- 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

30 tháng Tư

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  • 30 tháng Tư
    Nguyễn Thụy Long





    Lại sắp đến ngày 30 tháng Tư, trên đất nước tôi nhà cầm quyền phát động ì xèo kỷ niệm ngày “chiến thắng vĩ đại, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Từ cả tháng trước, ngày nào người ta cũng nhắc đến chiến thắng ấy của dân tộc, phỏng vấn những tướng lãnh chỉ huy trận đánh về chiến lược, chiến thuật, những chiến sĩ anh hùng, tất cả đều được đưa lên báo đài, cả những trang web bay đi khắp thế giới. Buổi sáng tôi dậy sớm nghe đài nước ngoài, chương trình Việt ngữ, nhưng bị phá sóng nhiều quá, nghe câu được câu không. Cũng ngày ấy cộng đồng người Việt trên khắp thế giới làm kỷ niệm, nhưng gọi bằng nhiều cách khác nhau, Ngày Quốc Hận, Tháng 4 Đen hay gì đó còn tùy.



    Cũng ở trên đài Á Châu Tự Do tôi nghe cuộc phỏng vấn một đạo diễn trẻ người Việt Nam ở nước ngoài, làm một cuốn phim về ngày bại trận 30 tháng Tư lấy tên là ngày giỗ. Anh và các bạn anh thiếu thốn rất nhiều tư liệu về ngày hôm ấy, nhưng chắp vá và lấy kỷ niệm của những người lớn chứng kiến vào thời ấy rồi cũng xong. Bởi tại ngày anh ra đi, rời Việt Nam anh còn quá trẻ, tuổi đâu khoảng 13 hay 14 chi đó, nhất là anh không có kinh nghiệm tham gia vào cuộc bại trận ấy.



    Người đạo diễn thanh niên này còn có tham vọng làm cuốn phim khác nữa sau khi chế độ Việt Nam Cộng Hoà xụp đổ, về những trại tù khổ sai mà người ta gọi là trại cải tạo. Tôi hy vọng anh ta và nhóm của anh có tâm huyết thì cũng xong, có thể thành công. Việt Nam trong cuộc chiến vừa qua có rất nhiều tư liệu quý giá, tôi đã dược xem một cuốn phim do Mỹ sản xuất lấy tên là Trời và Đất. Cuốn phim đã nói lên được thân phận Việt Nam giữa các thế lực, thân phận con người Việt Nam đáng thương.



    Tôi là một người Việt Nam, sống và lớn lên, trưởng thành trong thời buổi ấy, thời buổi đau thương nhất của đất nước, nay lại sống suốt 29 năm trong chế độ, sắp sửa 30 năm, chưa một lần bị ngắt quãng, vì không ra nước ngoài, hay đi đâu xa khỏi Việt Nam. Tôi là dân bại trận ở lại Việt Nam. Tôi không có gì ca tụng về ngày 30 tháng Tư ấy, nhiều đau thương hơn thì có, gia đình tôi ly tán cũng vào ngày ấy. Đàn anh của tôi nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm nhật báo SỐNG bị giết chết vì đạn pháo kích lúc 10 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, trên chiếc tầu di tản mới chạy thoát ra được đến cửa biển Cần Giờ.



    Hàng năm tôi chúng tôi làm giỗ anh Chu Tử vào ngày đó, sau này không biết vì lý do gì, đổi sang ngày âm lịch là ngày 19 tháng ba (trùng với ngày 30-4-1975). Có phải vì người ta đang ồn ào làm lễ kỷ niệm chiến thắng mà mình lại làm giỗ, than khóc và tưởng nhớ đến người đã chết là chướng quá không, vì vậy gia đình ông Chu Tử mới đổi ngày giỗ cho yên. Tôi cũng không bỏ một buổi giỗ nào của ông Chu Tử, dù có đổi ngày, nhưng dù làm vào ngày nào anh em chúng tôi ngồi với nhau, nhắc lại và nói về những kỷ niệm là ngày 30 tháng Tư năm 1975, gia chủ tổ chức giỗ ông Chu Tử cũng không có ý kiến gì, buổi giỗ ấy anh em chúng tôi tự do hoàn toàn. Những buổi giỗ ông Chu Tử sau này vắng bóng dần những người anh em thân thiết của ông, người thì ốm đau bệnh hoạn đi không nổi, người thì đã “dạo chơi tiên cảnh” khỏi “cõi tạm” đầy đau thương này. Như Tú Kếu, như nhà văn Mặc Thu, như ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương, vì ông mới qua đời.



    Nhà báo Phan Nghị ở buổi giỗ nào còn oang oang kể lại kỷ niệm với chủ nhiệm Chu Tử, nay cũng đã vắng bóng anh. Một đàn em thân thiết như Đông con tuổi còn rất trẻ cũng không còn nữa. Nhưng buổi giỗ vẫn đông đảo, tôi thấy có những anh em từ nước ngoài trở về, những Việt kiều đó ra đi do vượt biên hay diện HO, những điện thư từ khắp nơi trên thế giới gửi về cho gia đình con cái ông Chu Tử để tưởng nhớ ông.



    Tôi đã qua 29 lần kỷ niệm vể ngày 30 tháng Tư trên đất nước “Xã Hội Chủ Nghĩa VN”, kể ra thêm mệt nhưng không thể không kể. Tôi kiêu hãnh nói rằng tôi là một trong những nhân chứng lịch sử, tôi vừa là nhà văn nhà báo, nói có nhận xét, dù rằng cái nhận xét của riêng mình, nhưng đúng về mặt người cầm bút thì phải công bằng và chính xác, tôi phục vụ cho nghề nghiệp và lý tưởng của nhà văn nhà báo chân chính, không phục vụ hoặc làm bồi bút cho tổ chức hay đảng phái nào đó.



    Đối với tôi thì ngày 30 tháng Tư nào tôi cũng buồn, một người Việt Nam đang sống trên quê hương mình, tôi tự hỏi, được chứng kiến những giây phút lịch sử trọng đại, đất nước Việt Nam thống nhất quang vinh như thế mà buồn sao?



    Sau đợt lùa những sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hoà bại trận đi học tập cải tạo, đến lượt văn nghệ sĩ chế độ cũ, và các vị chức sắc tôn giáo vào những trại tập trung dài dài từ Bắc chí Nam. Các ông cai ngục, cai tù được gọi là quản giáo, cán bộ dậy bảo, giáo dục cho các phạm nhân lầm đường lạc lối hiểu biết đường lối của đảng, của cách mạng, và không ai có án rõ ràng, khi được tha về phạm nhân được phát cho cái giấy ra trại. Đọc qua giấy này họ mới té ngửa ra, lúc ấy mới biết tội danh của mình và thời gian học tập cải tạo là bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng có khi còn bị ăn gian. Còn người ở lại được nhà trại nói lấp lửng chừng nào “học tập tốt” thì về. Có người phải ở trong tù vài chục năm vì bị nhà nước cho rằng họ chưa được tốt. Tôi không hiểu người ta dựa vào tiêu chuẩn nào gọi là tốt và xấu để giam giữ người vài chục năm như vậy, với lời kết án thật mơ hồ.



    Tôi bị bắt nóng ngoài đường, không bị liệt vào hàng ngũ văn nghệ sĩ phải học tập cải tạo, mà với một tội danh khác, tổ chức phản động, một tội rất dễ chết. Khốn nạn cho cái thân tôi, thời chế độ cũ đi lính binh nhì không xong, mà nay lại là người tổ chức chỉ huy một trung đoàn, có tên trung đoàn Quyết Thắng trong hồ sơ phản động của tôi. Tôi bị tra tấn, bị đánh và những người tra tấn tôi ngày nào cũng bắt tôi phải khai ra cái trung đoàn Quyết Thắng này ở đâu! Vì bỗng nhiên mình lại mang một tội danh “oai” như thế, một trung đoàn trưởng, nên tôi cũng phải phì cười ra nước mắt sau những trận đòn tra tấn thừa chết thiếu sống.



    Tôi cũng không biết người ta phong cho tôi, chức gì, cấp bậc nào, tướng hay tá trong trung đoàn mà tôi bị đứng vào hàng “chủ xị”. Một trung đoàn không có quân số, không doanh trại, không có cả chiến khu kháng chiến. Bản lấy cung của tôi bị bỏ dở dang, không có tôi ký tên nhận tội. May quá thế là tôi thoát chết, tôi đã thấy nhiều người bị chết, bị mang ra xử bắn vì những tội danh bá vơ ấy. Tôi nói với bạn bè đồng tù:

    – Dù tao có là thằng nhà văn nhà báo ngu dốt cũng không bao giờ đặt cái tên trung đoàn Quyết Thắng cho tổ chức quân sự của tao, vừa quê vừa thối. Ai cũng biết các khẩu hiệu quyết thắng, quyết chiến, quyết tử, quyết sinh là sản phẩm của các anh Việt Minh, các anh đã xài mòn teo ra rồi, từ thời kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp kia, rồi đến thời chống Mỹ cứu nước xài lại, nay không biết dùng làm gì nữa thì gán đại cho tao. Tao biết ngay các anh độc lắm, lại một trò chụp mũ buộc tội cho người khác để mang ra xử theo luật rừng.



    Tôi lênh đênh qua nhiều nhà giam ở thành phố, rồi mới bị đưa lên trại học tập trên rừng, an tâm học tập cải tạo ở nơi đó, bao giờ học tập tốt thì được về xum họp với gia đình. Nhà nước, nhà cầm quyền nói như thế. Chúng tôi ngắc ngoải sống trong lao động khổ sai, nhiều anh em kiệt lực gục xuống bỏ xác trong các trại tù. Thân phận chúng tôi như những nô lệ trong phim Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành hay những nô lệ xây Kim Tự Tháp Ai Cập.



    Nhiều lần lao động cuốc đất trúng mìn ngoài bãi lao động, mìn nổ thương vong vô khối người, nhưng được giải thích là mìn đó là của Mỹ Ngụy gài lại để giết nhân dân. Bây giờ chúng tôi có chết có thương vong thì cũng chỉ là “gậy ông đập lưng ông” thôi. Chúng tôi nhiều lần đề nghị với ban quản giáo xin được tự gỡ mìn để khỏi gây hại cho phạm nhân, nhưng được lãnh đạo trại “nhân đạo” từ chối, vì sợ mất thì giờ lao động sản xuất kiếm ra của cải cho đất nước chúng ta còn nghèo. Đồi nghĩa địa tù chật kín những mồ hoang của anh em chúng tôi. Sáng đi lao động, chiều về nhìn mặt trời gác bóng trên sườn núi Chứa Chan mới biết mình còn sống, mong sớm có ngày ra xum họp với gia đình.



    Tôi không nhớ rõ là mình ăn đến mấy cái ngày kỷ niệm 30 tháng Tư trong trại cải tạo, vì từng bị bắt lên bắt xuống, như bắt cóc bỏ đĩa, tha rồi lại bị bắt lại. Ngoài cái tội phản động, tôi còn tội phản quốc bỏ quê hương mà trốn đi, tức là tội vượt biên mà không thoát. Phải chi ngày đó tôi trốn thoát, thì bây giờ được nhà nước ưu ái gọi là Việt kiều khúc ruột ngàn dặm được phép trở về thăm quê hương, được nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Mấy anh Việt cộng từng đánh đấm bỏ tù, từng kết tội tôi là Việt gian sẽ ngọt ngào khuyên tôi nên hòa hợp hòa giải, quên đi chuyện cũ, đóng góp tất cả những gì tôi đang có để giúp cho đất nước quê hương Việt Nam mà các anh đang cai trị. Tôi đã thấy những cuộc tiếp đón long trọng, những Việt kiều trở về thăm quê hương được diện kiến những lãnh đạo trong nước và họ được huy chương, và được ca tụng vì những đóng góp của họ đã được truyền thanh truyền hình đi khắp mọi nơi. Họ thành người yêu nước, có ẩn chứa ý yêu và ủng hộ đảng CS cầm quyền.



    Trong trại học tập, ngày 30 tháng Tư mỗi năm được tổ chức xôm tụ lắm, mà anh em chúng tôi gọi là ngày “đứt phim”. Từ ba giờ sáng một số trại viên có tay nghề trong việc nấu nướng đã được điều lên nhà bếp để thọc tiết heo mổ bò làm đồ ăn, thổi cả cơm nữa, hương cơm phảng phất khắp trại làm các trại viên chúng tôi tỉnh cả ngủ, dù là hương gạo mốc, không phải gạo Nàng Hương chợ Đào. Những hương vị âm thanh hấp dẫn đó làm chúng tôi trở nên háo hức, vì chúng tôi là những kẻ thường xuyên ăn đói mặc rách, cả năm chỉ ăn khoai ăn sắn có biết cơm thịt là gì đâu, sức lao động bị vắt kiệt từng ngày, nay có cơm thì mừng quá. Bao nhiêu năm qua chúng tôi sống trong một miền Nam trù phú lúa thóc không bao giờ thiếu, người nông dân chỉ trồng một mùa cũng ăn được cả năm. Mà nay phải thèm và nhớ cơm, tưởng tượng cũng không ra được bát cơm nó thế nào? Tôi nói có quá không? Nhưng sự thật là vậy.



    Ngày hôm ấy chúng tôi được nghỉ lao động và sang ngày hôm sau là ngày quốc tế lao động 1-5, vị chi là hai ngày được ăn được chơi trong vòng rào giây thép gai. Chúng tôi được nghe chính trị viên của ban quản giáo giảng giải cho nghe ngày chiến thắng 30 tháng Tư. Nhưng chỉ là chuyện nước đổ đầu vịt, chúng tôi chỉ nghĩ đến kỷ niệm cũ của chúng tôi vào ngày ấy. Buổi trưa cả ngàn người tù chúng tôi – mỗi người được ăn một chén cơm, một miếng thịt heo hay thịt bò chi đó bằng ngón tay, chan tí nước xốt cho mặn miệng. Lòng lợn – tiết canh – thịt ngon miếng nạc mang lên nhà khung cho ban giám hiệu và thủ trưởng đơn vị xơi, uống rượu hút thuốc. Lòng nhân đạo của đảng vô biên, không thể nói hết được.



    Về phía các cải tạo viên chúng tôi thì sao, cũng chia ra mấy phe trong cuộc ăn uống ấy, không phải tranh nhau ăn, mà cách ăn uống cũng khác lạ. Có phe còn nặng lòng với chế độ cũ mà anh đã phục vụ, nay trở thành bại tướng trong ngày 30 tháng Tư, nhất định không ăn đồ ăn của “kẻ thù” ban phát mà ăn gì đó với muối. Phe thứ hai lấy đồ thăm nuôi của mình ra mời anh em ăn sạch. Phe thứ ba ăn ráo những gì được ban phát với lý luận: “Ta ăn thứ này là của ta làm ra, chẳng ăn chực thằng nào hết, gạo này chính ta làm ta cấy cầy, thịt này cũng chính chúng ta chăn nuôi, không ăn là dại. Ăn bám, ăn trên xương máu chúng ta là những thằng cai tù chứ không phải chúng ta. Lý luận nào cũng đúng cả, không ai đụng chạm tới ai.



    Anh chán đời ngồi quay mặt vào tường “diện bích” hết ngày 30 tháng Tư là chuyện của anh. Tự do của mỗi cá nhân được tôn trọng tuyệt đối, nên cuộc ăn uống ấy cũng diễn ra êm thắm, không phải tinh thần xôi thịt mổ cãi nhau như mổ bò ở các đình làng nhà quê. Dù sao tôi cũng nể phục các anh cải tạo chịu ăn cơm muối lắm, các anh còn có liêm sỉ và sĩ khí của một chiến sĩ, tôi không thể đánh giá thái độ ấy là sai hay đúng.



    Tôi lại nghĩ đến những anh hùng trong sử sách, đến một Hoàng Diệu, tuẫn tiết theo thành Thăng Long khi quân Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất. Một Nguyễn Tri Phương không chịu cho kẻ thù buộc vết thương khi Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ hai. Một Võ Tánh chất củi tự thiêu khi bại trận. Một Trần Bình Trọng thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương đất Bắc.



    Trong đời làm báo của mình, trong trận chiến cuối cùng ngày 30 tháng Tư, tôi đã thấy những người lính Nhẩy Dù trại Hoàng Hoa Thám ở ngã tư Bảy Hiền ôm nhau cho nổ lựu đạn để cùng chết bên nhau, sau khi có lệnh đầu hàng vô điều kiện của tướng Dương Văn Minh. Và sau đó nhiều tướng tá của chế độ Cộng Hoà ở miền Nam tự sát khi nghe lệnh đầu hàng của “tổng thống” tạm quyền.







    Tôi chắc chắn rằng sử sách có ghi lại, dù rằng chế độ ấy thua trận và bị bôi nhọ suốt bao nhiêu năm trời, bị vu cáo là có bao nhiêu tội lỗi với “nhân dân”. Chính sử không thuần ở trong tay kẻ chiến thắng, mà ở trong lòng mọi người trên đất nước này, không thể bóp méo, không thể như cục đất sét muốn nặn hình gì theo ý họ. Còn những thương binh của chế độ Cộng Hoà sau khi bại trận ngày 30 tháng Tư năm 1975 thì sao? Tôi đã thấy họ bị đuổi ra khỏi quân y viện Cộng Hoà chiều ngày 30 tháng Tư lịch sử ấy. Anh mù cõng anh què. Anh đổ ruột vịn vai anh cụt tay. Họ đi hàng hàng lớp lớp suốt một quãng đường dài, đau thương lắm, tiếc rằng không một phóng viên nhiếp ảnh nước ngoài nào chụp được một tấm hình. Cái máy hình của tôi chụp được mấy tấm thì bị đập bể tan nát, suýt nữa thì tôi nguy hiểm đến tính mạng vì những kẻ trở cờ theo đóm ăn tàn, hoặc những tên lưu manh mà xã hội nào cũng có, mà hồi ấy chúng tôi gọi cái đám ấy là cách mạng 30, nghĩa là mới gia nhập cách mạng vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Họ đang khao khát lập công để tìm cho mình một chỗ đứng, hoặc được một tí ân huệ bố thí.



    Tôi đã trải qua hai mươi chín cái ngày 30 tháng Tư, chỉ còn ít ngày nữa thì tròn 30 cái ngày kỷ niệm. Sao trong đầu tôi lẩn quẩn hoài về những kỷ niệm đau thương ấy. Những người thương binh của chế độ Cộng Hoà sau khi bi đuổi ra khỏi quân y viện Cộng Hoà. Họ đi về đâu? Mắt tôi nhìn thấy có những người thương binh kiệt lực, kiệt sức ngã ngay trên đường đi, trên lối cổng ra vào quân y viện và tôi đã nhìn thấy những giọt nước mắt uất hờn còn đọng trên đôi mắt của những người thương binh này. Trong ngàn vạn con người ấy trên đất nước VNCH thế nào không có kẻ sống sót, tôi cũng đã thấy anh mù dắt anh què hát rong ngoài đường, xin đồng tiền bố thí của đồng bào. Họ bị quên lãng đã ba chục năm nay, nên có sự công bằng cho người chết thì cũng nên lo cho người còn sống, họ cũng đã hy sinh một phần thân thể trong cuộc chiến nồi da xáo thịt này. Người ta đang nói tới chuyện phục hồi Nghĩa Trang Quân Đội ở trên Biên Hòa.



    Không biết chuyện này rồi sẽ đi đến đâu. Tôi là người sống ở Sài Gòn đã gần 30 năm, nghe tin ấy tôi đã mong muốn được thăm nghĩa trang quân đội xưa vì có người thân đã chôn xác ở đó. Nhưng theo tôi biết đâu phải ai cũng được tự do ra vào để tưởng niệm người đã chết, ý nguyện của tôi không được chấp nhận. Người ta nói phục hồi nghĩa trang quân đội chế độ cũ, phục hồi thế nào tôi không biết, tôi thắc mắc trong việc làm ấy họ có phục hồi pho tượng Tiếc Thương bị giật đổ trước cổng nghĩa trang quân đội từ ba chục năm trước không. Sau 30-4-1975 hàng loạt tượng đài bị giật xập, và nay nghĩa trang sẽ để tên gì cho phải đạo làm người, mồ mả còn không. Tôi nghe mất mát cũng nhiều lắm, nếu còn thì là những nấm mồ hoang, kẻ nằm dưới đất kia là kẻ có tội, không ai được quyến thăm viếng vì thăm viếng là bị “văng miểng”. Tôi chỉ mong muốn được đến đấy, thắp lên một nén nhang tưởng niệm, dù mồ mả của những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà có còn hay đã mất. Tôi cho chuyện làm ấy hay lời hứa hẹn ấy là phiêu, chẳng có gì xất cả.







    Tại tiệm phở Hòa, một tiệm phở nổi tiếng cuối đường Pasteur trong thành phố Sài Gòn, tôi thường gặp một anh bán báo, cụt cả hai tay, hai tay cụt đó được ráp hai tay sắt inox có kẹp, thao tác rất gọn ghẽ, anh kẹp những tờ báo đưa cho khách hàng hoặc nhận tiền, thối lại tiền bán báo. Không biết anh bán báo ở đó đã bao nhiêu năm.



    Một hôm anh mời tôi mua báo. Tôi lấy tiền ra biếu anh, vỉ sáng nay tôi đã mua báo ở sạp báo gần nhà. Anh ta nhìn tôi khẽ lắc đầu:

    – Không, cám ơn ông tôi không thể nhận được.

    – Vậy tôi mua báo. Tôi hỏi anh.

    – Vâng ông chọn tờ nào?



    Tôi chọn đại một tờ trong xấp báo mà anh ta ôm trên người, tôi đưa tiền cho anh ta, nói:

    – Thôi anh khỏi phải thối lại.

    – Vâng cám ơn ông.



    Tôi nhìn kỹ anh ta hơn, tôi hỏi thăm về hai tay anh. Anh ta nói:

    – Tôi không bị tai nạn mà là thương binh chế độ Cộng Hoà

    – Anh thuộc binh chủng nào hồi trước? Tôi hỏi tiếp.



    Anh ta không trả lời về binh chủng của anh chỉ nói:

    – Hồi đó tôi bị thương cụt cả hai tay ở mặt trận Bình Long, chính quyền cũ làm cho tôi hai cánh tay này và tập cho tôi cách xử dụng. Gần ba chục năm nay tôi đi bán báo để sinh sống.




    Vì lý do gì đó anh không nhắc tên binh chủng của mình. Nhưng khi tôi nói tên của vị tướng chỉ huy mặt trận, mắt anh ngời sáng. Tôi không ngờ đã mấy chục năm qua anh không quên và dành cho cấp chỉ huy mình sự tôn kính chân thành. Tôi ngưỡng mộ anh là người dũng cảm, liêm sỉ từ tư cách đến việc phải kiếm sống, làm một con người. Đó là điều hiếm có, ít có ai sống trong đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa dám biểu lộ cái tinh thần quật cường ấy. Có ngài Việt kiều ngày xưa từng giữ những chức vụ quan trọng, từng là “cựu” này “cựu” kia, ngày “đứt phim” chạy có cờ, bỏ đồng đội bỏ của chạy lấy người, nay về thăm quê hương phát biểu linh tinh chả ra cái giống ôn gì, so ra tư cách của ngài với anh chàng thương binh này, cách xa một trời một vực, thật là quá chán. Tôi nói với anh:

    – Anh rất can đảm, tôi ngưỡng mộ anh.

    – Có gì đâu, tôi còn thua ông tướng chỉ huy chúng tôi. Anh cười nhũn nhặn.



    Tôi nghĩ đến tướng Lê Văn Hưng, tướng tử thủ ở Bình Long Anh Dũng, người không trốn chạy mà tự sát như một số tướng lãnh khác của chế độ Cộng Hoà ngày 30 tháng Tư, sau khi “tổng thống” Dương Văn Minh đầu hàng vô đìều kiện.



              

    Mùa hè đỏ lửa 72, người hùng An Lộc , Tướng Lê văn Hưng bắt tay Đại Tá Tư Lệnh Phó sư đoàn Nhảy Dù.

              


    Báo đài ngày nào cũng có bài ca tụng về ngày lịch sử 30 tháng Tư, ngày chiến thắng vĩ đại của dân tộc, ngày chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước. Đoàn quân chiến thắng kéo quân vào thành phố được sự đón tiếp nồng nhiệt của nhân dân thành phố, cùng nổi dậy với cách mạng, bao nhiêu người ra phất cờ chào đón đoàn quân. Một hoạt cảnh mà tôi, một phóng viên chiến trường đã hết thời, ghi nhận được đúng ngày hôm đó:

    Cuộc bại trận nhanh quá, nhanh đến độ dân Sài Gòn phải ngỡ ngàng. Kẻ nào không chạy thoát theo những chuyến di tản thì đổ ra đường xem đoàn quân chiến thắng đi dép, đội mũ cối hay mũ tai bèo vào thành phố. Có những xác người dân hoặc lính chế độ cũ chưa được thu nhặt còn sót ở những góc đường, trên những quân trang quân dụng ném đầy trên đường đi, cả vũ khí nữa chưa kịp thu nhặt.



    Những con người đang đứng ngơ ngác ngỡ ngàng ở đó, bị nhét vào tay những lá cờ giấy, và anh “cách mạng” đeo súng mang băng tay đỏ mặt gườm gườm những kẻ không nhiệt tình vẫy cờ chào đón các anh bộ đội cụ hồ tiến vào thành phố. Tôi thấy một người đàn ông cũng bị nhét vào tay một lá cờ, một anh mang băng đỏ đeo súng ra huých vào sườn người đàn ông đó một cái. Ông ta có lẽ hiểu ý liền nhẩy chồm lên phất cờ lia lịa, mồm la hoan hô liên tục. Thế cũng là quá đủ, tôi lủi vào đám đông kiếm đường chạy về nhà. Ngoài kia những dòng người dầy đặc dần trên đường, có người đang tìm kiếm người thân, người tung hô những khẩu hiệu chiến thắng, người ngơ ngác ngẩn ngơ đứng nhìn. Họ không chịu tin vào sự thực là Sài Gòn bị thất thủ.





    Nguyễn Thụy Long
    Đầu xuân năm Ất Dậu 2005


    https://hon-viet.co.uk/NguyenThuyLong_30thangTu.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Chiều mưa biên giới & Mấy dặm sơn khê

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          


          
để tưởng nhớ Nguyễn văn Đông
và những người trai âm thầm hy sinh cho quê hương Việt Nam

          




          

          

          

          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: - 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • 49 năm... Tháng Tư lại tới
    Vũ Đăng Khoa





    Đây là một trong những lý do tôi không muốn vè VN. Những tủi nhục của Cộng sản gây ra cho tôi chắc không bao giờ xoá được. Đoc truyện này thấy hình bóng mình trong đó. Gởi những bạn trẻ 9x. Cứ hỏi tại sao tôi ghét cộng sản, tai sao tôi không về VN. Những gì dưới đây là chuyện thật 100%. Nếu các bạn đã từng bị Cộng Sản đàn áp, thì có lòng nào muốn về lại nơi tủi nhục đó?



    TỰ TRUYỆN - THÁNG TƯ BUỒN



    Ngày Sài Gòn sụp đổ, ba không là một sĩ quan VNCH. Làm bên ngành hành chánh nên không có cấp bậc, ba là truởng ty thông tin Gia Định. Có một khoảng thời gian ba làm thư ký toà hành chánh Gia Định.



    Rồi Việt Cộng xâm chiếm miền Nam, ba bị bắt và bị lưu đày ở tận Hà Nam Ninh - Bắc Việt. Chúng nó biệt giam ba trong một căn phòng chỉ có 2 người. Trong đó có Đại tá Nguyễn Hữu Phước và ba.



    Mỗi ngày chúng nó đem cho ba 1 cục phèn chua, bắt ba hoà tan trong 1 cốc nước nhỏ và ép buộc ba phải uống trước mặt chúng. 18 tháng sau thì ba mất vì bịnh ung thư máu. Ở quê nhà gia đình hoàn toàn không biết gì về cái chết của ba.



    Ngày ba đi tù. Nhà mất. Vì không muốn đi vùng kinh tế mới nên mẹ đưa các con về quê ngoại ở. Đó là một vùng quê xa xôi hẻo lánh ở miền Tây mênh mông sóng nước. Nơi đó có ông chủ tịch xã Hai Sanh mặt dày tối ngày mặc bộ đồ bà ba đi chân đất lạch bạch cứ ghé nhà động viên, nhưng chủ yếu là muốn dzê mẹ của Khoa.



    Có bao lần ông cứ ngồi lì tới chiều tối mà không chịu về. Các anh trai hàng ngày đi bán bưng cực khổ về đến nhà thấy cảnh chuớng tai gai mắt hoài nên tức sôi máu không nhịn được. Một chiều kia các anh giả vờ gây lộn to tiếng với nhau rồi xách dao phai, xách mác rượt nhau chém và chạy ra tới ngoài nhà trước chổ ông ấy đang ngồi. Anh thì núp sau lưng ông chém tới. Anh thì phiá trước đâm vào. Sợ ăn dao phai và mác lạc nên ông hoảng quá và chuồn đi mất. Từ đó không bao giờ dám tới. Không ngờ hận thù trong ông bắt đầu ngày đó cũng trào dâng...



    Giấy báo tử gởi về nhưng chủ tịch xã không cho người đưa thơ chuyển tới nên gia đình hoàn toàn không biết. Rồi bỗng một chiều miền Tây chìm trong ngập lục của năm 1978, cô em họ của mẹ lội sình vào nhà trao thơ báo tử. Mẹ ngất lịm dưới hung tin bên những tiếng thét gào của chị và em.



    Cô kể lại là do cô vô tình nhìn thấy được lá thư ở đồn công an xã và năn nỉ họ cho cô đem về vì cô nhận ra tên của mẹ và địa chỉ.



    Cô coi thư viện trường và họ hay xoay cô làm nhiều việc. Ngày đó họ nhờ cô coi đọc những thông tin nên cô bắt gặp lá thư cha.



    Thời gian lâu lắm, bác Phước ra tù về vì bác sĩ trong nhà tù đoán là do bệnh ung bứu vô phương cứu chữa thời kỳ cuối. Họ cho bác về để được chết ở nhà. Do sức ép của Mỹ và LHQ để sớm đổi lấy xoá bỏ cấm vận và ban giao, và vì có quá nhiều tù nhân bị giết chết trong tù nên họ buộc phải cho về để bớt mang tai tiếng. Mai thay bác được cứu sống nhờ uống thuốc Nam. Bác ấy đã tìm về quê Khoa kể lại câu chuyện những ngày tháng trong tù. Sau đó bác và gia đình đã đến Hoa Kỳ diện HO 13 về New York.



    Anh Vinh là học sinh giỏi có tiếng khắp vùng Đồng Tháp. Thầy Điệu dạy khối A nổi tiếng ở Sa Đéc với 2 môn Lý Hoá đã đặt hết niềm tin vào anh trong kỳ thi đại học bách khoa. Ngày anh đi chứng lý lịch, ông Hai Sanh đã phê tặng anh những từ ngữ vô cùng đặc biệt để rồi 3 năm sau anh về nhảy sông tự quyên sinh. Ông viết rõ từng lời và đóng ngoặc kép kỷ càng vào tờ lý lịch:

    Cha làm trưởng ty thông tin Gia Định. “Thông tin là tiếng nói chống Cộng Sản đến cùng.”



    Cậu: Đứng đầu đơn vị chống Cộng tại địa phương.



    Rồi anh Vinh thi vào đại học. Điểm 3 môn là 15 1/2 nhưng không bao giờ đậu vì lý lịch xấu dù cho điểm tiêu chuẩn chỉ là 10 1/2 cho 3 môn. Không nản chí anh về thi lại và thi lại. 2 năm sau kết quả cũng 15 và 15 1/2 nhưng đều bị đánh rớt vì tờ lý lịch 3 năm vẫn không bao giờ thay đổi. Những từ ngữ ông chủ tịch xã rất là tâm đắc trong dấu ngoặc kép ngày nào vẫn giống như nhau. Dù cho mẹ có hết lời năn nỉ nhưng ông vẫn không màn tới vì mối thù xưa.



    Rồi 3 năm không thể vào đại học, anh Vinh phải đối diện cuộc đời với nghĩa vụ lao động 2 năm đi đắp đường và xây dựng nông thôn mới. Ngày chia tay thầy trên đường về, anh Vinh nhảy cầu để tự quyên sinh. Mai là có người qua đường nhảy theo cứu kịp. Khi họ đưa anh về nhà, xóm làng mới xôn xao chạy báo mẹ tin rằng: “Thằng Vinh nó đã nhảy sông!”



    Gia đình sợ quá phải lo chạy chọt đút lót cho anh Vinh đi học. Gom hết cả gia tài bao năm dành dụm là 1 thùng đạn đựng đầy những tờ giấy săn $50 và $100 cũng chỉ đủ cho anh vào trung học ngân hàng 3 trung ương. Đúng là đời khốn nạn! Điểm thừa đậu đại học mà cũng không đủ để học trung học hỏi có buồn không?



    Vì lẽ đó, chị Phuợng năm sau cũng chẳng thèm đi thi đại học vì sợ tốn tiền. Chị chọn đại học sư phạm vì được ưu tiên tuyển thẳng vào đây do đã đoạt giải hạng 5 môn Anh Văn toàn quốc.



    Anh Hoàng kế tiếp cũng chẳng đi thi vì được tuyển thẳng vào đại học sư phạm. Anh đứng hạng nhì trong kỳ thi môn Lý toàn quốc 2 năm sau.



    Ngày gần đi Mỹ, Khoa bị gia đình cấm đi thi dù là đang học lớp chuyên vì sợ nếu đang học rồi bỏ đi ngang sẽ không có tiền đền. Về quê theo mẹ làm vườn cũng chẳng được yên. Khi phỏng vấn đậu và lãnh hộ chiếu xong rồi chờ ngày đi Mỹ thì xã không thèm chứng giấy 3 không. Họ bắt Khoa phải đóng 10 tấn gạo thay thế cho nghĩa vụ lao động 2 năm vô cớ. Nếu không thì không chứng giấy tờ và cả gia đình đều phải ở lại. Gia đình Khoa phải vai mượn nợ để được ra đi.



    Cộng sản là vậy đó. Họ cướp miền Nam gây bao đau thương tang tóc xong nhưng họ không bao giờ dừng lại. Họ giết những nhân sĩ trí thức trong chốn lao tù. Họ cướp nhà cửa và đọa đày vợ con những người chỉ là công nhân viên chức miền Nam tới đường cùng. Giờ họ nói lắng nghe trong Khoa, gia đình và kiều bào từng hơi thở. Bạn có tin không?



    Anh Vinh và Hoàng sau này qua Mỹ đã đi học lại trong Georgia Tech University, giờ là những kỷ sư điện toán và computer science. Anh Hoàng vẽ đường bay cho tên lữa hành trình. Cộng sản chắc rất thèm những người kỷ sư biết vẽ đường bay như tên lữa Tomahawk! Điều đó sẽ không bao giờ có được vì họ đã triệt tiêu không những gia đình Khoa mà bao lớp người trí thức. Xã hội của họ giờ chỉ có những con người dốt nát làm lãnh đạo nên mới gây nên sự thù hằn chia rẽ. Họ chỉ biết cắn xé, tàn phá và đục khoét nên quê hương mới ngày càng điêu tàn. Họ chỉ biết cướp mà không biết xây dựng và bảo vệ nên đất nước giờ đây mới lâm vào cảnh phụ thuộc, xâm chiếm, nô lệ và diệt vong. Họ đã thất bại thảm hại trên chính quê hương mà họ đang cai trị. Nhưng họ luôn luờng gạt và mị dân mình là người chiến thắng đồng bào và anh em cùng dòng máu.



    Bạn có bao giờ thấy người Mỹ hàng năm họ ăn mừng chiến thắng khi quân miền Bắc thắng miền Nam trong Civil War không? Hay có lẽ người Mỹ họ ngu?



    43 năm rồi và bạn hãy chờ xem coi ngày 30 tháng 4 tới họ cũng sẽ ăn mừng chiến thắng để tiếp tục tạo nên hận thù và chia rẽ.



    Bài viết là sự thật 100%. Không có một chút gì là hư cấu. Bất kỳ ai cũng có thể phản biện chuyện này đúng hay sai. Cộng sản đã cho con em họ qua Mỹ học và làm việc nhiều lắm. Trong số đó có ai bao giờ thấy nước Mỹ ăn mừng chiến thắng Civil War không nói cho mình biết với.



    Hy vọng MC Nguyễn Ngọc Ngạn, các MC, ca sĩ và bất cứ những ai muốn tham gia hay tổ chức, dù là giáng tiếp hay trực tiếp chương trình ca nhạc dịp 30/4 sẽ đọc được bài này. Để họ hiểu rõ vì sao người ta lại biểu tình và phản đối họ.



    Nhìn lại đất nước tan hoang như bây giờ sau 46 năm Việt Cộng cưỡng chiếm, các bạn sẽ nhận định một cách trung thực rằng: “30 tháng 4 không phải là niềm kiêu hãnh chiến thắng để ăn mừng cho ai cả. 30 tháng 4 là nỗi nhục quốc thể chỉ để thấp nén hương lòng hồi tưởng những đau thương âm ĩ của cả dân tộc Việt Nam.”



    Tháng Tư về con nhớ những mùa tang

    Nhớ chị, cha, cô, dì, anh, chú, cậu...

    Nhớ quê hương của một thời yêu dấu

    Nhớ đau thương và những nét hằn sâu

    Quê hương mình rồi sẽ đi về đâu?

    Máu con dân của hai miền đổ xuống

    Sao họ vẫn vui đùa và ăn uống

    Trên xác người, máu Mẹ, máu non sông...!

    .......................



    NHỚ!



    Nhớ nhớ nhớ một điều con rất nhớ

    Nhớ Sài Gòn hai tiếng nói thân thương

    Nhớ từng con góc phố với tên đường

    Nhớ trường xưa bạn bè yêu cũ mới

    Nhớ ngày xưa cha mua cho áo mới

    Nhớ mẹ yêu dìu con bước đến trường

    Nhớ người thầy trên bục giảng thân thương

    Cô giáo nhỏ nâng niu từng nét chữ

    Rồi quê hương lan tràn loài dữ

    Chúng ngang tàng đốt phá cướp đi cha

    Nơi quê nhà mẹ đau đớn xót xa

    Con thương mẹ héo gầy nuôi con trẻ

    Những tháng ngày đau thương trôi lặng lẽ

    Con lang thang cùng mẹ khắp muôn nơi

    Đời bôn ba nghe kiếp sống chơi vơi

    Có lúc tưởng mẹ tàn hơi kiệt sức

    Dắt dìu con qua tháng ngày cơ cực

    Mong một ngày quê hương khỏi lầm than

    Một chiều thu con chít chiếc khăn tang

    Mẹ ngất lịm bên dòng thư báo tử

    Chúng đã giết cha con rồi đem xử

    Tội tuyên truyền chống phá quê hương con

    Quê hương yêu hai tiếng nói sắt son

    Cha không chống chỉ chống loài Cộng phỉ

    Bao nhiêu năm cướp miền Nam rồi nhỉ

    Chúng giờ đây cướp phá cả non sông

    Chúng cướp ngày cướp cạn cướp ruộng đồng

    Cướp nhà cửa, cướp công rồi cướp sức

    Cướp tuổi xuân bao em thơ sáng rực

    Cướp đồng hưu, bảo hiểm, cướp nhà băng

    Cướp hồ thiêng, núi sông và mỏ quặng

    Cướp xong rồi chúng bán cả giang sơn

    Cộng sản gian manh dân chúng căm hờn

    Ngày nổi dậy chẳng còn xa đâu nữa

    Ngày mai đây vết thù xưa gội rửa

    Trả cho cha hai tiếng nói oan khiên

    Trả lại cha một tấm lòng trung kiên

    Yêu quê hương sơn hà và tổ quốc

    Bao năm qua từ ngày cha đã mất

    Thương cha nhiều nhớ cha lắm cha ơi!




    Vũ Đăng Khoa

    https://hon-viet.co.uk/VuDangKhoa_49Nam ... LaiToi.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

TRÊN ĐẦU SÚNG

Bài viết bởi Hoàng Vân »






          


          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Cảm xúc ngày 30 tháng 4





    Người Nam Kỳ Lục Tỉnh nào cũng sợ chữ "giải phóng", buồn chữ “nguỵ”, ám ảnh ê càng chữ “đi kinh tế mới”, “vượt biên”, “học tập cải tạo”

    Có gì lạ, lịch sử còn ghi rành rành mà!

    Người Miền Nam rất ấn tượng hai chữ "giải phóng"

    Trong lịch sử thế giới có phong trào giải gióng nô lệ da đen. Năm 1863, trong thời nội chiến Hoa Kỳ, Tổng thống Abraham Lincoln công bố Tuyên ngôn giải phóng nô lệ. Ai được hay bị giải phóng thì có thân phận là nô lệ

    Putin đang tuyên bố mang quân đi "giải phóng" Ukraine đó! Bước qua một quốc gia khác thiệt dễ, khi tự khoác cho mình cái áo "chánh nghĩa". Nó nghĩ nó nói "tao chánh nghĩa" y chang lấy kem trộn trét lên mặt là xong

    Vì đơn giản cái nghĩa giải phóng là "làm cho được tự do". Nhưng có những vụ “giải phóng” mà sau khi giải phóng rồi mà khổ hơn, rách nát hơn, lao đao, bức bối hơn nữa thì tự do cái gì?

    Bản chất con người thua kém thiên hạ mà muốn này nọ thì phải nắm đầu người khác, đè người ta, đè đầu cưỡi cổ người khác

    Còn chưa kể, nhiều người nói giải phóng, nhưng thực chất là họ giải phóng cho chính họ, từ quyền lợi tới quyền lực chánh trị, chỉ thay thế người ngồi trên cái ghế cao thôi, chỉ là con chữ

    Nhiều bà già vừa nhai trầu vừa kể chuyện:
    ”Hồi nẳm con cháu tao đi học không tốn cắc bạc, uống sữa Mỹ miễn phí, bịnh vô nhà thương cũng không tốn tiền, nhờ vậy tao mới nuôi 10 đứa con tao nổi đó tụi bây. Bây giờ thì học hành, bịnh hoạn tính từng đồng từng xu, giờ không có tiền khỏi cấp cứu”

    Hỏi hồi nẳm là hồi nào thì mấy bả trả lời "Thời nẳm là trào ông Diệm, trào ông Thiệu á. Còn hồi này là thời của "mấy ổng" á!"

    Trong mắt dân Miền Nam chúng ta chánh trị là cái gì nhiều khi không hiểu hết bản chất của nó, có biết đọc chữ đâu mà lý luận, họ chỉ nhìn cơm gạo và cuộc sống mà đánh giá

    Nhiều bà giáo già lắc đầu nhìn tuổi trẻ ngày nay khi nghe có đứa lớp 6 chỉ biết viết cái tên nó thôi, bà lắc:
    “Đừng nói tú tài 2, tú tài 1 hồi đó giỏi lắm con! Học hành khó mà thi cũng khó, nhưng bù lại giỏi ra giỏi, không có thứ ba dớ”

    Nhưng sau ngày giải phóng, tú tài 2 đạp xích lô chết bà luôn nha! Dân lôm côm, ba dớ nói chuyện là biết quốc chì thì đứng lớp dạy đời

    • "Cứ mãi nghĩ sanh tồn quá khó
      Chữ áo cơm lúc có lúc không
      Dù cho chẳng dám đèo bồng
      Nhưng mà kiếm được vài đồng lệ rơi"


    Người Miền Nam được tặng một mỹ tự “ngụy” trong sách sử đặng đối trọng với những “anh hùng” hiên ngang bất tử

    • "Khi đi thấy đường đã xa
      Bây giờ đường về xứ
      Còn xa hơn ngàn lần
      Ra đi trong giờ đau thương
      Lúc quê hương bàng hoàng
      Người say phút vinh quang"
      (Lam Phương)


    Chúng ta không cần giải thích chữ ngụy và giải phóng ra nữa vì ai cũng hiểu rõ nghĩa của nó

    Người già Miền Nam hay nói chuyện xưa, cứ có dịp ngồi tụ lại là nghe kể chuyện quá khứ. Tụi con nít cứ ngồi say mê mà nghe, nghe kể về ông quan lập làng, bà cai xây cầu mở chợ đào ao xẻ kinh dẫn nước cho dân, ông thầy này, bà giáo nọ, ngày 30 tháng 4 cảm giác thế nào, ra sao….

    Người "giải phóng" hay gọi những người nhắc quá khứ là “chủ nghĩa xét lại” ,tuy nhiên nếu họ giỏi hơn quá khứ thì người dân đã không moi cái mốc meo đó ra nói rồi

    Đời người con gái hai ba đời chồng vị lịch sử ép buộc, muốn nó không nhắc chồng cũ thì làm ơn tôn trọng nó hơn chồng cũ
    Những người già suốt ngày huyên thuyên về thời xưa cũ, đôi lúc người trẻ cằn nhằn cửi nhửi: ”Có nhiêu đó nói hoài mắc mệt!”

    Bực mình là biết chữ “nguỵ” nó không hay, không thích nghe “giải phóng” nhưng người Miền Nam tánh hề hà cứ xài tứi xựi, xả láng khi mở miệng cứ xưng “Tao lính nguỵ mày ơi!”, “Sau giải phóng tao đi mua ve chai lông vịt”, "Thằng này sanh năm giải phóng nè!"

    Nhiều khi bị bắt giò cái mấy chả quạo: "Mệt quá! quen miệng rồi!". Ờ! tại nghe tivi, radio nó giải phóng, nguỵ quân nguỵ quyền riết quen rồi tự mình chửi mình luôn

    Nhưng chúng ta hiểu nhiều người Miền Nam tự hào khi nói "Tao nguỵ nè!"

    Nhưng rồi thời gian qua nhanh, tuổi già bóng xế họ cũng không thể nói hoài được, cây đèn cạn dầu sẽ lụn tim, rồi họ sẽ theo ông theo bà, những câu chuyện sử xưa sẽ theo họ vào quên lãng, lắm lúc cần một tư liệu muốn hỏi ông bà thì đã không còn

    Lịch sử là gì?

    Nếu không phải là bắt đầu từ những người già. Lịch sử trong miệng, trong lòng của họ, và họ sẽ kể cho con cháu nghe những cái xưa trơ xưa trấc đã xảy ra trên đất, trên xứ mình ngày đó với sự thực rành rành

    Họ kể ngày 30 tháng 4 DVM đầu hàng nhưng có rất nhiều người khác đã bắn tới viên đạn cuối cùng, đã tự đền ơn nước
    Cuộc sống, cảnh vật, chế độ chánh trị có thể thay đổi, nhưng lịch sử và lòng người là thứ không bao giờ thay đổi

    Ai già chết hết, nhưng không sao! vẫn còn nhiều người thuộc sử Miền Nam, nhiều lắm, họ âm thầm bên đời, nép mình, tất cả vì dân tộc

    Lịch sử đi qua và vẫn còn đâu đó. Còn đó vui buồn, trằn trọc, day diết, rưng rức, đau đớn, uất nghẹn, bực mình bực mẩy
    Không thể xóa nhòa hay che ép nó đặng. Tại vì lịch sử khúc đó làm người ta nhớ hoài
    Những câu chuyện xưa đều nói lên ý nghĩa nhân bản, tình cảm trong lòng người sâu nặng

    • "Sài Gòn có bến Chương Dương,
      Có Dinh Độc Lập, có đường Tự Do
      Phường Chợ Quán, khóm Cầu Kho
      Bến xe Lục Tỉnh, con đò Thủ Thiêm
      Ô tô buýt chạy khắp miền
      Vườn chơi có Thảo Cầm Viên, Tao Đàn
      Bến Thành đã tiếng tăm vang
      Chợ Cầu Ông Lãnh lại càng nên đi
      Xe đò, xe máy, tắc-xi
      Bình Tây, Khánh Hội ngại gì xa xôi
      Chánh Hưng, Phú Nhuận đây rồi
      Thị Nghè, Tân Định nhiều nơi còn chờ
      Trải bao thay đổi đến giờ
      Khắp nơi đã rợp bóng cờ vinh quang
      Sài Gòn, thủ phủ Việt Nam
      Mai ngày kiến thiết, mở mang còn nhiều"


    Nam Kỳ có đặc tánh là:
    -Chất phác
    -Đơn giản
    -Thành thực
    -Dân chủ
    -Tự do

    Sức mạnh không phải là phương thuốc thần kỳ của xã hội văn minh. Cái chữ "giải phóng" không phải là bửu bối của chánh nghĩa

    Lý thuyết là kẻ chiến thắng dùng bạo lực cưỡng đoạt áp đặt lên đầu kẻ chiến bại, không cần biểu tượng hay hình ảnh gì hết, mày là thằng tù binh, tao muốn giết hay để mày sống là quyền của tao

    Kẻ chiến bại chỉ có nước cúi đầu, quì gối và không được nói một câu nào hết, nhiệm vụ duy nhứt của mày là bị kẻ chiến thắng miệt thị, hạ nhục và định đoạt

    Kẻ chiến thắng đạp vô kẻ chiến bại, đạp vô cái bản mặt từ đời cửu huyền thất tổ, cha tới đời con, đời cháu cho nhục mặt khỏi ngóc đầu, sửa lịch sử cho đúng bài bản

    Nhưng! lịch sử ! lòng người!
    Người Ukraine vẫn đang bảo vệ sự tự do của dân tộc họ

    Người Sài Gòn và người Miền Nam luôn được giáo dục và ý thức về tự do. Tại vì Nam Kỳ Lục Tỉnh được chính những lưu dân yêu chuộng tự do tạo dựng lên

    Thiệt lạ lùng! Cái đất nước nhỏ xíu như cái lổ mũi mà hết "đại án" này tới "đại án" khác, nhiều quá xá nhiều,vụ nào rồi cũng thành "đại án", tiền tỉ tỉ không, làm riết thấy coi quen như một show của Trấn Thành

    Sau 1975 Miền Nam đang trong nền kinh tế mở, giao lưu bán buôn rộng khắp thế giới, chợ và kho hàng đầy nhóc thì đùng cái bị ép phải vô tập thể, bao cấp, tự cung tự cấp thiếu thốn và giáo điều cho đúng Miền Bắc, đúng lý thuyết của Mác Lê Nin

    Nhớ trong một cuốn sách tác giả nhiều lần viết câu "Đất nước là gì...?"

    Quốc gia của chúng ta là cái gì? Là nơi nâng cánh, chấp cánh, tạo điều kiện cho người giỏi chứ không phải là nơi triệt tiêu người giỏi

    Nên các bạn nào ở hải ngoại may mắn lớn lên trong một xã hội mà sự giáo dục là thưc và bằng cấp là giá trị, xã hội biết trọng thị người có học là may mắn lắm

    Lớn lên ở VN biết đâu học ĐH xong sẽ đăng ký chạy Grab, làm công nhân

    Làm con dân Việt Nam cũng là duyên, cái duyên “tôi sẽ bám lấy đất nước tôi”

    Nhưng nhiều người Việt đã tìm cách chạy ra khỏi và làm con dân Úc, Mỹ, Anh, Thụy Điển, Thụy Sĩ cho nó an lành
    Nếu là duyên cạn, hai bên không nợ nần nhau, thời gian bầu bạn bên cạnh nhau cũng ngắn ngủi, trả hết nợ rồi, tình cảm cũng lợt lạt, chẳng còn liên quan đến nhau

    Người Nam Kỳ bị mang tiếng hời hợt, bụng dạ không sâu, thiếu thủ đoạn chánh trị, nhưng đã sâu thì tới đáy, yêu quê hương, yêu đồng chủng không ai bằng, làm thì phải thành công, làm thì phải rặc ròi tới bến

    "
    • Tai đâu chẳng nghe, mắt đâu chẳng rõ?
      Tổ tiên đâu, mồ mã nước nào?
      Lòng sao không xót, dạ sao không bào?
      Bờ cõi loạn, nhơn dân đồ thán!…
      Thân sao không biết nhục?
      Sung sướng không trọn đời, muốn thác, chớ kêu trời!"


    Một người phóng khoáng có khi hời hợt, nhưng tâm hồn khoáng đãng nhưng cũng biết lợi ích, tự do và tôn trọng quyền làm người. Yêu người và yêu xứ sở, ý thức quyền lợi xứ sở là tối thượng

    Và đôi khi cũng chướng tính bực mình vì sự uốn éo của thời cuộc và sự có ý thức trong lòng mình
    Con người văn minh, có học mà!

    Xin tri ơn những người trót mang cái nghiệp nặng lòng dân tộc mà phải suy tư, cùng sớt chia mọi thứ
    Nhìn cái gì của quê mình cũng thương, cũng thích:

    • "Nhìn mương nhìn đập
      Nhìn cây bắp trổ cờ
      Núi sông dài thượt cánh cò
      Công ai xẻ gãnh đắp bờ cho nên."



    Nguyễn Gia Việt


    https://www.facebook.com/Conduongthienl ... zJxLoJhUSl


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    VẪN CÒN NƯỚC MẮT


    Cứ đến 30.4 hàng năm, tôi lại đăng bài viết này dù nó đã cũ.














    Tháng tư. Khi cái nóng miền Nam lên đến đỉnh điểm và cờ đỏ giăng đầy lối phố, là đến ngày kỷ niệm. Ngày mà cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt cho rằng: Triệu người vui cũng có triệu người buồn.

    Người bên thắng trận có triệu người vui, nhưng thật ra trong niềm vui cũng có chất chứa sâu kín nỗi buồn. Hàng ngàn thanh niên miền Bắc sinh Bắc tử Nam, đã đi và không về cho một chiến thắng cuối cùng. Họ nằm lại và cho đến giờ, cuộc chiến tranh chấm dứt đã gần nửa thế kỷ qua rồi, thịt xương của họ đã thành cát bụi, đã hoà lẫn với đất cát, tro than, cây cỏ. Người thân của họ vẫn trông chờ, tìm kiếm trong vô vọng. Những bà mẹ miền Bắc chiều chiều vẫn ngóng về Nam, thắp nén nhang gọi hồn con về. Cắm nén nhang lên bàn thờ nhiều khi chỉ là khung ảnh trống không có hình, nhiều khi chỉ ghi một cái tên, cũng có khi là chân dung của một người rất trẻ. Họ ra đi trong chiến tranh và không trở về trong ngày hoà bình, thân xác của họ được vùi vội vàng đâu đó và bây giờ không còn dấu tích. Bạn bè, đồng đội trở về nhưng họ không về.

    Có người cho đến giờ vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ. Và hàng ngày những bà mẹ già buồn bã vẫn đợi tin con. Ngày lễ chiến thắng nhiều người vui nhưng mẹ lại buồn dù con mẹ là người lính của đoàn quân thắng trận.

    Một người không về là nỗi đau không riêng người mẹ, nó là nỗi xót xa, khổ đau của cha, của anh em và còn là nỗi đau của người vợ mất chổng, những đứa con lớn lên không biết mặt cha. Chiến tranh đi qua như một con lốc dữ, để lại những nỗi đau không lấp được.

    Hàng dãy mộ bia trùng trùng điệp điệp ở Trường Sơn, ở các nghĩa trang liệt sĩ, nhiều đến không còn nước mắt để khóc thương.

    Người ta có thể tung hô, hùng hồn đọc diễn văn, vui chơi với ngày chiến thắng. Nhưng những bà mẹ, người cha, người vợ làm sao vui khi vẫn chưa tìm thấy hài cốt người thân của mình, hay chỉ thấy con, cháu mình chỉ còn là nấm mồ hiu quạnh.
    Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam, trong tất cả các cuộc chiến tranh kể từ sau năm 1945 (bao gồm Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh biên giới Tây Nam, Chiến tranh biên giới Việt-Trung và một số chiến dịch chống thổ phỉ và FULRO), cả Việt Nam có trên 1.140.000 liệt sĩ. Theo tài liệu thống kê của cổng thông tin điện tử ngành chính sách quân đội - Cục chính sách - Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng thì đến năm 2012, toàn quốc có 1.146.250 liệt sĩ và khoảng 600.000 thương binh, trong đó có 849.018 liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.

    Bên thua cuộc là hàng triệu người buồn. Họ bị mất nhiều thứ: công việc, nhà cửa, tương lai không biết về đâu? Là chia ly, là ly tán, là những bất hạnh dồn dập.

    Họ cũng có những người thân cầm súng chết trong cuộc chiến. Và cũng có rất nhiều người không về. Trong cơn hoảng loạn của tháng ba, cả tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến bị kẹt lại ở biển Thuận An, pháo dội, súng nổ, nhiều người đã chết và vùi thây trong hố chôn tập thể. Trên con đường từ Phú Bổn về trong những ngày cuối tháng tư, bao nhiêu xác người đã nằm lại bên đường, họ nằm đó và cát bụi thời gian phủ thây họ, gia đình bặt tin và lấy ngày đó làm ngày giỗ. Những ngày cuối của cuộc chiến, xác người vẫn ngã xuống và nhiều người bây giờ cũng không tìm thấy xương cốt mộ bia. Rồi khi lá cờ của bên chiến thắng tung bay trên những thành phố, hàng trăm ngàn người vào trại cải tạo, và hàng ngàn người cũng không trở về, họ chết và thân xác được chôn vội vàng giữa vùng đồi núi xa lạ hoang vu. Người thân của họ đi tìm mà mấy người tìm gặp.
    Con số 220.357 binh sĩ VNCH tử trận được Lewy dẫn từ tài liệu lưu trữ của Bộ quốc phòng Mỹ, tính từ năm 1965 đến năm 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng 300.000 tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao nhất có thể lên tới 313.000 tử trận.

    Theo thống kê chi tiết của Jeffrey J. Clarke thì tính từ năm 1960 tới 1974, Quân lực Việt Nam Cộng hòa có 254.256 lính tử trận. Cộng thêm con số tử trận trong các năm 1956-1959 và năm 1975 thì số lính Việt Nam Cộng hòa tử trận ước tính là khoảng 310.000 người.

    Sau năm 1975 ở miền Nam có hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình diện. Riêng ở Sài Gòn có 443.360 người ra trình diện, trong số đó có 28 viên tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình báo, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, và 9.306 người trong các “đảng phái phản động”.

    Hàng trăm ngàn người đi về phía biển, hàng triệu người bất chấp hiểm nguy đi ra biển và hàng trăm ngàn người chôn vùi thân xác dưới đáy đại dương. Hàng trăm, hàng ngàn người đàn bà bị hãm hiếp trên con đường đi về phía biển ấy, có người bị chết xác quăng xuống biển, cũng có người đi được đến nơi và sống đến bây giờ, nhưng dấu tích của vết thương theo suốt đời họ, không xoá được. Có hàng trăm, hàng ngàn cô gái bị bắt đi và mấy chục năm rồi không tin tức, có thể họ chết lần mòn trong những căn nhà chứa ở Thái Lan. Theo thống kê của cơ quan Tị nạn Liên Hiệp quốc thì có khoảng 500.000 người vượt biên đã bỏ xác ở biển Đông. Thế giới cho rằng đó là cuộc di dân tồi tệ nhất của lịch sử.

    Nỗi đau tức tưởi đó làm sao quên, nên tháng tư đối với họ là tháng nước mắt.

    Như thế, trong ngày chiến thắng của bên thắng cuộc, cả hai phía vẫn còn những nỗi đau khó xoá. Cả hai phía đều vẫn còn nước mắt. Nước mắt khóc cho một dân tộc bất hạnh có cuộc chiến tranh dài nhất của thế kỷ hai mươi. Một cuộc chiến tranh giữa anh em mà đã bao năm rồi vẫn chưa hàn gắn được. Thời gian đã trôi qua, cuộc chiến tranh đã lùi xa, nhưng
    VẪN CÒN NƯỚC MẮT.


    15.4.2018
    DODUYNGOC


    https://www.facebook.com/doduyngoc/post ... vd6m5Lswgl


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

          


Tụi tao gánh mày về





Tụi Tao Gánh Mày Về. Mày bỏ cuộc chơi, khi tuổi vẫn còn xanh.

Chiến trường khốc liệt quá, bỏ mày lại cũng không đành.

Rừng cao su tơi tả, kiếm tạm một khúc cây.

Cột chân tay mày lại, xỏ đòn gánh gánh đi.

Biết làm sao bây giờ, lính Dù không bỏ bạn.

Có thằng Tây nó chụp hình, thì kệ mẹ nó đi.

Chiến trường đi ai tiếc đời xanh.

Biết đâu ngày mai sẽ đến phiên tao.

Vào nửa trăng Lính thường cháy túi.

Đạn dược bây giờ còn phải đánh cầm chừng.

Kiếm đâu ra băng ca để mày yên giấc ngủ.

Gánh mày đi như gánh một con mồi

Mà những thằng thợ săn vừa săn được.

Đầu mày chúc xuống đất

Lắc lư theo nhịp đi; Hồn mày ở trên cao

Có thấy tức cười không?

Ráng chút nữa rồi về với mẹ, ngày xưa mày khóc mẹ ru

Rồi thì mẹ khóc ru mi xuống mồ

À ơi, con ơi à ơi, đây là giấc ngủ ban đầu, mà mẹ ru con

Bên ngoài gió thổi nam man, hai mươi năm trường, mẹ ru con theo tiếng à ơi.

Rồi con lớn khôn, con ra chiến trường... Mẹ khóc hằng đêm.


Lính Dù
-------------------------------




  • Những người đã chết hôm qua, cho nước Việt bình yên.
    Chúng tôi tri ân các anh.
    Bây giờ không biết hai người Lính trong hình, gánh xác bạn, giờ Họ về đâu.

    Tấm hình chụp vào ngày 15/4/1975.
    Vỏn vẹn chỉ 15 ngày sau, quê hương rơi vào tay giặc.

    Bốn mươi bốn năm sau, có còn ai cảm thấy bồi hồi xúc động khi nhìn tấm ảnh này.
    Xin đừng nói những lời chót lưỡi đầu môi, đừng yêu Lính bằng lời.


    Hãy tri ân Họ.




          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Hàn Gắn Vết Thương 30/04/1975

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  • Hàn Gắn Vết Thương 30/04/1975
    29 Tháng Tư 2024 _ Điệp Mỹ Linh





    Chỉ còn vài ngày nữa là đến Ngày Quốc Hận 30 tháng Tư!


    Trong khi nhiều bài viết về Ngày Quốc Hận được bạn hữu chuyển đến tôi, tôi không dám đọc thì làm thế nào tôi đủ can đảm viết về 30/04/1975 để tự đào sâu vào vết thương không bao giờ lành trong trái tim mang nhiều thương tổn của tôi?


    Rất nhiều người trong tập thể người Việt tỵ nạn và những người thoát khỏi ngục tù cộng sản Việt Nam (csVN) theo diện H.O. (Humanization Organization, tổ chức nhân đạo) hay diện Đoàn Tụ O.D.P. (Orderly Departure Program) cũng mang trái tim nhiều thương tổn như tôi. Nhưng, không hiểu tại sao tôi lại nghĩ rằng: Quý vị tỵ nạn theo điện H.O./O.D.P. được may mắn hơn chúng tôi – lớp người tỵ nạn đầu tiên được Hoa Kỳ và các nước Tự Do tiếp nhận.



    Thật vậy, khi quý vị H.O./O.D.P. đến Hoa Kỳ hoặc các nước Tự Do khác thì những khó khăn và nhục nhằn mà chúng tôi phải gánh chịu lúc ban đầu đã được “hóa giải” rất nhiều.



    Sự “hóa giải” đó là: Ngay sau khi rời bất cứ phi trường nào tại Hoa Kỳ, quý vị H.O./O.D.P. cũng có thể thoải mái vào chợ Việt Nam hoặc chợ Á Đông, mua chai nước mắm; vào tiệm phở gọi tô phở. Quý vị học lái xe hay bất cứ nghề gì hoặc cần liên lạc với văn phòng di trú/tòa đô chính/trường học, v.v... đều gặp được nhân viên người Việt hướng dẫn. Quý vị bị bệnh, cần bác sĩ/nha sĩ hoặc phải vào bệnh viện cũng có y tá/bác sĩ/nha sĩ người Việt...



    Tôi vẫn nhớ, cuối thập niên 70, vài tờ báo ở California và Houston đã nhận xét rằng: Đa số người Việt tỵ nạn đầu tiên được xem là thành phần ưu tú của miền Nam Việt Nam. Nhớ lại, trong những lúc sắp hàng lãnh thức ăn tại trại tỵ nạn hoặc lên xe “bus” chuyển trại, quả thật, tôi đã gặp/thấy rất nhiều nhân vật ưu tú của miền Nam Việt Nam.



    Theo tôi hiểu, đa số thành phần ưu tú của miền Nam Việt Nam thường xuất thân từ trường Pháp. Đã học chương trình Pháp mà còn mang trong lòng niềm tự trọng lớn lao của một công dân dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), cho nên, đa số người tỵ nạn đầu tiên đều phải chấp nhận làm bất cứ ngành/nghề nào lương thiện, miễn có tiền nuôi gia đình bên này và gửi – qua ngã Canada và Pháp – nhờ chuyển về thân nhân còn “kẹt” bên Việt Nam chứ không hề “mánh mung” để xin tiền trợ cấp của chính phủ Hoa Kỳ.



    Nhờ sự hy sinh vô bờ của những người tỵ nạn đầu tiên mà thế hệ người Việt di tản thứ II mới vươn lên, tạo được nhiều thành quả tốt đẹp!



    Trong khi những người Việt tỵ nạn đầu tiên chưa kịp vui với thành quả ngoạn mục do thế hệ di dân thứ II tạo nên thì những người Việt tỵ nạn đầu tiên đã bị csVN sĩ nhục bằng những câu đầy xấc xược và vô giáo dục: “Bọn ‘niếm’ gót giày đế quốc Mỹ” / “‘Nũ’ phản động ‘đu càng’ theo bọn sen đầm quốc tế”/ “Bọn ‘nính’ ‘đánh thuê’” / “Bọn ‘Ngụy’ Saigon” / “Bọn ‘ba que’”...



    Thế mà, khi Việt Nam gặp thiên tai, người csVN lại không biết ngượng, gọi người Việt tỵ nạn là “khúc ruột ngàn dặm”!



    Nếu người Việt tỵ nạn thực hiện được khẩu hiệu Tam Vô – vô gia đình/vô Tổ Quốc/vô tôn giáo – như người csVN thì làm thế nào toàn nước Việt Nam “qua” được những cơn thiên tai và thời “bao cấp”?



    Đến thập niên 90, nhận ra sự vươn lên rực rỡ của người Việt ty nạn, người csVN kêu gọi “Việt kiều” về Việt Nam góp sức xây dựng đất nước.



    Tôi không rõ có bao nhiêu người Việt đã tin lời csVN, trở về Việt Nam giúp xây dựng quê hương. Nhưng tôi nhớ nhân vật Trịnh Vĩnh Bình – “vua chả giò” tại Hà Lan đã cùng gia đình vượt biên đến Hà Lan, năm 1976 – lại bán hãng chả giò, đem tài sản về Việt Nam đầu tư.



    Chỉ sau một thời gian không dài, tin Trịnh Vĩnh Bình bị csVN bắt, nhốt tù, tài sản bị csVN tịch thu được loan truyền. Chính quyền Hà Lan phải can thiệp, Trịnh Vĩnh Bình mới được tại ngoại.



    Tôi chưa kịp vui khi đọc tin Trịnh Vĩnh Bình được tại ngoại thì con tôi cho biết con tôi sắp về Việt Nam dạy tại đại học Kinh Tế trong ba tháng Hè!



    Tôi hoảng hốt tột độ! Minh – Bố của các con tôi và cũng là cựu Hải Quân trung tá – và tôi đều hết lời khuyên ngăn; nhưng con tôi cũng vẫn không thay đổi quyết định! Tôi than:



    -Con biết rồi, ông Ngoại đã bị Việt Minh – tiền thân của csVN – chiêu dụ, đi theo kháng chiến chống Tây. Sau khi csVN chiếm được miền Nam Việt Nam, ông Ngoại và các Cậu của con bị csVN nhốt tù; bà Ngoại, các Dì và cậu Út bị đuổi đi kinh tế mới; nhà/đất của ông bà Ngoại bị csVN tịch thu. Cậu Út và các Dì không được đi học; vì ông Ngoại là Phó Thị Trưởng Nội An thị xã Cam Ranh! Con đã về Việt Nam, đi ngang ngôi nhà của ông bà Ngoại và con cũng đã ghé nhà của mình ở Thị Nghè, con thấy ai ở trong đó rồi. Như vậy chưa đủ hay sao mà bây giờ con lại muốn quay về giúp những người đã cướp đoạt tất cả rồi đưa gia đình ông bà Ngoại đến đường cùng?



    -Theo luật đào thải của thiên nhiên, thế hệ của người csVN đã tàn phá quê hương Việt Nam sẽ không còn. Con chỉ nghĩ đến những thế hệ người Việt kế tiếp. Mình nên tiếp xúc và hướng những thế hệ kế tiếp xa dần cái ác.



    Minh và tôi chỉ biết đi chùa/cầu nguyện cho con tôi.



    Hai mùa Hè, con tôi rời Hoa Kỳ và trở về bình an và đúng hẹn.



    Mùa Hè thứ ba, lớp học chỉ mới bắt đầu được vài tuần, con tôi đột ngột trở về Mỹ và cho biết, sẽ không về Việt Nam dạy nữa.



    Tôi mừng quá! Trong bữa cơm sum họp gia đình, con tôi kể lại:



    -Sáng hôm đó, con đang giảng bài và sinh viên đang chăm chú nghe giảng bình thường như mọi ngày. Bất ngờ, một nhóm người mặc sắc phục công an xông vào, không nói năng gì cả, đi vòng quanh lớp, lục tung mọi thứ. Con bảo: “Đây là lớp tôi đang dạy, tôi chịu trách nhiệm. Các Bác/các Chú cần gì, phải cho tôi biết, trước khi các Bác các Chú hành động.” Một ông trả lời: “Cô dạy thì cô cứ dạy; kiểm soát là bổn phận của chúng tôi.” Con đáp: “Các Bác/các Chú vui lòng chờ một tý để tôi liên lạc với ông Hiệu Trưởng.” Nói xong con rời lớp, đến văn phòng Hiệu Trưởng, trình bày sự việc. Ông Hiệu Trưởng đáp: “Cô chờ cho nhân viên công quyền thi hành bổn phận xong rồi cô dạy cũng được, có sao đâu.” Con đáp: “Bao nhiêu năm dạy học tại một nước văn minh, tiên tiến nhất thế giới, chưa bao giờ tôi gặp trường hợp nào tương tự như trường hợp này. Tôi sẽ không dạy tại trường này nữa. Bye!”



    Kể đến đây, con tôi nhìn tôi, đùa:



    -“Bà Già” hết lo chưa?



    Tôi cười vui. Minh hỏi:



    -Con có biết tại sao công an bất ngờ vào lớp con đang dạy để lục tung mọi thứ như vậy hay không?



    -Dạ, không.



    Minh tiếp:



    -Con có hiểu tại sao khi hay tin con nhận lời về Việt Nam dạy học Măng đã hoảng hốt/lo sợ hay không?



    -Dạ, bây giờ thì con hiểu!



    -Con hiểu như thế nào?



    -Dạ, vì Ba từng là một sĩ quan cao cấp và Măng viết báo, có thể csVN sẽ không để con yên!



    Trên đây là hai câu chuyện thật về những người Việt tỵ nạn đã tin theo lời kêu gọi của người csVN để trở về Việt Nam xây dựng lại quê hương; còn bao nhiêu người tỵ nạn khác bị csVN lừa, tôi không biết, tôi không viết.



    Gần đây, bạn hữu chuyển đến tôi Quyết Định số 1334-QĐ-TTg, ký tại Hà Nội ngày 10 thang 11 năm 2023, nhưng tôi không đọc; vì tôi không muốn bị csVN lừa.



    Viết đến đây, tôi chợt nghĩ, có thể người csVN – sau thời gian dài tiếp xúc với nền văn minh Tây phương – đã bớt xảo trá. Thế là tôi đọc Quyết Định 1334.



    Đọc xong Quyết Định số 1334 của csVN, tôi cười mỉm, lắc đầu! Tổng thể của Quyết Định số 1334 gồm gần 5,000 – năm ngàn – chữ, tôi không thấy được dòng nào nhắc đến nỗi bi thương/sầu thảm/uất hận của người Việt tỵ nạn trong giai đoạn đầu khi phải lìa xa quê hương, đi làm với đồng lương tối thiểu $2.10 đô la một giờ! Chưa có ai trong chúng tôi có được chiếc xe hơi “cà tàng”! Đi làm, có người phải đi bộ/đi xe “bus”/đi xe đạp “mượn”, như Minh và tôi.



    Tôi cũng không thấy Quyết Đinh 1334 đề cập đến số tài sản khổng lồ của người miền Nam Việt Nam mà người csVN đã tịch thu và chiếm ngụ.



    Số tài sản này tuy vô cùng lớn lao và quý giá, nhưng, tôi không tiếc bằng sức khỏe/kiến thức/tuổi thanh xuân/và cuộc đời của không biết bao nhiêu trí thức và tinh hoa của miền Nam Việt Nam phải bị hao mòn/tàn tạ/hủy hoại dưới bàn tay sắt máu của người csVN trong các trại tù trá hình, gọi là trại cải tạo!



    Tôi cũng không thấy Quyết Định 1334 nhắc lại lời csVN kêu gọi “Ngụy quân/Ngụy quyền” trình diện “học tập” đem theo tiền ăn cho 10 ngày!



    Năm 1975, người csVN xâm phạm Hiệp Ước đình chiến, vượt vĩ tuyến 17 giết hại chúng tôi; chúng tôi đã “bỏ của chạy lấy người”. Nhờ Hải Quân VNCH cứu và chúng tôi trở thành người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Người csVN dùng nhiều danh từ rất hạ cấp để mạc xác chúng tôi.



    Gần nửa thế kỷ sau, năm 2024, con cháu của người Việt tỵ nạn thành đạt; chúng tôi đang nhàn hạ hưởng già, thì, một lần nữa, người csVN lại dồn toàn lực với ý đồ cưỡng đoạt tất cả tài sản vật chất và tài sản trí tuệ mà chúng tôi đã đổ mồ hôi và nước mắt để tạo dựng nên!



    Sự tham tàn của người csVN được ghi rõ trên Quyết Định 1334, bằng những “cụm từ” (danh từ của csVN) mạnh bạo như sau: “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN)...” / “Bám sát chủ trương tranh thủ tối đa nguồn lực của NVNONN...” / “Thu hút nguồn lực NVNONN...” / “Xác định nguồn lực kiều bào là một nguồn lực có ý nghĩa quan trọng trong tổng thể các nguồn lực từ bên ngoài, cần được tranh thủ để phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.”/ “Tăng cường thống nhất nhận thức NVNONN là nguồn lực ngày càng quan trọng ...” / “Thu hút chuyên gia, trí thức, nhân tài NVNONN và lao động người Việt trở về nước...” v.v.



    Nguồn lực và tiềm năng của “người Việt Nam ở nước ngoài” – cũng như sự thành đạt tuyệt vời của thế hệ Việt Nam di dân thứ II / thứ III tại hải ngoại – không dễ gì để người csVN “tịch thu” đâu!



    Nếu người csVN thật tâm muốn hàn gắn vết thương còn mưng mủ giữa người Việt trong nước và người Việt tỵ nạn thì người csVN – bắt đầu từ năm nay, 2024 – hãy thể hiện bằng thái độ/ngôn từ và hành động khi người csVN tổ chức mừng ngày 30 tháng Tư!



    Điệp Mỹ Linh

    https://hung-viet.org/p22826a30197/han- ... 30-04-1975
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

VÀI LỜI CẦN NÓI VỀ NGÀY 30 THÁNG 4

Bài viết bởi Hoàng Vân »








VÀI LỜI CẦN NÓI
VỀ NGÀY 30 THÁNG 4

Bùi Chí Vinh




Sẽ không ai nhắc đến ngày 30 tháng 4
Như một ngày uất hận
Nếu ngày đó những người chiến thắng
Biết đối xử với nhân dân miền Nam bằng tình nghĩa đồng bào

Nếu ngày đó một giọt máu đào
Còn hơn ao nước lã của giặc Tàu phương Bắc
Nếu ngày đó đừng tập trung sĩ quan, công chức lên rừng thiêng nước độc
Đừng dửng dưng nhìn những thuyền nhân nữ vượt biên bị hãm hiếp dày vò

Nếu ngày đó đừng trả thù một cách tiểu nhân ti tiện so đo
Mà giang rộng cánh tay như trượng phu quân tử
Thì làm gì có lằn ranh giữa người và thú
Mà đã từ lâu Nam và Bắc một nhà

Sẽ không ai nhắc đến ngày 30 tháng 4 tang tóc xót xa
Nếu nước chảy về nguồn, lá rụng về cội
Nếu biến thống nhất thành sức mạnh Rồng Tiên vượt trội
Sử dụng văn minh, dân chủ, tự do làm tiêu chí hòa bình

Một chữ “nếu” đã không bao giờ xảy ra khi “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”
Khi “vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Khi Nguyễn Trãi có hồi sinh cũng ôm Đại Cáo Bình Ngô vô nhà đá
Khi kẻ sĩ ngoài kia còn bị hồn ma Nhân Văn Giai Phẩm ám cả đời

Tôi viết bài thơ tự khóc đất nước tôi
Cứ 30 tháng 4 là đất trời hừng hực
Cái nóng từ trong tim nóng ra, nóng như hỏa ngục
Biết đến bao giờ mới có cơn mưa dội xuống mát lành

Biết bao nhiêu năm rồi thiện ác vẫn phân tranh !



BCV


https://www.facebook.com/buichi.vinh.3/ ... TE5VnSwsVl
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”