Thích nhất Hạnh

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Hoa sen trong biển lửa? Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc?

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    Hoa sen trong biển lửa?
    Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc?
    ______________________
    Trần Anh Tuấn






    Thiền sư Nhất Hạnh là người Việt Nam được thế giới biết đến nhiều nhất.

    Khi Thiền Sư mất ngày 22.1.2022, nhiều nhân vật quốc tế lên tiếng phân ưu, như Đức Đạt Lai Lạt Ma, ái nữ mục sư Martin Luther King Jr. …, nhiều hãng thông tấn quốc tế loan tin, như AP của Mỹ, Reuters của Anh, AFP của Pháp..., nhiều báo chí quốc tế thông báo, như New York Times của Mỹ, Le Figaro của Pháp..., cũng như nhiều đài truyền hình và phát thanh quốc tế lên tiếng, như VOA của Mỹ, BBC của Anh, RFI của Pháp...

    Về phương diện hoằng dương Phật Pháp tại hải ngoại, công trạng của Thiền Sư Nhất Hạnh rất lớn, nhất là từ năm 1982 khi Thiền Sư lập ra Làng Mai ở Pháp.

    Nhờ Thiền Sư, Phật Giáo Việt Nam được thế giới biết đến với sự tôn vinh và thán phục. Bài viết ngắn gọn của Chân Văn đăng trong Văn Hóa Online-California ngày 22.1.2022 tựa đề “Đóng góp của Thiền sư Nhất Hạnh” đã ghi nhận đầy đủ về kết quả sâu rộng trên thế giới về phép tu do Thiền Sư xướng xuất.

    Tôi từng đến Tu viện Kim Sơn miền Bắc California và nghe Thiền Sư giảng về Phật Pháp. Kinh nghiệm cụ thể và thực tế đó giúp tôi hiểu được sự thành công và ảnh hưởng sâu xa của Thiền Sư trong quần chúng nhiều nơi trên thế giới, gồm Pháp, Mỹ, Anh, Đức, Hòa Lan, Tân Tây Lan, Thái Lan, Nhật Bản, Đại Hàn... hơn là ở Việt Nam và trong các cộng đồng gốc Việt tại hải ngoại.

    Lý do là chỉ người Việt mới biết cả hai mặt của một con người.
    • Một, là thiền sư Phật Giáo.
    • Hai, là người hoạt động phản chiến.

    Là thiền sư, Thích Nhất Hạnh giảng giải sinh hoạt của nhân loại trong đời sống thường nhật. Thiền Sư tạo ra những câu kệ cho đệ tử thực tập “khi rửa chén, quét nhà, ăn cơm, uống trà, lái xe, dùng điện thoại hay computer, hoặc đánh răng, đi cầu...”

    Thiền Sư giảng giải với ngôn từ dễ dàng, đơn giản, và cụ thể nên thấm ngay vào lòng người. Kinh nghiệm nghe Thiền Sư giảng Pháp cũng giúp tôi biết Thiền Sư là một trong hai người Việt cực kỳ thông minh mà tôi gặp được trong đời. Vị kia là giáo sư Nguyễn Thế Anh tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trong thập niên 1960-70 thời Việt Nam Cộng Hòa.

    Nhưng ngoài việc tu hành, Thích Nhất Hạnh còn là người hoạt động chinh trị rất tích cực.

    Nguyên năm 1965, một nhóm phản chiến Mỹ sang Việt Nam và tiếp xúc với ba lãnh tụ Phật Giáo lúc bấy giờ là Thích Trí Quang, Thích Tâm Châu, và Thích Nhất Hạnh. Sau đó, họ có ý tổ chức cho một trong ba người sang Hoa Kỳ tuyên truyền để mục đích phản chiến của họ thêm hữu hiệu. Họ nhắm Thích Nhất Hạnh vì trước đó, Thích Nhất Hạnh đã viết thư làm quen với mục sư Martin Luther King, Jr.

              

    Hoa sen trong biển lửa (Thư viện TAT)

              

    Lời bạt nơi cuối sách Vietnam Lotus in a Sea of Fire do Alfred Hassler, Giám Đốc Điều Hành tổ chức The International Committee of Conscience on Vietnam (Ủy Ban Lương Tri Quốc Tế về Việt Nam) viết, tiết lộ đầy đủ và rất chi tiết những hoạt động phản chiến trong ba tháng 5-8.1966 của Thích Nhất Hạnh tại Mỹ và các nước Âu Châu do Ủy Ban sắp xếp, vận động, bảo trợ, và tài trợ.

    • Đầu tiên, giáo sư George Kahin tại đại học Cornell gửi giấy mời Thích Nhất Hạnh sang Cornell diễn thuyết về đề tài The Renaissance of Vietnamese Buddhism, hay Sự Hồi Sinh của Phật Giáo Việt Nam. Nhờ đó, Thích Nhất Hạnh được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho phép xuất ngoại sang Hoa Kỳ trong ba tuần.

      Nhưng đến Mỹ, Thích Nhất Hạnh cùng nhóm của ông đã ở sẵn Hoa Kỳ được Ủy Ban, một tổ chức phản chiến, bảo trợ và tài trợ để cả nhóm Thiền Sư đi khắp thế giới tuyên truyền phản đối chiến tranh Việt Nam.

      Tại Hoa Kỳ, Ủy Ban tổ chức cho Thích Nhất Hạnh đến nhiều tiểu bang, xuất hiện liên tục trên các đài truyền hình và truyền thanh địa phương, cùng trả lời phỏng vấn của các phóng viên báo chí.

      Ủy Ban còn tổ chức cho Thích Nhất Hạnh gặp gỡ giới trí thức Mỹ và các viên chức quốc tế cao cấp tại Liên Hiệp Quốc, cùng tiếp xúc với giới dân biểu Hạ Viện và nghị sĩ Thượng Viện Hoa Kỳ. Cuối cùng là gặp Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara. Riêng việc vận động để Thích Nhất Hạnh được Tổng Thống Johnson tiếp kiến bất thành vì đến ngày hẹn thì Thích Nhất Hạnh chỉ được gặp một viên chức nhỏ vô danh thuộc Bộ Ngoại Giao, còn Tổng Thống Johnson thì bận hướng dẫn khách du lịch viếng thăm Tòa Bạch Ốc!

      Sau Hoa Kỳ, Ủy Ban tiếp tục bảo trợ và tài trợ cho nhóm Thích Nhất Hạnh sang Âu Châu, lần lượt đến Thụy Điển, Đan Mạch, Anh, Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Đức, Hòa Lan, và Bỉ. Tại Ý, Thích Nhất Hạnh được vận động để gặp Đức Giáo Hoàng Paul Đệ Lục.

      Hành trình kết thức, Thích Nhất Hạnh và nhóm của ông dừng chân tại Paris để viết Vietnam Lotus in a Sea of Fire. Do đó, tôi tin rằng chi phí in ấn sách này cũng do Ủy Ban xuất túi.


    Sách được in tại New York năm 1967 do công ty Hill and Wang Inc. sản xuất, khổ nhỏ, dầy 115 trang. Giá bán rất rẻ $1.25 cốt để sách được nhiều người mua đọc.

    Sách là những trang thông tin tuyên truyền bất kể sự thật về chính quyền VNCH trong hai thập niên 1950-60. Hai chính phủ bị Thích Nhất Hạnh lên án nặng nề nhất là chính phủ Ngô Đình Diệm và chính phủ Nguyễn Cao Kỳ.

    Sách ca tụng Hồ Chí Minh tại miền Bắc đồng thời kết án Ngô Đình Diệm tại miền Nam.

    Có khi nội dung sách chỉ là một nửa của sự thật. Như cuộc điều tra của Ủy Ban Liên Hiệp Quốc, tác giả Thích Nhất Hạnh đề cập đến những tố cáo của các tỉnh hội Phật Giáo mà không ghi lại sự thật về công cuộc điều tra của Ủy Ban.

    Nguyên đầu tháng 9.1963, 16 quốc gia trong Liên Hiệp Quốc đệ trình một tuyên cáo lên án chính phủ Ngô Đình Diệm vi phạm nhân quyền trong vụ Phật Giáo. Để trả lời, chính phủ Ngô Đình Diệm đã mời Liên Hiệp Quốc gửi một Ủy Ban đến Việt Nam tìm hiểu sự thật và cam kết sẽ hợp tác chặt chẽ với Ủy Ban. Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chấp thuận lời mời và ngày 11.10.1963 một Ủy Ban được thành lập để sang Việt Nam Cộng Hòa điều tra, gồm đại diện của bẩy quốc gia, là Afghanistan, Brazil, Costa Rica, Dahomey, Morocco, Ceylan, và Nepal. Ngày 9.12.1963 phúc trình của Ủy Ban hoàn tất và chỉ lưu hành nội bộ tại Liên Hiệp Quốc.

    Phúc trình bao gồm những lời khai và tài liệu thu thập ở Việt Nam mà không hề có nhận xét hay kết luận của Ủy Ban. Nhưng người đọc sẽ hiểu công cuộc điều tra của Ủy Ban chỉ thấy những cáo buộc Phật Giáo bị đàn áp thật ra là sự thổi phổng đầy ác ý và tuyên truyền gian trá. Nói như đại sứ Fernando Volio Jimerez của Costa Rica trong Ủy Ban, là
    • “... không hề có chính sách kỳ thị, đàn áp, ngược đãi đối với Phật giáo... Những sự việc mà các nhân chứng viện dẫn chỉ có tính cách cá thể, chứ không phải là chính sách của chính phủ đối với Phật Giáo trên căn bản tôn giáo.”

    Sách ca tụng những người Công Giáo “cấp tiến” chống chính phủ Ngô Đình Diệm, như tuyên cáo ngày 1.1.1966 của 11 linh mục đòi hỏi chấm dứt chiến tranh đem lại hòa bình cho đất nước. Tác giả Thích Nhất Hạnh không cho biết chi tiết về tuyên cáo đó, nhưng tác giả vô tình cho biết hàng giáo phẩm Công Giáo đã kết án nhóm 11 linh mục là ủng hộ và tạo thêm sức mạnh cho chủ nghĩa Cộng Sản (supporting and strengthening communism, trang 31).
              
    Điều quan trọng nhất của sách Vietnam Lotus in a Sea of Fire
    tuyên truyền cho Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN)
    trên trường quốc tế, nhất là trong chính quyền, trí thức và dân chúng Hoa Kỳ.

              
    Nơi trang 31, tác giả viết nguyên văn:
    • “In fact, the people of Vietnam generally are fed up with the whole absurd war, and if there are those who still fight valiantly in the National Liberation Front, it is because they are convinced it is the only way to secure their independence, and not because of any ideological alignment.
      (Thật ra, người dân Việt nói chung đã chán ngấy cuộc chiến tranh phi lý, và nếu có những ai còn chiến đấu oai hùng trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thì chỉ vì họ được thuyết phục đó là phương cách duy nhất để nắm giữ nền độc lập của họ, mà không liên hệ gì đến một ý thức hệ nào.)

    Phần Phụ Lục của sách cho biết thêm chủ trương thiên Cộng của Thích Nhất Hạnh.

    1. Thứ nhất, trong Phụ Lục Comments by Thich Nhat Hanh on some frequently asked questions about Vietnam, Thích Nhất Hạnh tuyên bố nhiều điều lộ rõ mục đích của ông, là tiếp tay cho Cộng Sản Bắc Việt. Bản tuyên bố có 13 điều.
      • Điều thứ 8 ghi nơi trang 103:
        Anticommunism has become a business in Vietnam.
        (Chống Cộng đã trở thành một thương vụ tại Việt Nam.)
      • Điều thứ 11 ghi nơi trang 104:
        Honor has been greatly harmed by the failure of South Vietnam to honor the Geneva Agreements.
        (Danh dự (của miền Nam) đã bị tổn hại rất lớn vì miền Nam không tôn trọng Hiệp Định Geneve.)
      • Điều thứ 13 ghi nơi trang 105:
        ... North Vietnam justifies the presence of its troops in South Vietnam by two things: the violation of the Geneva Agreements provision for elections to unify the country, and the presence of the U.S. troops.
        (Miền Bắc biện minh được cho sự hiện diện của binh đội tại miền Nam là vi hai điều: sự vi phạm (của miền Nam) về điều khoản bầu cử để thống nhất đất nước theo Hiệp Định Geneve, và sự hiện diện của quân đội Mỹ.)
    2. Thứ hai, trong Phụ Lục Remarks to His Holiness, Paul VI, July 16, 1966, Thích Nhất Hạnh thỉnh cầu Đức Giáo Hoàng sang Việt Nam để giúp chấm dứt việc Mỹ ném bom miền Bắc.
      Nguyên văn nơi trang 109:
      His high presence, first in Hanoi and then in Saigon, might lead to a pause in the bombings.
      (Sự hiện diện cao quý của Ngài, đầu tiên ở Hà Nội rồi ở Sài Gòn, rất có thể sẽ đưa đến việc ngưng ném bom.)


    Viết sách còn là dịp tác giả Thích Nhất Hạnh sử dụng ngôn từ bất xứng, gọi tục danh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm miền Nam, như nguyên văn nơi trang 50:
    • “The last-named of these (tức Nguyễn Tường Tam, TAT chú thích)... committed suicide during the Diem regime when he was called to trial by Diem.”
      (Người có tên cuối cùng... đã tự tử trong chế độ Diệm khi ông bị Diệm đưa ra tòa.)

    Nhưng ngay sau đó, Thích Nhất Hạnh trịnh trọng đặt tiểu tựa, nguyên văn nơi trang 52 về Hồ Chí Minh ở miền Bắc:
    • HO CHI MINH, A NATIONAL HERO.
      (Hồ Chí Minh, một anh hùng dân tộc.)

              

    Hồ Chí Minh, một anh hùng dân tộc...

              

    Chưa hết, tiếp sau trang vinh danh lãnh tụ Cộng Sản Hồ Chí Minh, tác giả Thích Nhất Hạnh đưa tên Ngô Đình Diệm vào một tiểu tựa khác, nguyên văn nơi trang 55:
    • NGO DINH DIEM, A CATHOLIC DICTATOR.
      (Ngô Đình Diệm, một kẻ độc tài Thiên Chúa Giáo.)

    Vậy là bức tranh thời sự được trình bầy thật ngắn gọn khéo léo, đem mâu thuẫn tiếp nối liền nhau để làm nổi bật cái xấu với cái tốt, chính nghĩa với phi nghĩa.

              

    ... Và Ngô Đình Diệm, một kẻ độc tài Thiên Chúa Giáo!

              

    Hai tiểu tựa này có thể đưa độc giả đến kết luận.
    • Một, là tác giả lạm dụng ngôn từ.
    • Hai, là tác giả sùng bái ông bác Cộng Sản, và hàm hồ về tổng thống họ Ngô.

    Với nội dung sách Vietnam Lotus in a Sea of Fire kể trên, chính quyền Sài Gòn đương nhiên quyết định tống xuất Thích Nhất Hạnh ra Bắc nếu ở trong nước, còn đương sự đã thoát khỏi nước thì chính quyền đương nhiên cấm cửa. Mặt khác, vì Thích Nhất Hạnh liên hệ đã quá khăng khít với người Mỹ, chính quyền Hà Nội cũng không thể tin được con người ấy!
    Hoàn cảnh chính trị đó giải thích sự lưu vong bất đắc dĩ của Thiền Sư Nhất Hạnh trong hơn nửa thế kỷ!





    X
    X X

    Tôi từng có kinh nghiệm thế nào là bực chân tu. Nguyên thủa nhỏ, tôi thường được Bà Nội dắt theo khi đi chùa. Tại chùa Bửu Đà ở Hòa Hưng Sài Gòn, mỗi khi trông thấy Sư Cụ trụ trì từ hậu liêu tiến ra chính điện là lòng tôi tự nhiên êm ả và niềm tôn kính dâng lên. Cảm giác này lập lại mỗi lần tôi đi chùa Bửu Đà, và chỉ xảy ra với vị sư này mà thôi.

    Vì kinh nghiệm cá nhân như thế, tôi không thấy hình ảnh chân tu nơi con người Thích Nhất Hạnh.

    Không phải vì sách Vietnam Lotus in a Sea of Fire với nội dung thông tin tuyên truyền cho Cộng Sản mà Thiền Sư được bảo trợ và tài trợ xuất bản ở Mỹ.

    Cũng không phải những tuyên bố phản lại sự thật của Thiền Sư như vụ Mỹ bỏ bom hủy hoại thị xã Bến Tre.
    • (Tôi phải cải chính cho Thiền Sư Thích Nhất Hạnh về chuyện này. Khi thuyết giảng ở thành phố New York, Thiền Sư phát biểu:
      • “The city of 300,000 was destroyed because seven guerrillas shot several rounds of unsuccessful anti-aircraft gunfire and then left.”
      Nguyên văn như thế chỉ có nghĩa là hủy hoại thị xã Bến Tre với dân số 300,000 người, chứ không phải tiêu diệt 300,000 nhân mạng!


    Mà Thích Nhất Hạnh không phải là người xuất gia theo Phật vì ông còn rất VỊ NGÃ.

    Chuyện nhỏ là khi về Việt Nam, ông đội mão vàng mặc hoàng bào đi dưới bốn lọng với tiền hô hậu ủng khiến tôi liên tưởng đến thơ châm biếm của Tú Xương hồi đầu thế kỷ XX, so sánh sư mô với mán mường:
              
    Công đức tu hành sư có lọng,
    Xu hào đủng đỉnh mán ngồi xe.

              
    Ngày xưa, chỉ đường quan tức quan lớn tam phẩm trở lên xuất hành mới có bốn lọng và lính hầu như hình dưới đây.

              

    Bưu thiếp thời Pháp thuộc, người Pháp chú thích:
    79. Tonkin-Hanoi.Mandarin à 4 parapluies. Tong-Doc de Hanoi.
    (Thiệp số 79. Bắc Kỳ-Hà Nội. Đường quan 4 lọng. Tổng Đốc Hà Nội.)
    (Bộ sưu tập TAT)

              

    Chuyện lớn là ông căn dặn đệ tử, nguyên văn thế này:
    • “Đừng lấy một mớ tro từ hình hài của Thầy rồi bỏ vào trong một cái hũ, rồi đặt vào trong tháp. Không có lý Thầy chỉ là cái nắm tro ấy hay sao?
      Thầy là một thực tại linh động, đang sống, đang có mặt khắp nơi. Trong các sư chú và các sư cô đều có Thầy, trong các vị cư sĩ quen biết đều có Thầy. Ở chỗ nào mà có thiền hành, thiền tọa, có pháp đàm, có ăn cơm yên lặng là có Thầy!”


    Còn ai vị ngã hơn nữa?!



    Trần Anh Tuấn
    25 Tết Nhâm Dần
    (Kỷ niệm 27.1.1973 - 2022)




    https://nhatbaovanhoa.com/p186a11050/ho ... g-dan-toc-
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Hoa Sen trong biển tình

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Hoa Sen trong biển tình
    ___________________
    Nguyễn Châu





    Giữa "Mê và Ngộ" chỉ cách nhau 1 đường tơ!

    Nhất Hạnh là một thiền sư danh tiếng trong thuyết giảng và tập thiền, dạy cho nhiều người tu tập để được an vui và hạnh phúc. Thiền sư và sư cô Chân Không đã có một loạt 8 thiền viện tại Pháp và Hoa Kỳ.


              

              
    Thiền sư làm một chuyến đi để thực hiện tâm nguyện chuyển hóa tuổi trẻ và đồng bào trong nước.
    • “Bây giờ, sau mấy chục năm hoạt động, kinh nghiệm của tôi đã trở nên giàu có hơn. Tôi nghĩ rằng, nếu tôi có cơ hội về nước, thì công việc mà tôi muốn làm là tiếp xúc với tuổi trẻ và đồng bào, để tổ chức những ngày tu học, những khóa tu học, để người ta có dịp nhìn lại bản thân, tu tỉnh lại, chuyển hóa, hàn gắn những vết thương trong lòng mình, gây lại hạnh phúc trong gia đình mình...”
      (Nhất Hạnh, “Kiều và Văn Nghệ Đứt Ruột” trang 344 phụ lục).

    Tâm nguyện này chính là một vọng nghiệp lớn lao làm cho thiền sư Nhất Hạnh mất luôn chỗ đứng của mình trong mấy chục năm qua mà “thầy” tự nhận là “kinh nghiệm đã trở nên giàu có hơn”.

    Vọng nghiệp lớn lao là vì số kinh nghiệm giàu có mà thiền sư Nhất Hạnh tự thấy là đã có, lại không thể ứng dụng tại một nơi mà đại bộ phận dân tộc cơm không có ăn, áo không đủ mặc, nhà cửa tồi tàn rách nát, nơi mà người dân phải chạy ăn từng bữa toát mồ hôi nhưng chưa chắc có ăn, thì làm sao mà tập thiền? Căn cơ và hoàn cảnh nhân dân Việt Nam làm sao có thể đem kinh nghiệm từ các quốc gia mà cái ăn cái uống thừa mứa, sự đi lại tự do thoải mái, không có bóng dáng công an khu vực, của các nước Âu, Mỹ? Phật dạy phải tùy căn cơ mà độ. Độ không tùy duyên là “phi pháp” [Pháp của Phật].

    Chuyến đi Việt Nam của thiền sư Nhất Hạnh và hơn một trăm “tăng thân” Làng Mai, được chính phủ Cộng sản Việt Nam gọi một cách trân trọng là “Phái đoàn Phật giáo Quốc tế” thăm Việt Nam và Nhà nước đã đón tiếp phái đoàn này một cách trịnh trọng và rùm beng. Có lẽ họ muốn nói cho Mỹ và Tổ Chức Human Rights Watch biết là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không hề có chuyện đàn áp tự do tôn giáo, không hề chặn đường chặn sá Hòa Thượng nào cả.


              

              
    Phái đoàn đã đến Hà Nội trước, rồi từ từ mới xuôi Nam... Tại Hà Nội, thiền sư Nhất Hạnh đã hóa thành Hòa Thượng khi giảng tại chùa Quán Sứ. Thiền sư đã biến mất trong chiếc y vàng, dưới lọng vàng rực rỡ ... sinh hoạt rất rình rang vì cần phải “phô trương” với quốc tế, để nói cho tòa Đại sứ Hoa Kỳ biết là rõ ràng Việt Nam hoàn toàn có tự do tôn giáo!

    Hòa thượng Thích Nhất Hạnh đến Huế. Sư cô Chân Không kêu gọi các Thượng tọa Huế như Thích Thiện Hạnh, Thích Trí Tựu vân vân ... lập phái đoàn ra sân bay Phú Bài đón tiếp, nhưng chẳng ai nghe theo. Bởi Huế là cái nôi của Phật giáo tranh đấu chống Nhà nước đàn áp và cô lập giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, làm sao thầy Thích Thiện Hạnh lại có thể đi đón phái đoàn Phật giáo của sư ông Nhất Hạnh đang được Nhà nước sủng ái? Có chăng chỉ một vài vị ở chùa Từ Hiếu ra đón Thích Nhất Hạnh.

    Khi phái đoàn đến Sài Gòn, thì người ta không tìm thấy thiền sư Nhất Hạnh nữa! Tại chùa Già Lam, có sư ông Thích Nhất Hạnh, đắp y vàng, che lọng vàng, đợi trước cổng tam quan, chờ sư cô Chân Không vào thương lượng với tăng chúng trong chùa về nghi vệ đón rước sư ông vào chùa.

    Sư cô Chân Không yêu cầu chùa cử chư tăng mang lư trầm, lẵng hoa, ra rước sư ông vào và yêu cầu gióng chuông trống bát nhã khi sư ông bước qua cửa tam quan. Các nghi thức rước sư ông theo yêu cầu của sư cô Chân Không bị từ khước. Sư cô mặc cả: nếu không có chuông trống bát nhã, thì xin cho một bát nhang trầm và hoa bưng ra cũng được, nhưng cái tối thiểu này cũng không được đáp ứng. Lý do, chùa không mời sư ông, sư cô và phái đoàn, nên không có bổn phận đón rước theo nghi lễ dành cho các vị chân tu. Sư ông đến thăm thầy cũ của sư ông là Hòa Thượng Trí Quang đang trú tại chùa, không có quyền đòi hỏi nghi thức gì cả. Cuối cùng, sư ông, sư cô đành vào chùa không chuông không trống! và cũng không vào Chánh điện của chùa để lễ Phật nữa.
              

              
    Sư ông đã “đòi” vào thăm Thượng Tọa Tuệ Sĩ (nguyên là tử tội của chính phủ Hà Nội), nhưng thị giả của thầy ngăn lại. Một phụ tá của sư ông Nhất Hạnh đã yêu cầu đưa chìa khóa “thất” của thầy Tuệ Sĩ cho phái đoàn mở cửa, thật lỗ mãng. Dĩ nhiên là họ không được như ý muốn.

    Ở đây, chỉ xin nói đến các đòi hỏi rất chi là tục lụy đã làm cho sư ông Nhất Hạnh và sư cô Chân Không giảm mất hạnh nguyện tu trì. Thật vậy, sư ông và sư cô đắp y vàng và che những lọng vàng, lại muốn có lư trầm, lẵng hoa và chuông trống bát nhã để bước vào thăm chùa, thì thật đã không còn giữ đúng giới hạnh của hành giả Thiền đạo nữa! “Muốn có” lư trầm, lẵng hoa, có chư tăng trụ trì của chùa ra rước vào, rồi muốn có cả thanh âm của chuông trống bát nhã nữa, thì sư cô, sư ông đâu còn tỉnh thức và an trú trong thân, trong cảm thọ của mình nữa? Tâm của các vị đã “trụ vào pháp”, trụ vào “tướng” xem hình thức, nghi vệ là trọng.

    Kinh Kim Cang nói:
    • “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như lai”
      [Nếu do sắc thấy ta, vì âm thanh mà tìm ta, người ấy hành đạo tà, không thể thấy được Phật].
    Từ một thiền sư áo nâu, giờ đây,
    • sư ông, sư cô đều đắp y vàng, che lọng vàng tức “chấp” sắc tướng,
    • muốn có chuông trống bát nhã cho từng bước đi, là trụ vào hình thanh.
    Sư cô tên là Chân Không nhưng lại muốn CÓ đủ bốn thứ HÌNH, DANH, SẮC, TƯỚNG thì làm sao mà an trú trong bản thân, làm sao gọi là Chân Không?

    Hành thiền là khi hành giả đang làm gì, nói gì và suy nghĩ gì, đều phải ý thức rõ về những gì mình đang làm, đang nói và đang suy nghĩ. Thực hành thiền quán trong từng giây phút hiện tại để trở về với bản thân mình một cách trọn vẹn, không để ngoại cảnh lôi kéo. Nếu để cho ngoại cảnh lôi kéo thì niệm không thể nào chánh được, tâm trí sẽ không còn tỉnh thức nữa. Kinh “Tịnh Danh” nhắc nhở người tu hành phải trực tâm, không nên lòng tưởng điều tà vạy mà miệng nói điều ngay thẳng. Nếu thực sự giữ lòng ngay thẳng, chánh định, chánh niệm thì đối với tất cả các pháp, tâm đừng chấp trước (nghĩa là bám lấy hay vướng mắc vào các cảnh đời).

    Tâm không trụ pháp thì đạo mới thông lưu. Tâm trụ vào pháp, ấy là mình tự trói mình, hành giả không còn tự do, tự tại nữa. Phái đoàn Làng Mai trong chuyến về Việt Nam này
    • đã tự trói lấy mình vì vọng tâm,
    • và phải trụ vào “pháp tướng” theo sự điều động của tha lực đó là những thỏa hiệp với Nhà nước Cộng sản Việt Nam.


    Trong chuyến đi thăm Việt Nam lần này, sư ông Nhất Hạnh, sư cô Chân Không và các tăng thân làng Mai đã không giữ được sự tỉnh thức cần thiết của những hành giả, tâm của họ khởi nhiều vọng động, ít ai có thể an trú trong phép quán niệm thân thể nơi thân thể, cảm thọ nơi cảm thọ, tâm thức nơi tâm thức... một cách sáng suốt và tỉnh thức để loại trừ mọi lôi kéo của hoàn cảnh.
    Vì sao?
    Tại Việt Nam đâu phải như tại Hoa Kỳ và Âu Châu, muốn đi đâu thì bung ra mà đi, không xin phép ai, không có kẻ nào bên ngoài canh chừng ... Do đó, mọi việc xảy ra đều không lường trước được.

    Chuyến đi này của sư ông Nhất Hạnh có thể xem như chuyến từ giã vị thế một thiền sư nâu sồng đạo hạnh. Uy tín và tiếng tăm của nhà sư này đã giảm sút từ lần vọng ngữ 25-9-2001 tại New York về thành phố Bến Tre với ba trăm ngàn người bị máy bay Mỹ ném bom tiêu diệt (1), nay qua chuyến đi Việt Nam và những việc làm của sư cô Chân Không bên đó làm cho suy yếu thêm. Chuyến đi không “khế cơ, khế thời” đã gây thêm hệ lụy cho tăng ni Phật Giáo chân chính trong nước. Đúng ra sư ông không nên ôm tham vọng thống nhất Phật Giáo quốc doanh với với Phật Giáo Ấn Quang, các vọng động chỉ tạo thêm tỳ vết trong cuộc đời mà thôi.

    Sư ông Nhất Hạnh đã bị Hòa Thượng Thích Quảng Độ từ chối cuộc gặp gỡ, mặc dầu đã bốn lần cử người đến thương lượng. Mặc dù thất bại trong việc xin gặp, nhưng Website Làng Mai phát huy truyền thống vọng ngữ, đưa tin là Hòa Thượng Quảng Độ đã tiếp sư ông Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai “gần một giờ”.

    Bản tin do Chân Pháp Ấn viết. Đây là một sự lừa gạt dư luận hải ngoại của Sư đệ Chùa Làng Mai, khiến Thầy Quảng Độ phải lên tiếng nói lên sự thật. Vọng tâm đưa đến vọng ngữ là thế gia thường tình, nhưng lại tối kỵ đối với kẻ tu hành! Thế mà từ sư ông Nhất Hạnh, qua sư cô Chân Không đến các đệ tử Làng Mai như Chân Pháp Hiện, Chân Pháp Ấn ... đều nhất loạt “tỉnh thức và tinh cần” hành trì Vọng ngữ và Tà niệm, thì thật là một pháp môn kỳ lạ. Có người đưa ra nhận xét rằng: Sư cô Chân Không mà lại vói cao quá, hai vị Chân Pháp (Hiện và Ấn) thì quả nói dối đã đứng cao hơn chân Việt!





    ***
    Trong cuốn Thiền Luận, Thầy Tuệ Sĩ có trích một đoạn của một tác giả Phật Giáo Sử, nói về hiện trạng của thiền:
    • “Đọc kinh bây giờ ít thịnh hành hơn, còn học Thiền thì lại rất rầm rộ.
      Cái tệ hại của nó, quả thật, là những kẻ quê mùa dốt nát này, sau khi thăm viếng các Thiền viện và nghe các thiền sư giảng pháp, họ thích thú quá cỡ, và ít chịu suy nghĩ về tinh thần của giáo thuyết, tự cho mình là những bậc thầy, không những đã khinh miệt cả đức Phật mà còn coi nhẹ kinh điển và nội dung của kinh điển với những phát ngôn bừa bãi của họ. Quần chúng ngây ngô bị lừa dối và những bậc trọng vọng, nhưng vốn ít học, lại vui thích với những lời rỗng tuếch của các môn đệ Thiền.”
    Tuy đây là nhận xét có tính cách phiến diện về thiền, nhưng nó cũng đem lại một vài cảnh giác đáng lưu tâm khi tìm hiểu Kinh điển và áp dụng vào tu tập.
              
    “Y kinh nhất tự, tam thế Phật oan
    Ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.”

    [Căn cứ từng chữ của kinh sẽ oan cho ba đời Phật
    Nhưng xa kinh một chữ là cùng đi theo lời nói của Ma!]

              
    • Vậy thì phải tu tập cho bằng được sự tỉnh thức
      và coi chừng vị thầy truyền đạt pháp cho mình có thực sự tỉnh thức hay không.

      Bởi giữa “Mê và Ngộ”, chỉ cách nhau có một đường tơ!





    NGUYỄN-CHÂU


    (1) Chú thích của LTS: Chi tiết này xin xem bài viết của Gs Trần Anh Tuấn trên Văn Hóa Online-mục DIỄN ĐÀN
    https://www.nhatbaovanhoa.com/a11050/ho ... g-dan-toc-




    https://nhatbaovanhoa.com/p186a11064/ho ... -bien-tinh
Trả lời

Quay về “Tội đồ”