà trí thức, các thế hệ thanh niên tin tưởng những gì Cụ Tam giảng dạy về sự khát máu của chủ nghĩa cộng sản là Sự Thật, chứ không phải là tuyên truyền của Chính quyền. Tại sao Cụ Nhất Linh có thể bình thản vui thú tiêu giao phong nguyệt bằng cách lên rừng kiếm hoa lan, trong khi nước nhà đang đối đầu chống lại bọn Việt Cộng “mãi quốc cầu vinh”? Tại sao Cụ xuất bản tờ báo Văn Hóa mà không có một bài nào viết về hiểm họa cộng sản trước mắt để mở mắt các trí thức Việt Nam mê muội?
Năm 1960, tay sai Thực dân Pháp là Vương văn Đông, Trần Đình Lan cầm đầu cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Cộng Hòa. Cuộc đảo chánh thất bại, các đàn em của Cụ Nhất Linh tham gia cuộc đảo chánh bị bắt, khai Cụ có dính líu đến âm mưu đảo chánh. Vì danh tiếng của Cụ, cơ quan An Ninh không đến bắt Cụ nhốt vào nhà tù để điều tra, mà chỉ gửi trác yêu cầu Cụ ra tòa để đối chất với nhân chứng, thì Cụ Nhất Linh phải hiểu Chính quyền đã đối xử với Cụ đúng thủ tục pháp lý Tây phương. Bởi vì ở ngoài Bắc, ông Nguyễn Hữu Đang – người dựng lễ đài cho Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn độc lập – chỉ xin phép Nhà Nước cho văn nghệ sĩ được quyền tự do sáng tác, liền bị đối xử như súc vật ngay. Tại sao Cụ Nhất Linh từ chối đối chất với các đàn em đã khai Cụ có dính líu đến âm mưu đảo chánh trước Tòa Án? Hàng hậu bối nhận thấy Cụ quyết định quyên sinh là thiếu cái dũng của kẻ sĩ và để lại lá thư tuyệt mệnh kết án chế độ đàn áp Phật giáo là giết anh em ông Diệm.
- Ở Hà Nội, Việt Cộng bắt buộc nhà sư trong Chùa Quán Sứ phải lao động tự túc mưu sinh, chứ không được ăn bám vào lễ vật cúng dường của Phật tử, rồi còn có biện pháp khủng bố khiến nhà sư phải hoàn tục.
- Trong khi đó, ở Miền Nam, Chính quyền đã trích ngân sách Quốc Gia để trùng tu các ngôi chùa đổ nát vì chiến tranh và không ngăn cấm xây chùa mới để thờ Phật.
Trường Bồ Đề của Phật giáo được tự do giảng dạy học trò mà giáo sư không phải trình “giáo án” cho Chính quyền như dưới chế độ Việt Cộng.
Ngoài ra, Chính quyền còn cho nhà sư xuất ngoại đến các Quốc gia Phật giáo và Quốc gia văn minh Tây Phương (như Trần Quang Thuận học ở Anh Quốc) để thu thập kiến thức nhằm canh tân Phật giáo.
Vì tên tuổi của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam quá lớn, nên bức thư tuyệt mạng của Cụ càng thổi phồng phong trào dối trá, vu khống Chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo dưới chiêu bài “đấu tranh vì Đạo Pháp” do Trí Quang xách động. Cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam chống lại Cộng sản để được tự do là có chính nghĩa, nhưng bức thư tuyệt mệnh của Nhất Linh đã làm cho cuộc chiến đấu kia thành phi nghĩa. Nhà văn Nhật Tiến đọc điếu văn ca tụng cái chết của Nhất Linh dũng cảm, vì Nhật Tiến dốt, nên không nhìn thấy hậu quả tai hại của bức thư tuyệt mệnh!
Một nhà Văn hóa lớn đồng thời là lãnh tụ chính trị có uy tín, chẳng lẽ cụ Nhất Linh không thấy hành động của mình sẽ lưu lại cho con cháu một di sản tồi tệ? Có lẽ văn hào Nhất Linh cũng bị ma đưa lối quỷ đưa đường? Có lẽ vong hồn của Cụ Tam ngày nay ở cõi vĩnh hằng cảm thấy hối hận khi nhìn xuống hơn 90 triệu đồng bào Việt Nam đang bị con quỷ cộng sản đối xử như súc vật? Có lẽ lời nguyền rủa của các oan hồn đã “ứng” vào hành động của nhà ái quốc Nguyễn Tường Tam trở thành kẻ nhúng tay vào sự giết chết nền Cộng Hòa của Miền Nam chăng? - Năm 1959, cụ Hoàng văn Chí xuất bản cuốn “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” mô tả trí thức, văn nghệ sĩ bị chế độ Hồ Chí Minh đàn áp một cách tàn nhẫn. Đó là một tài liệu vô cùng quý giá do CIA mang về cho Việt Nam Cộng Hòa. Tại sao ông Nhất Linh không đề nghị Bộ Quốc gia Giáo dục đưa tài liệu ấy vào chương trình giảng dạy cho học sinh, sinh viên để học sinh, sinh viên không bị cộng sản lôi cuốn vào địa ngục trần gian?
Vì sợ mất chính nghĩa trong cuộc đấu tranh chống lại xâm lăng của Việt Cộng, Tổng thống Diệm đã bất đồng việc Hoa Kỳ đòi đưa quân tham chiến ở Việt Nam. Bảo vệ chủ quyền Quốc gia là đúng. Nhưng trong trường hợp này, tôi nhận thấy quyết định của Tổng thống Diệm là sai. Sai ở chỗ Tổng thống không thấy Tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa bất tài, chưa có kinh nghiệm đánh giặc so với khả năng của quân Việt Cộng có kinh nghiệm trong 9 năm đánh Pháp. Sự tổn thất nặng nề của phía ta trong các trận Ấp Bắc, Đồng Xoài Bình Giã, Đỗ Xá đủ thấy sự yếu kém của cấp chỉ huy Quân sự của ta. Để cho đồng bào ta hiểu tại sao phải chấp nhận cho Quân đội Hoa Kỳ tham chiến, Cụ Diệm chỉ cần lên đài phát thanh giải thích cho đồng bào thấy Quân Đội Hoa Kỳ đổ bộ lên Nam Triều Tiên, đánh đuổi quân Bắc Hàn và chí nguyện quân Trung Cộng lui về phía Bắc Vĩ tuyến 38, nhưng Nam Hàn vẫn giữ được chủ quyền Quốc Gia, không phải là thuộc địa của Hoa Kỳ. Nếu Tổng thống Diệm không vì tự ái dân tộc, biết ngộ biến tòng quyền, chấp nhận yêu cầu của Hoa Kỳ, thì Hoa Kỳ không dùng bọn Việt Cộng nằm vùng trong Phật giáo và không dùng bọn Tướng lãnh phản phúc để lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa.
Ông Cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu là nhà chiến lược tài ba, nhưng vì tinh thần Nho giáo với lời dạy “Quyền huynh thế phụ”, nên không dám chống lại quyết định của anh mình. Tôi nghĩ thế! Chẳng qua oan hồn của người Chàm đã khiến cho anh em ông Diệm lấy quyết định sai lầm?
Thưa quý vị độc giả, bài viết sắp tới tôi sẽ đề cập đến nền Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam. Bài viết dài, nhưng cần thiết, vì phải dẫn chứng nhiều sự kiện để chứng minh dân tộc Việt Nam bị quả báo!
Bằng Phong Đặng văn Âu
10200 Bolsa Avenue, Thành phố Westminster, CA.92683.
Telephone: 714 – 276 – 5600
Email Address: [email protected]
https://khongquanc130.blogspot.com/2022 ... thu-7.html
Re: Không còn là mối nguy cơ.
-
Không còn là mối nguy cơ.
Bài Thứ Tám
______________________
Bằng Phong Đặng văn Âu
Lời mở đầu :
Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.
________________________________________________________________
Từ khi còn là một sĩ quan trẻ, cấp bậc Trung Úy, nhưng tôi đã sớm nhận thức về ý nghĩa cuộc chiến tranh Quốc – Cộng. Chính vì thế mà trong cuộc họp Hành Quân Cầu Không Vận tiếp tế gạo cho Ban Mê Thuột, tôi đã đứng lên bày tỏ ý kiến với ông Trung tá Không Đoàn trưởng:- “Tại sao không lấy tên của một vị anh hùng trong lịch sử để đặt tên chiến dịch, mà lại đặt tên cho chiến dịch là “Kỳ-Duyên-Mai”?
Tôi có bà Mẹ đã dạy đứa bé mồ côi cha giống như bà Mẹ của nhà thơ Phùng Quán dạy con bà cái tính thẳng thắn, bộc trực “Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét …”. Sau hôm tham gia chiến dịch về, tôi được lệnh lên trình diện ông Tư Lệnh Nguyễn Cao Kỳ. Dọc đường từ Phi đoàn đến Văn phòng Tư Lệnh, tôi thầm nghĩ như để tự trấn an:- “Nếu bị phạt đuổi sang Bộ Binh là cùng! Ở đâu cũng đánh giặc, việc gì phải lo?”
- “Được lắm! được lắm! Xứng đáng là học trò trường Chu văn An! Thôi! Trở về Phi đoàn lo bay bổng cho đàng hoàng”.
Là lính tráng, tôi có thể ngồi bệt xuống đất nhậu nhẹt với anh em thuộc cấp, nói chuyện tiếu lâm hoặc tán dóc. Nhưng khi bắt tay vào làm một việc quan trọng, tôi rất nghiêm chỉnh, chu đáo. Dù đứng trước các bậc đàn anh vào hạng bậc thầy hay trước một ông Tướng, tôi không ngần ngại nói lên ý nghĩ của riêng mình một cách xây dựng. Hôm nay tôi tường thuật lại với bạn đọc nào chưa từng nghe tôi kể:
Năm 1988, đảng Đại Việt có cuộc họp thống nhất tại nhà anh Nguyễn Quan Vĩnh – người bạn cùng khóa Không Quân với tôi – tại Thành phố San Jose, California. Thành phần tham dự gồm có: Cụ Cung Đình Quỳ – Cựu Bộ trưởng Canh Nông trong Chính phủ Trần Trọng Kim – người cao niên nhất (92 tuổi) làm Chủ tọa phiên họp, bác sĩ Đặng văn Sung, bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, Đại sứ Bùi Diễm, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn văn Canh, anh Đặng văn Đệ, anh Đào Nhật Tiến, anh Lê Tấn Trạng, anh Nguyễn văn Ánh và tôi. Chỉ có anh Trạng và anh Ánh là kém tuổi đời và tuổi đảng so với tôi.
Sau phần nghi thức khai mạc trước bàn thờ Tổ Quốc với di ảnh của Cố Đảng trưởng Trương Tử Anh, hát Quốc ca VNCH, hát Đảng ca (Việt Nam Minh Châu Trời Đông) và phút mặc niệm xong, tất cả mọi người an vị tại chiếc bàn dài. Với tư cách là người cao niên nhất, Cụ Cung Đình Quỳ đứng lên và dõng dạc, nghiêm khắc quở trách các lãnh tụ đảng mà tôi có cảm tưởng như đó là lời của đồng chí Đảng trưởng Trương Tử Anh vọng về. Cuối cùng, Cụ tuyên bố:- – Kể từ nay, tôi muốn các đồng chí phải cùng nhau một lòng một dạ đoàn kết phất Ngọn Cờ Đại Việt để giải phóng quê hương Việt Nam.
Tiếp theo đó, các anh lớn bày tỏ niềm ân hận vì đã chia rẽ nhau trong quá khứ. Các anh bắt tay nhau, nói lời xin lỗi. Mắt anh nào anh nấy đều hoe đỏ, cam kết giữ lời thề năm xưa. Thấy những đồng chí niên trưởng tuy đã già, nhưng vẫn còn tha thiết với quê hương, tôi cảm động vô cùng. Họ nói với nhau những lời ân hận rất chân tình, trong lòng tôi cũng cảm thấy rưng rưng.
Đến lượt được phát biểu, tôi nói:- – Thưa các đồng chí, cho phép đàn em dùng hai chữ “Anh Em” để xưng hô, thay vì hai chữ “đồng chí”. Vừa rồi, Cụ Chủ tọa Cung Đình Quỳ kêu gọi các anh đoàn kết với nhau phất ngọn cờ Đại Việt để giải phóng nhân dân Việt Nam thoát ách cộng sản là em không đồng ý.
Nói tới đó, tôi ngưng. Các anh lớn đều nhìn về phía tôi bằng cặp mắt ngạc nhiên. Tôi nói tiếp:- – Tại sao đảng Đại Việt chúng ta không vận động toàn dân để cùng nhau phất Ngọn Cờ Dân Tộc? Chỉ yêu cầu phất Ngọn Cờ Đại Việt là còn biểu hiện cái tinh thần cục bộ, phe phái, thì làm thế nào có thể giải phóng dân tộc? Đảng trưởng Trương Tử Anh lập thuyết “Dân Tộc Sinh Tồn” là để chống Thực dân Pháp, nhưng quan trọng hơn hết là để chống chủ nghĩa cộng sản phi dân tộc. Em xin nhấn mạnh: Đảng trưởng Trương Tử Anh đề ra chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn là có chủ đích đoàn kết toàn bộ dân tộc, thì mới chống nổi Thực dân và Cộng sản. Sau năm 1954, chế độ Thực dân Pháp đã cáo chung, người Mỹ nhảy vào giúp ta vũ khí, tài chánh, tại sao các anh không đoàn kết với nhau, hợp tác với Chính quyền Ngô Đình Diệm để trả mối thù cho Đảng trưởng bị Cộng sản xử tử hình? Lớp đảng viên trẻ chúng em đứng trước sự chia rẽ của đàn anh, bị lâm vào tình trạng giống như những đứa con có cha mẹ ly dị nhau, mặc dầu đều tôn thờ lý tưởng dân tộc sinh tồn, nhưng đều e dè đối với nhau. Nếu chúng em đứng về phía anh Ký, thì anh Huy buồn. Hoặc ngược lại. Tại sao trong Tân Đại Việt của anh Huy đa số đảng viên là người Miền Nam? Tại sao trong Đại Việt Cách Mạng của anh Ký đa số đảng viên là người Miền Trung và người Miền Bắc? Các anh có thấy điều đó là sai? Xin anh Hoàn, anh Ký xác nhận cho biết có phải hai anh đã đứng ra nhận lời tuyên thệ của ông Nguyễn văn Thiệu gia nhập Đại Việt sau biến cố Tháng 11 năm 1963?”.
Cả hai anh đều xác nhận đúng. Tôi tiếp tục:- – Theo điều lệ Đảng, nếu đảng viên phản đảng thì sẽ bị khai trừ ra khỏi đảng. Tại sao ông Nguyễn văn Thiệu bỏ đảng, ra lập đảng Dân Chủ mà các anh không có phản ứng? Theo em, sự im lặng của các anh trước sự tham nhũng, trước sự mua quan bán chức của chính quyền Tổng thống Nguyễn văn Thiệu và trước vụ buôn lậu ầm ĩ Còi Hụ Long An, đã khiến cho đảng Đại Việt mất uy tín và mất tư thế lãnh đạo quần chúng. Người dân thấp cổ bé miệng không dám kêu ca, nhưng chúng ta là một đảng có tên tuổi, tại sao các anh giữ im lặng?
Ra Hải ngoại, Phó Đề đốc Hải Quân Hoàng Cơ Minh lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (Mặt Trận) hoàn toàn phi nguyên tắc đấu tranh bạo lực. Sự lừa bịp của Mặt Trận đã rơi mặt nạ, anh Huy và anh Ký đã biết ông Hoàng Cơ Minh đã chết trên đất Thái từ năm 1987. Tại sao hai anh là người đang lãnh đạo hai tổ chức đấu tranh đều giữ im lặng, vẫn để yên cho bọn Kháng Chiến Bịp Bợm làm mưa làm gió? Nếu sau cuộc thống nhất Đại Việt hôm nay mà các anh vẫn giữ im lặng, thì em xin quả quyết rằng Đảng ta chẳng có một chút uy tín nào đối với quần chúng như trước năm 1975! Thà đừng kết hợp nhau, Đảng cứ lẳng lặng lùi dần vào bóng tối, để mặc cho bọn đầu cơ chính trị tung hoành, để đỡ mang tiếng với lịch sử! Em nghĩ, nếu chúng ta còn quyết tâm chiến đấu chống Cộng sản, thì trước hết chúng ta phải triệt tiêu những phần tử làm mất Chính nghĩa Dân Tộc và bọn giả hình mượn danh nghĩa Chống Cộng để mua danh, để thủ lợi”.
Sau lời phát biểu của tôi, các anh lớn quá ngỡ ngàng, vì không ngờ một thằng đàn em dám nói một lời mạnh bạo như thế. Không khí phòng họp trở nên căng thẳng một cách khó chịu, vì làm sao các anh có thể trả lời tâm tư của thằng đàn em mà trong lòng đã ấm ức lâu ngày? Vừa lúc đó, anh chủ nhà Nguyễn Quan Vĩnh mời mọi người ngừng buổi họp để ăn trưa. Bữa ấy, bầu trời miền Bắc California rất đẹp, thức ăn và thức uống đều dọn sẵn trên bàn đặt ở ngoài sân. Bác sĩ Đặng văn Sung vẫy tôi lại, nói:- – Chú mày vẫn cái thói nhà binh không bỏ. Những gì chú nói trong buổi họp, làm cho anh Ký, anh Huy buồn lắm đấy! Hãy đến xin lỗi các anh ấy đi!
Gia pháp của hai nhà họ Đặng Văn và Cao Xuân rất nghiêm, làm em không được phép cãi lời anh. Ngay cả ông Cao Xuân Vỹ lớn hơn tôi 20 tuổi, nhưng lúc nào cũng xưng em với tôi. Huống chi, bác sĩ Sung sinh năm 1916 hơn tôi đến hai giáp, con gái đầu lòng của ông bằng tuổi tôi, ra lệnh cho tôi thì tôi đâu dám cãi lại? Nhưng trong trường hợp này, tôi lễ phép trả lời:- – Thưa anh, em có thể dùng lời hoa mỹ để làm đẹp lòng các anh. Nhưng em nghĩ rằng đây là thời điểm cuối cùng mà các anh phải nghe tiếng nói chân thật của lớp trẻ chúng em. Chúng ta cần một cuộc cách mạng, ít nhất về mặt tư tưởng, là hãy từ bỏ lối mòn cũ thì may ra mới cứu được nước. Vì nặng lòng với Đất Nước, em mới theo các anh. Nếu không, em đã lo làm giàu để có nhà cao cửa rộng và sống bình yên với vợ con.
(Ghi chú: Bà Nội tôi là con gái đầu lòng của Cụ Cao Xuân Dục. Nên họ Cao và họ Đặng là thông gia.)
Nghe tôi trả lời như thế, anh tôi lắc đầu, không nói thêm câu nào. Tôi cảm thấy thương anh mình quá sức! Một bác sĩ ra trường không hành nghề để vinh thân phì da, suốt một đời lận đận vì chuyện nước non, để cuối đời thành một kẻ lưu vong vô Tổ Quốc! Những người anh trong Đại Việt mà tôi biết, phần lớn đều là con nhà gia thế, tuy hấp thụ nền giáo dục của nước Pháp, nhưng họ không làm tay sai cho Pháp. Họ dấn thân vào trường tranh đấu đầy gian nguy để giành Độc Lập, rất dễ bị Pháp bỏ tù, tra tấn và Cộng sản thủ tiêu. Họ đều là những người yêu nước đích thực, nhưng vì bị một lời nguyền (curse) của oan hồn kẻ khuất mặt, mà đành phải chịu thua con Quỷ Đỏ Cộng Sản. Họ cũng giống như nhà văn hóa Nhất Linh Nguyễn Tường Tam mà thôi. Biết bao nhiêu người yêu nước thiết tha, nhưng vì thiếu suy xét đi theo cộng sản, mà thành ra là kẻ phản bội quê hương, phản bội giống nòi!
Hoàng Đế Bảo Đại chắc chắn đã cân nhắc rất kỹ, khi chọn ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng vào năm 1954. Bởi vì Vua Bảo Đại từng phong cho ông Ngô Đình Diệm chức Thượng thư Bộ Lại (Thủ tướng), thì điều đầu tiên ông Diệm làm là yêu cầu Thực dân Pháp thay đổi chính sách cai trị cho đúng với chủ trương mà nước Pháp đã đề cao: “Khai hóa dân tộc bán khai”. Nhờ sự trợ giúp của Hoa Kỳ, ông Diệm đã đưa gần một triệu dân Miền Bắc thoát ách đô hộ Cộng sản và định cư cho chừng ấy miệng ăn, không phải là điều dễ dàng. Ngoài ra, ông còn phải dẹp các Giáo phái chống lại Chính phủ. Đặc biệt, ông đã có công làm sạch thành phố gồm có ổ điếm Bình Khang, sòng bạc Kim Chung và Đại Thế giới nằm trong tay giới giang hồ đại đạo đứng ngoài vòng pháp luật, để biến Sài Gòn thành Hòn Ngọc Viễn Đông và thiết lập thể chế dân chủ, khiến cho những nhà lãnh đạo của các Quốc gia quanh vùng đều mơ ước.
Năm 1959 sang Hoa Kỳ,Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng đạt thành công Ngoại giao rất đáng kể. Tổng thống Ike Eisenhower, Ngoại trưởng Foster Dulles ra tận sân bay đón tiếp Ngài và dành cho Ngài vinh dự đọc diễn văn trước Lưỡng Viện Quốc Hội. Tổng thống Diệm là vị lãnh đạo Á Châu đầu tiên được Hoa Kỳ dành cho cái vinh dự mà trước kia Hoa Kỳ đã dành cho Winston Churchill, Thủ tướng nước Anh. Báo chí phương Tây so sánh Tổng thống Ngô Đình Diệm ngang hàng với Thủ tướng Mahatma Nehru của Ấn Độ. Tiếc thay! Vì lời nguyền rủa của oan hồn Người Chàm, mà cả dòng họ Ngô bị giết một cách thê thảm và thanh danh ông vẫn còn bị Việt Cộng chà đạp, bôi nhọ tới ngày nay.
Sau cái chết đau thương của anh em nhà Họ Ngô, tình hình chính trị của Miền Nam cực kỳ biến động. Bọn Tướng lãnh phản phúc, cậy có súng có quyền, đã tổ chức đảo chánh, chỉnh lý liên tục. Thời bấy giờ, trong dân gian truyền tụng cái câu “Được làm Vua, thua làm Đại sứ”, nghĩa là đảo chính mà thắng thì được làm Thủ tướng, Quốc trưởng; còn thất bại thì được đi làm Đại sứ! Chẳng có ông Tướng nào bị bỏ tù vì tội làm loạn. Có khi bị “đày” đi làm Đại sứ một thời gian, rồi được quay về lãnh đạo Quốc Gia. Thử hỏi làm sao người bạn Đồng Minh Hoa Kỳ không nản chỉ?
Theo quan điểm của tôi, cuộc đảo chánh nền Đệ Nhất Cộng Hòa mệnh danh “Cuộc Cách Mạng Tháng 11” là một sự ô nhục cho nòi giống Việt Nam. Bởi vì, nếu anh em ông Ngô Đình Diệm phạm tội với quốc dân,- tại sao các Tướng lãnh phải giết ông Diệm, ông Nhu một cách hèn hạ?
Tại sao không đưa họ ra Tòa để cho Công Lý xét xử?
Tại sao không có bất cứ một ông Tướng nào can đảm nhận mình là kẻ đã diệt một tên Bạo Chúa?
Những ông Tướng có cảm thấy nhục không, khi Tổng thống Lyndon B. Johnson miệt thị bọn Tướng lãnh giết ông Diệm, ông Nhu là một lũ côn đồ?
Có phút giây nào các ông Tướng tỏ ra ân hận vì tàn nhẫn đối với một nhà ái quốc?
Tôi xin nói thẳng điều này, dù các anh chị chiến sĩ VNCH chê trách:
“Bản thân tôi không kính trọng các ông Tướng”.
Vì sau khi lật đổ chế độ, Tướng Dương văn Minh ra lệnh dẹp bỏ 16 ngàn Ấp Chiến Lược mà không một ông Tướng nào lên tiếng phản đối. Quốc sách Ấp Chiến Lược là một lợi khí của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu làm ra để chống lại chủ trương của Hồ Chí Minh học từ Mao Trạch Đông “lấy nông thôn bao vây thành thị”. Hạ tầng cơ sở của Việt Cộng hầu như bị tan rã vì quốc sách “Ấp Chiến Lược”, bỗng nhiên được hoạt động trở lại. Nếu người nào có trí nhớ tốt đều biết sau khi đảo chánh thành công, các ông Tướng ra lệnh hủy bỏ lệnh cấm Nhảy Đầm và bỏ giờ Giới Nghiêm, để cho các tiệm nhảy đầm tưng bừng nhảy nhót thâu đêm suốt sáng.
Đại Tướng Nguyễn Khánh ra Vũng Tàu viết Hiến Chương, bị sinh viên biểu tình phản đối, ông leo lên chiến xa, hòa điệu với đám sinh viên tranh đấu, hô to: “Đả đảo Nguyễn Khánh”! Lãnh đạo Quốc gia mà có hành vi như một “Thằng Hề”! Thử hỏi các anh Lính VNCH phục vụ dưới quyền các Tướng lãnh như thế, có cảm thấy nhục không? Hay là vẫn vỗ ngực tự hào, hãnh diện? Cuối cùng, Đại tướng Nguyễn Khánh phải mang theo nắm đất quê hương, ra ngoại quốc sống lưu vong.
Rõ ràng các Tướng lãnh- vừa không có khả năng lãnh đạo Quốc gia,
vừa kém tư cách.
Cụ Phan Khắc Sửu là nhà cách mạng, từng bị đày ra nhà tù Côn Đảo và từng làm Chủ tịch Thượng Hội Đồng Quốc Gia. Bác sĩ Phan Huy Quát từng làm Bộ trưởng từ thời Nội các Trần Trọng Kim và Bộ trưởng Giáo Dục, Bộ trưởng Quốc Phòng dưới các ông Thủ tướng thời Tây đô hộ. Với quá trình chính trị của hai vị như thế, chắc chắn từ nay tình hình chính trị sẽ ổn định, đỡ bát nháo sau một thời gian dài xáo trộn. Nhưng không! Tình hình còn bết bát hơn. Bọn Việt Cộng đội lốt Thầy Chùa trong Khối Ấn Quang- vẫn tiếp tục tranh đấu,
chống “Cần Lao Công Giáo”
và lên án Chính quyền Phan Khắc Sửu – Phan Huy Quát là một “Chính quyền Diệm không Diệm”.
Hội Đồng Quân Lực họp ngày 19 tháng 6 năm 1965 để chọn một Thủ tướng thành lập Chính phủ. Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ ba lần thuyết phục Trung tướng Nguyễn văn Thiệu – đương kim Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Quốc Phòng trong Chính phủ Phan Huy Quát – đứng ra thành lập Chính Phủ. Nhưng cả ba lần, Trung tướng Thiệu cương quyết từ chối. Sau đó, Tướng Kỳ đề nghị Trung tướng Nguyễn Chánh Thi. Nhưng cũng giống như Trung tướng Thiệu, Tướng Thi cũng cương quyết từ chối. Chẳng phải Tướng Thiệu, Tướng Thi không thích làm Thủ Tướng. Hai ông đều là kẻ rắn mắt, khôn lỏi, nhận thấy không đủ khả năng lãnh đạo Quốc Gia vào thời điểm cực kỳ khó khăn, thì đẩy cho Nguyễn Cao Kỳ, chứ chẳng phải yêu quý gì Nguyễn Cao Kỳ!
Tôi thích Nguyễn Cao Kỳ ở chỗ ông ta là một người lính đích thực. Khi các thành viên trong Hội Đồng Quân Lực vỗ tay tán thưởng Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ tướng theo đề nghị của Tướng Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ chấp nhận thi hành, chứ không làm bộ “em chã, em chã”. Giống như khi anh em phi công chúng tôi được lệnh trên thực hiện một phi vụ dù nguy hiểm đến thế nào, cũng lo thi hành, chứ không đi bệnh xá để giả vờ cáo bệnh.
Vì lãnh trách nhiệm do Quân Đội giao phó, Tướng Kỳ được sự góp ý của nhà báo Như Phong Lê văn Tiến và Trung tá KQ Nguyễn Khoa Dánh đã thành lập Chính phủ theo mô hình Tập thể Quân Đội lãnh đạo và cá nhân Quân Đội phụ trách. Khác lần trước, Chính phủ gồm có Quốc Trưởng và Thủ Tướng, nhưng lần này thì có Chủ tịch Ủy ban Lãnh Đạo Quốc gia (thay cho danh xưng Quốc trưởng) và Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (thay cho danh xưng Thủ tướng). Tướng Kỳ đề nghị Nguyễn văn Thiệu giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Tướng Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tổng Thư ký, là mô hình do Tướng Kỳ vẽ ra, chứ không phải do Nhà Lãnh Đạo Nguyễn văn Thiệu phác họa. Chọn Ngày 19 tháng 6 làm Ngày Quân Lực cũng do Tướng Kỳ đặt ra để đánh dấu ngày Ngày Quân Đội Lãnh Trách Nhiệm trước lịch sử. Tướng Kỳ còn đặt tên cho Chính phủ của mình là Nội Các Chiến Tranh hay Chính Phủ của Dân Nghèo. Người không hiểu chuyện thì cho rằng Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu là kiến trúc sư lãnh đạo Nội Các chiến tranh. Kỳ thực, Tướng Kỳ mới là người chủ động chương trình và kế hoạch để đối đầu với một nội bộ chia rẽ, chống phá và với cuộc xâm lăng của Việt Cộng. Có thể nói thời điểm 1965 là thời điểm của "thù trong giặc ngoài" hết sức quyết liệt. Bởi thế, Tướng Nguyễn văn Thiệu và Tướng Nguyễn Chánh Thi không dám đảm đương chức vụ Thủ tướng. Nếu lần này, Tướng Nguyễn Cao Kỳ không thể ổn định tình hình, người Mỹ phải bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa.
Hẹn độc giả bài viết tới, tôi sẽ nói về nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Xin độc giả đón xem.
Bằng Phong Đặng văn Âu
Địa chỉ nhà: 10200 Bolsa Avenue, Westminster, CA.92683.
Địa chỉ Email: [email protected]
Telephone: 714 – 276 – 5600.
Ngày 30 tháng 7 năm 2022.
https://khongquanc130.blogspot.com/2022 ... -bang.html
Re: Không còn là mối nguy cơ.
-
Không còn là mối nguy cơ.
Bài Thứ Chín
______________________
Bằng Phong Đặng văn Âu
Lời mở đầu :
Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.
________________________________________________________________
Tôi tin rằng số phận của mỗi Con Người hay mỗi Quốc Gia đều do sự an bài của đấng Tạo Hóa. Có lẽ vì người phàm mắt thịt, không thể nhìn thấy sự huyền diệu của Thượng Đế đó thôi. Nếu không lái xe đưa thằng bạn vào Tân Sơn Nhất xin đơn xin gia nhập Không Quân, chắc chắn tôi sẽ không trở thành phi công VNCH, mà là bác sĩ theo niềm mong ước của Mẹ. Đối với tôi, học để lấy mảnh bằng bác sĩ chẳng có gì là khó. Ở tuổi thanh niên mơ mộng, dù bị hấp dẫn bởi “Vol de nuit” hay “Le petit Prince” của Saint-Exupéry, nhưng tôi vẫn phải có bổn phận làm hài lòng Mẹ trước đã! Vả lại, nếu có tâm hồn đam mê nghiệp bay như bạn tôi mà không qua cuộc trắc nghiệm sức khỏe của Trung tâm Giám định Y Khoa thì cũng không thể trở thành phi công được.
Nhờ Trời ban cho tôi có sức khỏe và phản ứng tay chân thích hợp để được huấn luyện thành phi công. Và vì là phi công, tôi đã nguyện mình phải là phi công có lý tưởng yêu Công Lý và Sự Thật, chứ không phải là loại tài xế chỉ biết lái máy bay. Nhờ theo đuổi ngành phi công, tâm tư của tôi khác so với cái nghề làm bác sĩ, vì được dịp nhìn thấy từ trên cao quê hương đất nước mình đẹp tuyệt vời. Từ đó, tình yêu Đất Nước nồng nàn, tha thiết càng ngày càng lớn dần.
Ví dụ, thi hành một phi vụ từ Sài Gòn ra Huế vào một buổi sáng sớm mờ sương, khi mặt trời vừa hừng Đông, lộ trình bay qua Ban Mê Thuột, Pleiku, Đà Nẳng, Huế thì tôi thấy dưới đôi cánh bạc của mình là núi rừng trập trùng, hùng vĩ và màu sắc núi rừng biến đổi từng phút. Khi bay từ Huế trở về, để tránh bức tường mây vùng cao nguyên xuống thấp, tôi bay dọc bờ biển theo lộ trình Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết, Sài Gòn thì thấy màu sắc nước biển vỗ vào bờ từng đoạn khác nhau. Tuy không có tài thơ văn trác tuyệt, nhưng tâm hồn tôi thì chứa đầy tố chất lãng mạn của một người nghệ sĩ si tình: “Tình yêu quê hương và tình yêu dân tộc”. Lại thêm, tôi còn là phi công Hỏa Long (Fire Dragon) thường thực hiện những phi vụ về đêm bay bao vùng trên bầu trời thuộc không phận Sài Gòn hoặc Cần Thơ. Ở đây tôi xin giải thích một chút để độc giả hiểu. Phi cơ C-47 (Dakota) là loại phi cơ vận tải. Nhưng vì nhu cầu chống lại chiến thuật biển người của Việt Cộng, nên Không Quân Hoa Kỳ đã biến cải loại phi cơ vận tải thành phi cơ chiến đấu (Armed Cargo) vừa trang bị hỏa châu (flare) vừa súng Minigun sáu nòng, có khả năng tác xạ 6 ngàn viên đạn trong một phút. Trên mỗi tàu, trang bị ba cây súng Minigun. Nếu bắn một lúc cả ba súng, thì có tới 18 ngàn viên đạn thoát ra khỏi nòng trong một phút. Nơi nào đồn bót bị tấn công, chúng tôi bay tới địa điểm, thả hỏa châu và tác xạ theo tọa độ do truyền tin dưới đồn yêu cầu. Là loại phi cơ vận tải vừa chậm chạp, vừa khó xoay trở, nên phi cơ Hỏa Long AC-47 rất dễ bị phòng không của địch nhắm bắn. Khi tình hình dưới đất yên tĩnh, phi công bay vòng vòng trên thành phố cho tới khi có chiếc khác bay lên thay thế.
Chính những lúc bay vòng vòng chờ đợi lệnh dưới đất, cả phi hành đoàn gồm hoa tiêu phụ, điều hành viên, xạ thủ và áp tải ngủ, là lúc người phi công cô quạnh giữa trời đêm bao la. Chẳng biết những phi công bạn tôi nghĩ gì trong đầu họ giữa đêm trường. Riêng tôi, thường nghĩ ngợi miên man về phận nước, phận mình trước những nghịch cảnh phi lý mà không thể giải thích được. Hàng vạn viên đạn do tôi rải xuống mục tiêu, liệu có viên đạn nào chấm dứt cuộc đời của bà con thân nhân mình mang “sứ mệnh sinh Bắc, tử Nam”? Hoặc những khi thi hành phi vụ vận tải vào ban ngày, chở quan tài, trông thấy người quả phụ đội khăn tang cùng mấy đứa con thơ dại thò lò mũi xanh khóc bố, tôi vớ vẩn tự hỏi nếu người nằm trong quan tài là mình, thì đàn con thơ, vợ dại của mình sẽ ra sao? Rất nhiều lần tôi quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt. Phải chăng cha ông mình đã tiêu diệt dân tộc khác, mà ngày nay con cháu phải bị lãnh hậu quả đớn đau này?
Sau chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ có tổ chức nhiều buổi hội thảo tại Lubbock, Texas để tìm hiểu vì sao Hoa Kỳ thua trận chiến Việt Nam. Một số học giả và Tướng lãnh Việt Nam được mời đến để trình bày ý kiến. Nếu được mời tham dự, tôi sẽ đưa vấn đề nhân dân Việt Nam bị lời nguyền rủa của oan hồn những người Chàm bị vua quan Triều Nguyễn giết hại. Tôi sẽ chứng minh vì lời nguyền rủa (curse) mà đạo quân bách chiến bách thắng của Hoa Kỳ đã thua một đối thủ Việt Cộng chẳng ra gì. Giống như gia đình Tổng thống John F. Kennedy bị tai họa liên tiếp, thì báo chí Mỹ cũng bàn tán dòng họ Kennedy bị nguyền rủa (cursed) vậy. Cái ý tưởng quả báo do “Đời Cha ăn mặn, thì đời con khát nước” vẫn âm ỉ trong tôi từ khi còn cầm súng chiến đấu chống lại quân thù.
Cho tới năm 2015, các anh chị cựu học sinh Quốc Học tổ chức cuộc họp mặt tại Thành phố Westminster, California, tôi tình nguyện lái xe đón một số anh chị từ Bến Xe Đò Hoàng về địa điểm tập hợp. Đến nơi, các anh chị lâu ngày không gặp nhau, mừng rỡ hỏi han. Bỗng nhiên, có một người trong số các anh chị ấy thường đọc những bài bình luận thời cuộc của tôi, hỏi:- – Này anh Bằng Phong, đến bao giờ thì dân Việt Nam mình thoát họa cộng sản?”
– Tôi không biết chắc đến bao giờ. Theo tôi, dân mình bị đọa là vì cái họa “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Tổ tiên mình gây nên tội diệt chủng dân tộc Chàm, thì con cháu bị tai vạ. Bởi vì dù tổ tiên mình mở mang bờ cõi với mục đích giành không gian sống cho con cháu là mục đích tốt, chúng ta phải ghi ơn. Nhưng dù ý tốt đi nữa, luật nhân quả vẫn tác hại lên đời chúng ta.
Anh Võ văn Dật nghe tôi đem chuyện tâm linh ra bàn để trả lời câu hỏi của anh bạn, anh Dật liền nói:- – Thầy Lê Tuyên – Giáo sư dạy Văn của trường Đại Học Huế – cũng có viết một bài về vấn đề này. Hôm nào trở về lại San Jose, tôi sẽ gửi cho anh Bằng Phong tờ đặc san Đại Học Huế để anh tham khảo.
Sau khi đọc bài viết của Thầy Lê Tuyên đăng trên đặc san Đại Học Huế, tôi càng vững tin hơn về sự chẩn đoán căn bệnh Việt Nam bị vướng phải lời nguyền của dân Chàm. Tựa đề mẩu chuyện ngắn của Thầy Lê Tuyên là “Đường Về Chiêm Quốc” kể chuyện vào năm 1955 mấy vị Việt Nam đi thăm Giáo đường Santander tại nước Tây Ban Nha. Khi phái đoàn vừa mới đặt chân đến sân nhà thờ, thì một vị Linh Mục Dòng Tên từ trong bước ra chào đón và khuyên phái đoàn đừng trở về nước nữa, bởi vì nước Việt Nam đâu còn nữa để mà về? Vị Linh mục nói:- – Tuy tôi chưa hề đến Việt Nam, chưa hề đọc lịch sử Việt Nam, nhưng tôi là môn sinh của Thánh Mathews. Với phép tu của Ngài, chúng tôi có thể biết việc gì đã xảy ra trong quá khứ và việc gì sẽ xảy ra trong tương lai.
Nói xong, vị Linh Mục còn đọc một câu thơ Kiều “Nghiệp duyên cân lại, nhắc đi cũng nhiều”, rồi sau đó vị Linh Mục biến mất. (Ghi Chú của tác giả: Nostradamus là nhà tiên tri nổi tiếng, cũng tu theo dòng của Thánh Mathews).
Từ bài số một trong loạt bài “Không Còn Là Mối Nguy Cơ” đến những bài tiếp theo, tôi đã dẫn chứng những sự kiện lịch sử đã tác động lên các Vua Triều Nguyễn. Chẳng hạn, vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị đều có 142 người con. Nhưng đến đời vua Tự Đức thì tuyệt tự, dù có đến hàng trăm bà vợ. Ba người cháu được một ông quan trong Hoàng tộc – Tôn thất Thuyết – đưa lên ngôi, rồi đều bị giết chết thê thảm. Hoặc chuyện vua Minh Mạng bách hại những tín đồ Công giáo rất khủng khiếp, nhưng vị vua cuối cùng của triều Nguyễn – Hoàng đế Bảo Đại – thì lại rửa tội theo đạo Công giáo và Hoàng tộc có cả hàng trăm ngàn người nhưng lại để cho Vua Bảo Đại phải sống trong thiếu thốn, nghèo khổ!
Nhắc lại lời nguyền:“Ta (dân Chàm) sẽ làm cho cả dân tộc Việt Nam chúng bay
trở nên ngu si, đần độn, tàn bạo, điêu ngoa, gian ác, tôn thờ ĐẠO QUỶ SỨ,
khiến cho anh em dòng họ chúng bay đấu tố nhau, chém giết nhau,
phản bội nhau, chia rẽ nhau, đố kỵ nhau,
người yêu nước bị chà đạp, đứa gian manh được tôn vinh
cho đến khi nào nòi giống chúng bay bị tận diệt như chúng tao thì mới thôi!”
Vậy những gì tôi sắp sửa viết ra đây là để chứng minh dân Việt Nam mình bị khốn đốn đến ngày hôm nay là do Luật Nhân Quả. Tôi không có nhu cầu tâng bốc người này hay triệt hạ người kia vì cảm tính. Có thể nói rằng tôi là người viết duy nhất ghi rõ tên thật, địa chỉ nhà, địa chỉ Email và số điện thoại, thì nhất định về sau những nhà nhân chủng học sẽ đánh giá tôi là người viết khả tín, khi họ đi tìm nguyên do nào mà nòi giống Việt không còn.
Người cha đẻ nền Đệ nhất Cộng Hòa – Tổng thống Ngô Đình Diệm – là một người yêu nước, có tấm lòng nhân hậu chưa từng thấy trong lịch sử. Theo tôi, Tổng thống Diệm đã sai lầm khi ra lệnh Đại tá Giám đốc Cảnh sát Nguyễn văn Y đốt hồ sơ của Tướng Dương văn Minh làm tay sai Việt Cộng, để cho Dương văn Minh được tự do làm đảo chánh giết gia đình mình và giết chết nền Đệ Nhất Cộng Hòa.- Phải chăng Ngài cũng bị quỷ ám, nên đã đặt lòng nhân từ không đúng chỗ?
- Phải chăng những kẻ được Ngài ban ân bố đức đã bị quỷ ám, nên đã trở thành những tên phản bội man rợ để cho muôn đời sau khinh bỉ?
Sau khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa bị bọn phản phúc lật đổ, các Tướng lãnh cậy có súng, có quân cứ tiếp tục đảo chánh, chỉnh lý khiến cho đời sống nhân dân càng ngày càng khốn đốn. Cuối cùng, Chính quyền phải chuyển sang Dân sự. Cụ Phan Khắc Sửu, ông Phan Huy Quát đều là những người từng ở địa vị lãnh đạo đất nước, kinh nghiệm chính trị đầy mình, cũng trở nên bất lực, không thể gạt sang một bên những xung khắc cá nhân để bảo vệ sự sống còn của Miền Nam. Đêm 18 tháng 6 năm 1965, ông Phan Huy Quát đã mời các Tướng lãnh đến Dinh Thủ tướng để trao trả Chính quyền cho Quân Đội.
Ngày 19 tháng 6 các Tướng lãnh họp nhau để chọn người làm Thủ tướng. Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã ba lần đề nghị Trung tướng Nguyễn văn Thiệu – đương kim Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc Phòng trong Nội các Phan Huy Quát – làm Thủ tướng, nhưng cả ba lần đều bị Trung tướng Thiệu quyết liệt từ chối. Đến lượt Trung tướng Nguyễn Chánh Thi được đề nghị, Tướng Thi cũng từ chối làm Thủ tướng. Cuối cùng, Tướng Thiệu và Tướng Thi bàn tính nhau, đẩy Tướng Kỳ ra làm Thủ tướng. Cái ý đồ của Tướng Thiệu, Tướng Thi là muốn đốt cháy sự nghiệp của vị Tướng trẻ có triển vọng cầm quyền mai sau, chứ chẳng phải tốt lành gì với Tướng Kỳ. Hơn nữa hai ông Tướng Thiệu, Thi sợ không đủ khả năng điều hành việc nước vào thời điểm cực kỳ khó khăn mà thoái thác, chứ chẳng phải là người không tham lam quyền hành.
Trước hết, tôi xin nói rõ Nguyễn Cao Kỳ là ai?- – Là một cấp Chỉ huy biệt đội Thần Phong, từng bay những phi vụ ở cao độ thấp sát đỉnh núi để tránh radar của địch, vào những đêm không trăng để thả biệt kích xuống Bắc Việt.
– Là vị Tư Lệnh duy nhất của KQVNCH bay phi vụ Bắc Phạt. Hành động gan dạ của Tướng Kỳ làm nức lòng những phi công trẻ. Ví dụ: Một phi vụ Bắc phạt chỉ cần 16 phi công mà có đến 30 phi công tình nguyện. Như thế, họ phải bốc thăm. Nếu phi công nào bị lọt sổ, không được dịp làm “người hùng” để hy sinh cho Tổ Quốc thì buồn bã lắm! Tướng Kỳ đã gây lại niềm tin trong lòng những chiến sĩ trẻ đã quá ê chề vì nạn các Tướng lãnh đua nhau làm đảo chánh! “Leadership” là dám chấp nhận mạo hiểm bằng hành động thì sẽ thu phục nhân tâm! Nguyễn Cao Kỳ, cấp chỉ huy đối xử công minh với thuộc cấp và luôn luôn bảo vệ đàn em. Nguyễn cao Kỳ là cấp Chỉ huy Liên Phi Đoàn Vận tải thường xuyên bay ra ngoại quốc, nhưng không bao giờ buôn lậu một thứ gì. Nhân viên đều biết rõ điều đó.
– Là người xây dựng binh nghiệp bằng công lao của chính mình, chứ không gia nhập đảng cầm quyền giống như vị Tư Lệnh khác để được thăng quan tiến chức.
– Là người thẳng thắn, bộc trực, dám nói lên sự bất đồng một cách công khai vì quyền lợi Đất Nước. Trong cuộc họp Đơn Vị trưởng, dưới sự chủ tọa của Đại tá Tư Lệnh Nguyễn Xuân Vinh, ông Kỳ đã phát biểu rằng ông không đồng ý việc đưa đảng Cần Lao vào Không Quân, vì làm như thế chỉ có những kẻ bất tài, nịnh hót chạy theo Đảng để chỉ huy những anh em có thực tài, thì sẽ gây ra sự bất mãn.
Tôi đã liệt kê những đặc tính nêu trên của Nguyễn Cao Kỳ từ năm 2004 và yêu cầu những anh Không Quân nào đã từng phục vụ dưới quyền Nguyễn Cao Kỳ hãy lên tiếng, nếu thấy tôi viết sai.
Khi được Hội đồng Quân Lực đề bạt làm Thủ tướng, dư luận ngoài phố đều cho rằng Nguyễn Cao Kỳ là một phi công trẻ bay bướm, không có bằng cấp cao, không có kinh nghiệm chính trị, chắc chắn rồi cũng vô tích sự giống như những ông Tướng khác mà thôi! Nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược. Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ đã làm được gì trong hai năm giữ chức Thủ tướng?
- 1/ Ông Kỳ đã ổn định tình hình bằng cách làm cho bọn kiêu tăng không còn dám biểu tình quấy rối trị an như trước. Chưa có vị Tướng nào trước đó có khả năng làm điều ấy.
2/ Ông Kỳ đã chấm dứt nạn đảo chính do mấy ông Tướng Lục Quân đầy tham vọng chính trị.
3/ Ông Kỳ đã xử tử hình Tạ Vinh để răn đe bọn gian thương Chợ Lớn kiểm soát bao tử của đồng bào, mặc dù các bang hội trong Chợ Lớn bỏ ra 250 triệu đồng để mua mạng sống cho Tạ Vinh và ông bất chấp sự đe dọa của những tay đầu nậu Ba Tàu từ Hồng Kông.
4/ Ông Kỳ đã hữu sản hóa dân nghèo bằng cách cho giới lao động vay tiền trả góp không lấy lãi để họ không còn bị các ông chủ xe Lambretta, chủ Taxi bóc lột. Ông còn giao trách nhiệm cho Võ Long Triều dùng Quận 8 làm thí điểm chống lại nạn nghèo khó cho đồng bào. Quan tâm hàng đầu của ông Kỳ là chăm lo đời sống tinh thần lẫn vật chất cho thuộc cấp. Ông đặc cách Trung tá Huỳnh Minh Quang đang phục vụ tại căn cứ Tân Sơn Nhất lên căn cứ Biên Hòa để chăm lo nơi ăn, chốn ở cho những phi công Khu Trục. Ông cấp đất cho nhân viên thâm niên quân vụ xây nhà, mà bản thân ông không được miếng đất nào.
5/ Ông Kỳ đã chấm dứt nạn đầu cơ tích trữ nhu yếu phẩm của bọn gian thương Chợ Lớn, vì vụ xử tử hình Tạ Vinh thì Ba Tàu biết ông Kỳ nói là ông Kỳ làm.
6/ Ông Kỳ đã đích thân giải quyết cuộc Biến Động Miền Trung do Trí Quang xúi giục Tướng Nguyễn Chánh Thi làm loạn, sau khi ba ông Tướng Bộ Binh là Nguyễn văn Chuân, Huỳnh văn Cao, Tôn Thất Đính bất lực. Thiếu tá Liên Thành tường thuật về cuộc Biến Động Miền Trung chỉ đề cập đến Tướng Nguyễn Ngọc Loan để tránh nói đến Tướng Kỳ. Trong khi đó, Tướng Kỳ mới là người chỉ huy trực tiếp, còn Tướng Loan chỉ thừa hành theo lệnh Tướng Kỳ. Như việc các sư tranh đấu quyết tử thủ tại Chùa Phổ Đà ở thành phố Đà Nẵng thì Tướng Loan đã phải hỏi Tướng Kỳ có biện pháp gì để giải tán. Hay việc Phật tử đem bàn thờ xuống đường ở Huế phải hành động ra sao để tránh đổ máu, Tướng Loan cũng phải xin chỉ thị của Tướng Kỳ.
7/ Ông Kỳ đã dạy cho ông Tướng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ – Lewis Walt – đến Bộ Chỉ huy Hành Quân Giải Cứu Huế tại Căn Cứ Đà Nẵng, chất vấn tại sao đem quân ra vùng trách nhiệm của Tướng Walt mà ông Kỳ không thông báo cho Tướng Walt biết. Tướng Kỳ đã dạy cho ông Tướng Walt một bài học về lãnh đạo và chỉ huy, khiến cho Tướng Walt hết sức thán phục.
8/ Ông Kỳ đã làm cho cuộc tuyệt thực của Trí Quang trước công viên gần Dinh Độc Lập trở thành một trò hề lố bịch, vì nhịn đói hơn 40 ngày mà vẫn béo tốt, da dẻ hồng hào.
9/ Sau khi dẹp xong cuộc Biến động Miền Trung. Ông Kỳ đã tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để viết Hiến Pháp cho nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Do đó, giống như Thủ tướng Ngô Đình Diệm là người khai sinh nền Đệ Nhất Cộng Hòa, thì ông Kỳ là người khai sinh nền Đệ Nhị Cộng Hòa.
Trên đây là sự kiện lịch sử. Tôi không bịa thành tích của Nguyễn Cao Kỳ giống như những kẻ viết mướn cho những kẻ có tiền nhưng không có khả năng viết hồi ký.- Một chàng phi công trẻ, (mới 35 tuổi) mà thực hiện chừng ấy công trình trong vòng hai năm để xây lên Nền Đệ Nhị Cộng Hòa, thử hỏi có đáng đánh giá là một kỳ tích không?
- Nếu Tướng Kỳ cũng thất bại như ba vị Tướng Bộ Binh trong vụ Biến Động Miền Trung, thì làm gì có nền Đệ Nhị Cộng Hòa để cho hàng năm có cuộc Diễn hành Ngày Quân Lực 19 Tháng 6 một cách rầm rộ?
- Thì làm gì có vị Tổng thống mang tên là Nguyễn văn Thiệu?
- Thì ngày nay ở Hải ngoại làm gì có những nhân vật mang danh cựu Dân Biểu, cựu Thượng Nghị Sĩ, cựu Bộ trưởng?
Về phương diện Ngoại giao, Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng đã tạo những thành tích khiến cho các Quốc gia lân bang kính nể Việt Nam Cộng Hòa.- Bằng cớ là Tổng thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc đã riêng tặng Tướng Kỳ cây bảo kiếm với hàng chữ “Uy dũng Tướng Quân” và kỳ vọng Tướng Kỳ là người kế tục sự nghiệp Chống Cộng của mình.
- Quốc Vương Mã Lai phong tặng chức TUN (giống như chức Bá tước, Công tước của Pháp) cho Tướng Kỳ.
- Đặc biệt, Thủ tướng Holt của Úc mời Tướng Kỳ sang thăm viếng, thì Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn khuyên ông không nên đi, vì Phong trào Chống Chiến tranh ở Úc rất dữ dội, sẽ làm cho ông mất uy tín. Nhưng Tướng Kỳ nhất quyết đi để chứng minh cho nhân dân Úc hiểu cuộc chiến đấu của nhân dân Miền Nam là cuộc chiến tự vệ, chống làn sóng đỏ, nên có chính nghĩa. Quả nhiên, Tướng Kỳ đã hóa giải đám đông phẫn nộ của Úc và làm cho vị Dân cử – Arthur Caldwell, thủ lãnh phe đối lập – thất cử sau cuộc viếng thăm của Tướng Kỳ.
Tướng Kỳ làm Thủ tướng là thi hành nhiệm vụ của người lính do Quân Đội đề cử. Ông không chịu ơn bất cứ đảng phái nào. Cách thức của Tướng Kỳ chọn người vào Nội Các là do sự tiến cử của những chính trị gia Sài Gòn. Làm được việc thì ông lưu giữ, không làm được việc thì ông cách chức.- Ví dụ: Luật sư Đinh Trịnh Chính (Đại Việt) tiến cử Đại tá Phạm văn Liễu làm Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia, liền được ông chấp thuận. Đại tá Liễu từng Chỉ huy Thủy Quân Lục Chiến, theo Nguyễn Chánh Thi làm phản năm 1960, chạy trốn sang Nam Vang. Đại tá Liễu trong chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh sát Quốc gia, thi hành nhiệm vụ giải tán đám sư sãi biểu tình, nhưng ngầm ra lệnh cho thuộc cấp phát mặt nạ chống hơi cay cho sư sãi biểu tình. Tướng Kỳ biết được, liền cách chức Đại tá Liễu ngay lập tức, bổ nhiệm Tướng Nguyễn Ngọc Loan đang làm Giám đốc An Ninh Quân Đội, kiêm nhiệm luôn chức Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia. Điều đó chứng tỏ Tướng Kỳ không nhân nhượng bất cứ ai dựa vào thế lực Phật giáo.
Nhân tiện đây, tôi xin thuật thêm một sự kiện để các anh chiến sĩ đã từng chiến đấu dũng cảm ngoài chiến trường biết luôn.- Trước khi Tướng Kỳ sang Phi Luật Tân dự hội nghị Thượng Đỉnh, có 8 ông Bộ trưởng gốc Miền Nam đồng loạt từ chức, với mục đích gây áp lực để làm giảm uy tín của Tướng Kỳ trước buổi gặp gỡ Tổng thống Lyndon B. Johnson. Tướng Kỳ gọi từng ông Bộ trưởng vào văn phòng và hỏi các ông bất mãn về điều gì mà từ chức hàng loạt, trước khi ông đi làm công tác Ngoại Giao. Các ông Bộ trưởng đều trả lời rằng họ chẳng có điều gì bất mãn, vì không hề bị ông Thủ tướng săm soi vào việc của Bộ. Cuối cùng họ tiết lộ họ phải từ chức để bày tỏ thái độ không muốn thấy Bắc Kỳ chiếm hết quyền lợi của trí thức Miền Nam. Các anh chiến sĩ có thấy những chính trị gia mệnh danh là Việt Nam Cộng Hòa nặng tinh thần địa phương và óc bè phái có xứng đáng với sự hy sinh xương máu của chúng ta hay không? Tướng Kỳ vừa chống Việt Cộng, chống bọn Việt Cộng nằm vùng trong Phật giáo, chống cả sự chia rẽ nội bộ, mà lúc bấy giờ không chết như Tổng thống Ngô Đình Diệm là may lắm rồi.
Sau khi biết chuyện tám ông Bộ trưởng gốc Nam Kỳ đồng loạt từ chức, tôi nói với ông Võ Long Triều:- “Các anh thành lập Khối Liên Trường Miền Nam chỉ có mục đích chia miếng đỉnh chung, chứ chẳng phải vì mục đích tăng cường sức mạnh để Chống Cộng cho hữu hiệu. Các anh bất xứng, chỉ là thứ xôi thịt, mà không thấy nước đang lâm nguy vì họa cộng sản.”.
Nữ ký giả người Ý – Oriana Fallaci – có xu hướng thân Cộng, sau khi phỏng vấn Tướng Kỳ năm 1967, đã có câu kết luận như sau:- “Nguyễn Cao Kỳ đáng... là lãnh tụ của một vùng đất thiếu lãnh tụ một cách đau đớn”. Qúy vị sẽ nhận thấy điều đó khi ngỡ ngàng lắng nghe ông ta khoảng hơn 10 phút. Tướng Kỳ không phải là một anh chàng ngố, ông ta có điều muốn nói, và ông nói huỵch toẹt mà không sợ vạ miệng.”
“Một vùng đất thiếu lãnh tụ một cách đau đớn” là nhận định hết sức chính xác của một ký giả ngoại quốc. Sự nhận xét của bà Fallaci làm tôi nhớ đến Thầy Monavon dạy chứng chỉ Toán học Đại Cương (Math G) tại Đại học Khoa học Sài Gòn. Tôi hỏi Thầy:- – Thầy đánh giá thế nào về sinh viên (étudiant) Việt Nam?
Không một giây suy nghĩ, Thầy Monavon đáp:- – Vietnamiens sont bons élèves (học trò)!
Lúc bấy giờ tôi khá hãnh diện câu khen ngợi của Thầy Monavon. Nhưng sau khi từng trải đời hơn thì tôi nhận thấy rằng Thầy Monavon coi người Việt Nam giỏi mấy cũng chỉ ở mức học trò! Nghĩa là dân Việt Nam thiếu lãnh tụ một cách đau đớn!
Dân Việt Nam vốn có máu đố kỵ. Có người đã ví von sánh dân Việt Nam như một bầy cua bị nhốt trong một giỏ. Hễ bất cứ con cua nào khỏe hơn (hoặc thông minh hơn) cố gắng leo lên để thoát ra khỏi giỏ, thì lập tức con cua khác kéo xuống ngay. Nguyễn Cao Kỳ là người dám nghĩ, dám làm. Tất nhiên Nguyễn Cao Kỳ phải bị những con cua khác tìm cách hạ bệ!
Mời quý vị dành thời giở nghe bài nói chuyện khá dài của Tướng Nguyễn Cao Kỳ vào năm 2010 để có sự hiểu biết vô tư về nhân vật đặc biệt này. Nhất là những nhà viết sử công minh rất cần tham khảo để phá vỡ những tuyên truyền đầy thiên kiến do bọn đi làm Kháng Chiến bịp bợm lấy sự dối trá, lừa đảo làm mục đích mưu sinh một cách bẩn thỉu.
Sau khi nghe xong, mời quý vị đọc những lời bình của thính giả về bài nói chuyện thì sẽ thấy rõ Tướng Nguyễn Cao Kỳ là nạn nhân bởi sự trả thù của một dân tộc bị diệt chủng.
Những bài viết tới, tôi sẽ trình bày những sự kiện lịch sử mà tôi cho rằng oan hồn người Chàm đã dùng cộng sản làm công cụ để trả thù nòi giống Việt Nam.
Bằng Phong Đặng văn Âu
Địa chỉ nhà: 10200 Bolsa Avenue, Westminster, CA.92683.
Địa chỉ Email: [email protected]
Telephone: 714 – 276 – 5600.
Ngày 10 tháng 8 năm 2022.
https://khongquanc130.blogspot.com/2022 ... chive.html
- – Này anh Bằng Phong, đến bao giờ thì dân Việt Nam mình thoát họa cộng sản?”
Re: Không còn là mối nguy cơ.
-
Không còn là mối nguy cơ.
Bài Thứ Mười
______________________
Bằng Phong Đặng văn Âu _ 15/09/2022
Lời mở đầu :
Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.
________________________________________________________________
Tôi đã là một Phật tử truyền thống, bởi vì ông bà tôi, cha mẹ tôi đều là Phật tử, thì tự nhiên tôi là Phật tử. Nếu ông bà tôi, cha mẹ tôi là Công giáo, tự nhiên tôi là người theo đạo Công giáo. Chẳng qua, tín ngưỡng của mỗi người là do môi trường sống, không ai tự lựa chọn khi mới chào đời. Khi tôi xin rửa tội theo đạo Chúa, thì lúc ấy mới thật sự là lựa chọn của tôi. Tôi không rõ nguyên do nào mà những nhân vật tên tuổi đã lựa chọn theo đạo Chúa. Ngay cả người anh ruột của tôi là Đặng văn Châu hoặc người anh thúc bá của tôi là Đặng văn Sung, tôi cũng không rõ nguyên nhân nào họ xin rửa tôi theo đạo Chúa.
Năm 2015, có ba sự kiện ảnh hưởng đến quyết định sự chọn lựa của tôi:
- 1/ Tôi bị giải phẫu tim banh ngực. Sau khi được tiêm thuốc mê, tôi ở trong trạng thái mơ mơ màng màng, thì chợt thấy Mẹ tôi hiện về, mà sao trông giống Đức Bà Maria quá sức. Tôi thầm cầu xin Mẹ tôi phù hộ cho tôi tai qua nạn khỏi, vì có một số công việc tôi chưa hoàn thành. Công việc đó là lý giải vì sao đất nước Việt Nam ra nông nỗi này, theo sự suy nghĩ của tôi.
- 2/ Doanh gia Donald Trump ra tranh cử Tổng thống. Ban đầu, tôi nghĩ rằng ông muốn nổi tiếng để nhiều người biết tới tên tuổi của một nhà tỷ phú. Không ngờ ông nghiêm chỉnh muốn cứu nguy đất nước Hoa Kỳ và ông đã đánh bại 16 đối thủ trong đảng Cộng Hòa, mà người nào người nấy đều có một quá khứ chính trị rất thâm hậu. Tiếp theo, ông đánh bại luôn ứng cử viên Hillary Clinton, một người đàn bà đầy tham vọng chính trị, nhiều mưu mô xảo quyệt, lại được Barack Hussein Obama yểm trợ hết minh. Không phải chỉ riêng tôi, nhiều người Mỹ cũng tin rằng ông Donald Trump đắc cử là nhờ bàn tay của Thiên Chúa nhiệm mầu. Tôi chẳng phải là người mê tín dị đoan, nhưng qua trải nghiệm bản thân, tôi nhận thấy điều gì đã xảy ra cho mình, dường như có sự an bài của Thượng Đế, giống như người Công Giáo thường tin “một sợi tóc rơi cũng là ý Chúa”.
Bốn năm cầm quyền, mặc dầu bị đối phương dùng tất cả trò bẩn thỉu nhất, đê tiện nhất để đánh phá, nhưng Tổng thống đã vượt qua và đạt được những thành tích ngoài sự mong đợi của người Mỹ. Ông Trump vượt cả thành tích của người tiền nhiệm nổi tiếng – Tổng thống Ronald Reagan – có 8 năm cầm quyền. Ai nấy đều tin tưởng Tổng thống Donald Trump sẽ tái đắc cử năm 2020 một cách dễ dàng, do thành tích sáng chói và do đối thủ là Joe Biden, một ông già ngớ ngẩn, có quá khứ là kẻ đạo văn, hối mại quyền thế trong vụ đòi Tổng thống Ukraine phải bãi chức công tố viên đang điều tra tham nhũng và vụ “scandal” của cậu con trai – Hunter Biden – mà ông Biden có dính líu. Thế nhưng Tổng thống Donald Trump đã thất cử. Lần này, tôi càng tin sự thất cử của Tổng thống Donald Trump cũng là ý Chúa. Tại sao? Tôi nghĩ rằng Chúa muốn Tổng thống Donald Trump thất cử là để cho quần chúng Mỹ thấy rõ bộ mặt thật của bọn làm chính trị Mỹ bất lương, đang dùng phương châm của cộng sản “cứu cánh biện minh phương tiện” để giành quyền thống trị đất nước về tay mình bằng mọi giá, bất kể vi luật, phi đạo đức. Càng suy nghĩ, tôi càng thấy sự mầu nhiệm của Thiên Chúa đầy quyền năng. “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Tôi cảm thấy mình có diễm phúc đã thấy việc làm của Chúa mà bên Đạo Phật gọi là “huệ nhãn”.
3/ Từ những ngày đang chiến đấu chống lại quân thù, mỗi khi bay phi vụ bao vùng về đêm trên không phận Sài Gòn, Cần Thơ để bảo vệ sự an lành của đồng bào mình, mà nếu không có mục tiêu tác xạ, thì hoa tiêu trưởng và hoa tiêu phó thay phiên nhau lái phi cơ bay vòng chờ; còn điều hành viên, cơ phi, xạ thủ, áp tải có thể ngủ nghỉ để dưỡng sức. Trong cái tĩnh mịch giữa trời đêm bao la, tôi thường suy nghĩ về nỗi bất hạnh của nòi giống Việt do cộng sản gây nên. Dựa theo câu nói của tiền nhân “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, tôi suy nghĩ mông lung để rồi tự hỏi: “Phải chăng các bậc vua chúa thời trước đã phạm vào một tội ác nào đó, khiến cho con dân phải hứng chịu hậu quả ngày hôm nay”? Từ đó, tôi suy đoán, phải chăng oan hồn của người Chàm hận thù vì vua quan Nhà Nguyễn đã có một chính sách quy mô để hủy diệt nòi giống họ, thì nay họ báo oán bằng một lời nguyền rủa: “Ta (dân Chàm) sẽ làm cho cả dân tộc Việt Nam chúng bay trở nên ngu si, đần độn, tàn bạo, điêu ngoa, gian ác, tôn thờ ĐẠO QUỶ SỨ, khiến cho anh em dòng họ chúng bay đấu tố nhau, chém giết nhau, phản bội nhau, chia rẽ nhau, đố kỵ nhau, người yêu nước bị chà đạp, đứa gian manh được tôn vinh cho đến khi nào nòi giống chúng bay bị tận diệt như chúng tao thì mới thôi!”
Tất cả những sự kiện đã xảy ra đều ứng với lời nguyền rủa của oan hồn dân Chàm. Tôi tự hỏi:
Đây là một vấn đề thuộc lãnh vực tâm linh huyền bí, nếu tôi viết ra thì khó có ai chia sẻ với mình. Và nếu truy nguyên tội ác của vua chúa Nhà Nguyễn, thì tôi không sao tránh khỏi bị các hoàng thân quốc thích của nhà Nguyễn vì tự ái dòng họ, sẽ lên án tôi nặng nề. Tôi cứ đắn đo, ngần ngại mãi cho đến khi một cơ duyên rất tình cờ giúp tôi vượt qua nỗi lo lắng.
Nhân dịp anh Lê Đào tổ chức buổi họp mặt các cựu học sinh Quốc Học cùng lớp với anh tại Quận Cam, tôi tình nguyện làm tài xế đón các anh chị ở xa về dự, mặc dầu tôi không cùng lớp với họ. Về tới địa điểm hẹn để ngày mai tham dự Đại Hội, các anh chị tíu tít mừng rỡ hỏi thăm nhau vì lâu ngày không gặp gỡ. Một người trong nhóm đặt cho tôi câu hỏi:
– Theo bạn Bằng Phong, đến bao giờ thì dân mình mới hết tai họa cộng sản?
Sở dĩ các anh đặt câu hỏi ấy với tôi là vì các anh thấy tôi luôn luôn trăn trở thân phận giống nòi qua các bài viết. Tôi đáp:
– Có lẽ dân mình bị oan hồn người Chàm trả thù, vì tổ tiên mình đã tiêu diệt dân tộc họ. Việt Cộng là công cụ được oan hồn người Chàm sử dụng để tiêu diệt nòi giống ta.
Khi nghe tôi trả lời câu ấy, anh Hương An Võ văn Dật liền nói:
– Thầy Lê Tuyên có viết một bài với tựa đề Đường Về Chiêm Quốc đăng trên đặc san Đại Học Huế, cũng đề cập vấn đề như anh Bằng Phong nghĩ. Khi trở về San Jose, tôi sẽ gửi cho Bằng Phong tờ đặc san Đại Học Huế để anh nghiên cứu.
Sau khi nhận cuốn đặc san từ anh Dật qua “Attach file”, tôi vội tìm ngay bài viết của Giáo sư Lê Tuyên, thì đọc thấy mẩu chuyện có nội dung được tóm tắt như sau: “Trước khi lên đường về nước, Giáo sư Lê Tuyên cùng với mấy người bạn đi thăm một Nhà thờ Công giáo tại Tây Ban Nha có tên Santander. Mấy vị khách Việt Nam vừa đặt chân đến sân Nhà thờ, một vị Linh Mục từ bên trong bước ra chào đón phái đoàn và nói:
– Tôi biết có vị trong các ông sẽ trở về Việt Nam. Tôi xin nói cho quý vị biết Việt Nam đã mất vào tay của người Chàm, nên nước Việt Nam đâu còn nữa để mà trở về. Nếu quý vị có về thì đến một ngày nào đó quý vị cũng phải ra đi.
Vị Linh Mục tiết lộ rằng Ngài tu theo dòng Thánh Mathews, có thể đoán biết chuyện quá khứ, vị lai. Mặc dầu tôi (Linh Mục) chưa bao giờ có vinh dự đặt chân đến Việt Nam, chưa bao giờ đọc lịch sử nước Việt Nam. Rồi Ngài đọc một câu thơ Kiều của Nguyễn Du: “Nghiệp duyên cân lại, nhắc đi còn nhiều”.
Câu chuyện vị Linh Mục nói với các du khách Việt Nam vào năm 1955. Tức là, theo vị Linh Mục, Việt Nam ta đã mất trước năm 1955, chứ không đợi đến ngày 30 tháng 4 năm 1975! Tôi tự hỏi tại sao Giáo sư Lê Tuyên không yêu cầu Linh mục Cao văn Luận trình với Thủ tướng Ngô Đình Diệm về lời tiên tri của Linh mục người Tây Ban Nha? Biết đâu ông Diệm, tuy là người Công giáo, nhưng vì yêu nước, yêu dân, Ngài sẽ tổ chức một buổi lễ tạ tội với Trời Đất tại Đàn Nam Giao nhằm giải oan cho dân tộc Chàm, thì nước Việt Nam sẽ thoát họa Cộng sản?
Nếu tôi không tình nguyện làm tài xế cho các anh chị Quốc Học về họp mặt tại Quận Cam, thì chẳng bao giờ tôi biết đến bài viết của Giáo sư Lê Tuyên để khẳng định về việc dân tộc Việt Nam mình bị oan hồn người Chàm trả thù. Cho nên, tôi nghĩ đến cái việc tôi tình nguyện làm tài xế cho các anh chị Quốc Học cũng do ý Chúa muốn cho tôi biết có vị Linh Mục Dòng Tên đã nói cho Giáo sư Lê Tuyên và bạn hữu của ông biết nước Việt Nam đã bị người Chàm lấy lại.
Bởi những nguyên do nêu trên, tôi đã xin rửa tội theo chân Chúa vào dịp lễ Phục Sinh vào năm 2021. Tôi nói với Thầy Tư Tế rằng tôi chỉ tin Chúa và những Linh mục giữ giáo điều của Chúa. Nhưng tôi không im lặng trước vị chủ chăn nào (dù là Giáo hoàng) mà có tư tưởng theo xu hướng xã hội chủ nghĩa kiểu Cộng sản. Với tôi, cộng sản là Quỷ sư Sa-tăng.
Trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975, có tin đặc công Việt Cộng đang phá dây kẽm gai hàng rào phòng thủ căn cứ Tân Sơn Nhất, anh em phi công nhào ra phi cơ vội vàng quay máy, di chuyển, cất cánh bay sang Utapao, căn cứ Không Quân của Mỹ trên đất Thái Lan. Tự nhiên, trong đáy lòng tôi dâng lên một lời hứa “Mẹ ơi! Con sẽ trở về!” Giống như Đại tướng Douglas MacArthur hứa hẹn “I shall return” vào ngày 20 tháng 10 năm 1944, khi ông rời Phi Luật Tân. Kể từ ngày mất nước, suốt bao nhiêu năm cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn tơ tưởng đến ngày về để giải phóng dân tộc. Cứ lầm lũi hoạt động trong âm thầm, tôi khám phá ra rằng người Việt Tị Nạn ở Hải Ngoại cũng bị lời nguyền rủa của oan hồn Người Chàm mà trở nên xuống cấp thê thảm.
Như tôi đã nói từ đầu, tôi không phải là người mê tín dị đoan, cũng không phải là nhà nghiên cứu tâm linh hay thần học. Nhưng tôi tin, con người sinh ra gồm phần xác và phần hồn. Và luật Nhân Quả không phải chỉ có Phật giáo đề cập tới, mà trong Kinh Thánh của người Công giáo cũng nói tới. Người ta bảo rằng trong nhân loại, dân tộc này tiêu diệt dân tộc kia là chuyện thường, tại sao tôi cứ cho rằng dân tộc Việt Nam mình khốn khổ, khốn nạn là do sự quả báo của oan hồn người Chàm? Xin trả lời:- “Tôi không rõ chuyện nhân quả của các dân tộc khác. Tôi chi chiêm nghiệm đến dân tộc mình mà thôi”.
- “Con hãy viết chính xác những gì con đã trải nghiệm trong đời để mai sau những nhà nhân chủng học đỡ mất thời giờ tìm hiểu vì sao dân Việt bị diệt chủng".
Ông Ngô Đình Diệm dự định vào dòng tu, vì tự cảm thấy bất lực, không thể làm được gì cho đất nước. Năm 1954, các thế lực Quốc tế chia đôi nước Việt Nam. Vua Bảo Đại mời ông sang Paris để giao cho ông nhiệm vụ lãnh đạo Miền Nam. Ông Diệm nhất định từ chối, vì tự thấy không thể đảm đương nổi một phần đất tan hoang vì chiến tranh, lòng người ly tán vì không nhìn thấy hiểm họa cộng sản. Cuối cùng, vua Bảo Đại đặt vấn đề trung thành với triều đình Nhà Nguyễn, với dân tộc Việt Nam trên vai ông, thì ông Diệm đành miễn cưỡng nhận lời, sau khi xin phép Hoàng thượng cho ông sang phòng bên để cầu xin Đức Mẹ phò trợ và soi sáng.
Ông Ngô Đình Diệm là nhà lãnh đạo có khả năng xây dựng một vùng đất đổ nát vì chiến tranh, một Thủ đô do những anh hùng tứ chiến của Thực dân Pháp để lại gồm có Xóm Bình Khang đĩ điếm, hai sòng bạc Kim Chung, Đại Thế giới, trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông.
Ông Ngô Đình Diệm là nhà lãnh đạo có lòng nhân ái và tôn trọng trí thức. Ông Hà Thúc Ký lãnh đạo đảng Đại Việt ở Miền Trung, kéo quân ra Ba Lòng lập chiến khu chống lại Chính phủ, lập đài phát thanh lên án chế độ độc tài và âm mưu sát ông Diệm. Nhưng khi bị bắt, ông Hà Thúc Ký không hề bị tra tấn, mà vợ ông còn được giúp đỡ tài chánh và con ông vẫn được đi đến trường như những học sinh bình thường. Năm 1960, hai sĩ quan Tình báo của Thực dân Pháp là Vương văn Đông, Trần Đình Lan làm cuộc đảo chánh. Nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam có dính líu, nhưng không bị bắt bỏ tù. Bác sĩ Phan Quang Đán lên đài phát thanh đọc bản cáo trạng lên án chế độ. Cuộc đảo chánh thất bại, bác sĩ Phan Quang Đán bị bắt, viết lời thú tội và khóc lóc rất thảm thiết. Công An đề nghị đem cuốn băng tự thú tội của bác sĩ Phan Quang Đán lên đài phát thanh đọc cho dân chúng nghe. Nhưng Tổng thống Diệm không đồng ý, vì hành động như thế là làm nhục người trí thức không khác gì Việt Cộng. Thử hỏi trong lịch sử Việt Nam có vị vua nào có lòng nhân đức và lòng kính trọng trí thức hơn Tổng thống Ngô Đình Diệm?
Ông Ngô Đình Diệm là nhà lãnh đạo rất quan tâm đến tương lai Phật giáo. Ông đã cho phép tu sĩ Phật giáo xuất ngoại du học để nâng cao trình độ kiến thức của tăng sĩ. Ông ra lệnh trùng tu những ngôi chùa bị đổ nát vì chiến tranh. Ông cho phép xây thêm chùa mới, mở trường Tư thục Bồ Đề để dạy cho học sinh không thi đỗ vào trường công lập và tự do phát triển các Khuôn hội Phật giáo cũng như Gia đình Phật tử. Thế nhưng những tên Việt Cộng đội lốt nhà sư như Trí Quang và băng đảng chụp mũ cho Tổng thống Diệm đàn áp Phật giáo để phát động cuộc đấu tranh lật đổ chế độ!
Không có một ông Bộ trưởng nào có tín ngưỡng Phật giáo trong Nội Các và không có một ông Tướng nào có tín ngưỡng Phật giáo trong Quân Đội có cái dũng để tố giác cuộc đấu tranh của bọn Trí Quang là láo khoét. Chỉ có ông Bộ trưởng Ngoại giao Vũ văn Mẫu là một loại chính trị gia cơ hội, rất được Tổng thống Diệm quý trọng, lại bày đặt cạo trọc đầu để ủng hộ bọn Việt Cộng nằm vùng trong Phật giáo. Tôi cho rằng Phật giáo – một tôn giáo đặt sự Từ Bi trên hết, không dám giết một con kiến – lại bị tên thầy chùa Trí Quang mang Ngài Quảng Đức ra nướng (barbecue) vì mục đích chính trị, mà không một nhà trí thức nào của Phật giáo thấy được hành vi bất nhân của bọn Trí Quang là giết chết Đạo Phật, thì rõ ràng sự nguyền rủa của oan hồn người Chàm đã làm cho giới tăng lữ trở nên vô minh (ngu) và hèn hạ.
Tổng thống Ngô Đình Diệm là nhà lãnh đạo duy nhất trong lịch sử Việt Nam có cuộc sống khổ hạnh như một nhà tu, nằm ngủ trên tấm phản bằng gỗ kê ngay trong phòng làm việc và ăn uống cũng rất đạm bạc, nhưng lại bị bọn Việt Cộng nằm vùng bịa đặt nhiều chuyện tồi bại, như quan hệ tình dục với cô em dâu Trần Lệ Xuân. Trong khi ở Miền Bắc, Hồ Chí Minh là con quỷ râu xanh được bọn nịnh thần tung hô như vị thánh sống! Sự láo khoét của cộng sản thật đáng ghê tởm!
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, bọn Tướng lãnh được xem là trung thành với chế độ như Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm, Trần văn Đôn, Mai Hữu Xuân … đã nhận tiền của Mỹ để làm cuộc đảo chánh. Tôi thật sự không hiểu tại sao những cơ quan Tình Báo, Phản Gián khác nhau gửi báo cáo cho Tổng thống biết Tướng Dương văn Minh đã bị người em là Dương văn Nhật, một Đại tá Việt Cộng, móc nối để làm phản, mà Tổng thống lại sai Đại tá Nguyễn văn Y – Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc Gia – mang tất cả hồ sơ đốt đi? Tại sao Tổng thống Diệm không đưa nội vụ qua Tòa Án để xử tội phản quốc của Dương văn Minh, hay ra lệnh Cơ quan An ninh bám sát hành vi của Dương văn Minh để phòng ngừa bạo loạn? Có phải oan hồn người Chàm khiến xui, đưa Tổng thống Diệm đến sự sai lầm nuôi ong tay áo, để rồi Dương văn Minh ra lệnh Mai Hữu Xuân giết anh em Tổng thống?
Sau đảo chánh, Dương văn Minh ra lệnh phá hủy 16 ngàn Ấp Chiến Lược chống lại chủ trương “lấy nông thôn bao vây thành thị” của Việt Cộng, giống như Kibbutz của Do Thái dùng để bảo vệ dân khỏi sự tấn công của quân khủng bố Hồi giáo Palestine. Ở Miền Bắc, bọn cầm quyền Việt Cộng rất vui mừng khi được tin 16 ngàn Ấp Chiến Lược đã bị phá hủy, nhưng trong Nam thì không có một ông Tướng nào phản đối hành động của Dương văn Minh là nối giáo cho giặc. Xin hỏi tất cả anh em quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có cảm thấy nhục nhã vì phục vụ dưới quyền những ông Tướng ươn hèn và kém tầm nhìn chiến lược? Nhìn Tướng mạo của ông “Big Minh” cao lớn, mập mạp và nước da ngâm ngâm đen, tôi đã tự hỏi:- – Phải chăng tiền kiếp của Đại tướng Dương văn Minh là người Khmer đầu thai làm một ông Tướng Việt Nam, giết chết nhà ái quốc Ngô Đình Diệm để trả thù nhà Nguyễn đã chiếm lấy đất đai của Khmer?
Người Mỹ tự hào vì nghĩ rằng nước Mỹ đứng đầu nền kinh tế thế giới và có một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất hoàn cầu, thì họ thừa sức ngăn chặn làn sóng đỏ cộng sản từ Miền Bắc tràn xuống. Nhưng người Mỹ đã thất bại ê chề, vì họ đến giúp một dân tộc bị quỷ ám bởi lời nguyền rủa của oan hồn người Chàm. Chính nhà lãnh đạo Mỹ cũng bị oan hồn người Chàm ám, nên đã bỏ tiền ra thuê bọn phản tướng làm đảo chánh, giết chết nhà ái quốc Ngô Đình Diệm, kéo theo sự thất trận năm 1975. Tại sao tôi dám nghĩ như thế? Tại vì Hoa Kỳ chỉ cần ra lệnh bọn cầm quyền Hà Nội phải rút quân về Miền Bắc, nếu bọn Việt Cộng bất tuân thì Hoa Kỳ sẽ đánh tan con đê sông Hồng Hà vào mùa nước lớn, ắt Việt Cộng sợ cả Thủ đô của chúng trôi ra biển, mà phải tuân hành. Bất chiến tự nhiên thành là ở chỗ đó! Nước Mỹ sẽ không bị mất 58 ngàn quân tinh nhuệ và không tốn hàng chục tỷ đô-la cho chiến tranh.
Có nhiều sự kiện đưa đến nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa bị cáo chung. Nhưng chủ yếu là thành phần lãnh đạo đảng phái, lãnh đạo tôn giáo, lãnh đạo Quân Đội và trí thức của Việt Nam bị quỷ ám, trở nên ngu dốt, phản bội nhau, nên đưa đến sự chiến thắng của con quỷ cộng sản.
Tôi có đọc cuốn sách nói về ông nói Edgar Cayce dùng thôi miên mà có thể biết tiền kiếp của một người. Trong Việt Nam, mặc dầu cộng sản vô thần, nhưng có khoa Cận Tâm Lý nghiên cứu về tâm linh.
Ông Trần Phương, Phó Thủ tướng Việt Cộng, cũng như Tướng Trần Độ, Phó Chính Ủy Trung Ương Cục Miền Nam, đều có bài tường thuật nhờ những nhà ngoại cảm mà tìm ra mộ của em gái bị chết dưới thời kháng chiến chống Pháp. Tôi đoán rằng có lẽ những nhà ngoại cảm trong nước đều biết rõ tiền thân của Hồ Chí Minh, nhưng không dám nói ra, vì sợ bị chế độ trù dập. Tôi rất mong muốn sau này có nhà ngoại cảm có thể biết được tiền kiếp của ông Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, của Tổng thống (1 ngày) Dương văn Minh là ai để thỏa mãn mối tin tưởng của mình.
Bài viết tiếp theo, tôi sẽ đề cập đến nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Xin độc giả kiên nhẫn đón xem.
Bằng Phong Đặng văn Âu
Ngày 15 tháng 9 năm 2022.
Địa chỉ nhà: 10200 Bolsa Avenue, Westminster, CA.92683.
Địa chỉ Email: [email protected]
Telephone: 714 – 276 – 5600.
https://khongquanc130.blogspot.com/2022/09/
- 1/ Tôi bị giải phẫu tim banh ngực. Sau khi được tiêm thuốc mê, tôi ở trong trạng thái mơ mơ màng màng, thì chợt thấy Mẹ tôi hiện về, mà sao trông giống Đức Bà Maria quá sức. Tôi thầm cầu xin Mẹ tôi phù hộ cho tôi tai qua nạn khỏi, vì có một số công việc tôi chưa hoàn thành. Công việc đó là lý giải vì sao đất nước Việt Nam ra nông nỗi này, theo sự suy nghĩ của tôi.