- 30/04/2021 - tưởng niệm 46 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5410
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Tháng Tư Nhớ Bạn

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Tháng Tư Nhớ Bạn




    (đặc biệt tặng các bạn Khóa 18 Thủ Đức)


    Trước những ngày Tháng Tư buồn, tôi lại nhận thêm một tin buồn: Đồng môn Võ Văn Khoa vừa vĩnh viễn ra đi. Với tôi, anh Khoa không những là bạn cùng Khóa 18 Thủ Đức mà sau này, vì gốc giáo chức, nên theo nhu cầu của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, anh được biệt phái về dạy ở trường Võ Tánh Nha Trang, ngôi trường trung học nổi tiếng ở quê tôi mà trước kia tôi đã từng theo học. Do đó chúng tôi nặng thêm mối thâm tình. Ngay từ những ngày còn trẻ, anh đã nghiên cứu, tu tập và viết nhiều sách về Thiền Học, cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Anh sống thanh đạm, chân thành, đạo hạnh, luôn hết lòng giúp đỡ tha nhân. Sau khi sang Mỹ một thời gian, anh trút bỏ mọi phiền não thế gian, xuất gia đi tu, trở thành Thiền Sư Di Như nổi tiếng của một Thiền Viện ở Las Vegas, do chính anh sáng lập và giảng dạy. Nhờ vào trình độ và đức độ, anh đã quy tụ đông đảo môn đệ. Vì vậy trên trang cáo phó được viết: “Sư Thầy Di Như Võ Văn Khoa viên tịch.”

    Tuy biệt phái về làm nghề dạy học, nhưng trong hồ sơ lý lịch, anh vẫn còn mang cấp bậc đại úy và phục vụ nhiều năm trong ngành Chiến Tranh Chính Trị, từng đóng góp cho việc hình thành và giảng dạy cho Trường Đại Học CTCT Đà Lạt, nên sau khi Cộng Sản chiếm Nha Trang, đầu tháng 4/75, anh bị tù đày nhiều năm. Ra tù, anh trở về Nha Trang, làm nghề sửa xe đạp ở một góc đường, ngay phía sau ngôi trường cũ mà anh từng dạy học. Thời buổi ấy gần như gia tài mỗi người chỉ còn mỗi chiếc xe đạp. Cùng cảnh thất cơ lỡ vận, nên anh thường nhắn các cựu giáo chức đồng nghiệp và học sinh của mình, khi nào xe bị hư, cứ mang đến để anh sửa miễn phí.

    Tang lễ được tăng đoàn tổ chức rất trang trọng tại Peek Funeral Home, Westminster, California. Số người đến viếng và tiễn đưa anh khá đông. Ngoài một số giáo chức đồng nghiệp, những cựu đồng môn Khóa 18 Thủ Đức, số đông đảo còn lại là những đồng đạo của anh. Chúng tôi được sự đón tiếp nồng hậu của gia đình và đặc biệt của tăng đoàn, mà hầu hết là những học trò, môn đệ của anh. Nhìn cung cách của họ, chúng tôi hiểu được lòng tôn kính và hết mực tiếc thương mà họ dành cho vị Sư Thầy của mình. Cùng với những đồng môn Khóa 18 Thủ Đức, đứng trước linh cữu, đưa tay lên chào vĩnh biệt anh, bỗng tôi thấy lòng mình chùng xuống, bâng khuâng. Cả buổi trưa hôm ấy, tôi mênh mang nhớ tới bạn bè, đồng môn, đồng đội cũ. Hình dung từng khuôn mặt của những thằng bạn thân thiết đã hy sinh trên các chiến trường, hay chết đau đớn tức tưởi trong các trại tù, và một số đông đã phải bỏ quê ra đi, đang sống lặng lẽ đâu đó trên xứ người, mỗi người mỗi cảnh, nhưng có cùng một nỗi đau chung, khi giấc mơ trở về lại trên quê hương ngày một héo hắt, mỏi mòn. Có thằng đã tự vẫn.

    Ký ức bắt đầu đưa tôi trở về ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, nơi từng tọa lạc một quân trường nổi tiếng đã có mặt từ những năm đầu thập niên 1950, đào tạo hầu hết những sĩ quan trừ bị, có rất nhiều vị đã trở thành những tướng lãnh lẫm liệt một thời, có vị đã tuẫn tiết vào giờ thứ 25 để giữ tròn tiết tháo: Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ…

    Khóa 18 chúng tôi ra trường ngày 18.3.1965 với 1219 tân sĩ quan, vốn xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau, và được phân phối về đủ các quân, binh chủng, các ngành chuyên môn, các quân trường, đặc biệt còn được biệt phái về một số cơ quan hành chánh, các cấp bộ, nha, sở. Hôm nay, trong những đồng môn Khóa 18 đến tiễn biệt anh Võ Văn Khoa, tôi được gặp lại một số anh em thân quen, từng phục vụ ở những đơn vị khác nhau như thế. Anh Nguyễn Văn Lân: trước khi nhập ngũ là giáo sư của một Collège Français, ra trường về làm việc ở Bộ Ngoại Giao; bạn Đào Minh Hùng: Thiếu Tá của Liên Đoàn 81 BCND, một đơn vị nổi danh ở các chiến trường đẫm máu nhất; bạn Nguyễn Nhật Minh: Thiếu Tá Trưởng Ty ANQĐ Lâm Đồng; bạn Vũ Ngọc Bích: Thiếu Tá của Cục Mãi Dịch, các anh Nguyễn Ngọc Kỳ, Bùi Trọng Nghĩa, Nguyễn Thế Hùng: CTCT, bạn Lê Trường Xuân: Biệt Động Quân, Nguyễn Thanh Thế, Trần Minh: Bộ Binh, Đỗ Văn Đạt: HCTC, và đặc biệt có bốn người bạn cùng Trung đội 14/ Đại đội 4 SVSQ với tôi: anh Nguyễn Xuân Hồng: giảng viên Trường Sinh Ngữ Quân Đội, về sau trở thành Mục Sư Tin Lành và phục vụ tại Nha Tuyên Úy; Phạm Duy Cường: CTCT, Nguyễn Văn Long: Thiết Giáp và Nguyễn Hồng Tâm: SĐ5BB, người trẻ tuổi nhất của Đại Đội 4.

    Gặp lại nhau, cũng là dịp để điểm danh, xem ai còn ai mất, cùng ngậm ngùi cho phần số của mỗi người.

    Riêng Đại Đội 4 và Trung Đội 14 SVSQ của chúng tôi cũng có nhiều điều đặc biệt khó quên. (Đại Đội 4 là hậu thân của Đại Đội 10 trong giai đoạn 1.) Cán bộ đại đội trưởng là Trung úy Phan Tấn Mỹ, tốt nghiệp Khóa 13 Võ Bị Đà Lạt, từ binh chủng TQLC thuyên chuyển về Trường, sau khi mãn một khóa học ở Hoa Kỳ. Ông là nhà thơ được nhiều người biết đến dưới bút hiệu Ý Yên (cũng là tên của quê hương ông ở miền Bắc). Ông có cung cách và tâm hồn của một thi sĩ hơn là một ông quan nhà binh. Biết SVSQ nào làm thơ, ông thường gọi lên văn phòng đại đội uống trà bàn chuyện thơ văn. Đi bộ cùng SVSQ ra bãi tập, thỉnh thoảng ông hứng chí đọc lên mấy câu thơ ông vừa nghĩ ra hay sáng tác. Chẳng bao giờ phạt ai và mỗi khi có SVSQ nào bị Quân Cảnh 301 bắt, ông liền chạy đến nhận về. Trung đội trưởng Trung đội 14 của bọn tôi là Thiếu úy Trần Bá Linh, Khóa 12 Thủ Đức. Ông là bào đệ của Thiếu tướng Trần Bá Di, rất thẳng thắn, kiệm lời, có thái độ bất cần, chẳng biết “ngán” ai, nên bọn tôi cũng dễ thở mà cũng có lắm khi hồi họp, lo âu.

    Ba tuần trước ngày mãn khóa, một số trong đại đội đã biết mình được bổ nhậm hay biệt phái về đơn vị, cơ quan nào. Đặc biệt có hai đồng môn đầu tiên nhận lệnh về Trường Võ Bị Đà Lạt làm giáo sư Văn Hóa Vụ. Hai anh lại là bạn đồng nghiệp trước khi nhập ngũ, là giáo sư ở Đại Học Khoa Học. Trong cuộc thực tập cuối khóa, hành quân cấp đại đội suốt ba ngày đêm ở một bãi tập bên bờ sông Đồng Nai, khi diễn tập bài đại đội tấn công đêm lên đồi, một trong hai anh bị một quả đạn (chiếu sáng) súng cối 60 ly không nổ rơi trúng, ghim sâu vào lưng, làm tử thương tại chỗ. Tôi là một trong số những đồng môn được chỉ định về Tổng Y Viên Cộng Hòa, luân phiên đứng gác bên quan tài anh ba ngày trong “Nhà Vĩnh Biệt”, chứng kiến nỗi đau buồn, than khóc thống thiết của gia đình, đặc biệt vị hôn thê của anh, và nghe lời chia buồn, tiễn biệt của đồng nghiệp bạn bè và những sinh viên từng học với anh. Trong các bài điếu văn, ai cũng ca ngợi và thương tiếc anh, một vị giáo sư tài ba đức độ. Tôi ngậm ngùi, tiếc cho một người có tài mà yểu mệnh. Và đó là người bạn đồng môn, cùng khóa của tôi đã hy sinh đầu tiên, trước ngày tốt nghiệp. Người còn lại, anh Phùng Văn Bộ, ngay sau khi dự đám tang đưa tiễn bạn mình và lễ mãn khóa, đã một mình cô đơn lên trình diện Trường Võ Bị. (Cũng có thể có vài anh ở đại đội khác cùng được bổ nhậm về Trường Võ Bị mà tôi không biết.)

    Một đồng môn khác cũng đã âm thầm chia tay trong trường hợp không vui. Khi cuộc hành quân thực tập chưa kết thúc, anh được gọi tên, lên xe về trình diện Trung tá Đào Duy Ân, Tham Mưu Trưởng. Ngày mãn khóa, anh không có mặt. Chúng tôi rất buồn và ngạc nhiên khi biết người bạn đồng môn hiền lành, dễ mến này đã bị đưa ra đơn vị với cấp bậc binh nhì. Năm 1973, trong một lần đến QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang thăm một sĩ quan cùng đơn vị bị thương nặng đang điều trị ở đây, bất ngờ tôi gặp lại anh, khi ấy anh là y tá với cấp bậc Hạ sĩ 1. Hai thằng nhìn nhau, bắt tay rồi ôm lấy nhau trong sự ngỡ ngàng. Anh vẫn sống độc thân trong căn phòng nhỏ thuê ở gần QYV. Buổi chiều, tôi lái xe đưa anh về căn phòng trọ này để anh thay áo quần dân sự, sau đó chúng tôi ra một cái quán bên bờ biển uống rượu tâm tình, nhưng tôi ngại không dám hỏi lý do vì sao anh bị ra trường non với cấp bậc binh nhì như thế. Ăn uống xong, thay vì về nhà, anh nhờ tôi đưa anh đến một ngôi trường gần đó. Anh dạy Anh văn cho một lớp đêm ở đây. Lúc còn trong quân trường, anh nằm giường kế bên tôi, là người gốc Quảng Bình, một con chiên ngoan đạo, rất tư cách, vui vẻ hiền lành, mọi người đều quí mến, nên lúc anh gặp tai ương, dù không biết lý do gì, ai cũng ngạc nhiên và tội nghiệp anh.

    Người tử trận đầu tiên của Trung Đội 14 chúng tôi là bạn Dương Văn Chánh. Chánh là một trong số rất ít được chọn về Binh Chủng Nhảy Dù. Có lẽ vì Chánh là em vợ của Tướng Trương Quang Ân, lúc ấy đang là Trung Tá, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 2 ND. Sau khi tốt nghiệp khóa Căn Bản Nhảy Dù, Chánh được bổ sung cho Tiểu Đoàn 7 ND, và bị tử thương ngay trong trận đánh đầu tiên, trận Đồng Xoài, vào cuối tháng 6.1965. Một trận chiến đẫm máu khi lần đầu tiên Cộng quân đã sử dụng một lực lượng đến cấp sư đoàn. Trước khi nhập ngũ, Chánh học ở Luật Khoa. Da đen, giọng nói khàn khàn, ít nói, trông tướng tá hơi “ngầu”, nhưng rất hiền hậu, dễ thương.

    Dù là sĩ quan trừ bị, nhưng Khóa 18 của chúng tôi đã đóng góp rất nhiều chiến công và xương máu cho cuộc chiến bất hạnh này. Bạn bè tôi không chỉ đã hy sinh trên chiến trường, mà còn chết oan khiên trong các trại tù man rợ của Cộng Sản, và có người đã chết trên xứ người bởi vì hệ lụy từ cuộc chiến bất hạnh, mà “bên thắng cuộc” lại là bọn người gian ác bị mê hoặc bởi một chủ thuyết man rợ.

    Tôi nhớ tới Trần Công Lâm, một thằng bạn cùng Trung Đội 14, nó nằm giường trên, tôi giường dưới, nên hai thằng trở thành đôi bạn thân thiết nhất. Quê ở tận Nha Trang, nên những ngày cuối tuần về phép, tôi thường theo về nhà nó ở khu Bình Triệu, cùng đi chơi với cô vị hôn thê, sau này là vợ của nó. Lâm có ông anh là thượng sĩ, nhân viên Phòng Nhất của Bộ Tư Lênh Lực Lượng Đặc Biệt đồn trú tại Nha Trang, ngay trên quê tôi. Nó bảo đã nói chuyện với ông anh và ông cam kết là hai thằng bọn tôi sẽ được chọn về binh chủng này trước ngày mãn khóa. Thấy tôi có vẻ hoài nghi, nó bảo, dù chỉ mang cấp bậc thượng sĩ, nhưng ông anh khá thân thiết và là cánh tay mặt của ông trưởng phòng, nên chuyện chọn hai thằng về LLĐB chỉ là chuyện nhỏ. Thực tình, lúc ấy bọn tôi cũng không am hiểu mấy về binh chủng này, chỉ thấy bộ đồng phục rằn ri, cái bê-rê màu xanh và huy hiệu con cọp nhảy qua cánh dù, trông rất oai phong, nên thích vậy thôi.

    Gần ngày mãn khóa, tôi đã thấy trên tủ áo của nó có cả bộ quân phục và bê-rê xanh LLĐB. Nhưng khi ra hội trường để được gọi về các binh chủng, cả hai thằng đều không có tên. Giờ chót chỉ còn chỗ ở các Sư Đoàn Bộ Binh. Tôi bảo nó theo tôi về Sư Đoàn 23, vì quê tôi nằm trong vùng hoạt động của đại đơn vị này. Lần này thì Lâm theo tôi, bỏ Sài gòn ra tận núi rừng miền Trung xa tít. (Sau này nó cho biết, đúng thời gian chọn tân sĩ quan về binh chủng thì ông anh của nó chẳng may bị tai nạn phải vào quân y viện, nên hai thằng bọn tôi bị lọt sổ.) Ngoài Trần Công Lâm ra tôi còn rủ thêm Nguyễn Văn Túc. Túc không cùng Đại Đội nhưng là bạn học cùng lớp Đệ Nhất C với tôi lúc trước ở trường Võ Tánh, và trước khi vào lính hai thằng rủ nhau về quê tôi dạy ở một trường trung học tư thục đệ nhất cấp vừa mới mở, mà ông hiệu trưởng là bạn của cha tôi.

    Khi ra đơn vị, theo yêu cầu của chúng tôi, cả ba thằng được bổ nhậm về cùng một tiểu đoàn. Lâm về Đại Đội 1, Túc về Đại Đội 2, còn tôi về Đại Đội 3. Khi ấy, tiểu đoàn tôi có lẽ là một tiểu đoàn đánh đấm có hạng, nên được chọn làm đơn vị lưu động, có trách nhiệm tiếp ứng cho cả Khu 23 Chiến Thuật. Vì vậy có khi buổi sáng còn ở núi rừng Quảng Đức, Lâm Đồng, buổi chiều đã có mặt ở vùng biển Tuy Hòa, Phan Thiết. Về đơn vị đã hơn ba năm mà bọn tôi chưa hề biết hậu cứ tiểu đoàn nằm ở đâu trên Ban Mê Thuột. Thời gian ấy chiến trường chưa sôi động lắm, chúng tôi chỉ thường đụng độ với các đơn vị địa phương của địch. Chỉ có ở Quảng Đức và Phú Yên thỉnh thoảng có sự xuất hiện của lực lượng chính quy mới xâm nhập từ miền Bắc. Làm trung đội trưởng hơn hai năm, đánh đấm vài trận, được mấy cái huy chương, thì cả ba thằng lần lượt được lên nắm đại đội. Sau đó tôi được ông tiểu đoàn trưởng kéo về làm Ban 3, còn Lâm về làm Đai Đội Trưởng Đại Đội Chỉ Huy kiêm Trưởng ban Truyền Tin, thay cho người tiền nhiệm thuyên chuyển đi nơi khác. Lúc ấy, Lâm hiền lành như con gái, mấy lần ông tiểu đoàn trưởng bảo Lâm: “cậu ra trường hơn hai năm rồi mà trông cứ như một thư sinh, làm sao lính nó ngán được!” Có lẽ với lý do này, nên ông gởi Lâm theo học Khóa Rừng Núi Sình Lầy rồi sau này lại học thêm khóa Viễn Thám. Riêng Túc, sau khi lên trung úy một thời gian, đang là một đại đội trưởng có hạng thì được lệnh giải ngũ vì cận thị quá nặng. Túc được nhận vào làm tại Nha Bưu Điện và được sang Singapore học một khóa khóa chuyên môn để về dạy ở Trường Bưu Điện Sài gòn.

    Cùng lúc tôi được chuyển về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn thì Trần Công Lâm nhận lệnh theo học Khóa Căn Bản Truyền Tin tại Vũng Tàu. Nhưng chưa tới ngày mãn khóa tôi thấy Lâm đã về lại đơn vị. Trước khi trình diện ông trung đoàn trưởng, Lâm khoe “thành tích”với tôi:

    -Học và làm cái nghề Truyền Tin này coi bộ nhức đầu quá, nên tao nản, cứ dù về nhà thăm vợ và thằng cu mới sinh, nên bị ông chỉ huy trưởng Trường ký cho mười ngày trọng cấm và trả về đơn vị. Mày trình với ông trung đoàn trưởng cho tao ra tiểu đoàn khác, về lại tiểu đoàn cũ khó làm việc!.

    Lâm về Tiểu Đoàn 4 làm đại đội trưởng một thời gian. Khi anh đại đội trưởng ĐĐ Trinh Sát có lệnh thuyên chuyển đi đơn vị mới, tôi tìm gặp Lâm:

    – Mày có muốn về nắm Đại Đội Trinh Sát không, tao sẽ “nổ”với ông trung đoàn trưởng, vì mày có bằng RNSL và cả bằng Viễn Thám. Về Trinh Sát có cơ hội thi thố tài năng, thử lửa ra sao, để không ai còn dám gọi mầy là “Lâm Con Gái” nữa!

    Lâm vỗ vai tôi cười khoái chí.

    Không ngờ, chỉ sau một thời gian, Trần Công Lâm trở thành một đại đội trưởng Trinh Sát lừng danh của cả Quân Đoàn. Bây giờ, chuyện xông pha trận mạc đối với Lâm còn dễ hơn chuyện dắt đào đi chơi ngoài phố. Nơi nào không giải quyết được chiến trường, Lâm tình nguyện nhảy vào, và lúc nào cũng xuống mục tiêu trước tiên với một toán Viễn Thám. Một lần, một tiểu đoàn trực thuộc cùng chi đoàn TQV và pháo đội PB 105 ly tăng phái, di chuyển đến vùng hành quân, bị một lực lượng Cộng quân hùng hậu đào giao thông hào, ngụy trang hai bên đường phục kích. Đơn vị phản công kịp thời, các sĩ quan Kỵ Binh dạn dày kinh nghiệm, cho thiết vận xa M 113 vừa tác xạ vừa cày nát đè bẹp các giao thông hào của địch, lực lượng Bộ Binh bung ra, vừa bảo vệ Pháo Binh vừa đánh cận chiến và tung lựu đạn xuống phòng tuyến địch, Pháo Binh hạ nòng trực xạ vào các cao điểm nghi ngờ địch tập trung. Địch chết khá nhiều, một số bị ta bắt sống, Khai thác cấp thời, biết được vị trí bộ chỉ huy của địch nằm cách nơi chạm súng khoảng hơn hai cây số, và chỉ được bảo vệ bằng một đại đội với quân số chưa tới 50 người. Đại Đội Trinh Sát của Lâm đang ứng chiến bên cạnh Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn, được trực thăng Hoa Kỳ bốc thả xuống ngay sát bên hông địch, sau một tràng TOT của Pháo Binh cùng với sự yễm trợ của bốn chiếc Cobra, địch không ngóc đầu lên được. Với hỏa lực phi pháo và lối đánh thần tốc của Lâm, địch không kịp trở tay, cả bộ chỉ huy địch đều bị giết và một số bị bắt sống, trong đó có tên chính ủy và cả tên trung đoàn trưởng, ta tịch thu nhiều tài liệu quan trọng cùng mấy triệu đồng tiền VNCH (toàn giấy 1.000 mới toanh đựng trong các thùng gỗ), nhưng khi giao cho Ty Ngân Khố giám định, hóa ra đều là tiền giả được in từ Trung Cộng.

    Một lần khác, được tin tình báo cho biết, một đơn vị địch vừa mới xâm nhập vào vùng núi giữa ranh giới ba tỉnh Lâm Đồng – Ninh Thuận – Bình Thuận, Lâm tình nguyện dắt một toán viễn thám, được cải trang thành những bộ đội mang theo AK-47 và B- 40 (chiến lợi phẩm tịch thu của địch) xâm nhập. Một tiểu đoàn được lệnh ứng chiến, cùng với Đại Đội Trinh Sát (-) của Lâm, do anh đại đội phó chỉ huy, để khi nào nhận hiệu lệnh của Lâm sẽ nhảy vào tiếp ứng. Nhưng đến khuya, Lâm cùng toán viễn thám trở ra an toàn, còn bắt theo ba tên địch, trong đó có môt phụ nữ. Sau khi khai thác, biết chính xác địa điểm ém quân của địch, Lâm báo về TTHQ, chúng tôi liên lạc cố vấn Mỹ xin mấy phi tuần cất cánh từ Căn cứ Cam Ranh đến đánh bom ngay khuya hôm ấy. Sau đó cũng chính Lâm, chỉ huy Đại Đội Trinh Sát nhảy vào kiểm soát chiến trường và truy kích địch. Đơn vị lại tạo thêm một chiến thắng lớn, gần cả trăm xác địch bỏ lại, rất nhiều vũ khí các loại bị ta tịch thu, trên mười tên bị thương bị ta bắt.

    Lâm ngày một đam mê chiến trận. Chiến trường như là những tảng nam châm cực mạnh cuốn hút lấy Lâm. Đại đội nghỉ vài hôm là Lâm xin đi hành quân. Hành quân mà chưa đụng địch, Lâm không về và đề nghị tái tiếp tế để bốc đi nơi khác. Thuộc cấp cũng mệt vì Lâm, nhưng tất cả đều nể phục Lâm. Chính Lâm đã biến Đại Đội Trinh Sát này trở thành đơn vị thiện chiến, lừng lẫy một thời.

    Khi một lực lượng chiến xa Hoa Kỳ đến hoạt động trong Mật Khu Lê Hồng Phong, một mật khu có địa thế khá rộng lớn và hiểm trở của Cộng quân tại Bình Thuận, đã xin đích danh Đại Đội Trinh Sát của Lâm biệt phái để phối họp, tùng thiết. Vị chỉ huy lực lượng chiến xa này đã hết lòng ca ngợi Lâm và đề nghị ân thưởng huy chương Hoa Kỳ cho Lâm.

    Trong hơn ba năm làm đại đội trưởng, Đại Đội Trinh Sát của Lâm đã tạo rất nhiều chiến thắng, mà tổn thất rất ít. Số vũ khí và tù binh thu bắt được còn hơn cả số lượng chiến lợi phẩm và tù binh của các tiểu đoàn trực thuộc. Lâm trở thành người hùng của Sư Đoàn, được tưởng thưởng khoảng 3, 4 ADBT với nhành dương liễu và nhiều ADBT với ngôi sao vàng, bạc, 1 huy chương của Hoa Kỳ, 1 của Đại Hàn và tất nhiên có cả Chiến Thương Bội Tinh. Qua bao nhiêu lần thoat chết trong đường tơ kẻ tóc, Lâm khoe với tôi là nhờ đạn tránh nó. Mùa Hè 1972, Lâm ra nắm Tiểu Đoàn 3/44, đơn vị đầu đời của Lâm và tôi. Lâm đã góp rất nhiều chiến công để có được một “Kontum Kiêu Hùng.” Tháng 6/ 1973, Lâm được chọn làm“chiến sĩ xuất sắc của Quân Đoàn” để về dự tiệc khao quân trong Dinh Độc Lập nhân ngày Quân Lực 19.6, nhưng chưa đến ngày đi thì tử trận. Lâm đã hy sinh tại phía Bắc Kontum, khi cùng toán thám báo đi thám sát địa thế đóng quân trên một cao điểm. Do một thằng em vướng phải mìn Claymore của một đơn vị bạn triệt thoái trước đây, không kịp thu hồi. Thằng em thì chỉ bị thương mà ông thầy thì lãnh đủ. Cái chết thật xót xa, đáng tiếc đối với một người từng tạo nên nhiều chiến thắng lẫy lừng, và biết bao lần vào sinh ra tử như Lâm.

    Ngày Lâm chết, tôi không có mặt ở đơn vị, vì đang nghỉ phép đặc biệt ở Nha Trang. Tôi ghé vào Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, tìm Nguyễn Tấn Hưng, một người bạn cùng khóa, cùng Trung Đội 14 SVSQ, rất thân thiết với Lâm và tôi, được bổ nhậm về quân trường này, và khi ấy đang là Trưởng Phòng Điều Hành. Hưng đón tôi vào văn phòng rồi đóng cửa lại. Hai thằng ôm mặt khóc.

    Tôi nhớ tới một người bạn cùng khóa khác, Phù Văn Vũ, cũng về Sư Đoàn 23, cùng trung đoàn nhưng ở tiểu đoàn khác. Thỉnh thoảng, những ngày nghỉ quân, chúng tôi gặp nhau, rủ đi uống rượu. Sau khi lên trung úy, và bị thương trong một trận đánh ở Lâm Đồng, Vũ được theo học một khóa CTCT ở Sài gòn. Mãn khóa được về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn làm Sĩ quan Tâm Lý Chiến. Vũ có nét lai Tây, cao lớn, thuộc hàng “bô” trai, tính tình vui vẻ dễ thương, nên ai cũng quí. Và cũng là một cao thủ “nhậu”. Trong những cuộc so tài uống rượu, Vũ luôn chiếm giải quán quân. Lúc ấy trong toán cố vấn Mỹ có Thiếu Tá Davis rất chịu chơi, cung cấp đủ thứ whisky, nên rượu không bao giờ cạn. Là dân Sài gòn chính hiệu, gia đình mấy đời ở gần khu cầu chữ Y, thỉnh thoảng chị Vũ dắt con ra thăm và làm nhiều món ngon cho chồng đãi bạn bè. Chị vừa đẹp vừa hiền lành bặt thiệp, nên ai cũng quí. Lúc ấy vợ chồng có hai đứa con, một gái một trai, khoảng 8, 7 tuổi, xinh xắn, lễ phép, dễ thương. Lên đại úy một thời gian, Vũ xin ra tiểu đoàn để giữ chức vụ tiểu đoàn phó. Mấy tháng sau đi học Bô Binh Cao Cấp rồi thuyên chuyển về Vùng 3. Chúng tôi mất liên lạc nhau từ đó.

    Sau tháng 4/ 75, khi có thông báo của Cộng sản (Ủy Ban Quân Quản Sài gòn) kêu gọi đi “trình diện học tập cải tạo”, tôi đến địa điểm Trường Đại Học Kiến Trúc. Khi xếp hàng chờ ghi danh làm thủ tục, thấy phía đằng trước có một người chống hai cái nạng gỗ. Khi anh ta quay mặt lại, tôi nhận ra Phù Văn Vũ. Trong cảnh sa cơ cá chậu chim lồng này mà gặp được một người bạn thân thì mừng vui lắm. Hai thằng dặn nhau phải luôn đi chung. Đặc biệt Vũ rất cần tôi phụ giúp băng bó, chữa trị vết thương. Bọn tôi bị đưa tới trại tù An Dưỡng (Biên Hòa), may mắn ở cùng một nhà, một tổ. Vết thương khá lớn ở chân phải của Vũ vẫn còn mưng mủ, tôi trở thành “y tá” riêng cho Vũ, rửa vết thương và băng bó mỗi ngày. Theo lời Vũ kể, vào cuối tháng 3/75, lúc ấy đang làm tiểu đoàn trưởng thuộc Sư Đoàn 25 BB, Vũ bị thương nặng ở đầu gối chân phải do đạn pháo của địch. Ngày 1 tháng 5, đang điều trị ở TYV Cộng Hòa thì bị VC đuổi ra. Về nhà may mà bà xã săn sóc thuốc men chu đáo nên mới khá được như hôm nay.

    Vì phải chống nạng, nên Vũ không phải đi lao động, (khi ấy bọn tôi phải đi tháo gở kẽm gai và mìn trong hàng rào phi trường Biên Hòa), chỉ ở nhà quét dọn nhà ở, nhà bếp và hội trường. Không đủ thuốc men, nên vết thương kéo dài, cho mãi đến tháng 6.1976, khi lên tàu sông Hương ra Bắc, vẫn chưa lành hẵn.

    Khi xuống tàu để lên bến Hải Phòng, thấy tôi đi chung và xách ba lô cho Vũ, một tên bộ đội kéo tách chúng tôi ra, giữ Vũ lại và bảo tôi phải đi xuống trước, mặc dù tôi đã năn nỉ xin được đi chung để giúp đỡ Vũ trong tình trạng vết thương chưa lành và đi đứng khó khăn, nhưng hắn không cho mà còn nạt nộ.

    Tôi bị đưa về Trại 3 (Hang Dơi) nằm cực bắc Yên Bái thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn lúc ấy. Sau một thời gian, trong một lần đi xuống kho tổng trại ở Nghĩa Lộ để vác gạo về cho trại, thấy một người chống nạng, chăn bầy bò bên đường, tôi nhận ra Vũ với đôi chân thấp cao, khập khiễng. Bất ngờ gặp lại nhau, cả hai thằng đều mừng mà ứa nước mắt. Vũ cho biết đang ở Trại 8, và vì phải chống nạng nên được cho chăn bò của trại. Khi tên vệ binh thúc tôi phải đi, Vũ kịp đưa cho tôi một gói nhỏ. Tôi bỏ nhanh vào túi áo. Khi dừng lại nghỉ trưa trên ngọn đèo cao, mở ra tôi thấy một cái bánh nướng làm bằng bột sắn (khoai mì), tôi vừa ăn vừa lau nước mắt.

    Trại 3 của tôi cách Trại 8 của Vũ khoảng hơn hai mươi cây số, đặc biệt phải đi qua một cái đèo rất cao. Mỗi lần đi vác gạo, bọn tù chúng tôi khốn khổ bởi cái đèo này. Không biết tên gì, nhưng bọn tôi gọi đó là “Đèo Bá Thở.” Ba tháng sau, trong chuyến đi vác gạo kế tiếp, tôi lại được gặp Vũ, lần này thì cả hai thằng mừng rỡ, nhưng đứng cách nhau khá xa, chỉ kịp gọi tên và vẫy tay chào. Rồi ba tháng sau nữa, cũng trong một chuyến đi lấy gạo, khi gần đến khu Trại 8, thấy bầy bò từ xa, tôi háo hức để được gặp lại Vũ, nhưng khi người chăn bò đưa tay chào các bạn tù, tôi ngạc nhiên vì không phải Vũ, mà lại là một người khác, khá già, râu tóc bạc phơ. Anh cho biết là Vũ đã chết trước đó hơn một tháng, do bệnh kiết lỵ mà không có thuốc chữa. Tôi bỗng thấy đau nhói trong lòng, và bâng khuâng nghĩ tới vợ con Vũ, bởi lúc ngồi trên tàu Sông Hương ra Bắc, Vũ đã buồn bã nói với tôi, các con còn quá nhỏ, ngày Vũ đi vào tù, nhà không còn tiền và cũng chẳng có tài sản gì đáng giá, rồi không biết vợ con sẽ phải sống ra sao. Khi ấy tôi chỉ còn biết lấy hoàn cảnh tương tự của chính mình để an ủi Vũ.

    Một hôm vào khoảng đầu năm 2007, trong một dịp sang Cali, tôi bất ngờ gặp lại một người bạn tù khá thân. Anh đang hợp tác trong tổ chức nhân đạo của cựu tù Thiếu Tá Nguyễn Đạc Thành, nhằm tìm kiếm mồ mả, hài cốt của những anh em chết ở các trại tù miền Bắc. Tôi hỏi ngay đến Phù Văn Vũ, và quá đỗi ngạc nhiên khi anh bạn cho biết đã tìm ra được mộ của Vũ và cũng đã liên lạc với vợ con Vũ để về Việt Nam bốc mộ. Anh bạn còn cho tôi xem tập hồ sơ, có cả hình ảnh của Vũ lúc còn trong quân ngũ, và hình của ngôi mộ hoang phế trong núi rừng Việt Bắc với tấm bia xám xịt còn lờ mờ mấy chữ: Phù Văn Vũ chết ngày 23.8.1977 (chỉ sau một năm chuyển ra Bắc). Vợ con Vũ đã may mắn được sang định cư ở Hoa Kỳ theo diện HO và đang sinh sống ở Tiểu Bang N. Carolina. Trong hồ sơ có ghi số điện thoại con trai lớn của Vũ. Tôi liên lạc hỏi thăm và nói chuyện mấy lần. Sau đó, vì chị Vũ không được khỏe, nên cháu Nguyễn Ngọc Thị Hương, cô con dâu trưởng của Vũ đã theo tổ chức này về VN phối họp cùng cô con gái lớn của Vũ (còn ở lại VN) bốc mộ Vũ vào ngày 26.2.2007 và mang tro cốt về cải táng tại Hoa Kỳ.

    Tôi nhớ tới Trần Ngọc Thăng, thằng bạn cùng Khóa 18 khác và cũng là bạn học cùng truờng ở Nha Trang lúc trước. Ra trường, Thăng tình nguyện về Biệt Động Quân. Khoảng ba năm sau tôi bất ngờ gặp nó mang ba lô về trình diện trung đoàn tôi tại Sông Mao. Đúng lúc các đơn vị đang nghỉ dưỡng quân, tôi gọi tất cả đám bạn cùng Khóa 18 về Câu Lạc Bộ đón mừng nó. Khi ấy cả bọn tôi đều đã lên trung úy, chỉ duy nhất có Thăng còn mang thiếu úy. Hỏi ra mới biết chàng ta từ quân lao mới chuyển ra Đơn Vị 2 Quản Trị và được bổ sung về đơn vị tôi.Thăng bảo, mới vừa lên làm đại đội trưởng BĐQ thì đụng độ với ông tiểu đoàn phó khi ông chửi thề và tát tai một anh chuẩn úy mới ra trường, trung đội trưởng của Thăng. Đang cãi nhau thì bất ngờ bị ông đá thúc vào ống chân thách thức, nên sẵn súng trên tay Thăng bắn một phát vào bàn chân ông. Bị 30 ngày trọng cấm và ra Tòa Án Quân Sự lãnh tám tháng tù. Không biết có phải vì lý do này mà suốt thời gian ở đơn vị, ngoài những bạn cùng khóa, Thăng không chơi với ai. Tình nguyện về làm đại đội phó Trinh Sát. Hơn một năm sau được thăng cấp trung úy, Thăng xin ra nắm đại đội ở Tiểu Đoàn 2. Đầu năm 1973, khi đang làm tiểu đoàn phó TĐ3 cho Trần Công Lâm, Thăng được bổ nhậm làm tiểu đoàn trưởng TĐ 2/44 trong một trường hợp khá đặc biệt. Thời gian còn làm đại đội trưởng, hành quân ở khu vực Di Linh – Đức Trọng, Thăng quen biết một nữ sinh sắc tộc Thái Trắng, khá xinh, nhưng mãi đến đầu năm 1974 hai người mới làm đám cưới và một đứa con trai ra đời trong những ngày cuối tháng Tư buồn. Trong lúcThăng bị tù ngoài Bắc, ở nhà vợ Thăng treo cổ tự vẫn, đứa con trai được giao lại cho bà nội nuôi nấng. Theo người nhà kể lại, khi chết, vợ Thăng mặc chiếc áo dài trắng thuở còn đi học và có để lại một lá thư, nhưng bị công an tịch thu nên không ai biết vợ Thăng đã viết những gì trong đó. Ra tù vài năm, Thăng đưa mẹ, hai cô em gái và đứa con trai vượt biển. Đến Mỹ, định cư ở San Jose, Thăng nhờ mẹ chăm sóc đứa con thơ để vừa đi làm vừa đi học. Mỗi lần nói chuyện trong điện thoại, tôi đều ca ngợi Thăng có chí, nó cười bảo: “tao vùi đầu vào sách vở là chỉ để được quên, không muốn có chút thì giờ nào để phải hồi tưởng hay suy nghĩ điều gì”. Cuối cùng nó cũng lấy được bằng Cao HọcTâm Lý (Master of Psychology) và tìm được việc làm lương cao, ổn định. Bạn bè ai cũng khen và mừng cho nó. Bao nhiêu tình thương Thăng dồn hết cho mẹ và đứa con trai. Nó bảo mẹ nó đã một đời tão tần nuôi nấng cưu mang mấy anh em nó từ lúc còn tấm bé, di cư từ Bắc vào Nam năm 1954. Do lời khuyên nhủ của mẹ, Thăng tục huyền. Cô vợ nhỏ hơn nó khá nhiều tuổi, quen nhau lúc cả hai cùng là sinh viên ở một trường đại học Mỹ, cũng là ái nữ của một cựu thiếu tá ở Sư Đoàn 7 BB. Vẫn cái tính như ngày xưa, Thăng sống khép kín, ít giao tiếp với bạn bè, nhưng với vợ chồng tôi, Thăng luôn dành một tình cảm đặc biệt. Mỗi lần sang Mỹ, chúng tôi đều ghé lại thăm, và vợ chồng Thăng luôn giữ lại nhà vài hôm. Vợ Thăng cũng rất hiền lành, vui vẻ và hiếu khách. Đầu năm 2007, mẹ già ngã bệnh, vợ chồng Thăng đã hết lòng lo chữa chạy, nhưng vì tuổi già sức yếu, không chống chọi nổi bệnh tình, bà đã quy tiên. Biết Thăng rất đau lòng, từ Bắc Âu tôi bay sang với Thăng, và chạnh lòng khi nhìn thấy Thăng tiều tụy, chán chường. Trong dịp này, tôi lại biết thêm một nỗi buồn khác, cũng rất to lớn của Thăng. Đứa con trai duy nhất mà Thăng hết mực cưng chiều yêu quý, như muốn làm vui lòng người vợ bất hạnh ở dưới suối vàng, đã bỏ học và có con với một cô bạn gái cùng lớp trong high school, khi cả hai còn ở tuổi vị thành niên. Thăng giấu tôi chuyện này. Chỉ thỉnh thoảng than với tôi là không còn thiết tha gì nữa và hối tiếc là ngày xưa không được chết trên chiến trường. Tôi vừa an ủi vừa đùa, bảo Thăng đã học nhiều năm về Tâm Lý, sao không “lấy sở tồn ra làm sở dụng.”

    Bỗng một hôm được tin Thăng chết. Chết một cách đau đớn. Thăng dối vợ, bảo đi thuê hộ khách sạn cho một người bạn từ tiểu bang khác tới. Nhưng thực ra Thăng đi thuê phòng trong một khách sạn nhỏ ở gần nhà, rồi ở đó dùng súng bắn vào đầu mình tự sát, sau khi viết mấy lá thư để lại trên bàn. Tôi nhận được lá thư Thăng viết cho tôi, do Cảnh sát giao lại. Nét chữ ngay ngắn, đẹp đẽ, chứng tỏ Thăng rất bình tĩnh trước khi tự kết liễu đời mình:

    “Xin lỗi mày, tao đi trước mà không kịp chia tay với mày. Bọn mình rồi sẽ như những con chim đã đến lúc phải bay về với núi rừng thuở trước. Thôi thì tao đi trước để dọn chỗ cho bọn mày, những thằng bạn thân thiết, đã từng sống chết với nhau. Chỉ có một điều tao tiếc và ân hận là đã không đựợc chết một cách oai hùng ở chiến trường nhưng thằng Lâm, thằng Bê, anh Tài, anh Đức…”

    Đọc xong, thấy đau đớn trong lòng tựa hồ như đang có nhiều vết chém, vậy mà không hiểu vì sao tôi không khóc được.

    Tháng Tư này, nhân dịp tiễn đưa đồng môn Võ Văn Khoa về miền miên viễn, nhớ tới bạn bè, bỗng tôi nghĩ thật nhiều đến ba cái chết của ba người bạn cùng khóa, cùng một đơn vị, và một thời rất thân thiết. Ba cái chết trong ba thời điểm và hoàn cảnh khác nhau. Một thằng đánh giặc nổi danh rồi chết tại chiến trường, một thằng luôn yêu đời, vui vẻ hiền lành bị chết trong tù với đôi chân tàn phế, và một thằng từng ngang dọc một thời, sống bất cần, ba chìm bảy nổi, vượt thoát thành công, đỗ đạt trên xứ người, cuối cùng bắn vào đầu mình tự vẫn. Ba cái chết khác nhau, nhưng chỉ có một nguyên nhân duy nhất: hậu quả của một cuộc chiến bất hạnh, và chúng tôi lại là những chiến binh bất hạnh nhất.

    Trong nỗi xót xa, tôi thầm cầu mong không còn phải chứng kiến những tranh chấp, bất đồng , hơn thua giữa những người anh em từng một thời xuất thân từ một mái quân trường hay cùng chiến đấu, sống chết bên nhau trên các chiến trường lửa đạn. Chẳng lẽ cả một đời binh nghiệp, cuối cùng chúng ta chẳng còn giữ lại được điều gì, ngay cả cái tình đồng môn, huynh đệ? Tôi cũng thật đau lòng khi biết có những người đã vội quên mình từng một thời là lính, sống thản nhiên vô tâm trước nỗi đau của quê hương đất nước, và quên cả món nợ máu xương mà mình chưa trả được một chút gì cho đồng đội anh em.

    Tôi bỗng chạnh lòng khi nhớ tới một đoạn đã đọc được từ khá lâu trong“Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh”, tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Erich Maria Remarque: “… Rồi mọi người sẽ không hiểu được chúng tôi…Chúng tôi sẽ trở thành một thứ thừa thãi ngay cả đối với chính mình, chúng tôi sẽ ngày càng già đi, một số có thể hội nhập được với cuộc sống mới, một số khác sẽ nhẫn nhục mà sống, và hầu hết là sống trong nỗi bàng hoàng đau đớn. Ngày tháng sẽ trôi đi và cuối cùng chúng tôi sẽ rơi vào tàn lụi”.

    Không! Chúng tôi, dù là những người lính trừ bị, nhưng đã hiến cả đời mình cho quân đội, cho Tổ Quốc, luôn ngẩng cao đầu hãnh diện đã góp phần bảo vệ quê hương và phát huy giá trị tự do nhân bản. Chúng tôi đã từng sống chết hết lòng với đồng đội anh em, và chiến đấu bằng tất cả danh dự cùng cả trái tim mình.

    Cuộc chiến bất hạnh khi người bạn đồng minh đành đoạn quay lưng, để phải kết thúc trong đớn đau, tức tưởi: “phía man rợ đã thắng”, lời của chính bà Dương Thu Hương, một nhà văn, một cán binh Cộng sản đã từng xác tín. Và một chế độ được dựng lên bởi một đảng cướp man rợ, độc tài, sống hèn mạt, phè phỡn trên nỗi thống khổ oán than của dân tộc cùng sự điêu linh của đất nước, sẽ không thể tồn tại lâu dài. Lịch sử dân tộc nhất định sẽ có ngày viết lại những chiến công vinh quang hiển hách, và cả những hy sinh, đau đớn, khổ nhục mà thế hệ chúng tôi đã từng đạt được, trải qua, trong một giai đoạn bất hạnh và đau thương nhất của dân tộc.

    Phạm Tín An Ninh


    https://www.tvvn.org


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5410
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Tháng tư nhìn lại

Bài viết bởi Bạch Vân »

          


Tháng tư nhìn lại





Có một tháng tư mà nhớ mãi
lâu dần thành một tháng tư đau
gần năm mươi năm rồi – nhìn lại
vẫn y nguyên như mới hôm nào

Cố quên vẫn nhớ thì làm sao
thương tật có khi còn lành lại
tháng tư năm nào cũng chảy máu
cái đau này muôn kiếp không phai

Thù xưa nhục rửa trăm nghìn bận
hết băng lại bó cũng bằng không
máu chảy từ trái tim căm hận
thấm đất, thấu trời, ngập núi sông

Đừng hỏi thù chi ta giận dữ
nhục thuở đi đày nhớ mà chi
sao cứ rượu mời đêm quá khứ
sang trang rồi chuyện cũ quên đi

Tội nghiệp ta một đời ngạo mạn
coi như mình bỏ xác từ xưa
chỉ còn hồn trôi dạt lang thang
nghe tháng tư quay về gõ cửa

Thảng thốt thấy mình còn một nửa
nửa kia chết giữa một tháng tư
nợ trả chưa xong còn lời hứa
hứa gánh sơn hà qua tháng tư

nguyễn thanh khiết
tháng tư 2021





Nguồn:https://nguyenthanhkhiet.wordpress.com




          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5410
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Tháng Tư Ơi

Bài viết bởi Bạch Vân »

          


Tháng Tư Ơi



Freedom Journey - Nguyễn Việt Hùng



Tôi cúi xuống tờ lịch
Chạm tay vào Tháng Tư
Tháng Tư rơi rất nhẹ
Tháng Tư rơi như mơ

Thôi nhé, đừng dao động
Ngủ yên Tháng Tư ơi
Tôi hái cánh hoa tươi
Đặt lên môi con số

Con số 30 nở
Gọi tên người ngày xưa
Tiếng vọng như chuông đổ
Từ giáo đường Tháng Tư

Con số 30 nở
Vang như tiếng biển xa
Mẹ đang ôm hoa sóng
Ru con trên bãi nhà

Con số 30 nở
Một đóa hoa thật hiền
Từng cánh hoa rất mỏng
Xếp lên nhau bình yên

Con số 30 nở
Rung một chùm sương mai
Hạt sương như hạt ngọc
Tan vào nỗi ngậm ngùi

Tháng Tư tôi cúi xuống
Nhặt con số 30
Cài lên ngực bên trái
Gọi khẽ Tháng Tư ơi!



Trần Mộng Tú
Tháng 4/ 2021



Nguồnhttps://vietbao.com


          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Sài Gòn xưa: Trăm nghìn nhánh khổ

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • Sài Gòn xưa:
    Trăm nghìn nhánh khổ

    ___________________________
    Vũ Thế Thành _ 16/04/2020




              
    …Hai phương trời cách biệt, Bên chờ và bên mong… (1)

              

    Các quán nhậu vỉa hè dọc kênh Nhiêu Lộc dạo này nhiều người hát rong, cũng ampli, loa, micro không dây, nhạc đệm… Họ chỉ hát toàn nhạc xưa, nhạc sến, với điệu rumba, bolero, nghe tưởng như đồng hồ đếm ngược. Lần trước về Sài Gòn, tôi đã ngồi quán vỉa hè, nghe những bài ca vỉa hè như thế…
    • Buồn vào hồn không tên,
      thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào đời (2).
    Lặng cả người!

    Tôi chợt nhớ những ngày sau tháng Tư 75, đám bạn bỗng nhiên làm đám cưới chớp nhoáng, lấy vợ lấy chồng để đối phó với thời cuộc, rồi vội vã tìm đường vượt biên. Có đứa vượt được qua biên giới, nhưng cũng có đứa về bên kia thế giới. Những người ở lại như tôi, tưởng họ đã đến bến bờ thiên đường.
              

    Bạn bè, có đứa vượt được qua biên giới, nhưng cũng có đứa về bên kia thế giới…

              
    Bước lên tàu là ngàn khơi sóng vỗ, không phải là chuyến xe Sài Gòn – Đà Lạt. Có khi Hà Bá mời xuống chơi, có khi tủi nhục trên đường vượt biển, phần còn lại là may mắn. Mà có may mắn lọt vào xứ người cũng chưa hết. Cô bạn tôi cao chưa quá thước rưỡi, với tay đưa khay bánh vào ngăn, trượt chân, u đầu sứt trán. Quên cả đau, vội vội vàng vàng lượm bánh xếp lại vào khay. Bà xếp Tây mắng:
    • Xứ này không ăn dơ như thế.

    Cũng có người đi làm nail, “tiền tươi thóc thật”, dồn hết cho con ăn học. Hy sinh đời bố, củng cố đời con; hiểu sát nghĩa đen là đây, là mồ hôi trộn nước mắt. Khi con thành tài, thân mẹ cũng tàn tạ. Tiền gửi về nhà, người thân trong nước nhiều khi tưởng đâu bên đó kiếm tiền dễ như ăn cơm sườn, xin thêm thứ này thứ nọ. Có biết đâu đó là tiền chắt chiu, có khi là tiền thí mạng không mua bảo hiểm y tế.

    Nhưng cũng có nhiều người kiên nhẫn vừa làm vừa học, thành danh. Nơi xứ người, dù sao vẫn có nhiều cơ hội hơn trong nước, vấn đề là có chịu nắm bắt hay không mà thôi.

    Trong nước thì coi như bế tắc. Hồi đó, tôi dạy kèm thêm luyện thi đại học, dạy nhóm năm, bảy học sinh. Có em học xuất sắc, bài thi làm không chê vào đâu được. Vậy mà rớt. Em là con “ngụy”, thứ “ngụy” còn trong trại cải tạo, làm sao vào đại học nổi, em rớt ngay từ bãi gửi xe. Em đến báo tin, thầy trò ngồi uống cà phê vỉa hè, buồn ứa nước mắt. Thời điểm này không dung những tiềm năng như em… Số phận đời người chứ đâu phải trò chơi chính trị.

    Những năm sau 75, giáo sư, bác sĩ, ông này bà nọ xuống đường ra chợ trời hết, người đạp xích lô, chạy xe ôm, người bơm mực bút bi, bán bún riêu, mở quán cà phê vỉa hè, buôn hàng lạc xon… Người nào lanh hơn thì buôn hột xoàn đổi đô-la…

    Năm 78, tôi gặp một phụ nữ ăn mặc lam lũ, nhưng đẹp, quý phái, không quá ba mươi, trên chuyến tàu chợ. Chị kéo lê hai bao than ra gần cửa tàu, ngước mắt nhìn tôi, nói như năn nỉ:
    • Lát nữa gần đến ga Bình Triệu, anh làm ơn đạp dùm tôi hai bao than này xuống.
    Chị buôn lậu than, đến ga sẽ bị tịch thu. Đôi mắt chị buồn và nhẫn nhục quá, làm tôi nhớ đến đôi mắt của bà mẹ trong một tác phẩm của C.V. Gheorghiu. Cảnh sát bắt bà mẹ vào bót để tra hỏi nơi ẩn nấp của con bà. Tác giả đã mô tả đôi mắt của bà, cũng buồn và nhẫn nhục như thế.

    Có lần đi chơi khuya, tôi gặp Bùi Giáng ở ngã ba Trần Quang Diệu – Trương Minh Giảng (3), ăn mặc chắp vá màu mè như phường tuồng, cầm cây chổi cùn múa may, chặn đầu xe tôi lại:
    • Cho trẫm điếu thuốc.
    Hoàng thượng đã chiếu cố dân đen, dân nào dám cãi. Tôi rút điếu thuốc, cung kính châm lửa cho hoàng thượng. Ngài rít một hơi rồi phẩy tay:
    • Cho lui…
    Lui rồi, ngoái cổ lại, vẫn thấy hoàng thượng tiếp tục múa chổi đi quyền.

    Bùi Giáng đã có mầm mống bất thường từ trước rồi. Sau 75 nặng hơn, lang thang khắp chốn. Cái điên của Bùi Giáng thật hay giả, cũng khó biết. Mất trí như ông vậy mà hay, ý thức buồn vui làm chi cho khổ?

    Mà Sài Gòn lúc đó sao dễ gặp “người điên” thế! Cũng không phải điên, họ có phá phách gì ai đâu. Tôi thường gặp vài ông ăn mặc lịch sự, áo sơ mi trong quần, có ông còn đeo cà vạt, đi đi lại lại ở khu Lê Công Kiều, nơi bán sách cũ. Vừa đi vừa khua tay, lảm nhảm rồi lại gật gù…

    Người bạn tôi qua được tới bến bờ, vừa làm vừa học, gửi về cho tôi thùng quà chừng ký rưỡi, kèm bức thư ngắn:
    • Gửi mày mấy hộp thuốc Tây, bán đi mà lai rai. Còn lọ nhỏ để uống, đừng bán. Thuốc an thần đó. Tâm thần phải chăng là lối thoát của con người với thực tại?


    Sau 75, tôi học được một điều, mà đến nay vẫn thấy chí lý. Đó là, người chiến thắng tuyệt đối đúng. Người chiến thắng tự hào là đúng rồi, nhưng có khi tự hào cả những cái sai. Sai mà cứ tưởng mình đúng. Chuyện “tủ lạnh chạy đầy đường” chỉ là chuyện khôi hài, chuyện nhỏ. Cái “sai mà tưởng đúng” mới làm đất nước chậm nhịp, di lụy chẳng biết bao giờ mới hết.

    Cả đất nước đã có lúc “sống” bằng khẩu hiệu. Nghe riết rồi quen, nghe tai này lọt tai kia cũng quen luôn. Không quen lỡ có ngày phát điên thì sao?

    Người lẽ ra phải điên mà không chịu điên, đó là mấy bà. Cầm có tí tẹo tiền, xách giỏ đi chợ, loanh quanh đầu chợ cuối chợ cả tiếng đồng hồ, có khi chẳng mua được thứ gì. Mà có tiền đi chợ là còn may, có người chỉ khoai sắn, rau lang, bí đỏ… quanh năm. Ăn để sống sót thì thứ gì chẳng nhét vô bụng được. Bột ngọt khi đó là thần thánh.

    Mấy ông “tù cải tạo” coi vậy chứ chỉ khổ cái thân, chứ cái đầu chưa đến nỗi. Có biết bên ngoài thế nào đâu mà khổ, mà lo. Vợ một bác sĩ quân y đi thăm nuôi, dúi vào tay chồng ít tiền. Thăm nuôi lần sau, thấy tiền vẫn còn nguyên, ông chồng không dám xài. Bà than:
    • Tội nghiệp cho cả gia đình tôi! Ở ngoài vợ con nhịn đói để nuôi tù, ở trong nhịn đói vì không nỡ nuốt cái đói khát của vợ con.
    Não lòng đến thế là cùng! Nước mắt nuốt ngược thế này, chỉ bị nghẹn mà không phát điên, bà này chắc có căn phần phúc đức.

    Nghe nói mấy ông “ngụy cải tạo” định lập ra ngày vinh danh mấy bà vợ. Không đủ đâu mấy ông. Mấy bà này chắc phải phong thánh.

    Tháng Tư năm nay, Sài Gòn nóng khủng khiếp. Sài Gòn không mưa nhưng Đà Lạt mưa. Những ngày cuối tháng Tư năm nào Đà Lạt cũng mưa, mưa mù mịt che khuất cả đồi thông ở Couvent des Oiseaux đối diện nhà, nhưng mưa chỉ vào lúc trưa chiều, tối tạnh.

    Đà Lạt, tám giờ tối đã như mười hai giờ khuya ở Sài Gòn. Tôi vẫn thích đi bộ mỗi khi có chút hơi men thế này. Con đường dốc về nhà thường kéo theo mệt mỏi của đời người. Tựa lưng vào cửa nhà, hoa lá trong vườn yên tĩnh như đêm. Dưới ánh đèn đường rọi qua hàng rào, bóng của lá cây ngọc lan chập chờn trên mặt sân.

    Cuối tháng Tư rồi. Người ta sẽ đốt pháo hoa ở Sài Gòn để ăn mừng. Ai vui xin cứ vui. Nhưng còn chút tâm tình này không nói về những ngày sau 75 trong mắt tôi là như thế nào, lòng dạ chưa yên…

    Đời trăm nghìn nhánh khổ, nhánh nào cho người, nhánh nào cho mình? Năm 75 là ngã rẽ của đời người. Bạn bè, người thành danh, đứa bầm dập, và cho dù ở phương trời nào, Tây hay ta, nỗi khổ vẫn theo số mệnh mà đến. Giờ đây, đứa nào cũng chạm tay vào buổi hoàng hôn đời người.

    Tháng Tư, tôi thắp ngọn nến trong lòng. Thoảng trong mùi hương ngọc lan, tôi hát theo, hát thầm bài hát nghe được ở quán rượu…
    • Cuộc đời là hư vô, bôn ba chi xứ người,
      Khi mình còn đôi tay…(1)





    Vũ Thế Thành
    Đà Lạt, 28.04.2016

              

              

    Đăng lại từ bài viết cùng tên đăng trên trang vuthethanh.com
    Mời độc giả tìm đọc cuốn “Sài Gòn, một góc ký ức và bây giờ” (12/2017) của tác giả

    Chú thích:
    • (1) Xin thời gian qua mau – Lam Phương
      (2) Nửa đêm ngoài phố – Trúc Phương
      (3) Nay là đường Lê Văn Sỹ



    https://trithucvn.org/van-hoa/sai-gon-x ... h-kho.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Đò chiều

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Biển Ơi Trả Cho Ta

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • Biển Ơi Trả Cho Ta
    ___________________________
    Đào văn Bình


              

              

    Khác với buổi chiều, thanh niên và đồng bào tỵ nạn thường tụ tập ở đây để tắm biển, đá banh, hóng mát hoặc chờ đợi những con tàu vượt biên có thể bất thần trôi giạt vào đây… buổi sáng bãi biển Khu C của Bi Ðông thường thưa thớt người. Lác đác một vài người đi bộ để tập thể dục. Tít tắp từ xa một vài cái đầu nhấp nhô theo ngọn sóng. Ðó là những người đang tắm biển vì họ tin rằng tắm biển vào buổi sáng như thế da thịt sẽ săn lại và trị được rất nhiều bệnh, nhất là bệnh lao phổi.

    Vì giờ này con nước đã kéo ra xa cho nên bãi biển dài hẳn ra, trên bờ nằm ngổn ngang đủ thứ rong rêu, vỏ sò, vỏ ốc, lưới đánh cá, lon co–ca và chai lọ. Mỗi khi con sóng xô giạt vào bờ, trào bọt trắng, nó kéo theo những thứ ấy ra xa độ vài mét, vùi dập rồi xô đẩy tất cả vào bờ như những cơn hờn dỗi của biển với đất liền.

    Dường như trời, biển, đất đai và cây cối ở đây bị cái không khí oi nồng của trời nhiệt đới ấp ủ, vỗ về cho nên tất cả tỏa ra một cái gì đó vừa chầm chậm, vừa mệt mỏi, như cái không khí u buồn tại các thánh đường nơi các tín đồ Hồi Giáo đang quỳ gối khóc than.

    Từ trên chóp núi nhìn ngay xuống bãi biển, Chùa Từ Bi trông giống như một căn nhà tôle lụp xụp. Sở dĩ người ta nhận ra đây là một ngôi chùa vì chữ Vạn; biểu tượng của nhà Phật được trang trí ngay chính giữa nóc và hai đầu hồi người ta tháp thêm hai cái vĩ cong cong sơn màu nâu làm cho kiến trúc trông có dáng vẻ một ngôi chùa. Thỉnh thoảng tiếng chuông buồn bã ngân lên như muốn hòa điệu với cái không khí oi nồng, buồn xa vắng của hòn đảo nhỏ bé.

    Vào giờ này khóa lễ sáng đã xong. Một số người lác đác ra về để bắt đầu một buổi sáng Thứ Bảy… không phải làm tạp dịch và có tàu Bu Ðát (*) từ Terengganu chở thực phẩm tươi tới. Nhưng có một cái bóng, thay vì trở về nhà, lại men theo con đường dốc đá phía trước chùa để đi xuống bãi biển… Một cái bóng nhỏ bé, non nớt… đó là cái bóng của Chi Mai.

    Hôm nay Chi Mai mặc cái áo đầm bông vàng sặc sỡ do Cao Ủy cấp phát. Vì chiếc áo chưa được sửa sang lại cho nên dài lượt thượt. Cái cổ áo lại rộng cho nên càng lộ cái vẻ gầy nhom của con bé. Nắng và gió biển đã làm da nó xạm đen cho nên nếu đem bỏ con bé ngoài chợ Terengganu, người ta sẽ nghĩ đây là một bé gái Mã Lai nghèo khổ lưu lạc ở chốn chợ đời. Chỉ có những người tinh ý lắm mới nhận ra đây là một con bé Việt Nam vì mái tóc không quăn mà chấm ngang vai, khuôn mặt Á Ðông khá thanh tú, đôi lông mày cong nhưng không đậm lắm. Khi nó cười, má lúm đồng tiền trông rất dễ thương. Mặc dù đôi mắt nó rất đẹp nhưng trên đôi mắt ấy lúc nào cũng ánh lên những nét sợ hãi, dấu ấn của bao nỗi bất ưng xảy đến từ chuyến vượt biển kinh hoàng. Dường như đã quen thuộc, thay vì đi lang thang trên bãi biển, nó đi thẳng tới chỗ mấy tảng đá chạy dài xuống mé biển, rồi lựa một tảng đá bằng phẳng, ngồi xuống. Sau khi ngồi yên, nó nhìn về hướng biển, nhìn chăm chú, nhìn thật lâu như muốn tìm kiếm trong đó một cái gì rất thân yêu… đã mất. Và như mọi lần, ký ức từ chuyến vượt biển kinh hoàng lại hiện về.

    Nó nhớ ngày cùng cha mẹ từ giã Sài Gòn đáp xe đò xuống Bình Ðại, Kiến Hòa. Ỏ đây người hướng đạo giấu gia đình nó vào một cái chòi tranh lụp sụp. Tá túc ở đó vài ngày, gia đình nó được “Taxi” đưa ra “Con cá lớn” để bắt đầu chuyến vượt biên đi tìm tự do. Khi tài công báo tàu đã ra ngoài hải phận quốc tế, mẹ nó nghiêm trang nói với nó: “Mặc dù con mới 13 tuổi nhưng hải tặc Thái Lan chưa chắc đã buông tha cho nên con phải đề phòng”. Nói xong mẹ nó lấy nhọ nồi trét đầy vào mặt nó rồi bà lấy một chai thuốc đỏ dấu trong mình hồi nào, đổ đại vào chiếc quần bà ba nó đang mặc. Thế là từ giờ phút này Chi Mai biến thành một con lọ lem, ngơ ngác rúc vào một góc, run rẩy chờ đợi những chuyện khủng khiếp sẽ xảy đến.

    Tính từ lúc rời khỏi cửa Bình Ðại, tàu đi như thế đã được bốn ngày. Trong khi mọi người đang hồi hộp chờ đợi, khi phát giác ra cái chấm đen nằm về phía Tây, gã tài công la lên” “Tới Mã Lai rồi bà con ơi!” Lời nói của gã như viên thuốc hồi sinh làm con tàu sống dậy, người ta reo hò, háo hức bàn tán. Người ta hè nhau gom góp quần áo đốt lên như dấu hiệu cấp cứu của con tàu để kêu gọi lòng nhân đạo của lực lượng duyên phòng, của các tàu đánh cá may đâu hiện diện trong vùng biển này. Thế nhưng đây chỉ là sự ngu dốt của gã tài công. Với kiến thức của gã lái tàu chạy đường sông, với chiếc bản đồ dạy học trò mua ngoài chợ, với chiếc la bàn của quân đội, không dụng cụ đo lường sức gió, sức giạt; chỗ mà y tưởng là Mã Lai, thực ra chỉ là Vịnh Thái Lan. Và cái cột khói bốc lên kia chính là cái mồi “lậy ông tôi ở bụi này” để nhử những tàu đánh cá Thái Lan chạy tới. Chỉ thoáng sau, khi con tàu đang xập xình để cố tiến về phía Tây thì hai chiếc tàu đánh cá cao nghệu chạy tới trên chở đầy những hình thù đen đủi đang nhẩy múa, reo hò với dao quắm, gậy gộc, súng ống trên tay. Một cuộc cướp bóc dã man chớp nhoáng diễn ra. Tàu bị lục soát, một số đàn bà trẻ bị dẫn đi. Chi Mai cũng bị hải tặc lôi ra. Một tên đã toan đẩy con bé qua tàu phía bên kia nhưng khi tên thứ hai nhìn thấy quần con bé toàn những vết đỏ, nó nói xi xô cái gì đó rồi đẩy con bé ngã chúi trở lại vào thành tàu.

    Như những hung thần, những người trốn dưới khoang dầu cũng bị cuớp biển lôi lên. Khi mẹ Chi Mai bị lôi qua tàu Thái Lan thì ba nó liều chết nhào ra túm lấy chân mẹ nó rồi quỳ lạy dưới chân tên cướp biển. Nhưng tên cướp biển thay vì buông tha, lại phá lên cười khoái trá rồi vung con dao quắm chém xuống. Rất may trong lúc nguy cấp ba nó còn kịp giơ tay đỡ lấy con dao rồi né sang một bên cho nên con dao chỉ phớt mảnh da đầu và chép phập xuống vai. Người ta thấy ba nó rú lên một tiếng rồi gục xuống giữa tiếng gào thét của mẹ nó và giữa những tiếng cười man dại của đám cướp biển Thái Lan đang kéo lê người đàn bà qua bên kia con tàu.

    Khi màn cuớp bóc, đánh đập, chém giết đã tạm yên. Ðám người sống sót bị dồn xuống khoang và tàu bị móc vào giây xích sắt để kéo đi. Không hiểu thời gian kéo dài bao lâu. Khi những người bên trong không còn nghe thấy tiếng nước rẽ vào mạn tàu. Khi tất cả đã trở nên im ắng và con tàu cứ tự do tròng trành nghiêng ngả giữa biển khơi. Trong đám người sống sót bị dồn dưới khoang thuyền có người bạo dạn hé mắt dòm qua nắp hầm. Hoàn toàn im lặng. Im lặng đến nghẹt thở. Sau nhiều lần túng tắng ho, động đậy, người ta mới dám liều chết mò ra ngoài và lúc đó mới biết bọn hải tặc Thái Lan đã bỏ đi từ lâu lắm rồi.

    Theo đám nạn nhân sống sót, Chi Mai bò ra ngoài để tìm đến nơi ba đang nằm thiêm thiếp bên vũng máu. Với sự phụ giúp của mấy người đồng hành, người ta cho ba nó uống chút nước, xé vạt áo để băng bó vết thương nhưng thân thể ba nó đã mềm nhũn vì mất quá nhiều máu. Giờ đây qua cơn tai biến, gã tài công và lão chủ tàu không còn bộ dạng uy quyền, hống hách như trước nữa mà tỏ ra rất dễ thương. Giữa tiếng khóc than, tiếng tỉ tê, tiếng hờn tiếng oán, kiểm điểm lại thì năm người đàn bà và ba cô gái đã bị dẫn đi, hai thanh niên bị đạp xuống dưới biển và một người bị chém trọng thương là ba nó đang nằm ở góc kia. Nhưng vào giờ phút này, mọi tiếng khóc than cũng chỉ bằng thừa. Không còn con đường nào khác hơn là cho con tàu tiếp tục xuôi Nam.

    Hai ngày sau, vì quá kiệt sức ba nó đã vĩnh viễn ra đi. Trước khi nhắm mắt lìa đời ba nó còn gắng gượng nói: “Khi nào đến đảo ráng chờ mẹ rồi hãy định cư nghe con”. Rồi cũng bằng sự trợ giúp của những người đồng hành, người ta xé quần áo bó xác ba nó lại, lấy vài nén nhang đốt lên khấn vái rồi xô xác xuống biển. Tới đây sức chịu đựng của nó đã quá hạn. Trước mắt nó, màu xanh của biển, màu đỏ chói chan của mặt trời trộn lẫn thành một màu tím quay cuồng như một cơn lốc xoáy làm nó chóng mặt và nó ngã ra bất tỉnh. Vào ngày thứ ba, không hiểu do may mắn thế nào mà con tàu lại tắp được vào Ðảo Bi Ðông.

    Theo thông lệ, mỗi khi thấy tàu vuợt biển tắp vào bờ, dân tỵ nạn thường túa ra. Người ta chỉ trỏ, la hét báo động phải đốt tàu gấp kẻo cảnh sát Mã Lai kéo tàu ra khơi. Rồi giữa cái đám hỗn độn đó người nào đủ sức thì lết lên bờ. Những ai ngất xỉu được thanh niên dìu xuống rồi vác lên vai cõng chạy tới bệnh viện Sick Bay của đảo, trong số này có Chi Mai. Rồi cảnh sát Mã Lai cùng Cao Ủy chạy tới, rồi phỏng vấn, điều tra, mở hồ sơ và như thế cuộc đời tỵ nạn của người ta bắt đầu.

    Như một định mệnh, vào sáng hôm sau xác của ba nó, không biết có phải do dòng thủy lưu trôi giạt hay do linh thiêng đi theo phù hộ cho con tàu, cũng lại tắp vào bờ. Do vết chém ở trên vai, do bộ quần áo những người đi cùng tàu nhận ra ba nó. Do lòng từ tâm của nhà thờ, của chùa và ban xã hội trên đảo, người ta đóng cho ba nó một cái hòm mỏng rồi chôn trên một ngọn đồi cao mà rải rác trên đó có vài chục nấm mồ với những cây thánh giá cắm ở trên. Sở dĩ người ta chôn những người tỵ nạn vượt biên ở đây là vì người ta nghĩ rằng những linh hồn đã an giấc ngàn thu còn có dịp quay đầu dõi trông về Việt Nam, để tìm lại hình bóng những người thân yêu đã bỏ xác trên biển Ðông, hoặc hướng về Tổ Quốc thân yêu.

    Giữa ánh nắng chói chan của buổi sáng, một đám ma đơn sơ được diễn ra trên ngọn đồi trơ trọi. Chi Mai trên đầu quấn mảnh khăn tang trắng quỳ trước mộ ba. Không hiểu nó còn khóc được nữa không, nhưng chỉ thấy đôi vai nó run rẩy. Nó cứ quỳ như thế cho đến khi mấy người đi cùng tàu dìu nó về nhà. Sau đó cứ mỗi chiều Chủ Nhật nó đều ra thăm mộ ba và đặt lên đó một bó hoa dại mà nó gom góp được trên mảnh đồi này. Cứ mỗi buổi sáng, sau khóa lễ nó đều ra đây, ngồi trên tảng đá để đưa mắt nhìn ra phía biển xa xa. Sở dĩ nó không ra đây vào buổi chiều vì buổi chiều bãi biển Khu C đều tụ tập đông đảo sẽ làm mất đi cái không khí vắng lặng cần thiết để ấp ủ một giấc mơ, giấc mơ một ngày nào đó mẹ nó sẽ trở về. Ðôi khi nó chợt sợ hãi khi nghĩ tới một khi đã lọt vào tay hải tặc Thái Lan thì không sao thoát khỏi. Có thể mẹ nó đã bị giết chết rồi xác bị quăng xuống biển cho nên mỗi lần có đám rong rêu tắp vào bờ đá nó đều chạy ra xem có phải đó là mớ tóc dài của mẹ nó bập bềnh theo sóng nước hay không. Nhưng đôi khi nó lại mơ mộng và lãng mạn cho rằng có thể mẹ nó đang bị giam giữ trên một hoang đảo nào đó. Ðể liên lạc với bên ngoài, mẹ nó có thể bỏ một cánh thư vào một cái chai để thả trôi theo một giòng nước để báo tin cho người. Cho nên cứ mỗi lần nhìn thấy cái chai trôi bập bềnh nó đều hy vọng và mở ra xem. Nhưng cho đến bây giờ chưa có một cái chai nào đem theo một cánh thư như vậy.

    Khi mặt trời đã lên khá cao, nắng đã bắt đầu trở nên gay gắt, đám sương mù trên mặt biển cũng tan đi để lộ đường chân trời xa tít vắt ngang trên mặt biển phẳng lặng, nó thở dài đứng dậy và theo con đường mòn hướng về mấy dãy nhà Long House. Giờ này sinh hoạt của đảo khá chộn rộn. Khu chợ chồm hổm đã đông đúc người. Người ta đem cá, đồ hộp, mì gói, củi, thuốc lá, bầu bí ra trao đổi hoặc buôn bán. Từ máy phóng thanh, cô xuớng ngôn viên đang đọc danh sách những người rời đảo và bản nhạc Biển Nhớ (**), một bản nhạc được dùng trong các buổi tiễn đưa âm hưởng réo rắt buồn xa vắng vì nó gợi lên cái cảnh kẻ ở người đi. Len lỏi trong đám hỗn độn đó nó rảo bước về phía mấy dãy nhà Long House nằm ở trên ngọn đồi thoai thoải. Khi nó đến gần nhà thì tiếng nói oang oang của một bà cất lên:

    – Chi Mai, mày có về ngay không? Hôm nay tới phiên mày lãnh thực phẩm. Ði ngay kẻo trễ. Nhớ mang theo một cái xô để đựng. Nè, gà đông lạnh nhớ xin mấy chú ấy miếng đùi chứ miếng lưng toàn xương về chỉ có vứt đi! Nó “dạ” một tiếng rồi mau mắn bước vào trong nhà. Khi nó vừa quay ra thì từ dưới chân con dốc nhỏ, một người đàn ông cũng từ từ bước lên. Khi ông ta bước thêm vài bước nữa thì người đàn bà lúc nãy cũng vừa nhận ra ông ta nên nhanh nhẩu nói:

    – Chào ông chủ tàu. Ông đi đâu vậy?

    Gã chủ tàu mà người đàn bà vừa chào hỏi đó là một người đàn ông đã ngoài năm mươi. Ông ta trán hói, nét mặt bì bì như người chưa tỉnh rượu. Thoáng nhìn, cái bộ vó mập mạp làm cho ông ta trông có vẻ phúc hậu nhưng đôi môi dầy và con mắt thỉnh thoảng ánh lên những nét đanh ác làm cho ông ta trở nên một thứ gì phải kiêng nể, e dè. Mới lên đảo có hai tuần, chưa một ai thư từ liên lạc được với gia đình mà ông ta đã mặc áo thung Mã Lai, mặc quần tây, đi giầy chứ không đi chân đất, mặc xà lỏn, cởi trần như đám dân tỵ nạn khác chứng tỏ ông ta lận theo người được vàng bạc. Cung cách của ông chứng tỏ ông không phải là dân thợ nhưng khó ai đoán được tung tích của ông ta. Có thể ông ta là dân thầu khoán trước đây, hoặc giả là dân áp phe hoặc tay tổ buôn lậu. Dù thế nào đi nữa thì chắc chắn ông phải là người khôn ngoan, có thủ đoạn ghê gớm lắm mới có thể sống sót qua cuộc đời tàn bạo, móc nối được với công an để tổ chức chuyến tàu vượt biên như thế này.

    Nghe người đàn bà hỏi thế, thay vì vồn vã đáp lại. ông ta thận trọng quay trước quay sau rồi xuống giọng nói:

    – Chị Bảy cứ gọi tôi Ông Năm là được rồi, gọi tôi chủ tàu không có lợi đâu. Trên đảo toàn người xa lạ, biết người nào vào người nào?

    Rồi không đợi người đàn bà phản ứng, ông ta hỏi tiếp:

    – Này chị, thằng tài công và con bé có thằng bố chết vứt xác xuống biển tụi nó đâu rồi?

    Người đàn bà nhanh nhẩu đáp:

    – Thằng Tấn đi lãnh thực phẩm, còn con Chi Mai trong kia ra bây giờ.

    Người đàn bà vừa nói dứt câu thì Chi Mai cũng từ trong nhà bước ra.Thấy lão chủ tàu, nó vòng tay khép nép thưa:

    – Con kính chào Ông Năm.

    Thay vì đáp lại, lão chủ tàu quay qua nói với người đàn bà:

    – Chị Bảy à. Xin chị kiếm người khác lãnh dùm thực phẩm cho con bé. Hình như tàu mình sắp có danh sách rời đảo. Tôi có chuyện quan trọng muốn nói với nó.

    Sau một vài giây lưỡng lự, dường như nể mặt lão chủ tàu, người đàn bà nói vọng vào bên trong:

    – Dũng đâu, mày làm ơn đi dùm Chi Mai một bữa để Ông Năm nói chuyện với nó.

    Sau khi đứa con trai lớn của người đàn bà xách cái xô chạy đi, lão chủ tàu nói với người đàn bà:

    – Tôi cần chị làm chứng cho chuyện này. Tôi biết chuyện lắm. Nếu câu chuyện êm xuôi, tôi không quên ơn chị đâu.

    Người đàn bà tự nhiên bị du vào cái thế nếu từ chối thì mất lòng mà làm chứng thì câu chuyện không biết tốt xấu thế nào.

    Tuy nhiên nghĩ tới chuyến vượt biên trót lọt, do lớn tuổi không bị hải tặc dẫn đi, nghĩ tới chủ tàu bà ta thấy cũng có một chút hàm ân cho nên miễn cưỡng ngồi xuống bên cạnh Chi Mai. Bằng một giọng rất nhẹ nhàng, lão già cúi xuống hỏi Chi Mai:

    – Này con. Trước khi xuống tàu vượt biên cha mẹ con có đưa cho con hoặc dặn con cái gì không?

    Sau một vài giây ngơ ngác, Chi Mai khép nép đáp:

    – Dạ thưa Ông Năm, mẹ con dặn nếu bị công an bắt thì không được khai tên thật, địa chỉ thật và nói là đi một mình.

    Dường như câu nói lại gợi lên bao nỗi thương tâm cho nên tự nhiên nuớc mắt nó rươm rướm.

    Tuy nhiên Ông Năm không chú trọng lắm đến nỗi thương tâm này cho nên ông có vẻ bồn chồn hỏi tiếp người đối diện:

    – Ông Năm không hỏi chuyện này. Ông Năm hỏi cha mẹ mày có đưa cho mày giữ cái gì không?

    Ngần ngừ một chút xíu rồi Ông Năm nói huỵch toẹt luôn:

    – Chẳng hạn như “Cây” đó… (2)

    – Dạ không.

    Có lẽ câu trả lời này làm ông Năm tức giận cho nên ông ta trợn mắt nói:

    – Tao không tin!

    Rồi quay qua người đàn bà ông ta nói với giọng hết sức cương quyết:

    – Nè Chị Bảy, chị làm ơn khám con bé này dùm tôi. Vượt biên cha mẹ nào mà chẳng nhờ con cái cất giấu vàng bạc chứ…

    Nói xong ông ta túm lấy Chi Mai rồi xô nó vào lòng người đàn bà. Trước tình hình căng thẳng như thế người đàn bà dường như cũng trở nên bất động. Nhưng trước cái uy của gã chủ tàu, cái uy của người giàu có, bà ta hốt hoảng ôm lấy bé Chi Mai, sờ vào nách nó, nắn vào bụng nó rồi vuốt dài xuống chân nó. Rồi bà ta làm đi làm lại như thế đôi lần truớc con mắt mở trừng trừng của lão chủ tàu. Rõ ràng là trước mắt lão, bàn tay của người đàn bà không hề đụng chạm vào một vật gì cưng cứng để lão có thể nghi là vàng bạc, kim cương, cho nên chính người đàn bà cũng cảm thấy nhẹ nhõm. Bà ta thở ra một cái rồi cười cầu tài nói:

    – Ông Năm thấy không, có gì đâu?

    Nhưng dường như không phải là người dễ dàng thua cuộc, sau một vài giây suy tính Ông Năm gằn giọng hỏi:

    – Ðồ đạc của mày đâu đem ra đây tao coi!

    Tới phút này thì Chi Mai chỉ là con cừu non cho nên nó đưa mắt kinh hãi nhìn người đàn bà rồi chạy vào trong nhà lấy ra một cái bọc. Không đợi nó thưa gửi, lão chủ tầu giật vội lấy rồi mở bung cái cái túi xách, di vật cuối cùng của mẹ nó để rồi lôi ra một mớ đồ vật như cái áo lạnh, cái lược, một cái gương soi, một lọ dầu khuynh diệp và một vài bộ đồ lót. Sau khi trút bỏ tất cả ra ngoài, lão cẩn thận nắn dọc theo mấy vết khâu xem có giấu diếm cái gì ở bên trong không nhưng cuối cùng lão tức giận ném cái túi xách ra ngoài xa. Lão chắp tay sau đít đi đi lại lại. Nhưng cuối cùng lão cố dằn giọng hỏi thêm một lần nữa:

    – Nếu cha mẹ không đưa mày giữ cái gì thì cha mẹ mày có dặn mày cái gì không?

    – Dạ không!

    – Không biết sao được? Cha mẹ mày thiếu tiền tao mày có biết không?

    – Dạ không biết.

    Tới đây thì lão chủ tàu không còn kìm chế được nữa, lão quay qua người đàn bà lớn tiếng phân bua:

    – Trước khi đi cha mẹ nó năn nỉ tôi. Ðáng lẽ phải trả sáu lượng, cuối cùng tôi bớt cho còn năm lượng, mới trả có ba lượng, còn hai lượng hứa đến đảo thì viết thư gửi về nói người nhà chung đủ. Mồ hôi nước mắt của tôi chứ tôi có cướp của ai đâu. Nay cha mẹ nó chết rồi nó phải thay cha mẹ nó trả cho tôi chứ.

    Câu chuyện như thế đã trở nên rõ ràng. Nhưng tìm ra giải đáp không phải chuyện dễ cho nên người đàn bà nói lấp lửng:

    – Nhưng nó còn bé quá làm sao nó giải quyết được chuyện này?

    – Nó còn bé à? Tôi sẽ cho tiền nó đánh điện về Sài Gòn bảo thân nhân nó trả tiền cho tôi.

    Nghe nói thế người đàn bà ái ngại quay ra hỏi Chi Mai

    – Con có ai thân nhân ở ngoại quốc không? Như cô, dì, chú, bác chẳng hạn?

    – Không, con không có ai hết.

    – Thế ở Sài Gòn con còn ai không?

    – Ông nội, bà nội con đã chết. Còn bà ngoại ở dưới quê, nhưng ngoại con nghèo lắm.

    Nghe Chi Mai nói vậy lão chủ tàu cảm thấy tiền bạc của lão gần như tiêu tan cho nên lão chỉ vào mặt Chi Mai, nói:

    – Mày phải viết thư về nói bà ngoại mày trả tiền cho tao nếu không tao sẽ nói cảnh sát Mã Lai giữ mày ở lại đây… ở mục đảo nghe con.

    Nghe lão già dọa thế, Chi Mai kinh hãi nhìn lão rồi đưa tay vân vê vạt áo rồi nó òa lên khóc. Ngay lúc đó một tốp người của dãy nhà Long House lãnh thực phẩm cũng vừa về tới. Trong đám hỗn độn bao gồm đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ và trẻ con đó có một gã khi thấy lão chủ tàu, dĩ nhiên gã chưa biết lão đang nổi tam bành lục tặc cho nên gã lên tiếng chào:

    – Chú Năm, chú tới đây có việc chi vậy?

    Có lẽ gã tài công là đối tượng quan trọng hơn mà lão chủ tàu cần gặp cho nên lão tạm buông tha cho Chi Mai và quay qua gã tài công:

    – Không có việc gì tao tới đây làm gì? Nè tao đang tính nói chuyện với mày đây.

    Gã tài công vừa về tới là một người đàn ông khoảng ngoài ba mươi tuổi. Gã mặc một chiếc quần kaki và một cái áo thung Mã Lai. Gã có con mắt và bộ dạng rất tinh khôn. Nhưng cái mặt dài như mặt ngựa lại làm cho người ta có cảm tưởng gã là một con người nham hiểm dám làm mọi chuyện xấu xa để thủ lợi. Nghe giọng điệu của lão già, gã tài công linh cảm thấy có một cái gì thiếu thân thiện ở bên trong nhưng gã vẫn nhe răng cười và nói với cái giọng “chọc quê” lão già:

    – Thì chú là cha mẹ, chú muốn gặp lúc nào chẳng được?

    – Cha mẹ gì với thứ mày. Nè tao muốn hỏi mày một chuyện…

    – Có chuyện gì thì chú cứ nói đi!

    Gã tài công bắt đầu sẵng giọng.

    – Nói ở đây không tiện. Tao muốn nói chuyện riêng với mày được không? Hay là qua tới đây lòng dạ người ta khác rồi… Nè, đây chưa phải là Mỹ đâu nghe mày, Tấn.

    Linh cảm thấy có cái gì bất ổn ở bên trong, nhưng để tìm cách đối phó gã tài công nói:

    – Thì ít ra chú cũng phải để tôi cất mấy món đồ này đi chứ.

    Nói xong gã xách cái xô đựng thực phẩm vào trong nhà. Khi gã bước ra đã thấy lão già trừng trừng nhìn gã và khi bốn ánh mắt đã chạm nhau, lão già nóng nẩy đi vòng về phía sau căn nhà, còn gã tài công thì cũng từ từ bước theo sau. Khi hai người đã cách căn nhà khoảng năm sáu thước thì lão già dừng ở nơi có mấy tảng đá lớn nằm nhô lên khỏi mặt đất như những chiếc bàn lộ thiên. Ðợi cho gã tài công tới gần và ngồi xuống tảng đá đối diện thì lão già mới bắt đầu lên tiếng. Không hiểu hai người trao đổi những gì mà dường như câu chuyện mỗi lúc mỗi gay cấn và to tiếng.

    – Ai ăn cướp của chú?

    – Mày đừng có qua mặt tao. Lúc gặp tàu Thái Lan tao đã quăng cái bọc nhỏ vào trong thùng dầu máy trong đó có hai mươi lượng vàng. Trong buồng máy chỉ có tao với mày được vào, vậy hai mươi lượng vàng không cánh mà bay mất à?

    – Chú nói vậy mà chú không sợ “Lăng Ông Bà Chiểu” bẻ họng chú à? Trên tàu năm sáu chục người biết đâu kẻ ngay người gian sao chú lại vu oan giá họa cho tôi? Vả lại chú không thấy hải tặc chúi cả vào buồng máy khám xét hay sao?

    – Tụi nó có vào buồng máy xét nhưng đâu có mở thùng dầu máy ra. Mày tưởng thằng già này đui hả? Lợi dụng lúc hải tặc bỏ đi, trên tàu trộn rộn, mày ra tay cuỗm của tao, bộ tao không biết hả? Tao theo dõi từng cử chỉ, động tác của mày từ lúc đặt chân lên đảo. Nè, tiền đâu mà mày sắm dây chuyền, nhẫn vàng?

    – Chú đừng có hồ đồ, ai lấy của chú? Chú muốn tôi thề độc không? Nè, đứa nào lấy tiền của chú thì súng đạn ăn nó, nó chết nát thây mà không thấy mặt vợ con nó!

    Lời thề của gã tài công như dầu đổ thêm vào lửa, nhất là lời thề ấy lại thốt ra từ một khuôn mặt thiếu tin cậy cho nên lão già không còn chịu đựng được nữa:

    – Mẹ mày! Mày có trả tiền tao không? Tao không muốn nghe mày nói nữa.

    Cùng với câu nói đó lão già vung tay xáng vào mặt gã tài công. Nhưng gã tài công đã kịp đưa tay lên đỡ cho nên tay lão già dội lại. Như con hổ bị thương, lão già tức giận vớ lấy một khúc củi nằm bên cạnh tảng đá nghiến răng vung lên. Trước tình thế đó, gã tài công buộc lòng phải thoái lui rồi tháo chạy về phía dãy nhà Long House rồi quay trở ra với một con dao nhọn, loại dao làm bếp. Còn lão già thì cũng hung hãn chạy tới với khúc củi lăm lăm trên tay.

    Từ nãy tới giờ lời đối đáp, chửi rủa, tiếng chân chạy huỳnh huỵch khiến cho một số người trong dãy nhà Long House biết có chuyện bất thường nên đổ xô ra xem. Dường như đám đông cũng cũng là cái gì đó kích thích người ta thêm hăng máu cho nên khuôn mặt của lão già và gã tài công trở nên lúc đỏ, lúc tái xanh. Sau khi liếc nhìn đám đông một vòng, lão già chỉ vào mặt gã tài công, nói:

    – Tôi phải nói cho bà con biết. Tôi cho nó đi không lấy tiền thế mà nó còn dám cướp của của tôi nữa. Thật là quân chó đẻ mà!

    Nghe nói thế, gã tài công lấy con dao chỉ vào mặt lão già nói:

    – Ông chó đẻ chứ ai chó đẻ! Bộ ỷ có tiền muốn chửi ai thì chửi hả? Có ngon bước lên đây coi!

    Nghe gã tài công nói vậy, lão già gầm lên rồi vung cao cây gậy rồi xấn xổ nhảy lên. Có lẽ trong lúc hấp tấp không nhìn kỹ bậc thềm cho nên lão bước hụt hết một bậc tam cấp khiến cho thân hình lão hụt hẫng và cây gậy vung lên cao. Còn gã tài công thấy cây gậy vung lên như thế thì cũng tưởng lão già đã ra tay hạ thủ cho nên vội vàng vung con dao lên đỡ. Như một định mệnh, con dao đâm ngay vào cổ họng lão già và máu phun ra xối xả. Khi gã tài công lùi ra xa thì lão già cũng buông cây gậy và hai tay lão ôm chặt lấy cổ họng. Nhưng vết thương trúng nhằm chỗ hiểm cho nên không cách chi máu cầm lại được và chỉ ít giây sau lão lảo đảo té xấp xuống mặt đất. Vì sự việc xảy ra quá nhanh khiến đám đông cũng đứng chết xững. Chỉ vài giây sau, có lẽ vì máu đã ra hết, từ nơi cổ họng lão già chỉ còn phập phồng lên xuống một chút bọt đỏ rồi đôi mắt lão trợn trừng, đầu lật qua một bên, nằm bất động. Tới mức này thì đám đông chợt ồn lên như một cái chợ. Người ta chạy tới đứng sát bên xác lão già bàn tán, chỉ trỏ, tru tréo. Lát sau, cùng với bước chân chạy rầm rập của đám thanh niên thiếu nữ kéo tới từ các khu khác, an ninh trại và cảnh sát Mã Lai xuất hiện với súng ống, gậy gộc trên tay. Sau một vài lời thông dịch, chỉ trỏ, xác của lão già được khiêng lên bệnh viện Sick Bay. Rồi cảnh sát Mã Lai ra lệnh trói thúc ké gã tài công lúc này mặt mũi tái xanh đứng run rẩy như con gà mắc mưa. Rồi dưới sự hộ tống của đám đông hỗn độn như một đám ruớc ở Phi Châu, người ta dẫn gã tài công lên khu vực có vòng rào kẽm gai của cảnh sát Mã Lai… để trả lại cho một đám đông khác vẫn còn tụ tập bên bực thềm, nơi vũng máu của lão già vẫn còn loang lổ trên mặt đất… để tha hồ rỉ tai, bàn luận, suy đoán.

    Tuần lễ sau, tàu của Chi Mai được máy phóng thanh gọi lên gặp phái đoàn. Ðây là giai đoạn quan trọng nhất của đời tỵ nạn. Ði hay ở, định cư hay chờ mục đảo cũng là giây phút này đây cho nên theo thông lệ người ta bảo nhau đi thật sớm, ăn mặc tươm tất kéo lên văn phòng chờ đợi trong nôn nóng. Theo những người cùng tàu, Chi Mai cũng đi lên để gặp phái đoàn. Vì không thân bằng quyến thuộc cho nên hôm nay nó vẫn mặc chiếc áo đầm do Cao Ủy cấp phát. Khi mấy chú người Việt Nam cầm giấy gọi tới tên thì nó líu ríu bước theo vào căn nhà lợp tole nơi phái đoàn đang làm việc.

    Thời gian bây giờ là 1982 cho nên người tỵ nạn Ðông Dương vẫn còn được cưng chiều. Theo một thỏa hiệp với Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, các trẻ em dưới 18 tuổi không có cha mẹ đi theo đều được định nghĩa là cô nhi và chính phủ Hoa Kỳ sẽ ưu tiên mở hồ sơ những thành phần này cho nên nó được hướng dẫn vào gặp phái đoàn Hoa Kỳ. Khi đã ngồi yên trên ghế bên cạnh một chú thông dịch viên, nó thấy đối diện phía bên kia bàn là một người đàn bà Mỹ tay đang lật đi lật lại một xấp hồ sơ. Sau khi coi xong bà ta ngửng đầu lên, thở dài rồi xúc động nói với người thông dịch viên:

    – Xin ông thông dịch dùm là phái đoàn đã đồng ý nhận em định cư tại Hoa Kỳ.

    Người thông dịch viên vừa mới dịch xong thì Chi Mai đã kêu lên:

    – Còn mẹ con?

    Bà Cathy, người đàn bà Mỹ vừa lên tiếng lúc nãy, sau thoáng ngạc nhiên bà rơm rớm nước mắt nói:

    – Mẹ con à? Mẹ con chưa tới đảo thì phái đoàn làm sao nhận được?

    – Thế thì con phải chờ mẹ con. Vì cha con nói con phải chờ mẹ con rồi mới định cư. Mẹ con chưa chết mà!

    Nói xong câu này thì nó lại òa lên khóc. Có lẽ phải ít phút sau bà Cathy mới trấn áp được cơn xúc động của mình, bà nói:

    – Con phải rời đảo theo quy định nếu không thì không biết đến bao giờ hồ sơ con mới được mở lại. Bi Ðông không phải là nơi dành cho cuộc đời của con. Cô hứa khi nào mẹ con tới đảo thì cô sẽ đưa mẹ con gặp con ngay dù con ở bất cứ nơi nào.

    – Không! Con không đi đâu hết. Con phải chờ mẹ con!

    Cùng với câu nói đó nó đứng dậy rồi co chân phóng chạy ra bên ngoài. Vì câu chuyện xảy ra quá nhanh cho nên khi nó chạy ra khỏi được năm sáu thước thì người thông dịch viên và bà Cathy mới kịp phản ứng để đứng lên chạy theo nó. Như một con nai trong lúc kinh hoảng, nó cứ nhắm hướng bờ biển chạy tới, vừa chạy vừa khóc “Con không đi đâu hết! Con ở đây chờ mẹ con!” Nhưng khi chạy gần đến bờ nước, có lẽ vì quá xúc động cho nên sau một vài giây lảo đảo, nó té xấp xuống bờ cát. Khi chú thông dịch viên và bà Cathy chạy tới nơi, bồng nó lên thì mặt nó đã tái xanh và thân hình nó run lên lên từng hồi.

    Rồi trong vòng tay của chú thông dịch viên cùng sự vỗ về của bà Cathy, người ta dìu nó về dãy nhà Long House và đặt nó nằm nghỉ trên sàn nhà nhưng nó vẫn còn tấm tức khóc. Ðêm đó, do sự khuyến cáo của bà Cathy, ban an ninh của đảo đã cho người túc trực bên nó và bà cũng xin bệnh viện một hộp sữa để pha cho nó uống.

    Hôm sau, vào khoảng hai giờ chiều khi Ðảo Bi Ðông vẫn còn đang chìm đắm trong giấc ngủ trưa nặng nề với tiếng sóng vỗ bờ rì rào từ xa vọng lại thì máy phóng thanh vang vang danh sách những người chuẩn bị rời đảo khi tàu Bu Ðát cập bến vào lúc năm giờ. Qua sự dỗ dành của mấy bà đi cùng tàu, của mấy chú trong ban an ninh, Chi Mai dường như cũng đã nguôi ngoai. Nó không nói gì chỉ lẳng lặng rửa mặt rồi nó xin phép lên chùa xin vài cây nhang để thăm mộ ba nó.

    Trên con đường dốc ngoằn ngoèo dẫn đến nghĩa trang, Chi Mai vừa đi vừa chú ý tìm để ngắt những bông hoa dại mọc ở ven đường. Nắng đã ngả về chiều làm cho bóng của nó đổ dài về phía trước. Từng ngọn gió biển từ xa thổi tới làm cho mái tóc của nó bay lõa xõa về phía sau. Nó lặng lẽ tiến tới bên mộ ba, bật diêm để thắp lên vài cây nhang. Thắp xong nó quỳ xuống vái vái. Vái xong nó cắm nhang lên nóc nấm mồ rồi cứ quỳ yên như thế và nước mắt chảy ròng ròng. Qua làn nước mắt nhạt nhòa, có lúc nó thấy ba nó đang sánh bước bên mẹ nó nhưng rồi hình ảnh của ba nó vụt biến mất chỉ còn mẹ nó trơ trọi trên một chiếc thuyền con mong manh. Rồi mẹ nó giơ tay vẫy gọi “Chi Mai! Chi Mai! Mẹ đây nè! Chờ mẹ nghe con!” Nhìn thấy mẹ nó mừng quá, đứng bật dậy như muốn nắm lấy tay mẹ, nhưng vì đó chỉ là ảo ảnh cho nên nó té xấp xuống mặt đất và hình ảnh của mẹ nó cũng tan biến đâu mất. Khi nó đang lồm cồm ngồi dậy thì một bàn tay đã đặt lên vai nó và một tiếng nói nhẹ nhàng cất lên:

    – Thôi đủ rồi Chi Mai. Cháu lậy tạ ba cháu đi rồi quay về kẻo trễ.

    Ðó là câu nói của chú trên ban an ninh có nhiệm vụ đi theo nó. Theo lời khuyên của người đàn ông, nó lấy tay vái vái mộ ba một lần nữa rồi đứng dậy. Khi nó vừa quay lưng thì nó chợt nhận ra nằm ngay bên cạnh ba nó là một ngôi mộ còn rất mới trên có cắm một tấm bảng gỗ đề mấy hàng chữ: Nguyễn Văn Năm sinh năm 1931, chủ tàu MB-105 chết năm 1982. Nhìn mấy hàng chữ nó nhận ra ngay Ông Năm, người đã đến hỏi thăm sức khỏe nó và do một tình cờ lại được chôn cất nằm ngay bên cạnh mộ ba. Nhưng để cho chắc ăn nó quay sang người đàn ông hỏi:

    – Có phải Ông Năm chủ tàu bị người ta đâm chết không chú?

    Người đàn ông lặng lẽ gật đầu. Chi Mai lẳng lặng bước tới bên nấm mồ, bật que diêm thắp vài cây nhang rồi cắm lên trên. Cắm xong nó quỳ xuống rồi lên tiếng như thể có Ông Năm đang ngồi trước mặt:

    – Thưa Ông Năm, Ông Năm đừng đòi nợ con. Con không có tiền trả Ông Năm đâu. Khi nào con lớn lên có tiền con sẽ quay về đây xây mộ cho Ông Năm. Xin Ông Năm đừng theo đòi nợ con… biển đã lấy đi của con tất cả rồi

    Ngay lúc ấy từ máy phóng thanh bản nhạc Biển Nhớ (***) bỗng vang lên để mở đầu một cuộc tiễn đưa như trăm, ngàn cuộc tiễn đưa khác. Âm hưởng của bản nhạc cùng với tiếng đàn Organ réo rắt như thúc giục người ra đi và làm nát lòng người ở lại. Dường như cả một vùng biển bao la cũng đang cùng tấu lên một khúc nhạc thê lương để vẫy tay chào những người đã một lần cưỡi lên sóng nước, đùa rỡn với cuộc tử sinh… và lát nữa đây sẽ vĩnh viễn rời xa hòn đảo nhỏ bé này để khởi đầu một cuộc hành trình về nơi vô định.



    Đào Văn Bình
    (Trích trong tuyển tập truyện ngắn Hương Xót Xa xuất bản năm 1998)

    (*) Tàu Blue Dart
    (**) Lạng vàng
    (***) Bản nhạc Biển Nhớ của Trịnh Công Sơn









    Oh Sea, Give Everything Back To Me…
    ___________________
    Written by Dao Van Binh




    A morning on Zone C beach of Bidong Island would attract only a few people, who went there for a walking exercise. In the water not far from the beach a few heads would be seen bobbing up and down with the waves. They were early bathers, who believed in the myth that immersing themselves in the sea water in the morning would rejuvenate their muscles and skin and help cure diseases, including tuberculosis. But in the afternoon, many refugees, young and old, would converge on Zone C beach to take a dip, play soccer, breath in the fresh air, or look in the far distance in the hope of spotting a refugee boat that might be drifting to this shore.
    Usually, the water in a low ebb would recede, and the beach would stretch far into the sea, baring pell-mell to the sun sundry things, such as water plants, mosses, shells, torn pieces of fishing nets, and empty soft-drink cans and bottles. Each time a surging wave came rushing onto the beach, it would produce white foam and, in its retreat, pull the trash a few meters to the sea, bury it for a while, and then bring it back to the shore again, as if the sea and the land were involved in an endless see-saw battle.

    On this island, the sky, the sea, the land and the vegetation seemed to be muffled in the sweltering tropical climate, so that everything exuded a sluggish and tiring mood – an atmosphere as melancholic and gloomy as in a Muslim temple full of kneeling, lamenting faithful.

    The Tu Bi pagoda, a shanty – like building with corrugated roofs perched on a mountain top, could be seen from the beach. It was recognizable as a pagoda because of the Buddhist emblem protruding from the middle of its rooftop and sandwiched between two bent-up brown beams, lending a pagoda look to the structure. A bell toll would occasionally echo in the air, seemingly in a bid to be welded onto the sultry, torrid climate on this forlorn, tiny island. When the early morning Buddhist mass was over, the people slowly emerged from the pagoda on their way home to begin their Saturday morning, when they were not required to do manual chores in the camp, and when the ship Budat would bring in fresh food from Terengganu. But there was shadow of a person who, instead of going home, walked down the sloping, rocky trail leading to the beach – a small, frail-looking shadow, that of the girl named Chi Mai.

    Today, Chi Mai wore a colored, flowered, western gown donated by the office of the U.N. High Commissioner for Refugees. The unaltered garment was too big for her. Its length and its loose collar made her look as thin as a lath. The sun and the ocean wind gave her a deep tan, so dark that, if seen wandering about at the Terrengganu market place, she would be mistaken for a homeless, deprived little Malaysian girl. Only observance eyes could identify her as a Vietnamese child, because of her uncurled hair, which dropped on her shoulders, her quite elegant Oriental face, and her two crescent-like, not-so-black eyebrows. Her dimpled cheeks and particularly her smile made her look quite charming. Her eyes, though beautiful, always cast a scary look, the aftermath of a series of horrible incidents which befell her during her terror-stricken sea journey. As was customary, instead of wandering along the beach, she headed for a row of rocks near the water and sat down on a preferred flat rock. After settling herself comfortably, she looked out to the open sea, her eyes intensely focused on looking for some beloved thing that had been lost forever in the sea. And as always, her horrible past experiences on the sea came back to her mind.

    She remembered the day she and her parents left Saigon aboard a bus for Binh Dai, Kien Hoa province. Upon arriving in Binh Dai, they were hidden in a thatched hut by a guide. They stayed there for a few days before they were taken by a “taxi” boat to the “big fish” – the ocean-bound boat – to begin a journey for Freedom. When the boat’s helmsman reported that the boat had reached international waters, her mother told her in a serious tone, “ Although you are just thirteen years old, there is no guarantee that Thai pirates will spare you. So be careful!” Then she smeared her daughter’s face with black soot and stained her pants with a red colored medicinal liquid from a small bottle kept in her coat pocket. From this moment on, Chi Mai became a dirty, blemished little girl nervously cowering in a corner in anticipation of possible horrors.

    Four days after they left Binh Dai estuary, everybody was nervous and ignorant of what would be in store for them. “Folks, we’re going to reach Malaysia pretty soon!” hollered the helmsman, spotting a black dot far in the western horizon. His announcement had the effect of a revitalizing pill, making the boat alive with excited, noisy comments. Clothes were collected and burned to make an SOS. signal to appeal the kindness of a coastal patrol people or fishermen who might happen to be working in the area. But the helmsman proved to be an ignoramus, whose maritime navigational knowledge was limited only to river traveling, and whose tools consisted only of an army compass and a student – teaching map bought from a cheap store. He lacked a device to measure the wind force and the speed of the boat’s drifting. What he thought to be Malaysia was actually the Gulf of Thailand , and the smoke from the boat turned into “We are here” bait for Thai fishing boats to attack.

    Moments later, as the boat moving westward, two big fishing boats approached, loaded with blackish men jumping and dancing menacingly and brandishing machetes, bats and rifles. Barbarous piratical acts began. The boat was ransacked, and a number of young females were taken away. Chi Mai had been pulled out of her corner. One of the pirates who was about to shove her over to his boat, was told about the red stains on her paints. She was then shoved away and sent falling on her back.

    Those hiding in the boat hold were also picked out by the devils. When Chi Mai’s mother was pulled over to one of the Thai boats, her father lunged forward, grabbed her feet, and knelt down to plead for her release. The pirate, far from listening to the pleading, roared with laughter and swung his machete and struck down. Luckily, in that critical moment, her father succeeded in warding off the blow with his raised arm, and the machete cut a piece of skin off his head and hit one of his shoulders. He let out a loud scream and succumbed as the laughing pirates dragged his wife away. As if these violent criminal acts were not enough, the pirates ordered the rest of the boat people to squeeze themselves in the hold, and the boat was chained for towing.

    Nobody knew how long the boat was towed until they no longer heard the sound of the water flapping against the boat. All was quiet now, and the boat rocked gently. The people were absolutely silent, to the point of nearly suffocating inside the boat. Some people made a bold move to peep through the hold cover. Coughing was feigned and noises were made to invite a response from outside. Absent the response and regardless of dangers, people began climbing out of the hold only to discover that the Thai pirates had already abandoned the boat. Chi Mai crawled up toward where her father had been attacked. He was lying in a pond of blood, almost breathless. Some refugees immediately gave him first-aide care by feeding him some water and tearing his shirt off to bandage his wound. His profuse bleeding reduced his body to a physical wreck.

    Amid cries and laments, a check on the casualties revealed that five women and three teenage girls had been kidnapped, two young males had been kicked into the ocean, and one man, Chi Mai’s father, had been seriously wounded. There was no time for crying now; the only recourse was to keep the boat on its southbound course. Following the brutal piratical attack, the helmsman and the boat owner stopped acting arrogantly and authoritatively and became very obliging.

    Two days later, unable to survive his wound, Chi Mai’s father left her forever. Before breathing his last, he had strained himself to say his last words to his daughter, “ Sweetheart, if you make it to a refugee camp, please wait for your mother to join you go to the resettle in another country.” The passenger wrapped his body with all his clothes, burned some incense sticks to pray for his soul, and slid him down into the water. Chi Mai’s suffering was too much for her to endure. Before her eyes, the blended colors of the blue sea water and the dazzling red sun light formed a purple cloud that twisted like a tornado. Dizzy and unstable, she passed out and dropped down on the deck.

    Three days later, the boat miraculously drifted toward Bidong’s shore. As usual, upon a boat’s arrival, camp residents turned out to the beach in droves. They alerted the newcomers the fact that, unless they destroyed their boat, they would face a tow back to the open sea by the Malaysian police. Ignoring the warning, the newcomers immediately abandoned the boat in a higgledy-piggledy manner. Persons still strong enough dragged themselves on the beach, while the serious sick were carried by young males to the camp’s “ Sick Bay ” clinic. Chi Mai was among those who were hospitalized. The Malaysian police and the U.N. High Commissioner for Refugee officials quickly turned up to do the necessary investigation and interviewing. After their records were filed, the newcomers began their new life as refugees.

    As fate would have it, the next day, Chi Mai’s father’s body was found washed ashore. Whether it had been brought here by the water current, or was prompted by divine power to accompany the boat to this island, was beyond anybody’s knowledge. The body was identified as her father because some boat mates recognized the knife wound on the shoulder and the clothes. Out of compassion, the Catholic church, the Buddhist pagoda and the camp’s service group jointly provided a makeshift coffin and buried it on a hill, where there were score of graves with wooden crosses planted on them. Deceased refugees were buried there so that, as the camp residents believed, the souls of the deceased, while resting in peace on this hill, would have a chance to face their beloved Vietnamese Fatherland and to search for the images of their beloved ones who had also perished on the South China Sea .

    A simple funeral took place on the deserted hill during a morning bathed in bright sunlight. Chi Mai, wearing a white mourning band on her head, knelt down before her father’s grave. Nobody knew whether she was able to cry any more, but her shoulders were shaking. She knelt there until some of her boat companions came to walk her back to the camp. Thereafter, every Sunday afternoon, she would visit the grave and place on it a bunch of wild flowers, which she had picked up on the hill. And every morning after the Buddhist mass, she would come and sit on the same rock and stare at the open sea.

    She preferred morning time because the beach was packed with people in the afternoon. She needed the morning quiet to nurse her dream of seeing her mother join her there one day. Occasionally, she would be struck with fear at the thought that her kidnapped mother would not be able to escape from her detention and that she might have been killed and thrown into the sea by the pirates. That thought prompted her to constantly check on the mosses and seaweeds washed against the rocks, hoping to find some of her mother’s strand of long hair entangled in those things. She would sometimes fancifully wish that her mother was being held captive on a certain deserted island and that, in order to communicate with the outside world, her mother would insert a letter into a bottle and let it drift away so it would reach someone. Therefore, whenever she happened to see a bottle bobbing in the water, she would retrieve it with high hopes. But she found nothing.

    As the sun was rising high, the intense heat broke the hanging fog, disclosing a faraway horizon line that cut across the sea. Chi Mai, heaving a long sigh, started back on the trail leading to the rows of houses in the Long House Zone. By this time, the island was pretty busy. The open air market place was thronged with people, who were engaging in trading fish, canned food, instant egg noodles, cigarettes, and vegetables. Blaring out of the loudspeakers was a female voice, calling out the names of refugees who were going to leave the island for resettlement in a foreign country. The announcement ended with a song entitled “I Miss the Sea”, a song which was usually played at send-off times. Its lyrics and melody were sad and melancholic, invoking the farewell sentiments shared by departer and those remaining behind.

    Snaking through the busy crowd, Chi Mai headed for the Long House Zone. When she got near her place, she heard a woman’s loud voice coming out of a nearby house. “Chi Mai, get home quickly! Today is your turn to get the distributed food for us. Go get it right away before it’s too late. Take a bucket with you for the stuff. Look, remember to request frozen chicken drumstick, instead of those bony pieces that are of no use.”

    Mai said “yes” as she hurriedly entered her house. When she was about to turn back to the door, a man walked up the narrow trail. He made a few more steps forward and was recognized by the woman, who quickly addressed him. “ Hello, Mr. boat owner. What are you doing here?”

    The boat owner to whom the woman talked was a man in his fifties with a receding hairline and a seemingly alcohol – intoxicated face. A first glance at his obese structure made one believe that he was a kindhearted man, but his thick lips and his eyes, which occasionally flashed a malicious look, turned him into a type of man to be avoided. He had barely been on this island for two weeks – a period when nobody could have had time to contact their relatives at home; yet he dressed himself in Malaysian brand T-shirt, Western-style pants, and shoes, unlike other male newcomers, who wore shorts and walked about with bare feet and without a shirt. This would suggest that he had carried lots of gold with him on board. His manners showed that he didn’t come from a working class, nor was his background easily known. He could be a work contractor, or a business broker, or a smuggling kingpin. Anyhow, it was certain that he was mart and that his many good tricks could have helped him survive in a cruel society back home, where he had succeeded in organizing a sea-going boat trip with the tacit agreement of the local security men.

    Instead of warmly responding to the woman’s greetings, he cautiously looked around and lowered his tone. “ Let Mrs. Bay call me old Mr. Nam . It’s no good to continue referring me as ‘boat owner’. People on this island are all strangers, and we don’t know who is who.” Not giving the old woman a chance to react, he continued, “Where are the helmsman and that little girl whose dead father was tossed into the sea?”

    “Tan, the helmsman is out for foodstuffs. The little girl, Chi Mai, will come out very shortly,” Mrs. Bay quickly replied. No sooner had the woman finished talking than Chi Mai came out of the house.

    “ Good morning old Mr. Nam , “ said Chi Mai respectfully, her hands clasped in front of her.

    Instead of returning Chi Mai’s greetings, the man turned to the woman. “Mrs. Bay, could you find someone to take this girl’s place at the food distribution line? Those aboard my boat are said to be listed for departure from the island, and I have something important to discuss with her.”

    The woman was hesitant for few seconds. Then, seemingly out of consideration for the old boat owner, she hollered to someone inside the house. “Where are you, Dung? Can you substitute for Chi Mai for today? Old Mr. Nam wants to say to her.”

    After the woman’s son left with a bucket, the boat owner told her, “ I need you to be my witness to this matter. I am a reasonable man. If everything goes well, I’ll never forget your favor.”

    Caught suddenly in a dilemma, the woman didn’t know what to do. If she declined, would she offend him? How would the unfolding story affect her if she agreed? Then, feeling that she was indebted to a certain degree to the boat owner for her safety in the piratical attack (although it was a safety which could have been due to the fact that the pirates had spared her because of her age), the woman reluctantly sat down by Chi Mai’s side. The boat owner said to Chi Mai in a low, gentle voice, “ Girl, prior to boarding the boat, did your parents confide anything to you, or did they give you any instructions?”

    “ Yes, old Mr. Nam . My mother advised me, if caught by the security people, not to tell them the truth about my name, my address and my parents,” the stupefied little girl replied timidly. Her reference to the trip must have revived the pain in her, as her eyes were now brimming with tears

    Old Mr. Nam , not much interested in her pain, anxiously fired another question. “I am not interested in that matter. I want to know if yours parents gave you keep something for them.” After a moment of hesitation, he went straight to the matter. “ For instance, what about gold?”

    “No, not at all.”

    Apparently angered by the reply, he rolled up his eyes. “ I don’t believe it.” He then talked to the woman in a very serious tone. “ Mrs. Bay, please search her body for me. All parents on a sea journey entrust their children with money and gold to hide.”

    As soon as he finished talking, old Mr. Nam grabbed Chi Mai and shoved her on to the woman’s lap. The woman, becoming suddenly passive in such an tense situation, and at the same time intimidated by the authoritative attitude of the wealthy boat owner, awkwardly moved her arms and ran her hands along the girl’s body from top to bottom. She repeated the search several times as the boat owner watched with wide-open eyes. He clearly saw the woman’s hands run up and down without coming across any solid objects that could be suspected to be gold or jewelry. The woman now felt relieved.

    “You see, old Mr. Nam , nothing has been found,” she said in a pleading tone.

    Refusing to be a loser, the boat owner, after a few seconds in thought, told Chi Mai in a raised voice, “Bring all your belongings out here for a check.”

    Now as docile as a lamb, Chi Mai threw a scared look at the woman and ran into the house. She came out with a bag, the last thing left by her mother. Without saying a word to her, he grabbed the bag. He took out lots of things, including a warm blouse, a comb, a mirror, a small ointment bottle and a few undergarments. His hands carefully squeezed the seam of each piece of clothing in search for gold. Angry at his failure to find anything valuable, he tossed her belongings away, walking back and forth with his clasped hands behind him. “Besides entrusting nothing to you, did your parents give you any instructions?” he finally repeated what he had said before, stressing each spoken word.

    “Nothing,” Chi Mai replied.

    “You should have known something. Do you know that your parents owed me some money?”

    “No, I knew nothing.”

    Her answer drove him into uncontrolled anger. Turning to the woman, he explained, “Prior to our departure, her parents pleaded with me for a favor. Instead of the regular fee of six ounces of gold for her family, I settled on five ounces. Three ounces had been paid, and the rest were to be paid after they reached a shore from where they would contact their family back home by mail so the payment could be made to my family there. You know the money which I spent for this trip was hard earned, not coming from my stealing from anyone else. Now that her parents have died, she ought to pay me the remainder of the free.”

    The whole thing was now as clear as the day. But seeking a solution to it would not be easy. Understanding this, the woman said noncommittally, “How can a little girl like this be able to solve this problem?”

    “Is she too young to do this? I’m going to give her some money so she can send a telegram home urging her family to pay me.”

    “Do you have any relatives living in foreign country?” the woman said to Chi Mai in a compassion tone. “Any aunt or uncle, for instance?”

    “No, none of my relatives live abroad.”

    “How about anyone living in Saigon ?”

    “My grandparents are all deceased. My maternal grandmother in the countryside is very poor.”

    Chi Mai negative reply made the man understand that it was all but impossible for him to claim his money back. Pointing his finger at her face, he threatened, ”Write your grandmother to pay me what your parents owe me; otherwise, I will see to it that the Malaysian police keep you here – until you rot on this land.”

    Horrified by the boat owner’s threat, Chi Mai looked at him, twiddled with the flap of her blouse, and burst into tears. By now a handful of people in the Long House area had returned from their food-receiving chores. Among this crowd of men, women and children was a young man who, unaware of what had caused the old man’s rage, greeted him.” Uncle Nam , what are you doing here?”

    When he saw Tan, his former helmsman, the old man, probably realizing that the helmsman was as much a target as Chi Mai was, temporarily let her alone and turned to face him.” How am I not here without a cause? Hey, I want to have a little chat with you.”

    The helmsman, about thirty years old, wore a khaki trousers and a Malaysian-made T-shirt. His eyes and his bearing and figure proved him to be a very smart guy. But his horse-shaped face gave people the impression that he was a wicked person capable of bad things for personal gains. Though sensing the boat owner’s less-than-friendly tone, the helmsman produced a teeth-baring smile and teasingly answered, “I respect you as much as I do my parents. So you can see me any time you want.”

    “I declined to be treated as such. Look, I want to ask you something.”

    “Please go ahead,” the helmsman started raising his voice.

    “I don’t think this is a good place to talk. Can I have a private meeting with you? Was there any change of heart once the journey was no longer dangerous? Look, Tan, we are not in America yet.”

    Aware that something was not going right, Tan was trying to find a way to cope the situation. “At least allow me to carry these things inside,” he said. Having said that, he took his food bucket inside the house. When he stepped back outside, he was stared at by the old man, and the two pairs of eyes stared at each other intensely. The boat owner quickly headed to the back of the house, followed by the helmsman. When the two men were five or xix meters away form the house, the boat owner stopped at a cluster of big rocks that could be used as seats, He sat down on one of them and waited until the helmsman came and sat facing him before he raised his voice. At first, nobody heard what they were saying to each other, but their discussion became increasingly heated, and their voices became even louder.

    “Who the hell was it that could steal your money?” the helmsman asked.

    “Don’t you try to play a trick on me. When the Thai boat attacked us, I tossed a bag containing twenty ounces of gold into the oil drum. You and I were the only ones authorized in the engine compartment. So did the gold have wings that flews away?”

    “Wait a minute. Aren’t you afraid of being strangled to death by the ‘Deity at Ba Chieu mausoleum’? Why do you take me for a suspect when anyone from among the sixty people on board could be a thief? In addition, didn’t you see that the pirates ransacked every corner of the boat, including even the engine room?”

    “Agreed, they went there, but they didn’t pry the lid of the fuel drum. Do you think that I’m a blind man? You took advantage of the time of the pirates’departure and of the chaos aboard to steal that gold. Was I so dumb as to know nothing about you? I’ve been watching your every move since we came on this island. Where was the money that you have for such things as the gold pendent and the ring you’re wearing?

    “Look, don’t be so absurd. I never took anything from you, alright! Are you ready for my death-inflicting curse? Hey, my curse is that anyone who took your gold ought to be torn to pieces by a bullet without his family knowing about it !”

    They helmsman’s curse had the damaging effect of adding oil to a fire, especially when it came from that not-so-trustworthy face.

    “God damn it! Are you ready to give the gold back to me? “the old man shouted, his anger reaching the breaking point. “ I don’t want to listen to you any more.” Before he finished his last words, he dealt a fist blow at the helmsman’s face. The helmsman raised his hand to ward it off. Feeling like a wounded tiger, the old man grabbed a piece of firewood nearby, grit his teeth in anger, and struck hard.

    Caught in panic, the helmsman stepped back and ran toward the Long House area. When he came back, he had a kitchen knife in hand. For his part, the no-less-threatening old man, with the firewood in hand, ran up to his opponent.

    By now, the loud voices, the cursing abuses and the thumping of running feet alerted the people in the Long House area that something unusual was going on. They came out of their dwelling places for a closer look. Their presence seemed to have helped further increase the adrenalin of the disputing parties to the effect that their faces got even redder and then turned green. The old man turned to the crowd and pointed a finger at the helmsman. “ Let all you here know that I gave this man a free boat ride. Now he returned my favor by daring to steal my money. You are a son of a bitch!”

    Not to be outdone, the helmsman pointed his knife at the old man. “You, and nobody else, is son of a bitch. Do you think any man with some money like you can get the right to heap abuses on other people? Got the guts to step up here?”

    Having heard that, the old man roared up in anger and jumped forward to meet the helmsman, the firewood stick swung high. Probably in haste, he didn’t see the few elevated steps between him and the helmsman, and he missed his foot and lost his balance, with his stick still up in the air. The helmsman, sure that the stick was about to hit him, thrust out his knife to ward off the blow. As fate would have it, the knife struck the old man in the neck, and a jet of blood spurted out profusely. As the helmsman stepped back, the old man let go of the stick and grabbed his neck. The wound must have been at a vulnerable spot because the blood flow couldn’t be stopped, sending him to the ground in a matter of a few seconds. The incident happened so quickly that the crowd only stood there, dumbfounded. Seconds later, no more blood came out of the wound and his neck, now stained with red froth, was throbbing. With his eyes rolled up and his head flipped to one side, he became immobile.

    At this point, the crowd exploded into noisy chaos. They rushed toward the dead man, pointing at him, talking to each other and screaming hysterically. Moment later, along with the arrival of young men and women from the other sectors, the camp security men and the Malaysian police appeared with rifles and wooden sticks. Through an interpreter, the police made an initial investigation, then took the body to the Sick Bay Clinic and ordered the green-faced, trembling helmsman tied up and taken to the barbed-wire police compound. They were escorted by the crowd, which was now as jumbled up as the festive parade in an African country. Other people, talking and speculating endlessly, still hung round where the old man’s blood still wet the ground.

    One week after the incident, the passengers who had been on Chi Mai’s boat were informed over the public – address system that they were going to have interviews with a foreign delegation. Being called up for an interview was the most important moment in a refugee’s life. Whether a refugee’s resettlement in a foreign country was approved or rejected (to be left to rot in a refugee camp) depend on such an interview. Therefore, the refugees would dress themselves properly and report anxiously to the interview office ahead of the schedule time. Chi Mai was on the list of interviewees. She wore her large-sized western dress to report to the interview. When her name was called by a Vietnamese office worker, she shyly stepped into the house to meet a foreign delegation.

    Her interview took place in 1982, the time when Indochinese refugees still enjoyed decent treatment in term of their resettlement in third countries. According to a U.N. High Commissioner for Refugees agreement, children under eighteen years of age and unaccompanied by parents were categorized as orphans, and their files were to be reviewed in priority by the U.S. delegation. Seated next to a Vietnamese interpreter, she looked across the desk and saw an American lady shuffled a stack of files. After a moment of reviewing the files, the lady raised her head, heaved a sigh and said to the interpreter in an emotional tone, “ Please tell the girl that the U.S. delegation has approved her resettlement in the United States .”

    The interpreter had barely finished his sentence in Vietnamese when Chi Mai said aloud, “What about my mother?” Cathy, the American woman, after talking to the interpreter, raised her voice, tears sparkling in her eyes.” Your mother? We can’t do anything about it as long as she isn’t here yet.”

    “ So I have to wait for my mother. My father told me not to go anywhere until my mother shows up here. She isn’t dead yet.”

    As soon as she was finished, Chi Mai burst in tears. It took Cathy some time to calm her down before she could go on. “ You have to leave the island. Otherwise, nobody knows when your file will be reviewed again. Bidong Island is not where you will grow up. I promise to you that, when your mother shows up here, I will immediately take her to you, no matter where you are.”

    “No, I’m not going any where. I’m supposed to meet my mother here.” Suddenly, Chi Mai stood up and sprinted outside. Caught off guard by the girl’s sudden, quick action Cathy and the interpreter couldn’t react promptly. Like a panicky deer, Chi Mai ran toward the beach while crying, “Mom, I’m not going anywhere. I’m going to stay here until you com!”

    When she reached the water line, she staggered for a few seconds and fell down on the sand, probably overwhelmed with emotions. Cathy and the interpreter came up and saw her face turn green and her body tremble spasmodically. The interpreter lifted Chi Mai up and carried her in his arms to her place in the Long House zone, while Cathy said comforting words to calm down her sobbing. Cathy recommended that Chi Mai be watched over by a security team and that the camp clinic help her with some milk for the night.

    At about two p.m. the next day, while Bidong Island was still deep in a siesta lulled by the flapping waves echoing from the beach, the public-address system broadcast the names of departers who were to board the Budat ship, which was due to arrive at about five p.m. Comforted by some of her boat companions and the security men, Chi Mai felt better, but she didn’t speak to anybody. In silence, she washed herself, the excused herself to go to the pagoda to get a few incense sticks to burn at her father’s grave.

    Along the winding trail leading to the cemetery, she picked up some wild flowers for her father. The afternoon sun cast her long shadow in front of her, while gusts of ocean wind blew her long hair behind her. She silently stepped forward to the grave, lighted the incense sticks with a match, prayed for a while, and knelt down, tears running down her cheeks. With tears blurring her eyes, she saw her parents walking hand in hand; suddenly, her father disappeared, and her mother was left alone aboard a tiny, fragile boat, waving to her, “ Chi Mai ! Mom is here. Wait for me, sweetheart!” Overjoyed by the image of her mother, she stood up in an attempt to hold her mother’s hand, but her illusion sent her falling face down on the dirt as her mother’s image evaporated in the air. As she was lifting herself up, a hand touched her shoulder, and she heard a low voice, “That should be enough, Chi Mai. Bow to your father and come back to the camp. It’s kind of late.” Those were the words of the security man charged with watching over her.

    She bowed three times, then turned around and noticed a freshly formed heap of earth near her father’s grave, with a wooden signboard reading “Nguyen Van Nam, born 1931, owner of the boat MB-105, deceased 1982.” She recognized right away that the late Mr. Nam was none of other than the man who had come to see her. Just to be sure, she asked the guard, “ Is that the man who was fatally stabbed the other day?” The man nodded in silence.

    Without a word, she moved toward the new grave, lighted some incense sticks, and planted them in front of the grave. She knelt down and talked to Mr. Nam as if he was sitting in front of her.” Mr. Nam , please don’t claim any debt from me. I don’t have any money to pay it. When I grow up and have money, I’ll come back here to build a nice grave for you. Please don’t follow me for money. The ocean has taken away everything from me.”

    Right at that moment, over a loud speaker, the song “I Miss the Sea” was played to signal another send-off ceremony, similar to a thousand previous send-offs. The sad organ tune, while exciting the departers, ached the hearts of those remaining behind. The entire vast ocean area seemed to be playing another melancholic song to bid farewell to those who had once ridden the waves and played with the Demon of Death, and who would shortly depart from this tiny island to begin a new journey to an undetermined future.







    https://tienglongta.com/2019/06/17/dao- ... ra-cho-ta/
Ngoc Han
Bài viết: 1582
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: - 30/04/2021 - tưởng niệm 46 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Ngoc Han »

Vẫn Nợ Anh

(Xin thắp một nén nhang lòng tưởng nhớ đến những người đã hy-sinh cho đại cuộc)

Tôi vẫn nợ anh một lời trăn trối
Buổi chia ly cạnh vũng máu bên đường
Anh kiêu bạc vẫy tay chào vĩnh biệt
Nhắn nhủ ngày về giải thoát quê-hương.

Anh lính chiến những anh-hùng bất diệt
Đã bao lần nối gót bước tiền nhân
Cơn quốc biến hy-sinh cho đại cuộc
Để ngàn sau chiêm ngưỡng phút phong thần.

Nơi anh nghỉ có hồn thiêng sông núi
Cùng cỏ cây ru mãi khúc tình ca
Ôi thương qúa bản tình ca dân-tộc
Mấy mùa đau theo vận nước nhạt nhòa.

Trong vắng lặng ngậm ngùi cho thế-sự
Trên hoang tàn đổ nát cuộc tang thương
Đêm buông xuống vành khăn sô quằn-quại
Nấm mồ hoang ai đứng khóc bên đường.

Anh lính chiến tên anh còn vọng mãi
Trên từng trang quân sử máu bi hùng
Mưa tháng sáu đầu mùa như thác dội
Khóc anh hùng phiêu giạt cõi mông lung.

Anh lính chiến xin nghe lời tâm nguyện
Rồi một ngày khi đất nước an hòa
Xin được đến quỳ chân bên mộ chí
Lễ giải oan hồn tử-sĩ thăng hoa.

Trần Ngọc Nguyên Vũ
--------------------------

Xin Một Lần Tạ Lỗi

Xin tạ lỗi với đời trai khói lửa
Những địa danh ngang dọc bước quân hành
Đêm tráng-sỹ qua sông lần vĩnh-biệt
Tưởng đang còn cuộc rượu lúc tàn canh.

Xin tạ lỗi cùng chinh-phu tử-sĩ
Giấc liêu-trai hồn quyện bóng trăng tà
Như mãnh hổ nhớ sương rừng khí núi
Cõi âm phần còn mải-miết bôn-ba.

Xin tạ lỗi với rừng sâu núi thẳm
Cùng đại-dương sóng cuồng nộ thét gầm
Ngày tháng vẫn lạnh lùng qua ánh mắt
Đứng ngây nhìn vòng sinh tử vô tâm.

Xin tạ lỗi với khung trời rực lửa
Đỡ bông dù bung tỏa giữa không trung
Đôi cánh xoải đã nặng oằn bom đạn
Đưa ta ra khỏi cơn bão trập-trùng.

Xin tạ lỗi mộng bình mông thủa trước
Giấc nam-kha bay thấu điện Dao-trì
Ngoảnh mặt lại con đò xưa rẽ bến
Cũng thôi đành như gỗ đá vô tri.

Xin tạ lỗi cùng tâm-tư khắc-khoải
Gánh trên vai mộng vá dải giang-hà
Chân chưa mỏi con đường dài vạn dặm
Lời thề xưa chừng vỗ cánh bay xa.

Xin tạ lỗi chí tang bồng hồ thỉ
Kiếm cung xưa treo gió cuốn mây ngàn
Qùy chịu tội với hồn thiêng sông núi
Giấc mơ đời theo lịch-sử sang trang.

Xin tạ lỗi với ai người chinh-phụ
Đã hóa thân nàng Tô-Thị trông chờ
Đứng sừng-sững giữa hai vầng nhật nguyệt
Nhỏ xuống dòng lệ máu bốc thành thơ.

Xin tạ lỗi cùng em người hiền phụ
Đã vì ta lận đận suốt một thời
Cùng ngụp lặn trôi theo dòng sinh-mệnh
Tấm gương đời cuối thế-kỷ hai mươi.

Trần Ngọc Nguyên Vũ

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

tạp ghi sau 40 năm (kỳ 14)

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • tạp ghi sau 40 năm
              
    (kỳ 14)

    ___________________________
    phi ngọc hùng _ 2015





    Nội chiến Nam Bắc

    Tháng Tư của 150 năm trước...

    Tháng Tư của Hoa Kỳ là một ngày của lịch sử. Sau chiến tranh giành độc lập, 13 thuộc địa Bắc Mỹ thắng Anh quốc trở thành Hoa Kỳ với tổng thống George Washington thì tiếp theo đến trận nội chiến chia đôi Nam Bắc. Vào thời kỳ đó, nước Mỹ gồm các tiểu bang đông-bắc chủ trương giải phóng nô lệ. Các tiểu bang miền Nam quyết đòi giữ lại chế độ nô lệ cho nông nghiệp. Tổng thống miền Nam là Jefferson Davis. Thủ đô là Richmond tại Virginia.

    Nội chiến xảy ra thời Tổng thống Abraham Lincoln với hai vị tướng Ulysses S. Grant của miền Bắc và tướng Robert E. Lee của miền Nam. Khi cuộc chiến Nam Bắc bùng nổ, nước Mỹ chia đôi, 11 tiểu bang miền Nam ly khai. Hoa Kỳ còn lại 21 tiểu bang miền Bắc. Trận đánh cuối cùng, quân miền Bắc chiếm được Richmond vào ngày 2-4-1865. Hai ngày sau tổng thống Lincoln thị sát Richmond, bước vào dinh tổng thống miền Nam đã bỏ chạy. Ngày 15-4-1865, tổng thống Lincoln bị ám sát.

    Cuộc chiến tranh với hàng trăm trận đánh tại miền đông Hoa Kỳ trong 4 năm đã làm cho quân hai bên chết 620 ngàn và hàng triệu người bị thương tích..Cuộc chiến tranh tương làm tan nát các đô thị miền đông và vùng Virginia, nhưng không thiếu những cuộc tình bất hủ của thời chiến, tất cả đã thể hiện trong tác phẩm và cuốn phim bất hủ Cuốn theo chiều gió.

    (Nguyễn Hòa Bình)




    Thâm u bí sử

    Năm 1982, nhà xuất bản văn nghệ Sài Gòn phát hành một quyển sách có tên là Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng: Kết thúc cuộc chiến 30 năm của Thượng tướng Trần Văn Trà. Sách ra được một tháng thì bị tịch thu và gây ra sôi động trong giới tướng lãnh Hà Nội. Trong sách, tướng Trà chỉ trích giới tướng lãnh Hà Nội nhát và đánh giặc kiểu nhà giàu.

    Theo ông, công chiến thắng ở miền Nam đến từ mặt trận B2, mà ông là một trong những tư lệnh của chiến trường đó. Theo ông Trần Văn Trà, ông là người đề nghị đánh thẳng vào Ban Mê Thuột thay vì tấn công lẻ tẻ các quận nhỏ.

    Kinh nghiệm quân sự của tướng Trà làm nhiều tướng lãnh Hà Nội ghen ghét. Đó cũng là lý do tại sao sách của ông ta bị thâu hồi khi vừa được xuất bản. Về quyển Chiến tranh hay hòa bình. Một vài chi tiết quan trọng của cuốn này nói về các lực lượng tập kết ra Bắc, và có một thời gian lực lượng này (Sư Ðoàn 335) nổi loạn chống lại cộng sản Việt Nam nhưng bị đè bẹp.

    (Binh đoàn, binh Trạm, và đường đi B – Nguyễn Kỳ Phong)




    Nội chiến Nam Bắc

    Câu chuyện đầu hàng...

    Lịch sử ghi lại rằng cách đây 150 năm, kỵ binh của miền Bắc cùng với 3 quân đoàn bộ binh vây hãm quân miền Nam hết đường tháo lui. Bộ tham mưu của tướng Lee đề nghị phân tán để đánh du kích, nhưng tướng Lee quyết định đầu hàng. Vị tiếp vận bị giới hạn nên đành chấp nhận thua cuộc.

    Với lá thư riêng gửi cho tướng Grant yêu cầu thu xếp buổi họp mặt. Vị tư lệnh miền Bắc ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với ông tướng tư lệnh và quân lính miền Nam bại trận.

    Ngày lịch sử 9-4-1865, tướng Lee và đại tá tùy viên cưỡi ngựa đến nơi hẹn ước. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón.

    Theo quy luật chiến tranh thời đó, quân miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới và quân dụng. Tướng Lee đồng ý nhưng chỉ đòi hỏi một điều là yêu cầu cho binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa để canh tác, vì lính miền Nam đem ngựa từ các nông trại của họ đi chiến đấu. Tướng Grant thỏa hiệp là sẽ không sửa chữa chính thức trên văn bản nhưng thực tế sẽ cho lệnh để lính miền Nam đem lừa ngựa về nhà mà xây dựng lại nông trại.

    Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, hoàn toàn không có tù binh.

    (...)




    Thâm u bí sử

    Trong Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng: Kết thúc cuộc chiến 30 năm,của thượng tướng Trần Văn Trà tiết lộ:

    Tướng Hoàng Cầm dùng Quân đoàn 4 đánh chiếm Phước Long (ngày 6-1-1975). Mất Phước Long, con đường huyết mạch từ Sài Gòn lên Kontum bị tê liệt. Lúc đó Bộ tư lệnh B3 của tướng Hoàng Minh Thảo sẵn sàng chuẩn bị đánh Kontum. Cho đến khi tướng Trà phản đối (có ý kiến thì đúng hơn) với Văn Tiến Dũng và Võ Nguyên Giáp khi họ cho phép tướng Hoàng Minh Thảo (tư lệnh mặt trận B3 Tây Nguyên) mượn một sư đoàn của B2 để đánh Kontum.

    Ông đề nghị:

    Nếu đánh thì đánh Ban Mê Thuột, vì đó là điểm đối phương không chú ý.

    Trong khi quân ủy cãi tới cãi lui về mục tiêu của họ ở Tây Nguyên, Lê Duẫn và Lê Đức Thọ nghe theo đề nghị của tướng Trà: Ban Mê Thuột là mục tiêu chính.

    ***

    Trong hồi ký của Văn Tiến Dũng (Đại thắng mùa xuân), ông kể lại trong một buổi họp Quân ủy trung uơng để quyết định đánh vùng nào ở Tây Nguyên, thì Lê Đức Thọ bất thình lình bước vào phòng họp và "chỉ đạo" các tướng tư lệnh quân sự đang họp:

    ‘’Lệnh là phải đánh Ban Mê Thuột, không được bàn cãi. Thọ nhấn mạnh thêm một câu : Chúng ta có năm sư đoàn ở Tây Nguyên mà đánh Buôn Mê Thuột không được là như thế nào?

    (Binh đoàn, binh Trạm, và đường đi B – Nguyễn Kỳ Phong)

    - : Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng, và Hòa hay chiến tranh bị Lê Đức Thọ chỉ trích sách ấy...sai từ đầu đến cuối.




    Nội chiến Nam Bắc

    Nghĩa trang của phe chiến bại...

    Năm 1861 khởi chiến Nam Bắc, năm 1901 tức 40 năm sau cuộc chiến, mở đầu cho giai đoạn hòa giải dân tộc, các tử sĩ miền Nam được cải táng đưa vào nghĩa trang Arlington của bên thắng cuộc ở Hoa Thịnh Ðốn gọi là Confederate Memoria. Ở đấy người ta dựng lại lịch sử các trận chiến. Những cái chết hào hùng của cả hai bên, các tướng lãnh, sĩ quan, binh sĩ quân phục màu xanh của Nam quân, quân phục màu xám của Bắc quân. Nhưng đặc biệt là hình ảnh của bên thua cuộc lại được lưu ý hơn cả bên thắng cuộc. Lá cờ rách gạch chéo với 13 ngôi sao của miền Nam một thời tung hoành trên chiến trường được treo tại thủ đô cũ Richmond bây giờ lại là bảo vật hào hùng của bảo tàng viện "Đầu hàng".

    Trước khi bị ám sát, Tổng thống Abraham Lincoln đã nói: "Người ta có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng không ai từ bỏ được lịch sử. Trước sau gì, lịch sử của bậc anh hùng sẽ phải được dựng lại ở chính nơi mà những người anh hùng đã ngã xuống."

    Ðó là bài học chiến tranh, và sau đó là hành xử của người chiến thắng biết tôn trọng kẻ thù...

    (Nguyễn Hòa Bình)



    Bên lề trận chiến

    Chuyện "Dinh Độc Lập 11 giờ 15 phút" như chuyện Lã Sinh Môn (Rashomon-Nhật) vì mỗi người kể mỗi khác. Chuyện 2 chiếc xe tăng húc đổ dinh Độc Lập cũng vậy, vì "lịch sử được làm bằng báo chí" và được "phục dựng" lại...(Lê Văn Phượng, người húc đổ cổng dinh ĐL)




    Chuyện hai chiếc xe tăng húc đổ dinh Độc Lập

    Ngày 1-5-1975, khi rút về căn cứ Long Bình, anh Lê Văn Phượng đã viết tường trình những gì đã xảy ra: Tank 390 của anh húc đổ cổng bên trái và vào dinh Độc Lập trước. Tank 843 của Bùi Quang Thận bị kẹt ở cổng bên phải không vào đươc.
              

    Tank 390                               Tank 843 (bị kẹt lại)

              
    Anh không biết cấp trên báo cáo ra sao để "lịch sử thành văn" chỉ nhắc đến chiếc xe của Bùi Quang Thận. Về sau, do vụ "cắm cờ" đã khá bầm dập nên nhiều anh nghĩ, cải chính làm chi cho phức tạp, phiền toái thêm.

    Khi coi phim tài liệu, thấy Bùi Quang Thận cầm một lá cờ rất to, loại cờ không chứa trong chiếc xe tăng tiến vào dinh trong ngày 30-4, Lê Văn Phượng tặc lưỡi nghĩ: "Lịch sử đôi khi được làm bằng báo chí". Những thước phim, những bức ảnh "húc đổ cổng dinh Độc Lập" được "phục dựng đã thế chỗ sự thật". Sau đó, Việt Nam lại xung đột với Trung Quốc mà chiếc tank 390 của anh là T59, viện trợ của Trung Quốc, trong khi chiếc tank 843 của Bùi Quang Thận là T54, viện trợ của Liên Xô. Vì vậy anh lại càng không nghĩ tới việc làm rõ sự kiện này.

    (Francoise de Mulder)




    Thời khắc lịch sử: Đầu hàng

    Chiều tối, Trung tướng Vĩnh Lộc, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh vào dinh Hoa Lan thuyết trình tình hình quân sự quanh khu vực Sài Gòn. Cuộc thuyết trình khẳng định tình thế hoàn toàn tuyệt vọng với quân lực VNCH. Sau khi hai tướng lĩnh về, tôi đề xuất với ông Minh nên vào dinh Độc Lập ngủ đêm nay. Ở đó có tầng hầm chống lại pháo kích bom. Sau một phút suy nghĩ, ông Minh đồng ý vào dinh Độc Lập. Lúc đó khoảng 9 giờ tối.

    Xe từ dinh Hoa Lan ra cổng trước, đi theo đường Hồng Thập Tự, đến đường Công Lý rẽ trái là đến cổng chính vào dinh Độc Lập. Đường đi chưa đến một ngàn mét. Vì có khá đông người, trong đó có cả gia đình của một số dân biểu, nghị sĩ. Khi sĩ quan trong dinh hướng dẫn ông bà Dương Văn Minh đến phòng ngủ của ông bà Thiệu trước đây ở tầng hai. Ông bà Minh mời vợ chồng tôi và vợ chồng dân biểu Nguyễn Hữu Chung vào ở chung phòng. Sực nhớ hồi chiều chưa dùng cơm, tôi hỏi viên sĩ quan trong dinh có gì để ăn không. Viên sĩ quan này bối rối trả lời rằng không còn gì cả dù chỉ là một miếng bánh mì và thịt nguội!

    Trong phòng ngủ của ông Thiệu chỉ có một cái giường dành cho ông bà Minh. Tôi không biết ông bà có chợp mắt được hay không. Vợ chồng tôi và vợ chồng Nguyễn Hữu Chung ngả lưng trên sàn có trải thảm cạnh đó. Vợ tôi và vợ Chung (Nguyễn) rì rầm nói chuyện với nhau cả đêm. Chỗ Chung (Nguyễn) và tôi nằm, nhìn thẳng ra đại lộ Thống Nhất. Trước mắt chúng tôi là quang cảnh máy bay trực thăng liên tục đáp xuống sân thượng tòa đại sứ Mỹ bốc người đưa ra Đệ thất hạm đội, tạo nên một vầng sáng kỳ lạ, nhìn từ xa như một đám cháy lớn. Thật khó tả tâm trạng của tôi trước quang cảnh này.

    Đúng lúc đó tôi bỗng nghe Chung (Nguyễn) nói nhỏ vào tai tôi:
    • "Mai tao đi. Con tao còn nhỏ quá, bên vợ không ai chịu ở lại...".
    Gia đình bên vợ Chung (Nguyễn) là người Bắc di cư nên thật khó ở lại. Biết được quyết định của người bạn đã gắn bó với mình trong suốt những năm tháng hoạt động chung ở quốc hội tôi sững sờ nằm lặng yên. Bởi tôi biết lời khuyên của tôi trong trường hợp này là vô ích. Chung (Nguyễn) là người bạn thân nhất của tôi dù đôi khi chúng tôi có quan điểm khác nhau. Tôi không nhớ đêm đó mình có chợp mắt lúc nào hay không. Vầng sáng trước mặt như một đám cháy, kéo dài suốt đêm, đến hừng sáng hôm sau...

    (Hồi ký không tên – Lý Quý Chung - Chương: "Thời khắc lịch sử: Đầu hàng")

    - :Chú thích của tác giả: Ở Sài Gòn lúc đó người ta gọi phân biệt hai Chung và hai Trung.
    Chung Nguyễn (Nguyễn Hữu Chung) và Chung Lý (Lý Quý Chung) trong quốc hội và báo chí.
    Trung Lý (Lý Chánh Trung) và Trung Nguyễn (Nguyễn Văn Trung) dạy đại học.




    Chuyện hai chiếc xe tăng húc đổ dinh Độc Lập

    Chiến tranh chấm dứt, Trung úy Bùi Quang Thận được điều về bộ chỉ huy. Còn Thiếu uý Lê Văn Phượng và tank 390 được điều lên biên giới Tây Ninh, chuẩn bị cho cuộc chiến ở Campuchia, rồi tháng 3-1979 lại được điều ra tham gia cuộc chiến tranh phía Bắc.

    Thiếu úy Lê Văn Phượng ra quân, về quê, năm 1992 anh học hớt tóc, rồi dựng lều hành nghề ở bờ hào bên thành nhà Mạc, bị công an đuổi chạy lên, chạy xuống. Sau, người lính đã cho chiếc tank nghiến lên cổng dinh Độc Lập ấy đã phải chạy về mở lán cắt tóc gần cổng trường Sĩ quan lục quân ở Sơn Tây. Tuy không tranh dành quyền lợi ở chốn quan trường, nhưng trong thẳm sâu, người lính ấy cũng tự hào về những gì mà mình đã làm cho đất nước.

    Anh đem chuyện "húc đổ cổng dinh Độc Lập" kể với con. Nhưng ở trường, lịch sử dạy không giống như những gì đã xảy ra. Đứa con về khóc:
    • Bố nói bố chỉ huy xe 390 vào dinh Độc Lập trước tiên, con khoe với bạn học và cô, nhưng bài học dạy, bác Bùi Quang Thận lái xe vào trước và cắm cờ trên dinh. Chúng bạn trêu con nói phét. Con xin nghỉ học.


    (...)




    Góp nhặt...ghi chép...

    Theo ông Lý Chánh Trung, ông Minh đã lặng lẽ ra đi mà không hề để lại một dòng hồi ký. Ông Minh có lẽ đã khôn ngoan cứ để cho người đời bàn cãi về việc ai đã ra lệnh giết hai anh em nhà Ngô Đình Diệm, về việc vì sao lại chọn cách đi vào lịch sử như một kẻ đầu hàng.

    Ông Lý Chánh Trung là người đọc điếu văn trong tang lễ khi ông Minh mất tại Mỹ ngày 6-8-2001. Sau bài điếu văn, ông thổ lộ:
    • Ông Dương Văn Minh khi nhận trách nhiệm thì sẵn sàng chịu số phận như Thủ tướng Cao Miên Sirik Matak bị Khờ me đỏ giết ở Nam Vang.


    Trong nhà quàn ở Rose Hill, nam California có mặt ông bà cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu,

    ông bà cựu Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, tướng lãnh và một số sĩ quan thân cận ông Minh. Nhưng các khách đến viếng không một ai mặc quân phục. Trong tang lễ, không hình ảnh nào liên quan đến đời quân ngũ của cựu (1) Đại tướng Dương Văn Minh, như: Gươm lệnh, gậy chỉ huy, huy chương, mũ "kết-pi", v...v...Tuy nhiên lĩnh cữu ông Minh có phủ quốc kỳ VNCH.

    ***

    (1) Năm 1964 khi bị "chỉnh lý" bởi tướng Nguyễn Khánh, "Quốc trưởng" Nguyễn Khánh phong cho ông Minh chức "đại tướng". Nhưng ông Minh không nhận.
    Vì vậy sau có người gọi ông là..."đại tướng", có người gọi ông là trung tướng.




    Chuyện hai chiếc xe tăng húc đổ dinh Độc Lập

    Lê Văn Phượng xuất ngũ năm 1992. Sau 1995, chiếc tank 390 được đem về Bảo tàng tăng thiết giáp, Hà Nội. Nhưng tank 390 của Trung Quốc được thay thế với...tăng T54 của Liên Xô.





    Thời khắc lịch sử: Đầu hàng

    8 giờ sáng ngày 30-4, các nhân vật dự kiến trong tân nội các tập trung tại phủ thủ tướng nằm ở cuối đại lộ Thống Nhất. Khi Tổng thống Dương Văn Minh đến, cuộc họp diễn ra với một số người rất hạn chế, gồm Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu...Trong khi những thành viên còn lại của chính phủ ngồi đợi ở phòng ngoài.

    Ông Minh mở đầu buổi họp bằng việc trình bày tình hình quân sự nói chung và Sài Gòn nói riêng là không còn cứu gỡ. Cũng không nên nghĩ tới một cuộc thương thuyết chính trị với chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam và Hà Nội, qua trung gian chính phủ Pháp. Trong khi đó tình hình an ninh của thành phố Sài Gòn nguy ngập, chính phủ hoàn toàn không có khả năng kiểm soát. Ông Dương Văn Minh kết luận: Để tránh cho Sài Gòn những tai hoạ đã xảy ra như tại Đà Nẵng, mà có thể còn tồi tệ hơn, tôi quyết định trao quyền cho Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Phòng họp im lặng, không có ai phản đối.

    Được sự đồng ý của những thành viên chính yếu của chính phủ, ông Minh ra lệnh cho tôi với tư cách tổng trưởng thông tin cho gọi nhân viên kỹ thuật của đài truyền hình và đài phát thanh đến để thu âm bài tuyên bố. Khoảng 15 phút sau, anh em kỹ thuật viên đến, cuộc thu âm bài tuyên bố giao quyền của Tổng thống Dương Văn Minh hoàn chỉnh. Đích thân chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh cầm cuộn băng và nhật lệnh đi đến đài.

    (...)




    Góp nhặt...ghi chép...

    Theo kế hoạch thì chính phủ của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu sẽ "ra mắt" vào lúc 10 giờ sáng 30-4-1975, nhưng khi các nhân vật của chính phủ cũ và mới cùng đến số 7 Thống Nhất, họ nghe được tuyên bố bàn giao chính quyền của Tổng thống Dương Văn Minh. Nhiều người trong số họ đã di chuyển sang dinh Độc Lập không phải để tuyên thệ mà để chờ đợi.

    Trong thời gian ấy, tướng Nguyễn Hữu Hạnh sang đài phát thanh Sài Gòn tiếp nhận đài để trao cho phía "cách mạng". Khi tướng Hạnh trở lại phủ thủ tướng, nơi đây đã hoàn toàn vắng lặng. Ông Hạnh chạy đến nhà ông Dương Văn Minh ở đường Hồng Thập Tự thì được biết ông Minh và gia đình đã vào dinh Độc Lập.




    Thời khắc lịch sử: Đầu hàng

    Cũng đúng lúc này có điện thoại từ chùa Ấn Quang của sinh viên đấu tranh Nguyễn Hữu Thái. Anh cho biết Thượng tọa Thích Trí Quang muốn nói chuyện trực tiếp với ông Minh. Cuộc nói chuyện kéo dài khoảng hai phút. Sau đó thượng tọa Trí Quang nói chuyện với Giáo sư Vũ Văn Mẫu. Tôi được biết nội dung hai cuộc điện đàm này của Thượng tọa Thích Trí Quang nhằm thuyết phục Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng. Trong khi ấy tôi thấy ông Minh ngồi thừ ra như có gì suy nghĩ lâu lắm. Riêng tôi lại e ngại, nếu đầu hàng chính thức đơn phương thì sẽ ra sao? Vì nhiều đơn vị quân đội VNCH vẫn còn đó, có khả năng họ sẽ phản ứng chống lại.

    Chiếc xe của tổng thống Minh và đoàn mô tô bảo vệ đến dinh Độc Lập khoảng 9 giờ 30 sáng. Ông Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng của nội các Nguyễn Bá Cẩn, nội các cuối cùng của chính phủ Thiệu, có mặt ở phòng họp chính. Theo chương trình định trước thì phó thủ tướng Hảo đại diện cho nội các cũ sẽ bàn giao cho nội các mới của ông Dương Văn Minh. Nhưng cuộc bàn giao giữa hai nội các cũ và mới đã không xảy ra.Vì luật sư, nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền được ông Minh chọn làm phó tổng thống, lúc đầu có mặt tại dinh Độc Lập nhưng sau lại về nhà riêng.

    Thời gian chờ đợi căng thẳng tôi chợt nghĩ: Cũng nên có mặt nhà báo vào lúc quân giải phóng vào dinh Độc Lập. Lúc này tôi nhớ đến nhà báo nữ tên Mai làm cho hãng thông tấn AFP. Tôi gọi điện cho Mai. Và Mai đến ngay với trưởng văn phòng AFP tại Sài Gòn Jean Louis Arnaud (1). Lúc nào Arnaud cũng ăn mặc trịnh trọng. Một bộ complet màu trắng khói, trên cổ thắt một chiếc nơ và trên tay có sẵn một cuốn sổ nhỏ.

    Bỗng có người vào báo có một người Pháp muốn gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Đó là cựu tướng Pháp Vanuxem, ông đề nghị để cứu vãn tình hình tuyệt vọng của chế độ Sài Gòn:
    • Hãy rút về Cần Thơ, cố thủ Vùng 4 chiến thuật, chỉ vài ngày nữa thôi Trung Quốc sẽ áp đặt giải pháp trung lập hóa miền Nam.
    Tướng Minh than:
    • Hết Tây đến Mỹ, chẳng lẽ bây giờ còn đi làm tay sai cho Tàu nữa sao!.
    Đứng xớ rớ một lúc, Vanuxem biến lúc nào tôi không nhớ.
    (...)

    (1) Jean Louis Arnaud là nhà báo thiên tả.




    Góp nhặt...ghi chép...

    Sau khi Nguyễn Văn Thiệu đã từ chức, nhường lại ghế tổng thống VNCH cho Trần Văn Hương, người Pháp vẫn tin rằng họ có thể dàn xếp được một giải pháp chính trị. Tại Paris, ông Jean Sauvagnargues, bộ trưởng ngoại giao cộng hòa Pháp đã nhiều lần triệu kiến đại sứ Việt Nam dân chủ cộng hòa Phạm Văn Ba và trưởng đoàn đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa Nam Việt Nam Võ Văn Sung đến trụ sở bộ ngoại giao đưa ra các đề nghị về một giải pháp chính trị như chính phủ liên hiệp.

    Trong lúc tìm kiếm giải pháp thương lượng lập chính phủ liên hiệp ba thành phần. Ngày 28-4, ông Dương Văn Minh đã bổ nhiệm người trung gian là ông Triệu Quốc Mạnh. Ông Mạnh là người được phía Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cài vào chức vụ giám đốc cảnh sát đô thành. Lấy cớ thực hiện ý định của tổng thống, ông Mạnh đã giải tán các phòng cảnh sát đặc biệt, các bộ chỉ huy cảnh sát các quận. Những hoạt động của ông Triệu Quốc Mạnh đã vô hiệu hóa gần như toàn bộ lực lượng cảnh sát tại Sài Gòn.

    Ngày 28-4, ngay sau khi tân Tổng thống Dương Văn Minh vừa thu âm xong bản tuyên bố của mình với yêu cầu cả hai bên ngưng bắn, thì ông Vanussème, tùy viên quân sự của đại sứ quán Pháp xuất hiện. Ông này yêu cầu ngưng phát cuộn băng và đưa ra một đề nghị khiến ông Dương Văn Minh cũng phải kinh ngạc vì sợ mình nghe nhầm. Đề nghị đó là:
    • Chính quyền ông Minh hãy ra tuyên bố chống Liên Xô và kêu gọi Trung Quốc can thiệp, ngăn chặn đại quân Bắc Việt tiến vào Sài Gòn.
    Ông ta nói có những nguồn tin ở Washington, Paris và Bắc Kinh cho biết Trung Quốc không ủng hộ một thắng lợi hoàn toàn của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam". Vanusseme còn nói cứng:
    • Trung Quốc sẽ vào và các ông sẽ đứng vững.

    Tuy nhiên, do không biết thực hư ra sao nên ông Dương Văn Minh đã lấy cớ không còn thời gian và Sài Gòn không có liên lạc trực tiếp với Bắc Kinh để từ chối đề nghị của Vanussème.

    (Perfect Spy - Larry Berman)




    Góp nhặt...ghi chép...

    Sau hai lần từ chối không đi Mỹ, một lần với ông Scott và một lần với Trung tướng Ngô Quang Trưởng, vào tuần lể cuối cùng của tháng tư, tôi ghé thăm anh Nguyễn Ngọc Huy tại công thự khiêm nhường của anh ở đầu đường Cao Thắng, chúng tôi bàn thảo về các biến cố chính trị đang diễn tiến và thái độ thích hợp phải có của chính chúng tôi, về chuyện đi hay ở. Anh có nhắc tôi giải pháp do Pháp trung gian của Mereillon, và theo tôi anh có vẻ đặt hy vọng nào đó vào giải pháp nầy sẽ cứu được miền Nam.

    Tôi đã nói thẳng với anh, theo tôi tôi không tin Mỹ sau khi bỏ Việt Nam lại chịu để Pháp và Trung Quốc tạo được ảnh hưởng với Việt Nam chung cả hai miền Nam Bắc theo như thỏa thuận Mao Trạch Đông-Nixon năm 1972. Tôi cũng cho anh biết thuần túy trên lãnh vực quân sự, họ sẽ tiến thẳng vào Sài Gòn chiếm gọn miền Nam và tạo một sự đã rồi, fait accompli, cả về quân sự lẫn chính trị. Tôi hỏi anh những nhà lãnh đạo miền Bắc đang đà thắng thế quân sự có chịu ngừng lại để điều đình hay không?

    (Những ngày cuối cùng của Vùng 1 và miền Nam - Duy Lam)




    Góp nhặt sỏi đá

    Các tài liệu, sách báo nói về cuộc chiến Việt Nam của cả hai bên, từ nhà nghiên cứ quân sự, ký giả chiến trường và những lời thuật lại của các nhân chứng nói chung dồi dào...

    Nhưng không hoàn toàn giống nhau có khi còn...trái ngược nhau là khác. (Trọng Đạt)




    Thời khắc lịch sử: Đầu hàng

    Khoảng 11 giờ 30 sáng, chiếc tăng đầu tiên T54 của quân giải phóng xuất hiện ở từ đầu đại lộ Thống Nhất, phía Thảo cầm viên. Tổng thống Minh và các thành viên chính phủ ra đứng tại tiền đình của dinh Độc Lập để chuẩn bị cuộc đón tiếp. Chiếc tăng to lớn tiến gần, đến khoảng ngang nhà thờ Đức Bà thì đột ngột nổ liền hai phát nhưng không nhắm vào dinh Độc Lập. Nhưng tiếng nổ chát chúa của hai phát đại bác đã gây hoảng hốt cho tất cả những người đang đứng chờ ở tiền đình. Thế là tất cả lui vào phòng làm việc của ông Thiệu và...lo lắng chờ.

    Chỉ ít phút sau, tiếng chân người vang dội trong sảnh, có cả tiếng khua vũ khí và tiếng đạn lên nòng. Rồi tiếng hô to từ phía đại sảnh: Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!. Người bước ra khỏi phòng trước tiên là Tổng thống Dương Văn Minh. Tiếp theo là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Ông Minh và ông Mẫu đều rất bình tĩnh, sự bình tĩnh của hai ông cũng truyền sang tôi. Chúng tôi vừa bước ra hành lang để đi đến đại sảnh thì ở đầu kia thấy có nhiều bộ đội cầm súng và hô to: Mọi người giơ tay lên!. Ông Minh, ông Mẫu và tôi cùng mọi người đi phía sau đều nhất loạt giơ tay. Ra đến đại sảnh, tôi thấy có nhiều người mặc thường phục cũng có mặt lẫn với bộ đội.

    Tôi nhận ra một số gương mặt quen thuộc, đã từng hoạt động báo chí hoặc trong các phong trào đấu tranh sinh viên. Tôi nhớ hình như có các anh Nguyễn Vạn Hồng (tức Cung Văn), Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Bá Thành (hoạ sĩ Ớt), Huỳnh Văn Tòng, v...v... Ai đó, tôi không nhớ rõ, chạy đến ôm tôi nâng lên khỏi mặt đất và nói to trong sự mừng rỡ tột cùng: "Mình thắng rồi!", trong lúc hai tay tôi vẫn giơ cao trong tư thế của người đầu hàng. Trong tôi có nhưng xót xa: Mình từng chống Mỹ, chống Thiệu để khi kết thúc, mình lại thay Mỹ thay Thiệu đầu hàng!

    Một người bộ đội (tôi không rõ quân hàm) nói với tổng thống Minh: Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ Ngụy quyền. Ông Minh quay sang tôi đang đứng bên cạnh: Chung, toa hướng dẫn cho người này lên sân thượng. Sau này tôi biết đó là người chỉ huy chiếc tăng ký hiệu 843 tên là Bùi Quang Thận lúc đó mang hàm đại úy. Nói về sự kiện 30-4 tại dinh Độc Lập, có một hai bài viết kể tên ai đó (?) đã đưa bộ đội lên hạ cờ.

    (...)




    Bên lề trận chiến

    (,,,) Cùng lúc với thành viên MTGPMN hợp tác trong chính phủ trung lập, Ðại tướng Dương Văn Minh tuyên bố sẵn sàng bang giao với Trung Quốc. Trung Quốc sẽ chụp lấy cơ hội này để cử đại sứ đến Sài Gòn ngay sau 24 giờ đồng hồ (...). Kế họach (1) này đánh phủ đầu Hà Nội bằng cách đưa đứa con nuôi của họ là MTGPMN lên nắm chính quyền...(...). Tôi (đại sứ Mérillon) cũng thông báo cho ông Dương Văn Minh hay tôi đã liên lạc với thành viên MTGPMN. Hầu hết đều tán thành giải pháp giúp họ thoát khỏi vòng quỹ đạo của Bắc Việt.

    Ngày 27-4, tôi nhận được tin: Tướng Trần Văn Trà bắn tin nhờ tôi thành lập chính phủ trung lập và ông gửi gấp hai nhân vật thân tín của ông vào chính phủ là bà Nguyễn Thị Bình (1) và ông Trương Như Tảng...Tùy viên quân sự của chúng tôi cũng xác nhận 3 sư đoàn tập kết của Trần Văn Trà sẽ vào tiếp thu Sài Gòn, phỗng tay trên của đạo quân Văn Tiến Dũng.

    Ngày 28-4, 8:00 giờ tối, sau khi nhận chức tổng thống do Trần Văn Hương bàn giao lại, ông Minh điện thoại xin lỗi tôi, bày tỏ sự hối tiếc đã không hợp tác được với chính phủ Pháp. (,,,)

    (Saigon et moi - Jean M. Mérillon)




    Góp nhặt sỏi đá

    Những nhà nghiên cứu quân sự, ký giả chiến trường, nhà báo và những lời thuật lại của các nhân chứng nói chung dồi dào...Nhưng không hoàn toàn giống nhau có khi còn khác nhau nữa.

    Trái ngược nhau như trong dinh Độc Lập với cả chục người có mặt, chỉ từ 11 giờ 30 sáng đến 2 giờ trưa ngày 30-4 vậy mà không ai viết giống ai.

    Ngay cả với những bài viết của các tác giả ngoại quốc như SaiGon Has Fallen với Peter Arnett. Hay Ho-Tschi-Minh Stadt với Borries Gallasch, v...v...




    Thời khắc lịch sử: Đầu hàng

    Sau khi nhận chỉ thị của ông Minh, tôi đưa người bộ đội trẻ tuổi đến thang máy để lên sân thượng. Đến trước thang máy, tôi bấm nút cho cửa mở. Khi cửa mở rồi người bộ đội trẻ vẫn chưa chịu bước vào. Tôi đoán trong đời anh chưa bao giờ đặt chân vào một thang máy. Tôi nói với người bộ đội trẻ: Anh vào đi. Không có gì lo. Tôi cùng vào với anh. Nói xong, tôi vào trước. Sau ít giây do dự, anh bước vào, trên tay là khẩu súng và lá cờ giải phóng. Tôi không thể tưởng tượng được có một ngày như hôm nay: Đi thang máy chung với một người bộ đội.

    Tôi bấm nút lên tầng cuối cùng. Cách thang máy không xa, ở trước sân thượng, sát bên ngoài là chỗ cắm cờ. Người bộ đội đi thẳng ra đó hạ lá cờ vàng ba sọc đỏ xuống. Tôi không bước ra theo. Tôi đứng phía trong một lúc, rồi quay trở lại thang máy đi xuống trước một mình (1).

    Trong một bài báo kỷ niệm ngày 30-4-1975 của một tác giả đã đăng vào dịp tháng 4-2003, có ghi lại lời kể của ông Thận khi gặp ông Minh: Ông yêu cầu ông Minh chỉ đường lên hạ cờ Ngụy quyền thì ông Minh liền nói với người đứng kế bên thực hiện lời yêu cầu này. Người đứng kế bên ông Minh chính là tôi.Xem lại các bức ảnh ghi lại giây phút lịch sử này, tôi thấy ngoài lá cờ được đại uý Bùi Quang Thận treo cao trên nóc dinh Độc Lập, còn thấy xuất hiện một chiến sĩ bộ đội treo cờ tại bao lơn (balcon) ở tầng một. Có lẽ chính vì thế mà có sự ngộ nhận đại uý Thận không phải là người duy nhất treo cờ trên nóc dinh Độc Lập và cũng có lý khi có người khác tự nhận là mình (2) đã hướng dẫn bộ đội lên treo cờ.

    Khi từ sân thượng tôi trở xuống đại sảnh thì mọi người đã vào trong phòng họp có cái bàn to hình ô van nằm bên cánh phải dinh Độc Lập. Tôi nghe một người bộ đội cấp chỉ huy nói với ông Minh: Anh hãy viết ngay một bản tuyên bố đầu hàng. Ông Minh trả lời rằng sáng nay ông đã có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ huy nói: Anh chẳng có gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng!. Ông Minh vẫn đứng yên lặng. Viên chỉ huy đề nghị ông Minh đi đến đài phát thanh để thảo và đọc bản tuyên bố đầu hàng. Viên chỉ huy yêu cầu những thành viên của chính phủ đang có mặt gồm tổng thống Minh, thủ tướng Mẫu và tổng trưởng thông tin là tôi cùng đến đài phát thanh. Trước khi rời dinh Độc Lập, ông Minh nói với vị chỉ huy: Vợ tôi đang ở đây. Xin các anh bảo đảm an ninh giùm. Viên chỉ huy đáp: Anh hãy an tâm.

    (...)

    (1) Làm sao người bộ đội...bấm nút thang máy xuống lầu được?
    (2) Ám chỉ Nguyễn Hữu Thái?




    Bên lề trận chiến

    Đây là đề nghị của Thủ tướng Chu Ân Lai điện cho Bộ ngoại giao Pháp là sẵn sàng hợp tác với Pháp để xây dựng một chính thể trung lập tại miền Nam nếu có thành phần MTGPMNVN tham dự trong chinh phủ liên hiệp gồm 3 thành phần: Quốc gia, Trung lập, và MTGPMN.

    Chu Ân Lai đưa ra một danh sách: Trương Như Tảng, Nguyễn Thị Bình, Đinh Bá Thi, Trung tướng Trần Văn Trà, Thiếu tướng Lê Quảng Ba ngỏ hầu làm lực lượng nồng cốt thân Trung Cộng trong chinh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc Việt Nam. (Saigon et moi - Jean M. Mérillon)

    - :Chính phủ trung lập bao gồm các nhân vật của "lực lượng thứ ba", là nhóm nhỏ của phe đối lập yếu ớt có khuynh hướng đứng giữa quốc gia chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Cho tới lúc đó họ bị coi thường cả một thời gian dài ở Sài Gòn không được phép vào trong dinh tổng thống mới của năm 1964. (Những ngày cuối cùng của Sài Gòn - Winfried Scharlau)

    - :Bản dịch cuốn hồi ký Saigon et moi của Jean M. Mérillon, cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam trước 30-4-1975: Dịch giả là Vũ Hải Hồ tức ký giả Trần Trung Quân ở Paris. Nhưng sau đó cuốn sách này bị Bộ ngoại giao Pháp thu hồi, nay chỉ có một bản duy nhất do tôi tình cờ có được cuốn đó và dịch với tựa đề "Saigon và tôi". (Vũ Hải Hồ)

    Giáo sư Hòang Ngọc Thành, nhà nghiên cứu sử học đã đích viết thư hỏi ông Mérillon đang là đại sứ Pháp tại Liên Xô có viết cuốn Hồi ký Saigon et moi không?Ông Mérillon đã trả lời cho giáo sư Thành bằng văn thư gửi từ Moscou có câu:Tôi không hề viết một cuốn Hồi ký như thế.

    - :Nguyễn Thị Bình, bộ trưởng bộ ngoại giao chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam: 17 ngày sau khi Sài Gòn mất, bà Bình tuyên bố trước Liên Hiệp Quốc dụng ý tống khứ đạo quân Bắc Việt về bên kia Bến Hải: Miền Nam Việt Nam sẽ sinh hoạt trong điều kiện trung lập 5 năm trước khi thống nhất hai miền Nam Bắc. (Wikipedia)

    - :Trương Như Tảng, bộ trưởng bộ tư pháp, là một trong những người thành lập MTGPMN đã "thoát ly" qua Pháp (Paris) tháng 11-1979. (Wikipedia)




    Thời khắc lịch sử: Đầu hàng

    Ông Minh, ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn trên chiếc xe jeep của bộ đội. Còn tôi đi theo trên một chiếc xe jeep khác của nhà báo Đức (1). Khi tôi đến đài phát thanh thì tất cả đã vào bên trong. Tôi vừa bước vào sân thì anh Nguyễn Hữu Thái và một hai thanh niên khác đứng ở cổng nói với tôi: Anh về đi, khi nào có bộ phận chính trị vào sẽ liên lạc lại.

    Nghe thế tôi lại đi trở ra. Sau này được biết, khi hai ông Minh và ông Mẫu vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo. Ông Minh đọc và đài phát vào lúc 1 giờ 30 trưa. Sau đó hai ông Minh và ông Mẫu được đưa trở lại dinh Độc Lập. Vào lúc 5 giờ 30 chiều, luật sư Nguyễn Văn Huyền, Phó tổng thống Sài Gòn trở vào dinh Độc Lập

    Từ 30-4 cho đến 2-5-1975, các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu và một số dân biểu, nghị sĩ vẫn còn ở trong dinh Độc Lập. Dự kiến sau khi đại diện Ủy ban quân quản gặp họ, tất cả sẽ được tự do ra về. Trong hai ngày ông bà Minh còn ở lại trong dinh Độc Lập, vợ tôi đã mang các bữa ăn sáng trưa và chiều vào dinh cho hai ông bà. Ngày 2-5-1975, chủ tịch Ủy ban quân quản Trần Văn Trà đến dinh Độc Lập...trả tự do cho ông Minh.

    (Hồi ký không tên – Lý Quý Chung - Chương: "Thời khắc lịch sử: Đầu hàng")

    (1) Qua Ho-Tschi-Minh Stadt (TP. Hồ Chí Minh giờ khắc số 0). Nhà báo Borries Gallasch viết: Tôi đứng cạnh chiếc xe jeep nói chuyện với ông chính ủy Bùi Văn Tùng bằng tiếng Pháp, cố gắng xin để được lên xe của ông. Ông gật đầu đồng ý...




    Chữ nghĩa của một thời chinh chiến trong quán nhậu

    Trước 75, miền Nam có những câu "thành ngữ" về thuốc lá xuất xứ từ quán nhậu, như:
    Salem: Mà em làm anh sướng
    (đọc ngược lại)




    Cuối đường tháng Tư 75 ở dinh Độc Lập

    Trước đó không lâu, trong một cánh rừng cao su ở Xuân Lộc (1), Tướng Lê Trọng Tấn giao nhiêm vụ cho Quân đòan 4 đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhât. Tướng Nguyễn Hữu An hỏi: "Nếu Quân đoàn 2 vào Sài Gòn trước có được đánh mục tiêu quan trọng nhất không?".

    Tướng Lê Trọng Tấn gật đầu.

    Ngày 24-4, tại vườn cao su Long Thành (2), tướng Nguyễn Hữu An đặt vấn đề với Lữ đoàn 203 và 202: Cậu Tài (Lữ trưởng Lữ đoàn 203) tốt nghiệp Liên Xô. Cậu Tùng (Lữ trưởng Lữ đoàn 202) tốt nghiệp Học viện thiết giáp Trung Quốc. Các cậu có biết khi Liên Xô chấm dứt Thế chiến thứ hai đã dùng một lữ đoàn tăng để dứt điểm. Tại sao mình có lữ đoàn tăng, mình (3)không vào dinh Độc Lập.

    Đêm 29-4, tướng Nguyễn Hữu An gửi công điện cho Lữ đoàn 203 (3): "Cố gắng đưa toàn bộ đội hình của các anh qua bên kia cầu đêm nay và độ ba, bốn giờ sáng 30-4. Chiếm xong cầu Rạch Chiếc, cầu Tân Cảng, cầu Sài Gòn. Các anh thi hành lệnh khẩn trương và liên lạc với tôi thường xuyên: Mục tiêu vào Sài Gòn là dinh tổng thống/An".

    (Bên thắng cuộc - Huy Đức)

    (1) Quân đòan 4 lúc này dưới quyền chỉ huy của tướng Trần Văn Trà.
    (2) Khi này Quân đòan 4 còn dưới quyền chỉ huy của tướng Hoàng Cầm.
    (3) Tướng Nguyễn Hừu An tốt nghiệp Học viện quân sự Liên Xô.




    Quân sử ngoại truyện

    Khi vào dinh Độc Lập, tăng 843 do đại đội trưởng Bùi Quang Thận (1) chỉ huy là xe đi đầu.

    Đi sau là tăng 390 do chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn chỉ huy (2). Thấy xe 843 bị kẹt, Vũ Đăng Toàn liền cho xe 390 vòng sau xe 843 và húc vào cổng chính, phá tung cánh cửa sắt, vào trong sân dinh Độc Lập.

    Đội trưởng Bùi Quang Thận vì đã biết lệnh của quân đoàn, ai vào trước thì cắm cờ lên dinh Độc Lập nên đã xuống xe, cầm cờ giải phóng chạy lên tầng thượng dinh Độc Lập.

    (Đời chiến đấu – Nguyễn Công Trang)

    (1) Tăng 843 của Liên Xô.
    (2) Tăng 390 của Trung Cộng.




    Góp nhặt sỏi đá

    Qua những hồi ký, bút ký của nhân chứng có mặt trong trận chiến, có những khúc, những đoạn mà sau này các sử gia có thể dùng làm sử kiện. Nhưng người đọc lại nhìn những sự kiện này qua một góc cạnh khác như sử gia Fustel de Coulanges đã nhận định: "Sự thật của lịch sử là gì? Sự thật của lịch sử là một quả cầu tròn, mỗi người chỉ nhìn được một phiá...".




    Cuối đường tháng Tư 75 ở dinh Độc Lập

    10 giờ sáng ngày 29-4-1975, tôi nhận được mệnh lệnh tiến công số 03/ML của Trung tướng Lê Trọng Tấn, phó tư lệnh bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ của Quân đoàn 4 là đánh chiếm Hố Nai, Tam Hiệp, Biên Hoà, đánh đầu cầu ở hữu ngạn sông Đồng Nai, đột kích vào nội đô tiêu diệt địch, đánh chiếm Quận 1, nhằm vào mục tiêu chủ yếu là dinh Độc Lập.

    Lúc 4 giờ sáng ngày 30-4-1975, tôi đã cùng bộ tư lệnh Quân đoàn 4 đang ở tại Biên Hoà. Nhưng đường số 1 làm từ thời Pháp, lòng đường hẹp, cầu yếu. Quân địch ở khu căn cứ Biên Hoà, khu vực phòng thủ mạnh nhất của địch trước cửa ngõ Sài Gòn vẫn tiếp tục chống trả. Trước tình hình rất khẩn trương như vậy, tôi và bộ tư lệnh quân đoàn lệnh cho Sư đoàn 6 tiếp tục truy quét tàn binh địch, diệt các mục tiêu còn lại. Sư đoàn 7 không tiến theo đường số 1 nữa mà quay ra đường xa lộ để vào Quận 1.

    12 giờ 30 ngày 30-4-1975, Đại đội 7, Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) tiến theo đường Hồng Thập Tự, quẹo qua đại lộ Thống Nhất, tới thẳng dinh Độc Lập. Một giờ trước đó, Lữ đoàn xe tăng 203 và Trung đoàn bộ binh 66 thuộc Quân đoàn 2 đã tiến vào dinh Độc Lập.

    Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 vào dinh Độc Lập lúc đó có tư lệnh Nguyễn Hữu An. Ngay sau đó, tư lệnh đã chỉ thị ngay: Tôi nhắc cán bộ cơ quan đi cùng phải duy trì nghiêm kỷ luật, vì theo quy định của bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân đoàn 2 phải bàn giao dinh Độc Lập cho Quân đoàn 4 quản lý.

    (Trò chuyện với VnExpress - Hoàng Cầm)




    Chữ nghĩa của một thời chinh chiến trong quán nhậu

    Trước 75, miền Nam có những câu "thành ngữ" về thuốc lá xuất xứ từ quán nhậu, như:
    Capstan : chiếc áo phong sương tình anh nặng.




    Cuối đường tháng Tư 75 ở dinh Độc Lập

    Vào tới dinh Độc Lập, chuẩn bị tiếp quản, những người lính mệt phờ vì lửa đạn nghỉ ngơi. Trong khi nghỉ ngơi nằm dài ở ngoài sân cỏ, có anh bộ đội viết thư về cho gia đình. Sau này mới biết lần đầu tiên thư viết gửi về Bắc chỉ mất có 4 ngày.

    Tiếp đó là bữa cơm chiều. Bữa cơm đó chúng tôi nấu ngay tại sân dinh Độc Lập bằng thực phẩm mang theo xe là từng xe nấu riêng trong ống "coóng" (ăng gô) treo ở gốc cây, vẫn là cá khô, thịt hộp, rau khô. Xong, chúng tôi mời ông Dương Văn Minh, tổng thống cuối cùng của VNCH. Tôi có nói với ông Minh ăn cơm bữa ni với cộng sản cho vui nhưng ông từ chối.

    (Đời chiến đấu - Nguyễn Công Trang)

    Nguyễn Công Trang là phó chính ủy Sư đoàn F325 thuộc Quân đoàn 2, người trực tiếp có mặt trong buổi trưa ngày 30-4-1975 tại dinh Độc Lập.




    Góp nhặt sỏi đá

    Nói theo Victor Hugo: Lịch sử là gì? Lịch sử là dư âm của quá khứ trong tương lai, là sự phản chiếu tương lai vào quá khứ. Cũng như nhà sử học tiên khởi Halikamasseus tập trung vào lịch sử văn hoá mà ông ghi lại những việc diễn ra trong quá khứ: Con người muốn nắm bắt quá khứ, diễn đạt theo sự kiện, theo "từ ngữ" mang tính chất tương đối của người ghi lại bằng những câu chuyện kể thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội nhân văn thời ấy.

    Từ cái nhìn và ghi lại chuyện kể của quá khứ gắn liền với xã hội nhân văn thời ấy của Halikamasseus, kẻ chiến bại nhìn kẻ chiến thắng qua một lăng kính nhân bản khác...




    Bữa cơm cuối cùng của cuộc chiến ở dinh Độc Lập

    Đại tá Phạm Ngọc Sơn nhớ lại: Khoảng hơn 11 giờ ngày 30-4-1975, Sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn 2 tiến vào Sài Gòn, khi đến ngã tư Hàng Xanh, chưa biết đường nào đến dinh Độc Lập, ông (Phạm Ngọc Sơn) đã xuống xe hỏi đồng bào đứng ở hai bên đường và được mọi người cùng giơ tay chỉ hướng rẽ trái. Tiến qua cầu Thị Nghè, ông quan sát và thấy nơi đây vừa diễn ra sự chống trả quyết liệt của địch, xác lính Ngụy còn nằm quanh đó. Đoàn xe chúng tôi đi đến thảo cầm viên rồi rẽ phải và chạy được một đoạn thì nhìn thấy dinh Độc Lập. Tiến thẳng vào dinh, chúng tôi thấy xe tăng và bộ binh của ta đã triển khai xung quanh dinh Độc Lập.

    Tôi xem đồng hồ, đã hơn 12 giờ trưa, mọi người nhanh chóng xuống xe. Các đồng chí bộ chỉ huy quân đoàn: Tư lệnh Nguyễn Hữu An, Phó tư lệnh Hoàng Đan, Phó chính ủy Nguyễn Công Trang, Thiếu tướng Nam Long vào đứng ở giữa dinh Độc Lập trao đổi gì đó, hầu như mọi người chưa ai biết nội các Sài Gòn ở đâu (?!).Vốn con nhà tác chiến nhạy bén, tôi chạy lên tầng 2 tìm kiếm thì gặp một người mặc thường phục từ trong phòng đi ra. Tôi chặn lại hỏi: Ông đi đâu?. Ông ta trả lời: Tôi xuống xe ô tô, lấy đồ dùng. Tôi không cho đi và hỏi: Ông Dương Văn Minh đâu? Người đó nói: Mấy ông giải phóng đưa đi đâu tôi không rõ. Tôi lại hỏi: Thế chính quyền các ông đâu cả...Người đó đưa tôi vào phòng họp tầng 2: Họ ngồi cả đây.

    Khoảng gần 1 giờ, đồng chí Bùi Văn Tùng đưa Dương Văn Minh từ đài phát thanh Sài Gòn về. Sau đó, tư lệnh An chỉ thị cho tôi (Phạm Ngọc Sơn) đưa Dương Văn Minh gặp gia đình (?!), vợ con. Tôi đến trước mặt ông Minh nói: Ông Dương Văn Minh, Quân giải phóng cho phép ông được gặp vợ con và gia đình 15 phút. Ông nói rõ với vợ con và gia đình yên tâm không lo sợ gì cả, Quân giải phóng bảo đảm an toàn cho gia đình ông. Đến căn phòng bên cùng tầng 2, tôi gõ cửa, một bà chừng trên dưới 50 tuổi ra mở cửa, Dương Văn Minh bước vào. Đúng 15 phút sau, Dương Văn Minh mở cửa đi ra. Tôi đưa Dương Văn Minh trở về phòng.

    ***

    Hơn 16 giờ, tư lệnh Nguyễn Hữu An gọi tôi xuống xuống chỉ thị cho triển khai cơm nước bữa chiều, kể cả nấu cơm cho nội các Sài Gòn. Thực ra việc này là của cơ quan hậu cần, nhưng "các cụ" thường nói: Mấy thằng tác chiến nó nhanh nhạy hơn. Tôi triển khai cho nuôi quân nấu cơm, nhưng không còn thứ thức ăn gì. Tôi nói với nội các Sài Gòn: Đã gần tối đáng lẽ quân giải phóng bảo đảm cơm nước cho các ông, nhưng chưa có điều kiện, các ông cứ cho vài người nấu cơm ăn? Nghe tôi nói một người khoảng 47-50 tuổi đi đến và nói: Tôi là Đại tá Vũ Xuân Chiêm, tổng trưởng hành dinh, để tôi tổ chức nấu ăn cho. Tôi hỏi có gạo, thực phẩm không, ông ta giơ chùm chìa khóa ra. Thấy tôi đồng ý, ông Chiêm gọi mấy cô gái đi nấu ăn và đưa tôi đến kho thực phẩm. Mở cửa kho của phủ tổng thống,....

    ...mở cửa kho của phủ tổng thống, có khá đầy đủ gạo thơm, chim, gà đã làm thịt, cá thu và gia vị để cả trong tủ lạnh, các loại bát đũa loại xịn...Tôi cho họ lấy gạo và cá để nấu ăn, còn gà, chim tôi gọi anh em bộ đội vào phân chia cho mỗi bộ phận một ít.

    Đại tá Phạm Ngọc Sơn kể lại bữa cơm chiều 30-4-1975 tại dinh Độc Lập có bia, nước ngọt, chim quay, gà luộc, cá kho và cơm gạo tám thơm thật ngon. (?!)

    (Trần Văn Định)

    (?!) Sực nhớ hồi chiều chưa dùng cơm, tôi hỏi viên sĩ quan trong dinh có gì để ăn không. Viên sĩ quan này bối rối trả lời rằng không còn gì cả dù chỉ là một miếng bánh mì và thịt nguội!

    (Hồi ký không tên - Lý Quý Chung)




    Chữ nghĩa của một thời chinh chiến trong quán nhậu

    Trước 75, miền Nam có những câu "thành ngữ" về thuốc lá xuất xứ từ quán nhậu, như:
    Bastos : Bọn anh suốt tháng ôm sầu.




    Ký ức 30-4-1975 ở sân dinh Độc Lập

    Năm 1974, chàng hạ sĩ 20 tuổi Nguyễn Xuân Thành học hết lớp ba, rồi trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, được điều động sang đoàn tiền phương của tổng cục kỹ thuật, bộ quốc phòng, vừa mới thành lập. Ước nguyện ra trận tiền của anh đã thành hiện thực. Đoàn tiền phương này bao gồm các cán bộ gốc miền Nam. Ngồi trên xe tải chở đoàn tiền phương, trong tay hạ sĩ Thành lúc nào cũng có một khẩu AK47, 4 băng đạn giắt vào lưng, trên xe còn nhiều hòm đạn, lựu đạn. Xe cắm cờ nửa xanh nửa đỏ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.

    Sáng ngày 30-4, đoàn tiền phương hướng về Sài Gòn. hạ sĩ Thành kể: Suốt dọc đường từ Biên Hòa về tới cầu Sài Gòn, hai bên đường, giầy cao cổ, quần áo, mũ sắt và quân trang, quân dụng do binh lính chế độ Sài Gòn bỏ lại nhiều vô số. Dấu vết của các cuộc đụng độ, giao tranh vẫn còn...Lúc đoàn tiền phương đến cầu Sài Gòn, thì tình hình giao thông tại đây bị tắc nghẽn nghiêm trọng. Một số xe tăng của quân giải phóng bị bắn cháy chắn ngang cầu...

    Hạ sĩ Thành kể tiếp: Khi vào tới trước dinh Độc Lập đoàn tiền phương thấy tràn ngập các đơn vị, xe tăng, xe tải, xe thiết giáp. Mọi người đang tập trung cười nói tại đó, không biết sẽ đi đâu nữa, vì đây là điểm cuối cùng. Một lúc sau, mọi người ra chỗ bãi cỏ gần cổng ngồi. Hạ sĩ Thành khi ấy thấy một nửa đầu rồng (?!) gắn ở cánh cửa dinh bị văng ra đang nằm trên đất, rồi một cô phóng viên nước ngoài đang quay phim chụp ảnh nhặt nửa chiếc đầu rồng ấy đút vào túi rết.

    Hạ sĩ Thành đi tìm thông báo cho ông phó phòng bảo vệ đoàn kỹ thuật tiền phương. Nhưng vị này bảo: Thôi, kệ cô ấy!

    ***

    Khoảng 4 giờ chiều, các đơn vị triển khai nấu cơm. Hạ sĩ Thành vẫn nhớ, khi đó, dân Sài Gòn kéo ra rất đông để xem Việt Cộng. Họ muốn xem mặt mũi Việt Cộng ác ôn ra sao, nấu ăn như thế nào và ăn cái gì. Cơm nấu xong, bộ đội dọn ra ăn. Dân Sài Gòn có người còn xin cơm ăn thử. Có người thấy bộ đội đeo nhiều thứ đàng sau thì hỏi xem có lương khô không, xin một mẩu để ăn cho biết. Bộ đội lại vui vẻ lấy lương khô cho dân.

    Có một chi tiết rất sống động mà đến bây giờ hạ sĩ Thành vẫn không thể nào quên được.

    Đó là hình ảnh những xe thiết giáp có nhiệm vụ bảo đảm mang theo những sọt lợn (?!), sọt gà để khi dừng chân hành quân thì thịt cho bộ đội ăn. Lúc ăn xong bữa cơm chiều ở công viên trước dinh Độc Lập, bộ đội thả lợn ra, đem cơm thừa đổ vào một cái phướn to, rồi dùng thìa gõ vào những chiếc phướn, gọi lợn đến ăn cơm. Dân Sài Gòn thấy rất lạ và rất phấn khích. Những con lợn này đã quen với việc hành quân, nên khi được thả ra chúng cứ quanh quẩn ở đó với bộ đội, không đi đâu cả.

    Đến sẩm tối, mọi người tìm chỗ để mắc võng la liệt. Tuy nhiên, chẳng ai ngủ được, phần vì đây là đêm đầu tiên ở Sài Gòn, phần vì cả ngày đã hành quân căng thẳng.

    Đêm 30-4, vẫn theo lời hạ sĩ Thành, cả đoàn tiền phương không dám ngủ vì sợ hầm ngầm của địch đào dưới lòng đất...Đoàn tiền phương phải đóng quân ra những chỗ trống, kéo điện ra ngoài để quan sát. Đêm đó, không ai ngủ được, vì đó là đêm mới giải phóng. Nhờ có đèn điện việc đầu tiên hạ sĩ Thành làm là viết thư về cho bố mẹ..

    Sài Gòn ngày 30-4-1975.
    Bố mẹ kính yêu, các em xa nhớ! Con đã vào đến Sài Gòn rồi và con vẫn còn sống!

    (Nguyễn Xuân Thành)

    - : Hạ sĩ Nguyễn Xuân Thành nay là...thiếu tướng, thuộc Học viện quốc phòng.




    Tận cùng của trận chiến

    30-4-1975, vào khoảng 7 giờ sáng, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài Gòn hơn hai chục cây số đường dài. Nơi đây là đoạn cuối của Quốc lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, Quốc lộ 1 sẽ chấm dứt. Tối qua, 29-4 chúng tôi rút về tới Long Bình thì bộ chỉ huy Liên đoàn 24 Biệt động quân đã di chuyển đi đâu mất.

    Tiểu Đoàn 82 Biệt động quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư đoàn 18 BB/HQ (1) trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu:
    • – Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!

    Chúng tôi bỏ Long Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để "phòng thủ thủ đô". Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên Quốc lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu đoàn 82 BĐQ bơ vơ. Vào giờ này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ của Quân khu 2 còn lại chừng hơn sáu mươi binh sĩ, với bốn sĩ quan là tôi, trung úy Trâm, thiếu úy Thủy, chuẩn úy Thiều.

    Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi. Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng Đức và từ Long Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên Hòa có lẽ...lặng lẽ đã rơi vào tay Bắc quân. Trước mắt chúng tôi là Quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn nhảy dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hy sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này.

    Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.

    10 giờ sáng 30-4-1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe jeep của Thiếu tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Sư đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương Văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương Văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là "những người anh em". Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng 30-4-1975, cuộc chiến tranh Việt Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không mông quạnh, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi đưa lên quẹt nước mắt.

    Hướng Tân Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải. Tôi thấy một cán binh Bắc quân trên vai quàng AK, vác lá cờ Mặt trận giải phóng miền Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,
    • – Hoan hô Mặt trận giải phóng miền Nam!
      – Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?

    Chửi thề xong, ông hạ sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn.
    • – Thôi! Ta đi! Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.
      - Mình đi đâu bây giờ, Thiếu tá? Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi.
      - Thì cứ đi về hướng Sài Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ.

    Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi,
    • - Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!

    Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng Kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ,
    • - Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường Sơn quán (2). Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!

    Giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.

    Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,
    • - Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt động quân đó không?
      - Phải rồi! 82 đây!
      - Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường Sơn quán!
      - Có ai ở đó không?
      - Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng.

    Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, trung úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,
    • - Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!

    Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho "hòa bình" có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của hạ sĩ Phi, một của trung sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.

    Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la,
    • - Bắn! Bắn!...Không cho đứa nào chạy thoát!

    Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính VNCH trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. "Hòa bình" rồi, tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?
    • - Choác! Choác! ....Choác!

    Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun "phì...phì..." che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được.

    Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,
    • - Đưa tao!

    Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ mặt trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. "Oành!" một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu; máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.

    Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu. Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, "Cành! Cành!..." -"Choác! Choác!..." – "Xoẹt! Xoẹt!..." - "Oành! Oành!..." Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác bộ đội Bắc Việt đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang. "Cành! Cành! Cành!..." Trên xe, hạ sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,
    – Đù má tụi mi! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!


    ***
    30-4-1975 sau buổi trưa, trên đoạn cuối của Quốc lộ 1, một cuộc hỗn chiến. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những biệt động quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của trung sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Địch chết. Biệt động quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính biệt động cuối cùng ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ VNCH lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé. Binh nhất Liêu Chí Cường (gốc Chợ Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ).

    Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng Trung Úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,
    • – Thái Sơn ơi! Hình như tank tới!
      - Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!

    Đạn phòng không của địch quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ "đúp" (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác biệt động quân không toàn thây. Khẩu M60 của hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những biệt động quân đi trên xe thứ nhất có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút chạy vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.

    Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của trung sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung Sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào,
    • - Chạy đi!...Ông thày...chạy đi!...

    Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ "toang toác!" trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.
    • – Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi! Đó là tiếng trung úy Trâm.

    "Toác!Toác!"- "Chíu! Chíu!" đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất.

    Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ tới vợ con tôi ngoài Ban Mê Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết.

    Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất. Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của trung úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng. Chẳng nói chẳng rằng, Trung úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một người dân đạp xe tới chặn đường,
    • – Ông thiếu tá bị thương hả?

    Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng,
    • – Ông trung úy lấy xe này đưa thiếu tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!
      - Cám ơn cụ!

    Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.

    Con lộ đất dẫn tới một văn phòng hội đồng xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung. Một xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,
    • – Cởi quân phục vứt đi chỉ còn cái may-ô với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?

    Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên xe, "Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!"

    Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú nữa, thì chú Trâm van lơn,
    • – Thày ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày ơi!

    Trung úy Trâm ôm chặt vai tôi. Thày trò tôi ôm nhau...

    Những người đứng gần đó nhìn nhau...Như đám ma giữa sân nhà thờ. Một đám ma không có người chết. Những người đang đứng đây cầm tay nhau cũng ôm nhau,.Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng Quốc lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ,
    • – Thiếu tá lên xe, em chở đi trốn.

    Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.
    • – Chúng nó chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai thiếu tá chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa thiếu tá đi dấu. Không để chúng nó bắt.

    Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,
    • – Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!

    Cánh cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc di cư,
    • – Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Đóng cửa lại cho tao đỡ lo!
      - Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!

    Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là lính VNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,
    • – Hai đứa lấy quần áo "si-vin" của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!

    Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà.

    Trước sân, anh Hải con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp.
    • – Anh có thấy hai thằng lính rằn ri chạy qua đây không? Một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.
      – Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ Đức. Đấy! Chổ cây dừa nghiêng...

    Tên chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,
    • - Chứ hai anh kia làm chi rứa?
      - Anh Cả và anh Hai của tôi đó!
      Hải nhanh miệng.

    Tên chỉ huy hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh:
    • - Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!

    Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về.
    • – Thiếu tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi.
      - Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho! Bà cụ ân cần.
      - Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây.

    Bà cụ nhìn chúng tôi...Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ Đức. Quay lại. Bà cụ vẫn còn nhìn theo chúng tôi...



    ***
    Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi:
    • "Thái Sơn ơi! Trâm ơi!".
    Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu úy Trần Văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà. Chúng tôi vào Thủ Đức. Nhà cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố.

    Tới chợ Thủ Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe lam chạy đường Thủ Đức, Thị Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe bò ì ạch vì quá tải. Xe qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng Sài Gòn. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tài, tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 81 Biệt động quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường Sơn quán.




    Chữ nghĩa của một thời chinh chiến ở...Đường Sơn quán

    Trước 75, miền Nam có những câu "thành ngữ" về thuốc lá xuất xứ từ quán nhậu, như:
    Bastos : Biết anh sướng, tôi ôm sát.




    Còn cách ngã ba xa lộ Đại Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc T54 đang cháy. Có vài cán binh Bắc Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của lính chính quy Bắc Việt đang nối đuôi nhau hướng về Sài Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.

    Chúng tôi về tới Thị Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. Chiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục VNCH, dây đạn, nón sắt, ba lô...Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay.

    Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào sở thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ Lớn, về nhà Trung úy Trần Văn Phước, vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm, xóm giềng không biết mình là ai, vừa tìm xem chú Phước còn hay mất.

    Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi,
    • - Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!

    Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29-4, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn không biết tôi vào Long Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài Gòn.

    Đêm 30-4, bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai Hennessy.




    Chuyện một thời chinh chiến bên chai Hennessy

    Trông lên thì chẳng bẳng ai,
    Trông xuống chẳng ai hơn mình
    (nho táo là: Tỉ thượng bất túc, tỉ hạ hữu dư)




    Chú Thủy cho tôi biết ngay đợt tấn công đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12.7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao. Sáng 1-5-1975, tôi đưa Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê.

    Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.

    (Vương Mộng Long)

    Vương Mộng Long, K20 VB, thiếu tá BĐQ.

    (1) Sư đoàn 18 đối đầu với Quân đoàn 4 trên đường tiến vào Sài Gòn. Tướng Hoàng Cầm sử dụng Trung đoàn 14 của Sư đoàn 341 và trung đoàn pháo binh 55 để đánh Long Bình.
    (2) Đường Sơn quán nằm trong rừng cao su trên xa lộ Đại Hàn của tướng Mai Hữu Xuân.





    http://chimviet.free.fr/lichsu/phingoch ... Ky14_a.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

tạp ghi sau 40 năm (kỳ 15)

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • tạp ghi sau 40 năm
              
    (kỳ 15)

    ___________________________
    phi ngọc hùng _ 2015





    Pháo gãy nòng tháng Tư

    Sau trận Khánh Dương, Ban Mê Thuột, Tiểu đoàn 2 Pháo binh dù về hậu cứ Nguyễn Huệ, Long Bình để tái bổ xung, và được tái trang bị 18 khẩu đại bác 105 ly kiểu cũ M2A1 từ thời Đệ nhị thế chiến, tôi được chỉ định thành lập lại pháo đội B2 với quân số gần 100 người trong đó khoảng 20 người từ pháo đội chỉ huy đưa sang. Tất cả còn lại bổ xung toàn là lao công đào binh và quân phạm đủ gốc lính từ quân lao Gò Vấp.

    Một tuần sau, ngày 29-4-1975, lệnh hành quân đưa ra, về Saigon bảo vệ thủ đô.

    Thông thường một pháo đội dù đóng quân thì có một đại đội dù tác chiến bảo vệ, lần này thì không, lệnh trên cho biết phải tự bảo vệ. Như vậy cho thấy tình hình quân số trừ bị của dù coi như cạn. Từ Long Bình theo xa lộ Đại Hàn, pháo đội tôi chiếm đóng sân vận động Cộng Hòa ở đường Nguyễn Kim vào xế trưa, người quản nhiệm sân vận động ngơ ngác khi thấy pháo đội tôi kéo vào sân. Sau khi hướng bắn đã sẳn sàng một vòng cung về phía sư đoàn nhảy dù, Bộ tổng tham mưu, và dinh Độc Lập, tôi cho lệnh đóng cửa sân lại. Thượng sĩ Thọ, thường vụ pháo đội nói đùa với tôi:
    • Trung úy định tử thủ.


    Tôi trả lời không vào câu hỏi:
    • Tình thế lộn xộn, coi chừng địch trà trộn xin vào sân, nên phải đóng cửa, anh cho con cái lên hết trên khán đài, dàn súng cá nhân và lựu đạn sẳn sàng, còn các các khẩu thì trực tại chổ, sẳn sàng tác xạ.
    Hơn 2.000 quả đạn pháo tôi cho tháo ra khỏi thùng và gắn đầu nổ. Lúc này tôi cũng hơi lo, phát pháo đầu tiên của pháo đội để bảo vệ thủ đô sẽ do những pháo thủ trời gầm đất lở mới vào nghề như thế này bắn thật đã. Ngoài các khẩu trưởng và ngắm viên là có kinh nghiệm. Tất cả còn lại toàn tay mơ, pháo đội tôi toàn là thứ dữ từ quân lao xá vào giờ chót đưa về, tôi cũng không có thì giờ để mà hỏi han.

    Đến trưa thì có một pháo đội Biệt động quân biên phòng do một vị thiếu tá chỉ huy kéo vào xin đóng quân. Tôi gọi tiểu đoàn tôi báo cho biết rồi mời vào. Tôi cũng xin lỗi vị chỉ huy rồi nói thẳng, nếu có gì lộn xộn xin đừng chạy về hướng pháo đội tôi vì tôi sẻ trực xạ nếu tụi nó đánh vào. Để tránh bị tụi nó trà trộn, coi như hai vị trí pháo biệt lập, cũng không liên lạc.

    Vị thiếu tá lại hỏi tôi như thượng sĩ thường vụ pháo đội:
    • Trung úy định tử thủ.


    (Nguyễn Văn Lập)




    Sài Gòn 30-4-1975

    Buổi tối, tôi leo lên sân thượng. Trời tối đen, có một sự im lặng sâu thẳm. Nhưng trong bóng đêm, tôi đả nghe rõ được tiếng của im lặng. Cái im lặng của cõi đêm, của một trống rỗng, của một hố thẳm, của một mảnh đời đang sống đã khép lại. Chỉ mới hôm qua, những chiếc trực thăng còn lập lòe trên các mái nhà và biệt tăm ngay sau đó vào đêm tối. Rồi chốc lát đã mất hút. Niềm hy vọng như cạn mòn.

    Một triệu, một trăm mười ngàn (1.110.000) binh sĩ VNCH đâu rồi? Mà Neil Sheenan trong Innocence perdu đã từng nói: Cette guerre que nous n’aurons jamais gagné (Trận chiến mà chúng ta đã chưa hề bao giờ thắng). Mà nay chúng ta chuẩn bị một cuộc hành trình qua sa mạc với khô héo cạn kiệt hy vọng, một hành trình gian khổ với đầy bất trắc đe dọa, hiểm nguy.

    Trưa 30-4-1975, ngồi một mình thấy tương lai vô định. Lòng buồn vô tả. Nước mắt tuôn trào không ngăn được. Bụng tự nhiên nhói lên từng lời. Vui chưa thấy, lo thì như ứa tràn. Chẳng hiểu chính quyền mới đối xử ra sao? Đó cũng là mối lo của tất cả mọi nguời. Chiến tranh đã chấm dứt. Đáng nhẽ phải vui mà hóa buồn. Hết rồi cảnh chạy đôn chạy đáo tìm đường thoát thân. Có sự im lặng nặng nề như một con vật chờ chết trong nỗi tuyệt vọng. Ván bài chơi đã xong. Ngoài đường, 8 chiến xa T54 đã vào thành phố trên đại lộ Thống Nhất. Nhiều nhà đóng cửa rồi ngó ra xem động tĩnh. Chỉ có một thiểu số người dám ra đường đứng thản nhiên nhìn đoàn xe cộ đi qua. Bộ đội tỏ ra ngơ ngác và kỷ luật. Họ dơ tay vẫy chào ngượng ngập.

    Mãi vào lúc 4 chiều ngày 30-4, ba vị thuyết khách của ông Dương Văn Minh, thuộc thành phần thứ ba là Luật sư Trần Ngọc Liễng, Giáo sư Châu Tâm Luân và Linh mục Chân Tín mới từ trại David Tân Sơn Nhất ra về. Các ông là những người được tướng Dương Văn Minh cử làm đại diện vào trại David chiều ngày 29-4-1975 để thuyết phục những người của mặt trận với lời yêu cầu họ đừng đánh phá Sàigòn. Các tướng Nguyễn Anh Tuấn và Đại tá Võ Đông Giang đã hứa chỉ pháo chút ít để làm áp lực với tướng Dương Văn Minh mà thôi. Quân Bắc Việt đã tiến quân vào Tân Sơn Nhất nên các ông bị kẹt lại cho đến chiều 30-4 mới ra về được.

    (Nguyễn Văn Lục)




    LĐ81 Biệt cách nhảy dù

    Mặc dù đã có lệnh đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh nhưng sự chiến đấu của nhiều đơn vị thuộc quân lực VNCH vẫn tiếp tục. Diễn tiến của Bộ chỉ huy 3 chiến thuật thuộc LĐ81/BCND được đúc kết như sau: Ngày 30-4-1975 lúc 2 giờ sáng, trận chiến tại cổng phi trường Tân Sơn Nhất, Bộ tổng tham mưu vẫn tiếp tục giữa địch quân và các đơn vị của LĐ81/BCND. Các chốt của LĐ81/BCND phía sau cổng Bộ tổng tham mưu đã dùng lựu đạn mini để ngăn chặn các toán đặc công của địch quân đang tìm cách đột nhập. Lựu đạn và chất nổ được xử dụng tối đa, sau 1 giờ rưỡi giao tranh địch quân không tiến được đành rút lui khỏi cổng sau của Bộ tổng tham mưu.

    Đến 6 giờ sáng, 5 chiến xa T54 và quân tùng thiết của địch quân trên đường tiến vào Sài Gòn đã bị lực lượng của sư đoàn nhẩy dù và Liên đoàn 81/BCND chận đánh trước cổng phi trường Tân Sơn Nhất, 4 chiến xa của địch quân bị phá huỷ, chiếc sau cùng quay trở lại chạy thoát.

    7 giờ sáng một đoàn chiến xa khác của địch hướng vào cổng chính Bộ tổng tham mưu. Một toán của LĐ81/BCND phòng thủ trên cao ốc đã dùng M72 bắn cháy chiếc đầu tiên, chiếc thứ 2 đã dùng súng đại pháo trên pháo tháp bắn vào cao ốc làm tê liệt phòng tuyến thủ đó, nhưng chiến xa này cũng bị bắn cháy trước cổng Bộ tổng tham mưu do Biệt đội 817.

    10 giờ 30 sáng Đại úy Nguyễn Hữu Hưng chỉ huy phó Bộ chỉ huy 3 chiến thuật của LĐ81/BCND quyết định rút đơn vị khỏi Bộ tổng tham mưu, trở về Biên Hoà để tái hợp với bộ chỉ huy hành quân của LĐ81/BCND. Trên đoàn quân xa gồm những quân nhân của tất cả các đơn vị còn muốn chiến đấu, trong đoàn quân xa này được tăng cường thêm 8 chiếc thiết giáp M41 và M113 từ phi trường Tân Sơn Nhất về phối hợp. Nhưng khi đoàn xe đang di chuyển trên đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận thì bị phục kích, chiếc quân xa đầu tiên bị bắn cháy, đoàn xe bị nghẹt lại, đại úy Hưng cho lệnh anh em bỏ đoàn quân xa và tìm đường thoát thân.

    (Đặc san GĐ81/BCND)




    Giã từ vũ khí

    An Lộc địa sử ghi chiến tích
    Biệt cách dù vị quốc vong thân




    Pháo gãy nòng tháng Tư

    Đến lúc này thì sân Cộng Hòa đã trở thành một điạ điểm tìm đơn vị bị thất lạc. Hàng trăm nếu không nói là hàng ngàn binh lính, sĩ quan của nhiều quân binh chủng mà nhiều nhất là lính Biệt khu thủ đô (1) bị lạc đơn vị nghe tin nhảy dù về sân Cộng Hòa nên họ tự động tìm đến. Họ đến tìm đơn vị không thấy rồi lại đi, không hiểu sao họ biết có chúng tôi ở đây mà tìm đến, có người còn súng có người không, đa số là tay không lặng lẽ đi ngang pháo đội tôi nhìn vào, các pháo thủ của tôi thì súng cá nhân đã lên đạn đề phòng.

    Đến tối tôi cho đóng cửa sân lại rồi leo lên khán đài chính nhìn về phía Sài Gòn lòng buồn vô hạn. Tôi sinh ra và lớn lên giữa lòng thủ đô, cuộc đời tôi gắn liền với Sài Gòn, từng hàng cây góc phố, từng con đường nhỏ thân quen tiếng gọi mì ban đêm, con đường Lê Thánh Tôn ngập lá me bay buổi sáng vẫn còn đây, dòng sông tuổi thơ của tôi thật êm đềm trôi trên hè phố sau giờ tan học. Gần hơn chút nữa là ngôi trường trung học Chu Văn An thân yêu, nơi tuổi trẻ tôi ươm biết bao nhiêu mộng mơ, rốt cuộc cũng chìm vào cơn lốc chiến tranh. Sài Gòn máu thịt quê hương tôi đang hấp hối. Sài Gòn của tôi đang bị bức tử. Giờ này tôi không còn nghe tiếng đại bác ru đêm, tất cả các ngõ vào Sài Gòn đã bị phong kín, cơn hấp hối này sẽ có tôi tham dự như một chứng nhân nếu còn sống sau chinh chiến, hay sẻ nằm xuống tức tưởi nghẹn ngào.

    Sáng ngày 30-4, nhiều tiếng nổ lớn như là hoả tiển 122 ly về hướng phi trường Tân Sơn Nhất, bầu trời bổng nhiên thấp xuống thật u ám như sắp để tang cho một chế độ. Những người lính lạc đơn vị lại kéo về sân Cộng Hòa rồi lại lủi thủi ra đi, những giờ phút cuối đời lính, họ như những con chim bị thương, đang cố gắng vỗ đôi cánh gẩy lần chót tìm về cái tổ ấm quân đội đầy mùi thuốc súng, vì quân đội là ngôi nhà thứ hai của họ. Họ cũng chính là tôi, là lính.

    Gần 10 giờ sáng, những tràng đại bác đầu tiên của Pháo đội A và C ở trường đua Phú Thọ bắt đầu bắn, điện văn xin tác xạ từ các nơi gọi về tiểu đoàn tới tấp. Các đơn vị của Lữ đoàn 4 Dù, của biệt động quân đang đụng địch. Pháo đội biệt động quân cũng đã tác xạ khói bay ngược về phía chúng tôi. Tôi cho cả pháo đội quay nòng về hướng bắn sẳn sàng tác xạ và khẩu chuẩn nạp đạn khói, một lúc sau thiếu tá Việt, Trưởng ban 3 cho điểm tác xạ bắn theo yêu cầu.

    (…)

    (1) Một đơn vị của Đoàn 232 đánh Biệt khu thủ đô.




    Sài Gòn 30-4-1975

    Ngoài phố, chỉ còn nghe tiếng xích sắt khô khan của bánh xe nghiến trên mặt đường nhựa. Mặt đất như rung lên bần bật. Sài Gòn như oặn mình dưới làn xích sắt đi qua. Tiếng xích sắt như nhắc nhở gợi về tiếng xích sắt của mùa xuân Praha năm nào. Cái mùa xuân nát úa. Cái mùa xuân hy vọng của tuổi trẻ Prague chưa kịp nhú lên thì đã bị xích sắt xe tăng của Hồng quân Liên Xô đè dập nát khi tiến vào Prague, trên những đường phố lát đá gồ ghề, thẫm màu đen thuở nào. Praha, Sài Gòn, ngạo nghễ và tủi nhục.

    Những chiến xa trên có cắm cờ của Mặt trận giải phóng miền Nam chạy trên đường Tự Do, Catinat cho nguời ta có cảm tưởng đường Tự Do của miền Nam là đại lộ Champs-Élysées của Paris…Nhưng Champs-Élysées của Paris vào tháng 8-1944 là cả một biển người đón tiếp De Gaulle. Biển người đó là nỗi vui mừng giải thoát, chỉ có tiếng cười và nước mắt hoan lạc.

    Nhưng Champs-Élysées thì không phải đưởng Tự Do ở Sài Gòn. Đường Tự Do không có nỗi vui hoan lạc mà chỉ có những ánh mắt lo âu và sợ sệt. Ở một góc phố cạnh hotel Majestic, người ta thấy 125(?!)nhà báo ngoại quốc đứng ở đâu đó. Họ còn ở lại để chứng kiến cảnh tháo chạy, cái cảnh mà Bảo Ninh đã mô tả trong truyện ngắn Ba lẻ một: Chen chúc, xô lấn, giày đạp, chà xéo, đánh nhau, giết nhau, cưỡng hiếp và cướp bóc và cảnh tiến tới ồ ạt của những T54 và K63, như một cơn lốc bẳng thép xé mặt lộ lướt tới với thần tốc kinh hồn…

    Đài phát thanh Sàigòn mở đầu bằng tiếng hát Trịnh Công Sơn: Nối vòng tay lớn bên cạnh đám bạn bè anh, trong đó có Nguyễn Hữu Thái, một sinh viên tranh đấu. Dân Sài Gòn đã đón tiếp giải phóng như thế. Một nhúm người dân ngơ ngác, 125 nhà báo và Trịnh Công Sơn với Nối vòng tay lớn với 8 chiến xa có trang bị kính nhắm hồng ngoại tuyến dùng cho những cuộc đánh nhau ban đêm? Chả còn gì để dấu diếm nữa. Những chiến xa Liên Xô từ ngoài Bắc chạy thẳng vào chứ đâu phải của Mặt trận giải phóng miền Nam? Trên chiến xa có cắm cờ MTGPMN. Nhưng cắm một lá cờ thì không lẽ đủ để thay đổi nguồn gốc một lịch sử.

    (…)




    Nhẩy dù và LĐ81 Biệt cách nhảy dù

    Ngày 30-4-75, địch quân từ hướng ngã ba Ông Tạ tiến về ngã tư Bảy Hiền (1) bị chận đánh bởi hậu cứ sư đoàn dù. Từ lăng Cha Cả đến cổng Bộ tổng tham mưu gặp sự chống trả của LĐ81 Biệt cách nhảy dù. Lực lượng địch gồm có bộ binh và chiến xa được pháo binh yểm trợ, tuy địch đông và mạnh như thế nhưng địch vẫn không dập tắt được sức kháng cự của dù, biệt cách dù. Mặc dù lệnh Tổng thống Dương Văn Minh đã phát đi từ sáng sớm, kêu gọi quân lực VNCH ngưng chiến và giao nạp vũ khí cho Mặt trận giải phóng miền Nam.

    Cuộc điện đàm giữa Thiếu tá Phạm Châu Tài với Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và Tổng thống Dương Văn Minh sau này đã được Thiếu tá Phạm Châu Tài vắn tắt lại như sau:

    9:00 giờ sáng ngày 30-4-75, Bộ chỉ huy 3 chiến thuật của LĐ81/BCND đang quần thảo với địch trước cổng Bộ tổng tham mưu ở lăng Cha Cả thì sau đó có lệnh đầu hàng. Tôi chạy vào văn phòng trong bộ TTM mà đêm hôm trước tôi đã họp với tướng Vĩnh Lộc, nhưng những người lính cơ hữu gác ở đó cho biết tướng Vĩnh Lộc đã rời Bộ tổng tham mưu từ 6 giờ sáng. Tất cả các sĩ quan đã họp trong phòng này với tôi vào đêm 29-4 đều vắng mặt.

    Tôi bốc điện thoại lên quay số của văn phòng phủ tổng thống, tôi hết sức ngạc nhiên khi người trả lời xưng danh là Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Tôi nói muốn được nói chuyện với Tổng thống Dương Văn Minh, tướng Hạnh hỏi lại tôi là ai? Tôi trả lời: Tôi là Th/tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy vùng 3 chiến thuật của Liên đoàn 81/Biệt cách nhảy dù. Vài giây đồng hồ sau tướng Hạnh đưa điện thoại cho Tổng thống Dương Văn Minh. Tổng thống nói:

    - Đại tướng Dương Văn Minh tôi nghe đây, có chuyện gì đó?

    Tôi trình bày với tổng thống Minh: Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với địch ở bộ TTM, tôi đang cố liên lạc với bộ TTM thì lệnh ngưng chiến đã ban ra. Tôi vào trong bộ TTM thì họ đã bỏ chạy hết do đó tôi muốn nói chuyện với tổng thống để xin quyết định.

    Tổng thống Minh trả lời rằng:

    - Các em chuẩn bị bàn giao đi.

    - Có phải là đầu hàng không? Tôi hỏi lại.

    - Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của họ đang tiến vào dinh Độc Lập.

    (Đặc san GĐ81/BCND)

    (1) Một đơn vị của Sư đoàn 10 thuộc Quân đoàn 3 đánh ngã tư Bảy Hiền.




    Pháo gãy nòng tháng Tư

    Lúc này đạn lớn đạn nhỏ nổ ran về phía sư đoàn, hướng Bà Điểm và nhiều nhất là khu ngả ba Hàng Xanh, những chiếc trực thăng Mỹ từ Đệ thất hạm đội vẫn còn tiếp tục bay về hướng toà đại sứ cùng với những chiếc Cobra bay bảo vệ nhưng không nghe tiếng bắn từ phi cơ. Mặc dầu tôi chưa bắn, nhưng tiểu đoàn bỗng ra lệnh "check fire" (ngưng bắn). Một lúc sau, tôi gọi về tiểu đoàn nói hướng bắn của tôi đâu có gần mấy con chuồn chuồn, tôi thấy rõ bằng mắt thường, bảo đảm bắn không rớt tụi nó đâu, đích thân cho tác xạ đi. Thiếu tá Việt bảo đợi. Đợi một lúc nữa, tôi bước ra đài tác xạ tiến về pháo đội, các khẩu trưởng hỏi nạp đạn lâu quá sao chưa bắn vậy, tôi chỉ tay lên trời chỉ mấy con chuồn chuồn và nói tại tụi nó đó.

    Vừa lúc đó hạ sĩ truyền tin chạy ra gọi tôi: Trung úy, ông Minh đầu hàng rồi. Tôi vội chạy vào đài tác xạ, qua radio, tiếng tổng thống 2 ngày Dương Văn Minh kêu gọi buông súng như một nhát dao đâm vào tim mọi người. Tôi gọi máy về tiểu đoàn hỏi có bắn tiếp không, hay tan hàng, hoặc…bàn giao? Chừng nào có lệnh trực tiếp từ tiểu đoàn tôi mới thi hành chứ không hạ nòng đâu. Thiếu tá Việt bảo…đợi. 5 phút sau, tôi bước ra cửa đài tác xạ nhìn ra ngoài, toàn thể các đơn vị bạn trong sân Cộng Hòa tự động tan hàng, sáu khẩu đại bác của biệt động quân vẫn còn cất cao nòng, họ đi ngang chúng tôi hết sức buồn bả. Lúc này, tại đây, chỉ còn pháo đội của tôi, những người lính của giờ thứ 25 của cuộc chiến vẫn không chịu rời đơn vị, họ chỉ cần bước ra khỏi sân vận động là về với gia đình, tại sao lại còn đứng đây? Cũng như tôi, họ đang đợi. Ngay lúc đó, thiếu tá Hóa, Tiểu đoàn phó chạy xe jeep đến ra lệnh cho tôi tan hàng. Tôi trở vào đài tác xạ, chấm điểm cho pháo đội nhắm về trại Hoàng Hoa Thám rồi gọi Liêng vào ra lệnh: Anh cho tất cả pháo đội, quần áo chĩnh tề, ba lô xếp thẳng hàng như ở quân trường, khi tôi ra bồng súng chào trình diện quân số.

    (…)




    Sài Gòn 30-4-1975

    Trong khi đó, ông Minh và toàn bộ chính phủ ông đã chờ sẵn tại dinh Độc Lập để trao quyền hành lại cho những người chủ mới. Sài Gòn lúc đó như một bãi rác với đủ thứ rác: rác Mỹ, rác quân đội với súng ống, quân trang, quân dụng vứt bừa bãi, rác chính quyền tham nhũng. Cùng lắm, ông Minh chỉ là người không thức thời cúi mình xuống nhặt cái danh chính quyền bị người ta vứt lại từ đống rác đó.

    Lại còn vấn đề trao cái chính quyền đó vào tay ai? Chẳng biết nữa, người nói ông Bùi Tín, người nói chính ủy Tùng. Theo Stanley Karnov, trong Viet Nam viết: Ngồi trên một chiến xa vào dinh Độc Lập, Ông Bùi Tin chuẩn bị đóng hai vai trò một lúc: Là nhà báo, ông muốn là nhân chứng cho cuộc đầu hàng. Nhưng là sĩ quan cao cấp trong đơn vị của ông, ông muốn chính ông tiếp nhận sự đầu hàng này. Tôi chờ các ông từ sáng nay để trao quyền hành lại cho các ông, đại tướng Minh đã nói như thế khi ông Bùi Tín vào đến đại sảnh. Bùi Tín đáp lại, không có vấn đề trao quyền hành. Quyền hành của các ông còn đâu để mà giao. Ông không thể giao một cái mà ông không có. Nhưng có lẽ câu nói quan trọng nhất của Bùi Tín vẫn là câu sau đây: Cùng là người Việt Nam cả, sẽ không có kẻ thắng người bại. Chỉ có người Mỹ là kẻ bại trận. Nếu ông là người yêu nước, đây là lúc để vui mừng, vì chiến tranh đã không còn nữa trên quê hương của chúng ta. Từ đó đến nay, đã hơn 30 năm, người ta vẫn chờ đợi câu nói của Bùi Tín được thực hiện và nó sẽ không bao giờ được thực hiện.

    Cũng khoảng 2 giờ rưỡi trưa hôm ấy, những chiến xa đã từ trong dinh Độc Lập chạy dọc theo đại lộ Catinat-Tự Do, từ nhà thờ Đức Bà ra hướng bờ sông. Có tới mười người dụt dè dơ cánh tay vẫy chào. Nhiệm vụ của người chiến thắng không phải là dễ. Chiếm được Sài Gòn rồi, thay vì chỉ có 10 cánh tay dụt dè dơ lên, phải nhân lên bao nhiêu triệu lần? Phải chờ xem vậy thôi.

    Chiến thắng thì đã xong, nhưng chinh phục (1a) (2b)thì chưa tới và sẽ không bao giờ tới!

    (Nguyễn Văn Lục)

    Tác giả là giáo sư triết trường trung học Võ Tánh, là nhà biên khảo với những tác phẩm: Sách cũ miền Nam 1954-1975, Văn học miền Nam những năm 1964-1975, v…v…Và những bài viết: 30 tháng 4, đi tìm thời gian đánh mất, Cuộc sống ở một nơi nào khác, v…v…




    Nhảy dù

    Jean Larteguy được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị quân lực VNCH tại Sài Gòn, và ghi lại như sau:

    Gần lăng Cha Cả, quân dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi cấp chỉ huy của họ từ dinh tổng thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan nầy khuyên họ nên ngưng chiến đấụ. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết. Ngoại trừ những chiếc xe tăng T54.
              

    Tăng T54 bị bắn cháy gần nhà thờ Ba Chuông trên đường Trương Minh Giảng.
    (ảnh Raoul Coutard)

              
    (Đặc san GĐ81/BCND)




    Lạc đạn (1a)

    Một nhân vật hàng đầu của Mặt trận giải phóng miền Nam, ông Trần Bạch Đằng, thì thẳng thắn hơn. Năm 1990 được một người bạn đưa tôi tới nhà ông ở thành phố Sài Gòn, tôi ngạc nhiên khi thấy mình trở lại đúng cái biệt thự kiểu Pháp mà ngày xưa của người Mỹ cư ngụ. Tôi có lúc ở đó một thời gian và cảm thấy dường như mình quay lại một căn nhà ma.

    Trong lúc ngồi uống trà ngoài vườn, tôi lại ngạc nhiên vì sự thẳng thắn của ông Đằng. Ông nói: Niềm tin của chúng tôi vào chủ nghĩa cộng sản không tưởng, không liên quan gì đến thực tại cả. Chúng tôi đã cố gắng xây dựng một xã hội mới dựa trên những lý thuyết và những ước mơ như xây lâu đài trên cát. Hãy tưởng tượng xem! Chúng tôi thậm chí tập thể hóa cả người thợ cắt tóc. Thật là lố bịch và ngớ ngẩn.

    Lẽ ra chúng tôi nên lưu ý một câu ngạn ngữ Trung Quốc:
    • "Ngươi có thể chinh phục một đất nước từ trên yên ngựa.
      Nhưng ngươi không thể cai trị một đất nước từ yên ngựa".

    ("Vietnam – A History" - Stanley Karnow)




    Bên lề trận chiến với bên thua cuộc (2b)

    Thôi, thế là xong. Tôi nhìn những chiếc xe jeep với những thanh niên hò hét, phất cờ giải phóng và giơ cao vũ khí, tay mang băng đỏ, những nhà sư ba mươi đi phát cờ giải phóng và tửng tửng hô: "Phe ta thắng! Phe ta thắng!". Họ là ai vậy? Những kẻ theo thời? Cách mạng giờ thứ 25? Tôi vẫn lặng lẽ đi và tính về nhà sẽ tìm cách trút bỏ quân phục và vứt bỏ khẩu súng Colt.

    Quạ từ đâu bay về nhiều quá, đen cả bầu trời. Lại có cả tơ trời nữa, đó là điềm lạ hay điềm gở của miền Nam. Mùa nầy bông cây dầu nồng nàn thơm mùi nam tử. Bây giờ trộn lẫn với hương đêm và mùi khói súng bắn chỉ thiên, loạn xạ. Tin tự tử tập thể ở trại nhảy dù Hoàng Hoa Thám và vài đơn vị lẻ tẻ. Tất cả những cái đó giờ đây đâu còn mang một ý nghĩa nào dù nhỏ nhất. Tại sao chỉ qua vài phút ngắn ngủi mà tôi thấy quang cảnh ngoại vật đột nhiên mất hết các ý nghĩa quen thuộc, nhà cửa, con người và ngay cả đến lời nói từ ngữ với nhau, liên hệ cố hữu giữa người và người. Tôi vốn là một người viết văn quá nửa đời người nên từ ngữ vốn mang nặng những ý nghĩa xâu xa với cái ma lực riêng của nó. Tôi bây giờ là ai? Một kẻ thất trận? Một tù binh chiến tranh? Chắc tôi chỉ còn cái danh hiệu là nhà văn với những tác phẩm đóng góp cho văn chương? Thực sự đọc nhiều về chính sách của kẻ địch, tôi hiểu trước sau họ sẽ tự bỏ luôn cái danh hiệu cuối cùng đó của tôi. Tôi tin dù họ bỏ tù được thân xác tôi, nhưng họ khó có thể tha hoá được tôi, biến đổi tôi thành một bộ máy vô hồn. Tôi nghĩ tôi đang mỉm cười, hơi một chút chua chát, hơi một chút ngạo nghễ.

    Cuối cùng ai sẽ thắng? Điều đó thời phải 60 năm nữa, tôi mới có câu trả lời chính xác, đúng theo phương pháp luận của sử học.

    (Những ngày cuối cùng của Vùng 1 và miền Nam - Duy Lam)

    Tác giả tên thật Nguyễn Kim Tuấn (trung tá trong quân lực VNCH, phục vụ tai Vùng 1 chiến thuật), là con bà Nguyễn Thị Thế, em gái nhà văn Nhất Linh. Là nhà văn với những tác phẩm: Cái lưới, Gia đình tôi, v…v… và với những truyện ngắn: Nỗi chết không rời, Lột xác, v…v…




    Bên lề trận chiến với bên thắng cuộc

    30-4-1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ngày mà những người anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc. Ngày chấm dứt hơn hai mươi năm "da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách". Nhưng, không phải cứ súng ống vứt đi là sẽ có hòa bình.

    (Bên thắng cuộc - Huy Đức)




    Pháo gãy nòng tháng Tư

    Khi tôi ra trước hàng quân, pháo đội đã sẳn sàng tư thế chào kính, sáu khẩu đại bác giương cao nòng, những người lính bồng súng chào, nét mặt họ không điểm một chút hốt hoảng hay lo sợ, họ tuân lệnh cấp chỉ huy một cách tuyệt đối. Tôi cắn chặt đôi hàm răng để khỏi bật ra tiếng khóc vì trong lòng hết sức thương cảm, những người lính của tôi, có người mới về đơn vị chưa đầy hai tuần, vẫn tuân lệnh cấp chỉ huy dầu cho đứng trước hoàn cảnh tuyệt vọng như thế này. Tôi cho anh em nghỉ và nói: Tôi thi hành lệnh cấp trên cho pháo đội tan hàng, tôi biết việc này sẽ làm cho anh em rất đau lòng, nhưng là quân đội chúng ta phải thi hành lệnh, sau này chắc chắn là anh em sẻ gặp rất nhiều khó khăn, hãy cố gắng mà sống.

    Sau đó tôi cho pháo đội hạ nòng đại bác xuống và tháo đạn ra, súng cá nhân xếp thẳng hàng trên ba lô như thể đang giờ nghỉ ngơi. Trong khoảng khắc, sân Cộng Hòa không còn một bóng người, tôi trở vào nhà viên quản thủ sân xin một bộ đồ civil, vào đài tác xạ thay đồ trận. Xong, tôi trở ra vị trí đứng nghiêm chào. Những khẩu đại bác gióng thẳng hàng bên cạnh súng cá nhân M16 và quân trang của đơn vị tôi còn đó. Tôi buồn bã quay gót trở về nhà không dám quay lại nhìn pháo đội một lần chót, vì nhìn nữa tôi sẻ khóc, nay đành bó tay, nhưng là lính không thể khóc vào lúc này…

    Vì trong bộ đồ dân sự, tôi vẫn còn là một người lính.

    (Nguyễn Văn Lập)




    Nhảy dù

    Các xe tăng đầu tiên của Bắc quân vào Sài Gòn từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa. Từ ngày hôm trước, các đơn vị này đã bị chặn tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung tâm huấn luyện nhảy dù do Lữ đoàn 4 sư đoàn dù trấn giữ, dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Bắc quân bị thiệt hại nhiềụ. Sau đó, chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Sài Gòn: Một lần trước Tổng nha cảnh sát (1), trước khi bị xe tăng Bắc quân đè bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính dù võ trang đại liên và bazooka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ lựu đạn tự sát. Đến chiều tốị 400 chiến sĩ dù được gom từ trận Hóc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính của Chợ Lớn. 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đêm để rút về đồng bằng.

    (…)

    (1) Một đơn vị của Đoàn 232 đánh Tổng nha cảnh sát.

    - : 2 nhà báo Pháp Jean Larteguy, Jean Lacouture là 2 trong 3 nhà báo (và Pierre Darcourt) đã có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Sài Gòn, có lẽ chờ đợi đón mừng "bộ đội giải phóng" để chứng kiến cái chết ô nhục của quân đội miền Nam. Vì những nhà báo phản chiến họ đã phỉ báng quân đội miền Nam trong suốt bao nhiêu năm. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, họ trở về Pháp, và đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những gì họ viết ra.




    Một cơn gió bụi

    Pierre Darcourt cho biết sau đó đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    Tín hiệu của ngày dài nhất trên quê hương Việt Nam khốn khổ đã phóng lên vùng trời Ban Mê Thuột hôm 12-3-1975. Nhưng Sài Gòn không treo cờ rũ như đã treo để tang Phước Long thất thủ hồi đầu tháng 1-1975. Thành phố ấy vẫn ăn chơi trong mọi khắc khoải, vẫn nhẩy nhót trên mọi ưu phiền. Những xác chết của quân dân chất đống, những dòng máu của quân dân chẩy dài, ở Darlac, còn tươi rói, chẳng làm lay động nổi cái bóng…tối phủ kín lương tri mê sảng của những con người thành phố.

    Không một hồi chuông cáo phó nào rung lên cho Ban Mê Thuột, ở nhà thờ, ở nhà chùa và ở cả lòng những con người thành phố, đáng lẽ, cần phải rung lên. Cuộc chiến hai mươi năm, chưa lần nào lãnh thổ VNCH bị cộng sản ngoạm một miếng to thế, mầu mỡ thế. Ban Mê Thuột là vùng trù mật của Cao nguyên. Nhưng Ban Mê Thuột đã thất thủ. Và Sài Gòn không treo cờ rũ. Và Sài Gòn đã quên cả Phước Long, đã chẳng cần đặt câu hỏi: Trước thời gian Phước Long mất, có một căn cứ, một đồn bót nào bị mất? Không, mất sáng thì ta chiếm lại chiều, mất đêm thì ta chiếm lại ngày. Ngay Quảng Trị khó tái chiếm mà vẫn tái chiếm.

    Tại sao bỏ rơi Phước Long? Niềm u uẩn Phước Long tại sao không bày tỏ? Rồi Ban Mê Thuột? Tiếng nói của lương tri nào kịp thời an ủi những cái chết tội nghiệp của dân, những cái chết bi phẫn của lính? Im lặng và lạnh lùng. Sài Gòn vẫn nhẩy đầm, vẫn rượu gái... Phải đợi đến ngày 17-3-1975, ngày khởi sự "250 cây số đường máu" dọc liên tỉnh lộ số 7 về đất hứa Tuy Hòa, nghĩa là ngày vĩnh biệt Cao nguyên, Sài Gòn mới hơi hơi xao xuyến!

    (Duyên Anh Vũ Mộng Long)




    Ngày cuối cùng của trường Bộ Binh Thủ Đức

    Sau thời gian phục vụ tại Sư đoàn 5 BB, tôi được thuyên chuyển về trường Bộ Binh Thủ Đức. Trường bộ binh là một quân trường đào tạo các sĩ quan trừ bị cho quân lực VNCH. Lúc trứớc trường tọa lạc ở Thủ Đức. Năm 1974 thì dời ra Long Thành, một cơ sở mới nằm bên cạnh Quốc lộ 15, đường Sài Gòn-Vũng Tàu và cách quận lỵ Long Thành 5 cây số. Tại đây trường bộ binh kết hợp với trường thiết giáp và Trung tâm huấn luyện Yên Thế, lập thành Huấn khu Long Thành. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi là chỉ huy trưởng trường Bộ binh kiêm chỉ huy trưởng Huấn khu Long Thành.

    Đến đầu tháng 4-1975, Quân đoàn I và Quân đoàn II di tản, Bắc quân vào đến Nha Trang, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được chỉ định ra làm tư lệnh tiền phương Quân đoàn III, trấn đóng ở phi trường thị xã Phan Rang. Sau khi Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi ra làm tư lệnh Tiền phương thì Đại tá Trần Đức Minh đang là chỉ huy phó truờng bộ binh được chỉ định lên thay thế làm chỉ huy trưởng trường bộ binh, kiêm chỉ huy trưởng Huấn khu Long Thành.

    Đầu tháng 4-1975, trường Võ Bị Quốc Gia là trường sĩ quan hiện dịch, di tản từ Đà Lạt về Long Thành và tạm trú ở trường bộ binh. Hai tuần sau trường võ bị cho làm lễ mản khóa hai khóa 28 và 29 ra trường cùng một lúc, còn lại hai khóa 30 và 31.

    (Nguyễn Ngọc Thạch K20)




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    0 giờ 15 phút. Trực thăng Mỹ vẫn vần vũ một góc trời Sài Gòn. Nó tiếp tục hạ cánh, cất cánh chở những người Việt Nam leo lên được nóc tòa đại sứ Hoa Kỳ. Cùng với tiếng trực thăng vần vũ, tôi còn nghe cả tiếng súng nổ ở phía phi trường Tân Sơn Nhất. Lính bộ đội ông Hồ đã pháo kích vào phi trường quân sự từ mấy hôm nay. Họ chưa ngừng pháo kích. Họ muốn chiếm yếu khu Tân Sơn Nhất. Lính ta vẫn chống cự. Không còn ngôn ngữ nào đề vinh danh những người lính VNCH biết ý nghĩa sống, và ý nghĩa chết. Hơn cả hào hùng, lính của ta lãng mạn nhất loài người, chấp nhận chiến đấu cô đơn và gục ngã âm thầm.

    Súng nổ ròn, nổ đẹp ở phía phi trường Tân Sơn Nhất. Và ở những nơi nào nữa trên quê hương tôi vào lúc bi thảm của lịch sử, vào lúc mà người lính có quyền đứng thẳng, ngẩng mặt, vất vũ khí, giã từ trận mạc? Họ đứng thẳng, ngẩng mặt niềm kiêu hãnh của họ về hướng kẻ thù. Cuộc chiến đấu của dân tộc Việt Nam chỉ khởi sự từ những ngày cuối tháng 4-1975. Từ những ngày này, trước đó, chính nghĩa của chiến đấu bị lu mờ, bị ngộ nhận bởi Mỹ.

    Nghe súng nổ, tôi liên tưởng người lính, nhân vật bất hủ của nhà văn James Jones trong tác phẩm From here to eternity. Anh ta tạm bỏ đơn vị vì lý do giết gã cai ngục quân lao trả thù cho bạn. Anh ta bị thương, tá túc tại nhà một vũ nữ. Biết tin quân thù xuất hiện và đồng đội anh hăng say chiến đấu, anh ta trở về đơn vị.

    - Quân đội bạc đãi anh, anh trình diện làm gì?

    - Vì tôi là lính.

    Vì tôi là lính. Câu nói đầy cảm xúc và cảm khái. Lính của chúng ta đã nói thế, nếu có ai hỏi tại sao các anh còn chiến đấu. Tôi lại nhớ chập tối hôm qua...

    (…)




    Sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Đà Lạt

              

              

    Jean Larteguy được thấy tận mắt các sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị cuối cùng của quân lực VNCH, tiến ra trận địạ.
    • "Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Chỉ còn thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng".

    Một đồng nghiệp của Jean Lartéguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động khi nhìn thấng những đôi bao tay trắng không khác gì các sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Saint-Cyr.

              

    (ảnh Raoul Coutard)

              




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    Tôi lại nhớ chập tối hôm qua...Lúc ấy, trên màn ảnh nhỏ của đài truyền hình băng tần số 9, ông tướng Vĩnh Lộc, mà có thời chúng tôi gọi là ông "vua xứ mọi" đang chắp tay sau lưng đi đi lại lại. Vào phút giây "sauve qui peut" này, thấy tướng Vĩnh Lộc chưa chạy, tưởng rằng ông ta xứng đáng con nhà tướng. Tôi không có kiến thức quân sự như Phạm Huấn đề thẩm định giá trị trận mạc và tài năng chỉ huy của tướng lãnh. Bây giờ, ông xuất hiện trên ti vi, nắm quyền tổng tham mưu trưởng vào giờ thứ 25. ông ta có vẻ bối rối trong nhật lệnh đọc từng câu rời rã. Sự thung dung cần thiết lúc này để gây lại phấn khởi, để lấy lại niềm tin đã thiếu hẳn ở người hùng Pleiku. Cái vẻ phẫn nộ pha lẫn chán nản của tướng Vĩnh Lộc đã làm tôi buồn bã thêm.

    Tôi bỏ ra sân. Nghe tiếng xích xe tăng nghiến trên mặt đường, tôi mở cổng ra xem. Một đoàn xe tăng của ta từ hướng Tân Sơn Nhất chạy vào Sài Gòn. Bất chợt, một chiếc dừng ngay trước cổng nhà tôi. Những chiếc tăng phía trước và phía sau dừng lại. Ngã tư Công Lý-Yên Đổ đủ một chỗ trống cho xe hơi qua lọt. Người lính xe tăng mở nắp, cầm cái búa lớn nhẩy xuống đường. Chiếc tăng bị trục trặc. Bình tĩnh, người lính giáng những nhát búa. Chắc chắn, anh ta không nghe tướng Vĩnh Lộc kêu gọi tiếp tục chiến đấu. Người lính ấy, biểu tượng đích thực của quân đội, còn nguyên vẹn danh dự và trách nhiệm. Người lính im lặng làm công việc của anh ta. Hẳn nhiên, anh ta không hò hét. Nên, anh ta vẫn còn đây, trước cổng nhà tôi số 225 Bis đường Công Lý, sửa xích xe tăng một cách thản nhiên. Sự thản nhiên của người lính tôi đã không tìm thấy ở tướng Vĩnh Lộc trên vô tuyến truyền hình.

    Nếu "cái dũng của thánh nhân" đã biểu hiện rõ nét ở các ông tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, chắc chắn, những cái chết của các ông ấy đã phục sinh một ý nghĩa chiến đấu tuyệt vời. Chỉ tiếc các ông ấy tự sát quá vội vàng, tự sát chưa đúng lúc. Cần một tướng Nguyễn Khoa Nam có đủ cái thung dung tự tại phút nguy cơ, Vùng 4 đã là những chiến khu lý tưởng dẫu thất thế sau 30-4. Tuy nhiên, các ông tướng tự sát vẫn xứng đáng con nhà tướng "sinh vi tướng, tử vi thần", vẫn để lại những dấu ấn khó phai nhòa trong quân sử và trong lịch sử. Ông tướng Vĩnh Lộc quên cái dũng, vì ông pha trộn sự phẫn nộ Nguyễn Văn Thiệu, Cao Văn Viên và các ông tướng đào ngũ.

    (…)




    Cuộc di tản của trường VBQGVN

    Sau khi mãn mùa quân sự năm thứ 2 và bước vào mùa văn hóa, khóa 30 cũng như các khóa khác khi đi học văn hóa vẫn phải trang bị vũ khí đầy đủ để sẵn sàng tác chiến, vì tình hình chiến sự bên ngoài càng ngày càng trở nên khốc liệt. Ngày 29-4-1975, lúc 3 giờ chiều, trung đòan SVSQ được lệnh trở về doanh trại để chuẩn bị cuộc di hành xa với đầy đủ hỏa lực tác chiến. Khỏang hơn 4 giờ chiều, liên đội G, H rời khỏi trường Mẹ bằng cổng Nam Quan trên 4 chiếc GMC. Ra đi lần nầy chúng tôi không ngờ đây là lần vĩnh biệt ngôi trường thân yêu mà chúng tôi đã sống 1 năm 4 tháng 4 ngày 15 giờ.

    Liên đội G, H chúng tôi được đưa xuống bảo vệ Cầu Đất, còn các liên đội khác thì trải dài cho đến đập thủy điện Đa Nhim. Đến 7 giờ tối chúng tôi được lệnh của trung đoàn di chuyển theo hai bên lề đường để bảo vệ cho dân Đà Lạt di tản, chúng tôi đi bộ suốt đêm mãi đến 5 giờ sáng hôm sau chúng tôi mới qua khỏi đèo Sông Pha thuộc quân Đơn Dương và dừng quân tại đây chờ các liên đôi khác tập hợp đầy đủ.

    Vì liên đội G, H đi đầu nên chúng tôi có thời giờ nghỉ chân chờ cho cả trung đòan tập hợp đầy đủ dưới chân đèo Sông Pha. Tôi nằm đại bên lề đường, đầu gác lên ba lô đưa mắt nhìn chung quanh, bạn bè trong đại đội nằm rải rác khắp nơi….Nhìn đồng hồ tay tôi thấy kim chỉ 7 giờ 30 sáng, cả trung đoàn SVSQ được lệnh tập hợp và lần lượt lên xe GMC để tiếp tục cuộc hành trình hướng về Bình Tuy. Lần nầy cuộc hành trình của trung đòan SVSQ không lẻ loi vì có thêm vị chỉ huy trưởng của chúng tôi là Thiếu tướng Lâm Quang Thơ dẫn đầu mặc dù ông có sẵn trực thăng dành riêng cho ông.

    Sau này tôi không bao giờ quên được ngày 30-4, lúc 10 giờ 15 sáng, tôi chết lặng người khi nghe trên đài phát thanh tiếng của Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân nhân các cấp buông súng đầu hàng!!!

    (Phan Văn Lộc K30)




    Ngày cuối cùng của trường Bộ Binh Thủ Đức

    Ngày 22-4-1975, trường bộ binh và truờng võ bị (Đà Lạt) được lệnh di tản về Thủ Đức. Trường bộ binh chỉ di tản một nửa quân số về Thủ Đức, còn một nửa quân số ở lại Long Thành. Khi về đến Thủ Đức, trường bộ binh nhận trách nhiệm phòng thủ với các tiểu đoàn SVSQ. Đêm 26-4, Bắc quân mở cuộc tấn công trường bộ binh ở Long Thành. Trường thiết giáp thất thủ, quận Long Thành bị tràn ngập, trường Bộ Binh Long Thành trở thành tiền đồn ngăn chặn địch mà địch quân quyết phải thanh toán cho bằng được để tiến thẳng về Sài Gòn.

    Sáng ngày 30-4, vào lúc 8 giờ 30, đang chỉ huy phòng tuyến chính mặt xa lộ nghe báo cáo thấy đoàn xe thiết giáp và xe motolova của Bắc quân đang di chuyển trên xa lộ Biên Hòa tiến về Sài Gòn. Tôi gọi các pháo đội pháo binh 105 ly, 155 ly và 175 ly (1) chuẩn bị sẳn sàng. Đây là các loại pháo binh để yểm trợ tầm xa, mà Quân đoàn III gửi tạm ở đây. Nhưng trong giờ phút quyết liệt này, tôi dự trù sẽ sử dụng để bắn trực xạ. Súng 175 ly được đặt trên thiết giáp nên dễ dàng di chuyển, điều động. Bị sức kháng cự mạnh mẽ của trường bộ binh, nên Bắc quân liền đổi hướng tấn công xông thẳng vào trường bộ binh. Một chiếc thiết giáp T54 ủi sập chướng ngại vật ở cổng chính và chạy thẳng vào trong, vừa chạy vừa bắn loạn xạ. Lúc đó súng nhỏ bên ta bắn trả dử dội tóe lửa vào chiếc chiến xa. Tôi thấy rõ chiếc chiến xa khi nó tới gần, súng trên pháo tháp quay qua bắn sập Trung tâm hành quân, vì trên nóc TTHQ có nhiều cần ăng ten nên dễ thấy. Khi chiếc chiến xa này chạy xuống tới cổng số 9 thì gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của các SVSQ giữ mặt hậu nên liền quay đầu chạy ngược lại. SVSQ thấy người lái chiến xa đứng lên dường như có ý định đầu hàng nhưng rồi lại ngồi xuống và lại tiếp tục bắn làm chết và bị thương một số SVSQ.

    Mặc dù chưa từng ra chiến trận nhưng tinh thần chiến đấu của các SVSQ rất hào hùng. Khi nó chạy tới khu tiếp tân gần miếu Tiên Sư thì bị ĐĐ663/ĐPQ bắn đứt xích nằm tại chỗ, nhưng súng trên pháo tháp vẫn còn quay bắn lung tung. Liền đó có một SVSQ thuộc Tiểu đoàn 1 SVSQ, đang ở phòng tuyến gần đó, nhanh nhẹn bò ra leo lên pháo tháp và liệng một quả lựu đạn vào bên trong xe tiêu diệt hẳn. Lục soát trong xe thấy chân xạ thủ bị khóa xích trong xe.

    (…)

    (1) Pháo binh địch trụ lại tại căn cứ Thủ Đức dùng hỏa lực súng cối và súng chống tăng M72 chặn đánh và chia cắt đội hình Tiểu đoàn xe tăng 5 (Lữ đoàn 203). Một phân đội của Lữ đoàn 203 liền kéo vào tiêu diệt nhóm pháo binh này. Tại đây xe tăng 707 của lữ đoàn đã phải chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và người cuối cùng. Đến 9 giờ sáng 30-4, sau khi dồn bộ phận còn lại của đối phương vào trong căn cứ Thủ Đức, Tiểu đoàn 5 để lại cụm quân này cho Trung đoàn 18 của Sư đoàn 325 xử lý và đuổi theo các đơn vị đi đầu lúc này đã đến cầu Sài Gòn.

    Sau khi đánh tan sức kháng cự của 8 xe tăng có sự phối hợp của 6 tàu chiến hải quân địch đậu tại Tân Cảng, cụm đột kích sâu nhanh chóng vượt qua cầu Sài Gòn tiến vào đường Hồng Thập Tự tìm đường vào dinh Độc Lập. (Nhật ký chiến trường - Nguyễn Hữu An)




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    Người lính đã sửa xong xích tăng. Anh ta leo lên xe, chui xuống, đậy nắp. Đoàn xe tiếp tục chạy. Về đâu? Tôi không biết. Trở vô nhà, ông tướng Vĩnh Lộc đã đọc xong nhật lệnh. Màn ảnh vô tuyến truyền hình, bây giờ, chỉ còn cái dấu chỉnh hình tưởng chừng cái hình bát quái và giọng hát buồn nôn của mấy cậu sinh viên tranh đấu nhai đi, gặm lại ca khúc Nối vòng tay lớn, thỉnh thoảng bị đứt khúc bởi tiếng nói đắc thời của Lý Quý Chung, tổng trưởng thông tin nội các Vũ Văn Mẫu? Tôi vội tắt ti vi.

    Tôi cảm giác thời gian ngừng lại. Khi tôi mong trời vỡ sáng thì trời không muốn vỡ sáng.

    4 giờ sáng…

    Tiếng súng từ phi trường Tân Sơn Nhất vọng vào đã thưa thớt, nhưng tiếng phi cơ trực thăng vẫn ầm ĩ một góc trời thành phố. Tôi bật ti-vi. Màn ảnh nhỏ trắng xóa. Không có cái bất ngờ như tôi tưởng tượng. Tôi đâm ra tương tư người lính sửa xe tăng trước cửa nhà mình tối qua và ông tướng Vĩnh Lộc. Tôi mở radio. Giới nghiêm 24 trên 24 kể tử 0 giờ ngày 30-4-1975.

    Lệnh giới nghiêm không thay đổi. Tôi tắt ngay radio để khỏi bị nghe Nối vòng tay lớn và giọng tanh tưởi của Lý Quý Chung luận về tình nghĩa Trung Nam Bắc. Có vẻ như thằng ở giữa đần độn này muốn mở đường chào đón "người anh em bên kia" của đám hàng thần lơ láo của cái chính trường vỏ tôm Sài Gòn những ngày tháng tư.

    (…)




    Ngày cuối cùng của trường Bộ Binh Thủ Đức

    Và liền sau đó không lâu vào khoảng 10 giờ 15 phút thì nghe lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố ngưng bắn chờ lệnh bàn giao. Sau đó đại tá Minh ra lệnh cho tôi gọi cho các đơn vị ngưng chiến đấu. Tôi bỏ về phòng thay đồ dân sự và lập tức lấy xe gắn máy phóng nhanh ra cổng, vừa lúc địch quân cũng vừa vào tới.

    Những giờ phút cuối cùng của trường bộ binh, tôi xin trích đoạn trả lời của Đại tá Trần Đức Minh, vị chỉ huy trưởng cuối cùng của trường bộ binh. Ông kể lại:

    "Khoảng hơn một giờ sau khi im tiếng súng, đại diện của một đơn vị Bắc Việt đến, họ yêu cầu tôi thi hành lệnh của tổng thống và chuẩn tướng Hạnh để bảo đảm không nổ súng nữa. Trong khi nói chuyện, đại diện quân Bắc Việt yêu cầu tôi triệu tập các chỉ huy trưởng trong Huấn khu Thủ Đức đến gặp họ. Sự việc diễn ra rất ngắn ngủi, chỉ có khoảng vài trăm người mặt mày ngơ ngác, bần thần. Rồi loáng một cái, chẳng còn ai mặc quân phục nữa. Sinh viên si quan mặc đồ dân sự lủi thủi lê chân ra phía cổng chính. Chiều hôm đó đến lượt tôi trút bỏ quân phục…"

    Viết để nhớ lại ngày 30-4-1975.



    (Nguyễn Ngọc Thạch K20)




    Chuyện thời hậu chiến

    Vượt biên, hắn không quên mang theo cái lon ngày xưa đính trên ve áo của hắn. Hai mươi năm sau, hắn bị buộc phải lựa chọn: hoặc hắn phải tìm một cái lon khác với cấp bậc cao hơn cho xứng với tuổi tác của hắn. Hoặc hắn phải trẻ lại, cứ mãi mãi ở lứa tuổi hai mươi, khi hắn mới ra trường Bộ binh Thủ Đức. Lương thiện, hắn chọn giải pháp thứ hai. Từ đó, hắn không lớn nữa.

    (Website Tiền Vệ - Truyện cực ngắn hay Truyện chớp)




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    4 giờ 30 rồi…

    Tôi mở cổng ra vỉa hè, nhìn xuống cầu Công Lý, nhìn lên dinh Độc Lập. Đường phố vắng hoe. Trời lất phất mưa. Không phải sương rây. Sẽ xảy ra chuyện gì những giờ sắp tới? Tôi trở vào nhà, rất mong những người lính Sài Gòn làm Sài Gòn thành một Stalingrad. Chúng ta đã có những ngày Hà Nội dân chúng đốt cháy phố phường, đục tường nhà này xuyên qua tường nhà nọ, sống với thủ đô, chết với thủ đô. Tôi mong được chết bởi đạn quân thù khi đang chiến đấu.

    Trong những phút giây mà mạng sống như sợi chỉ treo mành, rất hiếm những con người còn dám ngẩng mặt. Những người này chung thân im lặng, đôi khi còn xấu hổ nếu có ai nhắc đến thái độ sống của mình, dẫu để vinh tôn. Vì khan hiếm những con người dám ngẩng mặt nên chúng ta thừa những con người mê muội thèm khát quyền bính đến quên cả thế lẫn thời. Lời thóa mạ nào dành cho những kẻ trí thức bám quanh Vũ Văn Mẫu bon chen danh vọng giờ thứ 25? Những tổng trưởng của Vũ Văn Mẫu rồi cũng vào tù. Và cũng muối mặt nhận mình là tù nhân tư tưởng! Tôi muốn quên hết, quên hết, quên cả những thảm cảnh đồng bào tôi di tản về đất hứa Phú Yên và bị ở lại với cộng sản. Đồng bào tôi xuống tàu từ Đà Nẵng tới Phan Thiết. Quên để mường tượng một Sài Gòn sắp biến thành Stalingrad vài giờ nữa.

    5 giờ…

    Tôi đã trải qua 300 phút của ngày dài nhất. Ngẫu nhiên, tôi trở thành chứng nhân của thời đại tôi, một chứng nhân không thích rườm rà chi tiết, một chứng nhân chỉ khoái vắn tắt từng sự kiện và suy diễn những sự kiện theo kiến thức hữu hạn của mình. Nhưng luôn luôn sáng tạo, cố gắng sáng tạo. Rất nhiều khi chứng-nhân-tôi quên hẳn những sự kiện quan trọng mà chỉ nhớ những sự kiện vớ vẩn. Người viết tiểu thuyết khác người viết lịch sử ở chỗ đó. Người viết tiểu thuyết thường khám phá ra ở sự kiện vớ vẩn cái vóc dáng đẫy đà và quan trọng hơn cả sự kiện quan trọng dưới mắt sử gia. Tôi mê huyền sử, dã sử nặng gấp bội chính sử, ngoại sử. Giản dị lắm, huyền sử và dã sử không thèm quan tâm tới niên biểu. Thế mà tôi lại quan tâm tới niên biểu của một ngày dài nhất đầu tiên trong đời tôi đã trôi mút mít 20 năm.

    (…)




    Quân sử ngoại truyện

    Trận đánh Nước Trong…

    Ngày 26-4, Quân đoàn 2 tấn công căn cứ huấn luyện thiết giáp Nước Trong, đánh chi khu Long Thành. Ngày sau đó ta đánh chiếm thị xã Bà Rịa và Vũng Tàu.

    Quân đoàn 2 sử dụng Sư đoàn 304 mở màn cuộc tấn công vào cụm Long Thành-Nước Trong, đánh bật được lính thủy quân lục chiến địch. Đến đêm 26-4, Sư đoàn 304 chỉ chiếm được trường thiết giáp, chưa giải quyết được khu vực trường Bộ Binh Long Thành.

    Chiều ngày 27-4, với mũi thứ yếu, Sư đoàn 3 Sao Vàng, Trung đoàn 141 của sư đoàn này và Đại đội xe tăng 4 có pháo binh yểm hộ đã đánh chiếm được thị xã Bà Rịa.

    Ở Vũng Tàu, Sư đoàn 3 Sao Vàng phải rút lui. 16 giờ ngày 29-4, Sư đoàn 3 trở lại và cũng chiếm được thị xã Vũng Tàu.

    (Nhật ký chiến trường - Nguyễn Hữu An)




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    Thường lệ, vào giờ này, sinh hoạt chợ Xóm Lách đã ồn ào. Hôm nay im vắng. Tôi lại mở cổng ra đường. Bước sát cột đèn lưu thông, tôi đứng ở ngã tư Công Lý-Yên Đổ. Lần đầu tiên, từ hai mươi năm khôn lớn tại Sài Gòn, tôi được nhìn Sài Gòn buồn bã. Như thể Sài Gòn choàng khăn tang và hồi chuông cáo phó đã đọng trên đầu cỏ, ngọn lá. Con phố Công Lý, con đường của VIP, nườm nượp xe cộ từ tan giới nghiêm đến bắt đầu giới nghiêm, hôm nay, vắng ngắt. Tôi mơ hồ thấy, trong hiu quạnh khôn cùng của ban mai Sài Gòn 30-4, những lời giối giăng đứt khúc. Chắc chắn không có sóng ngầm. Chắc chắn không có Stalingrad ở Sài Gòn. Không có một dấu hiệu nào chứng tỏ thành phố chuẩn bị nghênh giặc. Tôi đã thất vọng. Tôi đã tuyệt vọng. Não nề hơn, tôi đã thất tình với cuộc chiên đấu mơ ước. Với Dương Văn Minh và đám cỏ đuôi chồn, không bao giờ có chiến đấu, dù chiến đấu để chết đẹp, chết xứng đáng làm người. Tôi tự trách tôi ngu xuẩn đã không chịu suy diễn sự dọn đường quỳ mọp của Lý Quý Chung, phát ngôn viên chính thức của Dương Văn Minh. Tôi ngu xuẩn hay tôi giống người sắp chết đuối với được cái phao giới nghiêm 24 trên 24?

              

              

    Chúng tôi đậu xe sát lề đại lộ Thống Nhất, ngay cửa tư thất của ông đại sứ Pháp tại Sài Gòn, thả bộ lên tòa đại sứ Hoa Kỳ. Trực thăng lên xuống đều đặn. Thủy quân lục chiến Mỹ mặc áo giáp, tay trần, kè kè M16. Chúng tôi lái xe ra bến Bạch Đằng. Những con tàu nghiêng lệch về một bên đã đi cả rồi. Cái phà qua Thủ Thiêm còn sang ngang. Và trên sông, những chiếc ghe chèo, ghe máy đuôi tôm vẫn thản nhiên xuôi ngược.

    Chúng tôi trở lại Sài Gòn. Các cửa hiệu khu phố Lê Lợi, Tự Do, Nguyễn Huệ đóng cửa. Ở những căn nhà lầu, cửa sổ mở tung và những khuôn mặt ngó xuống nhìn Sài Gòn dáo dác. Khác với Sài Gòn ngày 11-11-1960, khác với Sài Gòn buổi chiều trước 1-11-1963, Sài Gòn sáng 30-4-1975 là ngày hân hoan dấu kỹ, là ngày ngơ ngác phô ra, là ngày sợ hãi hiện rõ. Trời u ám. Người ủ ê. Hơn 8 giờ mà mặt trời còn ẩn kỹ. Không một sợi nắng. Có ba ngày lạ lùng trong tháng 4. Hôm tên phi công phản phúc oanh tạc dinh Độc Lập, trời lất phất mưa. Hôm Dương Văn Minh "lên ngôi" tổng thống, trời lất phất mưa. Và hôm nay, trời u ám lạ thường. "Khí trời u uất hận chia ly".

    Câu thơ này đã diễn tả chính xác Sài Gòn buổi sáng 30-4-1975.

    (…)




    Giờ phút cuối của một đơn vị dù

    Đúng 10 giờ sáng ngày 30-4-1975, tôi nhận được lệnh rút lui, lúc đó đại đội của tôi là tuyến đầu của tiểu đoàn tại Hóc Môn. Đang di chuyển tôi được lệnh: Về Sài Gòn chờ lệnh. Không thu chiến lợi phẩm, bảo toàn lực lượng. Tôi trả lời: Hiểu và thi hành. Chúng tôi rút về tới ngã ba Bà Quẹo, một giờ vất vả và vô sự. Đơn vị chúng tôi tiếp tục di chuyển về ngã tư Bảy Hiền.

    Một số phóng viên ngoại quốc bu lấy tôi hỏi đủ chuyện. Lúc đầu tôi trả lời bằng tiếng Anh: Tôi không biết. Nhưng sau đó một phóng viên ngoại quốc hỏi tôi bằng tiếng Việt:
    • - Anh thuộc đơn vị nào?
      - Nhảy dù.
      - Tôi muốn hỏi anh thuộc tiểu đoàn nào?
      - Anh cứ biết một tiểu đoàn nhảy dù đủ rồi.

    Thấy tôi không muốn trả lời họ không hỏi nữa. Họ thi nhau chụp hình đơn vị đang rút của tôi rồi bỏ đi về hướng tiền quân. Nhảy dù! Không hiểu ai đặt ra cái luật khắt khe: "Không được tự ý trả lời phóng viên dù là tên của mình". Quý vị thấy những đơn vị bạn có những tên thật đẹp như Cọp Vằn, Hắc Báo, Kình Ngư, Đại Dương, v…v…Nhưng nhảy dù có những tên quái dị như: Con Gà tử mị, Sư Tử mắc nước, Con Cù lần, v…v…Còn tên các tiểu đoàn trưởng như: Trưởng ấp, Xã trưởng, Bồi bàn, Cao bồi, v…v…Đại đội trưởng: T…sốt rét, N. lai, H… ghẻ, v…v…

    (Nguồn: tác giả ghi tên tắt là H.)




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    8 giờ 15 phút…

    Chúng tôi trở lại tòa đại sứ Mỹ…Lính Mỹ vẫn lạnh lùng canh gác. Con nít ngủ la liệt trên vỉa hè. Cụ già dựa lưng vào tường, nửa thức nửa ngủ và nửa mơ màng thiên đường Mỹ. Chúng ta tìm về đất hứa không có Moise hướng dẫn, không có Moise đầy phép tích nên chúng ta bệ rạc nằm, ngồi ngổn ngang trước toà đại sứ Mỹ, chúng ta ăn báng súng, ăn xô, ăn đạp.

    8 giờ 17 phút…

    Bất thần, thủy quân lục chiến Mỹ rút hết một lượt vào bên trong tòa đại sứ. Dân di tản nhất loạt đứng dậy. Cụ già tỉnh táo. Con nít thức giấc. Mọi người chờ đợi một "biến cố...

    8 giờ 25 phút…

    Không thể chờ đợi lâu hơn, nóng ruột lắm rồi. Dân di tản leo tường vào, xô cổng vào. Chiếc trực thăng bay lên đúng 8 giờ 30 phút. Dân di tản đã ùa vô đầy sân tòa đại sứ, không có chiếc trực thăng nào xuống, không còn chiếc trực thăng nào xuống nữa. Năm phút, mười phút, rồi ba mươi phút. Trực thăng hết vần vũ trên một góc trời Sài Gòn. Chiếc trực thăng cuối cùng rời Sài Gòn hồi 8 giờ 30 phút. Có thể, chuyến đó mang ông đại sứ Martin, các nhân vật của tòa đại sứ, và lính thủy quân lục chiến Mỹ ra khơi.

    Dĩ nhiên, ông đại sứ Martin đã không quên gấp lá cờ sao xọc vuông vắn, bê theo, bước lên tàu bay. Thế giới có thể mường tượng cảnh cuốn cờ bỏ chạy của đại sứ Martin qua hình ảnh đại sứ John Dean cuốn cờ bỏ chạy khỏi Nam Vang đã đăng trên báo chí.

    9 giờ…

    Tôi bảo Đặng Xuân Côn thả tôi xuống trước rạp Kinh Thành. Côn chạy về Phú Nhuận. Mình tôi đứng bên dãy phố Hai Bà Trưng nhìn sang vỉa hè bên kia, buổi sáng Tân Định. Chỗ đó, vài hôm trước, tôi vừa gặp anh Trần Kim Tuyến, sơ-mi bỏ ngoài, giép Nhật Bản, thất thểu đi.
    • - Anh đi đâu đấy, anh Tuyến?
      - Đi đâu?

    Ông giám đốc sở nghiên cứu chính trị, "tên trùm mật vụ ác ôn thời Diệm" thở dài.
    • - Chúng ta đã chống cộng. Riêng tôi thì cứ ngoác miệng đòi "chống cộng đến chiều". Và rồi chúng ta hỏi nhau đi đâu. Anh sẽ đi đâu, anh Tuyến?
      - Chẳng hiểu.
      - Mỹ nó không đón anh à?
      - Không. Còn cậu? Cậu định đi đâu?
      - Chẳng hiểu, anh ạ!

    10 giờ 20 phút…

    Chuông điện thoại reo:
    • - Long hả?
      - Ừ!
      - Chúng nó đã lảng vảng khu nhà tao rồi. Tao lên mày nhé?
      - Hỏi chi nữa!

    Tôi cúp điện thoại. Và, thật sự, kể từ phút này, tôi đã té nhào khỏi lãng du lênh đênh trên ước mơ, tôi hết dám thèm "thoát chết, bung ra". Tôi sợ hãi. Tôi trở về với sự sợ hãi.

    (…)




    Giờ phút cuối của một đơn vị dù

    Tôi cúi mặt tránh những ánh mắt ái ngại của đồng bào, lầm lũi bước đi trên đường Lê Văn Duyệt quen thuộc, trước cổng trại Thạch Văn Thịnh (TĐ2 Nhảy dù) con đường rộng thênh thang, không còn bóng người, chỉ còn lại chúng tôi và một số phóng viên ngoại quốc. Tới cổng Hoàng Hoa Thám tự nhiên chân tôi chồn lại, tưởng như một khối chì nặng nề níu chân lại.

    Đứng lại trong thế nghiêm tự nhiên, cay đắng nhìn cổng trại thân yêu, cách đây 10 năm tôi bước qua để chính thức trở thành lính Mũ Đỏ, chiếc cổng vô tri này nhưng ma lực của nó đã có sức hút vô cùng mạnh mẽ đối với chúng tôi ở lứa tuổi đôi mươi. Hình ảnh chiếc cổng hoang tàn với hàng rào concertina ngổn ngang như hoang phế lâu ngày, nhìn sâu vào trong trại, tôi thấy thấp thoáng những bạn bè, chiến hữu chúng tôi đang vội vã đi lại trong đó. Tôi không hiểu tôi đang là một thứ người gì, nhưng tôi đang đứng sững nghiêm chỉnh trước chiếc cổng như hình tượng cho một đơn vị, như thánh thần trong tâm khảm những ngày tung hoành ngang dọc.

    Tôi đưa tay chào chiếc cổng thân yêu, các phóng viên muốn thu hình này nhưng quá muộn, tôi lững thững bước đi như xác không hồn. Nước mắt tôi dàn dụa xen lẫn mồ hôi cay đắng, cơn nấc nghẹn ngào làm tôi nghẹt thở. Giã từ Hoàng Hoa Thám, giã từ đơn vị thân yêu, đơn vị đã được chúng tôi dâng trọn cuộc đời cho Hoàng Hoa Thám, dâng trọn cho đoàn quân Mũ Đỏ.

    Tôi nhắm mắt bước đi theo đoàn quân chậm chạp rút lui như tử tội nặng nề bước chân lên bực thang máy chém. Tôi cố gắng im lặng để thanh thản bước đi nhưng hình ảnh anh em bạn bè cứ soi mói nhìn tôi như oán trách.
    • - Thưa Đích Thân “Ba” vừa đánh cháy thêm hai chiến xa nữa. Tiếng của Hòa người mang máy cho tôi. (hiện nay Hòa đang ở Úc Châu).
      - Ở đâu? Tôi hỏi vắn tắt.
      - Ngã ba Bà Quẹo.

    (…)




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    10 giờ 30….

    Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Đặng Xuân Côn mở radio thật lớn. Tôi lặng người trong giọng nói cơm nguội của Big Minh. Tôi mất miền Nam từ giây phút này.
    • - Tắt radio đi, Côn?
      - Để nghe xem còn tin tức gì nữa.
      - Hết rồi.
      - Chưa.
      - Tôi bảo hết rồi. Tắt đi?

    Mỗi biến cổ lịch sử xảy ra thường kèm theo những chuyện ngoài lề. Và những chuyện ngoài lề được truyền kể, được thêu dệt thành huyền thoại. Một trong những chuyện ngoài lề dưới đây không phải là huyền thoại. Mà là chuyện ở quán cà phê vỉa hè sau ngày 30-4-1975. Người ta thuật cho nhau nghe, luận bàn và người ta không thèm quan tâm đến cái vô lý của câu chuyện.

    10 giờ, phủ tổng thống gọi đài phát thanh Sài Gòn, yêu cầu gửi gấp sang một chuyên viên ghi âm. Anh chuyên viên đem máy móc đến trình diện. Giám đốc báo chí dẫn anh tới phòng họp của tổng thống. Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng tại đây. Kẻ viết lệnh đầu hàng là Lý Quý Chung (1), Tổng trưởng thông tin của nội các Vũ Văn Mẫu, "danh sĩ" của môn phái hoa lan. Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng xong, anh đem băng về đài. Anh lái chiếc Honda 50…

    Anh lái chiếc Honda 50… về đài phát thanh Sài Gòn. Nếu anh chuyên viên ghi âm bị đụng xe chết giữa đường Thống Nhất. Tôi tin chắc rằng lịch sử khác đi một chút. Nó cũng sẽ bị sang trang nhưng không đến nỗi sang trong buồn tủi. Sẽ có máu, nhiều máu của Sài Gòn 30-4-1975.

    (…)

    (1) Tình hình càng ngày càng nguy ngập. Khoảng 8 giờ sáng 30-4, ba ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu không còn lựa chọn nào hơn là đơn phương tuyên bố "bàn giao chính quyền cho Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam". Ông Mẫu soạn lời tuyên bố mất khoảng một tiếng đồng hồ. (Hồi ký không tên - Lý Quý Chung)




    Giờ phút cuối của một đơn vị dù

    Tôi vừa băng qua Đại đội 1 của đơn vị, được lệnh trực chỉ theo đường Trương Minh Giảng về hướng Sài Gòn đến ngã ba Trương Tấn Bửu chờ lệnh. Dọc theo bên đường dân chúng ái ngại nhìn chúng tôi, người chạy theo lên hướng Sài Gòn, người ngơ ngác đứng nhìn. Tôi vừa dừng chân tại Trương Tấn Bửu, trước bót cảnh sát.
    • - "Hai" đánh cháy 1 chiến xa và 3 xe vận tải tại ngã tư Bảy Hiền, "Ba" đã qua lăng Cha Cả, cùng bộ chỉ huy tiểu đoàn. "Một" còn nằm tại chỗ.

    Tôi im lặmg nghe Hoà báo cáo.
    • - Thưa Đích Thân, “Hai” đã qua lăng Cha Cả.

    Cùng lúc đó tôi nhận được lệnh kiếm chỗ trống trải để tập họp cả tiểu đoàn. Cùng lúc đó Hòa báo cáo:
    • "1 vừa đánh cháy một chiến xa tại lăng Cha Cả và 2 xe vận tải".

    Vào khu Đại học Vạn Hạnh, tôi cho lệnh đứa con thứ tư của tôi đóng chốt giữ an ninh chung quanh khu đại học và từng đơn vị vào sân Đại học Vạn Hạnh tập họp chờ lệnh. Tôi thấy bọn băng đỏ lố nhố trong khuôn viên ĐHVH, chúng có vũ khí nhưng không một tên nào dám nhố nhăng, vì sau chúng có anh em của tôi kềm súng sẵn sàng hỏi tội chúng. Nhưng vị anh cả của chúng tôi im lặng, lầm lì quan sát, tôi thấy môi anh mím chặt, cặp mắt giận dữ nhìn chúng nhưng chưa một phản ứng, thì một tên mặc áo tu hành tay cầm loa đưa ngang miệng dõng dạc:
    • Đất nước đã thống nhất, yêu cầu các anh em nhảy dù hãy buông súng trở về với cách mạng, cách mạng sẽ khoan hồng cho anh em.

    Phản ứng tự nhiên, tôi rút súng chĩa về phía hắn, hắn thụt lùi vào trong hành lang, và hàng trăm cây súng sẵn sàng nhả đạn. Nhìn lên những anh em trên cao ốc, tôi thấy anh em đều chĩa súng sẵn sàng chờ lệnh. Tôi biết rằng nếu tôi siết cò súng là súng nổ rền trời ngay lập tức. Anh cả của chúng tôi im lặng, đứng sững như trời trồng, sau đó anh cho lệnh Đại đội 1 tìm bãi đất trống trải để tập họp tiểu đoàn, và cả đơn vị rút ra khỏi khu ĐHVH. Đại đội tôi đi sau cùng, tôi rút ra khỏi khu mà phải đi giật lùi như trong vùng địch, cẩn tắc biết đâu bị bắn lén.

    (…)




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    10 giờ 40…

    Sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, Đặng Xuân Côn và tôi ra vỉa hè trước cửa nhìn Sài Gòn chờ đợi lính ông Hồ từ Bắc vào. Trời hết âm u, nhưng vẫn chưa có nắng. Vẫn thiếu nắng vàng rực rỡ. Dân xóm Lách kéo lên. Lề đường Công Lý, gần nhà tôi đông nghẹt.

    Một toán quân xuất hiện. Quân ta. Tôi đếm: 19 người. Mười chín người lính mặt cúi gầm, lầm lũi bước. Tối hôm qua, tôi đã thấy quân ta ngang qua đây. Quân ta và xe tăng. Hình ảnh người lính sửa xích tăng đã in vào tiềm thức tôi.

    11 giờ…

    Một bà mẹ hớt hơ hớt hái, từ dốc chợ xóm Lách, chạy lên đuổi theo toán quân. Bà mẹ già ôm chặt lấy một người lính:
    • - Hết chiến tranh rồi. Về thôi, con?

    Người lính cố gỡ nhẹ tay mẹ mình ra:
    • - Con không về được.

    Bà mẹ khóc. Bà mẹ khóc tức tưởi:
    • - Sao vậy? Có lệnh hàng rồi mà.

    Người lính lắc đầu.
    • - Con không thể về được.

    Bà mẹ rên rỉ:
    • -Bỏ hết đi con, về với má.

    Người lính gỡ mạnh tay mẹ mình ra:
    • - Má về đi, con phải theo các bạn con.

    Người lính chạy nhanh để bắt kịp các chiến hữu. Bà mẹ đứng bên đường mắt đẫm lệ, nhìn theo con mình...


    ***

    - Rồi người lính có về không?

    Đó là câu hỏi của ký giả Patrick Sabatier của nhật báo La Libération đã đến tận nhà tôi ở Ivry sur Seine phỏng vấn tôi để làm số báo đặc biệt cho ngày 30-4-1985.
    • - Tôi không biết, ông Patrick ạ! Sau 6 năm tù đầy trở về, tôi hỏi thăm người xóm Lách, được rõ là bà mẹ còn sống, và người con vẫn biệt tăm...
      - Anh ta đi đâu?

    Số báo đặc biệt của La libération, một tờ báo khuynh tả đã đăng bài báo có tựa đề: "Rồi người lính có về không?" vào ngày 30-4-1985.

    (…)




    Giờ phút cuối của một đơn vị dù

    Vùng tập họp mới của chúng tôi ngay tại ngã tư Yên Đổ và Trương Minh Giảng. Chúng tôi vừa vào hàng ngũ, đơn vị nghiêm chỉnh trình diện anh cả của đơn vị.

    Anh cả của đơn vị gương mặt thiểu não nói trong nghẹn ngào. Tôi có cảm tưởng như tiếng nói của anh bị đứt đoạn nhiều lần: Tôi xin chào tạm biệt các anh em. Xin báo cho các anh em biết chúng ta đã nhận được lệnh buông súng đầu hàng. Tôi điều động anh em đến đây để bảo với anh em một lệnh cuối cùng:
    • "Chúng ta chào tạm biệt nhau tại đây ai về nhà nấy, tất cả quân trang, quân dụng tuỳ anh em định liệu, quyền chỉ huy của tôi đến đây đã chấm dứt.

    Cả đơn vị im lặng không một tiếng xì xào bàn tán.

    Chúng tôi lặng người trong ngỡ ngàng tột độ, những lời lẽ thiếu mạch lạc của anh cả phát ra từ xúc động. Tiếng nói của anh chấm dứt sau vài phút đơn vị vẫn đứng im. Cả hàng quân đang im lặng, anh cả vẫn còn đứng đó, anh đang cúi mặt. Cái im lặng xa vắng, cái im lặng khủng khiếp. Tôi cũng đã biết giờ phút này phải đến, nhưng không ngờ nó đến trong bẽ bàng thế này!!! Nhìn hàng quân súng đạn còn đủ dùng, mặt mũi âu sầu. Cơn đau đớn ê chề xâm chiếm dần dần như làn hơi thổi vào chiếc bong bóng tới độ không chịu được phải phát nổ.

    Thình lình T., một trung đội trưởng của tôi, nước mắt dàn dụa nhảy ra ngoài hàng quân, T. dơ cao trái lựu đạn và nói to:
    • "Các anh em của tôi hãy tan hàng, để một mình tôi ở lại thôi",
    T. vừa nói xong khoảng 10 anh em vừa bước tới chỗ T. vừa nói:
    • Để tụi em chơi chung với.

    Bất chợt hai tiếng lựu đạn nổ chát chúa...

    Tổng cộng 11 anh em đã ôm nhau từ giã, Trong số 11 anh em cấp bậc lớn nhất là thiếu úy trung đội trưởng, người cấp bậc nhỏ nhất là binh nhì khinh binh.

    (Nguồn: Tác giả ghi tên tắt là H.)





    http://chimviet.free.fr/lichsu/phingoch ... Ky15_a.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

"Dò sông dò biển dễ dò - mấy ai lấy thước mà đo lòng người" - 'Mặt Hoa Da Phấn'

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          





"Dò sông dò biển dễ dò
mấy ai lấy thước mà đo lòng người"

-
'Mặt Hoa Da Phấn'


thienthuntth



Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”