Thích nhất Hạnh

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Thích nhất Hạnh

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Cáo phó:
    Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch
    _____________________
    Tổ Đình Từ Hiếu
    Đạo Tràng Mai Thôn






    Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni

    Kính khải bạch chư tôn Trưởng lão Hòa thượng, chư Thượng tọa Đại đức Tăng Ni,

    Kính thưa quý vị Thân hữu, Thiền sinh và Phật tử cư sĩ các giới khắp nơi trên thế giới,

    Sau những năm tháng an dưỡng tại Tổ đình Từ Hiếu, vào lúc 01:30 ngày 22 tháng 01 năm 2022 (nhằm ngày 20 tháng Chạp năm Tân Sửu), Thiền sư pháp hiệu trước Nhất sau Hạnh, Niên Trưởng Trú trì Tổ đình Từ Hiếu đã thâu thần thị tịch tại Tổ đình, nơi Người đã xuất gia cách đây tám mươi năm, trụ thế 96 tuổi và 70 hạ lạp.

              

              

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Sư Ông Làng Mai là bậc thầy hướng dẫn tâm linh có công hạnh hoằng hóa rộng rãi và ảnh hưởng sâu dày trên khắp thế giới. Thiền sư đồng thời là một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ, một học giả, một sử gia và một nhà hoạt động hòa bình. Thiền Sư được biết đến qua những buổi thuyết giảng công cộng cho cả hàng chục ngàn người và hơn 120 tác phẩm xuất bản giá trị. Thiền sư đã mở ra hướng đi và phát triển những pháp môn thực tập với nhiều khoá tu dành cho các nhà giáo dục, thanh thiếu niên, nghệ sĩ, doanh nhân, các nhà lãnh đạo, y bác sĩ… Bên cạnh sự nghiệp hoằng pháp Thiền sư cũng đã tổ chức nhiều Đại Giới Đàn và lễ Truyền Đăng, Việt hoá Nghi lễ và tân tu Giới bản để tiếp dẫn hậu lai.

    Mục sư Martin Luther King vinh danh Thiền sư như là “một Thánh tông đồ của hòa bình và bất bạo động” khi đề cử Người cho giải Nobel Hòa bình vào năm 1967. Trong gần 40 năm sống xa quê hương, Thiền sư là một trong những người tiên phong mang đạo Bụt, đặc biệt là pháp môn chánh niệm đến xã hội phương Tây và góp phần xây dựng một cộng đồng Phật giáo Dấn thân cho thế kỷ XXI với gần 1250 đệ tử xuất gia, hàng triệu đệ tử tại gia và hàng trăm triệu độc giả trên khắp năm châu. Rất nhiều học trò của Thiền sư đã gặt hái được nhiều hoa trái trong sự thực tập và tiếp nối được sự nghiệp hoằng hoá mà Thiền sư trao truyền suốt những thập kỷ qua.


    Sơ lược Tiểu sử

    • Thiền sư Thích Nhất Hạnh, thế danh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm Bính Dần (1926) tại làng Thành Trung, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Là con kế út trong gia đình có sáu anh chị em, cha là cụ ông Nguyễn Đình Phúc, mẹ là cụ bà Trần Thị Dĩ.
    • Năm 1942, xuất gia tại Tổ đình Từ Hiếu với Thiền sư Thanh Quý Chân Thật, được ban pháp danh Trừng Quang.
    • Tháng 9 năm 1945, thọ giới Sa di với Bổn sư, được ban pháp tự Phùng Xuân.
    • Năm 1947, theo học Phật học đường Báo Quốc, Huế.
    • Năm 1949, rời Huế vào Sài Gòn tiếp tục tu học. Bắt đầu sự nghiệp sáng tác với pháp hiệu Thích Nhất Hạnh, một trong nhiều bút hiệu của Thiền sư. Đồng sáng lập chùa Ấn Quang, làm giáo thọ Phật học đường Nam Việt.
    • Tháng 10 năm 1951, thọ Giới Lớn tại chùa Ấn Quang, Sài Gòn với Hòa thượng Đường đầu Thích Đôn Hậu.
    • Năm 1954: Tổng Hội Phật Giáo giao trách nhiệm cải cách giáo dục, làm Giám học Phật Học Đường Nam Việt.
    • Năm 1955, làm chủ bút Nguyệt san Phật giáo Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Tổng hội Phật Giáo Việt Nam.
    • Năm 1957, thành lập Phương Bối Am, Bảo Lộc.
    • Năm 1961 – 1963, tham học, nghiên cứu và giảng dạy tại đại học Princeton và Columbia, Hoa Kỳ. Sáng tác đoản văn “Bông Hồng Cài Áo”.
    • Năm 1964, được mời trở về Việt Nam tham gia lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), thành lập Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn tại chùa Pháp Hội (tiền thân của Viện đại học Vạn Hạnh) và nhà xuất bản Lá Bối. Làm chủ bút tuần san Hải Triều Âm, cơ quan ngôn luận của Viện Hóa Đạo.
    • Năm 1965, thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Năm 1966, thành lập Dòng tu Tiếp Hiện.
    • Ngày 1.5.1966, được Bổn sư phú pháp truyền đăng tại chùa Từ Hiếu và được kế thừa Trú trì Tổ đình Từ Hiếu sau khi Bổn sư viên tịch.
    • Ngày 11.05.1966, rời Việt Nam kêu gọi Hòa bình, bắt đầu 39 năm lưu vong.
    • Năm 1967, được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử giải Nobel Hòa bình.
    • Năm 1968 – 1973, vận động hòa bình cho Hội nghị Hòa bình Paris (1968-1973). Trong thời gian này, được mời dạy môn “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” tại trường đại học Sorbonne, Pháp Quốc và soạn Việt Nam Phật giáo Sử luận 3 tập với bút hiệu Nguyễn Lang.
    • Tháng 9 năm 1970, được GHPGVNTN chính thức đề cử làm lãnh đạo Phái đoàn Phật giáo Hòa bình tại Hội nghị Paris.
    • Tháng 5 năm 1970, tham gia soạn thảo Tuyên ngôn Menton về vấn đề tàn hại sinh môi, ô nhiễm môi trường và sự gia tăng dân số. Cùng các cộng sự gặp ông U Thant, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc và được ông cam kết yểm trợ.
    • Năm 1972, chủ trì Hội nghị Môi trường có tên Đại Đồng với nội dung: sinh thái học bề sâu, tính tương tức và tầm quan trọng của việc bảo hộ trái đất.
    • Năm 1971, thành lập Phương Vân Am, Paris.
    • Năm 1976, cứu giúp thuyền nhân và thực hiện chương trình “Máu chảy ruột mềm”.
    • Năm 1982, thành lập Đạo tràng Mai Thôn tại Pháp.
    • Năm 1998, thành lập Tu viện Thanh Sơn, Hoa Kỳ; năm 2000, thành lập Tu viện Lộc Uyển, Hoa Kỳ.
    • Năm 1999, cùng với các chủ nhân giải Nobel Hòa bình soạn thảo Tuyên ngôn 2000 về một nền hòa bình và bất bạo động cho thiên niên kỷ mới.
    • Năm 2005, trở về Việt Nam lần thứ nhất. Thành lập tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc.
    • Năm 2007, trở về Việt Nam lần thứ hai, tổ chức ba Đại Trai Đàn Bình Đẳng Chẩn Tế tại ba miền.
    • Năm 2008, trở về Việt Nam lần thứ ba, thuyết giảng tại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc.
    • Từ năm 2008, thành lập Viện Phật học Ứng dụng Châu Âu, Đức; Tu viện Bích Nham, Tu viện Mộc Lan, Hoa Kỳ; Thiền đường Hơi Thở Nhẹ, Paris; Làng Mai Thái Lan; Viện Phật học Ứng dụng Châu Á, Hong Kong; Tu viện Nhập Lưu, Úc; Ni xá Diệu Trạm, Ni xá Trạm Tịch, Việt Nam, tiếp tục mở rộng công trình hoằng pháp và xây dựng Tăng thân trên khắp thế giới.
    • Tháng 10 năm 2018, trở về an dưỡng tại Tổ đình Từ Hiếu, Việt Nam.
    • 01:30 giờ ngày 22 tháng Giêng năm 2022, an nhiên thị tịch tại Thất Lắng Nghe, Tổ đình Từ Hiếu.

    Nhất tâm đảnh lễ Tân Viên Tịch, Tự Lâm Tế Tông Tứ Thập Nhị Thế, Liễu Quán Pháp Phái Đệ Bát Thế, Từ Hiếu Tổ Đình Niên Trưởng Trú Trì, Mai Thôn Đạo Tràng Quốc Tế Khai Sơn, Huý Thượng Trừng Hạ Quang, Tự Phùng Xuân, Hiệu Nhất Hạnh Thiền Sư, Nguyễn Công Hoà Thượng Giác Linh.



    https://langmai.org/cong-tam-quan/thong ... vien-tich/



              





              


Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch
    _____________________
    22/01/2022 06:19 GMT+7





    TTO - Nguồn tin của Tuổi Trẻ Online cho biết thông tin thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch lúc 1h30 ngày 22-1 tại chùa Từ Hiếu (TP Huế).

    Sáng 22-1, một nguồn tin thân cận tại Giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế cho Tuổi Trẻ Online biết thông tin trên. Theo nguồn tin này, cũng như theo thông báo từ Làng Mai, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã "an nhiên thị tịch" tại Thất Lắng Nghe ở Tổ đình Từ Hiếu vào 1h30 sáng 22-1, hưởng thọ 97 tuổi.

    Trước đó, vào năm 2018, thiền sư Thích Nhất Hạnh sau quá trình hành đạo ở nước ngoài đã trở về Tổ đình Từ Hiếu để an dưỡng. Trong quá trình ở đây, sức khỏe của thiền sư luôn là vấn đề được các đệ tử, tín đồ Phật giáo quan tâm.

    Cáo phó từ Làng Mai viết:

    "Thiền sư Thích Nhất Hạnh - Sư Ông Làng Mai là bậc thầy hướng dẫn tâm linh có công hạnh hoằng hóa rộng rãi và ảnh hưởng sâu dày trên khắp thế giới.

    Thiền sư đồng thời là một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ, một học giả, một sử gia và một nhà hoạt động hòa bình.

    Thiền sư được biết đến qua những buổi thuyết giảng công cộng cho cả hàng chục ngàn người và hơn 120 tác phẩm xuất bản giá trị.

    Thiền sư đã mở ra hướng đi và phát triển những pháp môn thực tập với nhiều khóa tu dành cho các nhà giáo dục, thanh thiếu niên, nghệ sĩ, doanh nhân, các nhà lãnh đạo, y bác sĩ…

    Bên cạnh sự nghiệp hoằng pháp, Thiền sư cũng đã tổ chức nhiều Đại Giới Đàn và lễ Truyền Đăng, Việt hóa Nghi lễ và tân tu Giới bản để tiếp dẫn hậu lai.

    Mục sư Martin Luther King vinh danh Thiền sư như là "một Thánh tông đồ của hòa bình và bất bạo động" khi đề cử ông cho giải Nobel Hòa bình vào năm 1967.

    Trong gần 40 năm sống xa quê hương, Thiền sư là một trong những người tiên phong mang đạo Bụt, đặc biệt là pháp môn chánh niệm đến xã hội phương Tây và góp phần xây dựng một cộng đồng Phật giáo Dấn thân cho thế kỷ XXI với gần 1.250 đệ tử xuất gia, hàng triệu đệ tử tại gia và hàng trăm triệu độc giả trên khắp năm châu.

    Rất nhiều học trò của Thiền sư đã gặt hái được nhiều hoa trái trong sự thực tập và tiếp nối được sự nghiệp hoằng hóa mà Thiền sư trao truyền suốt những thập kỷ qua".
              

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong lần trở về an dưỡng ở Tổ đình Từ Hiếu vào năm 2018 - Ảnh: NHẬT LINH

              

              




    https://tuoitre.vn/thien-su-thich-nhat- ... 701181.htm



              

              


Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Bộ Ngoại giao chia buồn khi thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Bộ Ngoại giao chia buồn khi thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch
    _____________________
    23/01/2022 19:51 GMT+7





    TTO - Ngày 23-1, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã gửi lời chia buồn về việc thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch.

              

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đại lễ cầu siêu ở chùa Non Nước, núi Sóc Sơn, cách Hà Nội 64km về phía bắc, ngày 20-4-2007 - Ảnh: REUTERS

              

    "Được tin thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch, chúng tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc tới sơn môn, cộng đồng Phật tử Việt Nam ở trong, ngoài nước và pháp quyến của thiền sư Thích Nhất Hạnh" - người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cho biết.

    Bà Lê Thị Thu Hằng cho biết thêm thiền sư Thích Nhất Hạnh là vị cao tăng của Phật giáo Việt Nam nhiều năm sinh sống ở nước ngoài, có nhiều đóng góp trong giới thiệu và phát triển Phật giáo, văn hóa Việt Nam trên thế giới. Thiền sư viên tịch là tổn thất của cộng đồng Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng.

    Trước đó, đại diện ngoại giao của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế cũng chia sẻ lòng thương tiếc trước sự ra đi của thiền sư Thích Nhất Hạnh.

    Báo chí quốc tế cũng đưa tin về thiền sư Thích Nhất Hạnh. Báo Guardian của Anh nói thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có "cuộc đời phi thường" và đã để lại một di sản đồ sộ cho nhân loại, không chỉ riêng tôn giáo mà còn lan tỏa sang nhiều lĩnh vực khoa học xã hội khác.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch lúc 1h30 ngày 22-1 tại chùa Từ Hiếu (TP Huế), hưởng thọ 97 tuổi. Ban truyền thông của Làng Mai đã thông báo di huấn của thiền sư Thích Nhất Hạnh trước lúc viên tịch. Theo đó, tang lễ của thiền sư sẽ diễn ra dưới hình thức tâm tang - khóa tu im lặng.




    https://tuoitre.vn/bo-ngoai-giao-chia-b ... 710059.htm



              

              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Lễ tang Thiền sư Thích Nhất Hạnh diễn ra 7 ngày theo nghi thức Tâm tang

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Lễ tang Thiền sư Thích Nhất Hạnh diễn ra 7 ngày theo nghi thức Tâm tang
    _____________________
    12:40 | Thứ bảy, 22/01/2022





    Thông báo di huấn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho biết, sau Lễ Trà Tỳ diễn ra vào 7 giờ sáng 29.1, xá lợi Thiền sư sẽ được an vị tại Tổ đình Từ Hiếu và các trung tâm khác của Làng Mai khắp nơi trên thế giới mà không cần phải xây tháp.

    Ngày 21.1, trang web của Đạo Tràng Mai Thôn (Làng Mai) đã công bố Thông báo di huấn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Thông báo cho biết, sau những năm tháng an dưỡng tại chốn Tổ Từ Hiếu từ ngày 26.10.2018, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã thâu thần thị tịch vào lúc 1 giờ 30 phút sáng ngày 22.1.2022 (nhằm ngày 20 tháng chạp năm Tân Sửu).

    Các nhà sư tại Tổ đình Từ Hiếu và tăng thân Làng Mai sắp xếp tang lễ Thiền sư Thích Nhất Hạnh theo nghi thức Tâm tang. Tang lễ sẽ kéo dài trong 7 ngày theo hình thức của một khóa tu im lặng. Trong suốt thời gian đó, mọi người đến thăm viếng sẽ cùng thực tập chung tâm niệm cúng dường – để cho toàn bộ tang lễ Tâm tang được diễn ra trong sự im lặng, trang nghiêm, thanh tịnh, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Lễ tang miễn các phúng điếu vòng hoa, trướng liễn. Lễ nhập kim quan sẽ diễn ra vào lúc 8 giờ sáng 23.1 (nhằm 21 tháng chạp âm lịch) và lễ Trà Tỳ (di quan và hỏa táng) sẽ diễn ra vào 7 giờ sáng 29.1 (nhằm 27 tháng chạp âm lịch).

    Theo di huấn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sau Lễ Trà Tỳ, xá lợi Thiền sư sẽ được an vị tại Tổ đình Từ Hiếu và các trung tâm khác của Làng Mai khắp nơi trên thế giới mà không cần phải xây tháp.

              

    Lễ tang Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ diễn ra trong 7 ngày từ 23.1 đến 29.1. Ảnh: Làng Mai

              

    Trước đó, Làng Mai cũng đã phát đi cáo phó Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch vào lúc 1 giờ 30 phút sáng ngày 22.1.2022 (nhằm ngày 20 tháng chạp năm Tân Sửu).

    Theo cáo phó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Sư Ông Làng Mai là bậc thầy hướng dẫn tâm linh có công hạnh hoằng hóa rộng rãi và ảnh hưởng sâu dày trên khắp thế giới. Thiền sư đồng thời là một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ, một học giả, một sử gia và một nhà hoạt động hòa bình. Thiền sư được biết đến qua những buổi thuyết giảng công cộng cho cả hàng chục ngàn người và hơn 120 tác phẩm xuất bản giá trị. Thiền sư đã mở ra hướng đi và phát triển những pháp môn thực tập với nhiều khoá tu dành cho các nhà giáo dục, thanh thiếu niên, nghệ sĩ, doanh nhân, các nhà lãnh đạo, y bác sĩ…
    Bên cạnh sự nghiệp hoằng pháp, Thiền sư cũng đã tổ chức nhiều Đại Giới Đàn và lễ Truyền Đăng, Việt hoá Nghi lễ và tân tu Giới bản để tiếp dẫn hậu lai.

              

    Lần xuất hiện gần nhất trước các tăng ni, Phật tử, du khách… của thiền sư Thích Nhất Hạnh là mồng 1 Tết Tân Sửu 2021, qua cửa kính từ bên trong thất Lắng Nghe, chùa Từ Hiếu. Ảnh: Minh An

              

    Mục sư Martin Luther King vinh danh Thiền sư như là “một Thánh tông đồ của hòa bình và bất bạo động” khi đề cử Người cho giải Nobel Hòa bình vào năm 1967.

    Trong gần 40 năm sống xa quê hương, Thiền sư là một trong những người tiên phong mang đạo Bụt, đặc biệt là pháp môn chánh niệm đến xã hội phương Tây và góp phần xây dựng một cộng đồng Phật giáo Dấn thân cho thế kỷ XXI với gần 1.250 đệ tử xuất gia, hàng triệu đệ tử tại gia và hàng trăm triệu độc giả trên khắp năm châu.

    “Rất nhiều học trò của Thiền sư đã gặt hái được nhiều hoa trái trong sự thực tập và tiếp nối được sự nghiệp hoằng hoá mà Thiền sư trao truyền suốt những thập kỷ qua”, cáo phó cho biết.




    Hoàng Khải

              

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong ngày trở về tổ đình Từ Hiếu đầu năm 2020, được thị giả thân cận cùng chúng đệ đưa thiền sư đi dạo, ngắm cảnh trước khi vào thất Lắng Nghe. Ảnh: Minh An

              

    ....



    https://nguoidothi.net.vn/le-tang-thien ... 33424.html



              

              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Khẩn báo tin Hòa Thượng Thiền Sư Thích Nhất Hạnh viên tịch

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Khẩn báo tin Hòa Thượng Thiền Sư Thích Nhất Hạnh viên tịch
    _____________________


              

              

    NAM MÔ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT

    Nguồn tin từ Cộng Đồng Phật Giáo Làng Mai Quốc Tế vừa thông báo:

    Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đã an lạc thu thần viên tịch lúc 00g00 (GVN) ngày 22 tháng 1 năm 2022, nhằm ngày 20 tháng Chạp năm Tân Sửu tại chùa Từ Hiếu, Huế, Việt Nam, trụ thế 96 năm, 70 hạ lạp.

    NHẤT TÂM CẦU NGUYỆN HÒA THƯỢNG THIỀN SƯ

    CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC


    https://gdptthegioi.net/2022/01/khan-ba ... vien-tich/



              



              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Nói về Nhất Hạnh ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    phỏng vấn nhà thơ, nhà tranh đấu nhân quyền Thi Vũ Võ Văn Ái
    _______________________
    lê thị huệ, chủ biên gio-o.com thực hiện _ 1/11/2009






    (phần 5, cuối)
    (câu hỏi từ 43 – 56 hết )


    43. Lê Thị Huệ: Nói về Nhất Hạnh, hình như ông có thời gian rất thân với Thích Nhất Hạnh ?

    Võ Văn Ái : Vâng, chúng tôi ăn chung mâm, ở chung nhà, cùng chung hoạt động trên thế giới cho hòa bình Việt Nam - nền hòa bình dân tộc không cộng sản – từ năm 1966 đến 1970. Nhưng chúng tôi biết và quen nhau từ đầu thập niên 50 ở Đà Lạt. Thời ấy tôi dạy tại trường Trung học tư thục Tuệ Quang ở Cây số 4 do thầy Thiện Tấn, là anh trai của ông, làm hiệu trưởng.

    Bi kịch của Nhất Hạnh là suốt đời ông đi tìm đệ tử, nhưng không tìm con người tự do.

    Ông là người hiền lành, tình cảm, nhiều thi tính, tuy độc tài ngầm, bị tham vọng và thanh danh làm hỏng. Phải chăng đời không nương chìu khi còn bé nên biến ông thành con người không giải thoát, nếu không nói là con người hằn thù (l’homme de ressentiment). Tôi đoán thế do nhận xét hai sự kiện. Một là ông rất thương mẹ, nhưng lại chủ tâm biến mẹ thành thánh mẫu trong giới tay chân thân cận. Chắc có gì bí ẩn trong gia đình thuở thiếu thời chăng ? Việc thứ hai xẩy ra vào cuối thập niên 40, thời ông là học tăng tại chùa Bảo quốc, Huế. Chẳng biết phạm lỗi gì rất nặng, nên bị đuổi ra khỏi chùa. Cố Hoà thượng T.T. gửi thư đến các chùa từ miền Trung vào tới Nam ra lệnh cấm không được chứa chấp ông. Thế nhưng ông vẫn giữ bộ áo tăng sĩ, không ra đời. Tôi nghĩ những hành động đi riêng sau này của ông đối với Phật giáo Việt, phải chăng là một cách “trả thù” sự ép chế trước kia ?

    Giữa lúc chiến tranh ngút ngàn năm 1966, ông rũ tôi lập một “Giáo hội Trẻ” chống lại “các ông già” trong nước. Tôi khuyên ông không nên, phải lo giải quyết chuyện chiến tranh trước đã. Kéo dây động rừng sẽ làm tan nát Phật giáo vào lúc Cộng sản Bắc Việt uy hiếp miền Nam. Nên chuyện bỏ qua.



    44. Lê Thị Huệ: Who is Nhất Hạnh ? Xin lỗi tôi phải dùng tiếng Anh ở đây để phản ảnh vai trò bệ vệ quốc tế của Thích Nhất Hạnh

    Võ Văn Ái : Ông là một nhà thơ, một nhà văn. Nghệ sĩ tính của ông mạnh hơn tính đạo sĩ. Đạo sĩ chỉ là khía cạnh trình diễn cải lương của ông ấy.



    45. Lê Thị Huệ: Vụ xung đột giữa ông và ông Nhất Hạnh, ông có nghĩ là đời sống đã không công bằng với ông và với ông Nhất Hạnh ?

    Võ Văn Ái : Có những lúc chúng tôi thấy cùng nhau đồng hành về một hướng trên quan điểm Phật giáo và dân tộc. Rồi đến lúc, cũng từ quan điểm Phật giáo và dân tộc, tôi không thể đồng hành với ông ấy nữa. Giản dị thế thôi. Tôi chia tay ông đầu năm 1970, sau 6 năm chia sẻ ngọt bùi. Không có xung đột. Đường ai nấy đi, tôi sòng phẳng và nói thẳng lý do với ông khi chia tay. Ông ấy biết rõ hơn ai về sự trao đổi lần cuối này vào một đêm tháng giêng năm 1970. Bài thơ đánh dấu sự chia tay ấy là bài “Nhật ký băng sa mạc Bắc Mỹ Châu” (đại khái thế, không chắc tôi nhớ đúng các chữ trong đề bài) đăng trên Tạp chí Văn ở Saigon năm ấy. Đọc lên chẳng ai biết chuyện riêng giữa chúng tôi đâu. Mặt khác tôi chưa hề công khai hóa việc này, ngoại trừ bức thư xin từ chức tôi gửi về Viện Hoá Đạo trong nước. Vì vậy tôi nói không có xung đột. Tuy nội tâm tôi khủng hoảng dữ dội. Trên phạm vi tư tưởng, tôi bị khủng hoảng hai lần. Năm 1955, tôi phát hiện người Cộng sản phục vụ Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh chứ không tranh đấu cho dân tộc. Lần này, 1970, niềm tin của tôi vào giới Tăng lữ bị khủng hoảng mà Nhất Hạnh là đại biểu.

    Cuộc chia tay giữa bằng hữu, bỏ đạo này theo đạo khác, chọn ý thức hệ này bỏ ý thức hệ kia là hành trình tự giác hay chọn lựa từng đời người. Chuyện bình thường. Vợ chồng khắn khít còn ly dị kia mà. Gần đây, nhân chuyến ông về Việt Nam, hai chúng tôi có lúc trở nên như to chuyện là vì các đệ tử cuồng tín của ông ấy do không hiểu nguồn cơn nên vọng động. Họ không hiểu rằng, từ năm 1970, Nhất Hạnh là đám mây đen đã bay mất trong đời tôi. Do không hiểu có người gán cho tôi hai chữ « phản thầy ». Tôi không hề là đệ tử của Nhất Hạnh thì sao gọi « phản thầy ». Mà phản gì ? Bất đồng ý kiến thì chia tay như thường xẩy trong xã hội dân chủ. Đã lâu, tôi không còn nghĩ tới ông ấy. Tuy nhiên sự biến bất ngờ xẩy ra khi ông và bà Phượng rời phi trường Charles de Gaulle lên đường về Hà Nội. Bỗng dưng bà Phượng, tức Chân Không, tuyên bố một câu xanh rờn với hãng thông tấn AFP liên quan tới Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) khiến tôi phải phản ứng. Lời tuyên bố của bà Chân Không được bản tin AFP phát hành chiều ngày 11.1.2005 có đoạn viết rằng : "Nhà sư (tức Sư Ông Thích Nhất Hạnh) không là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, là Giáo hội đang bị chính quyền cấm không cho hoạt động từ năm 1981, vì Giáo hội này từ khước sự kiểm soát và điều khiển của Đảng Cộng sản. Hơn một năm trước đây, Công an Việt Nam đã mở cuộc đàn áp sâu rộng Giáo hội này, hàng giáo phẩm bị bắt quản chế và hàng trăm ngôi chùa bị phong tỏa. Khi được hỏi vì sao một số phong trào tôn giáo bị cấm đoán tại Việt Nam, Sư cô Chân Không trả lời : "Vì một số các Giáo hội này tàng trữ những lá cờ của chế độ cũ (sic). Còn chúng tôi, thì chúng tôi chẳng có một tham vọng chính trị nào cả".

    Hai ngày sau tại Hà Nội, ông Nhất Hạnh tuyên bố trên báo Nhân Dân phát hành ngày 13.1.2005, rằng : "Ông đã từng đấu tranh với những thái độ căng thẳng của chính quyền một số nước phương Tây về "vấn đề tôn giáo ở Việt Nam". Ông kể, ông đã từng nói với một số quan chức Hoa Kỳ rằng : "Người Việt Nam muốn được giải phóng khỏi cái mà người Mỹ gọi là sự giải phóng cho người Việt Nam".

              

    nguồn ảnh: vnexpress.net
    Sư Ông Nhất Hạnh, Giáo chủ Làng Mai, trong các chuyến về thăm và được Hà Nội cho phép tự đo thuyết giảng từ Bắc chí Nam qua các năm 2005, 2007, 2008

              

    Phản ứng tôi thông qua thông cáo báo chí của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế dây dưa tới chuyến đi Việt Nam của ông Nhất Hạnh cùng 100 Tăng thân Làng Mai. Trước đó tôi không có ý định nhắc tới phái đoàn của ông. Dù tôi biết rất rõ Hà Nội đang sử dụng lá bài Tuệ Sỹ - Lê Mạnh Thát trong nước, ngoài nước là lá bài Nhất Hạnh để được rút tên khỏi danh sách CPC (Countries of Particular Concern, danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo) mà chiếu theo Đạo luật 1998 của Quốc hội Hoa Kỳ các nước nằm trong danh sách này sẽ bị chế tài trên lĩnh vực kinh tế và tài chánh.

    Năm 1977, trên tạp chí Quê Mẹ lần đầu tiên chúng tôi đề cập tới ông Nhất Hạnh và bà Cao Ngọc Phượng qua vụ con tàu đi vớt người vượt biển mà ông bà thực hiện một cách vô trách nhiệm tại Singapore. Lên tiếng vì thảm cảnh người Vượt Biển lúc bấy giờ, chứ chẳng vì chuyện cá nhân. Tạp chí Quê Mẹ phản ảnh sự vụ sau khi hai tờ báo lớn Straits Times ở Singapore và New York Times ở Nữu Ước khui ra trước tiên. Nguyên tổ chức Hội nghị Thế giới cho Tôn giáo và Hoà bình (World Conference on Religion and Peace) bỏ ra sáu mươi nghìn Mỹ kim giao cho ông Nhất Hạnh tổ chức việc cứu người vượt biển Đông với chức vụ Giám đốc Điều hành, bà Phượng làm phụ tá. Tổ chức này có phòng ốc làm trụ sở ở Singapore, nhưng hai ông bà lại đi thuê villa ở riêng. Thay vì đi vớt người, thì hai ông bà thuê một chiếc tàu cũ bệ rạc không còn khả năng ra khơi, nên chỉ nằm tấp bờ. Bà Phượng đưa những người đã nhập trại tiếp cư ở Thái Lan lên tàu ấy cho có màu sắc “vớt người tị nạn”. Theo New York Times các người tị nạn ở Thái phải trả một khoảng tiền cho bà Phượng mới được đưa lên tàu. Tàu lại không có khả năng tới các quốc gia tị nạn thứ ba. Việc lôi thôi xẩy ra từ đó. Người tị nạn ngày ngày dưới sức nóng nhiệt đới ngồi trên bong nghe thơ Nhất Hạnh hay kinh tụng theo giáo phái Làng Mai (lúc ấy còn gọi là Làng Hồng) phát ra từ máy. Nhưng chờ mãi chẳng thấy tương lai định cư về đâu nên họ sinh ra bất mãn. Tôi còn trong tay bản phúc trình 28 trang của ông Homer Jack, Tổng thư ký Hội nghị Thế giới cho Tôn giáo và Hoà bình phúc trình việc bê bối và lấy quyết định cách chức hai ông bà Nhất Hạnh và Phượng đồng thời tống xuất họ khỏi Singapore. Sau này, có số người hiểu lầm rằng tôi tranh giành con tàu của ông ta. Họ đâu biết rằng con tàu chưa hình thành đã thất bại của ông Nhất Hạnh xẩy ra giữa năm 1977. Con Tàu Đảo Ánh Sáng do cơ sở Quê Mẹ xướng xuất vào cuối năm 1978 là sự biểu tỏ đồng tình của lương tâm thời đại, với sự tham dự của gần 200 nhân sĩ quốc tế. Từ con tàu của chúng tôi đẻ ra hàng loạt tàu đi vớt người khác ở Đức, ở Ý, ở Na Uy…

    Nhìn lại việc này, tôi thấy Quê Mẹ công khai hóa sự vụ là đúng, bởi liên quan tới sinh tử của phong trào Người Vượt Biển vào thời điểm dầu sôi lửa bỏng ấy, cũng như cung cách làm việc tài tử cố hữu và vô trách nhiệm của hai người. Tuy nhiên loạt bài viết trên Quê Mẹ gây sốc cho giới Phật tử. Một số Phật tử quan niệm rằng cư sĩ (tôi) không được “phạm thượng” động tới Tăng sĩ là ông Nhất Hạnh. Thế nhưng cơ sở và tạp chí Quê Mẹ do tôi chủ trương không thuộc bất cứ đảng phái hay tôn giáo nào, kể cả Phật giáo, dù tôi là Phật tử. Một cơ quan ngôn luận phải làm đúng chức năng thông tin và hướng dẫn dư luận. Sau cuộc chia tay ông Nhất Hạnh, năm 1970, tôi đã làm đơn gửi Viện Hóa Đạo trong nước từ nhiệm tất cả mọi chức vụ trong giáo hội, mãi cho tới hai mươi hai năm sau, năm 1992, do Hoà thượng Thích Huyền Quang thúc đẩy tôi mới trở về với Giáo hội Phật giáo.

    Tuy nhiên, nếu vấn đề cần đặt lại, có thể là cách viết loạt bài thời ấy. Loạt bài này do ông nhà báo HTA của tòa soạn viết theo sự quyết định của Chủ biên Tin quốc tế là ông TN. Ký giả này xưa làm báo ở Saigon, nên cung cách viết cũng là cung cách viết của nền báo chí Saigon thượng vàng hạ cám trước kia. Đành rằng tôi trách nhiệm trong vai trò Chủ nhiệm, Chủ bút. Song phải nói thời gian khổ sở ấy, tôi vừa cáng đáng điều hành nhà in, vừa làm thợ chạy máy. Mỗi ngày lao động 18, 19 giờ nên không đọc hết các bài vở để nhuận chính.

    Sự khó khăn ở nhà in của tôi gián tiếp đến từ bà Phượng. Khoảng năm 1968 do thiếu nhân sự ở Văn phòng Phật giáo, bà Phượng gửi một nhân viên từ Saigon sang Paris giúp tôi. Do tin cẩn tôi không đặt vấn đề lý lịch. Mãi sau này, đầu thập niên 70 khi tôi thành lập nhà in làm kế nuôi thân và nuôi mộng làm báo văn hóa, làm nhà xuất bản. Nhân viên này theo tôi, vì anh bảo xưa anh là thợ in ở Saigon. Mua xong nhà in mới biết anh chẳng biết tí ti nghề nghiệp, khiến tôi phải tự học như một khổ ách trong đời. Đến khi nhà in bắt đầu chạy việc, thì một đêm anh ta phá hoại máy in mới mua, phá luôn máy cắt xén, là hai bộ phận cơ bản của một nhà in nhỏ. Rồi bỏ đi. Lúc ấy chúng tôi mới vỡ lẽ, hóa ra anh là người của bên kia, lâu nay nằm vùng trong cơ sở chúng tôi để bắn phát đạn cuối cùng vào lúc chúng tôi kiệt quệ. Do đó mà tôi trở thành thợ in bất đắc dĩ. Nói dài dòng như thế để hiểu rằng, tôi đã tin cậy vào Chủ biên Tin quốc tế TN và anh nhà báo nọ. Nên không xem lại bài viết để chỉnh đốn lời văn. Tuy sự kiện đưa ra đúng như sự thật.



    46. Lê Thị Huệ: Có một điều tế nhị nhiều người không muốn nói, nhưng tôi nghĩ với những vấn đề của trí thức, nó chẳng phải là một điều gì ghê gớm. Có phải ông Nhất Hạnh muốn cách mạng Phật Giáo Việt Nam, có phải ông Nhất Hạnh đã yêu bà Chân Không và thăng hoa tình yêu ấy khi muốn Phật Giáo Việt Nam chấp nhận chuyện sư có vợ con. Với tôi, đây là một điều tốt cho tôn giáo của ông ấy. Tôi không phản đối điều này. Liệu có một sự thật nào đó trong câu chuyện này, hay đây chỉ là một lời đồn lừa dối

    Võ Văn Ái : Nói rằng ông Nhất Hạnh muốn cách mạng Phật giáo Việt Nam thì không đúng. Đại sư Thái Hư mới là người xứng danh và là nhân vật lịch sử của Phật giáo từ những năm đầu Dân quốc thế kỷ XX ở Trung quốc, khởi xướng cuộc tân vận động của Phật giáo cận đại và hiện đại. Trước Dân quốc, Tăng sĩ bị xã hội khinh rẻ vì thiếu học, chỉ lo việc cúng kiến, mê tín, nên Đại sư Thái Hư gióng lên cuộc cách mạng Phật giáo trên ba lĩnh vực cơ bản là Cách mạng Giáo lý – Cách mạng Giáo chế - Cách mạng Giáo sản trong hoàn cảnh bế tắc và tiêu trầm của Phật giáo Trung quốc. Tư tưởng cách mạng này vượt biên cương chi phối toàn thể sinh hoạt Phật giáo từ Á sang Âu Mỹ. Nhờ những chuyến đi thuyết pháp của Đại sư Thái Hư mà các Hội Học Phật được thiết lập khắp Âu Mỹ Á đầu thế kỷ XX.

    Tại Việt Nam, Cư sĩ Lê Đình Thám cùng các Đại sư Phước Huệ, Trí Độ, v.v… do đọc sách của Thái Hư mà phát động Phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam từ thập niên 20 đầu thế kỷ XX lan truyền khắp Nam, Trung, Băc kỳ. Sự xuất hiện uy dũng của Phật giáo Việt Nam hai thập niên 50, 60, là thành quả của phong trào Chấn hưng Phật giáo gợi hứng từ công trình, công đức và công hạnh kỳ vĩ của Thái Hư Đại sư.

    Bản thân ông Nhất Hạnh có một số phát kiến canh tân Phật giáo sau thời gian du học ở Mỹ. Tôi nghĩ ông chịu ít nhiều ảnh hưởng từ giáo phái Tin Lành và thần học Paul Tillich trong các phát kiến của ông. Tôi từng viết bài ca ngợi cuốn sách “Hiện đại hóa Phật giáo” của ông trên tạp san Hải Triều Âm ở Saigon giữa thập niên 60. Trái lại, Bùi Giáng thì chê Nhất Hạnh về cuốn sách này trong “Đi vào Cõi Thơ” do Ca Dao ấn hành, Saigon năm 1969, ở trang 63 như sau : “Nhất Hạnh có nguồn thơ chứa chan. Chúng ta không hiểu vì lẽ gì nguồn thơ đó lại không đủ sức ngăn cản ông, khiến ông hì hục hiện đại hóa Phật Giáo Uyên Nguyên. Trường hợp Nhất Hạnh là trường hợp một thi sỹ thiên tài bị vướng phải cạm bẫy của triết học Tây phương”.

    Từ năm 64, 65 tại Saigon, ông thiết lập dòng Tiếp Hiện cho phép người tu lập gia đình, phát triển trong giới Phật tử thuộc Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ở Phú Thọ Hoà. Trong giới thân cận ông có một người không đồng ý là Nhất Chi Mai, tức cô giáo Phan Thị Mai tự thiêu cho Hòa bình năm 1966. Tôi còn giữ bức thư thủ bút của cô ấy về sự bất đồng này. Ông Nhất Hạnh dự tính công khai dòng Tiếp Hiện qua một cuộc họp báo ở Saigon, đưa Phạm Công Thiện làm người đầu đàn phát huy Dòng mới (thời gian này Phạm Công Thiện là Đại đức Thích Nguyên Tánh). Nhưng Phạm Công Thiện bỏ rơi cuộc họp báo rồi sau đi du học Mỹ, nên việc không thành. Khoảng năm 1967, thời ông đón bà Cao Ngọc Phuợng ở Việt Nam ra cùng sang ở Tokyo, nói là đi nghiên cứu “kinh tế hậu chiến”, ông viết thư cho tôi kèm cương lĩnh và giới luật Dòng Tiếp Hiện mong tôi tham gia thực hiện và phát triển dòng tu mới. Nhưng tôi không trả lời.

    Thực tế là vào giai đoạn giữa thập niên 60, ngoài Nhất Hạnh, tôi biết vài vị Tăng vai vế có khuynh hướng phát động phong trào Tân Tăng Nhật Bản tại Saigon, như cố Hoà thượng TMG là một. Nhưng sau vài thử nghiệm họ gặp phản ứng chống đối quá lớn của quần chúng Phật tử, nên phong trào vụt tắt. Sau này nhờ hoàn cảnh khách quan ở nước ngoài dễ phát triển hơn trong khung cảnh Làng Mai ở Pháp.

    Về giới Tân Tăng cho phép lấy vợ, thì Nhật Bản là nước tiên phong và có truyền thống từ thế kỷ XIII. Đọc truyện Kinkakuji của Yukio Mishima sẽ thấy bối cảnh của đời sống Tân Tăng này.

    Đại sư Thân Loan (Shiran, 1173-1262) tổ khai sáng Tịnh độ Chân tông Nhật bản (Jōdo-shinshū / Shin Buddhism), sau khi làm đệ tử ngài Pháp Nhiên (Hōnen) được Thầy cho phép lấy Ni cô Huệ Tín làm vợ, khởi nguồn cho chế độ Tăng lấy vợ của phái Chân tông Nhật bản.

    Hơn mười năm trước tôi đến thăm chùa Higashi Honganji (Đông Bản Nguyện tự) ở cố đô Kyoto là bản sơn của phái này. Vị sư dẫn tôi đi thăm chùa giải thích rằng : “Thấp thoáng sau lưng các vị Sư có bóng người đàn bà. Tại sao không công khai hóa mà cứ giấu giấu diếm diếm ?”. Rồi ông thuật cho tôi nghe việc ra đời của phái Tân Tăng của ngài Thân Loan. Chuyến thăm ấy tôi còn chú ý tổ chức Nhân quyền của Tịnh độ Chân tông ngay trong ngôi bản tự này. Có đến 450 nhân viên túc trực. Họ lo cho nhân quyền của giới cùng đinh Burakumin Nhật bản, khoảng 3 triệu người sống trong cảnh kỳ thị xã hội. Ban ngày các sư đi làm lụng như người thường (cư sĩ) trong các công xưởng, văn phòng hay quán ăn. Về chùa khi lễ lượt mới mặc y áo tăng sĩ.

    Cuối thập niên 60, trong mấy năm dài chúng tôi chung sống với nhau dưới mái nhà làm trụ sở Phật giáo ở số 11, rue de Vénus, thị xã Maisons-Alfort, ngoại ô Nam Paris. Thời ấy, ông Nhất Hạnh và bà Cao Ngọc Phượng (sau này cạo đầu xuất gia lấy tên Chân Không) sống đời sống đôi cặp tự do, không giấu diếm, tuy ông không cổi áo công khai hóa ngoài xã hội. Cùng sống với chúng tôi lúc ấy có 7 vị Tăng và 6 cư sĩ. Sau này 5 trong số 7 vị Tăng này đã hoàn tục (một vị hiện sống ở Paris và một vị nay ở Saigon).

    Kinh Phật dạy y pháp bất y nhân, nghĩa là y vào Pháp Phật mà học và tu, đừng nệ tới con người. Người bình dân cũng nói ai tu nấy chứng. Quan điểm tôi, việc lấy vợ hay không chẳng quan trọng cho bằng đức hạnh, trình độ tu chứng và nỗ lực cứu đời.



    47. Lê Thị Huệ: Đạo Bụt của ông Nhất Hạnh, ông nghĩ sao ?

    Võ Văn Ái : Ông Nhất Hạnh có công giới thiệu đạo Phật theo giáo phái Làng Mai của ông ấy cho giới thị dân Âu Mỹ. Những người mà đời sống bị thúc bách, đè nén thường xuyên vì công ăn việc làm hay đời sống bon chen ở các thị trấn. Nên họ bị Stress. Các khóa tu học cuối tuần của đạo Bụt cấm dùng điện thoại, không được xem Tivi, bắt hít thở trong không khí miền quê hay rừng núi, vừa đi vừa hít thở thiền hành, tập cười, tập ôm nhau thân ái (Thiền Ôm) khi có nhu cầu, làm cho con người thư giản, làm an dịu thân tâm. Một lối tu tập Yoga. Song tiến xa hơn vào đời sống tâm linh của đạo Phật, thì dường như Đạo Bụt không thành công. Tôi gặp một số bạn Tây phương thích thú theo học giáo phái Làng Mai nhưng bỏ nửa chừng để quay sang đường lối tu tập Phật giáo Tây Tạng. Đạo Bụt của ông dịu dàng, thiên về tự kỷ ám thị hơn là khai mở chân tâm. Đánh một tiếng chuông mỉm miệng cười, dán những câu thơ / kệ trong phòng tắm, phòng ngủ, trẻ em đi học về ôm mẹ nói “Mẹ ơi, con thương mẹ lắm”, v.v… có cái gì rất Pavlov, không tự nhiên. Chứng tỏ phương pháp này xuất phát từ những con người sống quá lâu trong dồn nén, ẩn ức, bất bình thế sự, không thỏa mãn tình dục.

    Trong truyền thống tu học Phật giáo của giới xuất gia từ nghìn xưa thì các bộ Luật Sa di và Sa di ni nghiêm túc, trang nghiêm, cẩn trọng và có phương pháp hơn nhiều.

    Đạo là thông lưu không trở ngại. Thiền là hành động tự nhiên hơn sự giải thích bằng ngôn ngữ hay cử điệu. Một cái vỗ vai với người bạn, một ánh mắt đối với mẹ sẽ ý nhị và làm thay những câu nói hay cử động cải lương kia.

    Ngay việc sử dụng chữ Bụt thay cho chữ Phật thường dụng trong quần chúng Việt Nam qua nhiều thế kỷ, tôi thấy như có gì trình diễn, cải lương, lập dị hơn là một thay đổi có tính bản thể.

    Sự thất bại của đạo Bụt thấy rõ ở các nước Á châu như Nhật Bản, Nam Hàn, Việt Nam. Mười mấy năm trước, chuyến đi thuyết trình của ông Nhất Hạnh tại Nhật thất bại nên ông không còn trở lại. Hai Thượng toạ Hộ Tùng Nghĩa Tình và Hoàn Sơn Chiếu Hùng mà tôi gặp tại Tâm Quang Viện ở Tokyo, thành viên Phật giáo Quốc tế Hiệp lực và ở trong ban tổ chức chuyến đi một tháng cho ông Nhất Hạnh nói với tôi như thế. Hỏi lý do, hai vị bảo rằng người Nhật không chấp nhận lối Pháp đàm và cách trình bày về Phật giáo của ông Nhất Hạnh. Loại “Thiền ôm hít thô sơ” chạm trán với dòng Thiền thâm hậu Nhật Bản vốn có truyền thống tu chứng thành nếp văn hoá tâm linh cao cả, ắt phải tiêu ma. Cho nên đạo Bụt của ông Nhất Hạnh chỉ thành công phần nào tại các nước phương Tây cho giới thị dân và giới cựu quân nhân Mỹ có vấn đề tâm thần sau cuộc chiến khủng khiếp tại Việt Nam.

    Đó là nói chuyện trong thế giới. Trở về cố hương, Huế là pháo đài của ông Nhất Hạnh, chùa Từ Hiếu là sở hữu kế thừa của ông. Trước chuyến về Việt Nam lần đầu năm 2005, đa số Phật tử Huế xem ông là thần tượng, nếu không là Bụt sống. Họ xem Làng Mai như cõi Tịnh độ. Thế nhưng hành xử của ông khi được tiếp xúc, cùng với cung cách giáo phái Làng Mai đã thất bại nặng nề tại Huế. Tôi chợt nhớ lời phê bình của Bùi Giáng nhắc tới lúc nãy. Một Tăng sĩ ở Huế viết thư cho tôi có câu : “Chư Tăng ở Huế rất náo nức và hả dạ ngày Thầy Nhất Hạnh mới trở về. Nhưng nay khi Thầy Nhất Hạnh ra đi thì ai nấy đều ê chề, oán hận thấu trời xanh, mà không nói được nên lời”. Chuyến đầu về Huế năm 2005 hàng bao nhiêu nghìn Phật tử đón rước, thế nhưng mấy lần sau rất tiêu điều theo lời thuật của Phật tử Huế. Phải chăng đạo Bụt và người dạy đạo Bụt thích hợp với một số thị dân Âu Mỹ, nhưng không hợp với tạng người Việt ?

    Sự mơ mộng hão huyền của ông còn thấy qua lời ông khuyên Tổng thống George W. Bush ngày quân khủng bố Al Qaida đánh sập hai cao ốc Twin Towers ở New York (11.9.2001). Ông lên tiếng trên truyền thông báo chí khuyên Tổng thống Bush đi gặp Ben Laden, hai bên hãy lắng nghe nhau để giải quyết việc đời theo cái điệu “Hiểu và Thương” của giáo phái Làng Mai ! Nội bộ những tín đồ Làng Mai còn chưa “hiểu và thương” nhau, nói chi những người ở xa vạn dặm ? Ở đây tôi không muốn đào sâu việc trước ba nghìn người chết thảm thương trong vụ Twin Towers ở New York, ông Nhất Hạnh chẳng quặn lòng, lại nhân dịp ấy đưa những con số khổng lồ mấy trăm nghìn dân Bến Tre bị chết vì không quân Hoa Kỳ oanh tạc ! Cộng đồng người Việt Tị nạn đã phẫn nộ và phản ứng mạnh mẽ vụ tuyên bố tuỳ hứng này.

    Ông Nhất Hạnh giải quyết “chính trị thế giới” hay “đạo lý thế giới” như vậy quả là “tuyệt tác”. Song không kém phần ngây thơ nếu không nói lẩm cẩm. Giá dụ cách thế ấy là chìa khoá cho nhân loại đại đồng, hẳn trái đất đã là Thiên đường hay Niết Bàn từ bao đời, Chúa Jesus, đức Phật, Khổng Khưu, Lão Tử… chắc đã lấy hưu non từ lâu ?

    Tôi bỗng nhớ lời Mai Thảo phê bình cuốn sách “Nói với Tuổi Hai mươi” [8] của Nhất Hạnh trên tạp chí Nghệ Thuật. Cuốn sách gây sôi nổi một thời trong giới trẻ ở Saigon, mà mục tiêu nhằm đánh phủ đầu Phạm Công Thiện với ý thức nổi loạn chống thế hệ cha anh làm cho đất nước điêu linh hai mươi năm trường, mà họ Phạm viết trong sách “Ý thức Mới trong Văn nghệ và Triết học”. Ông Nhất Hạnh khuyên Tuổi Hai Mươi “ Thương nhau, chúng ta sẽ tìm thấy con đường. Thương nhau, chúng ta sẽ làm nên lịch sử”. Mai Thảo phê thứ triết lý ấy khác chi nói “sau cơn mưa trời sẽ nắng” ! Còn Bùi Giáng thì phản ứng bằng bài viết “Nói với tuổi Chín mươi”.



    48. Lê Thị Huệ: Ông Nhất Hạnh là người Việt đầu tiên thành công trong việc mang Phật Giáo Việt Nam ra cùng thế giới ? Ông có đồng ý với điểm này không ?

    Võ Văn Ái : Vâng, trong số hàng trăm Tăng Ni Việt ra hải ngoại hoạt động tôn giáo hơn ba chục năm qua, thì ông Nhất Hạnh và bà Thanh Hải Vô thượng sư coi như nổi tiếng nhất trên thế giới.

    Một nhận xét mà tôi thường suy nghĩ vẫn chưa tìm ra lời đáp, là khi các nhà tôn giáo lớn Ấn Độ (Vivekananda, Krishmanurti…), Trung quốc (Thái Hư Đại sư…), Nhật Bản (Suzuki, và rất nhiều Thiền sự được gửi ra nước ngoài), Tây Tạng (Đức Dalai Lama) sang phương Tây hoạt động, họ góp công nói lên niềm tin phương Đông họ theo đuổi, vén mở các điều Tây phương còn mù mờ. Những điều Tây phương cần thông tỏ cho việc tỉ giảo và hoà đồng. Không bao giờ các vị này móc nối các tín ngưỡng Tây phương vào pha trộn với giáo lý của họ.

    Trái lại, ông Nhất Hạnh cũng như bà Thanh Hải Vô thượng sư thì luôn nỗ lực ghép đức Phật vào với Chúa Jesus để truyền đạo. Một nỗ lực hoà đồng tôn giáo ? Muốn lôi cuốn tín đồ đạo khác thần phục mình ? Muốn làm Giáo chủ cả hai tôn giáo ?



    49. Lê Thị Huệ: Là một trí thức ngang ngửa với Nhất Hạnh, đã từng là bạn của Nhất Hạnh, ông cho tôi hỏi một câu, sự thành công, cái hấp lực của ông Nhất Hạnh nằm ở đâu, ở điều ông ấy viết hay như một nhà thơ, hoặc ở lời ông ấy giảng hay như một ông thầy chùa.

    Võ Văn Ái : Sự thành công đặc biệt của ông ấy kết hợp giữa tài văn thơ với bộ áo ông thầy tu. Cổi bộ áo thấy tu ra, ông sẽ không thành Krishmanurti. Chuyện tuy phụ nhưng thành yếu tố chủ yếu cho sự thành đạt của ông ta, đó là âm hưởng của cuộc nổi dậy Phật giáo năm 1963 cộng với sự vang động chiến tranh Việt Nam trong lòng thế giới.

    Mặt khác, hiện nay, từ cuối thế kỷ XX sang đầu thế kỷ XXI nhân loại lâm cuộc khủng hoảng văn hóa và tinh thần rất lớn. Con người khao khát một niềm tin, chờ đợi một niềm tin. Ai dám đứng ra chỉ đường dẫn lối, mang lại một niềm tin, tất con người nối đuôi đi theo. Ở Mỹ chắc chị nhớ phong trào ông Guru Rajneesh, người Ấn độ, chứ ? Đã có thời ông ta lôi kéo hàng chục hàng trăm nghìn người theo ông tu học, kể cả giới thượng lưu bác sĩ, kỹ sư, luật gia… nối đuôi xe Limousine đến học đạo với ông... Cho tới ngày ông ta bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ, phong trào mới chấm dứt.

    Nói gì đâu xa, cách đây không lâu, tôi có những bạn bác sĩ, kỹ sư, thương gia… bỗng một sớm bỏ vợ, bỏ con, bỏ nhà cửa đi theo bà Thanh Hải Vô Thượng sư. Mỗi lần bà này thuyết pháp có cả chục nghìn người đi nghe. Nghe nói người ta xin uống nước tắm của bà ấy ?! Đến khi bà để tóc, ăn mặc thời trang, lấy chồng, mà tín đồ vẫn cứ mê. Tôi có người bạn bác sĩ fan của bà ở Dallas nói với tôi rằng mỗi khi gặp khó khăn ông chỉ niệm danh hiệu bà là mọi sự qua khỏi. Đấy, niềm tin của con người. Tôi có dịp xem trên truyền hình Pháp về một phái thờ đá, thờ búp bê bên Mỹ. Xem ra cũng bộn tín đồ.

    Cái chính hiện nay là con người khao khát một niềm tin, chờ đợi một niềm tin, và con người còn vô minh. Chị đóng kịch giỏi chị sẽ tha hồ thu hút tín đồ làm nạn nhân. Chị đạo cao đức trọng, chị sẽ cứu vớt hàng hà sa số chúng sinh.



    ............



    55. Lê Thị Huệ: Tại sao 3 người Nguyễn Cao Kỳ, Nhất Hạnh, Phạm Duy được đưa về Việt Nam cùng một thời điểm. Có tin đồn là hai ông Nhất Hạnh và Đạt Lai Lạt Ma làm cho CIA ? CIA dùng các ông tôn giáo vào những mục tiêu chính trị của họ. Mà với tôi thì CIA hay không CIA thì chả có gì lạ. Nếu cái lý thuyết cả ba người Nguyễn Cao Kỳ, Nhất Hạnh, Phạm Duy cùng được CIA sử dụng thì ông có thấy “truyện” kiếm hiệp của Kim Dung làm sao hay hơn cốt “chuyện” này được. Câu hỏi này của tôi hơi lộng ngôn, ông có thể trả lời cách nào cũng được

    Võ Văn Ái : Truyện Kim Dung hay hơn chứ, nhờ tài ba người viết, nhờ kết cấu và nghĩa lý câu chuyện, nhờ kiến thức rốt ráo về y học, võ thuật, lịch sử và dự báo tương lai của cái xứ có trên một tỉ người. Khái niệm hắc bạch phân minh, bạn thù phân biệt bị Kim Dung đánh đổ, tức ông đánh đổ từ nền móng tư duy Cộng sản tha hoá. Vô Chiêu của Kim Dung là suy tưởng độc đáo trong văn học thập niên 60. Thời kỳ tâm tưởng thế giới bị chìm đắm hoang vu trong bi kịch nhân loại lưỡng cực phân tranh (dichotomy). Thời của vong thức nhị nguyên (dualism) ngự trị trên đỉnh đầu nhân loại.

    Còn ba người chị nhắc tên chỉ là cơ hội đưa đẩy của thế cuộc cộng với sự diễn dở. Nó là một màn “Múa Rối Nước” hiểu theo nghĩa đen.

    Nếu có CIA thì CIA cũng chỉ là lý do ngoại tại. Trong đời sống tương quan tương sinh của thế giới và con người, các ảnh hưởng qua lại là việc đương nhiên. Giỏi của người hành động là làm sao cho các ảnh hưởng qua lại mang lợi ích cho xã hội loài người thay vì tàn sát con người.

    Ông Nguyễn Cao Kỳ là một phi công, nhưng Việt Nam không phải phi trường. Tính chất vung vít của ông ấy ngày xưa như thế nào trên chính trường cải lương, hát bộ ở Saigon không còn là chuyện lạ.

    Ông Phạm Duy là nhạc sĩ, ông ấy cần sân khấu, cần hát và cần có người nghe. Nghệ sĩ nào không thế. Hải ngoại không muốn nghe ông hát nữa, thì ông về Việt Nam tìm người nghe. Thời trước tôi ngây thơ nghĩ rằng văn nghệ sĩ, các nhà làm chính trị, là người lãnh đạo quần chúng, hướng dẫn quần chúng những lúc xã hội hay đất nước gặp cơn nguy biến. Nên thập niên 70 nghe tin ông đến Mỹ, tôi mừng và viết thư cho ông ấy, đại ý nói rằng : Anh Duy ơi, tinh thần người hải ngoại hoang mang, sa sút, anh hãy hát lên cho mọi người hưng phấn. Ông hồi âm : “Tinh thần moi lúc này xuống tận bùn đen”. Lâu sau sang Paris, ông đến thăm tôi và thẳng thắn nói không mặc cảm : “Moi bây giờ chỉ dollariser thôi” (Tôi chỉ lo việc kiếm tiền). Trong chuyến đi tôi tổ chức cho ông hát Ngục Ca tại tám nước Châu Âu năm 1982, nhân trao đổi về Trường ca Con đường Cái quan và bài hát Mẹ Việt Nam, ông thổ lộ với tôi rằng năm 74 ở Saigon ông đã phác thảo Trường ca Trường Sơn để tôn vinh ông Hồ Chí Minh !

    Còn ông Nhất Hạnh nặng nợ với đạo Bụt của giáo phái ông, nên ông không xem chuyện cứu chúng sinh là chính. Ông sính làm Thầy, làm Tổ, và rất mê làm Bụt. Đây là chỗ khác với hai bậc Cao tăng ở Việt Nam - Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ . Mỗi người theo đuổi một cái Nghiệp trong đời, Nghiệp cho bản thân hay Nghiệp cho tha nhân.

    Giống các quốc gia Âu Mỹ, cả ba người Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Duy, Nhất Hạnh đều xem Việt Nam như một thị trường.



    56. Lê Thị Huệ: Chỉ nhân đây muốn hỏi ông một điều, tôi thấy thế giới này bị tan tành và chậm lụt bởi các nhóm Tôn Giáo ghê quá. Làm sao ông có thể thuyết phục tôi là tôn giáo mang lại cho trái đất niềm hạnh phúc và sự tiến bộ.

    Võ Văn Ái : Chị nói “các nhóm tôn giáo” tức muốn đánh đồng mọi tôn giáo, cho rằng mọi tôn giáo có chung phạm trù. Thực tế không phải vậy. Sự tiếp cận con người và tâm linh mỗi tôn giáo mỗi khác. Bối cảnh xã hội và văn hóa nơi phát xuất ra các tôn giáo cũng khác nhau. Nhưng dù sao đại quan có hai nhánh tôn giáo thần quyền, và phi thần quyền.

    Đúng phải viết Tông giáo. Do húy kỵ tên các vua chúa triều Nguyễn, nên chữ tông đọc trại ra tôn. Tông giáo là từ người Nhật dùng để dịch chữ religion của Tây phương. Tông là môi giới giữa hai thực thể. Chữ tổ tông ta thường nói, thì tổ là đầu tiên, tông là cầu nối tiếp theo. Religion / Tông giáo của Tây phương là cơ sở nồi liền con người với Thượng đế (vật chủ). Cho nên Tông giáo chỉ cho thần giáo.

    Phật giáo không là tôn giáo hiểu theo ngữ nghĩa Tây phương. Phật giáo không thần quyền. Phật không là Thượng đế, mà chỉ là đạo sư chỉ đường giải phóng nhân sinh ra khỏi vô minh, đau khổ, phát huy trí năng thành Trí tuệ Bát Nhã nhằm thực hiện cuộc giải phóng tối hậu - Giác ngộ. Hình tượng thường được nhắc nhở để giải thích Phật giáo : Chân lý là mặt trăng, Phật là ngón tay chỉ nẻo mặt trăng cho nhân sinh. Chớ đánh lầm ngón tay với mặt trăng.

    Thiển kiến tôi, cái xấu, cái sai lầm cho đến cái ác của tôn giáo là do tín đồ của tôn giáo ấy gây tạo ra.

    “Làm sao ông có thể thuyết phục tôi là tôn giáo mang lại cho trái đất niềm hạnh phúc và sự tiến bộ ?” - Thưa chị, thuyết phục là tuyên truyền, truyền giáo, cải đạo. Không ai thuyết phục được ai trên trái đất này. Con người đáo để chẳng vừa đâu. Đa số họ giả vờ đấy thôi. Mặt khác, mỗi người tự tìm lấy cho mình con đường giải phóng khỏi nhân sinh khổ lụy để thăng tiến đời sống tinh thần, tâm linh, trí tuệ siêu việt. Khi con người chí thành, không đạo đức giả, mọi sự tốt đẹp nẩy nở. Nói về kiến giải tâm linh, hẳn nhiên có nhiều cấp độ hay phương pháp. Tỉ như đứng trước một con bệnh, các y sĩ cho những toa thuốc khác nhau. Song trong các toa thuốc này duy nhất sẽ có một thần dược. Vấn đề là chọn cho ra thần dược.

    Truyền thống Hy Lạp dạy lý luận, Thiên chúa giáo dạy phải tin gì. Đây là tình trạng lưỡng đầu muôn thuở. Thiền Phật giáo quét sạch tất cả mọi khái niệm.

    Tôn giáo Tây phương chủ súy thần quyền. Đông phương gọi tôn giáo là Đạo, tức con đường. Nơi rừng rậm, đất hoang, chưa có con đường thì đôi chân con người phát quang mà đi. Lâu thành đường.

    Như trên tôi đã phát biểu một cách đơn thuần, rằng : “Đạo, như đạo Phật, là hiện thực sống trọn vẹn cuộc đời mình như một tồn tại toàn diện mới mẻ và giúp người khác phục hồi cái toàn diện của họ”.

    Thông qua tôn giáo, con người xã hội hoà nhập như nhiên để gột rửa sự vong tính. Tin hay không là quyền-thượng-đế-của-chị.

    Tiếp cận tôn giáo phần nào như tiếp cận thi ca. Thử lấy một câu thơ trong bài Buồn xưa của Nguyễn Xuân Sanh để suy gẫm. Cùng với Màu Thời Gian của Đoàn Phú Tứ, đây là một trong những bài thơ đẹp lạ của Nhóm Xuân Thu Nhã Tập. Nhóm gồm Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Xuân Khoát, mang tham vọng “Trí thức – Sáng tạo – Đạo đức, nối liền nguồn gốc xưa với những ước vọng nay” không được tiếp đón nồng hậu vì xuất hiện vào thời tao loạn Thế chiến thứ hai rồi cận kề cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945.

    Bài thơ của Nguyễn Xuân Sanh bị chê là “bí hiểm, hủ nút, nội dung rỗng tuếch theo điệu Dadaïsme, Surréalisme của Pháp”. Hủ nút hay không, bí hiểm hay không còn tuỳ ở trình độ thẩm thấu thơ của người đọc thơ . Đang lúc có nhiều người yêu thích hay được đọc nhan nhản những bài thơ Đường luật chỉnh tề trên báo chí, hiển nhiên người đọc thấy xa lạ với Buồn Xưa nên ít ai muốn ghé mắt.

    Đọc câu tôi trích trước đây : “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”, trong bài Buồn xưa của Nguyễn Xuân Sanh, ta cảm được gì ? Trước tiên là nhịp thơ cuồn cuộn của sông biển theo viễn trình nơi lòng dĩa vốn lũng đọng. Nhịp sông biển (hải hà) tưởng tuyến tính như sông trôi, bỗng quay vòng hướng mùa đi từng nhịp bốn : Xuân, Hạ, Thu, Đông. Hoá ra cái ta tưởng là thầm lặng, tĩnh mịch và co kín của đáy dĩa vẫn mang sức chuyển động theo cung điệu mùa màng. Mùa thả vào đấy từng đợt quả thơm mùi vị đất trời. Một dĩa trái cây thay đổi xuyên năm. Không đơn điệu, buồn chán như bức tranh tĩnh vật.

    Tả một dĩa trái cây thay đổi theo mùa như cuộc nhân sinh tươi thắm, vồn vã dâng người, thế là khéo. Thấy và hiểu câu thơ như vậy khiến ta thêm yêu thơ, muốn đi vào thơ nắm bắt những ý nhị hàm tồn còn dung dưỡng.

    Tôn giáo cũng vậy. Thoạt tưởng kỳ bí, cao kỳ, xa cách với cuộc đời náo nhiệt. Nhưng khi biết rằng tôn giáo tiếp giáp với hơi thở tồn sinh đưa ta tới những bến bờ không tạm bợ, làm sáng rỡ hồn tâm, hẳn ta sẽ thấy tôn giáo thực hữu, cần thiết như những bài thơ kia kéo ta ra khỏi chốn phù trầm.



    Lê Thị Huệ: Cám ơn nhà thơ Thi Vũ, nhà Tranh Đấu Nhân Quyền Võ Văn Ái đã đặc biệt dành cho gio-o cuộc phỏng vấn lịch sử và độc đáo này



    1.11.2009

    [8] Lá Bối, Saigon, 1966. Sách này ông Nhất Hạnh công khai đánh phủ đầu Phạm Công Thiện, một nỗ lực mô phạm nhằm ngăn chận dòng văn và cách sống nổi loạn của tuổi trẻ phủ nhận thế hệ cha anh của họ Phạm thông qua cuốn sách gối đầu của tuổi trẻ bấy giờ. Đó là cuốn “Ý thức Mới trong Văn nghệ và Triết học”. Sau này ông Từ Mẫn, Giám đốc nhà Lá Bối (tức cơ sở xuất bản của ông Nhất Hạnh), cho tái bản đã bị ông Nhất Hạnh rầy la.


    © gio-o.com 2009


    http://www.gio-o.com/ThiVu/LeThiHuePhon ... VanAi5.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Làng Mai - một di sản 'tranh cãi'?

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Làng Mai - một di sản 'tranh cãi'?
    ____________________
    BBC _ 3 tháng 5 2015






    Nhà nghiên cứu Phật học Võ Văn Ái từ Paris nêu quan điểm về di sản của Hòa thượng, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Làng Mai.

    Theo nhà vận động nhân quyền và tự do tôn giáo này, mặc dù giáo pháp Làng Mai đã đang thu hút được một số lượng đông đảo nhất định người theo, nhưng về thực chất, các dòng giáo lý mà Làng Mai xiển dương như "Tiếp hiện", hàm chứa những yếu tố "gây tranh cãi".

    Ông Võ Văn Ái nêu quan điểm:

    "Công trình của Hòa thượng Nhất Hạnh đang làm hiện nay đối với Làng Mai, tôi thấy nó chưa có xứng hợp được như phong trào Trấn hưng Phật Giáo vào đầu thế kỷ XX."






    'Là một thực tế'

    Về việc Làng Mai thu hút được đông đảo thiền sinh, tăng sỹ, phật tử quốc tế đi theo tu tập pháp môn của mình, nhà hoạt động bình luận:

    "Cái đó là một thực tế, tôi nghĩ hiện nay trong giai đoạn toàn thế giới chứ không phải riêng Việt Nam, sống trong một cuộc khủng hoảng về tinh thần và văn hóa, tất nhiên con người nào cũng hướng tới hướng thiện, thì người ta tìm cầu một cái gì mới mẻ và có thể thích nghi được với đời sống tâm linh, đời sống tâm hồn của con người...

    "Hoa Kỳ ví dụ bây giờ có những phái thờ viên đá mà cũng thu phục hàng trăm nghìn người, thì tôi thấy lúc này cái đó chỉ có thể hiểu được qua sự thiếu vắng về đời sống tinh thần và đời sống văn hóa, nó đang gây một cuộc khủng hoảng lớn trong thế giới.

    "Tất nhiên trong giai đoạn đó, ai cũng tìm cầu một cái gì mới, và bất cứ người ta tiếp cận được cái gì mới, thì người ta đến thôi.

    "Nhưng mà sự đông đảo đó nó không chứng minh được cái phẩm chất của một phong trào.

    "Bây giờ muốn đánh giá cái đó, phải tìm hiểu về vấn đề giáo lý của đạo Phật qua các thời kỳ, và xem rằng phẩm chất của Hòa thượng Nhất Hạnh nó có đáp ứng được đời sống tâm linh của con người nói chung và người Việt Nam nói riêng hay không.

    "Thế còn nhìn vào số lượng, thì bây giờ Giáo hội Phật Giáo ở Việt Nam của nhà nước quy tụ đến 40 nghìn tăng ni là đông lắm đấy chứ, nhưng mà sự quy tụ đó có nói lên được phẩm chất của Phật giáo Việt Nam hay không? Đấy là vấn đề", ông Võ Văn Ái nói với BBC.





    'Hai con đường, hai khác biệt'
    4 tháng 5 2015

    Nhà nghiên cứu Phật học và vận động cho nhân quyền, tự do tôn giáo Võ Văn Ái nói về sự khác biệt giữa Hòa thượng Thích Nhất Hạnh và một số hòa thượng thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong quan hệ với chính quyền và đảng cộng sản Việt Nam từ sau năm 1975 tới nay.

    Theo nhà hoạt động từ Paris, Hòa thượng Nhất Hạnh đã có con đường đi riêng khác biệt về bản chất với con đường của một số vị lãnh tụ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ sau năm 1975 tới nay, mặc dù dường như điểm chung của hai con đường ấy tới nay đều có một kết quả là chưa được sự 'chấp nhận' của chính quyền Việt Nam.

    Ông Võ Văn Ái nói:

    "Trường hợp Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất dưới quyền lãnh đạo tối cao của ngài Huyền Quang và Quảng Độ có bao giờ mà nhà nước chấp nhận đâu, từ đầu tới cuối.

    "Năm 1977, họ kết án hai ngài mấy năm tù, rồi từ đó trở về sau họ giải giới về quản thúc ở miền quê Thái Bình và Quảng Ngãi của hai ngài, chưa bao giờ, không bao giờ có một sự tiếp cận nào hết.

    "Mà chỉ có những kiến nghi bên phía Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất đòi hỏi quyền tự do tôn giáo, quyền sinh hoạt của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất, là một Giáo hội dân lập và truyền thừa có 2.000 năm lịch sử.

    "Còn bên phía tiếp cận của Hòa Thượng Nhất Hạnh thì nó khác, nó không giống, nó không đại biểu cho lập trường của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

    "Đó là chuyện có tính chất cá nhân của pháp môn Làng Mai, nó không đại biểu cho phật tử Việt Nam và cũng không đại biểu cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất.

    "Trường hợp của Hòa thượng Nhất Hạnh có thể gọi là sự tiếp cận với nhà nước Việt Nam, cái đó đưa tới sự thất bại như chúng ta thấy.

    "Còn trong trường hợp của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất không hề có sự tiếp cận.

    "Gần đây, khi đức Tăng thống Thích Quảng Độ tiếp bà Tổng lãnh sự Hoa Kỳ, ngài cũng tuyên bố rằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là giáo hội duy nhất đối lập với Đảng Cộng sản và không chấp nhận Đảng Cộng sản.

    "Là bởi vì cái đó đi ngược với giáo lý từ bi, trí tuệ của Đạo Phật," nhà hoạt động dẫn lời Hòa thượng Quảng Độ, nói.






    'Vắt chanh bỏ vỏ'?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong một lần đồng chủ trì trai đàn bình đẳng chẩn tế ở Sài Gòn khi về thăm Việt Nam.

    Nhà vận động nhân quyền và tự do tôn giáo đề cập vụ việc Hòa thượng Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn Làng Mai đã bị nhà nước Việt Nam phản ứng thông qua vụ hàng trăm tăng sinh và giáo thọ của Làng bị chính quyền trục xuất ra khỏi Tu viện Bát Nhã ở tỉnh Lâm Đồng hồi tháng 9/2009, chỉ một năm sau khi Thiền sư Nhất Hạnh có liền ba chuyến về nước hoằng pháp trong các năm 2005, 2007 và 2008.

    Ông Võ Văn Ái đưa ra bình luận vụ Bát Nhã nguyên nhân gây gián đoạn quan hệ giữa Làng Mai và chính quyền Việt Nam:

    "Trong từ ngữ mà người Việt hay nói gọi là 'vắt chanh bỏ vỏ' đó, thực ra Hòa thượng Nhất Hạnh đã có đơn xin với Bộ Văn hóa Hà Nội xin về từ năm 2000, và ông đã đưa tất cả những bài mà ông sẽ thuyết pháp cho Bộ văn hóa xem, thoạt đầu họ có hứa hẹn gì đó, nhưng đến phút chót, họ không cho về.

    "Nhưng năm 2005 thì họ cho về là bởi vì lúc đó Việt Nam bị đặt vào trong danh sách CPC (các quốc gia gây lo ngại đặc biệt), thành ra danh sách đó làm phiền nhà nước cộng sản lắm, thì nhà nước cộng sản mới dùng chiêu bài để rút tên mình ra khỏi danh sách CPC bằng hai sự kiện".

    Và nhà hoạt động đề cập việc Hòa thượng Nhất Hạnh được cho phép về thăm Việt Nam và thuyết giảng về phật giáo và giáo lý Làng Mai, cũng như việc nhà nước cho thả tự do một số ít nhân vật Phật giáo được cho là trực tiếp hay gián tiếp liện hệ với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trước 1975.

    Trong số đó, theo ông Võ Văn Ái, có hai vị đã bị kết án tử hình từ năm 1988 là Thượng tọa Tuệ Sỹ và Thượng tọa Trí Siêu (tức Thiền sư, Giáo sư Lê Mạnh Thát) và chính quyền tổ chức một hội thảo về Phật giáo Quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh.

    "Tất cả những cái đó để chứng minh cho Hoa Kỳ biết rằng không hề có đàn áp Phật giáo, và khi mà họ làm xong nhiệm vụ, khi mà Tổng thống (George W.) Bush đến Hà Nội cuối năm 2006, vào tháng 11, để dự Hội nghị APEC, thì món quà mà Tổng thống Bush đem về là rút Việt Nam ra khỏi danh sách CPC.

    "Khi đã làm xong công tác thành công, thì họ không cần đến người mà họ dùng trước nữa, 'được cá thì quên nơm', 'được chim thì quên ná', thành ra khi họ dùng xong rồi, thì họ không xem là gì cả, vì nếu họ tiếp tục, thì pháp môn Làng Mai sẽ phát triển từ từ ở trong nước, và điều đó Đảng Cộng sản không có thích.

    "Bởi vì họ không tôn trọng tôn giáo, thành ra khi họ dùng xong việc, thì họ bỏ thôi, có gì đâu, đấy là vấn đề rất dễ hiểu," nhà nghiên cứu Phật học và hoạt động nhân quyền nêu quan điểm.




    https://www.bbc.com/vietnamese/multimed ... gmai_part1
    https://www.bbc.com/vietnamese/multimed ... gmai_part2
Ngoc Han
Bài viết: 1586
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: Thích nhất Hạnh

Bài viết bởi Ngoc Han »

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Cuộc Đời Của "Ông Sư Nhất Hạnh"

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Cuộc Đời Của "Ông Sư Nhất Hạnh"
    ______________________
    Đan Tâm _ Thứ Tư, 21 Tháng 1 Năm 2009 01:24






    Ở VN, vào thập niên 60-70, không ai là không biết thầy Thich Nhất Hạnh. Khi sang Nhật chứng kiến một ngày lễ của người Nhật dùng hoa cẩm chướng đỏ và trắng tặng nhau. Thầy về Việt nam đã chế ra "Ngày Của Mẹ" và là tác giả bài "Bông Hồng Cài Áo" để vinh danh người "Mẹ" trong dịp Lễ Vu Lan. Mấy chục năm sau, trên đất Hoa Kỳ, "Ngày của Mẹ" và "Bông Hồng Cài Áo" vẫn còn được nhắc nhở trong các chùa vào dịp Lễ này..

    Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh là một người giỏi. Có người còn nói ông là một nhân vật Phật Giáo đứng hàng thứ nhì trên thế giới, chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma. Cũng nghe nói ông đã từng là Giáo sư dậy học ở trường Sorbonne bên Pháp, đã từng được mời đi giảng dạy về "Thiền" và "Phật Giáo" tại nhiều nơi trên thế giới như Nam Hàn, Trung Quốc và Hoa Kỳ…

    Ông sáng lập ra 3 tu viện ở Mỹ và tu viện "Làng Mai" ở bên Pháp. Rất đông người VN và ngoại quốc tu học taị đây. Ông đã giảng dậy mấy chục ngàn tín đồ về "Phật Giáo Nhập Thế". Ông đã viết trên 80 quyển sách và 10 quyển trong số đó đã được chọn là sách bán chạy nhất ở Hoa Kỳ. Tiền tác quyền của sách thu vào tới tấp biến ông thành một Thiền Sư giàu có. Điều đặc biệt, Thiền sư Nhất Hạnh luôn tự xưng là "Sư ông" và gọi Phật là "Bụt".

    Về quan điểm chính trị, Thiền Sư Nhất Hạnh có khuynh hướng thiên Cộng. Ngay từ năm 1967, khi rời nước để đi dự Đại Hội Phật Giáo, ông tham gia các cuộc biểu tình phản chiến ở Hoa Kỳ.

    Ông sống lưu vong tại Pháp, và lập ra Làng Mai ở vùng Tây Nam nước Pháp năm 1982 .

    Năm 1998, trong chương trình "Hiểu và Thương" của Làng Mai. Thiền sư Nhất Hạnh nhận lời cộng tác với Thượng Toạ Đức Nghi của Phât Giáo Quốc Doanh VN để mở các lớp nhà trẻ tại Bảo Lâm và Bảo Lộc. Thầy Đức Nghi đã đi Pháp thăm Làng Mai và đi Mỹ thăm Tu Viện Lộc Uyển của thày Nhất Hạnh để quyên tiền về xây Tu Viên Bát Nhã ở Lâm Đồng.

    Từ năm 2001 tới 2005, Thầy Đức Nghi và các đệ tử luôn tới Làng Mai để tu học và một số giáo thọ của Làng Mai cũng về Bảo Lộc, Lâm Đồng để giảng daỵ các khóa tu 5 ngày tại chùa Bát Nhã.

    Năm 2005, Thiền sư Nhất Hạnh hướng dẫn 200 thiền sinh về thăm VN và được Phật Giáo Quốc Doanh đem lọng vàng ra đón tiếp như một vị Hoàng Đế.

    Tháng 5/2007 Thiền Sư Nhất Hạnh được Nguyễn Minh Triết tiếp kiến tại phòng khách, phủ chủ tich Hà nội và đã cho phép Làng Mai Bát Nhã của Lâm Đồng tu học theo pháp môn Làng Mai của thầy Nhất Hạnh. Chính quyền Hà Nội cũng cho phép 4 cuốn sách của thiền sư được phép phát hành ở VN.

    Thiền sư dự tính phát triển tại VN "Dòng Tiếp Hiện Của Sư Ông" cho phép chư tăng ni được lập gia đình. Thiền sư cũng long trọng công bố "Giới Bản Ba La Đề Mộc Xoa Tân Tu" tai Viện Đại Học Tăng Già ở Nam Hàn ngay 31-3-03.

    Ngày 13/11/08 công an Lâm Đồng kết tội Làng Mai đã vi phạm pháp luật: Tấn phong giáo phẩm không thông qua GHPGVN, đề câp sai lạc vấn đề chính trị ở VN., và trang điện tử Làng Mai thông tin không chính xác về các sự kiện ở VN. Kết quả 400 đệ tử xuất gia cùng tập sự tu học pháp môn Làng Mai bị trục xuất ra khỏi Tu Viện Bát Nhã.

    Ngày 19/11/08 Hội Nghị Phật Giáo VN họp phiên bất thường tại Saigon với quyết định "Làng Mai" phải dời VN, tài sản sẽ giải quyết theo pháp luật tức là sẽ thuộc về nhà nước vì mọi thứ đều do Sư Quốc Doanh Thích Đức Nghi, với nhiệm vụ Quản Lý đứng tên. Buổi họp này, Làng Mai không được tham dự. Đó là kết quả của 3 năm hợp tác xây dựng Phật Giáo tại VN của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

    Phật pháp đòi hỏi người xuất gia phải tuyệt đối nghiêm khắc với bản thân mình, và tôn trọng "Giới Luật", giữ gìn "tinh giới", chế ngự 5 thứ giác quan, không va chạm với 5 thứ "dục lạc ".

    Người cư sĩ, tu tại gia phải giữ 5 giới: không sát sanh, không uống rượu, không nói dối, không tà dâm, không trộm cắp.

    Người mới đi tu phải giữ 10 giới., trong đó có; "không rờ tay tới tiền bạc hay đồ nữ trang…"

    Lên thêm 1 bực thì Tỳ Kheo nam phải giữ 250 giới, Tỳ Kheo nữ phải giữ 348 giới.

    Kinh Phật còn nhắc nhở: "Giữ Tinh Giới thì không buôn bán, đổi chác, sắm sửa nhà đất, nuôi người, tôi tớ, súc vật, kinh doanh'. Và "tu hành không được tham gia thế sự, giao hảo quyền quí, hèn hạ tâng bốc ,ngạo mạn coi khinh ".

    Các "Giới Luật" của nhà Phật, sư Thich Nhất Hạnh đều không tôn trọng: thầy quá giàu có, nhiều tiền bạc và là chủ nhân ông của Làng Mai và 3 Tu viện bên Hoa Kỳ. Thầy tham gia thế sự, đi biểu tình theo bọn phản chiến năm 1967. Thầy họp hành, giao hảo với Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nhà nước VN. Nhìn hình thầy đi dưới lọng vàng của bọn Phật Giáo Quốc Doanh, ai dám nghĩ Thầy là bậc chân tu?.

    Tuy nhiên cái tệ haị nhất là thầy ngạo nghễ, định phát triển ở VN "Dòng Tiếp Hiện của Sư Ông" cho phép tăng ni lập gia đình. Như vậy là đã phạm vào 2 chữ "Ái Dục" mà Phật Pháp tuyệt đối nghiêm cấm.

    Tương tự như sự chế hoá từ một ngày lễ tặng hoa cẩm chướng trắng đỏ của Nhật thành lối tặng hoa hồng trắng đỏ trong ngày Vu lan ở miền Nam trước đây, cái lối tu này thầy cũng bắt chước theo một phái theo đạo Phật Nhật bản, sư lấy vợ. Chỉ có điều thầy làm điều này hơi muộn, mấy chục năm sau khi có những điều tiếng bàn tán về mối quan hệ giữa thầy và người nữ đồng đạo với thầy trong căn nhà chung ở Paris. Người ta không tin rằng thầy chậm nghĩ đến thế. Có lẽ chỉ vì thầy muốn ở trong tâm trạng "…bất như đạo, đạo bất như đạo bất đắc"

    Nhưng khi đối chiếu tình trạng thầy về VN, có lọng vàng ra đón tận sân bay với ngày ra đi thì "cum cúp như mèo cụt đuôi", bỏ của chạy lấy người, thì quả tình rằng là không biết kết luận ra sao cho đúng về thầy.

    Chắc chỉ có thể nói rằng: từng đã dậy nhiều người rồi, thì chuyện bị VC đuổi âu cũng là bài học cuối đời cho…Sư Ông.

    Nam Mô A Di Đà….Bụt.!!




    https://www.saigonecho.com/main/tintuc/ ... index.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Sau Trí Quang sẽ tới Nhất Hạnh

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Sau Trí Quang sẽ tới Nhất Hạnh
    ________________________
    Lão Móc _ 2022-01-23






    Dẫn nhập:
    Theo tin của BBC thì Thiền sư Nhất Hạnh đã viên tịch tại Việt Nam, hưởng thọ 95 tuổi.

    Cách đây mấy năm, các diễn đàn điện tử toàn cầu phổ biến tin Thiền sư Nhất Hạnh rời chùa Từ Hiếu sang Thái Lan dưỡng bệnh. Nhà thơ châm biếm Nguyễn Đạt có làm bài thơ “Vịnh ảnh Thiền sư Nhất Hạnh” như sau:
              

    Má hóp. mồm hô, mắt thất thần
    Không còn sinh khí, khổ cho thân
    Vu oan giúp giặc tồi muôn thưở
    Nói xấu, phò ma tệ thập phần
    Vọng ngữ, tà dâm, đều có đủ
    Luân hồi, báo ứng, đã kề gần
    Trí Quang “đền tội” vừa đi trước
    Sám hối muộn rồi... nước đến chân.


              
    Bài viết sau đây sẽ trình bày những việc làm tà dâm, vọng ngữ của Thiền sư Nhất Hạnh, “chưởng môn nhân” của Phái Tiếp Hiện.





    Cách đây hai mươi mốt năm, ngày 9 tháng 11 năm 2001, khi Hoa Kỳ và cả thế giới đang khựng điếng, đau khổ vì bị khủng bố Al Queda phá hoại Trung Tâm Thương Mại tại New York, giết hại nhiều ngàn người. Tổng Thống G.Bush và cả thế giới quyết tâm tấn công bọn này tại Afganistan, thì ngày 25-9-2001, thiền sư Nhất Hạnh từ Pháp đến New York bỏ ra 45.000 USD, để đăng bài viết nhiều kỳ trên tờ New York Times (nguyên trang A5 và A22) vừa quảng cáo tên tuổi của mình vừa bịa chuyện vu cáo cho quân đội Hoa Kỳ và bàu chữa cho hành động khủng bố của bọn Al Queda là … vào dịp Tết Mậu Thân (1968) Không quân Hoa Kỳ đã tàn ác ném bom xuống thị xã Bến Tre phá hủy 300.000 căn nhà.

    Vì sao là một người tu hành mà thiền sư Nhất Hạnh lại làm một chuyện vọng ngữ là một trong những trọng tội của người tu hành như thế?

    Chưa hết, trong lúc Hoa Kỳ và liên quân đang tấn công Taliban để vây bắt tên trùm khủng bố Bin Laden thì thiền sư Nhất Hạnh lại cùng với Nhà nước Việt Cộng cùng lúc la làng phản đối.

    Chuyện này lúc đó có vẻ khó hiểu với một số người nhưng, sau khi biến cố tu viện Bát Nhã xảy ra mọi người mới vỡ lẽ là thiền sư Nhất Hạnh đã chơi trò... đánh đu với tinh Việt Cộng để tính chuyện xây dựng một Làng Mai thứ ba (tức tu viện Bát Nhã) ở Việt Nam, sau Làng Mai ở Pháp và Tu viện Lộc Uyển ở Hoa Kỳ!

    Theo bản tổng hợp “Hồ sơ vụ nhà nước CSVN đàn áp tu viện Bát Nhã” của ký giả Hoàng Anh Vũ được đăng tải trên các báo điện tử thì: “Cuối thập niên 90, Thiền sư Nhất Hạnh ngỏ ý được về Việt Nam thăm viếng và truyền đạo. Lộ trình chuyến đi hoằng pháp cùng nội dung những bài thuyết pháp từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1999 qua ba thành phố Hà Nội, Huế, Sàigòn, đã được đệ trình Bộ Văn Hóa nhà nước VN. Nhưng không hiểu vì cớ gì Hà Nội lại bãi bỏ chuyến đi vào phút chót.”

    Và, theo bản lên tiếng về Vấn đề Nhà cầm quyền cộng sản đàn áp, trục xuất chư tăng chùa Bát Nhã, Thượng Tọa Thích Viên Định đã viết như sau: “Năm 1998, nghe tin Thiền sư Nhất Hạnh dự định về Việt Nam hợp tác với nhà cầm quyền cộng sản, Hòa thượng Thích Quảng Độ đã viết thư đề nghị Thiền sư Nhất Hạnh, bằng những lời lẽ nhẹ nhàng, tế nhị, đại ý: “Việt Nam chưa có tự do, dân chủ, nhân quyền, đừng về hợp tác, buôn bán, làm ăn, coi chừng sập tiệm, sẽ mất cả chì lẫn chài!” Nhưng, Thiền sư Nhất Hạnh đã bất chấp lời khuyên của Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Thiền sư Nhất Hạnh vẫn nhất quyết...về nguồn!

    Ngày 23-1-2005, Thiền sư Nhất Hạnh cầm đầu một phái đoàn Phật tử gồm 190 người tháp tùng tới phi trường Nội Bài (Hà Nội). Tại đây, cả một đội ngũ đông đảo chờ đón, có rắc hoa thơm trên lối đi, có nhiều phóng viên tụ tập để phỏng vấn. Trong chuyến đi này Thiền sư Nhất Hạnh đã đi thuyết giảng từ Bắc vào Nam, thăm viếng quý vị lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh và ra mắt chính quyền VC. Tuy nhiên, Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Thượng Tọa Thích Tuệ Sĩ đã từ chối tiếp xúc.

    Khi trở lại Pháp, tại phi trường De Gaulle, ni sư Chân Không đã tuyên bố: “Tại một số chùa ở Việt Nam có cất giấu cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Hoà nên một số tu sĩ bị bắt giữ, chứ Nhà nước VN không có đàn áp tôn giáo.”

    Bình luận gia Lê Văn Ấn, tức nhà văn Kiêm Ái có viết về chuyến đi này của Thiền sư Nhất Hạnh như sau: “Để xoa dịu dư luận trong và ngoài nước về những vụ đàn áp tôn giáo rất tàn bạo tại cao nguyên Trung phần cũng như ngay tại Sàigòn đối với đạo Tin Lành và để khoe khoang có tự do tôn giáo, VC đã điều động Thiền sư Nhất Hạnh và vợ là ni sư Chân Không tức Cao Ngọc Phuợng, từ Paris, Pháp quốc, dẫn theo 200 đồ đệ về Việt Nam tuyên truyền cho chế độ VC và mạt sát gây chia rẽ hàng ngũ Phật Giáo, những hành vi trong quá khứ cũng như hiện tại của Thiền sư cho mọi người biết đây là một cán bộ chiến lược của VC”.

    Vậy, Thiền sư Nhất Hạnh là ai? Và quá trình hoạt động ra sao?

    • - Tên thật Thiền sư Nhất Hạnh là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại làng Minh Hương (Bao Vinh), huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
      - Pháp danh Trùng Quang, đã xuất gia tu học từ năm 16 tuổi với Hòa thượng Thanh Hạ Quý thuộc môn phái Tổ đình Từ Hiếu.
      - Đầu thập niên 1950, Đại đức Thích Nhất Hạnh học Trung học tại Huế.
      - Năm 1956, Đại đức vào Sàigòn học Đại học Văn khoa. Đỗ Cử nhân Văn khoa khoảng 1959.
      - 1960: Góp phần thành lập Viện Đại học Vạn Hạnh và sáng lập trường Thanh Niên Phụng sự Xã hội, nhà xuất bản Lá Bối.
      - Năm 1961, Viện Đại học Vạn Hạnh cử Đại đức Thích Nhất Hạnh du học tại đại học Princeton, tiểu bang New Jersey về môn Tôn giáo đối chiếu. Thời gian này Đại đức Nhất hạnh thường thuyết giảng về Phật Giáo tại Đại học Columbia với tư cách một nhà sư gốc Á châu.
      - Năm 1964, Thượng tọa Thích Trí Quang viết thư yêu cầu Đại đức Nhất Hạnh mau trở về nước để hỗ trợ cho Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong giai đoạn sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ. (Theo Bạch thư của Hòa thượng Thích Tâm Châu).
      - Năm 1966, Thượng tọa Thích Trí Quang phái Đại đức Thích Nhất Hạnh ra ngoại quốc kêu gọi chấm dứt chiến tranh, đòi quyền tự quyết, lập chính phủ hòa giải dân tộc. Đại đức Nhất Hạnh đến Pháp với tư cách Trưởng phái đoàn Hòa Bình của Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất tại cuộc Hòa Đàm Paris về Việt Nam. Mục đích của phái đoàn Phật Giáo do Đại đức Nhất Hạnh lãnh đạo là nói cho thế giới biết rằng: “Dân Việt Nam không muốn đánh nhau nữa, chỉ muốn ngồi xuống thương thuyết để đi tới một giải pháp hòa bình”.
      - Tháng 5-1966, Đại đức Nhất Hạnh định cư tại Pháp và tích cực tham gia các sinh hoạt phản chiến.
      - Từ năm 1968, sư cô Chân Không đã qua Pháp làm phụ tá cho Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, đã yểm trợ các công tác về hòa bình, về xã hội, về hướng dẫn các khóa tu học được tổ chức khắp nơi trên thế giới và giúp xây dựng và quản trị Làng Hồng rồi Làng Mai. Mỗi năm có hàng trăm thiền sinh trên thế giới về đây tu học. Chính Thiền sư Nhất Hạnh đã viết về ni sư Chân Không trong bài Ngày Em Hai Mươi Tuổi như sau: “Ni sư Chân Không đã có mặt với tôi bắt đầu năm 1968 cho tới bây giờ, đã yểm trợ tất cả các công tác về hòa bình, về xã hội của tôi một cách liên tục.”
      - Từ năm 1966, Thượng tọa Thích Nhất Hạnh bắt đầu hành xử như một thiền sư, ăn mặc nâu sòng, giản dị, mặc nhiên không còn ưa gọi Thượng Tọa nữa, cả họ Thích của các bậc tu hành thọ từ 250 giới trở lên cũng ít dùng tới. Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, trở thành Thiền sư Nhất Hạnh, nổi tiếng khắp thế giới. Theo tài liệu từ hhtp://www.langmai.org thì Thiền sư Nhất Hạnh đã cùng Sư cô Chân Không đi thuyết giảng Thiền học tại hàng chục quốc gia, kể cả Nga và các nước Đông Âu cũ.
      - Vào những năm 1970, 1971, lúc Phong trào Phản chiến đang lên cao, ông John Kerry, vốn là cựu chiến binh Hoa Kỳ tại Việt Nam đã cùng cô đào hát phản chiến Jane Fonda và thiền sư Nhất Hạnh tố chức nhiều cuộc biểu tình tại nhiều nơi trên khắp nước Mỹ để chống chiến tranh Việt Nam và làm áp lực với chính quyền Hoa Kỳ phải rút quân khỏi Việt Nam. Sau khi miền Nam bị miền Bắc cưỡng chiếm vào tháng Tư 1975, chính Tướng Võ Nguyên Giáp đã công nhận rằng: “Chính nhờ việc làm của John Kerry, Jane Fonda và Thích Nhất Hạnh mà miền Bắc mới thắng trận” (Tạp chí VNTP số 681). Trước đó, vào năm 1970, trong khi tham dự International Conference On Peace and Religion tại Tokyo, thiền sư Nhất Hạnh đã lợi dụng cơ hội này, sử dụng diễn đàn để mạt sát chính quyền miền Nam và lên án Mỹ xâm lăng. Khi được hỏi: “Làm sao để có hòa bình ở Việt Nam?” Thiền sư Nhất Hạnh đã trả lời như một đảng viên cao cấp của VC: “Chỉ cần giải giới quân đội miền Nam”. Thiền sư Nhất Hạnh còn đòi hỏi quân đội Mỹ phải rút ra khỏi miền Nam, ngưng oanh tạc Bắc Việt, thành lập chính phủ Hòa Hợp Hòa Giải tại miền Nam – giống y chang như đòi hỏi của CSVN.





    *

    Qua việc Thiền sư Nhất Hạnh về Việt Nam nhiều lần từ năm 2004 đến 2008 được tiếp rước linh đình. Thiền sư Nhất Hạnh đã được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tiếp tại Phủ Chủ tịch ở Hà Nội. Thiền sư Nhất Hạnh cũng đã cùng Sư cô Chân Không và một số tăng ni tới thăm Tướng Võ Nguyên Giáp. Thiền sư Nhất Hạnh đã làm lễ “Thủy lục giải oan bình đẳng cứu bạt trai đàn” tại chùa Vĩnh Nghiêm. Sàigòn, tại Quốc tự Diệu Đế, Huế và tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Sóc Sơn, Hà Nội.

    Và, đặc biệt, Thiền sư Nhất Hạnh đã làm lễ Truyền Đăng tại thiền viện Bát Nhã ở Lâm Đồng. Theo bài viết của ký giả Hoàng Anh Vũ thì: “Thượng Tọa Đức Nghi đã được Thiền sư Nhất Hạnh “truyền đăng” tại Mai Thôn vào năm 2006”. Bài viết này có cái tựa “Thiền sư Nhất Hạnh: kẻ đánh đu với tinh” vì chính ông Thượng Tọa Thích Đức Nghi này là kẻ đã qua Làng Mai năn nỉ, ỉ ôi Thiền sư Nhất Hạnh và sau đó, vào năm 2005 đã tuyên bố cúng dường tu viện Bát Nhã cho Thiền sư Nhất Hạnh, nay đã hiện nguyên hình... con tinh mà Thiền sư Nhất Hạnh đã đánh đu trong bao lâu nay!.

    Theo bài viết của ký giả Hoàng Anh Vũ thì: “Ngày 18-6-2008, Thiền sư (Nhất Hạnh) lại lên tu viện Bát Nhã nói chuyện với các đệ tử với đề tài “Thầy căn dặn”. Nhưng sau đó Thượng Tọa Thích Đức Nghi đem cắt đầu, cắt đuôi bài nói chuyện này chỉ còn để lại trong 5 phút và cho là Thiền Sư (Nhất Hạnh) đã coi thường nhà cầm quyền và Giáo hội Phật giáo địa phương, vi phạm quy chế Giáo hội Phật Giáo Việt Nam.”

    Mặc dù mở đầu bài viết, nhà báo Hoàng Anh Vũ chỉ tổng hợp và tường thuật nhưng câu văn lại có vẻ vô cùng chua xót như sau: “Thế là công lao của Làng Mai trong ngần ấy năm bị đổ xuống sông, xuống biển và đặt số tăng chúng Làng Mai đang cư ngụ tại tu viện Bát Nhã trước tình trạng cư trú bất hợp lệ!”





    *

    Ông bà ta có câu: “Gieo nhân nào, gặt quả đó”. Vào năm 2001, khi mọi người Việt Quốc gia tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại đều tỏ thái độ khinh bỉ đối với thiền sư Nhất Hạnh, người đã bất chấp tội vọng ngữ đã ra sức bênh vực bọn khủng bố trong biến cố 911 bằng cách tuyên bố trong thời chiến tranh Việt Nam, chỉ vì 7 du kích bắn máy bay Mỹ khiến không lực Hoa Kỳ đã ném bom tiêu diệt 300.000 gia đình tại thị xã Bến Tre, Tú Gàn tức Lữ Giang (đã chết) đã viết bài gây chia rẽ giữa Phật Giáo và Công Giáo và “giải vây” cho ông thiền sư “ngày ăn chay, đêm ngủ mặn” này bằng cách viết như sau: “Nhất Hạnh người dẫn đường hòa nhập quốc doanh. Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang vẫn còn nuôi tham vọng tiến tới thống lãnh Phật Giáo Việt Nam và từ đó tiến lên nắm chính quyền. Động lực đưa ra để thu hút Phật tử tiến tới mục tiêu đó là kích động lòng hận thù Thiên Chúa Giáo. Nhóm Giao Điểm và nhóm Đỗ Mâụ đang theo đuổi chiến thuật này, được một số báo chí và website thuộc hệ thống Phật Giáo Ấn Quang yểm trợ. Khẩu hiệu “kẻ thù ta không phải là người Công Giáo” đã được đổi thành “kẻ thù ta không phải là người Cộng sản, kẻ thù ta là Công Giáo.” (Sàigòn Nhỏ số 612, 9-11-2001).

    Tú Gàn, tức Lữ Giang đã láo khoét vu vạ cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất “chạy chọt” đế xin hòa hợp với Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh; trong khi chính Hoà Thượng Thích Quảng Liên đã được lệnh của VC “chạy chọt” để xin GHPGVNTN hoà hợp với Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh nhưng đã bị hai Hòa Thượng Huyền Quang, Quảng Độ từ chối.

    Thiền sư Nhất Hạnh đã bất chấp tội vọng ngữ, lớn tiếng vu oan giá họa cho Không lực Hoa Kỳ ném bom thiêu hủy 300 ngàn nóc gia ở thị xã Bến Tre trong Tết Mậu Thân 1968 nên đã bị quả báo là đã bị bọn Al Queda dùng phi cơ đánh sập hai toà nhà Trung Tâm Tâm Thương Mại ở New York sát hại hàng mấy ngàn người.

    Từng bước, từng bước thiền sư Nhất Hạnh đã được mấy anh lớn bên nhà cho phép đem “pháp môn Làng Mai” về nước để truyền bá. Và nhất là đem tiền bạc về xây dựng tu viện Bát Nhã với Rừng Phương Bối, xóm Bếp Lửa Hồng, thiền đường Tâm Bất Động, cư xá Phượng Vĩ, thiền đường Cánh Đại Bàng, công trường Bông hồng cài áo, cốc Lưng Đồi, cư xá Tâm Ban Đầu, cốc Trà Thơm... Chi phí của phật tử thập phương đóng góp nghe đâu lên tới 2 triệu Mỹ kim.

    Rốt cuộc “Làng Mai Bát Nhã, kịch bản trắng tay” đúng như cái tựa bài viết của luật sư Đỗ Thái Nhiên.

    Theo bài “Bàn Chuyện Thời Sự giữa BS Trần Xuân Ninh, Tuệ Vân và Khánh Vân ngày 9-10-2009 thì bà Khánh Vân cho biết đài BBC ngày 29-0-2009 đ4 loan tin rằng: “Sau các trục trặc, người của Làng Mai đã rút về Pháp hết, và còn lại chỉ là các tăng ni người Việt theo học pháp môn Làng Mai.” Và bà Khánh Vân nói tiếp: “Trước sự kiện này Khánh Vân không khỏi nghĩ rằng sư ông Nhất Hạnh ăn nói miệng lưỡi và những lời kêu gọi này không khác gì những lời kêu gọi của những nhà chính trị hải ngoại hô hào dân trong nước đấu tranh bất bạo động, cũng như các nhà dân chủ trong nước kêu gọi tương tự mà không hề xuống đường đòi quyền lợi cho dân khiếu nại kêu oan...”

    Trong bài “Bàn Chuyện Thời Sự...” hai bà Tuệ Vân và Khánh Vân có đề cập đến bài viết “400 Hạt Giống Bồ Đề” ca tụng tới tận mây xanh pháp môn Làng Mai Nhất Hạnh của bình luận gia Ngô Nhân Dụng của nhật báo Người Việt. Không biết hai bà này vô tình hay cố ý mỉa mai ông bình luận gia Ngô Nhân Dụng. Vì theo Lão Móc được biết thì rất nhiều người ở hải ngoại biết bình luận gia Ngô Nhân Dụng tức nhà thơ Đỗ Quý Toàn là một trong những Trưởng Lão vai vế của Phái Tiếp Hiện của Thiền sư Nhất Hạnh ở Hoa Kỳ.

    Chuyện “Thiền sư Nhất Hạnh: kẻ đánh đu với tinh” là chuyện dài nhân dân tự vệ. Xin hẹn kỳ tới.



    Lão Móc

    https://bacaytruc.com/index.php/11999-s ... gi-lao-moc
Trả lời

Quay về “Tội đồ”