- 30/04/2022 - tưởng niệm 47 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Tháng Tư Nước Mắt

Bài viết bởi Bạch Vân »

          



          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Cho người nằm lại đây

Bài viết bởi Bạch Vân »

          


Cho người nằm lại đây





Đá sỏi La Hai núi đồi Xuân Phước
trại giặc này ta ở đó sáu năm
đời tù mà ngày về không biết trước
bạn bè ơi ! bao kẻ chết âm thầm

những cái xác còn trừng con mắt ngó
ốm tong teo chôn vội giữa Trường Sơn
những cái xác trụi trần phơi sương gió
chết bơ vơ trong tủi nhục, căm hờn

A 20 ơi ! gông cùm khua rổn rảng
trong mưa mù ai thắp đuốc chôn nhau
nắm đất đào sơ thây vùi thật cạn
kiếp nạn này làm tắt vạn vì sao

mười năm bệnh tật theo chân rượt đuổi
mười năm tù vinh nhục trở bàn tay
người chết cố nhìn thêm giây phút cuối
Trường Sơn như vầy xác gởi cho ai ?

ta ở sáu năm đếm từng bè bạn
nhớ mãi trong lòng những cái chết đau
Thung Lũng Tử Thần trùng trùng khổ hạn
thương cho ai lỡ bỏ súng hôm nào

nguyễn thanh-khiết
(những ngày ở A20)

Nguồn:https://viettudianguc.wordpress.com


          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Nếu tôi còn sống mà trở về

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          







Nếu tôi còn sống mà trở về
Hà thúc Sinh - Bạch Vân


:sad3:
          

          


Nếu Tôi Còn Sống Mà Trở Về

Tác giả: Hà Thúc Sinh


Nếu tôi còn sống mà trở về
Thực lòng muốn sống nơi đây
Cũng không còn chỗ cho một người
Một người còn giống như tôi
Tự do thơm tho trong dòng máu
Hồn tôi không yêu ai lừa dối
Làm sao gai đâm trong thịt tôi
Mà không cất tiếng nói

Nếu tôi còn sống mà trở về
Hẳn là tôi sẽ ra đi
Dẫu cho què đui cũng xin làm
Một đời thằng mõ không công
Vợ con xin cam như bụi tan
Hành trang tôi không mang nhiều hơn
Quả tim tôi nung đã thành than
Và câu hát rất buồn

Đêm sau cùng theo lối có miếng trăng phai
Sẽ đi thăm một nước đã chết hết người
May ra còn ở trong những lăng miếu đổ
Tiếng tiền thân giận loài quỷ ám khóc than

Nếu tôi còn sống mà trở về
Hẳn là tôi sẽ ra đi
Rất xa để sống như con người
Được cười được khóc như ai
Rồi tôi ca lên những lời ca
Để cho anh em tôi được nghe
Việt Nam quê hương tôi là thế
Là tan nát não nề



          
Ngoc Han
Bài viết: 1586
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: - 30/04/2022 - tưởng niệm 47 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Ngoc Han »

Cám ơn Bạch Vân, bài hát hay mà buồn.

Mời cô, bác, anh, chị đọc tiếp bài viết của Tình Hoài Hương, trong này có đoạn viết về Phi hành đoàn Tinh Long 07 (AC119 Phi Đoàn 821) không tử nạn hết mà còn một người sống sót là Thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Chín nhảy dù ra được có link cho biết từ lúc phi cơ bị trúng SA7 xin bấm vào để đọc (hơi dài nhưng là tài liệu về quân sử KQ:
https://www.ac119gunships.com/wp-conten ... awings.pdf






Tưởng Niệm 47 năm về Cố Thiếu Tá Không Quân Trương Phùng
Tình Hoài Hương
*

Chiều ngày 28/4/1975 - khoảng 5:45’ trong phi vụ hộ tống Trung-tá Phan Văn Mạnh SĐ 3 KQ và toán chuyên viên Vũ-khí & Đạn-dược đặt chất nổ, để phá hủy các cơ sở của Bộ Chỉ Huy Kỹ-Thuật & Tiếp-vận KQ Biên–Hoà. Tôi, (Trần Văn Phúc) và Trung-úy Nguyễn Thành Bá, bay từ Dốc Sỏi ngang qua Cầu Mới, Biên Hòa. Tôi vừa quẹo trái từ hướng Tây sang hướng Đông, đột nhiên tôi thấy bốn chiếc A37 với đầy đủ bom đạn trong một đội hình dị thường; nghĩa là không giống ai, phi diễn không ra phi diễn, chiến đấu không ra chiến đấu. Phi cơ từ hướng Đông Bắc lao tới cùng một cao độ với chúng tôi.
Tôi cứ lầm tưởng là phi cơ của các phi đoàn bạn đang bay hành quân (từ miền Trung di tản về Tân Sơn Nhứt tháng trước), nên tôi vội vã kéo cần lái cho phi cơ mình bốc vọt lên cao, để tránh hai bên đụng nhau trong gang tấc. Đồng thời tôi hét trong vô tuyến để lưu ý anh Bá (bay chiếc số 2 theo tôi trong đội hình chiến đấu):
- Hai theo một! Coi chừng bốn A37 hướng 10 giờ!

Rồi tôi bay đảo lại và dòm theo bốn chiếc A37 bay xa dần. Tôi ngạc nhiên, vì thông thường một phi tuần khu trục đi bay hành quân chỉ có hai chiếc, hôm nay là ngoại lệ hay sao mà đặc biệt có tới bốn chiếc? Tôi nói tiếp với Bá:
- Giờ nầy mà mấy thằng "ma gà" A37 còn mang bom đạn đi lang thang kìa!
Chúng tôi đã suýt đụng nhau với chúng nó trên sông Đồng Nai, lại không thể nào ngờ đó là bọn phản tặc! Trời lúc ấy vẫn còn sáng tỏ, tôi chúi mũi cho phi cơ xuống thấp, bay dọc theo quốc lộ 1 tới Thủ Đức, tôi quẹo trái theo xa lộ Biên Hòa đi Long Bình, rồi về Biên Hòa dọc theo Quốc Lộ 1. Nhìn xuống dưới, tôi thấy dọc suốt lề đường có rất nhiều xe thiết giáp đậu cách nhau chừng trăm thước một. Muốn khích lệ tinh thần cho các chiến hữu Bộ Binh, nên tôi bay rất thấp. Vì vậy khi bọn phản tặc dội bom ở Tân Sơn Nhứt, tôi đã không trông thấy. Nếu tôi bay ở cao độ 5.000 bộ, chắc chắn tôi sẽ thấy những cột khói đen bốc lên từ phía Tân Sơn Nhứt (TSN). Chừng 20 phút sau Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính Sư–Đoàn-Trưởng SĐ 3 KQ báo cho biết:
- Có một phi tuần ba chiếc A37 vừa dội bom Tân Sơn Nhứt!
Tôi điếng hồn nghĩ tới phi tuần A37 mà mình vừa gặp, nên tôi “chỉnh“ lại ông trên tần số:
- Như vậy phải là bốn chiếc A37, vì tôi đã gặp bọn chúng cách đây không lâu! (mãi về sau nầy khi tôi kiểm chứng với nhà nghiên cứu sử Nguyễn Hùng Kiệt, anh đã xác nhận: phi tuần của đám phản tặc nầy có tất cả bốn chiếc A-37, nhưng không biết vì lý do gì, chỉ có ba chiếc dội bom Tân Sơn Nhứt mà thôi !?). Vào thời điểm Tân Sơn Nhứt bị dội bom, chiếc trực thăng của Tướng Tính chuẩn bị đáp xuống TSN, nên ông đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Đối chiếu với thông tin của sử gia Nguyễn Hùng Kiệt ; cả hai người (Tướng Tính & tôi) đều nói đúng sự thật!

Chúng tôi vội vã bay trở về Tân Sơn Nhứt, thì bọn phản tặc đã chuồn đi mất tăm biệt tích. Khi bay trên không phận TSN, đài Kiểm-soát Không-lưu (Sài Gòn Control Tower) báo cho chúng tôi biết:
- Phi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Vài chiếc C-47 bị trúng bom, một chiếc gần phi đạo đang cháy, vài nơi bị hư hại như hậu trạm cũ trước đây chứa các phi cơ A-1, (mới vừa dời về khu Tây lúc 1 giờ trưa cạnh bãi đậu của A-37). Nhưng thật may mắn hai phi đạo không hề bị trúng bom.

Sau mấy vòng bay quanh Tân Sơn Nhứt, tôi biết chắc chắn phi trường và nhứt là hai phi đạo vẫn an toàn, không cần thiết phải bay đi Cần Thơ. Nên tôi yên tâm bay trở lại Biên Hòa, để tiếp tục thi hành phi vụ hộ tống Trung-Tá Mạnh và toán chuyên viên vũ khí. Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ hộ tống Trung-tá Mạnh qua khỏi cầu Bình Triệu an toàn, tôi mang đầy đủ bom đạn về hạ cánh lúc 8 giờ tối.
Tôi gặp các anh bay F5, họ cho biết:
- Đang chờ lệnh đi ném bom trả đũa ở phi trường Phan Rang.
… Nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra -không biết vì lý do gì- !? Tôi thấy nhiều anh em trong Tân Sơn Nhứt có phần giao động tinh thần vì cuộc dội bom vừa qua. Do Radar không thể phát hiện (nếu bọn phản tặc bay thấp như lần vừa rồi, nên nhiều người lo sợ chẳng biết có thêm lần dội bom kế tiếp nào nữa hay không)? …Khi vô biệt đội khu trục lúc nửa đêm, tôi thấy các anh em thuộc PĐ 514 và 518 nằm xếp lớp như cá mòi ngay trên nền nhà.

Tôi lặng lẽ nằm xuống một chỗ trống còn lại, bên cạnh cái điện thoại dã chiến mới vừa móc dây. Tôi nằm đó, nghiêng qua trở lại rất lâu, không thể nào ngủ được, vì trong lòng ngổn ngang những tiếc nuối & hối hận dày vò cắn rứt tim tôi: khi nhớ lại cơ hội ngàn năm có một, mà mình vô tình để nó trượt thoát khỏi tay, tiếc thay lúc chiều tôi đã không bấm cò đại bác bắn thẳng vô lũ phản tặc A37 (sau nầy, khi biết tên Nguyễn Thành Trung chính là kẻ đã “rước giặc vô nhà”, nó bay dẫn đường cho đám phản tặc A37 đó, tôi lại càng hối hận & tiếc nuối nhiều hơn nữa!).

Quá mệt mỏi tinh thần và rã rời thân thể, tôi vừa chợp mắt tí xíu, đã phải choàng tỉnh ngay lập tức, vì những tiếng nổ vang trời. Phi trường bị pháo kích! hàng loạt hỏa tiễn 122 ly điên loạn lao xuống rít xé bầu trời, nổ tung khắp trong căn cứ & phi trường TSN, nơi tập trung dày đặc những quân nhân Không-quân, và gia đình của họ mới vừa đổ dồn từ ngoài vùng I, vùng II di tản về. Điện bị cúp. Nhưng dù điện không cúp, thì tất cả vẫn chìm trong bóng tối như địa ngục, vì sức ép nổ của những quả hỏa tiễn rơi quá gần, làm vỡ tung nhiều bóng đèn trong biệt đội khu trục chúng tôi... Thật là may mắn đến kỳ lạ khi mọi người đang nằm sát nhau dưới nền nhà đều bình an vô sự! Cảm ơn Thượng Đế vô vàn.

Điện thoại reo! Do nằm sát gần điện thoại, tôi bốc máy lên nghe, và chuyển lệnh điều động cất cánh khẩn cấp cho Thiếu-tá Lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân PĐ Phi Long 518. Trong bóng tối dày đặc, không nhìn thấy mặt bất cứ ai, mà chỉ nghe tiếng nói của tôi vừa chuyển lệnh. Thiếu-Tá Sang hỏi luôn:
- Phúc đó hả, Phúc đi bay được không?

Theo đúng Huấn Thị Khu Trục, tôi vừa mới bay xong phi vụ yểm trợ rút quân hồi đầu hôm, nên tôi có quyền từ chối đề nghị nầy của Thiếu-Tá Sang. Nhưng hình như cái “mặc cảm tội lỗi của mình đang dày vò” vì thiếu cảnh giác đã để bọn phản tặc A37 vượt thoát. Muốn chờ có cơ hội “chuộc lại lỗi lầm” , tôi liền bật lên tiếng nói:
- Đương nhiên là được, nhưng wingman (phi tuần viên) là ai?
Chưa có ai kịp lên tiếng, thì từ trong bóng tối cuối phòng, nghe tiếng Thiếu Tá Trương Phùng vang lên:
- Trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết. Tao đi với mi, coi có chết thằng Tây nào không!?

Phi trường bị pháo kích dữ dội, nên lúc đó không có xe đưa đón Phi Hành Đoàn. Không thể chậm trễ, anh Phùng gọi tôi leo lên chiếc xe Jeep dân sự. Anh lái xe như bay phóng ra khỏi bãi đậu. Nhìn anh lái xe vun vút như bay, tôi thầm cảm phục người đàn anh gan lỳ, quả cảm. Anh Phùng là người hùng của mặt trận Quảng Trị năm 1972: với chiến tích lẫy lừng anh đã “nướng sống" 15 chiếc xe Tăng T-54 của bọn cộng phỉ!
Anh Phùng nói:
- … Mẹ nó! Tao chưa hề thấy tụi nó pháo dữ dằn như hôm nay! Tụi nó định dứt điểm mình bữa nay sao cà?
Rồi anh nói tiếp:
- Bất cứ giá nào cũng phải lên (cất cánh), hy vọng mình có thể bảo vệ bao nhiêu người vô tội ở đây. Nếu như bị hy sinh, âu cũng là dịp để mình đền ơn Tổ Quốc.
Tới bãi đậu A-1, anh em phi đạo đã ứng trực sẵn sàng, anh Phùng hét lớn trong tiếng nổ vang rền của đạn pháo:
- Nổ máy là “chock out” ngay, rút những khúc gỗ chận bánh xe phi cơ ra, rồi các bạn tìm chỗ núp! Mặc kệ chúng tôi, đừng để chết chùm hết cả đám đấy!
Máy vừa quay tròn vòng, thì có nhiều tiếng nổ long trời ở bãi đậu A-37 kề bên, nhiều quầng lửa như cây nấm khổng lồ cuồn cuộn bốc phụt lên cao. Không chần chờ, tôi cho phi cơ di chuyển ra khỏi ụ. Vẫn đứng cạnh máy bay, anh Phùng ra dấu cho tôi biết bình điện của phi cơ bị hư. Vì vậy, tôi quyết định cất cánh một mình, như đã Briefing trước đó. Tôi ra hiệu cho anh Phùng, rồi gọi Đài Saigon Ground Control (đài Kiểm Soát Diện Địa Sài Gòn) xin di chuyển ra phi đạo.
Đài trả lời ngay:
- Phi Long 51 (PL51)! Phi đạo sử dụng 25, gió hướng Nam 4 knotts, áp suất 29.92.

Nhận thấy gió ngang gần như thẳng góc với phi đạo và rất nhẹ (4 knotts), tôi có thể cất cánh bất cứ hướng nào. Nhưng tôi không thể dùng phi đạo 25: vô cùng nguy hiểm; vì khi bay lên, sẽ chui ngay vô đạn đạo của địch đang pháo kích. Nếu cất cánh phi đạo 07, tôi quẹo trái để tới đầu PĐ 07, thì phải di chuyển ngang qua bãi đậu A37 đang cháy rực lửa, cũng rất nguy hiểm. Vì vậy, tôi có ý định quẹo phải theo Taxiway #3, để cất cánh ở PĐ 07. Nghĩa là ngược chiều phi đạo sử dụng. Tôi chỉ có thể dùng ½ chiều dài phi đạo còn lại. Cứu binh như cứu lửa, không còn cách nào khác tôi quyết định gọi:
- Saigon Ground Control! PL51 request taxi ra Whisky number three - và cất cánh PĐ 07.

Ngay khi được phép, tôi liền di chuyển ra phi đạo 07 R, miệng lẩm bẩm: "Người đẹp của tôi ơi! em ráng giúp anh thêm một lần nữa! đừng ho hen nhen cưng"! Pilot chúng tôi xem chiếc máy bay mình lái như là người vợ, người tình muôn thuở. Đặc biệt em Skyraider tuổi già sức yếu (gần giống như răng các bô lão rụng, hu hu!... nên đôi khi em ưa “nũng nịu, nhõng nhẽo" í mà). Sau khi thử máy (dù biết chưa nóng máy), tôi xin đài Saigon Tower cho phép cất cánh khẩn cấp. Vì chỉ còn lại ½ phi đạo, nên tôi phải dùng phương cách “Maximiun Performance Take Off", và cất cánh lúc 04 giờ 25 phút sáng ngày 29/4/1975. Vừa rời khỏi phi đạo, lòng tôi rộn rã một niềm vui mừng khó tả. Cảm tạ ơn Trên cho tôi cơ hội cứu nguy mọi người trong Tân Sơn Nhứt. Sang tần số Paris (đài Kiểm Báo Sài Gòn):
- Paris! PL 51 vừa cất cánh một chiếc A1 với 10 trái MK 81. Xin nhận chỉ thị.
Đài Paris chưa kịp trả lời, tôi đã nghe:
- PL 51! Đây Tinh Long 06 (TL06), bạn đến Phú Lâm ngay! Chỗ có nhiều trái sáng. Bao lâu bạn tới?
- TL06! PL 51 mang 10 trái MK 81, sẽ có mặt trong 5 phút và request Random Attack! OK!

Khi lên tới Phú Lâm, tôi được Trung-úy Trần Văn Bảo, Trưởng Phi Cơ của chiếc AC-119K hướng dẫn oanh kích: mục tiêu là hai làn khói của hai giàn pháo 122 ly. Tôi rất ngạc nhiên vì mục tiêu chỉ cách đài Radar Phú Lâm hơn 500 mét về hướng Tây. Nhờ lặng gió nên hai làn khói nầy vẫn còn la đà trên mặt đất. Lập tức, tôi lao xuống và gọi liền:
- PL51 in hot và thả từng trái một!
Sau khi thả trái bom xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngừng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến:
- Phi Long 51 trút hết bom đạn xuống target! Tối nay ghé nhà tôi nhậu!
Tôi hỏi lại:
- Giới chức vừa ra lệnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.
- Tôi Thần Phong 01, Thiếu Tướng Kỳ đây!
- Thần Phong 01! PL51 lên một mình với 10 trái bom 250 cân Anh, tôi có kinh nghiệm chống pháo kích. Thần Phong 01 an tâm. Tôi có thể ở đây thêm ba giờ nữa.
Khoảng 15, hai mươi phút sau, có lẽ bọn cộng-phỉ nghĩ tôi đã hết bom, nên chúng bắt đầu pháo trở lại. Từ trên không trung tôi thấy rõ nhiều giàn pháo, mỗi giàn 4 khẩu 122 ly liên tục phóng lên. Liếc dòm về hướng Tân Sơn Nhứt, và Sài Gòn có nhiều quầng sáng nháng lên, tôi liền lao xuống thả bom và thầm gọi: "Anh Phùng ở đâu, sao không lên tiếp tay với tôi? Một mình tôi làm không xuể đâu! Anh Phùng ơi"! Năm phút sau, khi định nhào xuống thả bom, tôi thấy có vài đám nổ dưới mục tiêu, tôi tưởng lầm là rocket của trực thăng võ trang bắn xuống, tôi liền cự nự Trung-úy Bảo:
- TL06! Bạn cho tôi đánh random attack, sao bạn lại cho gunship (trực thăng võ trang) vô “ăn có”? Nó bay cao độ thấp, lỡ không thấy, tôi nện ngay trên đầu nó, thì phiền lắm!
Anh Bảo liền cãi chánh:
- Không phải đâu PL51, tôi đã đuổi tụi nó qua bên Quốc Lộ 4 rồi. Để tôi quan sát kỹ lại.
Lúc đó có khoảng ba bốn chiếc trực thăng quây quần phía Đông Bắc Phú Lâm. Sắp nhào xuống thả bom lần kế tiếp, tôi lại thấy có ánh lửa nổ tung và tiếng anh Bảo la:
- Ê ...PL 51! Tôi thấy có một chiếc dường như là A-1 vô đánh phụ với bạn đó! Chắc chắn không phải là gunship đâu!
Nghĩ tới anh Phùng, tôi trả lời anh Bảo:
- TL06! chắc là Thiếu Tá Phùng! Có thể anh Phùng bị trục trặc về vô tuyến! Bạn an tâm, monkey see monkey do (thấy tôi thả bom ở đâu, thì anh ấy sẽ thả bom ở đó).
Nhờ sự yểm trợ hỏa châu của TL-06, chúng tôi dễ dàng “lượm” những giàn pháo như lấy kẹo trong túi. Thanh toán xong các giàn pháo nầy, thì tôi cũng vừa hết bom.
- TL06, tất cả giàn pháo đã “clear” (bị hủy diệt sạch) tôi giao ở đây cho bạn. PL51 để dành 800 viên 20ly phòng thủ phi trường.

Vì muốn biết người phụ tôi diệt pháo vừa rồi, có đúng là anh Phùng không? nên tôi sang tần số của đài Sài Gòn:
- Saigon Tower! Đây PL51. Bạn cho tôi biết: sau tôi còn có chiếc A1 nào cất cánh nữa không?
Tôi được nghe Saigon Tower trả lời:
- Tụi nó pháo quá, chúng tôi núp dưới hầm trú ẩn. Vừa lên, nên không biết gì hết bạn à!
Khoảng 5:25’ sáng tôi về tới Tân Sơn Nhứt, trời vẫn còn tối đen như mực, ngoại trừ những ánh đèn phi đạo và taxiway, còn có hai đám cháy: một đám ở bãi đậu A37 (như đã nói ở trên), còn đám cháy thứ hai... dù tôi đã cho phi cơ đảo nhiều vòng, nhưng vẫn không nhận ra chính xác là nơi nào. Nhưng sau ít phút nhờ ánh sáng lờ mờ bập bùng còn lại của đám cháy, tôi nhận ra là ở phía Nam của dinh Tướng Kỳ độ chừng trăm mét. Tự nhiên trán tôi rịn mồ hôi, tay run lẩy bẩy tim đập dồn dập, và ứ nghẽn lồng ngực muốn nghẹt thở. Hình như đám cháy là ở khu cư xá C7, là nơi vợ con tôi tạm trú. Miệng tôi không ngớt cầu nguyện: "Cầu xin ơn Trên che chở cho vợ con của con, và những người khác được bình yên".

Ngay lúc đó, trong lòng tôi bùng lên một cơn giận dữ & căm thù bọn cộng-phỉ. Nếu vợ con tôi có mệnh hệ nào, tôi thề sẽ thí mạng với bọn chúng! Mươi phút sau, tôi thấy chiếc TL07 cất cánh lên thay thế chiếc TL06 về đáp. Tôi tiếp tục bao vùng trên không phận Tân Sơn Nhứt, cho đến khi có ánh sáng bình minh lờ mờ, tôi nhận ra đám cháy chính là cư xá Nữ Quân Nhân. Tôi nóng lòng muốn đáp xuống, nhưng chưa có phi tuần nào lên thay thế.

Vài phút sau tôi nhìn qua cánh phải: thấy có một chiếc AD-5 còn treo hai trái bom cứ bám sát theo phi cơ tôi. Tôi sang tần số và gọi đài Saigon Tower một lần nữa, để xác định chiếc AD-5: “có phải là của anh Phùng không”. Câu trả lời vẫn là “Không biết”. Vừa lúc đó “anh bạn dễ ghét” như muốn chơi trò trốn tìm “ú tim” với tôi, nên anh ấy cho phi cơ hết lòn qua trái, lại chui qua phải. Tôi bất ngờ cắt bán kính quẹo vòng thật gắt, định ra sau chiếc phi cơ nầy. Nhưng anh bạn “dễ ghét” kia là một tay cao thủ tuyệt đỉnh, lúc nào anh cũng bám riết theo sau. Khi qua trái khi sang phải, thiệt tình anh cố ý trêu đùa tôi. Nếu là dogfight (không chiến) thì tôi bị tay lão luyện nầy “dớt rụng càng” mất toi từ khuya rồi!

Trên tần số Paris, tôi nghe giọng của Thiếu-tá Hồ Ngọc Ấn, Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 liên lạc với TL07, cho biết: “phi tuần hai chiếc A1 của anh đang ở Long An, trên đường tiến về Sài Gòn. Đại-uý Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2. Khoảng mười phút sau, Trung-uý Trang Văn Thành, Trưởng Phi Cơ của TL07 gọi trên tần số:
- Phượng Hoàng 11, tôi nghi ngờ có một toán đặc công độ năm bảy tên, định cắt hàng rào kẽm gai phía Bắc phi trường, chỗ miếng đất trống hình tam giác ở An Nhơn. Bạn cho một trái ngoài hàng rào, đánh trục Đông qua Tây. Tôi giữ cao độ 5.000.

Vì biết phi tuần anh Ấn chưa tới nơi, nếu cần thiết tôi có thể dùng bốn cây đại bác 20 ly bắn dọc theo vòng rào. Tôi bay đến đó khi mặt trời vừa ló dạng sáng tỏ hơn, nhưng ở độ cao 4.000 bộ nên tôi không thấy gì cả. Thình lình anh Phùng lao xuống thả một trái bom. Thì có tiếng anh Thành hốt hoảng la lớn:
- Số 1 thả bom “như để” . Số 2 đánh dài hơn vài mươi thước.
Trái thứ nhì rơi dài hơn năm chục thước.
Anh Thành hoảng hốt:
- Phượng Hoàng 11 Hold High and Dry (ngưng thả bom). Số 2 của bạn đánh gần nhà dân quá!
Thiếu tá Ấn liền lên tiếng:
- TL07! No. Ai khác đánh đó, chớ không phải Phượng Hoàng 11. Tôi chỉ mới tới Bến Lức, làm sao thả bom ở đó được!

Thì ra anh Thành lầm lẫn phi tuần của tôi (là phi tuần anh Ấn). Tôi vội lên tiếng:
- TL07! Đây PL51. Đó là Phi Long 52 (chiếc số 2 của PL51) nó bị hư vô tuyến, chỉ còn hai trái vừa thả hết rồi. Còn tôi đã “Empty” (hết bom).
Nhận ra tiếng của tôi, Đại-uý Thụy (người bạn cố tri cùng PĐ Thái Dương 530 với tôi ở Pleiku) gọi tôi:
- Ê Phúc! Mày về Cần Thơ đi, đáp ở Tân Sơn Nhứt nguy hiểm lắm!
Nhìn đồng hồ xăng có 800 lbs, vừa đủ để bay đi Cần Thơ, nhưng tôi đã có quyết định đáp Tân Sơn Nhứt từ trước, nên trả lời:
- Vợ con tao còn kẹt lại đây, giá nào cũng phải đáp Tân Sơn Nhứt. Tình hình ở đây chưa đến nỗi nào đâu.
Đột nhiên anh Phùng gọi tôi:
- Ê ...PL51, đi Cần Thơ nghen! Bay với mi gần 3 tiếng, chừ mới liên lạc được một xí. Tao nghe được, nhưng bị câm. Bực mình quá!
Tôi vội bấm máy trả lời:
- Không! Tôi chỉ còn 600 pounds xăng, vả lại vợ con tôi kẹt ở đây. Anh đi Cần Thơ một mình trước!
Lúc bấy giờ TL07 đang bay 5.000 bộ, nên anh Thành muốn xuống thấp cho dễ quan sát, và ngó rõ hơn, nên anh báo cho chúng tôi biết:
- PL51! TL07 xuống cao độ để nhìn rõ hơn. Tôi không muốn đánh lầm vô nhà dân, tội họ lắm!
Không ngờ mấy phút sau, khi chúng tôi bay trên Lăng Cha Cả ở cao độ 1.500 bộ, anh Phùng gọi tôi:
- Ê một! Mình đáp xuống Tân Sơn Nhứt đi!
Lo ngại vô tuyến bất thường của anh hư, nên tôi nhường cho anh Phùng đáp trước. Nhưng trước khi Touchdown (chạm bánh), anh Phùng lại gọi tôi:
- Một! Mi đáp trước đi, tao Go Around (bay lên lại). Mi chờ ít phút, tao về chở mi vô nghen!
Nóng lòng vì vợ con ở kế bên đám cháy (cư xá Nữ Quân Nhân), nên tôi không bay theo anh Phùng như thông lệ. Tôi tiếp tục vào Final (cận tiến), thì Sài Gòn Tower báo cho chúng tôi:
- PL51, có SA7 bắn lên. Tôi thấy mấy cục lửa bằng cườm tay bay lên!
Vì tôi đã chứng kiến SA-7 bắn ở Kiến Đức cuối năm 1973, nên tôi có ý nghi ngờ:
- Saigon Tower, SA-7 bắn lên lúc đầu: là một vùng lửa to màu cam, sau đó đổi qua màu trắng xanh, bay lên rất mau. Bạn quan sát kỹ chưa?
Anh bạn nầy có vẻ bất bình trả lời:
- PL51, tôi báo cho bạn biết, mà bạn không tin, nếu bị bắn bạn ráng chịu nha!
Tự nhiên tôi nhớ đến Trung-tá Phạm Văn Thặng Fulro khi ông "xỉn", ông thường ngâm nga... nên tôi nghêu ngao trên tần số: "Làm sao giết được người trong mộng …1, 2, 3 touchdown"!

Di chuyển về bãi đậu lúc 6 giờ 55 phút, anh em phi đạo reo mừng, họ công kênh tôi như đón một vị cứu tinh! Rồi chúng tôi theo dõi chiếc TL07 nghiêng cánh trái ở cao độ chừng vài ngàn bộ, và xạ kích xuống mục tiêu. Từng tràng đại bác 20 ly (Minigun 6 nòng) nã xuống như mưa, tiếng kêu như bò rống. Tôi trấn an anh em:
- Target đó ở ngoài vòng rào, chỉ là tình nghi thôi! Ông Trung-uý Thành muốn biểu diễn cho mọi người coi chơi cho vui vậy mà!
Tôi vừa dứt lời, thì đột nhiên chiếc TL07 trúng hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa, động cơ bên phải phát hoả nổ tung, cánh phải gãy xuống, đồng thời phòng lái bốc cháy. Phi cơ ngoẹo đầu qua trái, lao xuống và rơi vào spin (xoay tròn như bông vụ). Tất cả mọi người xung quanh tôi hoảng hốt hét lớn:
- Nhảy dù đi…
- Nhảy dù…
- Nhảy dù mau lên…

Nhưng quá trễ, tôi không thấy cánh dù nào kịp bung ra, chiếc phi cơ đã cắm phụp đầu xoáy xuống đất rất mau. Những cột khói đen lửa đỏ cuồn cuộn bốc phụt lên cao hàng trăm mét. Toàn bộ phi hành đoàn đều hy sinh. Tất cả chúng tôi bàng hoàng sửng sốt, đứng chết lặng không hề muốn mà nước mắt tự dưng tuôn trào. Một lúc sau, mọi người cúi đầu lặng lẽ trở về làm nhiệm vụ của mình. Từ giờ phút nầy phi trường TSN thật sự không còn an toàn nữa, vì sự xuất hiện của SA-7 khắc tinh của tất cả các loại máy bay.

Riêng tôi, ngồi bệt xuống bãi cỏ bên lề phi đạo, mắt vẫn hướng về những cột khói đen bốc lên cao, như anh linh của Phi Hành Đoàn TL07 đang siêu thoát. Tôi hy vọng Thiếu-tá Trương Phùng bay đi Cần Thơ, tuy nhiên tôi vẫn có ý trông đợi anh Phùng trở về. Tôi chờ mãi, chờ hoài… tới khi anh tài xế xe bồn tiếp xăng giục tôi lên xe, để trở vô biệt đội khu trục. Trong lòng tôi thầm nghĩ:
- Đúng rồi, anh Phùng bay đi Cần Thơ là hợp lý nhứt!

Sau 9:30’ giờ sáng ngày 29/4/75 bọn chúng bắt đầu nã đì đùng bằng đại pháo 130 ly, đặt ở Nhơn Trạch gần Thành Tuy Hạ - Cát Lái. Nhưng lúc bấy giờ không ai thèm màng tới việc diệt pháo nhỏ giọt vô Tân Sơn Nhứt nữa. Trong phi trường thỉnh thoảng đạn 130 rơi rớt đâu đó, may mắn sao không trúng tôi. (ha ha...) Cả căn cứ Tân Sơn Nhứt không một bóng người, bầu trời vô cùng u ám, một phần vì thời tiết chuyển mưa, một phần vì những làn khói đen lan tỏa la đà từ chiếc TL-07 còn bốc cháy. Tôi có cảm tưởng như mình lạc vô bãi tha ma lúc hoàng hôn.

Sau khi Quân-cảnh không cho tôi ra cổng Phi Long, tôi không nói được một lời gì với vợ con (họ theo gia đình Vân về nhà), tôi trở vào trung tâm hành quân Không Quân chờ lịnh. Nửa giờ sau tôi định đi ra ngoài bằng cổng trại Hoàng Hoa Thám; nhưng khi đi tới cuối sân banh, tôi gặp ba ông Thiếu-tá: Sơn, Bản, Liêu - PĐ 530, họ chạy ngược chiều, kêu tôi:
- Ê Phúc! được lệnh đi Cần Thơ. Mau lên.

Tôi chạy theo họ ra bãi đậu, chiếc AD5 của Thiếu-tá Hồ Văn Hiển PĐ 514 đang chờ. Tôi là hành khách bất ngờ bất đắc dĩ cuối cùng thứ 20. Máy bay rời Tân Sơn Nhứt lúc 11 giờ trưa. Lúc bấy giờ ở Tân Sơn Nhứt có lẽ không còn phi cơ nữa (sau khi yểm trợ quân bạn ở Bến Cát xong, trên đường về Cần Thơ, Thiếu-tá Hiển đáp xuống, để rước chúng tôi). Khi tới Cần Thơ, tôi vội vã đi tìm anh Trương Phùng khắp nơi.
Nhưng tìm hoài không thấy anh Phùng đâu cả!

Ôi! Thì ra… thật vô cùng đau đớn, xót xa, nghẹn ngào không sao tả xiết, vì một cánh chim oai dũng phi thường oanh liệt đã một mình một bóng sớm xa tổ lìa đàn, anh thênh thang bay về cõi vĩnh hằng miên viễn... để lại trong lòng anh em bao tiếc thương vô tận.
Đó là: cố Thiếu Tá Không Quân TRƯƠNG PHÙNG... sinh năm 1943 tại Thừa Thiên. Anh oanh liệt hy sinh ngày 29 tháng 4 năm 1975 tại Bình Điền, Long An. (Sài Gòn).?
***

Mãi đến tận ngày bây giờ... tôi (Trần Văn Phúc, Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51, hiện ở Cali) vẫn cảm thấy luôn hối tiếc: vì Trời đã cho tôi một cơ hội ngàn vàng, để tôi có thể bắn hạ bọn phản tặc ác ôn A37 Nguyễn Thành Trung (tôi đã học kỹ thuật không chiến Dogfight trong khóa Phi Tuần Trưởng với Trung-tá Nguyễn Văn Huynh PĐP PĐ 518), mà tôi lại vô tình để vuột mất cơ hội ngàn năm một thuở! Trường hợp “tao ngộ chiến" hy hữu đó, bọn cộng phỉ không trông thấy chúng tôi, vì bị chói ánh mặt trời chiều, nên chúng nó không có phản ứng né tránh nào, chúng vẫn ung dung bay thẳng tới trước.

Chỉ cần lách qua một bên, bật nút ARM - ON, bóp cò súng bắn ngang hông ở phía sau bọn chúng, thì 800 viên đại bác 20 ly trên mỗi chiếc A1 sẽ không tha bọn chúng. Hoặc lúc đó tôi gọi Paris (đài Kiểm Báo Không Lưu TSN) báo động khẩn cấp. Các phi cơ F5-E đang ứng trực ở đầu phi đạo TSN, sẽ tức tốc cất cánh lên xơi tái chúng, thì bọn chúng chẳng còn mạng, để sau nầy vung vít mà “bốc phét”! Đây có phải là vận mệnh thảm khốc đau buồn của đất nước Việt Nam đã an bài: ngày 30/4/1975 hắc ám!

* Trên không phận Sài Gòn lúc bấy giờ (29/04/75) chỉ có ba chiếc phi cơ: TL07, phi cơ anh Phùng và phi cơ của Phúc.

* (TL07 chỉ xuất hiện sau 6 giờ sáng. Phi tuần hai chiếc A1: của Thiếu-tá Ấn & Đại–úy Thụy trên đường về Sài Gòn).

* Có lẽ vì sợ SA-7 nên ông Đại Sứ Martin phải nói dối trước Quốc Hội Mỹ: “Hai phi đạo bị trúng pháo kích, hư hại nặng nề, mà ông phải ra lịnh di tản người Mỹ bằng trực thăng”?

* Vì Phi Hành Đoàn TL07 có nhiều người tình nguyện đi bay lúc khẩn cấp, nên hầu hết nhân viên PHĐ không ghi đúng tên trong phi lệnh. Tôi chỉ biết có:

* Trung-úy Trang Văn Thành (Trưởng phi cơ), xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhập ngũ ngày 12/9/1967, khoá 68A TTHLKQ Nha Trang. Anh Thành là cháu rể của cố Thiếu-Tướng Võ Xuân Lành TLPKQ. Anh Thành có hai biệt danh: ở quân trường Nha Trang anh có tên “Thành Thụt”, vì đôi mắt sâu thẳm, tánh tình anh rất cương trực, hăng say, năng nổ trong mọi công việc. Khi về PĐ C119 anh Thành có thêm một biệt danh: “Thành Kampuchia” (vì màu da ngâm ngâm của anh).

* Đêm 28/4/75 Trung uý Trang Văn Thành tình nguyện bay thêm phi vụ Extra TL 07, mặc dù trước đó anh đã bay phi vụ TL01 hồi đầu hôm rồi & Trung uý Tào Thuận, hoa tiêu phụ & Thiếu uý Phạm Tấn Đức. Họ vĩnh viễn ra đi... nhưng để lại sự thương tiếc kính phục vô cùng của hàng vạn người trong và ngoài Tân Sơn Nhứt.
*
Trần Hoài Hương chân thành cảm ơn:
* Đại-úy Không-quân Trần Văn Phúc - (Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51, hiện ở California đã kể cho tôi biết rõ ràng)
* Thiếu-tá Không-quân Hồ Ngọc Ấn, Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 (hiện ở Dallas).
* Đại-uý Không–quân Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2, hiện ở Houston.
... quý vị Không-quân đã có tên trong bài viết đã cho tôi mạn phép chuyển tải sự thật về ngày 28 & 29 tháng Tư năm 1975: trung thực, chính xác, nóng bỏng & vô cùng đen tối, hắc ám của lịch sử Việt Nam.
* Đồng thời THH xin phép cám ơn quý vị nhiếp ảnh gia đã post tấm hình lên internet, (nếu có copyright), ngỏ hầu phong phú hóa hình ảnh sống động và tài đức & nghệ thuật của quý vị.
*
Tình Hoài Hương
Thiên Hùng
Bài viết: 314
Ngày tham gia: Thứ tư 04/08/21 06:15

Ngày Ấy ...

Bài viết bởi Thiên Hùng »



Ngày Ấy ...

Ngày ấy trong thành phố của tôi
Con đường quen thuộc bỗng xa xôi
Ngơ ngác tôi nhìn đoàn khách lạ
Có gì đã mất ở trong tôi

Lê Thánh Tôn Lê Lợi Tự Do
Còn đâu tà áo màu xanh đỏ
Em gái ơi chiều công viên lộng gió
Bến Thủ Thiêm ai nức nở gọi đò

Có phải là đây chợ Bến Thành
Phố kia sao giống phố Hàng Xanh
Nhưng người người đứng lau dòng lệ
Quấn vội lên đầu khăn trắng tang

Và tôi còn có thật là tôi
Giữa biển dâu bao phủ kiếp người
Không mưa sao mắt mi nhòa nước
Không rượu nồng môi mặn đắng môi

Tôi nghĩ mai nầy tôi phải đi
Nhưng tôi không biết nói câu gì
Uất hận làm tôi như nghẹn tiếng
Thành phố ơi mình sắp biệt ly

Thành phố xa tôi có nhớ không
Riêng tôi ... tôi vẫn nhớ vô cùng
Hàng me in bóng đèn cao áp
Bến Bạch Đằng sông nước giởn trăng

Cho dù xuôi ngược ở tha phương
Nòi giống Tiên Long vẫn quật cường
Thành phố chớ quên lời hẹn nhé
Hẹn ngày quang phục lại quê hương

Thiên Hùng :wipetear:
Mây thiếu gió, mây buồn rơi xuống thấp
Gió thiếu cây, há được gọi cuồng phong
Cây thiếu hoa, sao tránh khỏi thẹn lòng
Hoa thiếu bướm, hoa thẫn thờ rũ cánh
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Hai Phi Vụ Nhớ Đời - 47 Năm Nhìn Lại

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Hai Phi Vụ Nhớ Đời
    - 47 Năm Nhìn Lại

    _________________________
    Phi Long 51 _ 04/2022




              

              




    Lời người viết:

    Nhận thấy hơn 4 thập niên qua, tất cả nguồn tin liên quan tới những gì xảy ra tại phi trường Tân Sơn Nhứt vào những ngày cuối tháng tư năm 1975 đều không đúng và khốn nạn nhất là lời đối thoại của người viết với cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ bị thay đổi 1 cách trâng tráo.

    Vì tôn trọng sự thật người viết ghi lại những dữ kiện với 1 mục đích duy nhất là làm trong sáng 1 giai đoạn đen tối của lịch sử mà rất nhiều người tùy tiện ghi lại.

    Thí dụ:

    - Quyển sách mang tên “Quân Sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa 1955- 1975” phát hành năm 2005 ở Úc Châu, sử da của quyển sách mệnh danh là Quân Sử nầy tùy tiện phóng uế, noi gương tên Bộ Trưởng Bộ Thông Tin Tuyên Truyền Trần Huy Liệu của Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã và đang tẩy não mọi thế hệ người Việt qua kiệt tác “Anh hùng thiếu nhi Lê Văn Tám”:

    * Trang 156 “ hai chiếc khu trục A- 1H của Phi Đoàn 518 Phi Long đã anh dũng ngăn chặn các đợt tấn công của địch vào phi trường Tân Sơn Nhứt. Khi trời sáng, có thêm hai A- 1H của Phi Đoàn 514 Phượng Hoàng (lúc đó đã di tản về Bình Thủy) Bốn chiếc khu trục quay sang tấn công quân địch ở hướng Phú Lâm” (gán cho những việc mà người viết không làm thì không nên)

    * Trang 198 ghi rằng “các khu trục cơ của hai Phi Đoàn 514 Phượng Hoàng và 518 Phi Long từ Bình Thủy bay lên”

    * Nhưng trang 348 sử da nầy phán về Thiếu Tá Trương Phùng “Trong cơn mưa pháo kích dữ dội vào phi trường Tân sơn Nhứt từ tờ mờ sáng ngày 29 tháng tư 1975 và mặc dù anh không có tên trên phi vụ lệnh hành quân nhưng vì lo lắng cho sự an toàn của các bạn đồng đội, cho tình hình an ninh của phi trường, anh đã tình nguyện dẫn phi tuần mình cất cánh đầu tiên lên vùng trời Sài Gòn để giải trừ các giàn phóng hỏa tiễn, các ổ trọng pháo dang nhả đạn tới tấp vào đô thành và phi trường...” như vậy Thiếu Tá Phùng cất cánh từ Tân Sơn Nhứt hay Cần Thơ? hay cả 2 nơi chăng?

    * Và cũng trang 198 sử da nầy đã hùa theo tờ báo Tuổi Trẻ của Cộng Sản Việt Nam phao tin phét lác rất chi tiết về “Phi Đội Quyết Thắng” của tên Nguyễn Thành Trung để đầu độc và tẩy não mọi người suốt nhiều năm qua.







    - Năm 2008 tình cờ tôi đọc bài “Ky est Ky” (sic) trên mạng phanchautrinhdanang.com30thangtu (đã ngưng hoạt động) nhà văn Phan Nhật Nam gọi người viết là “viên phi đội trưởng khinh mạng” xấc xược trả lời Tướng Kỳ và sỉ nhục chúng tôi (Thiếu Tá Phùng và người viết) là đám hỗn quan hỗn quân.

    - Cuối bài xin gửi 1 đoạn video ngắn mà người viết có duyên lưu lại để làm sử liệu từ năm 2008.

    Đoạn video nầy được cố ký giả Don Harris thu hình sáng ngày 29/4/1975 từ sân thượng của khách sạn Palace, Sài Gòn và không biết vì lý do gì không được trình chiếu. Ngày 18 tháng 11 năm 1978 ông bị thảm sát ở Jonestown, Guyana. Mãi đến 33 năm sau, năm 2008 trong lúc dọn dẹp phim trường nhân viên tìm thấy và trình chiếu đoạn video nầy lần đầu tiên và duy nhất nhân dịp kỷ niệm 30 tháng 4 năm 2008.

    (xin chú ý từ lúc thấy hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 bay theo và trúng chiếc AC-119K và từ đó cho đến khi thấy khói đen cuồn cuộn bốc lên từ mặt đất, mỗi đoạn không quá 15 giây).

    Riêng về các giới truyền thông, phim ảnh, sử gia, ký giả thổ tả nước ngoài, kể cả người Việt, tất cả đều bẻ cong sự thật về 2 ngày 28 và 29/4/1975 tại phi trường Tân Sơn Nhứt mà người viết có duyên làm chứng nhân.

    Cầm đầu là ký giả tự xưng sử gia người Pháp, tên Olivier Todd xuất bản tác phẩm “Cruel Avril, 1975” Anh ngữ hay “La Chute de Saigon” Pháp ngữ vào năm 1987 tại Paris và sau đó mọi người ca tụng và xem quyển nầy như là quyển Thánh Kinh.

    Hàng ngàn chi tiết trong quyển sách nầy có bao nhiêu điều đúng người viết không biết nhưng tất cả chi tiết tại phi trường Tân Sơn Nhứt chiều 28 và sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975 thì hoàn toàn sai sự thật. Tên ký giả nầy đã trâng tráo thay trắng đổi đen, cố tình bôi nhọ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung và Không Quân Việt Nam Cộng Hòa nói riêng.

    - Vì sự thật của lịch sử.

    - Vì danh dự của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

    - Vì danh dự của anh linh các tử sĩ vị quốc vong thân sáng ngày 29/4/1975 Thiếu Tá Trương Phùng Phi Đoàn 518, Trung Úy Trang Văn Thành Phi Đoàn 821 khiến người viết xin thay mặt gia đình Thiếu Tá Trương Phùng: chị Trương Phùng Lộc, cháu Trương Phú Sĩ, cháu Trương Thị Thủy Tiên cùng bửu quyến Trung Úy Trang Văn Thành: chị Võ Thị Hòa (cháu gái Thiếu Tướng Võ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó Không Quân) cháu Trang Võ Thành Thái và cháu Trang Thị Đan Thanh cực lực lên án ký giả tự xưng sử gia người Pháp tên Olivier Todd và giới truyền thông thổ tả là những kẻ bất lương. Bọn thổ tả nầy đã trâng tráo thay trắng đổi đen tất cả những dữ kiện đã xảy ra tại Tân Sơn Nhứt vào buổi sáng 29 tháng 4 năm 1975 với mục đích nhục mạ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng như đầu độc, tẩy não mọi người qua nhiều thế hệ.

    Tác phẩm nầy được các ông Phạm Kim Vinh và Dương Hiếu Nghĩa chuyển ngữ.

    Xin mời xem trang 320 của Quyển “Tháng Tư Nghiệt Ngã” do dịch giả Dương Hiếu Nghĩa.

    24. Chương 21 - Ngày 29/4: Hãy Tắt Hết Đèn

    Ngày 29 tháng 4, 1975

    Vào lúc 4 giờ chiều, pháo binh Bắc Việt càng bắn càng chính xác, tác xạ tập trung phần lớn vào các đường bay của phi trường Tân Sơn Nhất,... Bộ Tổng Tham Mưu Miền Nam Việt Nam và Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Ở phi trường thì các kho xăng kho đạn, xe vận tải, xe nhỏ quân sự hay dân sự bị trúng đạn đang bốc cháy khắp nơi. Bộ binh Bắc Việt không thể ở quá xa vì các quả đạn bách kích pháo và những hỏa tiễn phát nổ với ngọn lửa còn đỏ, và xanh lục.

    ................
    Trời sáng dần... Các phi công của những phi cơ F.5 và A.37 cuối cùng cất cánh lên được và bay đi luôn không trở lại. Các phi công này giống như những phi công còn muốn chiến đấu đều không điều động được phi cơ vì vướng hằng trăm binh sĩ Miền Nam đang nằm rải rác khắp các đường bay. Nhân viên của trạm kiểm soát không lưu không thể làm việc được. Một phi công của chiếc AC.119 đặc biệt bướng bỉnh vì không đúng nhiệm vụ mà cứ cất cánh bay lên đánh vào các vị trí cộng sản mà anh thấy rõ chung quanh Sài Gòn, trở lại lấy thêm bom đạn, bay lên nữa, và đến 6 giờ 46 thì anh bị một hỏa tiễn SA.7 bắn rơi.

    ………………………………………………………………….
    Tướng Nguyễn Cao Kỳ lái chiếc trực thăng của ông ta lên, bay chung quanh Sài Gòn, ông thấy một pháo đội Bắc Việt đang tác xạ, mỗi phút một phát. Ông bắt liên lạc được với một đội Skyriders đang bay từ Cần Thơ về:

    - Đây Nguyễn cao Kỳ đây, phải tiêu diệt các pháo đội địch nầy.

    - Nhận rõ, nhưng tôi chỉ còn có một quả bom, sĩ quan chỉ huy trả lời.

    Đúng là giờ đã điểm, đối với những chiến trận danh dự không đáng kể!

    (Hết trích)









    Với sự khuyến khích của nhiều bạn hữu, lợi dụng trí óc chưa bị mai một, dù biết rằng tiếng nói của người viết quá muộn màng và tựa như tiếng gào giữa đại dương, người viết cố gắng ghi lại từng chi tiết Thật.

    Xin những chứng nhân sống còn tại thế: Trung Tá Nguyễn Quốc Hưng, Trung Tá Nguyễn Quốc Thành, Trung Tá Lê Văn Bút, Trung Tá Nguyễn Văn Mười, Trung Tá Nguyễn Quan Vĩnh, Thiếu Tá Trần Ngọc Hà, Thiếu Tá Trần Thanh Long, Thiếu Tá Bạch Diễn Sơn, Thiếu Tá Hồ Ngọc Ấn, Thiếu Tá Nguyễn Văn Hai, Đại Úy Trần Kim Long, Đại Úy Lê Bình Liêu, Đại Úy Nguyễn Tiến Thụy, Đại Úy Đào Công Quận, Đại Úy Trương Minh Ẩn, Trung Úy Nguyễn Đình Xanh, Trung Úy Phạm Văn Luộm, Trung Úy Nguyễn Thành Bá, Trung Úy Trương Vĩnh Tân, Thiếu Úy Nguyễn Văn Chuyên, nhân viên đài Kiểm Báo Paris nhân viên đài Kiểm Soát Không Lưu Tân Sơn Nhứt (Saigon Control Tower) v...v... bổ túc và cho phép người viết ghi tên trong bài viết nầy.

    Năm giờ chiều ngày 28/4/1975, tôi cùng Trung Uý Nguyễn Thành Bá, hiện cư ngụ ở Dayton, Ohio, được lệnh cất cánh một phi tuần 2 chiếc A- 1 Skyraider, bay lên Biên Hòa rồi nhận lệnh Trung Tá Phan Văn Mạnh, danh hiệu Đồng Nai -10 trên tần số FM của Phòng Hành Quân Chiến Cuộc, Sư Đoàn 3 Không Quân.

    Từ khi di tản về Tân Sơn Nhứt ngày 21/4/1975, các phi cơ A-1 thường đậu bên trong và xung quanh hangar Hậu Trạm Hàng Không Quân Sự cũ, chúng tôi không cần đi bộ xa, nhưng hôm nay, xe đưa rước phi hành đoàn của Sư Đoàn 5 Không Quân đang chờ sẵn ngoài cửa để chở chúng tôi ra bãi đậu bên phía Tây khá xa, hơn cây số, gần trại Davis nơi chứa phái đoàn của Đại Tá Cộng Sản Bắc Việt Võ Đông Giang.

    Hôm đó phi đạo sử dụng là phi đạo 25 L (Trái) nên chúng tôi phải di chuyển (taxi) ngược về hướng Đông của phi trường. Khi đến Hậu Trạm Hàng Không Quân Sự cũ, thấy Đại Tá Nguyễn Văn Lê, Tham Mưu Phó Hành Quân của Sư Đoàn 3 Không Quân nghiêm chỉnh đứng chào, tôi tự hỏi điềm gì? Đây là lần đầu tiên trong đời tôi có người đứng chào trước khi cất cánh. Có phải là chào vĩnh biệt chăng?

    Tôi gọi anh Bá:

    - Hai (số 2) có thấy ông Lê đang đứng chào tôi? Không biết điềm gì đây?

    Nhớ lại ngày hôm qua (27/4/1975) lúc 2 giờ 30 chiều, trong phi vụ tuần thám vũ trang, phi tuần của tôi đang bay trên Long Bình với cao độ 5.000 bộ, nhiều đạn đại bác phòng không, khói đen, khói trắng nổ như pháo Tết cách cánh trái phi cơ chừng vài mươi thước, tôi liền báo động với Đại Úy Đào Công Quận bay chiếc số 2 và chúng tôi bay theo trôn ốc để lên cao độ.

    Khi đạt 12 ngàn bộ trên không phận Long Khánh nếu cao hơn có thể thiếu Oxy để thở, bay đến đâu, chúng tôi cũng thấy phía dưới bụng phi cơ khoảng chừng ngàn bộ có những cụm mây đen, mây trắng bay theo đến đó, y như cảnh trong phim Trân Châu Cảng. Nhìn xuống, những dàn phòng không rải rác ở Long Khánh đang bắn lên, nhiều đến đổi tôi không thể đếm được. Đây là độ cao an toàn nên tôi đùa với anh Quận:

    - Hai! Anh đếm dùm, xem có bao nhiêu dàn phòng không?”

    Anh trả lời ngay:

    - Anh có biết mình vừa chết hụt không? Vậy mà còn giỡn nữa cha!

    Sau hơn 30 phút làm bia thực tập dành cho lực lượng phòng không của Cộng quân, khi chúng ngừng bắn chúng tôi nhào xuống thả bom xuống đoàn xe khoảng 2 hay 3 mươi chiếc gần Ngã Ba Dầu Giây chạy về hướng Long Thành.

    Sau này tôi được biết lúc đó Cộng quân đang tấn công Khu Huấn Luyện Long Thành, gồm Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, Trường Thiết Giáp v...v... Bọn chúng sợ chúng tôi yểm trợ mặt trận này nên bắn vói từ xa và vô tình “tha mạng” chúng tôi. Nếu như chúng chờ thêm 1 phút nữa, chắc chắn chúng tôi khó sống sót với các dàn đại bác phòng không 37 ly và 57 ly điều khiển bằng radar.

    Thế mới nói đạn tránh mình chớ mình khó tránh đạn!

    Trời chiều ngày 28/4/1975 thật đẹp và trong sáng, nhưng có 1 hiện tượng lạ, một cụm mây đen nghịt, sấm sét liên hồi bao phủ trên Dinh Độc Lập. Đó là lúc đang làm lễ bàn giao giữa Tổng Thống Trần Văn Hương và Đại Tướng Dương Văn Minh. Điềm Trời đang khóc cho chính thể VNCH chăng?

    Khi đến Biên Hòa, Trung Tá Mạnh cho biết nhiệm vụ của chúng tôi là hộ tống toán Vũ Khí và Đạn Dược về Tân Sơn Nhứt sau khi phá hủy căn cứ Biên Hòa bằng chất nổ TNT và toán 10 chuyên viên nầy cần 1 giờ nữa để hoàn tất. Nhìn xuống bên dưới thấy rất đông dân chúng đứng trên đường, chạy dài từ cổng số 1 đến cổng số 2, mặt trông về phía phi trường. Trong phi trường, từ khu Đông sang khu Tây hoàn toàn vắng vẻ không 1 bóng người. Có lẽ mọi người đã di tản về Tân Sơn Nhứt?

    Vào khoảng 5 giờ 45 phút, tôi nghe tiếng anh Bá bay chiếc số 2:

    - Một! Anh có thể cho tôi xuống (bay thật thấp) coi căn nhà của tôi ở ngã ba Vườn Mít ra sao không?”

    Theo Huấn Thị Khu Trục, chúng tôi phải bảo vệ cho nhau, không ai có thể tách rời ra khỏi hợp đoàn như trường hợp của tên Nguyễn Thành Trung rời hợp đoàn để ném bom Dinh Độc Lập sáng ngày 8 tháng 4 năm 1975 và tôi nghĩ có thể đây là phi vụ cuối cùng trên vùng trời Biên Hòa nên tôi đồng ý với anh Bá. Chúng tôi sẽ cùng nhau bay xuống. Tôi ra dấu cho Bá, đổi sang đội hình chiến đấu và lao xuống thấp.

    Đang quẹo trái ở cầu Mới (cầu Hòa An) thình lình một phi tuần gồm 4 chiếc A-37 phía bên Cồn đâm thẳng ngay tôi. Tuy hoảng hốt nhưng với phản ứng tự nhiên, tôi kéo cần lái thật mạnh để phi cơ nghiêng cánh trái và vọt lên cao, đồng thời tôi “hét” trên tần số:

    - Hai! Coi chừng phi tuần 4 chiếc A-37 cùng cao độ (thấp)

    Toát mồ hôi lạnh. Tạ ơn trên. Tôi vừa thoát hiểm trong nháy mắt, rồi nhìn theo 4 chiếc A-37 đang lướt về hướng Tây Nam với đội hình fingertip nhưng rất rời rạc (fingertip là đội hình cùng 1 bên theo số 1,2,3,4) Thì ra bọn họ không thấy phi cơ của chúng tôi. Lúc đó tôi nghĩ họ thuộc các phi đoàn A-37 ở Miền Trung di tản về Tân Sơn Nhứt, nhưng sao lại có những 4 chiếc?

    Thông thường 1 phi tuần nhẹ chỉ có 2 chiếc, ít khi 3 chiếc do hoa tiêu có bằng Phi Tuần Phó hướng dẫn. Một phi tuần nặng gồm 4 chiếc hay nhiều hơn phải do phi công có bằng Phi Tuần Trưởng dẫn đường.

    Một phi vụ đặc biệt gì đây nên buột miệng gọi cho Bá:

    - Giờ này mà mấy thằng ma gà nầy còn mang bom đạn bay lang thang đâu đây?

    Vì thiếu cảnh giác, tôi không theo dõi họ mà lại bay ngược chiều, theo Quốc Lộ 1 với cao độ thấp khoảng 500 bộ hướng về Thủ Đức, quẹo trái đến Long Bình rồi theo Quốc Lộ 1 về Biên Hòa. Trên Quốc Lộ 1 xuất hiện nhiều xe thiết giáp, mỗi chiếc đậu cách nhau chừng trăm thước. Để khích lệ tinh thần bạn, tôi bay thấp hơn, vừa trên ngọn cây. Thình lình trên tần số UHF 233.8 (Ultra High Frequency) đài Kiểm Báo Paris chúng tôi được Chuẩn Tướng Huỳnh Bá Tính, Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 3 Không Quân, danh hiệu Đồng Nai - 01 báo cho biết phi trường Tân Sơn Nhứt đang bị 3 chiếc A-37 ném bom.

    Theo linh tính, tôi vội đáp lời:

    - Như vậy phải là 4 chiếc A-37 vì chúng tôi mới vừa gặp họ cách đây không lâu.

    Tướng Tính giải thích:

    - Khi vào final (cận tiến sắp đáp) thì bọn nó ném bom. Tôi thấy chỉ có 3 chiếc xuống thả bom mà thôi.”

    Tôi cảm thấy lạnh cả người và không ngớt cầu nguyện cho vợ con tôi được bình an. Họ đang tạm trú ở cư xá của Phi Đoàn 431 cạnh Trung Tâm Giám Định Y Khoa cũ, sát bờ tường phía Nam của dinh Tướng Kỳ. Tôi vội vàng lên cao độ 4.000 bộ hướng về Tân Sơn Nhất và liên lạc với đài Kiểm Soát Không Lưu Tân Sơn Nhứt trên tần số VHF 118.3 (Very High Frequency). Lúc bấy giờ cả 2 tần số UHF của đài Kiểm Báo Paris và VHF của đài Kiểm Soát Không Lưu Tân Sơn Nhứt đều rất vắng vẻ khác thường. Tôi không nghe và không thấy phi tuần của bọn Nguyễn Thành Trung hay bất cứ chiếc F-5 nào bay lên truy đuổi. Vài phút sau, Tướng Tính cho biết thêm:

    - Bây giờ tình trạng phi trường Tân Sơn Nhứt rất hỗn loạn, nếu Phi Long 51 (danh hiệu của phi tuần tôi) có bay về thì nên thận trọng, coi chừng phòng không của mình. Chúng tôi không đáp được vì vậy chúng tôi phải bay đi Vũng Tàu.

    Sau này tôi được biết Chuẩn Tướng Từ Văn Bê, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật và Tiếp Vận Không Quân- Biên Hòa cùng với Tướng Tính chỉ huy cuộc phá hủy Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật và Tiếp Vận Không Quân rồi cùng nhau về Tân Sơn Nhứt trên chiếc trưc thăng UH-1.

    Lạ lùng nhất là có một vị Tướng Hải Quân viết sách cho rằng Tướng Tính không biết gì về cuộc phá hủy ở phi trường Biên Hòa và khuyên Tướng Tính gọi Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân. Cũng theo vị Tướng này, nhờ sự khuyên lơn và giúp đỡ của ông mà Tướng Tính mới liên lạc được với Trung Tướng Trần Văn Minh, nhưng cho đến nửa đêm Tân Sơn Nhất bị pháo kích nên cuộc điện đàm bị gián đoạn.

    Tướng Tính qua đời năm 1990 nên không thể đính chính chi tiết này.

    Nhớ lời cảnh báo của Tướng Tính và để tránh mọi hiểu lầm, khi về Tân Sơn Nhứt tôi và Bá bay cách phi trường khoảng 1 dặm, thỉnh thoảng tôi lắc đôi cánh nhè nhẹ thầm báo cho bên dưới biết chúng tôi về bảo vệ Tân Sơn Nhứt. Sau đó đài Kiểm Soát Không Lưu Tân Sơn Nhứt khẳng định với chúng tôi Hậu Trạm Hàng Không Quân Sự cũ bị hủy, 1 chiếc C-47 ở phía Tây phi trường đang cháy, nằm ở giữa taxiway Whiskey số 7 và hangar chứa máy bay hình vòng cung, cách trại Davis non 200 mét về hướng Bắc như tôi thấy đang bốc khói đen nghi ngút, vài ba chiếc phi cơ vận tải bị hư hại nhẹ vì mảnh bom nhưng 2 phi đạo và các đường di chuyển hoàn toàn không bị trúng bom.

    Xin nói thêm, phía Nam của chiếc C-47 đang cháy chừng 30 hay 40 thước là bãi đậu phi cơ A-37 của các phi đoàn ở miền Trung và A-1 của 2 Phi Đoàn 514 và 518, tưởng tượng chỉ cần một quả bom rơi xuống đây thì phi trường Tân Sơn Nhất sẽ trở thành bình địa. Và nếu như các phi cơ A-1 không dời ra ngoài bãi đậu phía Tây lúc 1 giờ trưa nay thì các chiếc A-1 đậu trong Hậu Trạm Hàng Không Quân Sự cũ, mỗi chiếc mang 10 trái bom MK-81 trúng bom của bọn Nguyễn Thành Trung và phát nổ thì hậu quả sẽ khó lường.

    Sau khi biết chắc chắn phi trường Tân Sơn Nhứt vẫn khả dụng, hai phi đạo và các đường di chuyển không hề bị trúng bom, chúng tôi không cần phải bay đi Cần Thơ nên tôi an tâm bay trở lại Biên Hòa để tiếp tục phi vụ nhưng trong lòng tôi lúc nào cũng đè nặng ý nghĩ tự trách mình thiếu cảnh giác, không theo dõi phi tuần 4 chiếc A-37 nầy.

    Vào khoảng 6 giờ 40 phút chiều, Trung Tá Mạnh chạy xe ra đến cổng số 2 và bắt đầu đếm ngược (countdown) ra lệnh nổ bom. Thế là toàn vùng phía Tây của phi trường Biên Hòa nơi đặt Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật và Tiếp Vận Không Quân biến thành biển lửa bốc cao ngất trời. Sau đó Trung Tá Mạnh xác định lại ông chỉ được lệnh phá hủy Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật và Tiếp Vận Không Quân mà thôi. Đây là phần sở duy nhất của Không Quân, chứa những máy móc điện tử tối tân và đắt tiền bị phá hủy trước khi Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm Miền Nam.

    Trung Tá Mạnh chọn lộ trình di chuyển theo Quốc Lộ 1 về Thủ Đức qua Xa Lộ Biên Hòa trên 2 chiếc xe Jeep cải biến dài hơn chiếc Jeep bình thường thay vì băng qua cầu Mới sang xa lộ Đại Hàn để về Tân Sơn Nhứt sẽ gần hơn. Hình như có Thiếu Tá Được của Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật và Tiếp Vận tháp tùng và trong vô tuyến tôi được nghe lời của Trung Úy Liêm, Đại Đội Trưởng Quân Cảnh Sư Đoàn 3 Không Quân từ chối theo đoàn về Tân Sơn Nhứt. Rồi vài phút sau đồn Quân Cảnh và trạm Tiếp Tân ở cổng số 2 bốc cháy.

    Tôi bắt đầu bay mở đường để hộ tống đoàn xe. Trên xa lộ Biên Hòa thấy thật vắng vẻ, trên xa lộ Đại Hàn còn có những dòng xe chạy về hướng Sài Gòn. Từ cư xá Thanh Đa bay qua Tân Cảng và nhìn xuống tôi thấy ánh đạn lửa đan nhau như lưới, đầu cầu phía Bắc vài đám cháy trên mặt đường, khói đen bốc lên nghi ngút, chiến xa trên cầu không ngớt nhả đạn về phía Bắc. Có lẽ Cộng quân đã tiến sát Thủ Đô?

    Tôi gọi đài Kiểm Báo Paris nhưng họ cũng không biết chuyện gì xảy ra. Lúc nầy đoàn xe của Trung Tá Mạnh vừa vượt khỏi ngã tư Thủ Đức, tôi báo tình trạng tại cầu xa lộ nhưng Trung Tá Mạnh không muốn thay đổi lộ trình. Tôi phải làm gì đây? Nếu như đoàn xe nầy lọt vào bãi giao tranh, chắc chắn không ai sống sót.

    Cố gắng thuyết phục và cũng như làm áp lực, tôi báo cho Trung Tá Mạnh biết chúng tôi sẽ lên cao độ 4.000 bộ và sẵn sàng thả bom nếu như đoàn xe của ông bị tấn công.

    Cuối cùng nhờ hồng phúc của 12 người trong đoàn, Trung Tá Mạnh quay đầu xe và hướng về xa lộ Đại Hàn. Trên xa lộ Đại Hàn gần ngã tư Bình Triệu, một chiếc xe cứu hỏa của Sư Đoàn 3 Không Quân không tài xế dừng bên đường với đèn hiệu chớp tắt liên hồi.

    Thành phố bắt đầu lên đèn. Đoàn xe bị quân cảnh cầu Bình Triệu chận lại, Trung Tá Mạnh than:

    - Làm sao chúng tôi có Sự Vụ Lệnh mà trình đây?

    Chừng mấy mươi giây sau, tôi gọi xuống Trung Tá Mạnh với hy vọng các anh Quân Cảnh đang đứng gần đó nghe được:

    - Đây là Phi Long 51, chúng tôi có nhiệm vụ hộ tống đoàn xe 2 chiếc của Trung Tá Mạnh về Tân Sơn Nhứt. Chúng tôi đã bay hơn 3 giờ và cũng gần hết xăng. Xin các anh Quân Cảnh thông cảm cho họ qua cầu.

    Vừa nói xong, từ cao độ 2.000 bộ tôi nhắm ngay đoàn xe và tiếp theo chiếc số 2 của anh Bá cũng làm cho mọi người dưới đất ù tai. Vài ba phút sau Trung Tá Mạnh mời chúng tôi đúng 10 giờ đêm đến câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc để tạ ơn. Thì ra ông không hay biết gì về việc Tân Sơn Nhứt bị ném bom, nên tưởng câu lạc bộ còn mở cửa? Tôi từ chối, đây là bổn phận của chúng tôi vã lại chúng tôi còn phải lo cho vợ con.

    Thành thật cảm ơn các anh Quân Cảnh đồn Bình Triệu đã thông cảm, bằng không tôi không biết phải làm sao để giúp toán Vũ Khí và Đạn Dược của Trung Tá Mạnh?

    Sau khi hội ý và tin tưởng khả năng của anh Bá, tôi quyết định đáp xuống Tân Sơn Nhứt với bom đạn lúc 8 giờ tối ngày 28/4/1975. Việc mang bom đạn về đáp cũng khá nguy hiểm nếu thiếu khả năng gây tai nạn thì hậu quả sẽ khó lường, nhất là đáp ban đêm. Đây là lần thứ nhì tôi đáp đêm với bom đạn.

    Lần thứ nhất 4 giờ sáng ngày 20/4/1975.

    Sau khi lệnh đình động được giải tỏa, 1 Biệt Đội 518 lập tức biệt phái Cần Thơ ngày 5 tháng 4 năm 1975 do Thiếu Tá lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân của Phi Đoàn 518 hướng dẫn 10 hoa tiêu cùng 10 chiếc A- 1. Tôi và Thiếu Úy Nguyễn Văn Chuyên, hiện ở Garden Grove, Cali bay phi vụ đầu tiên, có mặt lúc 8 giờ sáng trên trận chiến khoảng 25 dặm Tây Nam Cần Thơ. Vì quân bạn chỉ cách con kinh nơi đặt chốt kháng cự của Cộng quân 150 thước, Tân Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh (nhưng ông tự xưng là Đại Tá) không cho thả bom.

    Tôi có thói quen mỗi phi vụ hành quân thường xin tần số FM để biết chính xác vị trí của quân bạn hầu tránh việc thả bom lầm. Thường thường ở vùng đồi núi khoảng cách an toàn cho quân bạn phải 200 thước, vùng đồng bằng chỉ cần 100 thước nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên Tướng Trường được A-1 yểm trợ nên ông e dè? Để ông an tâm, tôi xin ông lui quân 50 thước.

    Sau khi thấy khói màu tím do tôi yêu cầu quân bạn thả, chúng tôi lần lượt thay nhau thả hết 12 trái bom MK-82 (cân nặng 500 cân Anh mỗi trái và 6 trái mỗi chiếc phi cơ) và nhiều tràng đại bác 20 ly tiếp theo cho đến hết 800 viên đạn đai bác 20 ly.

    Hai hôm sau, trong khi chúng tôi dùng cơm trưa ở câu lạc bộ Cửu Long của Sư Đoàn 4 Không Quân,trong chương trình Tin Tức Chiến Trường đài truyền hình Cần Thơ phát hình hai chiếc A-1 Skyraider thay phiên thả từng trái bom xuống những chốt kháng cự của Công quân. Tiếp theo là cảnh các chiến sĩ thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh xung phong tiến chiếm mục tiêu với sự yểm trợ từ trên không bởi các con chim sắt nhả những tràn đại bác 20 ly. Sau cùng là cảnh 1 chiếc A-1 sau khi bắn 1 tràn đại bác biểu diễn 1 cái roll (bay xoáy 360 độ) cách mặt đất khoảng 100 thước. Mọi người đều khen ngoạn mục nhưng Thiếu Tá Sang hiểu lầm, quay sang cảnh cáo tôi vi phạm an phi. Thật là oan cho tôi.

    Vừa nhận phòng trong cư xá vãng lai của Sư Đoàn 4 Không Quân, tôi nhận được 1 giọng nói thân thương của ngày xưa, Đại Tá Nguyễn Văn Bá cựu Không Đoàn Tưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, hiện đang là Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ 40 Không Quân:

    - Sao! Tôi sắp xếp cho mấy chú ở đó được không?

    Trong ngạc nhiên tôi reo mừng:

    - Sao ông Chủ biết chúng tôi xuống đây?

    Sau gần 3 năm tôi mới có dịp nghe lại tiếng của ông. Trưa hôm sau tôi rủ Thiếu Tá Nguyễn Văn Hai, hiện ở San Jose, Cali sang thăm ông. Vừa bước vào văn phòng Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ 40 Không Quân Cần Thơ, tôi gặp Thiếu Tá Lê Trí Thiệt, Phi Đoàn 217, người đàn anh trên tôi 1 khóa, mặc bộ Kaki vàng, trên ngực đầy huy chương làm tôi lóe mắt. Dường như anh vừa dự buổi lễ gắn huy chương, 1 chiếc Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao bạc loại thòng gắn bên trên những hàng huy chương cuốn vừa vàng vừa bạc vừa đồng. Chứng tỏ anh đã lập rất nhiều chiến công hiển hách trong những năm qua. Có thể anh và anh Trần Văn Chơi Phi Đoàn Lạc Long 229 vinh thăng Thiếu Tá sớm nhất của Khóa 67 C. Sau hơn 6 năm mới gặp lại nhau, tôi chưa kịp vòi vĩnh thì anh chào tôi:

    - Cái thằng Đại Úy kia! Mầy gặp Thiếu Tá mà không chào là sao?

    - Thì Thiếu Tá muốn Đại Úy chào thì dễ lắm, Thiếu Tá cho nó vài ba cái huy chương nhưng phải từ bạc trở lên mới chịu chứ đồng nó điếu lấy. Tôi đáp lại.

    Anh Thiệt quay sang Đại Tá Bá:

    - Pa Pa! Cho thằng nầy vài cái huy chương Pa Pa.

    Ông Chủ (Đại Tá Bá) phì phà ống vố (pipe) rồi trả lời:

    - Mấy chú Lương Sơn Bạc nầy không cần mấy thứ đó. Chú chọn cho tôi 1 ngày cho chú 1 chầu đặc sản Tây Đô.

    Sau gần 3 năm thầy trò chúng tôi mới gặp lại, ông Chủ vẫn như xưa, trẻ trung, mạnh khỏe. Vì ngày làm việc không tiện quấy rầy ông, chừng vài mươi phút sau chúng tôi từ giả ông và Thiếu Tá Thiệt hẹn 7 giờ tối ngày 10 tháng 4 năm 1975 trở lại đây nhưng không phải là 1 mình tôi mà là 10 người của Biệt Đội 518. Dù ông Chủ không nói nhưng tôi biết ông muốn tôi hãnh diện với anh em của Biệt Đội 518 biết được là tôi có 1 ông sếp cũ nhưng vẫn nhớ tới 1 tên lính nhỏ bé ngày xưa.

    Chúng tôi trình diện đúng giờ và trước khi vào bàn, ông Chủ khoe chứng bệnh loét bao tử của ông đã khỏi hẳn. Ông mời mọi người chung vui với ông 1 bữa, không say không về, ngoại trừ những ai trực đêm chỉ nên thấm môi mà thôi. Nhờ ông thổ công Thiệt, chúng tôi được thưởng thức những món đặc sản Cần Thơ như tôm càng đúc lò, cá lóc nướng trui, nem chua v...v... nhưng đặc biệt nhất là rượu đậu nành màu vàng hổ phách gia truyền của gia đình 1 đệ tử của anh Thiệt mang tới.

    Ông Chủ kể chuyện ông vừa gặp Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân. Tướng Minh cho biết trong buổi họp ở Bộ Tổng Tham Mưu, Tướng Toàn hỏi ông “Thằng Bá bây giờ ở đâu?” Tướng Mính trả lời “... Nó sợ anh thấy mẹ...Nó chạy trốn ở dưới Cần Thơ”

    Thầy trò chúng tôi ôm bụng mà cười. Đây là bí mật của chúng tôi. Những người xung quanh không hiểu tại sao chúng tôi cười 1 cách sảng khoái. (sẽ đề cập ở đoạn cuối)

    Đến 9 giờ đêm, rượu ngon chưa cạn, đột nhiên ông Chủ bảo:

    - Ngưng ngay! Mấy chú trở về bển đi (về phi trường Trà Nóc) Tôi linh tính đêm nay sẽ có chuyện.

    Tôi ngạc nhiên, chưa bao giờ ông cắt ngang cuộc vui của chúng tôi. Trong lúc vội vã ra về, tôi quên không mang về hơn nửa bình rượu đậu nành ngon tuyệt vời, lòng tiếc rẽ. Nhưng linh tính của ông Chủ rất chính xác, trước khi vào cổng phi trường Trà Nóc, chúng tôi nghe tiếng pháo kích vọng sang từ thị xã Cần Thơ. Hai phi tuần trưởng trực đêm Thiếu Tá Sang và Thiếu Tá Hai xông xáo cất cánh bay lên bỏ lại 2 phi tuần viên Trung Úy Nguyễn Thành Bá và Thiếu Úy Nguyễn Văn Chuyên.

    Đến 12 giờ 30 phút đêm lệnh điều động thêm 1 phi tuần nữa. Biệt Đội Trưởng, Thiếu Tá Sang chưa về đáp, 2 phi tuần trưởng khác có vẽ đã quá chén?

    Trung Úy Bá đồng ý ngồi ghế phải với tôi trên chiếc AD-5, nếu tôi quờ quạng anh sẽ giựt cần lái và tôi sẽ buông tay. Chúng tôi cất cánh khoảng 1 giờ đêm và phát giác chiếc phi cơ quan sát Phi Đoàn Sao Mai 114 trước kia ở Nha Trang di tản về Cần Thơ không mang theo bất cứ vật gì để đánh dấu mục tiêu và hôm đó là đêm trừ tịch (30 âm lịch). Chúng tôi bay vòng vòng thi gan cùng Cộng quân. Chừng hơn 1 giờ sau vài ánh sáng lóe lên. Thật là may mắn, các tia sáng nầy nằm trong tầm thả bom, tôi lao xuống và báo:

    - Một in hot. (số 1 vào thả bom)

    Đồng thời nghe tiếng Sao Mai:

    - Phi Long thấy tụi nó bắn lên không?

    Nhờ ánh lấp lánh của dòng nước Hậu giang tôi nhận ra mục tiêu nhưng vì châm chú tới mục tiêu nên không thể trả lời. Tiếng Sao Mai reo lên:

    - Số 1 thả bom như để.

    - Không phải số 1 thả bom mà là rượu đậu nành thả đó bạn à. Tôi trả lời nhưng chỉ có anh Bá và anh Chuyên hiểu mà thôi.

    Như đã thỏa thuận (briefing) trước đó, tránh trường hợp bị mất dấu, anh Chuyên và tôi thay nhau thả hết 12 trái bom MK-82 và về đáp khoảng sau 3 giờ sáng.

    Tôi không ngủ được cứ trằn trọc vì quan ngại các tấn bom vừa thả, mặc dù phi hành đoàn Sao Mai khen đáo để, rồi tôi thiếp đi và không biết bao lâu tiếng chuông điện thoại reo lên. Tôi lặng cả người khi nghe giới chức đầu dây là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam muốn gặp phi tuần trưởng của phi tuần thứ nhì. Nhìn đồng hồ gần 5 giờ sáng.

    Thôi thì bụng làm dạ chịu, tôi trả lời ông “Dạ thưa Thiếu Tướng là tôi” nhưng trong lòng bắt đầu đánh lô tô, cầu nguyện cho số thương vong càng ít. Đến khi ông hỏi tên tuổi của phi tuần thứ nhất tôi mới giảm bớt căng thẳng.

    Cả biệt đội bị tôi đánh thức và tụ xung quanh tôi để nghe Tướng Nam nhân danh Tư Lệnh Quân Đoàn IV và Vùng IV Chiến Thuật tuyên dương công trạng trước Quân Đoàn, 5 anh em chúng tôi (Thiếu Tá Sang, Thiếu Tá Hai, Trung Úy Bá, Thiếu Úy Chuyên và tôi) đã giúp Sư Đoàn 21 Bộ Binh thu hồi 2 khẩu đại bác 105 ly. Ông thay mặt đồng bào thị xã Cần Thơ cám ơn chúng tôi đã chận đứng 1 cuộc tắm máu. Ông cho biết Cộng quân đã chiếm 2 khẩu đại bác 105 ly ở quận Bình Minh rồi chúng kéo xuống bờ sông Hậu để pháo vào Bến Ninh Kiều, 2 cái chành còn nằm trên bờ nhưng 2 khẩu súng bị rớt xuống sông và bây giờ anh em Sư Đoàn 21 Bộ Binh đang lặn hụp để trục nó lên. Ông nói thêm chúng tôi xứng đáng được ân thưởng trước Quân Đội nhưng vì trong quyền hạn, ông chỉ ân thưởng chúng tôi cấp Quân Đoàn (Anh Dũng Bội Tinh Với Ngôi Sao Vàng).

    - Cám ơn Thiếu Tướng đã ân thưởng, nhưng sự thật là do hồng đức của đồng bào thị xã Cần Thơ khiến số bom của chúng tôi rơi trúng mục tiêu. Tôi đáp lời trước khi gác điện thoại.

    Mà thật vậy, không trái sáng, không hỏa tiễn (ground smog) đánh dấu mục tiêu, nhất là trong đêm trừ tịch nếu khoe tài cao thì quả thật là nổ hơn bom nguyên tử.

    (trong hồi ký của Đại Tá Hà Mai Việt ghi ngày là 12 tháng 4 năm 1975).

    Đây là huy chương cao quý nhất mà tôi nhận được nhưng tôi không mừng bằng khi biết những tấn bom chúng tôi thả đêm qua không làm tổn thương đến thường dân hay quân bạn.

    Vài hôm sau chúng tôi đánh chìm hơn mươi chiếc ghe chài chở đầy vũ khí cộng đồng từ Vị Thanh hướng về Cần Thơ. Vô tình bẻ gãy ý đồ tấn chiếm Cần Thơ của Cộng quân.

    Đến ngày 19 tháng 4 năm 1975 Biệt Đội 514 hoán chuyển thay chúng tôi trở về mặt trận Vùng III (Quyển Quân Sử Không Quân Việt Nam Công Hòa lại phán rằng Phi Đoàn 514 di tản về Cần Thơ).

    Vô cùng kinh ngạc chúng tôi (Thiếu Úy Chuyên và tôi) bay trên Long Khánh suốt 3 tiếng đồng hồ nhưng phi cơ quan sát L-19 không thể tìm được mục tiêu. Sau cùng họ hướng dẫn chúng tôi thả bom xuống những nơi tình nghi đóng quân của Cộng quân?

    Trưa hôm đó (19/4/1975) Chuẩn Tướng Tính đến phi đoàn ra lệnh phi tuần của tôi và phi tuần của Đại Úy Đào Công Quận về đáp Tân Sơn Nhứt sau khi thi hành phi vụ ban chiều và tạm thời ngủ nhờ ở Biệt Đội F-5.

    Chúng tôi được lệnh điều động lúc 3 giờ chiều. Trong lúc tiền phi, thấy trên cánh máy bay mang 10 trái MK-81 (cân nặng 250 cân Anh ít khi chúng tôi xử dụng). Tôi than phiền;

    - Bộ mấy anh muốn chúng tôi mang mấy trái dái khỉ nầy để đi gãi ngứa mấy con khỉ trong rừng hay sao?

    Các anh chuyên viên Vũ Khí và Đạn Dược cho biết Vùng III hết bom lớn hay bất cứ loại bom nào khác. Bốn kho bom Biên Hòa, Long Bình, Thành Tuy Hạ và Gò Vấp đều chỉ còn 1 loại bom nhỏ nầy mà thôi.

    Cũng như phi vụ ban sáng, chúng tôi bay nhiều giờ trên Long Khánh nhưng phi cơ quan sát L- 19 vẫn không có mục tiêu cho chúng tôi. Sau hơn 3 giờ bay, chúng tôi ném bom 1 nơi nào đó trong rừng Long Khánh theo sự hướng dẫn của L- 19.

    Sự yên ẳng 1 cách khó hiểu của chiến trường Long Khánh làm tôi thắc mắc “chẳng lẽ Cộng Sản Bắc Việt chịu móc họng ói miếng thịt thơm tho mà chúng đã nuốt vào bụng chăng?”

    Tôi vào Biệt Đội F-5 khoảng 9 giờ đêm Đại Úy Quận và Thiếu Úy Chuyên đã có mặt tự bao giờ. Trung Tá Nguyễn H. H. mặc áo bay màu cam rất đẹp (dành cho Hải Quân Hoa Kỳ) hỏi tôi đi đâu vậy? Tôi thưa với ông thừa lệnh Tướng Tính tôi mang 4 chiếc A-1 về đây và tạm thời ngủ nhờ ở Biệt Đội F-5.

    Cả 3 chúng tôi bàng hoàng, ngơ ngác khi nghe ông nói:

    - Ở đây không có chỗ cho các ông ngủ.

    Nhìn thấy 1 gian phòng rộng rãi chứa hàng 5, 7 chục ghế bố nhưng không có chỗ cho chúng tôi tá túc qua đêm?

    Có thể ông không nhớ tôi nhưng tôi vẫn nhớ tôi là lính của ông, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 23 Chiến Thuật ở Biên Hòa hơn 2 tháng cuối năm 1970 trước khi tôi lên Pleiku. Tôi biết ông không có thẩm quyền gì ở đây, nhưng tôi không muốn tranh cãi với ông. Tôi quay sang anh Thiếu Úy trên cánh tay mang phù hiệu F-5:

    - Anh làm Sĩ Quan Trực đêm nay phải không? Nhờ anh gọi tôi nếu có lệnh điều động. Phi cơ của tôi đậu bên ngoài.

    Tôi ngạc nhiên khi anh Chuyên đi theo tôi. Nhờ gió mát trăng thanh và hơn 6 giờ bay trong ngày, 2 anh em tôi dễ dàng đi vào mộng. Đến 1 giờ 30 phút đêm, Thiếu Tá Nguyễn Văn Huynh từ Biên Hòa lệnh chúng tôi cất cánh khẩn cấp vì phi trường đang bị pháo kích.

    Thiếu Tá Huynh là Phi Đoàn Phó Phi Đoàn Phi Long 518 và cũng là Phi Đoàn Phó Phi Đoàn 530 khi xưa ở Pleiku. Anh có nghị định vinh thăng Trung Tá kể từ ngày 30/4/1975. Anh cũng là người thầy dạy tôi khóa Phi Tuần Phó ở Pleiku năm 1972 và khóa Phi Tuần Trưởng hồi cuối tháng 8 năm 1974 trước khi bị đình động. Theo Huấn Thị Khu Trục mỗi ngày hoa tiêu không được bay quá 5 giờ nên tôi đùa với anh:

    - Ngày hôm nay tôi và Chuyên đã bay hơn 6 tiếng đồng hồ. Bây giờ Trung Tá có áp dụng Huấn Thị Khu Trục với chúng tôi không?

    Anh Huynh vẫy nẫy:

    - Bây giờ mà mầy còn nói Huấn Thị gì nữa. Làm ơn bay lên cứu bồ cho anh em ở đây nhờ với.

    Chúng tôi vội vã bay lên và nhìn thấy Cộng quân đặt pháo ở phía Bắc Tân Uyên đang pháo vào phi trường Biên Hòa. Tôi xin lịnh thả bom nhưng nửa giờ sau, đài Kiểm Báo Paris cho biết Tư Lệnh Quân Đoàn III không cho chúng tôi thả bom với lý do quân bạn đang đóng quân ở tọa độ nầy và lịnh cho tôi mang bom đi giải tỏa, muốn thả xuống bất cứ nơi nào tùy ý?

    Lệnh mang bom đi giải tỏa nầy là lần thứ hai tôi nhận được từ cùng 1 ông Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn nhưng khác Quân Khu (sẽ đề cập ở phần cuối)

    Xin lỗi Thiếu Tá Huynh và mọi người trong phi trường Biên Hòa, chúng tôi không giúp gì được như Thiếu Tá Huynh và mọi người mong muốn vì “Quân Lịnh Khó Chống”.

    Than ơi thời mạt vận. Việt Nam Cộng Hòa sẽ mất trong nay mai.

    Vì tình trạng khan hiếm bom đạn, tôi thảo luận với anh Chuyên, chúng tôi đồng ý mang bom về đáp Tân Sơn Nhứt lúc 4 giờ sáng ngày 20/4/1975. Sáng hôm đó tôi nghe tin 1 kho bom ở phi trường Biên Hòa bị nổ vì trúng pháo kích. Vì vậy tất cả phi cơ A-1 ở Biên Hòa phải di tản về Tân Sơn Nhứt sáng ngày 21/4/1975.

    Trước khi vào Biệt Đội, các anh bên F-5 nhốn nháo cho tôi biết các anh chuẩn bị cất cánh đi Phan Rang để trả đũa vụ ném bom Tân Sơn Nhứt hồi chiều. Thực hự việc trả đũa này ra sao, tôi không nhận được bất cứ nguồn tin khả tín nào.

    Trên bảng Phi Lệnh của Biệt Đội, Phi Đoàn 518 và Phi Đoàn 514 thay phiên nhau bay bao vùng trên không phận Thủ Đô Sài Gòn suốt đêm. Tôi được cắt bay từ 05 giờ sáng đến 07 giờ sáng ngày 29/4/1975.

    Tôi thầm nghĩ cấp chỉ huy rất sáng suốt, hẳn họ phải biết đêm nay chắc chắn sẽ “có chuyện”.

    Tôi trở lại Biệt Đội Khu Trục A-1 vào khoảng nửa đêm. Gần 30 người nằm sắp lớp trên sàn nhà và tôi lủi vào chỗ trống gần cái bàn nhỏ, bên trên có cái điện thoại dã chiến khá mới hình chữ nhựt màu xanh rêu nhưng là loại quay bằng tay được sử dụng trước thời Đệ Nhị Thế Chiến. Thì ra sau khi phi trường bị ném bom lúc 6 giờ chiều ngày 28/4/1975, đường giây điện thoại bị hư hại nên một đường dây mới được thiết lập để liên lạc giữa Phòng Hành Quân Chiến Cuộc của Sư Đoàn 5 Không Quân với Biệt Đội Khu Trục A-1.

    Biệt đội hôm nay gồm có tất cả phi công khả dụng của Phi Đoàn Phi Long 518 và một phần phi công khiển dụng của Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 vì một số đã biệt phái Cần Thơ từ ngày 19/4/1975.

    Trên bảng Phi Lịnh, phi vụ bay bao vùng từ 5 giờ đến 7 giờ sáng, tên tôi bị xóa, thay vào đó là tên Vĩnh, Trung Tá Nguyễn Quan Vĩnh, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 518. Tôi thầm nghĩ và cám ơn Trung Tá Vĩnh thấy tôi về đáp trễ tối qua nên không nỡ “đì” cho tôi phải thức sớm.

    Mươi phút sau, Thiếu Tá Huynh, nói với tôi, anh nghi ngờ Trung Tá Vĩnh sẽ bay đi Thái Lan nên để anh bay kèm; và anh xóa tên Trung Úy Phạm Văn Luộm thay vào tên Huynh bay số 2.

    Nhớ đến phi vụ vừa qua đã để cho phi tuần 4 chiếc A-37 của Nguyễn Thành Trung lén ném bom Tân Sơn Nhứt nên tôi cứ trằn trọc, mãi tự trách mình thiếu cảnh giác.

    Chuyện gặp nhau trên trời rất hy hữu. Trời cho tôi gặp bọn chúng và tôi có ý nghi ngờ mà lại không theo dõi để bọn chúng lén ném bom phi trường Tân Sơn Nhất. May mà sự thiệt hại nhân mạng hay vật chất không đáng kể, nhưng tinh thần mọi người có phần chao đảo, lo ngại những cuộc dội bom khác có thể xảy ra? Rồi tôi thiếp đi cho đến khi chuông điện thoại reo lúc 3 giờ 35 phút, tôi chuyển lệnh từ Phòng Hành Quân Chiến Cuộc của Sư Đoàn 5 Không Quân cất cánh 1 phi tuần đến Thiếu Tá Sang.

    Không biết vì lý do gì trước đây không một phi tuần nào được điều động đi bay. Đây là phi vụ đầu tiên được gọi. Nếu theo thứ tự Phi Đoàn 518 phải đi bay, nếu theo TOT (Time On Target: giờ trên muc tiêu) thì Phi Đoàn 514 phải đi bay, vì vậy có sự lấn cấn giữa 2 phi đoàn. Chưa dàn xếp xong thì lúc 4 giờ Cộng quân bắt đầu pháo tới tấp, những tiếng rít xé gió nghe thật rùng rợn, kèm theo là những tiếng nổ long trời, rung chuyển mặt đất. Mươi phút trôi qua, phi trường vẫn bị pháo dồn dập, nếu tiếp tục bị như thế thì phi trường Tân Sơn Nhất sẽ thành bình địa, khó có người sống sót sau trận địa pháo nầy.

    Hôm nay có lẽ là ngày cuối cùng của tôi chăng? Một ý nghĩ vớ vẩn nếu biết trước phi trường bị pháo, tôi đã tình nguyện đi bay. Bây giờ thì đã quá muộn nên định chạy về cư xá phi đoàn 431 để ở cạnh vợ con. Tôi vừa đứng lên đúng lúc chuông điện thoại reo. Tôi chuyển đến Thiếu Tá Sang, lệnh cất cánh khẩn cấp.

    Sẵn đó ông hỏi tôi:

    - Phúc đi bay được không?

    Trước đó tôi đã có ý nghĩ liều mạng,”thà đi bay còn hơn là nằm đây chờ chết”, nên không do dự, trả lời ngay:

    - Đương nhiên là được. Nhưng wingman là ai?

    (Một phi vụ hành quân thường thường có 2 chiếc để bảo vệ cho nhau, wingman là phi tuần viên bay chiếc số 2).

    Từ cuối phòng, tiếng Thiếu Tá Trương Phùng vang lên:

    - Tôi đi bay với bạn. Trâu đạp cũng chết. Chó đạp cũng chết. Tôi đi bay với bạn, coi có chết thằng tây nào không?

    Tôi ngạc nhiên có người đồng tình và lại là người đàn anh già dặn, đầy đởm lược trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt như đêm nay. Thật vinh hạnh cho tôi được cùng anh sánh vai tác chiến.

    Thiếu Tá Trương Phùng từng là người hùng diệt 15 chiếc xe tăng trong 2 tuần lễ đầu tháng 4/1972 khi Phi Đoàn 518 tăng phái cho mặt trận Quảng Trị. Người hùng diệt tăng nhiều nhất 21 chiếc là Đại Úy Trần Thế Vinh, người thứ nhì Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lành 17 chiếc.

    Từ Pleiku tôi trở lại Biên hòa hồi tháng 4/1974 sau 3 năm 4 tháng trấn thủ vùng biên trấn, sau đó thường biệt phái về Biệt Đội Khu Trục A-1 ở Tân Sơn Nhất, rồi bị đình động từ tháng 9/1974 nên tôi hiếm khi bay cùng anh.

    Lần đầu tiên bay chung với anh là vào tháng 7/1974, thừa lệnh Đại Tá Hoàng Thanh Nhã, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 23 Chiến Thuật oanh tạc Tổng Hành Dinh của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ở Lộc Ninh để trả đũa bọn nầy vi phạm Hiệp Định Ba Lê vừa pháo kích vào Biên Hòa và cảnh cáo rằng không có nơi nào của họ là bất khả xâm phạm.

    Để tạo yếu tố bất ngờ và giảm thiểu nguy hiểm, chúng tôi sáp nhập hai phi tuần 2 chiếc thành một phi tuần 4 chiếc do Th/Tá Phùng lead hướng dẫn (lead) dùng chiến thuật truy kích, bay sát ngọn cây để ném bom CBU-25.

    Bom CBU- 25 cân nặng 500 cân Anh, gồm 6 ống dài 1 mét 50, kết với nhau thành khối tam giác, mỗi ống chứa 19 quả bom tròn nhỏ, đường kính 10 cm. Cách ném loại bom nầy khác hẳn với các loại bom khác và càng bay thấp càng chính xác.

    Nhờ đảm lược và sáng suốt của Thiếu Tá Phùng, chúng tôi đã hoàn thành sứ mạng và về đáp an toàn, mặc dù chúng tôi đã lướt trên nhiều nhóm Cộng quân đang quay nòng súng của rất nhiều dàn đại bác phòng không có radar điều khiển đang bảo vệ Lộc Ninh, nhưng rất tiếc, không thể bắn theo kịp nữa (Số 1: Thiếu Tá Phùng, số 2: Thiếu Úy Đinh Văn Đức, tôi bay số 3 và số 4: Trung Úy Nguyễn Tứ Đức).

    Khi bước ra ngoài nhưng không thấy xe đưa rước phi hành đoàn, tôi bước trở vô, định than phiền với Phòng Hành Quân Chiến Cuộc của Sư Đoàn 5 Không Quân thì anh Phùng bảo:

    - Đi xe của tôi cho lẹ.

    Rồi anh tiếp lời sau những tiếng rít xé gió và tiếng nổ long trời của hỏa tiễn 122 ly gần đó:

    - Bạn sẽ không bao giờ quên phi vụ ngày hôm nay. Đây là phi vụ nhớ đời. Mấy ai được “dàn chào” trước khi đi bay như tụi mình?

    Ngồi trên xe Jeep dân sự màu trắng của anh, tôi nhường anh bay lead thì anh bảo:

    - Ai lead chả được. Quan trọng nhất là phải lên (cất cánh) bằng mọi giá. Đứa nào lên được thì lên, đừng chờ. Nếu lên được mình mới có cơ hội bảo vệ mọi người ở đây, nên nhớ rằng trong đó có vợ con mình. Nếu như tụi mình có mệnh hệ nào thì đây là cơ hội để mình đền ơn cho tổ quốc.(đây có phải là lời trăn trối của anh chăng?)

    Những lời kiên định của anh làm tôi cảm phục anh hơn và tinh thần tôi tự nhiên dâng lên. Cho tới bây giờ tôi vẫn ấp ủ trong tâm câu nói nhớ đời của anh cùng với sự đảm lược, bình tĩnh, đôi khi pha chút khôi hài, ví dụ như khi sắp đến chỗ hai người Quân Cảnh đứng gác (cạnh Hậu Trạm Hàng Không cũ vừa bị bom đánh sập lúc 6 giờ chiều ngày hôm qua) anh cố tình bẻ tay lái qua lại làm cho hai anh Quân Cảnh phải nhảy vọt sang hai bên để nhường đường. Anh Phùng đùa rằng:

    - Tôi bắt gặp hai thằng ma gà này hồi chiều dzê con bồ nhí của bạn ở ngoài cổng Phi Long. Tôi trả thù giùm bạn rồi đó nha!

    Hôm nay ngoại lệ, chúng tôi không hề bị chận hay xét hỏi, có lẽ vì hai anh Quân Cảnh này biết chúng tôi đang đội pháo để đi bay? Tội nghiệp họ, đứng chơi vơi giữa trời không gì che chắn, có vẻ thi gan cùng đạn pháo? Tiếng rít xé gió cùng tiếng nổ của các hỏa tiễn 122 ly vẫn dồn dập, anh Phùng phóng như bay về phía bãi đậu hướng Tây gần trại Davis. Thấy ánh đèn xe lao tới, 6 anh phi đạo chạy xông ra.

    Anh Phùng muốn lái chiếc AD-5. Chiếc nầy đang nằm trong hangar kiên cố hình vòng cung, giữa đường di chuyển và phi đạo. Còn chiếc AD-6 của tôi nằm ngoài bãi đậu, cách phi cơ anh Phùng cả trăm thước về hướng Nam.

    Để tránh điều bất trắc, tôi căn dặn các anh cơ trưởng sau khi máy nổ, choke out rồi tìm chỗ núp ngay. (Choke out là lấy 4 khúc gỗ dùng để chận 2 bánh xe của phi cơ).

    Máy vừa nổ, tôi gọi đài đài Kiểm Soát Diện Địa (Saigon Ground Control) xin phép di chuyển (taxi). Đài cho biết, phi đạo sử dụng 25 Left (Trái), gió nhẹ hướng Nam. Gió ngang nhẹ gần như 90 độ, tôi có thể cất cánh bất cứ chiều nào.

    Khi di chuyển đến trước phi cơ anh Phùng, anh đứng dưới cánh máy bay và ra dấu bình điện bị hư. Như đã thỏa thuận trước, tôi liền ra dấu cho anh biết tôi cất cánh trước.

    Lúc đó tôi nhận định nếu như cất cánh từ phi đạo 25 Left, tôi phải di chuyển từ phía Tây của phi trường sang tận đầu phi đạo hướng Đông, xa hơn 2 dặm và mất nhiều thời gian. Nếu Cộng quân có người điều chỉnh, pháo theo tôi thì tôi sẽ gặp muôn vàn nguy hiểm, bị tan xác là cái chắc. Và rồi phi trường sẽ ra sao? Vì vậy tôi xin với đài cho phép tôi di chuyển ra taxiway Whiskey # 3 để cất cánh ngược chiều từ phi đạo 07 Right (Phải).

    Sau khi thử máy xong (dù máy chưa đủ nóng) tôi gọi đài Kiểm Soát Không Lưu Tân Sơn Nhứt (Saigon Control Tower) xin phép cất cánh khẩn cấp (Hot scramble).

    Như vậy tôi chỉ còn hơn phân nửa chiều dài phi đạo để cất cánh và nên dùng phương pháp ép tay ga ”Maximium Performing Take off” để cất cánh.

    Sau khi nhả chân thắng, đẩy thêm hết cần ga, động cơ với 18 máy (cylinder) 2.700 mã lực gầm thét và lướt trên phi đạo.


    Cảm tạ ơn trên, tôi cất cánh an toàn lúc 04 giờ 25 phút. Vinh hạnh nhất là tôi có cơ hội bảo vệ mọi người trong phi trường Tân Sơn Nhứt và cho cả vợ con tôi.

    Chuyển qua tần số của đài Kiểm Báo Paris tôi báo:

    - Paris! Phi Long 51 vừa cất cánh, một chiếc A-1 với 10 trái bom MK 81, xin nhận chỉ thị.

    Danh hiệu Phi Long 51 là do tôi vô tình lấy đại một cái tên mà lại trùng danh hiệu của phi tuần tôi bay chiều hôm trước.

    Đài Kiểm Báo Paris chưa kịp trả lời, tôi đã nghe tiếng của Trung Úy Trần Văn Bảo, người bạn cùng khóa 70-08 T-28 ở Keesler, Mississippi, Trưởng Phi Cơ của chiếc AC-119 K, danh hiệu Tinh-Long-06:

    - Phi Long 51 biết Phú Lâm không? Tinh Long- 06 đang thả trái sáng. Bạn bay về hướng Nam sẽ thấy ngay”.

    Nhìn về hướng Phú Lâm, ánh hỏa châu soi sáng cả vùng trời nhưng không thấy chiếc phi cơ xạ kích, có lẽ chiếc AC-119K nầy đã cạn hỏa lực?

    Tôi trả lời anh:

    - Phi Long 51 sẽ có mặt trong vài phút và request Random Attack”

    Anh Bảo đồng ý:

    - OK Phi Long 51. Random Attack. Tinh Long giữ cao độ 5.000 bộ và tiếp tục soi sáng để yểm trợ cho bạn”.

    (Tôi chọn random attack vì tôi bay một mình, khi nào phi cơ bay lên đủ cao độ 4.000 bộ là tôi nhào xuống thả bom mà không cần giữ hướng của trục tấn công, như vậy sẽ nhanh hơn.)

    Nhờ lặng gió nên hai làn khói trắng vẫn còn la đà bên dưới và theo sự hướng dẫn của anh Bảo, lần lượt từng trái bom một rơi xuống 2 mục tiêu rồi tôi ngưng lại. (rút kinh nghiệm lần diệt pháo ở Cần Thơ lúc 2 giờ sáng ngày 11/4/1975)

    Lúc bấy giờ tôi nhận ra Cộng quân đặt các dàn pháo trong 1 vườn cây ăn trái, cách đài Radar Phú Lâm hơn 500 thước về hướng Tây Bắc (sau 1975 một con đường mới xây xuyên qua vườn cây nầy mang tên Đường Tên Lửa) và vài ba chiếc trực thăng đang quây quần ở hướng Đông và hướng Bắc của Phú Lâm với cao độ chừng vài ngàn bộ.

    Thình lình trong vô tuyến tôi nghe:

    - Phi Long 51 cứ trút hết bom xuống đó rồi tối nay ghé nhà tôi nhậu.

    Sau khi xác định giới chức vừa ra lệnh cho tôi là cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, tôi trả lời:

    - Tôi có chút ít kinh nghiệm diệt pháo kích. Hôm nay tôi bay lên đây một mình với 10 trái bom MK-81. Tôi nên thả khi nào tôi thấy rõ mục tiêu. Xin Thần Phong 01 an tâm. Tôi có thể ở đây ít nhất 3 giờ nữa.

    Lời đối thoại của tôi với Tướng Nguyễn Cao Kỳ bị tên sử gia vô liêm sỉ Olivier Todd đã trâng tráo bẻ cong sự thật (trong quyển “Tháng Tư Nghiệt Ngã” mà mọi người xem như là của quý, là quyển sách để đầu giường, là THÁNH KINH.

    Xin mời xem trang 320 do ông Dương Hiếu Nghĩa chuyển ngữ:

    - Đây Nguyễn Cao Kỳ đây, phải tiêu diệt các pháo đội địch nầy.

    - Nhận rõ, nhưng tôi chỉ còn có một quả bom, sĩ quan chỉ huy trả lời.

    Đúng là giờ đã điểm, đối với những chiến trận danh dự không đáng kể!

    (Hết trích).

    Lời đối thoại của Tướng Kỳ và tôi được thu âm trên tần số 233.8 của Đài Kiểm Báo Paris, nhân viên đài và Phi Hành Đoàn của chiếc Tinh Long- 06 và những chiếc trực thăng bay trên không phận Sài Gòn nghe được. Tôi tin tưởng họ là những nhân chứng hùng hồn, với một sự thật như ánh mặt trời mà không bóng đen nào có thể che lấp hay làm lệch lạc được.

    Chừng mươi lăm phút sau, hàng loạt hỏa tiễn 122 ly phóng lên tới tấp hướng về Tân Sơn Nhứt và vùng Sài Gòn khiến tôi choáng cả mắt, nghĩ thầm ”ước chi tôi có được hàng trăm quả bom!” mới dẹp hết những dàn hỏa tiễn nầy. Tôi mong sự tiếp tay của anh Phùng hơn bao giờ, chứ một mình tôi thì không thể nào dập tắt được hết những dàn pháo này. Tôi chọn một trong những làn khói đang bốc lên làm mục tiêu. Mỗi khi bay lên được 4.000 bộ là tôi nhào xuống thả bom ngay. Nhưng trước khi xuống thả bom trái thứ 5 hay thứ 6, tôi thấy có những vật gì vừa nổ dưới đất và nghi ngờ có chiếc trực thăng võ trang nào đó bay vào bắn rocket nên tôi cự nự anh Bảo:

    - Tinh Long- 06! Bạn đồng ý cho tôi đánh random attack mà bạn lại cho chiếc trực thăng võ trang nào đó nhào vô ăn có. Nó bay ở cao độ thấp, nhỡ bom của tôi nện trên đầu nó thì phiền lắm.”

    Anh Bảo liền phủ nhận:

    - Không có đâu bạn. Tôi đã đuổi mấy thằng trực thăng qua bên kia Quốc Lộ 4 hết rồi.”

    Vòng ném bom kế tiếp, tiếng anh Bảo reo lên:

    - Dường như có một chiếc A-1 khác ném bom tiếp tay với bạn đó Phi Long 51. Tôi không liên lạc được với chiếc đó.”

    Linh tính báo cho tôi biết người tiếp tay với tôi không ai khác ngoài anh Phùng.

    - Chắc là Thiếu Tá Phùng bay chiếc số 2 của tôi lên tiếp sức với mình đó. Có thể anh ấy bị trở ngại vô tuyến. Bạn đừng lo. Monkeys see monkeys do (thấy tôi thả bom chỗ nào, anh ấy sẽ thả xuống chỗ đó)

    Chuyện hư vô tuyến đối với phi cơ A-1 cũ kỹ của chúng tôi thường xảy ra. Đó chỉ là chuyện nhỏ thôi.

    Nhờ nhiều hỏa châu soi sáng giúp chúng tôi dễ dàng cày hết ngôi vườn nầy, những dàn pháo đã bị dẹp. Tôi báo với anh Bảo tôi đã hết bom, chỉ còn 800 viên đạn đại bác 20 ly và trở về bảo vệ phi trường Tân Sơn Nhứt, đồng thời tôi xin Paris điều động một phi tuần khác lên thay.

    Sang tần số của đài Kiểm Soát Không Lưu Tân Sơn Nhứt hỏi xem sau tôi còn có chiếc A-1 nào cất cánh không? Tôi được trả lời:

    - Tụi nó pháo quá chúng tôi phải chui xuống hầm và vừa mới leo lên trên đài, nên chúng tôi không biết có chiếc nào cất cánh sau bạn hay không.

    Về đến Tân Sơn Nhứt lúc 5 giờ 25 phút, phi trường chìm trong bóng tối, ngoài ánh đèn màu vàng của 2 phi đạo, màu xanh của các taxiway còn có một đám đang cháy bập bùng. Khi bay đến gần đám cháy nầy, tim tôi như ngừng đập, tay tôi run rẩy, miệng không ngớt cầu nguyện ơn trên gia hộ cho vợ con tôi.

    Trời còn tối tôi không thể xác định vị trí, chỉ biết đám cháy nầy cách dinh Tướng Kỳ không xa. Tôi chỉ biết cầu nguyện và bay đảo vòng vòng khu nầy, tinh thần tôi bắt đầu căng thẳng và mong cho chóng sáng. Nếu như vợ con tôi có mệnh hệ nào, tôi không muốn sống lẻ loi và đương nhiên tôi sẽ kéo theo tên Võ Đông Giang cùng đồng bọn đang vui mừng trong trại Davis.

    Mặc dù không còn pháo kích nữa nhưng mọi hoạt động của phi trường đều ngưng lại, chì có một chiếc phi cơ AC-119K danh hiệu Tinh Long- 07 bay lên thay chiếc Tinh Long- 06 về đáp vì cạn hỏa lực.

    Mặt trời sắp ló dạng, ánh sáng ban mai vừa đủ để tôi nhận ra đám cháy nầy là cư xá Nữ Quân Nhân. Như trút được gánh nặng ngàn cân khi thấy cư xá của Phi Đoàn 431 nơi vợ con tôi tạm trú còn nguyên vẹn. Tôi buông tay lái, hít một hơi thở thật dài và cảm thấy nhẹ hẳn người, cùng lúc đó một chiếc AD-5 với hai quả bom trên cánh xuất hiện bên tay phải. Tôi quẹo trái thật gắt nhưng chiếc AD-5 nầy vẫn bám phía sau. Bây giờ tôi biết chắn chắn người cùng với tôi diệt các dàn 122 ly ở Phú Lâm là anh Phùng.

    Năm mười phút sau, trên tần số Paris tôi nghe Thiếu Tá Hồ Ngọc Ấn Phi Đoàn 514, danh hiệu Phượng Hoàng 11 cho biết phi tuần của anh cất cánh từ Cần Thơ và đang trên đường tiến về Tân Sơn Nhứt.

    Vào khoảng 6 giờ 15 phút, không biết Trung Úy Trang Văn Thành, người bạn thân cùng khóa 68A, Khóa 70-08 T-28 ở Keesler, Trưởng Phi Cơ của chiếc Tinh Long- 07 thấy những gì mà gọi Thiếu Tá Ấn:

    - Tôi nghi ngờ có một đám năm ba tên VC định cắt hàng rào phòng thủ phía Bắc của phi trường, cạnh khu đất trống hình tam giác ở An Nhơn. Tôi yêu cầu Phượng Hoàng 11 cho một trái bom bên ngoài vòng rào. Trục đánh từ Đông sang Tây. Tôi hold phía Bắc, cao độ 5.000 bộ.

    Biết chắc phi tuần của Thiếu Tá Ấn chưa lên tới, tôi bay đến khu đó nếu cần tôi sẽ xử dụng 800 viên đại bác 20 ly còn lại, nhưng trời chưa sáng hẳn, với độ cao 4.000 bộ tôi không thấy gì cả và bắt đầu xuống cao độ để quan sát. Thình lình một trái bom nổ ngay mục tiêu, anh Thành lên tiếng:

    - Số 1 thả bom như để. Số 2 đánh dài hơn 50 thước.

    Trái thứ nhì nổ dọc theo vòng rào nhưng dài hơn 1 chút.

    Anh Thành la lên:

    - Phượng Hoàng 11 hold high and dry (Ngưng thả bom) Số 2 thả bom gần nhà dân quá.

    Thiếu tá Ấn lên tiếng phủ nhận:

    - Không phải Phượng Hoàng 11 thả bom. Chúng tôi mới đến Bến Lức làm sao thả bom ở đó được?

    Từ lúc trở về Tân Sơn Nhứt tôi giữ im lặng vô tuyến và anh Thành thấy phi tuần của tôi tưởng lầm là Phượng Hoàng 11 nên tôi lên tiếng;

    - Tinh Long- 07! Không phải Phượng Hoàng thả bom đâu. Đó là chiếc số 2 của Phi Long 51 vừa thả hai trái bom cuối cùng. Vô tuyến của Phi Long 52 bị hư. Bây giờ chúng tôi hết bom rồi, chỉ còn canon mà thôi.

    Nghe tiếng của tôi, Đại Úy Nguyễn Tiến Thụy, người bạn cùng khóa 70- 08 cũng như khóa A- 1 và cùng sinh tử với tôi khi ở Phi Đoàn 530 - Pleiku, hiện ở Houston, Texas, bay chiếc số 2 của phi tuần Phượng Hoàng 11 lên tiếng:

    - Ê Phúc! Mày nên bay về Cần Thơ đi. Ở đó nguy hiểm lắm.

    Nhìn đồng hồ xăng thấy hơn 800 pounds, dư để bay đi Cần Thơ nhưng tôi trả lời:

    - Tao chỉ còn 600 pounds xăng, hơn nữa vợ con tao còn kẹt lại. Sống chết gì tao cũng đáp xuống đây. Vả lại hiện giờ còn yên tĩnh lắm.

    Sau đó tôi nghe tiếng anh Phùng than phiền:

    - Ê một! Tôi bay với bạn gần 3 tiếng, nghe được mà không nói được. Bực cái mình và chán chết luôn. Mình bay xuống Cần Thơ đi.

    Cũng như câu trả lời cho Thụy, tôi không thể đi Cần Thơ.

    Chừng một phút sau, anh Thành báo cho chúng tôi biết:

    - Báo cho Phi Long 51 và Phượng Hoàng 11 biết, tôi xuống cao độ để dễ quan sát hơn. Tôi không muốn đánh lầm vào nhà dân. Tội cho họ lắm.

    Tôi không ngờ đây là câu nói cuối cùng của người bạn thân.

    Khi chúng tôi bay trên Lăng Cha Cả, anh Phùng gọi:

    - Thôi mình đáp xuống đây đi Phúc.

    Tôi nghĩ phi tuần Phượng Hoàng 11 sắp đến nơi, chúng tôi có thể đáp xuống, tôi gọi anh Phùng sang tần số đài Kiểm Soát Không Lưu Tân Sơn Nhứt và vì lo ngại tình trạng vô tuyến bất ổn của anh, tôi nhường anh đáp trước.

    Nhưng trước khi chạm bánh (touch down) không biết vì lý do gì anh Phùng gọi lại: - Hai go around (bay lên). Một đáp trước đi và chờ tôi 5 hay 10 phút, tôi chở bạn vô biệt đội.

    Nếu không nóng lòng về sự an nguy của vợ con, tôi đã bay theo anh.

    Khi vào cận tiến (final) đài Kiểm Soát Không Lưu báo cho tôi biết có SA- 7 bắn lên.

    Vì không tin nên tôi hỏi lại thì anh này cho biết:

    - Tôi thấy mấy cục lửa bằng cườm tay bay lên.

    Hồi đầu tháng 12 năm 1973 ở Kiến Đức, tôi cùng phóng viên chiến trường Huỳnh Công Phúc ngồi bên ghế phải chứng kiến SA-7 bắn như thế nào nên tôi trả lời:

    - Anh bạn quan sát lại đi. SA-7 bắn lên không phải là mấy cục lửa bằng cườm tay đâu mà là một luồng khói màu cam bay lên, sau đó chuyển sang màu trắng xanh và bay rất nhanh.

    Anh bạn này bất bình:

    - Tôi báo cho bạn biết mà bạn không tin. Lát nữa bạn bị bắn thì bạn ráng chịu nha.

    Bỗng nhiên tôi nhớ tới cố Trung Tá Phạm Văn Thặng mỗi khi say xỉn ông thường ngân nga bài “Làm sao giết được người trong mộng” nên tôi buột miệng:

    - Làm sao... giết được... người... trong mộng 1...2...3 touch down. (chạm bánh)

    Theo đường di chuyển số 7, tôi vào bãi đậu gần đó. Mấy anh cơ trưởng đón mừng. Tôi cùng với các anh đứng gần chiếc C-47 bị trúng bom hồi chiều hôm qua và theo dõi chiếc Tinh Long-07 ở độ cao chừng vài ba ngàn bộ đang nghiêng cánh trái và xạ kích. Tiếng súng đại bác gatling 20 ly với 6 nòng gầm như bò rống. Thấy các anh cơ trưởng có vẻ hoang mang, tôi trấn an:

    - Ông Trung Úy Thành muốn biểu diễn cho mọi người xem uy lực của đại bác 20 ly, 6 nòng ra sao? Chớ target đó chỉ là tình nghi mà thôi.

    Vừa dứt lời, chiếc Tinh Long-07 cũng vừa ngưng bắn nhưng chưa kịp trả cánh, một hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 bay tới từ bên phải, chiếc đuôi bên phải cùng với vài vật màu đen rơi xuống, động cơ phải phát hỏa, cánh phải gãy lìa, phòng lái bùng cháy, phi cơ cắm đầu xuống đất trong tít tắc.

    Tôi điếng cả người và nhìn theo cột khói đen cuồn cuộn bốc lên cao vút. Đột nhiên nhiên bủn rủn tay chân rồi tôi quỵ xuống bãi cỏ, nhìn theo cột khói bốc lên tưởng chừng anh linh của người bạn thân, Trang Văn Thành cùng Phi Hành Đoàn Tinh Long-07 vừa hy sinh cho Tổ Quốc nắm tay nhau bay lên Thiên Đàng.

    Tình hình thay đổi quá nhanh vì sự xuất hiện của hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7, khắc tinh của các loại phi cơ bay dưới 10 ngàn bộ, nhất là lúc cất cánh hoặc đáp. Phi trường Tân Sơn Nhất bị uy hiếp trầm trọng. Nếu như không vì nóng lòng về sự an nguy của vợ con, tôi bay thêm mươi phút nữa, người bị bắn rớt có thể là tôi?

    Các anh cơ trưởng lẵng lặng bỏ đi chỉ còn 1 mình tôi thẫn thờ ngồi trên bãi cỏ.

    Cột khói của chiếc Tinh Long-07 bốc cháy lên cao trong nhiều giờ nhưng giới truyền thông đã võ đoán, phóng đại cho rằng kho bom, kho nhiên liệu.v,,,v,,..bị trúng pháo kích. Sau nầy tôi được biết ngoài chiếc Tinh Long-07 bị trúng SA-7 còn 2 chiếc C-119 khác bị rớt không rõ lý do, 1 chiếc rơi xuống số 33 đường Ngô Quyền, Chợ Lớn, hiện còn trang thờ trên lầu 3 không rõ số người gặp nạn và 1 chiếc khác rơi xuống Kinh Số 4 ở Tân Tạo, trên phi cơ nầy có 6 người đàn ông và 1 phụ nữ. (2 người được gia đình xác nhận là Đại Úy Huỳnh Đình Chiến và Thượng Sĩ Trần Văn Tiềm Em Phi Đoàn 821)

    Sau khi đổ đầy xăng cho chiếc phi cơ của tôi, anh tài xế xe bồn chạy đến hỏi:

    - Chừng nào chiếc số 2 của Đại Úy về đáp?

    Tôi trả lời anh:

    - Có lẽ Thiếu Tá Phùng thấy chiếc Tinh Long bị trúng SA- 7 nên ông bay đi Cần Thơ rồi. Anh không cần chờ ông ấy nữa.

    Vào khoảng 7 giờ 25 phút, trên đường quá giang xe xăng vô biệt đội, nhiều loại phi cơ F-5, C-130, C-119, C-47 v.v... tranh nhau cất cánh. Nhiều tiếng bom nổ ở đâu đó vì tôi đang ngồi trên xe bồn chứa xăng nên không thấy. Phi trường bắt đầu hỗn loạn như đàn ong vỡ tổ, không lệnh lạc, mạnh ai nấy chạy và tôi nghĩ không một ai có thể ngăn cản.

    Tôi vội vã chạy về cư xá Phi Đoàn 431, trước mặt là cư xá Nữ Quân nhân chỉ còn những đống tro tàn, bên trái hơn mươi bước là 2 dãy cư xá của Phi Đoàn 431.

    Bước vào trong, tôi chỉ thấy những mảnh vụn của bóng đèn néon vương vãi trên sàn nhà. Tim tôi lại đánh lô tô thêm lần nữa. Vòng qua theo lối đi giữa 2 dãy cư xá, 1 trái hỏa tiễn 122 ly không nổ cắm xuống nền nhà, lòi phần đuôi dài hơn 1 thước, cách vách của phòng vợ con tôi tạm trú với gia đình người em gái (chồng là Thiếu Úy Phạm Trung Vân, PĐ 431) chừng 3 thước, đi thêm vài mươi bước nữa là một cái hầm chống pháo kích. Người đầu tiên tôi gặp là bé Hạnh Thương vừa tròn 7 tháng đang được bồng trên vai mẹ, miệng cười toe toét, tay vẫy mừng ba, đầu cổ, mình mẩy đầy cát bụi.

    Cái hầm nầy đã bỏ hoang từ nhiều năm, vải bao cát đã mục nát và chỉ cần một trái 122 ly rớt trúng thì không ai sống sót. Vân cho biết trên Phi Đoàn 431 có một hầm chống pháo kích rất kiên cố. Tôi bảo Vân đưa mọi người lên đó trước, còn tôi gom góp sữa cho các cháu sẽ đến đó sau. Nhưng khi đến trước cổng Bộ Tư Lệnh Không Quân tôi gặp xe của Vân chạy ngược lại và Vân cho biết vị Phi Đoàn Trưởng, Trung Tá Nguyễn V.X. khả kính không cho vô hầm và nói rằng:

    - Giờ này mà ông còn mang mấy bà nội này vô đây làm gì?

    Quý hóa thay tình huynh đệ chi binh hay không bỏ anh em, không bỏ bạn bè.

    Một cấp chỉ huy thật tuyệt vời!

    Túng thế tôi bảo Vân chạy theo tôi vào dinh Tướng Kỳ ở phía bên kia đường, dù sao dinh nầy được xây kiên cố, an toàn hơn. Ở đây tôi gặp Thiếu Tá Trần Ngọc Hà, tức nhà văn Không Quân Trần Ngọc Nguyên Vũ cùng gia đình. Anh Hà là phi công khu trục A-1 lão luyện, Phụ Tá Sĩ Quan Huấn Luyện của Phi Đoàn 530 rồi Trưởng Phòng Huấn Luyện của Liên Đoàn 72 Tác Chiến nhưng anh thích bay hành quân. Chưa đầy nửa năm anh bị bắn và phải nhảy dù 2 lẩn:

    Lần thứ nhất vào đầu tháng 11 năm 1971 ở Ben Het, gần ngã ba biên giới Việt- Miên- Lào (tôi bay chiếc số 2) trong phi vụ yểm trợ bốc quân của Lực Lượng Đặc Biệt trên đường mòn hồ chí minh.

    Lần thứ nhì ở đồi Charlie, Tây Bắc Kontum ngày 12/4/1972 ngày cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù hy sinh vì Tổ Quốc.

    Sau đó nếu có ai hỏi tại sao anh phải nhảy dù nhiều lần. Anh đùa rằng anh rất thích nhảy dù vì nhảy dù là môn thể thao thời thượng.

    Nhớ lại những kỷ niệm tuyệt vời trong những năm tháng ở Pleiku, anh Hà và tôi gắn bó bên nhau, thân hơn anh em ruột. Anh cũng là người mắng tôi thậm tệ chỉ vì cái gàn của tôi:

    Sau khi Đại Tá Phạm Ngọc Sang thành lập Sư Đoàn 6 Không Quân (vinh thăng Chuẩn Tướng năm 1974), ông cần nhiều người phụ giúp nhưng vì tôi tự thấy mình không tài không đức không môi không mép nên không dám trèo cao nhưng anh Hà cố thuyết phục:

    - Bao nhiêu người cầu cạnh mà không được. Còn mầy được lọt vào cặp mắt xanh của ông Sang mà không biết hưởng. Mầy theo ổng muốn gì lại không được.

    Tôi cho anh biết tuần rồi tôi vừa từ chối Trung Tá Bút chuyển lời của Đại Tá Sang ( Trung Tá Lê Văn Bút, người anh đồng hương, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật) anh Hà nổi lôi đình:

    - Mầy ngu như con bò nói mãi không nghe (lời), Ông Sang nói để mầy ở dưới phi đoàn đi bay bị VC bắn chết mẹ mầy cho rồi.

    Tôi vẫn biết anh mượn tiếng Đại Tá Sang để mắng tôi cho đỡ tức. Cách đây khoảng 20 năm, có lẽ anh nhớ tôi nên viết bài “Đường Bay Muôn Thuở” để kể lại 2 phi vụ sau cùng của tôi. Cám ơn anh Hà thật nhiều và tụi em nhớ anh chị thật nhiều mong gặp lại anh, chị Liên và cháu Phương sau 47 năm mong nhớ.

    Vào khoảng 9 giờ hơn, một chiếc trực thăng đáp xuống sân cỏ, Tướng Kỳ bước xuống, theo sau là Trung Tá Nguyễn Quốc Hưng cùng người em, Trung Tá Nguyễn Quốc Thành, mỗi người cầm trên tay 1 khẩu súng M-16.

    Trong thời gian bị đình động, tôi được đưa sang Liên Đoàn 23 Tác Chiến làm việc dưới quyền Trung Tá Thành, vì vậy tôi đến chào ông và được biết Trưởng Phi Cơ của chiếc trực thăng là Thiếu Tá Qui.

    Vài ba phút sau, tôi trở lại cùng nhóm 2 gia đình anh Hà và gia đình tôi. Tướng Kỳ đi ra rồi đi vô phòng làm việc của ông nhiều lần. Tôi chợt nhớ đêm 25/4/1975 Tướng Kỳ gọi tất cả phi công F-5 và A-1 có mặt trong Tân Sơn Nhứt vào dinh, ông kêu gọi mọi người nên đưa gia đình sang Guam lánh nạn để mọi người không vướng bận gia đình mà chiến đấu tới cùng. Ông cho biết hồi sáng nầy ông đi thăm các Sư Đoàn Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Bộ Binh v...v...Tinh thần chiến đấu của các đơn vị tham chiến nầy rất cao. Ngày mai ông sẽ vào dinh Độc Lập để xin Tổng Thống Trần Văn Hương cho phép ông trở về với quân đội để cùng nhau tử chiến. Sau đó mọi người cùng nâng ly chúc chiến thắng.

    Vì vậy khi ông bước qua chỗ chúng tôi đứng, tôi mạo muội hỏi ông:

    - Bây giờ Tướng định như thế nào?

    Có thể hiểu ý tôi muốn nhắc tới lời kêu gọi tử chiến đêm 25/4, ông buồn bã trả lời:

    - Anh em đã chạy hết rồi. Còn ai nữa mà đánh.

    Tôi đồng ý với ông, rất nhiều phi cơ đã bay đi từ lâu. Rồi tôi theo chân ông bước vào phòng làm việc, trang trí bên trong vẫn như lần đầu tiên tôi vào đây hồi cuối tháng 8 năm 1971. Khi đó ông thành lập 1 phi đội cảm tử gồm Đại Úy Phạm Văn Thặng, Đại Úy Trần Ngọc Hà, Trung Úy T.K.L và tôi.(cấp bậc lúc bấy giờ)

    Chừng một phút sau tôi trở ra ngoài trò chuyện cùng gia đình anh Hà. Khoảng gần 10 giờ sáng, Tướng Kỳ bước ra và nói với tôi:

    - Nhờ cậu báo cho tất cả thân hữu của tôi biết Mỹ đã hủy bỏ chuyến C-141 dành cho tôi. Bây giờ mọi người nên sang DAO hay xuống Bến Bạch Đằng. Các tàu Hải Quân đang chờ. Tôi qua rước Tướng Trưởng bên Bộ Tổng Tham Mưu.

    Nói xong ông lên phi cơ. Tôi chuyển lời Tướng Kỳ tới mọi người. Không biết từ đâu hàng trăm người trong dinh đổ xô ra và sửa soạn rời khỏi dinh.

    Thoạt đầu Vân đồng ý với tôi là chạy ra bãi đậu tìm phi cơ nhưng khi ra đến cổng dinh, cô em vợ tôi đổi ý, đòi một hai phải trở về nhà. Cả Vân lẫn tôi không dám làm trái ý vì e ảnh hưởng tới sức khỏe của cô (vừa sanh cháu gái thứ nhì hồì tuần trước) nhưng Quân Cảnh ở cổng Phi Long chận tôi lại với lý do là lịnh Trung Tá Ngưu Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ không cho phi công tác chiến rời Tân Sơn Nhứt.

    Vì ngồi băng sau của chiếc Jeep và đang bồng con nên tôi bước xuống hơi chậm, người Quân Cảnh này bắn liên tiếp 3 tràng M-16 để thị uy?

    Sau đó nhờ Đại Úy Quận chở tôi trở lại dinh Tướng Kỳ để lấy xe gắn máy. Tại đây tôi xin Dân Biểu Nguyễn Văn Cử cho tôi nằm trong cốp xe phía sau để ra cổng nhưng ông e ngại tôi bị chết ngợp.

    Khoảng 10 giờ 30 phút, Cộng quân bắt đầu pháo nhỏ giọt vào phi trường bằng đại bác 130 ly từ Nhơn Trạch. Trong lúc bối rối chưa biết phải làm gì, tôi gặp Thiếu Tá Bạch Diễn Sơn, Phi Đoàn Trưởng PĐ 530. Ông gọi tôi di tản xuống Cần Thơ. Như người mất hồn, tôi chạy theo ông, trên xe ông còn có Thiếu Tá Nguyễn Huy Bản, Đai úy Lê Bính Liêu, Đại Úy Lê Xuân Châu và tôi là người sau cùng lên chiếc AD- 5 do Thiếu Tá Hồ Văn Hiển, Phi Đoàn 514 vừa đáp xuống. (Thiếu Tá Trần Thanh Long ngồi ghế phải, Trung Úy Trương Vĩnh Tân bay chiếc số 2)

    Phi trường lúc bấy giờ thật vắng vẻ, trời chuyển mưa, cột khói của chiếc Tinh Long- 07 bay sà xuống gần mặt đất làm cho bầu trời đen xẩm thêm, ảm đạm hơn. Tôi có cảm tưởng phi trường Tân Sơn Nhứt bấy giờ biến thành bãi tha ma? (Dường như lúc nầy phi trường Tân Sơn Nhứt sắp bỏ ngỏ?)

    Đến phi trường Trà Nóc, Cần Thơ tôi tìm nhưng không gặp Thiếu Tá Phùng và coi như anh đã mất tích. Kế đó tôi vào Phòng Quân Báo Sư Đoàn 4 Không Quân nhờ điện thoại của Trung Tá Bích để gọi về nhà, nhưng tất cả tổng đài ở Sài Gòn như Tiger, MACV, USAID, Khải Hoàn, Thống Nhứt... đều không có người trả lời. Tôi hoàn toàn tuyệt vọng và vừa bước ra cửa, đúng lúc Thiếu Tá Huynh taxi chiếc AD- 6 ngang qua, anh thấy tôi nên ngừng lại và bảo tôi leo lên chiếc AD- 5 phía sau do Thiếu Tá Sang lái để về Tân Sơn Nhứt.

    Trên phi cơ đã chứa hơn 15 người, tôi lên sau cùng, không còn chỗ trống, nên phải ngồi chồm hổm giữa 2 sợi dây cáp (cable) điều khiển elevator và rudder ở tận phần đuôi của máy bay. Nhưng mươi phút sau, phi tuần nầy lấy hướng đi Thái Lan, mọi người đều reo mừng, ngoại trừ tôi nước mắt dầm dề và chúng tôi đến Utapao, Thái Lan khoảng 1 giờ trưa (giờ địa phương).

    Theo lời Thiếu Tá Huynh, ở Cần Thơ ông được lịnh cất cánh một phi tuần 4 chiếc A- 1 trở về bao vùng trên không phận Tân Sơn Nhất để cho các phi cơ F-5 còn lại ở Tân Sơn Nhứt cất cánh đi Thái Lan, nhưng lúc đó phi trường đã bỏ ngỏ nếu bay về đó chỉ làm mồi cho hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 mà thôi. Lịnh kỳ quái nầy bắt nguồn từ đâu? Chiều hôm đó 29/4/1975 ở Utapao một nhân viên của đài Kiểm Soát Không Lưu Tân Sơn Nhứt cho tôi biết sau chiếc Tinh Long 07 trúng SA-7 không lâu, anh thấy một chiếc A-1 bị rớt ở hướng Tây Nam. Có phải là chiếc A-1 của anh Phùng?

    Tóm lại anh Phùng đã hoàn thành sứ mạng bảo vệ mọi người trong Tân Sơn Nhứt, tôi tin rằng anh linh của anh đang mỉm cười nơi chín suối.

    Xin thắp nén hương lòng để tưởng niệm người đàn anh đáng kính Trương Phùng và người bạn thân Trang Văn Thành cùng Phi Hành Đoàn Tinh Long -07 đã hiến dâng đời mình cho Tổ Quốc.

    Vào đầu năm 2007 trên mạng Cánh Thép nhiều thành viên, cựu Không Quân cũng như những người hâm mộ muốn tìm tung tích của Thiếu Tá Phùng và Trung Úy Thành cùng Phi Hành Đoàn Tinh Long 07 để tri ân những tử sĩ vị quốc vong thân nầy. Nhờ đoạn video của cố ký giả Don Harris, chiếc Tinh Long 07 được biết nằm bên trong hàng rào phòng thủ về hướng Bắc, nhưng chiếc AD-5 của Thiếu Tá Phùng thì biệt tăm.

    Lợi dụng câu châm ngôn của Không Quân “không bỏ anh em không bỏ bạn bè” và tấm lòng tri ân của nhiều người thương cảm, 2 tên vô loại, tán tận lương tâm Thiếu Úy Mạc Đìa và Thiếu Úy Nguyễn Thanh Mẫn, cả 2 là cựu Huấn Luyện Viên Trường Phi Hành Nha Trang mạo nhận nhà ngoại cảm, tạo cảnh tìm hài cốt giả ở gần cầu Bình Điền để trục lợi và lừa gạt lòng tin của mọi người vào tháng 12 năm 2008.

    Xin anh linh của anh Phùng phò trợ cho 18 đời nhà họ Mạc được giàu sang nhờ trò lừa thầy phản bạn, vô nhân tính. Những ai thích bị lường gạt vui lòng liên lạc Mạc Đìa 3005 silver creek rd, suite 142, San Jose, Ca95121 số phone 408 - 227 - 9088

    Đến năm 2018 tôi nhân được tin:

    Trích tin từ facebook của chị Phùng:

    Hài cốt năm 2017 đã được vợ chồng anh NGUYỄN VĂN VỊ (làm nghề thu mua phế liệu) đã tìm thấy ở ĐÀI RADAR PHÚ LÂM gần phi thường TSN vào năm 1987 ( trong khi lấy hài cốt anh VỊ có lấy được một thẻ “căn cước” bị rách một nửa, có đề tên Trương Phùng / Phong Dinh. Phong Điền) và đã được anh Vị đem CỐT về Quê Sa Đéc để chôn cất được 30 năm. Rồi do sự tình cờ anh Vị qua Mỹ (thăm con gái) đi hớt tóc nên gặp được anh NGUYỄN ĐÌNH THẢO (khóa 64A.. Còn anh PHÙNG khóa 64B). Đến khoảng tháng 8/2017 anh Vị liên lạc được với tôi, sau khi đem cốt đi thử ADN với con trai tôi: có huyết thống cha con, nên đến ngày 1/10/2017 tôi chính thức đem TRO CỐT của chồng tôi vào chùa BẢO QUANG để thờ cúng cho đến nay.

    Tôi thay mặt gia đình Thiếu Tá Trương Phùng đòi hỏi nhà văn Phan Nhật Nam 1 lời xin lỗi vì ông đã vô cớ sỉ nhục Thiếu Tá Phùng, người ân nhân đã từng bảo vệ ông trong trận địa pháo sáng sớm ngày 29 tháng 4 năm 1975.

    Riêng tôi. tôi không cần vì lúc 12 giờ trưa ngày 5 tháng 7 năm 2008 ông đã trả ơn bằng cách mắng tôi qua điện thoại:

    - ...Tao có ghi tên mầy đâu mà mầy lộn xộn... Tao muốn viết gì tao viết...Thằng nào làm gì tao?

    Về Trung Úy Trang Văn Thành, tôi nhờ quý anh trong Phi Đoàn Tinh Long 821 lên tiếng cho biết người bạn cùng khóa 68A của tôi có phải là 1 sĩ quan bướng bỉnh vì không đúng nhiệm vụ mà cứ cất cánh bay lên?

    Xin Trung Tá Hoàng Nuôi, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 821 xác minh để mọi người am tường đừng để tên Olivier Todd tẩy não từ nhiều thập niên vừa qua.












    Mấy năm nay trên Google xuất hiện nhiều bài viết về Cố Trung Tá Lê Bá Định và cố Trung Tá Phạm Văn Thặng tự Thặng Fulro như nhà văn Hoàng Khởi Phong, tức Đại Úy Hiển, Quân Cảnh Pleiku hay Nguyễn Gian (Giang), người hầu cận cố Đại Tá Võ Quế Không Đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku và những người khác cố tình đánh lận con đen, đánh tráo các giai đoạn của lịch sử để làm đau lòng thân nhân của 2 vị Niên Trưởng nầy.

    Vì công đạo khiến tôi lên tiếng thay 2 vị Niên Trưởng cũng theo lời yêu cầu của chị Dung, cháu Phạm Chiêu Anh và cháu Phạm Trần Thặng (thân nhân của anh Thặng ở Houston, Texas)

    Thưa rằng,

    Tôi chỉ là 1 người lính Không Quân bình thường như bao người khác nhưng tôi có duyên chứng kiến (mắt thấy tai nghe) hay được chính “người trong cuộc” kể lại, không phải như những người lợi dụng 2 chữ “Nghe Nói” (hear say) để “phán” rất nhiều chuyện tào lao về 2 vị Cố Trung Tá Định và cố Trung Tá Thặng.

    Rất tiếc 2 vị chứng nhân vừa bay về vùng viên miễn, Đại Tá Nguyễn Văn Bá Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật lúc bấy giờ từ tháng 10 năm 1970 đến tháng 10 năm 1972 và Thiếu Tá Nguyễn Hoàng Mai thành viên của Phi Đoàn 530 từ tháng 10 năm 1970 đến tháng 3 năm 1975.

    Thiếu tá Mai, người mà tôi liên lạc thường xuyên từ năm 2006 sau 1 thời gian dài mất dấu. Chúng tôi thường ôn lại chuyện xưa để nhớ những ngày tháng ở vùng cao nguyên, những ngày tử thủ, những ngày “di tản chiến thuật” ở Nha Trang, những ngày biệt phái Phù Cát suýt chết vì quả lựu đạn nội hóa ở Gò Găng vào đầu tháng 7 năm 1972. Nhưng tuyệt đối anh không muốn tôi hỏi bất cứ điều gì về 13 năm trong những trại tù Cộng Sản ở Nam hay ở Bắc. Vô tình hay cố ý anh Mai đã khơi lại bao nhiêu kỷ niệm xa xưa trong tôi.

    Nhưng suốt 3 tuần lễ, tôi không thể nghe tiếng anh, lòng nóng như lửa đốt và sau cùng tôi sửng sốt và đau xót khi nghe tiếng nức nở của chị Mai:

    - Anh Mai đã ra đi cách đây 10 hôm (12 tháng 10 năm 2019). Vài ngày cuối đời, anh Mai bảo tôi mang laptop vô bệnh viện, mở Youtube cho anh nghe tới nghe lui bài “Các Phi Vụ Nhớ Đời - 44 Năm Nhìn Lại”. Anh căn dặn tôi sau khi anh ra đi “đừng báo cho thằng Phúc hay. Nó buồn tội nghiệp nó”. Nhưng khi thấy Phúc gọi đến nhiều lần, tôi cầm lòng không đặng..

    Bối cảnh Phi Đoàn Thái Dương 530

    Đầu tháng Giêng năm 1971 vì ham vui, tôi rủ rê các bạn Đặng Ngọc Độ, Đinh Bá Hùng, Võ Thành Thống và Nguyễn Tiến Thụy từ giã Phi Đoàn 514 và cùng 2 bạn Lê Xuân Châu và Nguyễn Ngọc Hùng Phi Đoàn 518 đầu quân Phi Đoàn 530 danh hiệu Thái Dương hay Jupiter thuộc Không Đoàn 72 Chiến Thuật, Sư Đoàn 2 Không Quân.

    Phi Đoàn Trưởng lúc bấy giờ là Thiếu Tá Lê Bá Định kiêm nhiệm Xử Lý Thường Vụ Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 72 Tác Chiến trong thời gian Thiếu Tá Nguyễn Văn Trang dưỡng bệnh ở Nha Trang và vài tháng sau ông chính thức kiêm nhiệm chức vụ Liên Đoàn Trưởng. Ông nghiên cứu và tin về địa lý:

    “Cao Nguyên là vùng đất địa linh, xương sống của con rồng, vị trí chiến lược vô cùng quan trọng. Mất Cao Nguyên là mất cả Miền Nam. Vì vậy cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đặt tượng Đức Mẹ Fatima giữa cánh rừng gần biên giới Campuchia ở Đức Cơ và từ trên cao nhìn xuống Biển Hồ nơi đặt tượng Phật Bà Quan Âm trông giống con phượng hoàng xòe đôi cánh đang uống nước”.

    Ông yêu chủ nghĩa dân túy, ít khi thấy ông giao thiệp với cố vấn Phi Đoàn 530 thời bấy giờ là Thiếu Tá Mike Perino.

    Bảng phi lệnh của Phi Đoàn 530 được phân chia:

    - 5 phi tuần dành cho Quân Đoàn II (nhưng từ tháng 4 năm 1972 con số phi vụ tăng dần, có ngày lên 2 con số tùy theo nhu cầu của chiến trường)

    - 2 phi tuần dành cho Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu của Đại Tá Đoàn Văn Nu, Giám Đốc Nha Kỹ Thuật.

    * Vì tình trạng kém an ninh do Cộng quân len lỏi các đường thoát nước dưới vực sâu ở hướng Đông Bắc của phi trường, tiếp giáp với Quân Đoàn II thường bắn B-40 vào bên trong nên Bộ Tư Lệnh Không Quân cho phép Phi Đoàn 530 miễn trực đêm.

    * Giờ làm việc từ 07 giờ sáng đến 6 giờ chiều hay sau khi hoàn tất phi vụ cuối cùng trong ngày.

    * Sĩ Quan Trực có nhiệm vụ ghi vào sổ các hoạt động của phi đoàn và giữ vệ sinh phòng trực (do các hoa tiêu bất khả dụng hay các phi công mới về trong thời gian chờ xác định hành quân đảm trách)

    Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật lúc bấy giờ là Trung Tá Nguyễn Văn Bá. Ông sống 1 mình, không lính hầu trong căn nhà không khóa cửa trên ngọn đồi con. Lâu lâu bà Bá hay Trung Tá Nguyễn Đạt Thịnh lên chơi vài ba hôm. Bên cánh phải dưới chân đồi là cư xá RMK dành cho Phi Đoàn 530.

    Vào những đêm trăng thanh, anh em chúng tôi tụ nhau quanh chiếc bàn gỗ do Mỹ để lại trước phòng Đại Úy Phạm Văn Thặng tự Thặng Fulro, Sĩ Quan Huấn Luyện của Phi Đoàn 530 (vinh thăng Thiếu Tá cuối năm 1971) với nồi chè đậu xanh, đậu đỏ hay những bình rượu cần, hay những gì chúng tôi có được. Mỗi khi thấy ánh đèn, ông Bá thường bước xuống cùng chúng tôi trò chuyện vui buồn đơn vị. Có những lúc cao hứng ông bảo tôi lên đầu giường lấy hộ chai thuốc trị bệnh loét bao tử để ông chung vui qua vài chung rượu nhạt. Ông tươi cười bảo rằng:

    - Nếu bả (bà vợ ông) biết được, tôi sẽ đổ thừa tại chú Thặng ép tôi.

    Vì tấm chân tình của ông dành cho, chúng tôi thường gọi ông 1 cách thân thương là ông Chủ thay vì cấp bậc Trung Tá hay Đại Tá (vinh thăng năm 1971). Ông thường gọi chúng tôi là mấy chú Lương Sơn Bạc nhưng “chê” (chế nhạo) chúng tôi có tiếng nhưng chẳng có miếng, nghèo rớt mồng tơi.

    Lúc bấy giờ tôi ở cạnh phòng anh Thặng, không biết có phải nhờ “cái bóng” của anh Thặng hay vì cái khù khờ của tôi đã lọt vào đôi mắt xanh của ông? Tôi nhận lấy sự ưu ái của ông và “cất giữ” trong tim.

    Tôi xin vắn tắt về tình hình chiến sự vào mùa hè năm 1972 ở vùng Cao Nguyên, Mặt trận Tân Cảnh bắt đầu ngày 3 tháng 4 năm 1972 và chấm dứt ngày 24 tháng 4 năm 1972, cũng là ngày Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh bị mất tích ở Tân Cảnh và Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 Bộ Binh tan rã. Sự kiện nầy làm cho Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn II lên cơn đau tim nhưng ông kịp thời điều động Sư Đoàn 23 Bộ Binh từ Ban Mê Thuộc lên Kontum lập tuyến phòng thủ.

    Ngày 9/5/1972 phi cơ của Trung Úy Nguyễn Đình Xanh bị bắn, anh nhảy dù xuống căn cứ Polei Kleng (Lệ Khánh) 20 dặm phía Tây Kontum trong phi vụ yểm trợ Tiểu Đoàn 62 Biệt Động Quân Biên Phòng triệt thoái ra khỏi căn cứ nầy. Đại Úy Bửu Chuyển, Tiểu Đoàn Trưởng mất tích, Trung Úy Phan Thái Bình Tiểu Đoàn Phó cùng với 97 binh sĩ về được Kontum (Bình được vinh thăng Đại Úy hiện đang ở Buena Park, Cali)

    Hôm đó Thiếu Tướng Nguyễn Văn Toàn (tân Tư Lệnh Quân Đoàn II ) ra lệnh cho Đại Tá Bá dập bom xuống căn cứ đang bị Cộng quân tràn ngập mặc cho Trung Úy Xanh đang đứng kêu cứu trên tần số Guard của hệ thống UHF qua máy radio cứu cấp RT-10 do Cộng quân ép buộc để dụ trực thăng bay đến, nhưng khi thấy 8 chiếc trực thăng của hai Phi Đoàn 229 và 235 lần lượt bay vào cứu đều bị trúng đạn vì hỏa lực phòng không quá mạnh, anh Xanh giả đò trợt té để làm gãy cây ăn-ten để máy RT-10 không thể hoạt động. Anh Xanh bị bắt dẫn ra Hỏa Lò, Hà Nội, hiện đang ở Phoenix, Arizona.

    Tối hôm đó Đại Tá Bá cho chúng tôi biết:

    - Tôi biết mấy chú thương yêu nhau hơn anh em ruột thì làm sao tôi ra lệnh nầy. (chúng tôi không hỏi nên không biết ông thối thác như thế nào?)

    Tình hình chiến sự mỗi ngày mỗi bi đát, đồi Chu Pao ở giữa Pleiku và Kontum bị Cộng quân chiếm lấy. Giao thông trên Quốc Lộ 14 bị nghẽn. Thị xã Kontum bị cô lập, dân chúng chỉ di tản bằng đường hàng không về Pleiku, rồi dân Pleiku cũng bắt đầu xuôi Nam. Số phận phi trường Cù Hanh như chỉ mành treo chuông. Đại Tá Bá không muốn chúng tôi bị tổn thất nặng nếu phi trường bị tấn công nên ông quyết định phân nửa hoa tiêu của Phi Đoàn 530 luân phiên về Nha Trang nghỉ dưỡng sức một tuần bắt đầu từ ngày 19/5/1972.

    Cùng trong nhóm đầu tiên, tôi hẹn với anh Thặng gặp nhau ngày 21/5/1972 ở cư xá vãng lai của Sư Đoàn 2 Không Quân trên đường Duy Tân. Trưa ngày nầy tôi hay tin Trung Úy Nguyễn Ngọc Hùng hy sinh tại triền Đông Bắc của đồi Chu Pao khi vừa thả xong 2 trái Napalm ở cao độ thấp. Vì không có phi cơ nên tôi đến Nha Trang chiều ngày 22/5/1972 trễ hơn dự định, các anh Nguyễn Hoàng Mai, các bạn Lê Xuân Châu, Đinh Bá Hùng, Nguyễn Minh Tâm... đã có mặt tại quán số 1.

    Chiều hôm đó anh Thặng nhờ bà chủ quán cóc bên đường Độc Lập cách Bar số 1 non 100 thước nấu hộ món cà ri chình biển do anh săn được từ trưa. Ở đây anh Thặng gặp lại cố nhân, người bạn học năm xưa ở cố đô Huế, cô giáo Tâm dạy trường Tiểu Học Nha Trang. Chị Tâm cùng người em tên Dũng đang học lớp 11 mang mộng làm phi công chiến đấu, ngụ trong 1 biệt thự bên kia đường. Bố chị Tâm đương kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Hàng Tỉnh của Thị xã Khánh Hòa. Ông rất hiếu khách và coi chúng tôi như con cháu trong nhà. Ông muốn chúng tôi tá túc ở dãy phòng ở tầng trên.

    Sáng hôm sau anh Thặng cùng tôi vào thăm ngôi trường xưa, Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân đã thay đổi. Anh Thặng muốn thăm Niên Trưởng Lê Như Hoàn Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân nhưng không gặp nên chúng tôi trở lại Quán Số 1.

    Với 1 cái mask che mắt, 1 ống ngậm để thở, 2 chân vịt và 2 cây súng săn cá, anh Thặng bồng bềnh trên mặt biển từ giờ nầy sang giờ khác. Anh dạy tôi đi tìm chình biển nhưng tôi không có khả năng bơi lội như anh nên ngồi tán gẫu với anh Mai, chị Tâm và 1 cô giáo bạn của chị trên bờ biển. Thình lình tôi nghe tiếng ơi ới. Từ trong bờ tôi phóng ra xa chừng non 100 thước, anh Thặng giật lấy cây súng của tôi mang theo, anh lặn xuống rồi mới trở lên mặt nước giải thích:

    - Cây nầy đang đâm vào đuôi nó, cây nầy đâm ở giữa, mầy giữ chặt cây nầy tao đâm trúng đầu nó. Tao lặn xuống đùa cát để mang nó lên.

    Từ độ sâu năm, bảy thước nước chúng tôi mang lên 1 con chình biển to bằng bắp tay dài hơn 2 thước.

    Lần nầy tôi dành lấy để trổ chút ít nghề tay trái. Mượn cát khô ở bãi biển, tôi chà sạch sẽ con chình rồi mới mang về nhà chị Tâm. Khi cắt khúc để ướp tôi mới biết thịt chình biển trắng như phau, không mùi tanh. Nửa con nấu cà ri, nửa con ướp nướng.

    Trong bữa ăn anh Mai “than phiền” tại sao hôm nay cà ri tôi nấu sao không thấy có nhơn nhớt như hôm qua. Tôi kề tai nói nhỏ:

    - Vì tôi dùng cát khô ở bãi biển vuột hết nhớt ra rồi.

    Kết quả tôi bị anh dzũa 1 trận vì cái tội không nói cho anh biết, báo hại anh ăn nhớt con chình đêm hôm trước và sau nầy mỗi khi nhớ tới vụ cà ri chình biển anh Mai đều dzũa ”mầy là tên ác ôn”.

    Đúng là oan cho tôi. Tôi chỉ nghi ngờ người ta làm không sạch thì làm sao dám lên tiếng, vả lại mọi người đang khen ngon?

    Ngày 24/5/1972 chúng tôi lại ra biển, vẫn như cũ, ngoài lúc thưởng thức những chai beer đông lạnh anh Thặng trầm mình dưới biển từ giờ nầy qua giờ khác. Những tưởng hôm nay phải về tay không, nhưng khoảng 4 giờ chiều, tiếng anh Thặng ơi ới ngoài xa, xung quanh là vùng nước đen nghịt. Không biết chuyện gì xảy ra, tôi vội phóng người bơi ra. Anh trao cho tôi 2 cây súng với những con mực, đồng thời anh giựt lấy cây súng của tôi rồi lặn nhanh xuống nước. Chưa đầy 1 phút sau, anh đưa cây súng lên mặt nước cùng với 2 con mực. Thì ra những con mực họp thành đàn đi kiếm ăn.

    Ngày hôm đó chúng tôi thu chiến lợi phẩm: 6 con mực nang to tướng, con nào cũng hơn 2 kg. Tôi không biết bằng cách nào anh Thặng có thể bắn (đâm) được 2 con mực mỗi cây súng, ngay cả những người thợ săn ở Nha Trang thấy chúng tôi mang những mực to lớn đều trầm trồ và khâm phục.

    Thân mực nhúng giấm cuốn bánh tráng, rau sống chấm mắm nêm, râu mực xào với cà chua, dưa leo và rau cần tàu. Cả nhà chị Tâm cùng chúng tôi có 1 bữa cơm chiều đầy bổ dưỡng.

    Ngày kế bố chị Tâm mời dùng cơm trưa nhân ngày giỗ má chị Tâm, lần đầu tiên tôi được hưởng nhiều món ăn nổi tiếng của đất Thần Kinh.

    Sáng ngày 26/5/1972 chúng tôi đáp trực thăng của Phi Đoàn 229 trở về Pleiku khoảng 12 giờ trưa, sớm hơn dự trù. Chúng tôi không về cư xá mà ở lại phi đoàn để tản mạn với cô L, 1 nhân viên dân chính của Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị quê quán Qui Nhơn. Chúng tôi an ủi cô bé nhỏ nhắn, dễ thương nầy vừa bị ai đó làm nhục. (Từ dạo đó tôi không gặp lại cô L nữa cũng như vài cô khác của Tiểu Đoàn thường vào phi đoàn tán gẫu với chúng tôi).

    Lúc bấy giờ các chuyến bay rời Pleiku khá hiếm hoi, anh Thặng đồng ý bay thế cho Thiếu Tá Hồng Khắc San, Trưởng Phòng Hành Quân của Phi Đoàn 530 hiện ở Westminster, Cali và tôi thế bạn Võ Thành Thống. Khoảng 5 giờ chiều Thiếu Tá Vũ Công Hiệp từ Liên Đoàn 72 Tác Chiến tình cờ xuống chơi, đúng lúc lịnh điều động, anh Thặng rủ anh Hiệp bay wingman (số 2) với anh cho vui và anh Thặng bảo tôi chở cô L về nhà trọ gần quán cà phê Tuyết trên đường Hoàng Diệu, chủ quán là chị của Thiếu Tá Nguyễn Du, phi công A-1 và A-37 tài ba của Phi Đoàn Phi Hổ 516, anh vừa hy sinh tại mặt trận Quảng Trị hồi tháng trước. Phố xá Pleiku vắng hơn chùa bà đanh, không 1 bóng người. Tôi trở lại phi đoàn chưa được mươi phút thì nghe hung tin anh Thặng vừa gãy cánh gần sông Dak Bla phía Nam Kontum.

    Sự ra đi của anh Thặng làm cho tôi sửng sốt và đau xót, anh ra đi mà không 1 lời dặn dò. Đêm hôm đó tôi ngủ trên giường của anh với hy vọng anh linh thiêng về báo mộng. Thao thức nằm nghe những chuỗi bom nổ của pháo đài bay B-52 vọng về từ Kontum rồi tôi thiếp đi và điện thoại reo lên. Những tưởng anh Thặng về báo mộng mà là giọng mừng rỡ của Đại Úy Hùng, Phòng Hành Quân Chiến Cuộc:

    - Tôi đã gọi mọi nơi nhưng không có ai nhấc máy. May quá tôi gặp bạn và nhờ bạn báo Quân Đoàn điều động 1 phi tuần lên giải vây Kontum đang bị 11 chiếc xe tăng bao vây” (vì phi đoàn 530 không có nhiệm vụ trực đêm nên không ai nghe phone)

    Đồng hồ chỉ gần 5 giờ sáng, tôi vội chạy qua bên kia đường báo cho Thiếu Tá Bạch Diễn Sơn, (sau nầy là Phi Đoàn Trưởng đời thứ ba của Phi Đoàn 530 hiện ở Panama City, Florida). Anh bảo tôi bay với anh. Chúng tôi được biết thời tiết ở Kontum rất tốt nhưng tại Pleiku, trần mây 500 bộ. Vì sự an nguy của Kontum anh Sơn quyết định cất cánh xuyên mây. Anh căn dặn tôi “hack time” (canh đồng hồ) cất cánh sau anh 1 phút và hẹn gặp nhau ở cao độ 5.000 bộ trên Kontum.

    Chúng tôi hợp nhau trên đường đến Kontum không trở ngại nhưng không thể liên lạc với quân bạn cũng như không thấy bất cứ chiếc xe nào của Công quân ngoài các xe thiết giáp M-113, M-41... đậu ở phía Tây nhưng đài Kiểm Báo Peacock cứ hối thúc chúng tôi phải diệt các xe tăng của Cộng quân đang bao vây Kontum? Đến gần 7 giờ sáng chúng tôi vẫn chưa thấy phi cơ quan sát lên vùng. Anh Sơn quyết định thả bom xuống các bụi rậm tình nghi nơi đóng quân của Cộng quân phía Bắc Kontum.

    Khi về tới phi đoàn tôi gặp anh sĩ quan trực đang leo lên xe Jeep của Đại Tá Thành theo lời “mời” của Tư Lệnh Quân Đoàn II. Trung Tá Định biết chúng tôi vừa đáp xuống, ông vui mừng gọi điện thoại hỏi tôi diệt được bao nhiêu xe tăng? Ông thất vọng khi nghe tôi trả lời:

    - Chúng tôi bay rất nhiều vòng nhưng không thấy bất cứ 1 con cua nào ngoài các thiết vận xa M-113 và Thiết Giáp của mình. Cuối cùng vì không có phi cơ quan sát trên vùng, Thiếu Tá Sơn quyết định thả bom xuống các bụi rậm ở phía Bắc Kontum.

    Tôi chực nhớ vụ anh sĩ quan trực bị “mời” qua Quân Đoàn rồi báo với ông.

    Người sĩ quan trực nầy mới về nước hồi tháng trước nhưng chưa được huấn luyện để bay hành quân nên làm sĩ quan trực từ ngày về phi đoàn. Tôi xin phép không ghi tên anh vì khi sang Mỹ anh “quên” vụ anh “ được mời” nầy. Tôi tạm gọi là Thiếu Úy A.

    Lúc bấy giờ khoảng sau 7 giờ sáng, số người có mặt ở phi đoàn rất ít, ngoài anh Sơn, anh Mai, tôi và 1 vài người nữa (anh Mai và tôi không nhớ tên) Khi tôi ra ngoài trước hút thuốc lá, Trung Tá Định chạy tới và thắng xe rất gấp, mặt mày đỏ gay. Sau khi thả anh A xuống ông phóng đi mất dạng.

    Theo lời Thiếu Úy A kể lại:

    - Sau khi Quân Cảnh chận lại ở cổng chừng mươi phút, Trung Tá Định chạy xe đậu phía sau rồi lớn tiếng: ”Anh Thiếu Úy kia qua xe tôi ngồi. Không có lệnh tôi anh không được rời phi đoàn nửa bước”. Rồi ông nhấc ống liên hợp của máy truyền tin và ra lịnh cho Phòng Hành Quân Chiến Cuộc chuẩn bị cho ông 2 phi tuần A-1 trang bị đầy đủ bom đạn. Kế đó ông gằn giọng thách thức ”Thằng nào muốn bắt lính của tao, nó phải hỏi tao 1 tiếng. Bây giờ tao thách đứa nào dám qua đây bắt lính của tao, thử coi cái Quân Đoàn II có thành bình địa hay không?”

    Trung Tá Định là 1 phi công A-1 Skyraider ưu tú, có bằng Cử Nhân Luật về Công Pháp Quốc Tế. Ông là 1 sĩ quan văn võ song toàn, bình thường rất dịu dàng với mọi người, tôi chưa bao giờ nghe anh chửi thề nhưng hôm nay sao lại khác?

    Chắc chắn Đại Tá Thành phải báo với ông Tướng Vùng ít nhất là nguyên văn hay thêm 1 chút muối hay tiêu hay ớt?

    Chuyện ông Trung Tá dám nhổ râu ông Tướng quyền uy triều giả, Tư Lệnh Quân Đoàn chẳng phải là chuyện đùa. Đố ai dám hé môi. Ai biết thì để bụng. Ngày hôm đó chúng tôi trông ngóng tin về thi thể của anh Thặng nhưng chẳng thấy mà lại hay tin bạn Nguyễn Tiến Thụy vừa nhảy dù thoát hiểm và chờ trực thăng đến cứu.

    Khoảng 3 giờ chiều, khi hay tin thi thể anh Thặng được mang về ở bãi đáp trực thăng phía Tây phi trường. Khi cùng các anh em trong phi đoàn chạy tới, tôi thấy Đại Tá Bá, Trung Tá Định, Thiếu Tá Mười vừa kéo ripper của chiếc poncho sau khi nhìn mặt anh Thặng lần cuối, tôi chạy tới nhưng chỉ kịp nắm lấy 1 góc poncho màu vàng phụ đưa lên chiếc C-123.

    Chiếc C-123 nầy trên đường từ Đà Nẵng về Tân Sơn Nhứt. Do lời yêu cầu của Đại Tá Bá chiếc nầy đáp xuống Pleiku từ trưa chờ chở thi thể anh Thặng về Tân Sơn Nhứt và làm cho nhiều hành khách phải sốt ruột vì phải chờ đợi khá lâu.

    Vừa bước xuống và đi được vài ba bước, tôi nghe tiếng Đại Tá Bá gọi:

    - Lẹ lên! Chú theo về Sài Gòn thay mặt tôi báo cho gia đình chú Thặng.

    Nơi đầu tiên tôi đến, bên kia cầu Bình Lợi, xuyên qua vài dãy ruộng tôi đến nhà Bố anh Thặng. Ông cụ lịm cả người, ông không nói lên lời, cô Tám em gái anh Thặng quằn quại khóc thảm thiết. Gia đình nầy vừa mất 1 cột trụ gia đình, Mẹ anh Thặng hồi tháng Giêng năm 1971, nay lại tới phiên anh. Tôi xúc động rất nhiều. Sau đó tôi tới báo với chị Châu ở đường Bạch Đằng- Gia Định, sau cùng là chị Dung ở Phú Nhuận.

    Tôi trở lại Tân Sơn Nhứt với đôi mắt nhòe nhoẹt và bị Quân Cảnh chận lại vì vào cổng Phi Long quên tắt đèn xe, không mang lon lá trên áo bay cũng không có sự vụ lệnh, cũng chẳng có căn cước quân nhân nên anh Quân Cảnh phải gọi điếm trưởng ra giải quyết. Điếm trưởng chạy ra là Thượng Sĩ Nhất Phương, 1 thời ở Pleiku chạy tới hỏi nhỏ:

    - Sao anh vô ý vậy?

    - Vì tại tôi quá xúc động khi báo hung tin cho gia đình anh Thặng rồi không chú ý tới việc tắt đèn khi vào cổng”

    Anh Phương bảo tôi chờ 1 chút, rồi bước vào phòng trực. Mươi phút sau anh cùng tôi vô Tử Sĩ Đường. Tôi nhờ ông Thượng Sĩ trông coi Tử Sĩ Đường gọi cho hãng Tobia chọn 1 quan tài dài nhất vì anh Thặng cao hơn 1 thước 8. Sau đó vài anh trong Phi Đoàn 514 đến thăm vì tưởng lầm là thi thể của Đại Úy Nguyễn Cao Hùng Phi Đoàn 514 hy sinh ở An Lộc hồi tuần trước. Rất tiếc tôi không nhớ rõ, dường như là Thiếu Tá Nguyễn Thế Qui, Biệt Đội Trưởng Biệt Đội A-1 ở Tân Sơn Nhứt và tôi không để ý các anh có vào phòng lạnh để nhìn mặt anh Thặng hay không?

    Lâu ngày chúng tôi mới gặp lại nhau, anh Phương hỏi rất nhiều về Pleiku và tình hình chiến sự. Vô tình chúng tôi dự đêm không ngủ. Đến gần 6 giờ sáng 28/5/1972 cha Thăng, giáo phận Gia Định, người anh Cả của anh Thặng (lần đầu tiên tôi gặp) sau khi nhìn thấy thi thể anh Thặng, cha trở ra nói với tôi trước mặt anh Phương:

    - Bố tôi thương em Thặng nhất nhà. Ông sẽ đau lòng khi nhìn thấy mặt em. Phúc thấy có nên tẩn liệm em ngay bây giờ không cần phải tắm rửa? Mình không có thì giờ. Bố tôi sắp sửa tới đây.

    Tôi không dám có ý kiến và vài ba phút sau, người anh kế của anh Thặng, Đại Úy Thắng Tuyên Úy Công Giáo ở Phú Quốc bước vô (tôi gặp lần đầu). Mấy phút sau hai người quyết định không cần tắm rửa anh Thặng.

    Nhờ vậy tôi có duyên phụ các nhân viên ở Tử Sĩ Đường nâng anh Thặng đang mặc chiếc áo bay Nomex màu xanh rêu vào quan tài, bàn tay trái dưới bả vai, bàn tay phải nâng dưới ót anh Thặng, tôi cảm thấy mềm mềm dưới ót nhưng không tiện xem kỹ. Dù đã đặt chiếc quan tài dài nhất nhưng chúng tôi phải uống cong đôi chân 1 chút mới lọt vô áo quan.

    Lúc bấy giờ chị Châu cũng vừa đến nhưng Cha Thăng muốn mọi người ở phòng ngoài. Vì vậy chị Châu nhờ tôi bỏ vào miệng anh Thặng 1 miếng vàng lá nho nhỏ sau khi tôi lau mặt anh, rồi tôi trở ra phòng bên ngoài cùng với chị Châu cắt bỏ tất cả nút áo, nút quần mà chị muốn mang theo cho anh Thặng (đây là lần đầu tiên tôi biết thủ tục tẩn liệm)

    Được biết gia đình anh Thặng không có ảnh mới, chỉ có 1 bức ảnh mang cấp bậc Đại Úy nên tôi mang ra Sài Gòn nhờ chụp lại với cấp bậc Trung Tá. Khi đem tấm ảnh thờ đến nhà chị Châu ở đường Bạch Đằng Gia Định đã gần 2 giờ trưa, Thiếu Tá Nguyễn Văn Mười Phi Đoàn Trưởng bảo nhỏ:

    - Phi đoàn cần người. Phúc về Pleiku giúp anh em 1 tay được không?

    Thiếu Tá Mười lên Trung Tá rồi Không Đoàn Phó Không Đoàn 72 Chiến Thuật, Sư Đoàn 6 Không Quân năm 1973.

    Trước linh cửu tôi xin phép anh Thặng cho tôi trở lại Pleiku nên không thể tiễn anh đến nơi an nghỉ ở nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa và xin anh phò trợ cho Phi Đoàn 530 được an lành.

    Không biết có phải do anh Thặng phò trợ hay không vì sau đó Phi Đoàn 530 không bị tổn thất nhân mạng dù xảy ra 2 tai nạn chết người vào những tháng cuối năm 1973 mà tôi chứng kiến:

    1- Trung Úy Nguyễn Phước Thành, hiện ở Orlando, Florda trong phi vụ oanh tạc ở Bắc Kontum phi cơ bị bắn gãy cần điều khiển chong chóng nhỏ hơn ngón tay út (propeller control rod) nên tôi không thấy được (tôi và Đại Úy Nguyễn Văn Đệ bay phi tuần sau anh Thành) Anh Thành về đáp ở Kontum, phi cơ tắt máy ở cao độ 600 bộ và lao xuống bụi tre to ở phía Đông phi đạo. Anh Thành chỉ bị bất tỉnh trong phòng lái.

    2- Vài tuần sau trong phi vụ bay thử máy, khi về đáp chiếc phi cơ của Thiếu Tá Nguyễn Thành Trung bị tắt máy. Chiếc phi cơ lao xuống phía Đông Bắc phi trường Cù Hanh, đất bụi bay mịt mù. Khi trực thăng đáp xuống nhìn thấy anh Trung ngồi bất tỉnh trong phòng lái đang nghiêng xuống vực sâu, đầu máy văng mất, 2 cánh của phi cơ bị gãy lìa.

    Dường như giữa anh Thặng và tôi có 1 sợi dây tâm linh? Tôi có cảm tưởng anh linh của anh bao giờ cũng ở bên cạnh, che chở khuyến khích tôi khi gặp chuyện không may. Đúng 1 tháng sau ngày anh Thặng tuẫn quốc, tôi nhờ người ấy âm thầm kêu gọi các mạnh thường quân giúp gia đình anh Thặng cả tháng trời trên nhật báo Chính Luận, đài truyền hình, đài phát Thanh Sài Gòn và đài phát thanh Quân Đội. Cùng lúc đó Trung Tá Nguyễn Đạt Thịnh kêu gọi trên báo Diều Hâu. Gia đình anh Thặng cứ ngỡ là Bộ Tư Lệnh Không Quân giúp đỡ các cháu có 1 số vốn để ăn học sau nầy. (nhưng chẳng bao lâu giặc Cộng tràn vào cướp đi tất cả.) Để trả ơn tôi phải mang “nợ” người ấy suốt đời nầy.

    Ngày hôm sau (29/5/1972) chỉ có 1 chuyến C-47 dành cho Thiếu Tướng Võ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó Không Quân đi Pleiku. Vì mặc áo bay bê bối, tôi không dám xin đi ké nên tôi đi Nha Trang rồi đáp trực thăng về Pleiku. (nếu biết ông là 1 vị Tướng bình dân như năm 1974 ông bay hành quân với tôi khi tôi biệt phái về Biệt Đội A-1 ở Tân Sơn Nhứt thì tôi đã không ngại xin quá giang về Pleiku)

    Năm 2010 Trung Tá Dan Hoài Bửu, Xử Lý Thường Vụ Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 23 Chiến Thuật kể lại lúc đó anh là Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 514 được lịnh khẩn cấp tăng phái cho chiến trường Kontum. Anh dẫn 1 Biệt Đội 12 chiếc A-1 cấp tốc bay lên Pleiku sáng ngày 28/5/1972 nhưng ngày hôm sau anh được lịnh lập tức trở lại Biên Hòa. Lúc đó ông không hiểu chuyện gì xảy ra? (Anh Bửu hiện ở San Jose, Cali)

    Vào trung tuần tháng 7 năm 1972, sau khi dự buổi tiệc mừng chiến thắng Kontum và giải tỏa 3 quận ở phía Bắc tỉnh Bình Định do Quân Đoàn II tổ chức, Đại Tá Bá trở về và thấy chúng tôi (Thiếu Tá Mai, Thiếu Tá Phan Đắc Huề, tôi và vài người nữa) đang ngồi tán gẫu, ông giải thích việc “mâu thuẫn” giữa Tướng Toàn với Trung Tá Định và buộc ông phải bênh vực Trung Tá Định để đối đầu với Tướng Toàn.

    - Sau khi anh Thặng nằm xuống, Tướng Toàn từ chối cho người lấy thi thể anh Thặng và nói rằng “Quân Đoàn II hết lính rồi. Một thằng cũng không có”. Ông bàn với Trung Tá Định, Trung Úy Dương Huỳnh Kỳ hy sinh ở đồi Charlie (chiều ngày 12/4/1972) và Trung Úy Nguyễn Ngọc Hùng (hy sinh trên sườn đồi Chu Pao trưa ngày 21/5/1972) cả 2 đều không thấy xác nhưng nơi anh Thặng lâm nạn không phải là bãi chiến trường. Hơn nữa anh Thặng là 1 sĩ quan tham mưu của phi đoàn nên không thể để thân xác anh dầm mưa dãi nắng. Nếu như không chịu lấy xác anh Thặng có thể làm suy yếu tinh thần chiến đấu của anh em. Nhưng không thể xử dụng lính phòng thủ phi trường vì họ không biết gì về trực thăng vận. Nếu gặp tai nạn sẽ liên lụy Đại Tá Võ Quế Không Đoàn Trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku. Ông biết chắc chắn Đại Tá Quế cũng như Trung Tá Phạm Bá Mạo, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ sẵn sàng đi lấy xác anh Thặng.

    - Tin tưởng vào sự quen thân với Trung Tá Nguyễn Đức Dung từ khi còn ở Thiết Giáp, Trung Tá Định gọi nhờ. Ông Tỉnh Trưởng sốt sắng nhận lời ngay. Nhưng sáng hôm sau, trước khi mang trực thăng qua tiểu khu, Trung Tá Định gọi ông Tỉnh Trưởng để xác định và được trả lời:

    - Xin lỗi anh Định nha. Tiểu khu của tôi không còn lính. Một người cũng không có.

    Tại sao có sự trùng hợp. Quân Đoàn: 1 thằng cũng không có. Còn Tiểu Khu: 1 người cũng không có?

    Việc nuốt lời của ông Tỉnh Trưởng làm cho anh Định “hụt hẫng” Kế đến là việc Tướng Toàn cho người qua bắt sĩ quan trực chỉ là việc “tức nước vỡ bờ hay 1 giọt nước tràn ly”.

    Đại Tá Bá cho biết thêm Tướng Toàn nói rằng đích thân ông gọi điện thoại rất nhiều lần đến Phi Đoàn 530 từ lúc 02 giờ khuya để điều động khu trục bay lên giải vây Kontum (thay vì gọi Trung Tâm Hành Quân Không Trợ 2 theo thông lệ) nhưng sĩ quan trực của phi đoàn vắng mặt (bỏ nhiệm sở trong thời chiến đáng bị truy tố ra Tòa Án Mặt Trận Quân Sự Vùng II)

    - Đại Tá Bá cũng cho biết đến 12 giờ trưa ngày hôm sau (27 tháng 5 năm 1972) ông mới liên lạc được Đại Tá Tiên, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ B-15 của Lực Lượng Đặc Biệt ở gần Kontum nhờ giúp đỡ vì vậy đến 3 giờ chiều thi thể anh Thặng mới về tới Pleiku.

    - Ngày 29/5/1972 Thiếu Tướng Tư Lịnh Phó Không Quân bay ra Pleiku để dàn xếp sự mâu thuẫn nầy như thế nào tôi không được biết. Tôi chỉ biết 2 chuyện:

    1- Vào khoảng tháng 8 năm 1972 Tướng Toàn không cho phi tuần tôi dội bom diệt các dàn hỏa tiễn 122 ly của Cộng quân đặt ở phía Tây Pleiku và suýt 1 chút nữa phi trường Cù Hanh bị xóa sổ trên bản đồ.

    Tôi không nhớ ngày nhưng vẫn nhớ vào 1 buổi chiều của tháng 8 năm 1972, trong phi vụ tuần thám võ trang ở Kontum, ngay sau khi Phòng Hành Quân Chiến Cuộc Không Đoàn 72 Chiến Thuật báo tin phi trường Pleiku bị pháo kích, từ Kontum chúng tôi (Trung Úy Trương Minh Ẩn bay chiếc số 2, hiện nay là Tiến Sĩ, Thị Trưởng Halton City, Texas) quay về và nhìn thấy những trái hỏa tiễn 122 ly từ phía Tây bay vào phi trường. Tôi xin lệnh thả bom nhưng nửa giờ sau đài Kiểm Báo Peacock chuyển lệnh của Tư Lênh Quân Đoàn không được thả bom vì vị trí nầy quân bạn đang hành quân? Mươi phút sau, 1 chiếc AD-5 đậu bên phía đài Kiểm Soát Không Lưu trúng hỏa tiễn 122 ly. Phi cơ bùng cháy dữ dội. Chiếc nầy mang 6 bó rocket dưới cánh phát nổ và bay đi tứ tung. Mỗi bó chứa 19 trái rocket (hỏa tiễn). Tất cả 114 trái rocket bay đi tứ tung. Khói đen, khói trắng bao phủ phía Đông của phi trường. Tôi không biết phải làm gì ngoài việc lao xuống dùng cánh quạt để hù Cộng quân.

    May nhờ Thượng Sĩ Tư Rocket liều mình dùng xe nâng bom đẫy 2 chành chứa bom và rocket xuống vực sâu ở đầu phi đạo hướng Đông. Nếu 1 trong 2 chành nầy bị trúng rocket, chắc chắn phi trường Cù Hanh thành bình địa.

    Kết quả tòa nhà (building) ở phía Đông của phi trường Cù Hanh, nơi đặt các phần sở của 2 Phi Đoàn 530 và Phi Đoàn Huyền Miêu 118 (sau nầy đổi danh hiệu Bắc Đẩu) bị sập 1 phần và gần 20 chiếc A-1 bị trúng mảnh rocket. Mấy ngày sau, hai phi đoàn 118 và 530 phải dọn về phía Tây phi trường, đối diện 2 phi đoàn trực thăng 229 và 235.

    Sáng ngày hôm sau trong buổi họp hàng ngày của Không Đoàn tại phòng họp của Phi Đoàn Lạc Long 229 Đại Tá Bá biến sắc sau khi nghe thuyết trình từ Trung Úy Nguyễn Mạnh Trinh, Liên Đoàn 60 Bảo Trì:

    - Ngày hôm nay chỉ có 4 chiếc A-1 khả dụng vì nhiều chiếc bị trúng mảnh rocket cần sửa chữa.

    Đại Tá Bá nghẹn lời ra chỉ thị:

    - Bắt đầu từ bây giờ, khi thấy rõ vị trí đặt pháo của Cộng quân, các chú dội bom ngay cho tôi. Không cần chờ lệnh ai cả. Tôi sẽ chịu trách nhiệm. Chúng mình phải tự bảo vệ cho mình. Còn như bên Quân Đoàn bị pháo mấy chú biết phải làm sao rồi chứ.

    Bắt đầu từ hôm đó Phi Đoàn 530 cắt cử 1 phi hành đoàn trực chống pháo kích. Hai chiếc A-1 được kéo về hướng Tây của phi trường Cù Hanh, cạnh 1 trailer dành cho phi hành đoàn trực. Mỗi sáng sớm phi hành đoàn trực bay có nhiệm vụ quay máy, chờ máy nóng rồi thử máy. Mỗi khi nghe tiếng pháo, chúng tôi chỉ cần cởi bỏ áo giáp, nón sắt chạy ra quay máy và cất cánh ngay không cần thử máy. Vì vậy vô tình hay cố ý, Đại Tá Bá tạo cho chúng tôi có 1 thói quen và tinh thần kiên định vì trách nhiệm chúng tôi sẵn sàng bảo vệ mọi người. (dường như trên trán tôi có khắc 2 chữ Diệt Pháo nên đa số lần phi trường bị pháo kích đều đúng phiên trực của tôi?).

    2- Trong bữa cơm tối tình nghĩa đêm 10/4/1975 tại Văn Phòng Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ 40 Cần Thơ, Đại Tá Bá kể chuyện ông vừa gặp Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân. Tướng Minh cho biết trong buổi họp ở Bộ Tổng Tham Mưu, Tướng Toàn hỏi ông “Thằng Bá bây giờ ở đâu?” Tướng Mính trả lời “... Nó sợ anh thấy mẹ... Nó chạy trốn ở dưới Cần Thơ”.

    Như vậy Bộ Tư Lệnh Không Quân cùng Bộ Tổng Tham Mưu đều biết việc”mâu thuẫn” giữa Tướng Toàn với Trung Tá Định và Đại Tá Bá. Phương cách giải quyết vấn đề nầy như thế nào tôi không được biết.





    Phi Long 51
    Hiệu đính từ bài Các Phi Vụ Nhớ Đời
    Tháng 4 năm 2022




    https://hon-viet.co.uk/PhiLong51_HaiPhi ... hinLai.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Quốc Hận và tội ác Cộng sản

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Quốc Hận
    và tội ác Cộng sản

    ____________________
    Báo Mai - HN




              

              


    Kính thưa Quý vị,

    Trong số những ngày tháng đáng nhớ nhất, của lịch sử Việt Nam thời hiện đại, Quốc Hận 30.4 là ngày đánh thức những đau đớn tột cùng, những kỷ niệm kinh hoàng nhất, của người Việt trên khắp thế giới. Vì vậy, mỗi năm bước vào tháng Tư, hầu hết người Việt đều có những suy tư, ám ảnh, hồi tưởng, cùng những trăn trở, thao thức, nhớ lại những tội ác tàn nhẫn, kinh hoàng, cùng bản chất gian manh, tráo trở của Cộng sản (CS); những kỷ niệm thương tâm, tử biệt sinh ly, của những người thân yêu còn sống hoặc đã khuất…

    Mỗi năm đến tháng Tư, các cơ quan truyền thông, ngôn luận trên thế giới, nhất là truyền thông Việt ngữ, đều có bài và hình ảnh xoay quanh đề tài chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cùng một sự kiện, một biến cố lịch sử, mỗi tờ báo, mỗi đài truyền hình, truyền thanh, mỗi tác giả… tùy theo vị thế chính trị, sự hiểu biết và góc độ đứng khác nhau, đều có những dị biệt trong việc mô tả, đánh giá cuộc chiến tranh Việt Nam.

    Hiển nhiên, 44 năm là một thời gian đủ dài, để mỗi người Việt Nam, có những suy nghĩ chín chắn về nguyên nhân, diễn tiến cùng những hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam, và vai trò, trách nhiệm, cùng chỗ đứng của mình, trong cuộc chiến tranh.

    Bên cạnh đó, thời gian 44 năm, cùng những biến đổi trên thế giới, chuyển biến trong nhân tâm, trong nhận thức… cũng là những yếu tố quan trọng khiến nhiều người, nhiều báo chí, ký giả… có những thay đổi trong việc nhìn nhận và đánh giá cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong số đó, có những thay đổi, không phải là kết quả của một thái độ khách quan, khôn ngoan, đến gần CHÂN LÝ và SỰ THẬT. Trái lại, có những thay đổi, là hậu quả của sự suy thoái lý trí, nghiêng ngửa lập trường, cùn nhụt nhuệ khí, mòn mỏi lương tâm, hoặc đầu hàng trước thế lực kim tiền, danh vọng… do cộng sản thao túng.

    Tưởng niệm 44 năm Quốc Hận, sau đây, kính mời Quý vị cùng chia sẻ những SỰ THẬT HIỂN NHIÊN, chứng minh cuộc chiến tranh Việt Nam, KHÔNG PHẢI LÀ CUỘC NỘI CHIẾN, mà SỰ THỰC LÀ CUỘC CHIẾN XÂM LĂNG nước Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) do CS quốc tế và CS Bắc Việt, đứng đầu là tội đồ Hồ Chí Minh (HCM), thực hiện.

    Suốt thời gian chiến tranh Việt Nam, cũng như sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, quan điểm cho rằng chiến tranh Việt Nam là một cuộc nội chiến đã hiện diện trong đầu óc phần đông người ngoại quốc cũng như một số người Việt thuộc thành phần thứ ba, hoặc thân cộng.

    Nguyên nhân chính dẫn đến quan điểm này là do họ không hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt Nam, tham vọng của đảng cộng sản Việt Nam và chính sách xuất cảng cách mạng nhuộm đỏ toàn cầu của cộng sản quốc tế.

    Đặc biệt, trong hai thập niên gần đây, trước sự thống nhất của hai miền Đông và Tây Đức, cùng viễn ảnh thống nhất trong hoà bình của Nam Bắc Hàn, người Việt càng nhận ra tội ác của CS khi thực hiện cuộc chiến tranh xâm lăng nước VNCH. Vì vậy, để trốn tránh tội ác, CS đã âm thầm giật dây cho tay sai, bằng mọi cách gọi cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam là cuộc nội chiến.



    CS BẮC VIỆT VÀ CS QUỐC TẾ XÂM LĂNG NƯỚC VNCH

    SỰ THẬT, ai cũng biết, nội chiến là cuộc chiến tranh bắt nguồn từ những mâu thuẫn về quyền lợi giữa các thế lực trong một quốc gia. Trái lại, xâm lăng là cuộc chiến tranh của một quốc gia nhằm thôn tính bờ cõi, lãnh thổ một quốc gia khác có chủ quyền, được quốc tế công nhận.

    SỰ THẬT, nhìn vào bản chất cùng nguyên ủy dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Nam ta sẽ thấy, đó là một cuộc chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà, do cộng sản Bắc Việt chủ trương với sự hậu thuẫn của CS quốc tế. Chủ trương này đã được TC và VC thoả thuận, ngay từ trước khi Hiệp Định Geneva được ký kết.

    Tại khách sạn Liễu Châu, Quảng Tây, Trung Quốc, từ ngày 3 đến 5 tháng 7, 1954 Thủ tướng TC Chu Ân Lai đã họp với HCM, chỉ thị những điều khoản căn bản VC sẽ phải ký kết tại Hiệp Định Geneva vào ngày 20 tháng 7, 1954. Cũng tại đây, Chu Ân Lai ra lệnh cho CS Hà Nội chỉ được phép thực hiện “chiến tranh du kích đánh phá VNCH ở cấp trung đội trở xuống”.

    Bằng chứng, thực hiện chỉ thị của CS quốc tế, ngay trước khi Hiệp Định Geneva ký kết, cộng sản VN đã chôn giấu vũ khí, gài hàng chục ngàn cán bộ, du kính nằm vùng, tại miền Nam với trách nhiệm ám sát, thủ tiêu, khủng bố, phá hoại… hậu thuẫn cho quân đội Bắc Việt xâm lăng thôn tính Miền Nam.

    Mao Trạch Đông , Chu Ân Lai và HCM trong chuyến viếng thăm TC 2 tuần lễ (23-6 đến 8-7-1955). Một lần nữa, Mao Trạch Đông nhấn mạnh với HCM, TC chỉ có thể hậu thuẫn VC thực hiện “chiến tranh du kích đánh phá VNCH ở cấp trung đội trở xuống”.

    Bằng chứng, chính HCM đã ra lệnh cho Lê Duẩn ở lại Miền Nam ngay từ năm 1954, để soạn thảo kế hoạch: Võ trang khủng bố, nổi dậy tại Miền Nam, hậu thuẫn cho Miền Bắc xâm lăng. Kế hoạch này có tên “Đề cương cách mạng miền Nam”, được Lê Duẩn soạn thảo xong vào tháng 8 năm 1956, tại số 29 đường Huỳnh Khương Ninh, gần chợ Đa Kao, Sài Gòn.

    Bằng chứng, 2 tháng sau khi Hiệp Định Geneva ký kết, CS Hà Nội bí mật cho thành lập tại Bản Namèo, một đội du kích võ trang gồm 100 quân, với mục đích hậu thuẫn CS Lào, mở đường cho CS Hà Nội xâm lăng và chiếm đóng một phần lãnh thổ Lào vào tháng 12 năm 1958, chuẩn bị cho việc xâm lăng Miền Nam.

    Bằng chứng, Nghị Định 15 của BCH Trung ương Đảng CS khóa 2, thông qua tháng 1 năm 1959 cũng ghi rõ: Chủ trương, đường lối và kế hoạch, đưa bộ đội chính quy cùng vũ khí của Nga, Tàu từ Bắc vô Nam, thực hiện cuộc xâm lăng Miền Nam.

    Bằng chứng, không đầy 5 tháng sau, ngày 19 tháng 5 năm 1959, cộng sản Hà Nội cho thành lập Đoàn 559 [tháng 5 năm 59], và mở tuyến đường vận tải quân sự chiến lược, mệnh danh Đường mòn HCM. Kể từ đó, binh lính, vũ khí của CS lũ lượt đổ vào Nam, dẫn đến một loạt cuộc nổi dậy và tấn công võ trang của VC tại tại Bến Tre, Ấp Bắc vào cuối năm 1959, đầu năm 1960. Trong khi đó, mãi đến ngày 8 tháng 3, năm 1965, Mỹ mới chính thức gửi 3500 thuỷ quân lục chiến đầu tiên tới VN.

    Bằng chứng, ngay cả những trang web điện tử chính thức của CSVN cũng xác nhận, sự hiện diện của cái gọi là “Quân đội nhân dân Việt Nam” và đảng cộng sản Việt Nam, ngay tại Miền Nam từ cuối thập niên 1950. Cụ thể, năm 2015, trang web của chính phủ VC đã ghi rõ: “Nguyễn Tấn Dũng sinh ngày 17.11.1949 tại Cà Mâu, tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày 17.11.1961, kết nạp đảng CSVN ngày 10.6.67, với 6 lần đoạn danh hiệu Dũng Sĩ Diệt Mỹ”.

    Ngày 3-10-1959, nhân dịp sang mừng ngày Quốc khánh của TC, HCM đã báo cáo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, kế hoạch cuối năm 1960, VC sẽ thành lập cái gọi là “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam”, nhằm đánh lừa dư luận thế giới, biến cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam thành cuộc nội chiến tại Miền Nam.

    Để đánh lừa dư luận, coi cuộc xâm lăng của CS Bắc Việt là cuộc nội chiến tại Miền Nam, CS Hà Nội đã nặn ra cái gọi là “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam” (MTGP) vào tháng 12 năm 1960, và “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”(CPLT) vào tháng 6 năm 1969.

    Như vậy rõ ràng, chiến tranh VN là cuộc chiến xâm lăng, do CS Hà Nội và cộng sản quốc tế chủ trương, thực hiện, nhằm thôn tính Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia có chủ quyền, có dân, có chính phủ và quốc gia đó đã được quốc tế công nhận. MTGP cũng như CPLT, là những tổ chức bù nhìn do cộng sản Hà Nội nặn lên, nhằm tạo cho cuộc chiến tranh tại Miền Nam là một cuộc nội chiến, đã hoàn toàn bị rữa nát và bị chính cộng sản Hà Nội khai tử, ngay sau khi chiếm được Miền Nam vào tháng 4/75.

    Đồng ý phần lớn những người tham gia cuộc chiến tranh VN ở cả hai bên chiến tuyến đều là người Việt Nam, nhưng điều đó không phải là yếu tố then chốt để kết luận cuộc chiến tranh đó là cuộc nội chiến. Bằng chứng từ xưa đến nay, mỗi khi đề cập đến cuộc chiến tranh VN, công luận thế giới đều phải thừa nhận đó là cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam, do CS Hà Nội thực hiện.

    Cũng cùng một nhận định như vậy, xưa nay cả thế giới, bao gồm cả CS Hà Nội, đều thừa nhận, sẽ là cuộc XÂM LĂNG, nếu Đông Đức đánh chiếm Tây Đức, Trung Cộng đánh chiếm Đài Loan, hoặc Bắc Hàn đánh chiến Nam Hàn.



    HCM – TAY SAI CS QUỐC TẾ – XÂM LĂNG MIỀN NAM

    Bất cứ ai hiểu rõ bản chất của đảng cộng sản, tiểu sử của HCM, cùng diễn biến của cuộc chiến tranh Việt Nam, đều phải thừa nhận, chính cộng sản Bắc Việt, đứng đầu là Hồ Chính Minh, với sự giật dây của TC và Nga cộng, đã gây nên cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam, khiến mấy triệu người bị thảm tử và đất nước Việt Nam bị lạc hậu cả thế kỷ so với thế giới.

    Bằng chứng, tháng 3 năm 2000, trong một bài viết trên tờ tuần báo Việt Mercury, nhan đề “Một quan điểm về vụ Triển lãm chân dung HCM” của Trần Trường tại Hoa Kỳ, ông Robert Templer đã xác nhận một sự thật kinh hoàng: “Chính HCM đã khởi sự một cuộc chiến tranh sát hại 3 triệu người Việt Nam”.

    Ông Robert Templer là người ngoại quốc, nhưng là nhà trí thức có tầm cỡ được sống tại Việt Nam, giao tiếp với những người cộng sản, nên ông đã nhận ra, vai trò cộng sản quốc tế của HCM, và nguyên nhân đích thực, dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Nam, là do tham vọng xâm lăng của CS quốc tế và Hà Nội.

    Phát hiện “mầm non CS Á Châu HCM”, CS Nga tại Đức đã cấp giấy thông hành số 1829 ngày 16/6/1923, cho Chen Vang (HCM) để tới Nga, tham dự Đại hội Quốc tế CS năm 1924.

    SỰ THẬT, vai trò và bản chất cộng sản quốc tế trong con người HCM, không phải chỉ bắt đầu khi cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam mở màn, mà đã bắt đầu ngay từ khi HCM, tham gia hội nghị thành Tours của Đảng Xã Hội Pháp, vào ngày 25 tháng 12 năm 1920. Lúc đó HCM mới 30 tuổi.

    Tại hội nghị này, HCM đã đọc diễn văn, tuyên truyền tư tưởng cộng sản trong các nước thuộc địa, bao gồm cả Việt Nam, và khẳng định, “cách mạng VN chỉ là một bộ phận của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản”.

    Bị chủ nghĩa CS đầu độc, tại Đại hội 5 Quốc tế Cộng sản họp ở Nga vào năm 1924, HCM (ngồi hàng đầu, thứ tư từ phải sang), đọc bản tham luận khẳng định, “vấn đề giải phóng dân tộc chỉ là một bộ phận của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản”.

    Trong đại hội lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản được tổ chức tại Mạc Tư Khoa từ 17.6 đến 8.7.1924, HCM với tư cách đại biểu của đảng cộng sản Pháp cũng đã đọc một bản tham luận khẳng định, tư tưởng bán nước cho CS, hết sức nguy hiểm, “vấn đề giải phóng dân tộc chỉ là một bộ phận của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản”. Sau này, trong một bài viết nhan đề, “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lenin” HCM cũng đã một lần nữa ngu ngốc cho rằng, “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.”

    Sự thật, sau Đệ Nhị Thế Chiến, một loạt các quốc gia trên thế giới được giải phóng, không cần tới chủ nghĩa CS, đã chứng minh sự ngu dốt tai hại của HCM đối với dân tộc VN.

    Vì HCM có quan niệm sai lầm như vậy, nên chủ nghĩa cộng sản quốc tế, đã vội vã dùng HCM, như là một lá bài trong mưu toan, bành trướng thế lực cộng sản quốc tế tại Việt Nam.

    Cũng vì vậy, HCM đã xách động một cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam kéo dài suốt 16 năm, trong khi những quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á, với tinh thần quốc gia thuần túy, đã thực hiện cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thành công và phát triển thịnh vượng để trở thành những quốc gia phú cường, mà không cần tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

    Trong thời gian trên dưới một thập niên, từ cuối thập niên 1940 đến đầu thập niên 1950, cộng sản quốc tế, cụ thể là cộng sản Tàu và Nga đã cố tình xuất cảng cách mạng, hay nói cách khác, đã xâm lăng dưới chiêu bài khởi nghĩa, đồng khởi, nổi dậy, giải phóng… tại một số quốc gia trên thế giới trong đó có Burma, Mã Lai, Phi Luật Tân, Nam Dương…

    May mắn, những quốc gia này không có những kẻ ngu ngốc ăn phải bả CS như HCM, nên đã thoát khỏi thảm họa thôn tính của chủ nghĩa cộng sản.



    CHẠY TỘI CHO HCM

    Việt Nam, cầm quyền 1945-1969, chịu trách nhiệm về cái chết của 1,7 triệu người; tội ác lớn nhất: chiến tranh Việt Nam

    Trong khi ông Robert Templer hiểu rõ bản chất của HCM thì rất tiếc, một số người Việt Nam lại không hiểu như vậy. Thậm chí, có người còn dại dột ăn phải bả CS khi ngây thơ cho rằng, HCM là một người quốc gia chân chính, một người Việt yêu nước nồng nàn.

    Trước những sự thật hiển nhiên bất khả chối cãi về tội ác bán nước cho CS của HCM, nhiều nhân vật “trí thức” bị CS giật dây, đã làm những việc ngu muội, so sánh Quỷ với Chúa, với Phật, với Thánh Thần… khi họ viết bài, giả vờ nêu câu hỏi: “Ngô Đình Diệm và HCM, ai yêu nước, ai bán nước?”

    Thậm chí, có người còn ấu trĩ tin vào luận điệu của CS: Chỉ vì Mỹ thờ ơ trước nguyện vọng kết thân với Mỹ của HCM, nên Việt Nam mới rơi vào qũy đạo cộng sản.

    Ăn phải bả CS, họ viện dẫn: Vào tháng 9, tháng 10 năm 1945, HCM đã viết cả chục lá thư cho TT Truman xin Mỹ bảo hộ cho Việt Nam. Nếu lúc đó tổng thống Truman quan tâm đến nguyện vọng của HCM, hai dân tộc Việt, Mỹ đã không phải trải qua chiến tranh.

    Sự thực, HCM có viết thư cho Truman. Tuy nhiên phải hiểu, khi viết những lá thư đó, HCM chỉ có ý muốn dùng Mỹ hất cẳng Pháp, giành “độc lập” cho Việt Nam, để rồi sau đó, HCM sẽ quay ra phản bội Mỹ, biến Việt Nam thành chư hầu của cộng sản Nga, Tàu.

    Biết rõ âm mưu quỷ quyệt của tay sai CS HCM, nên tổng thống Truman đã quyết định không hậu thuẫn HCM. Nhờ vậy, VNCH mới được thành lập, nửa nước VN mới được sống trong tự do, dân chủ, cải cách ruộng đất đẫm máu tại Miền Bắc đã không diễn ra tại Miền Nam, và Sài Gòn mới trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông… suốt 20 năm. (HN)



    https://hon-viet.co.uk/BaoMaiHN_QuocHan ... ongsan.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Những vị Bác Sĩ Thiên Thần Mũ Đỏ

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Những vị Bác Sĩ
    Thiên Thần Mũ Đỏ

    __________________
    Trần Đoàn




              

              

    50 năm, một nửa thế kỷ của cuộc đời đã trôi qua từ khi tôi về đảm nhận chức vụ Y sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù (TĐ2ND). Trí nhớ cũng phôi pha theo thời gian. Thế nhưng một chặng đường gần 6 năm đội chiếc Mũ đỏ vẫn là một dấu ấn khó quên, vì đó là một giai đoạn của tuổi thanh niên đầy nhựa sống, tích cực hăng hái đóng góp bàn tay bảo vệ Tự do cho Quê hương, vừa gian lao vừa hãnh diện.

    Chiến tranh Quốc Gia - Cộng Sản từ năm 1965 bắt đầu sôi động dữ dội. Rối loạn chính trị miền Nam tạo cơ hội thuận tiện cho quân chính qui Bắc Việt dễ dàng xâm nhập khắp thôn ấp và các vùng ven đô thị.

    Sau 7 năm dùi mài kinh sử, chúng tôi là sinh viên quân y hay dân y trưng tập đều được phân phối về các đơn vị chiến đấu hay các bệnh viện dã chiến để băng bó các vết thương của bom đạn.

    Làm sao tránh khỏi lo âu và xúc động khi chỉ nội trong năm 1964 - 65 mà đã có 7 y sĩ hy sinh tại chiến trường.

    BS. Đoàn Mạnh Hoạch ngã gục trước lằn đạn địch ở Quảng Ngãi 1964.

    BS. Trương Bá Hân, Thuỷ quân Lục chiến, tử trận ở Bình Giả 1964.

    Các đàn anh chỉ hơn tôi có một lớp, mới ngày nào cùng nhau thực tập trong Bệnh viện Chợ Rẫy, Bình Dân, v.v., có anh là nội trú xuất sắc, xứng đáng là bậc thầy trong Y nghiệp, hứa hẹn một tương lai sán lạn, thế mà cũng bị hy sinh tại trận địa mấy tháng sau khi đáo nhậm đơn vị.

    Sinh viên Quân y vào năm cuối được liên tục luân phiên gác xác các đàn anh tử trận trong năm 1965.

    BS. Phạm Bá Lương ngã gục ở Bầu Bàng.

    BS. Nguyễn Văn Nhứt tử thương khi đoàn xe di chuyển bị phục kích ở rừng cao su Dầu Tiếng.

    BS. Trần Thái hy sinh tại Bà Rịa.

    BS. Trần Ngọc Minh, Y sĩ Trưởng TĐ5/TQLC bị đâm vào ngực trong một trận xáp lá cà với Việt cộng tại Thăng Bình.

    BS. Đỗ Vinh, Y sĩ Trưởng TĐ5/ND bị mảnh pháo trúng ngay vào đầu khi đang săn sóc thương binh. Ngày đưa tang, Thiếu tá TĐT/ TĐ5ND Ngô Quang Trưởng và quân nhân các cấp, các đơn vị bạn ngậm ngùi thương tiếc tiễn anh ra mộ huyệt. Tôi vẫy tay chào anh, từ bỏ anh em quá sớm.

    Chiếc áo Hoa rừng và Mũ đỏ của Binh chủng hào hùng thiện chiến vẫn có một mãnh lực hấp dẫn máu giang hồ, điếc không sợ súng của chúng tôi, ba thằng bạn xuất thân từ xứ Huế, học cùng lớp, ăn cùng mâm, ở cùng phòng trong trường Quân y ở Chợ Lớn:

    -Lê Văn Châu, con của Tướng Lê Văn Nghiêm, tức là nhà văn Trang Châu, còn có biệt danh là “Châu cá ngựa” vì anh có mặt tại trường đua Phú Thọ hằng tuần;

    -Đoàn Văn Bá, tục gọi là “Bá điên” còn được gọi là “ I‘homme des situations difficiles” vì anh bạo ăn bạo nói, chỗ nào gặp khó khăn với cấp trên là có anh. Anh bị kẹt lại ở Huế trong chuyến nghỉ phép về thăm nhà, tại trận Mậu Thân, được quân đội Mỹ giải cứu trong gang tấc, đưa anh về căn cứ MAC- V, giúp giải phẫu cứu mạng rất nhiều Quân nhân Mỹ bị trọng thương và được tuyên dương tưởng thưởng Huy chương Bronze Star Hoa Kỳ.

    -Còn tôi, Trần Đoàn, được các bạn gán cho biệt danh “Đoàn cái bướm” vì tôi viết bài "Thằng cu hay Cái bướm" đăng nhiều kỳ trong Đặc san Tình Thương của Sinh viên Y Khoa thời ấy.

    Bảng hiệu “BỆNH XÁ ĐỖ VINH” nền trắng chữ đỏ mới toanh, còn ướt màu sơn treo trên khu nhà bằng gạch hai tầng của Bệnh xá Nhảy dù 50 giường không làm chúng tôi sợ sệt mà còn cảm thấy một cái gì vinh quang khi trình diện thụ huấn Khóa 68 Nhảy dù vào tháng 8 năm 1965 .

    Ba thằng bạn thân, không ai dám rủ ai vào nơi nguy hiểm, đều có mặt. Cổng trại Hoàng Hoa Thám thẳng tắp con đường tráng nhựa rợp bóng mát của hai hàng cây đưa đến các dãy doanh trại xây bằng gạch vững chắc sơn màu vàng, ngay ngắn sạch sẽ, là con đường quen thuộc, thân thương của chúng tôi từ dạo ấy.

    Bóng dáng các đàn anh đeo bằng “Nhảy dù điều khiển” như BS. Văn Văn Của, BS. Trần Tấn Phát..., kích thích lòng tự ái liều lĩnh của chúng tôi trong niềm cảm phục kính nể. Chiếc mũ đỏ được đội lên đầu sau 3 tuần huấn luyện ướt đẫm mồ hôi, bò lết, hít đất, nhảy chuồng cu, và 6 “sauts” nhảy dù ở Hốc Môn - Củ Chi.

    Cánh hoa dù T10 xoẹt mở rộng lộng gió tung bay mát rượi trong bầu trời trong xanh ôm trọn một phần của vũ trụ bao la là những giây phút thần tiên ngắn ngủi của người lính Mũ Đỏ. Sau đó thì nguy hiểm bắt đầu rình rập. Saut đêm bị hủy bỏ vào phút chót vì tình hình an ninh bãi nhảy không cho phép, có người lính nhảy xuống bị mất tích không tìm ra dấu vết.

    “NHẢY DÙ - CỐ GẮNG” là một khẩu hiệu có mãnh lực xô chúng tôi phóng ra cửa máy bay sau tiếng hét “Go” của Huấn luyện viên, và là châm ngôn giúp chúng tôi vượt qua chặng đường hành quân vất vả, cực nhọc. "Nhảy Dù - Cố Gắng” gắn bó theo giúp chúng tôi suốt cả cuộc đời, nào là khi bị hành hạ xài xể trong trại tù Cộng sản, nào là khi gặp sóng gió, bão tố, ói mửa trong chiếc ghe nhỏ trên đường vượt biển tìm tự do, khi lao động chân tay để có tiền mua sách học lấy lại mảnh bằng hành nghề, khi đau ốm bệnh hoạn và cả khi tu tập chuyển hóa tâm linh.

    BS. Lê Trọng Tín biệt phái về làm Y sĩ Trưởng TĐ1ND - Lê Văn Châu TĐ6ND - Đoàn Văn Bá về TĐ7ND - Trần Trọng Nghị về TĐ9ND và tôi về TĐ2ND.

    TĐ2ND là 1 tiểu đoàn tân lập đóng ở Bà Quẹo, sát nách phi trường Tân Sơn Nhứt, không xa cổng trại Hoàng Hoa Thám. Thế là tôi may mắn được ở ngay Saigon, sớm tối được về chăm sóc vợ đang mang bầu. Vợ tôi còn là sinh viên trường Dược. Lương Y sĩ Nhảy dù phải gói gém lắm mới đủ sống.

    Lần xuất quân thử thách đầu tiên của tôi vào cuối năm 1965 lại là với chức vụ Y sĩ Trưởng TĐ3ND thay thế BS. Nguyễn Đức Liên đi phép về hậu cứ. Trời Saigon 4 giờ sáng còn mờ sương, chiếc C123 rù máy xé tan bầu không khí tĩnh lặng, lạnh lùng cất cánh rồi đáp xuống phi trường Qui Nhơn sau hơn một giờ bay. Phi cơ há miệng đằng đuôi nhả ra hơn trăm binh sĩ súng đạn đầy mình (bỏ: sẵn sàng) ra bổ sung cho chiến trường Tam Quan, Bồng Sơn.

    Phi đội trực thăng tiếp tới gắp chúng tôi đưa thẳng vào chiến địa còn hôi tanh mùi máu và thuốc súng, bay sà sát rừng dừa xơ xác ngả nghiêng cháy xám. Y sĩ Trưởng, Thiếu Tá Hoàng Cơ Lân, dẫn tôi vào chào Tướng Tư Lệnh Dư Quốc Đống trong một căn lều. Ông đang ở trần, mặc quần xà lỏn, đen đui đủi, vây quanh bởi các sĩ quan của Bộ chỉ huy, mồ hôi nhễ nhại. BS. Liên đưa tôi về trạm cứu thương TĐ3ND tạm trú dưới một mái nhà tôn đầy dấu đạn.

    Các y tá còn bận rộn thu dọn y cụ vì công việc tản thương vừa mới được hoàn tất tối hôm qua. Thiếu tá Hưng, Tiểu đoàn trưởng, nước da rạm nắng có vẻ âu lo. Đại úy TĐP Trần Quốc Lịch người cao to, đầu trọc lóc trông rất "ngầu", sau này ông lên đến cấp tướng chỉ huy sư đoàn. Hằng ngày tôi làm dân sự vụ, khám bệnh, phát thuốc, chăm sóc ngay cả các bà đang có bầu mà tác giả không ai khác là những du kích địa phương. Lòng nhân đạo của người y sĩ không phân biệt bạn hay thù. Tôi thương người dân, tôi thương những trẻ em lớn lên ở vùng đất mất an ninh này, không biết đâu mà lựa chọn. Tôi thông cảm nỗi khổ của họ khi sinh sống trong vùng xôi đậu.

    Đồi 10, một ngọn đồi nổi tiếng khó tiến chiếm vì Cộng quân đào hầm địa đạo từ chân đồi lên đến đỉnh đồi và đặt thượng liên nhắm bắn vào trực thăng bao vùng xạ kích yểm trợ - Một ngọn đồi đẫm máu được ghi vào Chiến sử.

    Chuẩn uý Lê Hồng, xuất thân từ hạ sĩ quan, là sĩ quan Ban 3 Tiểu đoàn sau khi thụ huấn xong khóa sĩ quan đặc biệt về. Người anh nhỏ con nhưng giọng nói Quảng Trị rõ ràng chắc nịch qua máy truyền tin vang to suốt cả ngày đêm để điều động các đại đội đang lục soát quanh vùng. Là người lính chăm chỉ, gan dạ và khuôn phép, anh leo dần lên đến chức vụ TĐT/TĐ1ND, rồi Trung tá Lữ đoàn phó khi tàn cuộc chiến.

    Sau này, khi qua định cư tại Mỹ, tôi cảm phục sự nhẫn nhục của anh khi thấy anh bất chấp nặng nhọc lao động khuân vác trong một tiệm tạp hóa vùng Arlington, VA, để sinh sống và nuôi ý chí cương quyết về giải phóng Quê hương thoát khỏi gông cùm Cộng sản. Ước nguyện không thành, anh bỏ xác tại vùng biên giới Việt Lào trong niềm thương tiếc khôn cùng của đồng đội.

    Trạm Y tế TĐ2ND nằm trong một gian nhà tiền chế của doanh trại, mái tồn nền đất. Y tá trưởng, Thượng sĩ “Hưng mù”, đeo kính cận dầy cộm, có nhiều kinh nghiệm từ hồi còn là y tá trong quân đội Pháp, tháo vát và khéo xã giao, giúp tôi và đội y tá trên dưới 20 người dọn dẹp phòng ốc, sắp đặt dụng cụ thuốc men. Vài ba anh lính trẻ khai bệnh lậu đái ra mủ vì không được hướng dẫn dùng bao cao su khi giao hợp với "chị em ta" phân trần: “Đời lính xa nhà mà Bác Sĩ!”. Tôi làm quen dần với các sĩ quan bộ Chỉ huy và các đại đội.

    Chuẩn úy Võ Văn Thu, nguyên là y tá TĐ5ND, vừa thụ huấn khóa Sĩ quan Thủ Đức trở về nắm giữ chức vụ Sĩ quan Hậu cứ, thường lui tới thăm hỏi và giúp đỡ trạm Y tế. Anh được ông TĐT, cũng xuất thân từ TĐ5ND, tin cậy thương mến và nâng đỡ vì tinh thần phục vụ đắc lực của anh. Chức vụ cuối cùng của anh là TĐT/TĐ Yểm trợ/SĐND với cấp bậc Trung tá.

    Nghe nói ngày di tản qua Mỹ, sống ở Washington State, nơi xứ lạ quê người, tinh thần anh bị suy sụp. Anh cạo gió cho con anh khi nó bị ho cảm. Mấy lằn vết đỏ sau lưng và trước ngực làm cho cô giáo nghi anh đánh đập ngược đãi trẻ con. Anh phản kháng khi cảnh sát đến còng tay anh. Vì quá uất ức, anh treo cổ tự tử trong tù.

    Đại úy Lê Quang Lưỡng, vừa mới được thăng chức Thiếu tá mấy tháng trước, nắm chức vụ TĐT/TĐ2ND. Ông là người chiến binh mang nhiều thương tích và chiến tích, vào sinh ra tử biết bao nhiêu lần với những chiến công oanh liệt vẻ vang tại mặt trận An Lộc, Huế trong dịp Tết Mậu Thân, và Hạ Lào v.v…. Ông đã được thăng cấp Chuẩn tướng và được bổ nhiệm làm Tư Lệnh/SĐND vào năm 1973 (?) bởi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

    Ngày đoàn quân xa trên 30 chiếc chở Tiểu đoàn tân lập về Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp, Bà Rịa, để thụ huấn, chưa kịp ra tới đầu xa lộ Biên Hòa thì xui xẻo gặp lúc Cộng sản pháo kích vào thành phố Saigon. Vài ba quả nổ tung toé ngay trên đường Phan Thanh Giản giữa lúc dân chúng tấp nập đi làm buổi sáng. Cảnh tượng lúc ấy thật hỗn độn vì mọi người hoảng hốt chạy tìm chỗ ẩn núp sau mấy gốc cây. Đoàn xe bị khựng lại, mãi hơn giờ sau mới tiếp tục lộ trình về đến nơi đến chốn an toàn.

    Sau 3 tháng huấn luyện, Tiểu đoàn được chuyển về đóng quân ở vòng đai Saigon, vùng Tân Quí, Hóc Môn, Bà Điểm.

    Tiểu Đoàn phó, Đại úy Trần Kim Thạch, nhỏ con, bị thương ở háng nên khó khăn khi ngồi vệ sinh. Ông xuất thân từ hạ sĩ quan của Nhảy dù Pháp, vui tính, lanh lẹ và can đảm. Một buổi chiều, trời chạng vạng tối, tôi thấy ông vừa cười vang vừa hối hả chạy bộ thình thịch về Bộ Chỉ huy với hai người lính cận vệ, trên vai mỗi người đều mang thêm một khẩu AK. Tiểu đoàn phó mà chịu chơi nằm lại phục kích bên bờ lau sậy sau khi cả Tiểu đoàn tảo thanh lùng địch đã rút trở về.

    Hai năm sau ông nắm chức vụ TĐT/TĐ2ND ghi thêm nhiều chiến công oanh liệt cho Tiểu đoàn. TĐ2ND đã đủ lớn mạnh để chuyển vận ra vùng địa đầu giới tuyến.

    Ngày quân xa chở Tiểu đoàn từ Huế ra Quảng Trị, một đoạn đường dài hơn cả cây số khi gần đến làng Mỹ Chánh, bị cày nát và còn nóng hổi vết tích bom đạn đầy mảnh vụn của xe bị cháy đen hòa với máu đỏ. Ruộng lúa hai bên xơ xác tơi bời ngả nghiêng, dấu vết của TĐ2TQLC bị phục kích mới ngày hôm qua. Thiếu tá TĐT/TĐ2 Trâu Điên Lê Hằng Minh hy sinh ngay từ phút đầu. Đoàn quân xa dè dặt, thận trọng chậm rãi di chuyển trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

    Không khí ngột ngạt. Đến thành phố Quảng Trị, tôi bị choáng váng, ngộp thở vì ngọn gió Lào độc địa thổi về. Hôm sau, trực thăng vận thả Tiểu đoàn xuống các ngọn đồi trống vùng Cùa, những ngọn đồi mọc đầy những bụi hoa sim tím. Những cánh hoa còn ướt sương mai lóng lánh trong nắng sớm. Tôi ngắt hoa ép vào quyển nhật ký hành quân và thầm đọc bài thơ “Những đồi hoa sim tím” của Thi sĩ Hữu Loan, mong rằng ngày tôi về vẫn còn gặp nàng…

    Toán Tiền sát báo cáo bắt được một cán binh Việt cộng đang ngơ ngác cầm bản đồ và ống nhòm quan sát trận địa. Khai thác cho biết Tiểu đoàn Cộng sản đang trên đường xâm nhập. Chiều về, Tiểu đoàn di chuyển ra khỏi làng và đóng quân trên dãy đồi cao thấp nối tiếp thoai thoải. Chập tối, Ban 3 Tiểu đoàn báo cáo mất liên lạc với Tiểu đội nằm lại phục kích trong làng. Tôi duỗi chân nằm thẳng trên cỏ, đếm sao nhấp nhánh trên trời và thiếp đi, rã rời chân tay. Thình lình nửa khuya, địch nổ súng ồ ạt la hét “hàng sống, chống chết” bò lên tấn công. Giao tranh cận chiến ác liệt. May thay cây thượng liên của chúng đặt trên đồi cao hướng về Bộ Chỉ huy và Toán quân y kế cận chưa kịp khai hỏa thì bị binh sĩ Nhảy dù tiêu diệt. Phi cơ phản lực liên tiếp thả bom Napalm vào khu rừng dưới đồi. Xác địch banh thây cách chổ tôi nằm không quá 50 thước. Băng bó, tản thương không ngừng tay.

    Ngay tối hôm đó, đài Cộng sản oang oang nêu thành tích là đã giết được 15 lính ngụy Dù, một con số chính xác mà Ban 3 Tiểu đoàn vừa mới báo cáo thiệt hại về Sư Đoàn buổi sáng sớm. Phải chăng có nội tuyến nằm ngay trong trong BTL/SĐND?, tôi đắn đo suy nghĩ.

    Về trạm dưỡng quân ở Đông Hà, tôi gặp BS Vũ khắc Niệm, Y Sĩ trưởng TĐ8ND. Hai anh em rủ nhau đi uống bia cho đỡ thèm khát dưới cái nắng nóng gay gắt của miền Trung. Một chai bia cao hiệu con cọp ướp lạnh giá 50 đồng. Tôi lục lọi mãi hết trong các túi bộ đồ trận lôi ra đếm được 49 đồng. BS Niệm cho tôi thêm 1 đồng.

    Tiếng nổ của cây súng AK nghe có phần chát chúa và khiếp đảm hơn cây súng Carbine M1, M2, cổ lổ sĩ hay bị kẹt đạn. Trung Cộng và Liên Sô âm thầm trang bị cho Bắc Việt vũ khí ngày càng tối tân hơn. Đến cuối năm 1966, khi đóng quân ở làng An Hòa ngoài thành phố Huế, TĐ2ND mới được Ngũ Giác Đài phê chuẩn viện trợ súng AR-15, AR-16 thay thế.

    Hạnh phúc của người lính trận lội bộ dài ngày khi được về dưỡng quân vùng khá an ninh rất đơn giản là tháo được đôi giày trận và đôi vớ hâm hẩm hôi thối, chùi được các ngón chân mốc meo, rửa được bộ sinh dục bầy nhầy và lắm khi là móc được cục phân cứng như đá ra khỏi hậu môn vì ăn thiếu rau, uống thiếu nước, không có thì giờ đi đại tiện.

    Lính Nhảy dù bị bệnh trĩ nhiều là vì nguyên do như thế. Bộ đồ trận tanh tanh mồ hôi và dơ bẩn giặt phơi chưa kịp ráo thì có lệnh di chuyển. Một tuần phát lương khô gạo sấy chất vào balô. Tình báo cho biết địch vượt sông Bến Hải xâm nhập vào phía nam vùng phi quân sự. Tiểu đoàn lại được trực thăng vận đổ quân xuống sát hàng rào Mc Namara. Xa xa về phía tây, bụi khói bay ngút trời do B 52 rải bom ầm ầm nghe ghê rợn.

    Cả tiểu đoàn di chuyển đội hình hàng một xuyên rừng rậm đầy gai góc theo bước chân của khinh binh đi trước phát quang. Chim chóc và côn trùng vắng tiếng hót. Cái im lặng khá rùng rợn khi dừng chân ngủ đêm. Thằng Y tá tên Dân thân cận của tôi sửa soạn đào hầm cá nhân cho “ông thầy”. Một nhát xẻng nhấn xuống là một ánh lửa loé lên vì chạm vào đất đầy sỏi đá. Tôi không đành thấy nó hì hục cực nhọc nên ngăn nó dừng tay, chấp nhận số mạng rủi ro.

    Chiếc võng treo thấp đu đưa ru tôi vào giấc ngủ đầy mộng mị chết chóc. Vào khoảng 2 giờ sáng, địch pháo kích hàng loạt súng cối, tung tóe sấm sét vào vùng đóng quân. Một quả 60 ly chớp nổ cách chiếc võng khoảng 10 thước, hất tôi lăn ngã xuống đất. Tôi cảm thấy đau rát nơi hai mông, đưa tay sờ vào thì đỏ ướt máu. Tôi đã bị thương nhưng biết mình còn sống. Giọng ông TĐT vang lớn giữa những tiếng pháo kích còn nổ vang:

    - Bác Sĩ, Bác Sĩ, tôi bị thương.

    Tôi do dự định chạy đến nhưng thằng Y tá cận vệ thấy nguy hiểm níu tôi lại và trả lời lớn :

    - Thưa Thiếu tá, BS cũng bị thương.

    Đại đội Trưởng Thạch Văn Thịnh xui xẻo bị một quả rơi đúng chỗ ông nằm. Doanh trại từ đó mang tên của người Đại đội Trưởng đầu tiên của TĐ2ND bị tử trận. Trung đội trưởng Trần Công Hạnh dẫn Trung đội ngang Bộ chỉ huy và tiến về phía địch, nơi đặt pháo. Chiến đoàn Trưởng Đào Trọng Hùng la hét điều quân. Ông nổi tiếng là người chỉ huy can đảm không bao giờ khom lưng tránh né đạn khi lâm trận mà đạn biết tránh né ông.

    Chiếc khăn đỏ quấn quanh cổ được xem như là bùa hộ mạng. Một bên lưng đeo khẩu súng lục chỉ huy, một bên kia đeo một bi đông rượu đế, đường đường một đấng. Bác Sĩ Hà tục gọi là “Hà chảy”, người ông dong dỏng cao, Y sĩ trưởng TĐ8ND, vừa đi vừa ôm bàn tay bị thương vừa chửi thề: “Địt mẹ, tao có muốn về Nhảy dù đâu mà bị thương như thế này”. BS. “Hà chảy” là dân y trưng tập, học cùng lớp với tôi, chưa kịp bổ đi đơn vị nào khi ra trường thì lại miễn cưỡng bị trưng dụng tạm thời vì Nhảy dù thiếu y sĩ. Y tá xuôi ngược chăm sóc thương binh, trực thăng liên tiếp đáp xuống tản thương.

    Mỗi lần hành quân 2-3 tháng về hậu cứ là quân số Tiểu đoàn hao hụt hơn phân nửa. Tiểu đoàn Vương Mộng Hồng - Khối Bổ Sung phân phối về Tiểu đoàn nhiều tân binh chưa kịp hoàn tất xong khóa Nhảy dù.

    Vùng I, vùng giới tuyến sùng sục dầu sôi lửa bỏng. Hành quân bấy giờ không còn là cấp tiểu đoàn lẻ tẻ mà là chiến đoàn gồm 2-3 tiểu đoàn che chở yểm trợ cho nhau. Hành quân với thiết vận xa của Việt Nam Cộng Hòa hay với chiến xa lội nước của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ tăng cường thường dễ dàng hơn khi tiến chiếm mục tiêu và ít bị thiệt hại.

    Cuộc hành quân "Nhảy dù trận" của TĐ2ND xuống đồng bằng sông Cửu Long vào giữa năm 1966 có lẽ là Saut nhảy xuống trận địa cuối cùng của binh chủng Nhảy dù vì sau đó trực thăng là phương tiện đổ quân nhanh chóng và ít nguy hiểm. Cả một rừng chiếc “Nấm” úp xuống khoảng ruộng nước bao la. Tôi xếp dù an toàn gom vào một chỗ với Đại đội 20 rồi tiếp tục bì bõm tiến theo đoàn quân. Vì bất ngờ nên địch quân không kịp bắn lên trong lúc chúng tôi còn lơ lửng trên trời trong buổi sáng sớm như trong phim “The longest day” khi quân đồng minh nhảy dù xuống Normandie. Chạm súng lẻ tẻ với du kích, địch tránh né rút vào rừng tràm. Vũng nước nào cũng có tôm có cá giúp cho chúng tôi có thêm thực phẩm tươi bồi dưỡng.

    Tổ chức SĐ Nhảy dù từ năm 1966 đã nâng cấp số từ Liên đoàn thành Sư đoàn. Đại đội Quân y Nhảy dù thành Tiểu đoàn Quân y Nhảy dù. Bệnh xá Đỗ Vinh 50 giường thành Bệnh viện Đỗ Vinh 100 giường. Pháo binh, Truyền tin… nâng quân số từ Đại đội lên Tiểu đoàn. Chiến đoàn đổi thành Lữ Đoàn gồm ít ra là 3 tiểu đoàn khi hành quân cho kịp với đà leo thang chiến tranh ngày càng khốc liệt.

    Lữ đoàn 3 ND của Trung tá Nguyễn Khoa Nam đóng gần Bộ chỉ huy TĐ 2 ND ở vùng Tân Quí. Các Đại đội phân chia đóng ở các thôn ấp chung quanh. Tình báo cho hay Tiểu đoàn đặc công Cộng sản mò về sát vòng đai Saigon, thuộc xã Vĩnh Hạnh, Vĩnh Lộc. Lịnh hành quân lục soát ban ra. Trung đội tiền phong do Trung đội Trưởng Trần Công Thọ vừa ra trường khóa 20 Võ Bị Đà Lạt chạm súng. Cả Tiểu đoàn tiến lên tốc chiến tốc thắng đẩy địch bỏ chạy rút vào vùng kinh lạch Đức hòa, Đức Huệ để lại gần 100 xác và súng ống đủ loại.

    Thiếu úy Trần Công Thọ bị ngay một viên đạn giữa đỉnh trán, chết ngọt lịm không kịp trăn trối, nằm cách chỗ tôi không quá 20 thước. Tôi đưa tay vuốt mắt anh, không thấy chảy máu, mặt anh còn tươi tắn như thiên thần ngủ quên. Nhạc phẩm “Tạ từ trong đêm” của Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh viết lên để riêng tặng anh. BS. Bùi Thế Cầu, nguyên Thiếu tá Y sĩ trưởng TĐ5ND, đang nắm giữ chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Gia Định cùng giới chức Hành chánh dân sự cao cấp và báo chí tháp tùng trực thăng xuống ngay trận địa để chứng kiến tận mắt và tán dương. Danh tiếng TĐ2ND nổi như cồn trên trang đầu các tờ báo Saigon. Đại đội 23 tập hợp nhiều Trung đội trưởng họ "TRẦN "trẻ trung, gan dạ, thương mến nhau như anh em ruột thịt. Một Trần Công Thọ đã rơi rụng.

    Một Trần Duy Phước cũng rụng rơi năm sau đó, còn lại Trần Công Hạnh leo dần đến chức vụ Tiểu đoàn trưởng TĐ2ND. Đại đội trưởng Trần Công Danh rời Tiểu đoàn chuyển hoán về đơn vị khác - Đại đội trưởng Phạm Kim Bằng bị thương hư một mắt - Đại đội trưởng Trần Như Tăng bị thương gãy chân - Đại đội trưởng Nguyễn Văn Được giã từ vũ khí ở vòng đai Saigon. Ngày tiễn anh ra mộ huyệt có 3 bà mặc áo quần đen dài chít khăn tang trắng sụt sùi sau quan tài - Đại đội trưởng Lê Văn Mạnh Đại đội 20 lên cầm quyền chỉ huy TĐ2ND một thời gian.

    Toán Y tá của tôi gần 2 năm trời không ai bị hy sinh trừ một vài bị thương nhẹ. Tôi khâm phục tinh thần gan dạ của Y tá Nhảy dù, luôn luôn xông vào tuyến đầu ngay dưới lằn đạn địch để băng bó vết thương cho đồng đội. Y tá trưởng Thượng sĩ Hưng “Mù” được Y tá trưởng Trung sĩ nhất Be về thay thế. Anh Y tá trưởng mới này cũng thuộc loại “chì” không kém.

    Hành quân vùng Củ Chi - Hậu Nghĩa thường bị mìn bẫy nguy hiểm. Một một chiếc Chinook chở gần cả Đại đội bay sà sà sát mặt đất để tránh khỏi bị bắn tỉa khi đổ quân. Thế mà xui thay, viên Đại úy Cố vấn Mỹ mới về Tiểu đoàn, ngồi cạnh ông Tiểu đoàn trưởng, là người duy nhất bị trúng một viên đạn bắn lên xuyên qua, chết ngay tại chỗ.

    Vùng I Chiến thuật lại khẩn điện về Bộ Tổng Tham Mưu cầu viện các Binh chủng tổng trừ bị như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến. Dân chúng vùng Huế, Quảng Trị, Đông Hà an tâm khi có sự hiện diện của các binh chủng này. Tổng trừ bị gì mà ăn dầm ở dề tháng này qua tháng nọ giống như là Địa Phương Quân.

    TĐ2ND trở lại Huế, hành quân lần này có Trung đội Thiết giáp M 113 yểm trợ. Những "Con cua khổng lồ " dàn hàng ngang dậm chân trước một địa thế nghi ngờ. Trung đội khinh binh tiến sát vào hàng rào tre cao vút dày đặc của làng Đông Xuyên - Mỹ Xá, quận Quảng Điền. Im lặng đến ngộp thở. Chưa thấy động tĩnh thế nào cả. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn dè dặt từng bước. Đợi đến khi thấy các cần câu của máy truyền tin PRC 25 của Bộ Chỉ huy gần kề thì địch khai hỏa. Thiết giáp đã dàn hàng ngang rồi ầm ầm nhào tới khạc đạn đại liên xối xả vào mục tiêu.

    Lính Nhảy dù xung phong như sóng vỡ bờ. Lựu đạn thi nhau ném vào các hầm hố mới thanh toán được các ổ thượng liên mà xạ thủ bị còng chân tử thủ với nhau. Lựa đến khi trời tối địch nương theo kinh rạch để mà chém vè, rút sâu vào làng. Nhiều xác địch và vết máu để lại trên đường tháo chạy. Nhiều binh sĩ mang máy theo Bộ chỉ huy bị thiệt hại tính mạng. Ông Tiểu đoàn trưởng vẫn bình tĩnh điều quân. Thiết giáp không bị hư hại chiếc nào cả. Trực thăng rọi đèn tải thương trong đêm tối. Mồ mả quanh bờ làng là nơi che chở cho chúng tôi gối đầu qua đêm.

    BS. Trần Lâm Cao tháp tùng các Sĩ quan Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 theo trực thăng tản thương từ Quân Y viện Nguyễn Tri Phương đáp xuống trận địa khi chiến trường đã thu dọn xong buổi sáng. Một chiến thắng quân địch sát nách thành phố Huế làm chấn động người dân thị thành. Chiến thắng nào mà không đổi lại bằng xương máu.

    Viết đến đây lòng tôi bổng chùng vì xúc động. Những khuôn mặt người lính thân thương đó hiện rõ trong ký ức của tôi. Họ nằm xuống vì vết đạn vào đầu, vào tim, vào phổi nằm la liệt trước mặt tôi. Người Y sĩ Tiểu đoàn hoàn toàn bất lực trước những vết thương không có phương tiện cứu chữa. Tôi xin cầu nguyện cho các anh an giấc ngàn thu và không hận thù. Chúng ta đều chia sẻ một đau thương chung của vận nước nổi trôi.

    Tôi bàn giao toán Y tá cho BS. Trần Lâm Cao làm tân Y sĩ trưởng TĐ2ND vì đáo hạn nhiệm kỳ 2 năm phục vụ Tiểu đoàn.

    Tôi được thăng cấp Đại úy và nhận nhiệm vụ mới là Y sĩ trưởng Đại đội 3/QYND, thường đóng chung với Bộ chỉ huy Lữ đoàn 3 ND của Trung tá Nguyễn Khoa Nam khi đi hành quân. Sau này ông là Tướng Tư lệnh vùng 4 và tuẫn tiết không chịu đầu hàng địch. Danh thơm của ông ấy còn vang mãi trong hậu thế.

    Tin dữ từ mặt trận đưa về: BS. Nghiêm sĩ Tuấn học cùng lớp, là BS dân y trưng tập, tình nguyện về TĐ6ND, cũng chỉ còn một tháng nữa là mãn nhiệm kỳ phục vụ cấp Tiểu đoàn bị tử trận tại Khe Sanh khi đang săn sóc thương binh. Anh đã 2 lần bị thương, một ở Dakto, một ở Cao Lãnh. BS. Lê Hữu Sanh, bạn cùng khóa, người thường được chọn cầm cờ đi hàng đầu trong các cuộc diễn hành của trường Quân y vì dáng anh cao lớn, tử trận khi anh đang làm Y sĩ trưởng một Tiểu đoàn TQLC.

    Cuối năm 1970, tôi giữ chức vụ Y sĩ trưởng Bệnh viện Đỗ Vinh / SĐND và được thăng cấp Thiếu tá.

    Khoảng tháng 3/1971, tôi đang thụ huấn tại Bệnh viện Brooks Hospital, thành phố San Antonio, Texas thì nhận được tin nhiều Y tá / TĐ2ND hy sinh tại mặt trận Hạ Lào. Lòng tôi quặn thắt.

    Tôi rời Binh chủng Nhảy dù về phục vụ tại Quân Y viện Nha Trang để được gần gia đình. Chiếc Mũ đỏ và bộ hoa dù vẫn còn quyến luyến cho đến khi tôi giải ngũ vì đắc cử Nghị viên Thành phố Nha Trang năm 1974.

    Viết những dòng kỷ niệm của nửa thế kỷ trước không sao tránh khỏi thiếu sót và nhầm lẫn, rất mong các bạn đọc đính chính và thông cảm.

    Tôi xin nghiêng mình tưởng niệm những Quân nhân Binh chủng Nhảy dù đã nằm xuống, những người lính chỉ biết tiến không lùi dù trước hỏa lực mạnh của địch quân.

    Tôi xin cảm phục và tưởng niệm người lính Chiến sĩ Vô danh của Nhảy dù bắn súng vào họng tự sát khi miệng còn nhai cơm sáng 30 tháng 4 tại hẻm tôi ở 147/8 Trần Quốc Toản, một hình ảnh hào hùng không thể quên.

    Tiếp nối làm Y sĩ trưởng TĐ2 ND là BS. Vương Bình Dzương, BS. Bùi Văn Đạt, BS. Tôn Thất Sơn, BS. Lê Minh Tâm, BS. Nguyễn Đức Mạnh, BS Nguyễn Kiêm, các anh hứng pháo Cộng sản sau này còn dữ dội hơn tôi nhiều.

    Trước tôi, BS. Võ Đạm là một trong 3 Sĩ quan thuộc Bộ chỉ huy TĐ7ND còn sống sót trong trận Đồng Xoài.

    Sau tôi, BS. Tô Phạm Liệu, ông BS cầm súng như dân tác chiến, cũng là 1 trong 3 Sĩ quan thuộc Bộ Chỉ huy còn sống sót ở ngọn đồi Charlie, ngọn đồi đẫm máu chôn xác TĐT/ TĐ11ND Nguyễn Đình Bảo.

    BS. Đường Thiện Đồng sống sót trận Hạ Lào, hốc hác lội bộ về thấu tiền trạm.

    BS. Vũ Văn Quynh, BS. Nguyễn Văn Thường, v.v… trốn tù cải tạo bị xử bắn,... và còn, còn rất nhiều nữa mà người Y sĩ Nhảy dù đã chia sẻ.

    Tôi xin thán phục tinh thần Nhảy dù bền bỉ của các BS Mũ đỏ Trần Văn Tính, Phạm Gia Cổn, Lê Quang Tiến…nắm giữ chức vụ Chủ tịch BCH/ TƯ/ GĐMĐVN / Hải Ngoại để nối vòng tay lớn, tương thân, tương trợ.

    Tôi không thấy ngượng ngùng khi BS Mũ xanh Trần Xuân Dũng ca tụng các Y sĩ Nhảy Dù, Y sĩ TQLC là "Những Hiệp sĩ của thời đại, những Đường Sơn Đại Huynh trên tiền tuyến lửa."

    Tôi không quên cám ơn các Chi Hội trưởng GĐMĐ vùng Hoa Thịnh Đốn như anh Nguyễn Văn Mùi, Lý Thanh Phi… thường nhắc tôi tham dự buổi cơm cuối năm của Gia Đình Mũ đỏ tổ chức để góp chút tình gửi về cho Thương Phế Binh Nhảy dù còn ở quê nhà.

    Tôi cũng không thể nào quên nhắc đến tên các đàn anh như Y sĩ Đại tá Hoàng Cơ Lân, người anh cả nghiêm minh và vui tươi, Y sĩ Đại tá Bùi Thiều, con người tài hoa và là người điều hành xây dựng Bệnh viện địa đạo ngay trong căn cứ Khe Sanh mà báo chí Mỹ khen phục.

    Bốn chữ “Giữ Đời Cho Nhau” của BS. Lê quang Tiến nhắn trong Đặc San 70 để thực hiện số báo đặc biệt về QYND/ SĐND làm sống dậy trong tôi những năm tháng đùa với tử thần.

    Có nếm mùi cực khổ, tù đày rồi mới thấy Độc lập - Tự Do là quí. Có lâm vào cảnh đói rách, nguy hiểm rồi mới thấy tình Huynh Đệ Chi Binh là quí.

    Xin nói thêm vài lời nữa là nếu không đọc quyển “ Y Sĩ Tiền Tuyến” của Trang Châu, không đọc bài viết của Phan Nhật Nam, của Trương Đăng Sĩ trong Đặc San Mũ Đỏ - 70 thì e cũng khó ngồi mài miệt cả tuần để viết nên những trang giấy này.


    TRẦN ĐOÀN

    P.S.:
    BS Trần Đoàn sau sang được Mỹ, ở tiểu bang Virginia, tu đạo Phật thành cư sĩ, rất có công trùng tu chùa Hoa Nghiêm ở đây.

    Bác sĩ Trần Đoàn là quân y sĩ trong binh chủng Nhẩy Dù VNCH. BS Trần Đoàn có hai người con cũng là sĩ quan y sĩ của Không lực Hoa Kỳ là:
    • BS Trần Đại vừa được thăng thưởng lên cấp bậc Y Sĩ Đại Tá, và
    • BS Huỳnh Trần Mylene, Nữ Y sĩ Đại tá, Giám đốc Chương trình Y khoa quốc tế của không quân Hoa Kỳ (The Air Force International Specialist Program)



    http://nhaydu.com/index_83hg_files/left ... /BS-ND.htm
Ngoc Han
Bài viết: 1586
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: - 30/04/2022 - tưởng niệm 47 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Ngoc Han »

Anh Hoàng Vân và quý anh, chị, em,
Gửi anh link Trên Vòm Trời Lửa Đạn tác giả Vĩnh Hiếu, cưụ phi công trực thăng võ trang phi đoàn Thần Tượng 215, anh thấy bài nào hợp ý thì đăng, thành thật cám ơn tác giả.

https://baovecovang2012.wordpress.com/2 ... vinh-hieu/
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Trên vòm trời lửa đạn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”