- 30/04/2020 - Tưởng niệm 45 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

có những người anh

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          







          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Đường Ra Vĩnh Phú

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Đường Ra Vĩnh Phú
    __________________________________
    Bích Huyền






    Ngồi trong toa của con tàu Thống Nhất, tôi vẫn chưa hoàn hồn. Tay khư khư ôm chặt chiếc túi xách trong lòng, tôi nhìn theo Diễm đang cố len lỏi tìm lối ra giữa những người đang đứng lố nhố tranh giành nhau xếp đồ đạc. Gần ra tới cửa, Diễm còn ngoảnh lại nhìn tôi, đôi mắt đỏ hoe. Tôi cũng khóc. Nước mắt tôi làm nhòa đi hình ảnh Diễm trong giây phút ngắn hai chị em chia tay nhau. Diễm như bị xô xuống khỏi con tàu...

    Xa xa, sân ga Bình Triệu dưới những ngọn đèn vàng vọt không đủ sáng, cảnh tượng vô cùng hỗn độn. Người đi, kẻ lại, người mang, kẻ vác... xô đẩy, chen lấn nhau. Tiếng la hét, tiếng gọi nhau í ới trên một khoảnh đất gồ ghề, tăm tối. Tôi cũng vừa từ đám đông đó lên đây. Bọn cán bộ nhà nước được lên tàu trước từ ga Phạm Ngũ Lão, trên những toa riêng hoặc những toa có giường nằm...

    ”Thật may, nếu không có Diễm đi tin thì làm sao mình còn đủ hành lý!” Lần đầu tiên tôi thấy Diễm khỏe quá! Hai tay hai túi xách nặng, cồng kềnh, chen đám đông phăng phăng mở lối cho tôi lên tàu. Bọn cướp giật trà trộn giựt xách tay, rạch ví, móc túi. Tiếng la thất thanh. tiếng chửi thề. Tiếng khóc, tiếng gọi nhau... tất cả tạo thành một âm thanh hỗn loạn. Thần kinh tôi như muốn đứt ra. Hai chị em chỉ kịp bám lấy song sắt của toa tàu là đã như có người đẩy lên rồi. “Kìa! Nó giựt đồng hồ của tôi!” “Trời ơi! Ví của tôi đâu mất rồi!” Mặc kệ. mạnh ai nấy chen. Chân tôi bị dẫm lên đau điếng. Áo quần tôi tả tơi, xốc xếch, đầu tóc rối bời.

    Giờ đây, tôi ngồi trên tàu, dưới kia cảnh tượng vẫn đang tiếp diễn...

    Tiếng còi hú vang báo hiệu sắp đến giờ khởi hành. Tiếng còi dài văng vẳng trong đêm tối. Ngày xưa còn bé, tôi đã từng được học những bài văn tả cảnh sân ga. Niềm vui sum họp, nỗi buồn chia ly. Tiếng còi tàu lanh lảnh âm vang trong lòng tùy theo tâm trạng của mỗi người. Lòng tôi hôm nay, tiếng còn nghe ghê rợn quá! Như tiếng rú, tiếng thét đe dọa những con người thất thế - như tôi - một thân một mình đi thăm nuôi chồng “học tập cải tạo” tại một nơi rừng sâu, nước độc tận cùng miền Bắc.

    Không có một bóng người đứng trên thềm ga đưa tiễn. Không có một ngọn đèn vàng lẻ bóng hắt hiu, như tiếng hát của nữ ca sĩ Thanh Thúy u buồn ngày nào trong một ca khúc tiễn đưa nào đó... Xa rồi, chỉ có hàng ngàn con người lam lũ, hối hả, vội vàng trên sân ga giành giựt tranh nhau từng miếng cơm sạn mốc, từng manh áo rách.

    “Giấy tờ đâu? Mở túi này ra!” Giọng hách dịch của tên kiểm soát. Rồi những khuôn mặt lạnh lùng của toán công an kinh tế phía sau. Một tên nghênh ngang cầm đèn pin, bất kể rọi vào cả mắt hành khách. Một tên cầm chiếc gậy ngắn, xấc xược thọc thọc vào hành lý của khách... Đến lượt tôi: “Giáo viên. Về Bắc nghỉ hè à? A, đi thăm nuôi chồng học tập cải tạo. Thăm nuôi tù thì nói mẹ nó ra đi. Học tập học tiếc cái nỗi gì với cái bọn ngụy ác ôn đó. Thôi, khỏi xét.” Lẽ dĩ nhiên, xét làm gì ba cái đồ lương thực. Họ muốn bắt những con buôn. Tôi cố nén tức giận, tủi hờn, và mừng rỡ nhận lại tờ giấy phép. Không có tờ giấy này tôi không thể vượt qua mọi cửa ải từ Nam ra Bắc. Chạy chọt hàng bao nhiêu nơi, chờ đợi hàng bao nhiêu ngày, tôi mới có được mảnh giấy đen thui này đây.

    Họ di chuyển xuống hàng ghế dưới, tiếp tục hạch sách, lục lọi. Và hành khách tiếp tục năn nỉ, van xin. Hàng hóa nào có nhiều nhặn gì cho cam! Chục mét vải. Dăm gói bột ngọt. Rổ rá nhựa, xô xách nước, bình nước mắm... Vậy mà có người vẫn khóc ngất khi bị tịch thu. Nồi cơm độn mì, độn khoai tay chỉ mong vào tiền lời nhỏ nhoi đã mất cả rồi.

    Tiếng máy xình xịch. Tiếng còi tàu rú lên từng hồi như thúc giục, như đồng lõa với những việc làm sai trái trên con tàu mang tên Thống Nhất Bắc Nam.

    Bên ngoài trời tối, không một ánh sao. Sương khuya lạnh buốt. Vài con đom đóm lập lòe. Chung quanh tôi, mọi người đều đã nằm ngủ la liệt. Người trải miếng ni-lông dưới chân ghế chật hẹp, người nằm ngả nghiêng trên đồ đạc, ngổn ngang chật cả lối đi. Võng mắc chi chít. Tiếng ngáy, tiếng thở mệt nhọc vang lên. Tôi mệt mỏi tựa đầu vào thành ghế gỗ. Có lẽ chỉ còn có một mình tôi thao thức nên thấy đường dài. Nhớ mẹ, nhớ con, nhớ nhà.

    Thế là tôi đã phải xa nhà, xa những người thân yêu, vượt mấy ngàn cây số, đi đến một nơi xa lạ. Làm sao tránh khỏi lo âu? “Thân gái dặm trường”, lời nói người xưa thật đúng tâm trạng của tôi bây giờ.

    Cũng trên quãng đường này, trong toa xe lửa của một thời xa lắc - thuở còn đi học - ánh mắt long lanh, giọng cười ròn rã reo vui suốt cuộc hành trình. Trại hè Nha Trang. trại hè Thống Nhất Huế. Trại hè sinh viên Huế-Saigon Đà Lạt. Mỗi mùa hè là một mùa tưng bừng hứa hẹn. Còn đâu nữa những tiếng cười khúc khích, tinh nghịch của các bạn tôi trong những đêm không ngủ? Các bạn học cũ của tôi, giờ phiêu bạt nơi đâu? Phạm Hữu Lộc, Bùi Thức Phước, Nguyễn Long Hải, Duy Trác... trong những trại tập trung cải tạo của Cộng Sản. Ấu Oanh, Hoàng Oanh, Ngọc Diệp, Kim Oanh... bán đứng buôn chạy quần áo cũ, thuốc tây. Hồng Thủy, Hồng Hảo, Ngọc Tâm, Hương Kiều Loan... ngàn trùng cách biệt.

    Tôi cố quên đi những gương mặt đang say men chiến thắng Nguyễn Đắc Xuân, Cao Thị Quế Hương, Kim Tuyến. Tôi ngậm ngùi thương tiếc Lê Hữu Bôi, bị thảm sát trong biến cố Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Bốn năm “giải phóng miền Nam” rồi, bốn năm quay cuồng, vật lộn với cuốc sống mới, có bao giờ được một vài phút suy tư ?

    Qua mỗi lần tàu ghé một sân ga, bất kể ngày đêm, hàng hóa rỡ xuống, chất lên nhanh chóng gọn nhẹ. Bọn chỉ huy đoàn tàu kết hợp cùng bọn công an kinh tế buôn bán thì còn sợ gì ai xét. Trong khi những người dân, hàng chỉ có một chút xíu thôi mà vẫn bị dòm ngó, hoạch họe đủ điều.

    Những giỏ soài Nha Trang của vợ chồng chú bộ đội ngồi trước mặt tôi đã biến mất. Những giỏ soài treo toòng teng trên đầu, những giỏ soài la liệt dưới sàn tàu đều trống trơn. Họ đã bán được khi trạm dừng rồi. Càng đi xa hơn thì hành lý trên tàu càng vơi nên hành khách còn có lối đi. Hành khách buôn dọc đường. Xã hội chủ nghĩa cấm buôn bán cá thể mà hầu như cả nước đều buôn. Cán bộ công nhân viên mua được nửa ký đường, lon sữa, mươi gam bột ngọt mỗi tháng đều mang ra chợ bán cho người buôn, kiếm chút tiền bù đắp vào đồng lương ít ỏi. Cũng nhờ đó mà tôi mới mua được những thực phẩm thăm nuôi chồng. Tôi thở dài ngao ngán cho kiếp sống đói nghèo.

    Tàu càng rời xa miền Nam, làng mạc càng hiu hắt. Bốn năm tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội là đây? Đồng ruộng khô cằn, xóm làng xơ xác. Con tàu đưa tôi vượt qua vĩ tuyến 17, tới miền Trung “Ôi, quê hương xứ dân gầy” của nhạc sĩ Phạm Duy. Dân không chân lấm tay bùn - vì đồng ruộng bỏ hoang - mà sao đen đủi. Gương mặt ngơ ngơ ngẩn ngẩn, đứng trước những thau nước chờ khách trên tàu xuống mua rửa mặt, rửa chân.

    Một bà cụ lưng còng xuống, manh áo vá không đủ che thân, xách ấm nước đi bán rong. Đường tàu mỗi lúc một xấu, nhất là Thanh Hóa. Con tàu tròng tranh nghiêng ngả. Đồ đạc rơi đổ cả vào người.

    Làng quê miền Bắc kia sao? Tôi ngỡ mình đang nằm mơ. Bởi hiện thực quá phũ phàng.
    • “Việt Nam đất nước ta ơi,
      Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn...”


    Miền Bắc hai mươi năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân dân đi vào con đường làm ăn tập thể. Đồng ruộng xóa mờ ranh giới, bao la bát ngát thẳng cánh cò bay... Chỉ là hình ảnh tưởng tượng của cán bộ vẽ ra, khi tuyên truyền, khoác lác với dân miền Nam. Trước mắt tôi... đồng khô, nắng cháy. Xa xa xóm làng hoang vắng. Quán nước bên đường che bằng một mái tranh cũ nát, chiếc chõng tre lỏng chỏng một vài món quà lặt vặt: viên kẹo bột vàng, trái chuối thâm đen. Điếu cầy tre, ấm nước, ly trà cũ bẩn... Mỗi lần tàu ngừng, hành khách tranh nhau mua từng bát cơm khô cứng, lèo tèo một ít rau xào...

    Tôi đến Ga Hàng Cỏ - Hà Nội sau ba ngày, ba đêm trên tàu như một người bị tra tấn. Rã rời, mệt mỏi. Hà Nội hiện ra trong mắt tôi với tất cả sự nghèo nàn, lạc hậu. Đèn đường vàng vọt. Trong nhà, ánh điện lù mù nhưng tôi vẫn nhìn thấy nhà nhà ngồi quanh mâm cơm để dưới đất. Đó là hình ảnh đầu tiên về Hà Nội.

    Nhà anh chị tôi ở tầng thứ tư của một khu nhà tập thể vùng Kim Liên. Chỉ là một phòng nhỏ hai mươi mét vuông. Độc nhất một cái giường cũ mọt dành cho bố mẹ và đứa con út còn bé. Hai đứa con lớn học đại học nằm dưới đất. Kệ sách vở đụng trần nhà. Dưới gầm giường lỉnh kỉnh bát chén, nồi niêu, xô nước. Gia đình anh chị tôi điển hình cho giới trí thức Hà Nội: chồng, cán bộ nghiên cứu khoa học, vợ bác sĩ. Tôi rùng mình lo sợ tương lai.

    Hà Nội với những con đường nhỏ hẹp, đầy ổ gà, bụi bậm. Hà Nội với nhà cửa cũ nát, xiêu vẹo. Hà Nội với con người nhâng nhâng, nháo nháo, chửi thề nói tục. Không phải một thủ đô văn minh lịch sự như theo lời những cái máy nói đã mạt sát Sàigon, ca tụng Hà Nội - mà trong những buổi học tập chính trị ròng rã qua năm tháng, chúng tôi đã phải nghe. Hà Nội trong ký ức tôi, trong thơ, trong nhạc... chỉ là hư ảo.

    Lên ga Bình Triệu, xuống ga Hàng Cỏ: kinh hoàng. Tiếp tục cuộc hành trình, tôi đáp tàu đi Vĩnh Phú. Ga nhỏ, người đông. Mùi hôi thối dưới đất, mùi mồ hôi nồng nặc trong ánh nắng hè gay gắt. Tôi muốn nôn oẹ. Lại bị hạch sách, nạt nộ khi làm thủ tục để được lên tàu. Lại chen lấn, xô đẩy. Tôi chạy mãi tìm cửa lên tàu. Toa nào cũng chật cứng người. Cuối cùng chỉ còn giành được một chỗ đứng ở cuối nơi toa tàu nối nhau. Khi con tàu ra khỏi thành phố, một số thanh niên leo lên nóc, tôi mới có một chỗ để ngồi bó gối.

    “Ban nãy tao leo lên toa chở lợn, gà. Bị đuổi xuống.”
    “Xã hội này là súc vật sướng hơn!”

    Tôi nghe tuổi trẻ miền Bắc nói chuyện như thế.

    Gió thổi mát lạnh. Trời vần vũ cơn mưa. Cứ ngồi như thế này cho đến tối hay sao? Thế rồi sức chịu đựng của tôi vẫn vượt qua những trận mưa trời làm ướt sũng toàn thân, những trận mưa than từ ống khói tàu nhả xuống. Cũng may là than đá, nếu không biết bao nhiêu hành khách kém may mắn không được ngồi trong toa như tôi sẽ bị nhuộm đen như thế nào?

    Con tàu nặng nề đi qua những cánh rừng cọ xác xơ, những đồi chè cằn cỗi thưa thớt dưới cơn nắng cháy.
    • “Đẹp vô cùng Tổ Quốc ta ơi,
      Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
      Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
      Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca...”

    Tôi không hiểu sao Tố Hữu lại có thể làm được những câu thơ với những hình ảnh tươi đẹp như thế?

    Ga Ấm Thượng là trạm cuối cùng tôi xuống. Nơi đây chỉ là một túp lều tranh vách nát giữa vùng đất đìu hiu của miền thượng du Bắc Việt. Bốn bề hiu hắt, vắng vẻ. Trời chập choạng tối. Ánh đèn dầu leo lắt run rẩy như muốn tắtlàm tăng thêm vẻ hoang vu.

    Tôi sẽ ở lại đây một đêm.

    Sau một ngày dài ngồi bó gối trên tàu, tôi muốn ngả lưng trên chiếc giường tre ọp ẹp có trải manh chiếu nát. Những con rệp lâu ngày bị đói rủ nhau ra tung hoành làm tôi phải bật dậy suốt đêm. Sáng sớm đã có tiếng xì xầm ở bên ngoài. Dân quanh vùng lén mang chuối, gạo, gà... bán cho những người thăm nuôi tù. Họ giành nhau để được tên cán bộ nhà ga phân phối khuân vác từng thùng lương thực xuống thuyền để lấy tiền công.

    Sang đò ngang, lại chuyển đò dọc. Tiền khuân vác, tiền chuyên chở, bao nhiêu cũng phải trả.

    Con thuyền cũ chòng chành vì nặng hành lý. Khách trên thuyền chỉ có khoảng năm người. Từ Saigon hay từ các tỉnh miền Nam đi thăm nuôi. Thuyền không có mái. Hơi nóng từ trên trời giội xuống, từ dưới nước bốc lên. Tôi như muốn ngất lịm đi vì say sóng. Đây là con sông Lô trong nhạc Văn Cao. Không có tiếng hò, tiếng hát trên sông. Chỉ có tiếng mái chèo đập nước, tiếng sóng vỗ ì oạp vào mạn thuyền. Hai bên bờ sông, chỉ toàn là cây dại. Hoàn toàn im lặng.

    Khi mặt trời đứng bóng, thuyền cập bến đò Ngọc. Trái với tên Bến Ngọc, bến đò này toàn sỏi đá lởm chởm. Từ bờ sông lên tới đường đi, chúng tôi phải trèo lên từng phiến đá sắc cạnh. Phụ nhau kéo đồ đạc lên rồi ngồi chờ xe trâu tới thuê chở chuyển đồ vào trại.

    Tôi ngồi tựa lưng vào một gốc cây khô. Bên kia sông, không một mái nhà. Cỏ cây chằng chịt. Phía sau lưng, hoang vắng. Một lối đi nhỏ mất hút sau rặng cây rậm rạp. Đứa bé trai khoảng trên mười tuổi, không biết từ đâu xuất hiện. Chiếc quần ngắn cũ chắp vá đủ màu bọc ngoài đôi chân gầy guộc. Lấm lét nhìn chung quanh, nó đến gần chúng tôi, khẽ nói:
    “Cho nhà cháu vác vào trại nhá! Tiền công rẻ hơn xe trâu.”
    “Trại có gần đây không hả cháu? Đi chừng bao lâu? ...”

    Chợt thằng bé chạy vụt vào lùm cây.
    “Này, chị kia, nói chuyện gì với nó thế?”

    Tên công an, mặt non choẹt, vác súng đi tới: “Gia đình nhà đó “nà” bọn “nười” lao động. Không chịu sản xuất, chỉ định “nàm thuê.”

    Đưa đôi mắt nhìn khắp lượt có vẻ đe dọa, hắn hất hàm nói tiếp: “Đợi đấy. Sẽ có xe của Hợp tác xã phục vụ. Ai không tuân lệnh, cúp thăm nuôi.”

    “Việt Nam tham dự Thế Vận Hội mang về ba cúp: Cúp điện, cúp nước, cúp lương thực. Giờ đây lại sắp lãnh thêm một cái cúp nữa.” Tiếng thì thầm, rúc rích của hai thanh niên đi cùng chuyến.

    Tiếng lọc cọc từ xa mỗi lúc một gần. Xe trâu đến. Những mảnh cây ngang dọc sơ sài đóng vào nhau. Bốn bánh xe đẽo bằng gỗ. Sợi dây thừng lớn nối từ cổ xe vào mình một con trâu già. Cán bộ hợp tác xã nhảy xuống khỏi xe. Chúng mời nhau điếu thuốc lá Thủ Đô. Lương thực được chúng tôi khuân chất lên xe. Bao nhiêu thùng là bấy nhiêu tiền. Thùng to, nhỏ giá chở khác nhau. Tên cán bộ ngồi trên một thùng đồ vững vàng nhất. Chiếc roi mây quất nhẹ vào mình trâu để con trâu bước đi. Ngươì thăm nuôi lẽo đẽo đi bộ theo sau.

    Trời nắng. Đường gồ ghề những đá. Người và vật lê bước nặng nhọc. Đi, đi mãi... Sâu tít vào rừng. Đường vòng vèo tưởng như không có lối ra. Qua những con suối cạn, ì ạch mãi chúng tôi mới đẩy được xe qua. Tên cán bộ ngừng lại cho con trâu nghỉ mệt. Dãi nhớt đầy miệng, trâu thở phì phò. Tội nghiệp cho cả trâu. Tội nghiệp cho cả người thăm nuôi. Cổ tôi khô. Đầu nhức như búa bổ. Tôi ngồi vật xuống cỏ...

    Trời đã xế chiều, ánh nắng nhạt dần. Người và vật vẫn tiếp tục cuộc hành trình trong yên lặng. Có tiếng lá khô vỡ vụn. Không phải tiếng xào xạc của lá cây rơi rụng. Không phải tiếng chân chạy của thú rừng.

    Cặp mắt tôi như sáng lên. Một toán người bẻ lá đi ra. Có người thân quen không nhỉ? Bộ quân phục của binh chủng thủy quân lục chiến dù phai màu theo năm tháng, dù bị rách vá bởi kiếp đọa đầy, vẫn không làm mất đi vẻ thông minh sáng sủa của những người tù. Vai vác cuốc, tay cầm xẻng, bi đông nước lủng lẳng thắt lưng, các anh nhìn chúng tôi với ánh mắt cảm thông, chia sẻ.

    Tên công an thấp bé ôm súng chạy xộc lên phía trước. Tôi đi sát bờ cỏ, len lén rắc kẹo lên lối đi. Những mảnh giấy cuộn tròn thật nhỏ vội vàng chuyền tay. Lời nhắn gửi của các anh gửi về Saigon.

    Quãng đường rộng hơn, bằng phẳng. Đó đây, thấp thoáng mái nhà. Tôi gặp Ngô Kim Thái, bạn học cũ Trưng Vương đi trở ra. Chúng tôi chỉ kịp chào hỏi nhau vài ba câu. Sắp tới K5. “K1 hả? Còn đi lâu lắm...”

    Xe trâu mỗi lúc một nhẹ hơn khi ghé qua một K. Tôi là người cuối cùng, đi vào K có con số nhỏ nhất. Lố nhố vài người đến trước đứng trên thềm. Mọi người nhanh nhẹn phụ giúp chuyển đồ trong khi tôi trả tiền xe.

    Xếp đồ vào phòng qui định, tôi chỉ kịp nhận giường chiếu là buông mình nằm mê mệt.

    “Chị! Dậy đi chị! Không trình giấy, ngày mai làm sao được gặp?”
    Nghe đến giấy tờ, tôi bật người lên. Quên cả nhức đầu. Tú, người lay gọi tôi, có gương mặt trái soan, còn rất trẻ. Tú đi chuyến tàu đêm, đến đây từ sáng.
    “Phòng tắm ở đâu?”
    “Phòng tắm hả?” Tú cười chỉ về hướng sau nhà.
    “Mấy tấm phên che không kín. Có còn hơn không. Nhưng nước bẩn lắm. Phải xuống tít dưới kia lấy nước ở suối. Em có mua được một cái xô. Cho chị mượn đó.” Tôi cảm ơn người bạn mới.
    “Trước anh làm gì?”
    “Chiến tranh chính trị.”
    “Cấp bậc?”
    “Trung tá. Chức vụ luôn nhé! Tham Mưu Trưởng trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt.”
    “Chết, chức to quá! Chồng em cũng chiến tranh chính trị. Cấp úy nhỏ nhất thôi. Mà chị ơi, đúng rồi! Chính trị tội nặng nhất. Họ gọi là thành phần ác ôn, tập trung tại K1. Không biết họ nhốt mấy ổng có gần đây không nhỉ?” Tú thì thầm. “Họ cấm không cho người thăm nuôi ra khỏi khu này, cho nên... em chẳng biết gì hơn.”

    Tôi nhìn quanh. Vẫn cỏ cây chằng chịt. Chỉ có hàng rào chung quanh khu tiếp tân này là được cắt xén cẩn thận, ngay ngắn. Ngôi nhà ba gian. Tường cây, mái bằng lá cỏ khô, nền đất. Hai gian dành cho thân nhân. Khoảng sân nhỏ với những bồn hoa, luống cây cảnh xếp bằng sỏi đá đơn sơ. Khung cảnh nơi đây chắc chắn phải có bàn tay của những người tù. Lòng tôi chùng xuống. Ngậm ngùi. Phía xa là nhà bếp. Trong ánh lửa bập bùng, thấp thoáng bóng người mẹ già, người vợ trẻ lui cui đun nấu thức ăn tươi cho ngày mai. Thịt gà kho gừng, thịt bằm ớt rang khô. Bát canh rau, thịt kho trứng... Những món ăn quen thuộc như chìm vào quên lãng - vì bên ngoài cũng thiếu thốn, có được ăn đâu?

    “Chị có nhìn thấy những cây nhang cắm trên cành cây phía đằng kia không? Của một bà phòng bên cạnh. Ổng chết lâu rồi.”

    Tôi lạnh người. Sáng nay mới biết. Dã man. Để người ta lặn lội ra đây?

    Đêm xuống. Bao trùm núi rừng. Tôi thao thức không ngủ. Lo lắng. Chỉ mong trời sáng. Cuối cùng tôi cũng thiếp đi được một chút để rồi được đánh thức bởi tiếng khua động của mọi người chung quanh.

    Giây phút chờ đợi như kéo dài. Hơn tám giờ, hai tên công an ôm giấy tờ đến, lững thững trong khi mọi người nôn nóng. Gọi tên ai, người đó mới được vào phòng đợi.

    “Con chị tên gì?”
    Kỳ quá! Hôm qua đã ghi rồi mà. Người đàn bà ấy đã đứng tuổi, đi cùng chuyến đò với tôi. Tên công an thì chưa đến hai mươi tuổi. Bà đáng tuổi bà, tuổi mẹ hắn.
    “Thưa ông...”
    “Này, chị phải bỏ ngay cái giọng quan niêu phong kiến ấy đi nhá!”
    Giọng rụt rè: “Thưa anh...”
    “Ai anh em gì với cái nhà chị?”
    Tiếng nói cất lên như một tiếng thở dài:
    “Thế bây giờ tôi phải gọi như thế nào đây?”
    “Gọi nà cán bộ. Báo cáo cán bộ. Biết chưa?”

    Lần lượt mỗi người vào như bị hỏi cung. Mỗi người bị tên công an vặn vẹo, nạt nộ. Gian phòng nhỏ hẹp, chỉ đủ kê một cái bàn nhỏ ở góc cửa ra vào, tên công an ngồi làm cái việc hỏi cung. Một cái bàn dài, rộng kê ở giữa. Thân nhân ngồi một dãy. Phía bàn đối diện dành cho tù nhân. Vị trí của mỗi người tùy theo sự sắp xếp của công an.

    Và giây phút chờ mong đã đến. Người thân của chúng tôi đã được giải tới. Mọi người trong phòng nhốn nháo. Người ngồi bên trong đứng lên để được nhìn rõ hơn. Những người tù thong dong bước tới mỗi lúc một gần. Quần áo mang trên người còn nguyên nếp gấp. Quần áo mang theo, nhưng lần này sao rộng thùng thình như đi mượn. Cặp mắt ai cũng sáng lên khi nhận ra người thân yêu.

    Tên công an áp giải bắt xếp hàng ở dưới sân. Hắn hất hàm cho từng người vào. Hơn bốn năm xa cách, chúng tôi nhận ra ngay những nét thay đổi của nhau. Thời gian và khổ cực. Cuộc sống bên ngoài cũng chẳng mấy tự do. Khóc thì sẽ bị đuổi ra. Nhưng những giọt nước mắt vẫn lặng lẽ rơi.

    Năm phút. Mười phút. Thời gian trôi nhanh. Gần hết giờ thăm. Những câu hỏi, câu trả lời lạc lõng. Toàn những chuyện đã viết trong thư. Đôi mắt tên công an gườm gườm. Mấy cái gai nhọn lúc nào cũng muốn đâm vào da thịt.

    Đi suốt cả chiều dài đất nước để có được mười lăm phút gặp nhau. Quà sắp lên xe trâu. Tôi nhìn theo chồng đứng vào hàng để giải về. Chúng tôi theo ra cổng, nhưng chỉ được đứng bên hàng giậu nhìn theo cho đến khi toán người đã khuất vào lùm cây.
              
    “Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy
    Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
    Ngàn dâu xanh ngắt một màu
    Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”

              
    Thuở còn đi học, nghe cô Tỉnh giảng Kiều say mê. Nhưng chỉ thích Chinh Phụ Ngâm, để rồi ngày nay phải mang nỗi buồn cô phụ. Tôi nuốt nước mắt nghẹn ngào. Bỗng dưng vạn vật mờ tất cả...





    Trích từ tập hồi ký Lối Cũ Chẳng Sao Quên
    (The Trail I Never Forget)

    tác giả: Bích Huyền
              

    https://hon-viet.co.uk/NguyenThiNgoan_N ... mChong.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Con chó vện và người tù “cải tạo”

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Con chó vện
    và người tù “cải tạo”

    __________________________________
    Nguyễn Vĩnh Long Hồ






    Trên bước đường lưu đày của những người tù chính trị Miền Nam đầy máu và mồ hôi trên chính quê hương của mình, đã có bao nhiêu người “sinh Nam, tử Bắc” và trong số nầy có anh Lê Xuân Đèo là cánh chim lìa đàn rất sớm.

    Giữa tháng 10 năm 1976. Một nhóm tù chính trị Miền Nam khoảng 100 người, từ nhà tù Sơn La lâu đời, nằm trên vùng núi cao đèo heo hút gió của tỉnh Sơn La, phía bắc giáp Yên Bái - Lào Cai, phía tây giáp Lai Châu, phía đông giáp Phú Thọ - Hòa Bình, phía Nam giáp Lào, chúng tôi được di chuyển về Hoàng Liên Sơn (Nghĩa Lộ) và tôi gặp anh bạn tù Lê Xuân Đèo tại Trại 6, Liên trại 2, một vùng núi non hiểm trở có cái tên thật mộng mơ: “Khe Thắm” thuộc huyện Văn Chấn.

    Khe Thắm là một thung lũng nhỏ hẹp, nằm giữa hai dãy núi trùng điệp. Trại 6 gồm có bốn lán, dựa lưng vào dãy núi bên nầy, bên kia thung lũng là một bản Thái Trắng gồm mươi căn nhà sàn, dưới gầm nhà sàn là chuồng nhốt trâu bò. Chỉ có một con đường độc đạo vào Trại 6. Về sau, khi chúng tôi chuyển sang trại khác, trại nầy được sát nhập vào nông trường Bản Hẻo. Dạo chúng tôi vừa chuyển đến, dân làng đã cấy xong vụ lúa Đông - Xuân. Trong thung lũng Khe Thắm, mạ non lên xanh phơi phới. Ngay khi vừa mới đến trại, chúng tôi được phát ngay mỗi người hai bộ đồ rằn ri của binh chủng Biệt Động Quân, thế nầy là hết hy vọng trốn trại! Riêng tôi vớ phải cái quần rộng thùng thình. Công tác đầu tiên là đào thủy lợi để dẫn nước từ một con suối gần đó vào ruộng lúa. Tôi và Lê Xuân Đèo ở chung lán 3, còn Trương Đăng Sỹ ở lán 4.

    Mùa đông năm 1976 là một mùa đông với cái lạnh khắc nghiệt, lạnh thê thảm chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam. Có nhiều đêm, hàn thử biểu rơi xuống chỉ còn một độ bách phân, mặt nước ao hồ đóng váng, cá chết hằng loạt vì lạnh. Tuy củi rừng nhiều vô số kể, nhưng bọn cán bộ cấm tù cải tạo đốt lò sưởi vì sợ cháy lán trại? Nửa đêm về sáng, chúng tôi phải thức dậy ngồi đâu lưng hoặc nằm sát vào nhau cho ấm. Bản Thái bên kia thung lũng, dân làng phải đốt rơm hoặc củi để sưởi ấm gia súc. Làm thân trâu bò còn sướng hơn tù cải tạo là cái chắc! Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi cũng lôi hết ra mặc, nhưng không sao đủ ấm vì cái lạnh cắt ruột từ trong xương lạnh ra.

    Đi tắm vào mùa đông đối với tù cải tạo là một hình thức tra tấn. Mỗi tuần, tôi chỉ ra bờ suối tắm giặt một lần vào xế trưa chúa nhật, sau khi ngồi trước sân phơi nắng hàng giờ cho ấm. Ngồi bên cạnh tôi là Nguyễn Minh Thanh vừa phơi nắng vừa ngâm thơ “Tao Đàn” đói thấy mẹ mà hắn còn làm thơ được thế mới tài. Nếu như chiều chúa nhật nào rơi vào ngày mưa là xin hẹn lại tuần sau...mới đi tắm. Như vậy là đạt tiêu chuẩn nếp sống “văn minh, văn hóa mới” lắm rồi!

    Hầu như lề lối sinh hoạt của tất cả trại tù cải tạo thuộc đoàn 776 do bộ đội CSBV quản lý đều giống như nhau. Sau một ngày ăn đói, thực phẩm chính là khoai, sắn, bo bo, bắp hột mà mỗi khẩu phần của người tù đếm được khoảng 700 hôït và lao động khổ sai 10 tiếng một ngày kể cả lúc trời mưa bão. Và mỗi tuần chỉ được nghỉ nửa ngày chúa nhật để tắm giặt. Tối đến là giờ sinh hoạt chính trị, “ngồi đồng” hằng giờ ngay trên chỗ ngủ để nghe đọc báo “Nhân Dân” hoặc “Quân Đội Nhân Dân”, những loại tin tức dùng để tuyên truyền chủ nghĩa Cộng Sản và chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa.

    Sau khi nghe đọc báo là phần bắt thăm nhận công tác lên rừng đốn đủ loại gỗ: gỗ làm cột nhà, gỗ làm đòn tay, gỗ làm kèo nhà...và một toán chặt nứa dùng để lợp mái nhà. Gỗ và nứa từ trên rừng kéo về tập trung trên một bãi đất trống bên cạnh con suối dưới chân núi, cán bộ quản giáo của đội đến kiểm nhận vào mỗi buổi chiều. Sáng hôm sau, toán thợ mộc vác về xưởng mộc cưa, đục, đẽo... để dựng nhà. Lê Xuân Đèo thường đổi công tác với những anh em khác để cùng đi rừng với tôi, vì cải thiện linh tinh để mưu sinh là nghề của chàng. Hắn rất chịu những phi vụ táo bạo của tôi. Hắn là dân Nha Trang, lúc bình thường thì giọng nói dễ nghe, nhưng lúc khẩn trương, nghe lời hắn là một tai họa khó lường...

    Bên kia thung lũng, đối diện với trại 6 là dãy nhà sàn của dân tộc thiểu số Thái Trắng. Tụi cán bộ quản giáo hoặc quản chế thường hù dọa là đồng chí “Bí thư xã” có vũ trang súng trường AK47. Phía sau dãy nhà là ruộng mía và hằng ngày nó trở thành mục tiêu đầy sức hấp dẫn và cám dỗ nhưng cũng rất nguy hiểm. Những lần chúng tôi qua dãy núi bên kia đốn nứa, chỉ tiêu một ngày là 100 cây với tiêu chuẩn: phải là nứa già, thẳng đốt, chiều dài từ 3 thước trở lên, sau khi vạt bỏ ngọn. Thường thì buổi sáng đốn xong, bó lại từng bó 20 cây, dấu đâu đó ở trên rừng. Giờ lao động buổi chiều, chỉ lo việc chuyển về trại. Những cây nứa được mấy anh bạn tù cao niên, chặt khúc và đập giập ra để lợp mái nhà.





    * * *
    Một ngày trên đường vác mấy bó nứa chuyển về trại. Chúng tôi ngồi nghỉ mệt bên dòng suối vắng. Đèo nhìn qua đám ruộng mía, sau dãy nhà sàn bên kia dòng suối, hắn thèm đến nhỏ dãi, trông thật tội nghiệp. Hắn nói:
    - “Ê, mầy! Không biết lúc nầy, bỗng dưng tao thèm ngọt quá trời! Từ ngày di chuyển ra miền Bắc đến giờ, gần cả năm trời tao chưa hề thấy cục đường tán nó tròn, nó méo ra làm sao! Tao chịu hết nổi rồi nghe mậy,” Đèo tiếp. “Thôi, mầy ngồi ở đây chờ tao!”

    Tôi hỏi:
    - “Vậy chớ, mầy định đi đâu?”

    Hắn vừa trả lời, vừa nuốt nước bọt ừng ực:
    - “Qua bên kia ruộng mía, chặt vài cây, chia nhau ăn đở thèm! Mầy còn phải hỏi lôi thôi!”

    Nghe hắn nói, tôi cười ngất, nói:
    - “Thôi đi cha nội ơi! Coi bộ tướng của mầy kìa! Ốm nhom, ốm nhách như con còng gió, rủi ro bị họ bắt gặp, mầy làm sao chạy cho thoát? Nếu họ có súng hoặc nỏ là mầy chết chắc!”

    Đèo quả quyết nói:
    - “Tao đã nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình rồi! Trong nhà không có đàn ông mà chỉ có một người đàn bà. Tao còn biết chắc, giờ nầy bà ta trên đường đến trường, đón con đi học về nhà.”

    Tôi nghi ngờ, hỏi:
    - “Sao mầy biết chắc chắn như vậy chớ?”
    - “Mầy nhớ không? Xế trưa hôm qua, lúc tụi mình trở qua đây, vác mấy bó nứa về trại. Tao thấy bà ta dẫn con đi học vừa về tới nhà!”
    - “Phi vụ nầy mầy lo hay để tao?” tôi hỏi.

    Đèo nói, giọng quả quyết:
    - “Mầy nhát bỏ mẹ! Phi vụ nầy mầy để tao lo! Mầy ngồi đó chờ tao!”

    Tôi cười, nói:
    - “Thôi được rồi, cha nội! Vụ chôm chỉa nầy mầy để tao lo! Cứ ngồi đó canh chừng. Hễ nghe động tỉnh gì thì la báo động cho tao biết để tao chuồn!”

    Nói xong, tôi đứng lên, đi một mạch ra bờ suối, xăn ống quần lên khỏi gối, tay cầm con dao dùng để chặt nứa, lội băng qua dòng suối. Tôi hành quân theo đúng bài bản, lính bộ binh mà. Trước hết, tôi bám lấy bờ suối, ngẩng đầu lên quan sát trận địa, thấy bên trong ruộng mía hoàn toàn yên tỉnh, tôi trườn sâu vào trong, giữa hai giồng mía. Tôi chọn một thật thẳng, tròn mập, vỏ màu vàng hực thật hấp dẫn, lia một nhát, cây mía đổ xuống. Tôi đứng lom khom, vừa vạt ngọn mía xong. Bỗng tôi nghe hắn la bài hãi bên kia dòng suối:
    - “Chờ tớ! Chờ tớ! Chờ tớ...”

    Tưởng hắn đòi lội qua suối, tôi bèn đứng thẳng người lên, lấy cây mía vẹt lá rồi nhìn qua bên kia bờ suối. Tôi thấy hắn nhảy dựng lên như khỉ mắc phong, tay chỉ chỏ về phía tôi thật khẩn trương. Hắn tiếp tục gào lên:
    - “Chờ tớ! Chờ tớ...”

    Tôi thiệt bực mình, cầm cây mía đưa lên khỏi đầu, nói lớn:
    - “Xong rồi! Qua làm gì chớ! Thôi, ngồi đó chờ tao!”

    Nhưng, hắn vẫn tiếp tục gào to hơn nữa. Và lần nầy, tôi nghe cái giọng Nha Trang của nó thật rõ ràng:
    - “Chó tới! Chó tới...”

    Thôi bỏ mẹ rồi! Bây giờ tôi mới hiểu ra là“Chó tới!” chớ không phải “Chờ tớ!” thì đã muộn. Một con chó vện to lớn dùng để đi săn, xồng xộc lao tới và chỉ còn cách tôi vài mươi thước. Tôi thật sự hồn vía lên mây, quăng dao, quăng luôn cây mía, bỏ của chạy lấy thân, phóng như bay về phía bờ suối...Nhưng, con chó vện nhanh hơn tôi một bước, nó nhảy chồm lên, phập trúng cái đáy quần, ghì lại làm tôi té nằm xấp xuống đất. Hai cái răng nanh bén nhọn của nó đã xuyên thủng đáy quần. Con vện gầm gừ, mõm của nó ghì chặc lại, giằng xé như muốn lôi tuột cái quần của tôi ra thế mới khiếp! Cũng may, nhờ trời thương mấy thằng tù cải tạo ốm đói. Chúng tôi phải chôm chỉa để mưu sinh. Nếu hai cái răng nanh của con vện nhích lên vài phân định mệnh nữa thì bây giờ tôi đã trở thành quan “thái giám” là cái chắc!

    Tôi thét lên, cầu cứu:
    - “Tao bị con chó vện táp trúng rồi Đèo ơi! Cứu tao với...”

    Đến giờ phút nầy mà hắn còn hỏi đùa được:
    - “Trúng chỗ nào vậy cha?”

    Tôi bực quá thét:
    - “Nó táp lủng đáy quần rồi, tao bị nó ghì lại, không chạy được!”
    - “Chỉ táp trúng đáy quần thôi hả?” hắn mách nước. “Tụt quần ra, vọt cho lẹ, thằng mắc dịch!”

    Thôi thì cùng tất biến, biến tất thông! Tôi lòn tay xuống hàng nút quần, cởi thật nhanh hàng nút. Nhờ cái quần rộng thung thình, con vện tụt cái quần thật dễ dàng, một chân nó chận cái ống quần, đầu giằng mấy cái thật mạnh để cái quần vuột ra khỏi cái răng nanh. Tôi chỉ chờ có thế, vừa rút chân ra khỏi cái quần rằn ri là tôi phóng như bay về phía hàng cây bên bờ suối, chỉ cách đó mươi thước. Tôi trèo lên cây nhanh như con sóc, chưa bao giờ tôi leo trèo nhanh như vậy. Thế là thoát nạn!

    Con vện phóng mình lên cây mấy lần, nhưng lần nào nó cũng bị té đau. Vì thế nó tức tối, ngồi bệt xuống đất, nghểnh mõm nhìn lên một cách hậm hực; thỉnh thoảng, nó le cái lưỡi dài thượt liếm mép. Tôi phải lấy vạt áo che phần dưới lại, sợ nó nhìn thấy “thịt tươi” thèm nhỏ dãi tội nghiệp!

    Đứng trên cây nhìn xuống mới thấy rõ hình thù con vện, màu lông hơi vàng và có vằn như da cọp, trên lưng có xoáy như giống chó hoang dã ở Phú Quốc. Hèn chi nó dữ dằn quá là phải! Thú thật, trong suốt 13 năm quân ngũ, vui buồn đời lính bộ binh, đôi giày saut của tôi đã từng chà xát lên các mật khu lừng danh của Việt Cộng ở Miền Tây từ Thất Sơn, Mỹ An, Sầm Giang, Năm Căn, Cái Nước...nhưng chưa có lần nào tôi phải bỏ chạy “té khói” như lần nầy. Kể ra thì cũng nhục thật đó!

    Tôi đứng trên cây, trợn mắt nhìn nó, rủa thầm trong bụng: “May cho mầy, nghe đồ chó vện! Nếu mầy gặp tao ba năm về trước là tao vặn họng mầy, làm thịt chó bảy món nhậu chơi!” Thế mới biết, chỉ sau một thời gian ngắn, cái gọi là “lao động cải tạo”, con chó vện đối với tôi bây giờ nó đã trở thành “con cọp”. Nhưng mà thôi, tránh cọp chẳng xấu mặt nào!

    Nhìn thấy con chó vện đang nhe nanh vuốt, hầm hừ dưới gốc cây, Đèo đứng bên kia bờ suối, nói lớn:
    - “Mầy cứ đứng ở trên cây chờ tao qua! Đừng có tuột xuống!”

    Vừa nói, hắn vừa xăn quần lên khỏi gối. Thấy hai ống quyển khẳng khiu của hắn, tôi nản lòng hết sức. Hắn có vẽ muốn lội qua suối cứu bồ thật, tôi lật đật can:
    - “Thôi đi cha nội! Cứ ở yên bên đó đi! Tao nhảy xuống suối, lội qua bển được rồi mà!”

    Hắn đáp có vẻ rất tự tin:
    “Mầy yên chí đi! Tao có cách trị con vện nầy cho mầy coi!”

    Tôi miễn cưỡng nói:
    - “Thôi được, mầy có tài gì thi thố cho tao coi!”

    Con vện thấy hắn đang lội bì bõm, băng ngang qua dòng suối. Nó rời gốc cây, đứng chực trên bờ suối, sẵn sàng vồ hắn. Đèo đứng dưới suối, hai tay chống nạnh, vẻ mặt tỉnh bơ. Còn con vện nhìn hắn lườm lườm, chân sau quào dưới đất cát rào rào trong tư thế chuẩn bị vồ mồi. Tôi thấy còn phát ớn xương sống. Nhưng, Đèo chẳng nao núng chút nào cả thế mới là lạ. Bất ngờ, hắn huýt sáo miệng bản nhạc “Bác cùng chúng cháu hành quân” một cách ung dung. Con chó vện vừa nghe âm điệu phần mở đầu của bài hát: Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận... nó lầm tưởng hắn là phe ta nên bỏ hẳn thái độ thù nghịch, ngoe nguẩy cái đuôi, chờ welcome “đồng chí Đèo”. Mẹ kiếp! Sống ở Miền Bắc XHCN nầy, đến con chó còn bị tuyên truyền mê hoặc đừng nói chi là con người.

    Đèo leo lên bờ, hắn vỗ đầu con vện, vuốt đầu nó mấy cái. Đồng chí vện chồm lên, vật ngã hắn xuống rồi liếm cùng mặt. Thế rồi, người tù cải tạo và “đồng chí vện”ù kết thành đôi bạn sống chết có nhau từ dạo đó! Hắn ôm chặc con vện cho tôi leo xuống. Tôi vội vã lủi vô ruộng mía, lấy quần mặc vào rồi đi kiếm con dao và cây mía. Hai đứa tôi lội trở qua bên kia bờ suối, con chó vện cũng lội suối qua theo. Ngồi dưới bóng cây chia nhau từng lóng mía. Tôi chỉ ăn 2 lóng, phần còn lại của hắn vì Đèo thèm ngọt. Còn tôi, tôi thèm thứ khác hấp dẫn hơn nhiều: “Thịt! Thịt! Thịt!”... Tôi nhìn con vện, tưởng tượng đến dĩa “rựa mận” đang bốc khói, làm tôi thèm đến nhểu nước miếng. Bất chợt, con vện ngước lên nhìn tôi. Bốn mắt âu yếm nhìn nhau...tóe khói; hình như, cái giác quan thứ sáu của nó, nhìn thấy ý đồ bất chánh của tôi và báo cho nó biết rằng: “Coi chừng thằng cha tù ốm đói nầy, hắn sẽ thịt mình đấy!” Vì vậy, con chó vện chỉ quấn quít bên cạnh anh Đèo và lúc nào cũng đề cao cảnh giác với tôi. Cứ mỗi lần tôi xáp lại gần, định làm quen là nó đứng dậy đi chỗ khác chơi và nhìn tôi với tư thế sẵn sàng chiến đấu.

    Cách đây ba hoặc bốn tháng gì đó. Tên thiếu tá Khoát – trại trưởng – có tuyên bố một câu làm cả trại hồ hởi, phấn khởi: “Trại ta có kế hoạch nuôi lợn, cung cấp thịt tươi, cải tổ bữa ăn để các anh có đủ sức thâm canh, tăng năng xuất, chuẩn bị trồng sắn đại trà.” Thế là cả trại thi đua vào rừng đốn gỗ dựng trại chăn nuôi. Và chỉ trong vòng hai tuần lễ, ba cái chuồng nuôi lợn được cất xong bên cạnh bờ suối, đối diện với nhà bếp của ban chỉ huy trại. Nhưng, tên Quang chỉ mang về một cặp heo mọi, bụng ỏng, đít teo, mỗi con cân nặng khoảng 5 kí là cùng. Thế là, một anh bạn tù cao niên ở lán 2 được giao cho nhiệm vụ “chăn lợn”. Mỗi ngày, anh có nhiệm vụ mang một cái sô vào nhà bếp cán bộ trại, gặp tên trung sĩ Kây để nhận cơm thừa, canh cặn mang về chuồng nuôi lợn. Không biết nuôi heo bằng cách nào mà cặp heo mọi càng ngày càng gầy nhom. Ngược lại, trông anh càng ngày tròn trịa ra.

    Đêm hôm kia, chuồng nuôi lợn xảy ra chuyện rùng rợn, khó tin nhưng có thật là hai con heo mọi bị bầy chuột rừng moi ruột cho đến chết. Nhờ vậy, trưa hôm sau, cả trại được ăn cơm trắng với thịt heo kho với nước muối. Gần 2 tháng nay, chúng tôi mới được ăn một chén cơm trắng và một miếng thịt heo to bằng hai lóng tay út, cho đến bây giờ miệng tôi vẫn còn tóm tèm thịt tươi. Và tôi đang nghĩ kế hoạch thịt con vện...

    Chúng tôi lần lượt chuyển hết mớ nứa về trại, con vện đưa hai đứa tôi đến tận cổng trại. Và từ đó, nó trở nên người bạn trung thành với anh Đèo. Sáng nào nó cũng nằm chờ trong buị cây gần cổng, rồi lẽo đẽo theo chúng tôi vào tận rừng sâu đốn gỗ. Có mấy lần tôi định thịt nó, hưng Đèo cương quyết ngăn cản.

    Hắn nói:
    - “Mầy muốn thịt con vện nầy thì phải bước qua xác chết của tao!”





    * * *
    Nửa năm sau đó, những dãy nhà khang trang bằng gỗ được dựng lên chung quanh ban chỉ huy trại 6 đều do công sức của những người tù cải tạo. Nhưng, gỗ và nứa càng ngày càng khan hiếm, chúng tôi càng phải đi xa hơn, có khi phải đi băng qua thung lũng phía sau trại, lội vào khu rừng già dưới chân núi bên kia, gần nông trường Bản Hẻo để kiếm gỗ.

    Thế rồi một hôm. Lần đầu tiên chúng tôi đi theo con đường mòn băng qua thung lũng vào lúc hừng đông sáng để kiếm gỗ làm đòn tay. Khi những tia nắng ban mai mỏng manh, màu vàng nhạt, như cố xuyên thủng làn sương mai trắng đục bao phủ cả khu rừng, nắng tạo thành những chùm ánh sáng lung linh, huyền ảo. Hai đứa tôi lặng lẽ tiến khá sâu trong khu rừng rậm rạp, cây cối hoang vu, còn con vện biến đi đàng nào không biết. Tiếng suối chảy róc rách khi len lỏi qua những gềnh đá rong rêu, hòa cùng muôn ngàn tiếng hót líu lo của bầy chim rừng, trổi lên bản hợp tấu đầy sức quyến rũ của núi rừng Tây Bắc, thoang thoảng đâu đây mùi hương nhẹ nhàng tỏa ra từ những đóa phong lan, nép kín sau những thân cây cổ thụ, pha lẫn mùi hăng hắc của lá rừng ẩm mốc.

    Tiếng gió lướt trên những tán cây rừng xào xạc, mang theo cái lạnh tái tê từ dãy núi đá chập chùng của rặng Hoàng Liên Sơn thổi về. Gió lay những giọt sương mai đọng trên lá cây rừng, sương rơi nhẹ nhàng trên mái tóc, trên vai áo làm tôi thấm lạnh. Đang mơ màng trong cái không gian liêu trai và cái tĩnh lặng mong lung ấy...Bỗng một tiếng thét chói tai của Đèo đang đi phía trước, làm bầy chim rừng cũng phải giựt mình, bay tán loạn: “Con mẹ nó! Coi chừng vắt nái! Chạy khỏi khu rừng nầy ngay!”

    Vắt nái là một loại vắt màu xanh lá cây, nhỏ hơn đầu đũa một chút và chiều dài chỉ hơn một phân rưởi, khiếp nhất là khi nó có chửa nên đặt cho nó cái tên là “vắt nái”. Khi đánh được hơi người là nó giương lên như cây “anten”, rồi bún mình lên như cái lò xo, bám vào đầu vào cổ người, thú vật hút máu một cách êm thắm, chén no rồi tự động rớt ra, máu từ vết cắn đó chảy ra không ngừng, chỉ có nhai cỏ mực đấp vào vết cắn là tạm cầm máu được. Có nhiều anh bạn bị nhiểm trùng, vết cắn bị ngứa ngái, lở lói tròn bằng đồng tiền, nhức nhối tàn bạo. Hai đứa tôi vội vàng lội băng qua con suối cạn, tìm khoảng đất trống trải để kiểm soát lại đầu cổ, lôi ra cũng được bốn, năm con vắt xanh.

    Bỗng có tiếng khèn réo rắt, trầm bổng, văng vẳng từ đâu đưa tới, âm thanh ai oán, não nùng như khóc như than. Tiếng khèn trôi bồng bềnh trong làn sương mai trắng đục. Tôi tò mò rũ Đèo đi ngược lên thượng nguồn con suối để tìm người thổi khèn. Đó là cụ già thuộc bộ tộc Thái đen với mái tóc trắng phau, chòm râu bạc thả lỏng phất phơ trong gió. Ông vận bộ quần áo cộc màu chàm đang ngồi dưới một gốc đại thụ, chừng đã mọc rễ cả trăm năm, cành lá sum sê, vỏ cây sần sùi phủ rêu xanh, những rễ phụ và dây leo bện nhau bám chằng chịt vào thân cây. Cách đó mươi thước là hai thanh niên để lưng trần đang cuốc một hố đất. Thấy có người đến, ông lão ngưng thổi khèn, ngước mắt nhìn chúng tôi, hỏi:
    - “Mấy ông đi đốn gỗ cho trại cải tạo đấy à?” ông cảnh báo. “Khu rừng nầy có rất nhiều rắn độc, mấy ông phải cẩn thận! Cách đây mấy hôm, một người trong bản bị một con cạp nia mổ chết rồi đấy!”

    Tôi nói:
    - “Cám ơn cụ đã chỉ bảo! Chúng tôi sẽ hết sức đề phòng!”

    Đèo phì cười khi nghe cụ gọi mình bằng ông, hắn nói:
    - “Tôi là Lê Xuân Đèo, gọi tôi là Đèo được rồi! Thế còn cụ?”

    - “Tôi tên Phạm công Trừng,” ông lão buồn rầu, than thở. “Nhà tôi bị ốm nặng sắp chết đến nơi rồi, các anh ạ!” ông chỉ hai thanh niên, tiếp. “Chúng nó đang đào huyệt, chuẩn bị chôn mẹ chúng đấy!”

    - “Thưa cụ, bà cụ bị mắc chứng bệnh gì vậy?” Đèo hỏi.

    Ông cụ thở dài, nói:
    - “Nhà tôi bị bệnh kiết lỵ đã hơn hai tuần nay! Uống đủ loại cây cỏ, nhưng không thuyên giảm, đang nằm thoi thóp trên giường chờ chết đấy, các anh ạ!”

    Đèo nghe ông cụ nói xong. Hắn suy nghĩ trong giây lát rồi nắm tay tôi, kéo ra bờ suối, hỏi:
    - “Tao muốn cứu bà cụ! Mầy nghĩ sao?”

    Tôi trợn mắt nhìn hắn, hỏi:
    - “Mấy lấy cái gì cứu bà cụ chớ?”
    - “Nói cho mầy biết, tao còn cất giấu được 10 viên “Reostop”, chôn dưới sạp nứa chỗ tao ngủ,” Đèo lấy ý kiến tôi lần chót. “Mầy thấy tao có nên giúp họ không?”
    - “Việc nầy có liên quan đến sinh mạng của mầy! Tự quyết định đi, đừng hỏi tao lôi thôi!” Tôi nói.
    - “Tao quyết định cứu họ!” Đèo trả lời một cách dứt khoát. “Thấy người sắp chết mà không cứu là đắc tội với Trời Phật rồi! Hơn nữa, tao muốn làm sáng tỏ cái bản chất và truyền thống tốt đẹp của người lính Việt Nam Cộng Hòa cho đồng bào miền Bắc thấy rõ điều nầy!”

    Nghĩ sao làm vậy, Đèo trở lại chỗ ông cụ, nói:
    - “Ngày mai cũng vào giờ nầy, cụ đón chúng tôi tại đây để nhận 10 viên thuốc “con nhọng” chuyên trị kiết lỵ, đem về cho bà cụ uống!”

    Ông cụ nghe đến thuốc “con nhọng”, mắt cụ ngời sáng tia hy vọng và cảm động đến rớt nước mắt. Cụ bảo hai người con trai vào rừng đốn gỗ đòn tay cho chúng tôi, rồi mời chúng tôi về bản làng gần đó sơi nước trà xanh. Căn nhà sàn của gia đình cụ gồm ba gian, nằm trong bản Thái, cách cây bờ suối đó khoảng 200 thước. Căn nhà sàn khá cao để tránh thú dữ nhất là đàn chó sói thường hay kéo vào bản, bắt gia súc. Đặc điểm những căn nhà sàn của dân tộc thiểu số như Thái, Mường, Mông...cùng có một lối kiến trúc như nhau là không dùng đinh, tất cả đều được liên kết với nhau bằng những con sò gỗ và lạt buộc, sàn nhà được nối kết với nhau bằng những cây nứa già được đập giập ra để lót sàn. Leo lên mấy bật thang gỗ ọp ẹp, thấy ngay bà cụ đang nằm trên cái chõng tre đặt ở một gốc nhà, trùm chăn đến cổ. Bà cụ gầy lắm, tôi chỉ thấy cái mềm bông màu đỏ phập phồng theo nhịp thở thoi thóp, mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông.

    Sau khi uống xong chung trà xanh, thì hai người con cũng về tới nơi. Thấy mặt trời lên thấp thoáng ngọn cây, chúng tôi xin từ giả ra về. Cụ đi trước dẫn đường, dùng dao vạt vào thân cây rừng để đánh dấu, cho chúng tôi biết đường trở lại. Tới bìa rừng, họ chuyển 6 cây gỗ làm kèo lên vai hai đứa tôi và chúng tôi từ giã nhau ở đấy. Con vện đi sục sạo ở đâu đó trong khu rừng cũng vừa chạy trờ tới, mõm ngoạm một con chuột lông màu xam xám khá to, làm quà tặng anh bạn Đèo. Trước khi trở về trại, Đèo ra bờ suối làm thịt chuột một cách thành thạo, rồi dùng lá chuối rừng gói lại cẩn thận, bỏ vào trong túi quần mang về trại. Buổi trưa, Đèo lén ra khu nhà bếp nướng một cách vội vã, khi nào có chiến lợi phẩm, hắn cũng chia phần cho tôi một nửa.

    Đêm hôm đó, đợi mọi người ngủ say sau một ngày lao động cật lực. Đèo đào một lớp đất mỏng dưới ngay chỗ nằm lấy, ra một chai thuốc “Reostop” còn đủ 10 viên rồi dấu dưới gối.

    Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại vùng nầy, tiếp tục đốn gỗ làm kèo nhà. Lần theo vết dao đánh dấu trên thân cây, hai đứa tôi trở lại chỗ cũ rất dễ dàng. Đến chỗ hẹn, chúng tôi thấy cụ đang ngồi dưới bóng cây đại thụ, chờ chúng tôi tự bao giờ. Đèo thân mật đặt cái lọ thuốc “Reostop” vào tay ông cụ rồi chỉ cách dùng. Ông cụ vừa mừng, vừa cảm động đến độ nói không nên lời. Trước khi chia tay nhau, ông cụ dặn dò:
    - “Tụi bộ đội của đoàn 776, thằng nào cũng ác ôn hết! Các anh phải cảnh giác chúng nó đấy!”

    Khoảng một tuần sau đó. Chúng tôi trở lại vùng nầy kiếm gỗ, nhìn thấy cái huyệt đã được lấp đất lại bằng phẳng, cỏ dại đã bắt đầu bén rễ và chúng tôi biết chắc là bà cụ đã được cứu thoát khỏi bệnh kiết lỵ. Người tù cải tạo Lê Xuân Đèo đã hoàn thành công tác “dân vận” một cách xuất sắc bằng chính mạng sống của chính mình. Vì ba tháng sau đó, anh từ giã cuộc đời vì bịnh kiết lỵ vì không thuốc chữa cho chính bản thân mình.

    Bịnh kiết lỵ, tiêu chảy và sốt rét rừng là ba căn bệnh rất phổ biến trong các trại tù cải tạo ở Miền Bắc XHCN. Một người bạn cùng đơn vị là cựu thiếu tá Trần Sỹ cũng gởi nắm xương tàn tại một trại tù khác vào năm 1978 vì bệnh kiết lỵ và rồi còn biết bao nhiêu người khác nữa? Trước khi chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, chúng tôi dự trữ khá nhiều thuốc chuyên trị về các chứng bệnh nguy hiểm nầy và nhất là trụ sinh để phòng thân. Nhưng, sau khi chuyển đến trại 6 Khe Thắm, một người tù cải tạo tên Phạm Thành K. đã đâm sau lưng chiến sĩ, anh ta bàn kế hoạch “chuyển trại giả” với tên thiếu tá Khoát để lấy điểm.

    Vào một buổi sáng tinh sương. Trong lúc mọi người chuẩn bị xuất trại lên rừng đốn gỗ, bỗng có tiếng kẻng dồn dập khác thường, đích thân cán bộ quản giáo đến từng lán, đôn đốc mọi người khẩn trương đến tập trung trước sân cờ ban chỉ huy trại để nghe thiếu tá Khoát - trưởng trại - ban hành lệnh hành quân (chuyển trại) và mọi người được thông báo, chỉ còn có một tiếng đồng để chuẩn bị hành lý cần thiết mang theo người. Vì quá vội vã, nên Đèo không kịp đào lấy 10 viên thuốc “reostop” chôn dưới sạp nứa, ngay chỗ anh nằm.

    Tại sân đá bóng của xã, trong khi ngồi chờ đợi xe vận tải đến chở đi một trại tù cải tạo khác, bọn cán bộ quản giáo và quản chế yêu cầu tất cả tù cải tạo “bày hành lý bán chợ trời” - tiếng lóng - một hình thức kiểm soát hành trang của tù cải tạo để hôi của. Sau đó, chúng phân tán chúng tôi đứng riêng rẽ từng nhóm nhỏ vài ba người, tù cải tạo còn phải trải qua một màn “thoát y vũ” bất đắc dĩ để chúng lục soát quần áo tù. Thế là, sau khi tịch thu toàn bộ số dược phẩm của anh em mang từ trong Nam ra, chỉ còn sót lại 10 viên “Reostop” của Lê xuân Đèo. Sau đó, bọn tù cải tạo chúng tôi mặt mày tiu nghỉu trở về lán trại, tiếp tục lên rừng đốn gỗ. Tên thiếu tá Khoát và tên tù phản bội P. T. K. mặt mày hớn hở vì chuyến nầy thắng lớn...

    Bọn cán bộ trại đem số thuốc tây nầy ra Hà Nội và tỉnh Hoàng Liên Sơn bán lại cho các con buôn, rồi thay vào đấy một loại thuốc dõm trị bá chứng tên “Xuyên Tâm Liên” để trị bịnh cho bọn tù. Đến năm 1982, nhà nước cộng sản khám phá loại thuốc nầy có độc tố phá vở các tế bào não, tim và thận và ngưng sản xuất thì đã muộn. Không biết có bao nhiêu tù cải tạo sống dở, chết dở vì uống phải loại thuốc nầy?






    * * *
    Vào mùa thu năm 1977. Bạn Lê Xuân Đèo không may vướng phải căn bệnh kiết lỵ hiểm nghèo. Sang đến tuần lễ thứ hai, người anh cứ khô héo dần như cây khô thiếu nước, gầy đến nổi chỉ còn da bọc xương, rồi nằm liệt giường, tiểu và đại tiện một chỗ. Mỗi ngày tên y công tên Lương phát cho vài viên “Xuyên Tâm Liên” và một bát cháo loãng như nước cơm chắt, tiêu chuẩn trừng phạt những người tù cải tạo bị ghép vào tội “chây lười lao động”. Qua đến đầu tuần lễ thứ ba, người anh tóp xọp như bộ xương cách trí, được bọc lại bằng một lớp da nhăn nheo màu xám xịt, đôi chân gầy guộc như hai thanh nứa, sờ vào lạnh ngắt như đồng. Anh chỉ còn thở thoi thóp, máu hình như bắt đầu đông lại trong các động mạch, đôi mắt thất thần, mở trao tráo trong hai cái hốc mắt lõm sâu. Đến buổi chiều, anh lên cơn mê sảng gọi tên vợ, tên con, rồi khóc rưng rức bằng những hạt lệ khô.Tối hôm đó, tôi ngồi bên cạnh anh cho tới giờ kẻng đổ, tôi bỏ mùng xuống cho anh, trước khi trở lại chỗ nằm.

    Kỳ lạ quá! Nửa đêm về sáng, tiếng cú rúc liên hồi trong một lùm cây nào đó, ngay phía sau lán 3 như tiếng gọi của thần chết lởn vởn đâu đây, làm tôi rùng mình. Gió từ dãy Hoàng Liên Sơn thổi về ào ào làm rung chuyển cây rừng, làm tốc mái tranh nứa, gió thổi bật cánh mấy cái phên cửa...

    Trong cái không gian lạnh lẽo ấy, vang lên những tiếng ngáy khò khò khi trầm, khi bổng, có tiếng ngáy cao vút như giọng nam “tenor”, những tiếng nghiến răng trèo trẹo, tiếng trở mình của bạn nào đó trên cái sạp tre ọp ẹp vang lên kẽo kẹt, tiếng mớ ngủ lẫn tiếng thở dài não nuột; đôi khi, có anh đang nằm mơ thấy mình đang đánh nhau với Việt Cộng, tiếng hét của anh đánh thức cả lán dậy: “Diều hâu! Diều hâu! Đại Bàng ghe rõ không trả lời! Việt Cộng tràn ngập căn cứ hỏa lực rồi! Rót pháo xã láng! Nổ chụp trên đầu chúng tôi! Lẹ lên đi mấy cha...” và tất cả âm thanh đó quyện vào nhau hợp thành một “bi trường khúc” đầy ấn tượng sâu sắc trong lòng người tù cải tạo.

    Bỗng tôi nghe tiếng con vện tru từng chập bên bờ suối, tiếng tru buồn thê thảm, kéo dài lê thê trong đêm trường tĩnh mịch. Tôi mệt mõi, ngủ thiếp đi từ lúc nào cũng không hay, cho tới khi tiếng kẻng báo thức vang lên, đánh thức mọi người dậy để chuẩn bị một ngày lao động khổ sai. Tôi nghe cả láng hoảng hốt, thét lên: “Đèo chết rồi! Đèo chết rồi!...”.

    Tôi ngồi bật dậy như cái lò xo, nhìn sang chỗ Đèo nằm, hai cái chân như hai thanh nứa già cỗi, khô khốc, buông thòng xuống đất, bị gió thổi luồn dưới sạp nứa đánh đong đưa, còn thân người của anh nằm vất vưởng trong mùng. Tôi vội vàng chạy đến, vén cái mùng lên. Tôi thấy đôi mắt đôi mắt của anh mở trợn trừng, hai giọt lệ khổ đau chắt chiu từ một kiếp người bị đày đọa trong tận cùng đáy địa ngục, ứa ra từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, còn đọng lại chưa khô; hình như, anh mới từ giã cuộc đời cách đây không lâu. Tôi lấy tay vuốt mắt người bạn tù...





    * * *
    Một cái chòi lá đơn sơ được vội vã dựng lên, chỉ có mỗi mái nứa gần khu rừng sắn, bên cạnh con suối cạn, phía sau ban chỉ huy trại. Bốn cái cộc gỗ đóng xuống đất chính giữa căn chòi, hai khúc gỗ gác song song với nhau bên trên, vừa đủ kê một tấm ván mỏng. Thi hài của Đèo trong bộ quân phục Biệt Động Quân đã bạc màu, rách tơi tả, loang lỗ những vết máu khô vì tai nạn lao động. Tôi phủ kín hình hài của anh bằng cái mềm màu đỏ. Toán mộc lo đóng quan tài, tôi trong bộ phận đào huyệt còn có Trương Đăng Sỹ và Nguyễn Minh Thanh... Chỗ anh nằm an nghỉ dưới bóng cây cổ thụ dưới chân đồi bên cạnh dòng suối, cách trại khoảng 2 cây số. Đến xế chiều, mọi việc đã hoàn tất. Sau khi tẩn liệm cho bạn Đèo xong, chúng tôi trở về trại, không ai được ở lại qua đêm để canh giữ xác của anh.

    Đêm đó, có lẽ là đêm dài nhất trong 8 năm tù cải tạo của tôi. Vừa chợp mắt là tôi thấy đôi mắt của anh còn mở trợn trừng...Quá nửa đêm về sáng. Bỗng nghe có tiếng chó sủa, tiếng gầm gừ cấu xé lẫn nhau thật dữ dội, tiếng tru tréo từ phía bìa rừng văng vẳng đưa về; hình như, chúng đang tranh ăn thì phải. Điều nầy đã khiến tôi phập phòng lo sợ, không biết chuyện gì bất hạnh sẽ xảy ra cho anh Đèo. Tôi thầm cầu nguyện với ơn trên, đừng để bầy chó rừng tha xác của anh đi!

    Trời vừa tờ mờ sáng. Sau tiếng kẻng báo thức vào lúc 6:45, tôi đã thức dậy, cuốn mùng mền, rồi vội vã đi về phía cỏng trại. Tên lính canh cho phép tôi xuất trại, ra bìa rừng thăm xác bạn. Tôi lật đật bước vào cái chòi lá, cái quan tài của Đèo được ghép vội vã bằng sáu tấm ván mỏng manh bị đẩy xô lệch trên hai cái thanh ngang, suýt chút nữa thì đổ xuống đất, cái nấp áo quan sẽ bung ra ngay. Sau khi đẩy cái áo quan lại cho ngay ngắn, tôi bước ra bên ngoài quan sát hiện trường. Cả một vùng cỏ dại chung quanh cái chòi bị ngã rạp xuống, loang lổ vết máu và lông thú. Tôi đoán không sai, tại ngay chỗ nầy, đêm qua đã xảy ra trận ác đấu thật quyết liệt giữa bầy chó rừng, tranh xác anh Đèo để tha vào rừng.

    Có lẽ đánh được hơi người quen thuộc, con chó vện đang nằm bất động gần đó, nó ngước đầu lên nhìn tôi, cố gắng chống hai cái chân trước xuống đất, gượng lết về phía tôi, nhưng được vài bước rồi ngã quỵ xuống, mồm rên ư ...ử vì đau đớn. Tôi vội vàng chạy đến ôm chấm lấy nó vào lòng. Con vệt liếm vào mặt tôi một cách trìu mến, rồi mệt lả, nghẻo đầu lên vai tôi. Đặt nó nằm xuống đất để quan sát: con mắt bên phải bị lột một mảnh da, còn bê bết máu, cái chân trước bị táp gẫy xương và cái đùi sau bị ngoạm mất một mãng thịt to, vết thương còn rỉ máu âm ỉ. Tôi vô cùng xúc động nhìn nó một cách cảm phục và thương mến.

    Thật vậy, không một ai có thể ngờ rằng, con chó vện đã liều mạng sống của nó, tả xung, hữu đột, quyết đấu một mất một còn với cả một bầy chó rừng hoang dại để bảo vệ cái xác thân của Lê Xuân Đèo, người bạn của nó, đang nằm trơ trọi giữa bầy dã thú. Đối với tôi, con chó vện là hiện thân của một dũng sĩ, tuy mang hình hài của loài thú bốn chân, nhưng có một trái tim rất “người” dám vì nghĩa quên mình, chiến đấu đơn độc, không lùi bước trước kẻ thù. Tinh thần quyết đấu của con chó vện, như một lời nhắn nhủ đầy khí phách với đồng loại của nó: “Tụi bây muốn làm thịt Lê Xuân Đèo, phải bước qua xác chết của tao!”.

    Tôi bế con vện ra bờ suối, khuất sau đám sắn non, rửa vết thương còn đẫm máu của nó mà ứa nước mắt. Con vện liếm bàn tay tôi một cách thân ái. Tôi thì thầm bên tai nó: “Nằm đây chờ tao; lát nữa, tao trở lại tìm cách đưa mầy về nhà chủ của mầy!” Tôi đứng dậy lui gót, nhìn trong ánh mắt lưu luyến của nó và khi nó đưa cái chân trước quào quào một cách yếu ớt trong không khí như những cái vẫy tay chào vĩnh biệt, khiến tôi có cảm tưởng; hình như, nó muốn trối trăn điều gì đó với tôi chăng?

    Tôi từ giã nó, trở vào trại để cùng với anh em lo việc mai táng Lê Xuân Đèo. Toán chung sự có bốn người: Minh Thanh, tôi và hai bạn tù nữa. Đúng 8 giờ sáng, chúng tôi đẩy cái xe cải tiến cũ kỹ đi ngang qua ban chỉ huy trại, gặp tên trung úy Quang lùn tịt, ngoắc chúng tôi dừng lại, nói: “Này, nhớ đấy nhé! Giữ cái áo quan lại, dành cho những người kế tiếp! Các anh phải biết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa đấy! Sẽ không có cái áo quan thứ hai đâu!”

    Sau khi đặt quan tài của Lê Xuân Đèo lên xe cải tiến. Hai anh cầm càng, tôi và Minh Thanh phụ đẩy. Chiếc xe từ từ lăn bánh trên con đường đất gồ ghề còn đẵm hơi sương. Hai cái bánh xe khô nhớt, một cái nghiêng bên nầy, một cái ngã bên kia, phát ra những tiếng kót két rên rỉ một cách mệt nhọc, đau khổ. Hai anh bạn phía trước gồng mình, ấn cái càng xe xuống, còn tôi và Minh Thanh vừa đẩy, vừa nâng phần sau xe lên, vì sợ hai cái bánh xe bung vành, văng ra khỏi cái xe cải tiến bất cứ lúc nào. Chúng tôi phải đẩy cái xe tang lăn qua ba cái dốc cao mới đến bờ suối.

    Sau vài phút nghỉ giải lao, chúng tôi cùng nhau kê vai, khiêng quan tài lên lưng chừng đồi, chỗ an giấc ngàn thu của anh, rồi chia nhau vô rừng kiếm dây rừng bện lại như hai sợi dây thừng. Đặt quan tài lên trên hai sợi dây đó, rồi mỗi người nắm một đầu dây, thả từ từ xuống đáy huyệt. Xong rồi, chúng tôi lấp đất lại, vun thành một nấm mộ đơn sơ. Bốn anh em đứng trước mộ, cúi đầu mặc niệm mà trong thổn thức, bồi hồi. Tôi hái một ít hoa rừng đặt lên nấm mồ của bạn.

    Bạn Nguyễn Minh Thanh cảm khái làm một bài thơ với tựa đề “NẤM MỒ HOANG” để tưởng nhớ bạn Lê Xuân Đèo, người bỏ cuộc giữa đường.

    • Một nấm mồ hoang cảnh lạnh lùng
      Lơ thơ cỏ úa lá chiều rung
      Quạnh hiu vằng vặc vây quanh mộ
      Rên rỉ bầy ve tiếng não nùng

      Gởi xác ốm nhom tận chốn nầy
      Bao la rừng núi, suối trời mây
      Người đi vĩnh viễn đã yên phận
      Ngàn dặm người thương đâu có hay!

      Sương khói hoàng hôn dọc mỗi đời
      Công danh phú quí lá vàng rơi
      Than ôi! Thành bại đều chung cuộc
      Tuần tự rồi ai cũng thế thôi!


    Trên đường trở về trại, khi đi đến gần ban chỉ huy, tôi tách rời anh em, lẻn vào khu rừng sắn, ra bờ suối kiếm con vện. Tôi vô cùng sững sờ nhìn thấy con vện bị ai đó treo ngược đầu xuống đất, bốn chân bị căng ra, buộc chặt vào hai cái cộc gỗ, cổ bị cắt tiết, máu đỏ nhỏ từng giọt xuống cái cái chậu bằng thau đặt dưới đất. Tôi quỳ xuống nâng đầu của nó lên, cả thân mình con vện khẻ run lên lần cuối cùng, rồi duỗi thẳng ra bất động. Cái chết đau đớn của nó làm tôi rớt nước mắt. Tên trung sĩ Kây đứng sau lưng tôi từ lúc nào cũng không hay. Hắn lên tiếng làm tôi giật mình:
    - “Trong giờ lao động, anh ra đứng đây làm gì thế?”

    Tôi nhanh trí, đáp:
    - “Vừa mới mai táng anh Lê Xuân Đèo xong, ra suối rửa tay chân.”

    Hắn nói:
    - “Tôi nhờ anh giúp hộ một tay.”
    - “Được, việc gì thế?” tôi hỏi.

    Hắn nói như ra lệnh:
    “Anh tháo dây, mang con cầy vào nhà bếp cho tôi!”

    Nói xong, hắn mang cái thau tiết đi trước. Tôi tháo sợi dây rừng, ôm con vện vào lòng như ôm thi thể một chiến hữu vừa nằm xuống sau một trận đấu...tôi thất thểu ôm xác con vện vào khu nhà bếp mà lòng quặn đau.

    Hôm sau, được phân công làm vệ sinh khu nhà bếp, tôi nhặt những mảnh xương vụn của con vện, đặt lên vào những tấm lá chuối, gói lại cẩn thận. Nhân lúc đi rừng đốn gỗ, tôi ghé thăm mộ bạn Đèo, rồi dùng dao đào một cái hố nhỏ, chôn bộ hài cốt của con chó vện, nằm bên cạnh bạn Lê Xuân Đèo cho có bạn.





    * * *
    Bắt đầu từ cuối tháng chạp kéo dài đến tháng giêng năm sau. Núi rừng Hoàng Liên Sơn, bầu trời ảm đạm và rét mướt, mưa bụi giăng giăng khắp nơi gần như bất tận. Mỗi buổi chiều, người tù trùm chăn kín mít, ngồi co ro trong lán, nhìn những cơn mưa bụi bay bay trong hoàng hôn, ai nấy đều chạnh lòng nhớ quê hương, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ con, nhớ vợ da diết. Gọi là mưa bụi vì lượng nước mưa quá yếu không thể rơi thẳng xuống mặt đất, bị gió thổi bay đi, tỏa ra thành những cơn mưa bụi.

    Bước sang tháng giêng. Hạt nước mưa kết tinh lớn hơn một chút có thể rơi thẳng xuống mặt đất, nhưng bị gió tạt nghiêng nghiêng, tạo thành những cơn mưa phùn báo hiệu đất trời sắp giao mùa. Sợi mưa phùn mong manh như sợi tóc rối, đan nhau thành những màn nước trắng đục, giăng kín núi rừng, đồng ruộng, thung lũng, sông hồ ... Trời đất nhạt nhòa trong những cơn mua phùn dai dẳng, kéo dài lê thê trên vùng đất khó. Trong bầu khí hậu ẩm thấp ấy, cây cỏ đang âm thầm nẩy lộc, đâm chồi, chờ trỗi dậy tưng bừng khi mùa xuân đến. Chỉ tội cho bọn tù cải tạo phải lao động khổ sai trong rừng sâu, tay chân tê cóng vì đói và lạnh đến rét run.

    Thượng tuần tháng 2 năm 1978. Trại chuẩn bị ăn mừng Tết Nguyên Đán Mậu Ngọ vài ngày sau đó. Tôi được phân công vào đội cắt lá dong dùng để gói bánh chưng. Lá dong thường mọc hoang ở những vùng đất ẩm ướt. Tôi đi vào rừng, lang thang trong thung lũng một mình để tìm lá dong. Tôi nhớ quá anh bạn Đèo và con chó vện thân thương.

    Mới hừng đông sáng mà tôi đã nghe tiếng chiêng, tiếng trống vang lên rộn rã từ bản làng của dân tộc Thái Đen. Động tính hiếu kỳ, tôi lần theo con đường mòn dọc theo con suối chảy róc rách để đi vào bản Thái. Ô hay! Trước mắt tôi là cả một rừng hoa màu trắng tinh khiết như hoa bưởi mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Từ những thân cây khẳng khiu, uốn khúc dù bám vào vách núi đá cheo leo vẫn trổ những chùm hoa trắng muốt, hoa nở rộ khắp núi rừng, dọc theo suối, hoa có năm cánh, nhụy màu hồng, gân màu tim tím. Mỗi cơn gió nhẹ nhàng lướt thoảng qua khu rừng là những cánh hoa rung lên như hàng vạn cánh bướm đang vỗ cánh chấp chới trong không khí.

    Tôi đi lần theo con đường mòn tìm gia đình cụ Trừng không mấy khó kăn. Tôi đoán, hôm nay là ngày hội làng thì phải. Trước sân nhà của cụ các bếp đỏ lửa, rực than hồng, họ có mươi người, chia ra làm hai phái: phái nữ đang lo nấu thức ăn, còn phía nam đang chơi nhạc cụ dân tộc như thổi khèn, khua chiêng, trống...rất vui nhộn. Thấy tôi đường đột bước vào sân, tất cả đều dừng tay, nhìn tôi trân trối. Chỉ cần nhìn thấy bộ đồ rằn ri của tôi đang mặc, họ đã biết tôi là ai rồi. Một thiếu phụ vội vã chạy đến cầu thang, lên tiếng gọi:
    - “Bố ơi! Có thằng lính ngụy nó xông vào nhà mình nầy! Con tống cổ nó đi nhá!”

    Có tiếng quát vọng xuống:
    - “Khách quý nhà mình đấy! Đừng hỗn láo, con ạ!”

    Đứng trên cầu thang, nhìn thấy tôi, cụ Trừng có vẻ mừng lắm. Cụ quay vào trong căn nhà sàn, gọi bà cụ ơi ới:
    - “Bà nầy, theo tôi xuống đây nhanh lên!”

    Cụ vội vã chạy xuống cầu thang trước, cụ bà nối gót theo sau. Cụ ôm chầm lấy tôi, trước con mắt ngơ ngác của mọi người. Cụ Trừng nói với vợ:
    - “Bà còn sống đến ngày hôm nay là nhờ người tù cải tạo nầy đấy!”

    Tôi vội vàng đính chính ngay:
    - “Không phải tôi cứu bà cụ đâu! Anh Lê Xuân Đèo đấy cụ à!”

    Cụ Trừng vỗ trán một cái thật mạnh, nói:
    - “À, tôi nhớ ra rồi! Anh Lê Xuân Đèo đâu?”

    Tôi buông thỏng một câu:
    - “Đèo chết rồi!”

    Cụ Trừng bàng hoàng trong giây lát, rồi hỏi gằn:
    - “Bọn quản giáo đánh chết anh Đèo,, phải thế không?”

    - “Không phải vậy, anh Đèo chết vì bệnh kiết lỵ!”

    Bà cụ nói:
    - “Tôi thoát khỏi bệnh kiết lỵ là nhờ 10 viên thuốc “con nhọng” của anh ấy biếu! Sao anh Đèo không dùng thuốc ấy để chửa bệnh cho mình nhỉ?”

    Tôi buộc lòng phải thú thật, nói:
    - “Đó là 10 viên thuốc cuối cùng mà anh Đèo đã biếu cho cụ!”

    Bà cụ nghe tôi nói, vô cùng xúc động, giọng run run:
    - “Anh Đèo đã hy sinh cái mạng của mình để cho tôi được sống! Thế mới rõ trắng đen, đồng bào dân tộc chúng tôi ở ngoài nầy đều bị lũ chúng nó bưng bít, tuyên truyền lừa bịp cả! Chúng nó còn bảo “lính ngụy” các anh tàn ác lắm! Mổ bụng, moi gan người ăn sống, uống cả máu tươi! Bọn chúng nó ngậm máu phun người, giỏi thật đấy!”

    Đám thanh niên nghe bà cụ nói, xem chừng đã hiểu biết mọi chuyện, họ bỏ hẳn thái độ thù nghịch khi vừa mới gặp tôi. Một anh bạn trẻ đến nắm tay tôi mời mọc rất chân tình:
    - “Anh ở lại dùng cỗ với chúng em nhá! Hôm nay, mới bắt đầu mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” của dân tộc Thái chúng em!”

    Tôi hỏi:
    - “Mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” là lễ hội gì vậy?”

    Cụ Trừng giải thích:
    - “Đó là ngày “Hội Hoa Ban” trên vùng cao Hoàng Liên Sơn để đón mùa xuân đến. Hoa ban chỉ nở rộ vào tiết lập xuân, phủ trắng cả núi rừng trên các bản Thái. Đặc điểm của loài hoa nầy là màu trắng, tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khiết của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi! Một chút nữa đây, sau khi ăn uống no say, bọn họ sẽ chạy vào hái những hoa ban thật đẹp tặng cho nhau làm quà. Mấy cô gái sẽ thay đổi xiêm y, đầu chít khăn “piêu”, có đôi hàng cúc hình bướm trên chiếc áo cóm, thêu tua ở vai, cái quần “sin” (giống như xà-rông) vải xanh thắt ngang lưng để múa xòe,” cụ Trừng cố mời. “Anh ở nán lại đây chơi với chúng tôi.”

    Mặt trời đã lên khá cao. Rất tiếc là tôi phải từ giã họ để còn kịp đi cắt lá dong. Bỗng có ai khều nhẹ vào vai, tôi quay đầu lại nhìn, đó là một cô bé Thái còn rất trẻ, độ chừng đôi tám, mắt có mí lót, mũi hơi cao, nước da bánh mật, trong giống người Ấn hơn là người Kinh. Cô ta trao cho bó hoa ban nới nở, vừa mới hái vội ở trong rừng về tặng tôi, làm món quà trong ngày “Hội Hoa Ban”. Bây giờ tôi mới biết loại hoa màu trắng nõn nà đó chính là hoa ban. Cô bé thỏ thẻ, nói đùa:
    - “Bao giờ anh về Sài Gòn, cho em đi theo với nhá!”

    Tôi vô cùng ngạc nhiên khi một cô bé Thái miền sơn cước, còn biết chối bỏ cái tên Thành phố Hồ Chí Minh do tập đoàn Lãnh đạo Cộng Sản áp đặt sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, mà vẫn gọi cái tên cũ “Sài Gòn”, thủ đô thân yêu của người Miền Nam.

    Sau khi cắt xong một mớ lá dong, trên đường đi về trại, tôi ghé viếng thăm mộ bạn Lê Xuân Đèo. Tôi đặt bó hoa ban trên nấm mồ, rồi thì thầm báo cáo với hắn: “Vinh quang nầy thuộc về mầy! Chớ không phải của tao!” Nghĩ cho cùng, cái chết tức tưởi của bạn Lê Xuân Đèo không đến nỗi vô ích. Tôi phải gọi đó là một sự hy sinh. Những người lính QLVNCH thuộc mọi Quân, Binh chủng đã anh dũng hy sinh ngoài mặt trận trong thời chiến. Và những người lính âm thầm nằm xuống trong lao tù cộng sản, đều có giá trị cao quý như nhau! Thật vậy, anh nằm xuống để thắp lên một ánh đuốc lẻ loi, soi thủng màn đêm tăm tối đầy hận thù bên kia “bức màn sắt”, do bọn CSBV dựng lên tại Miền Bắc XHCN, bằng những thủ đoạn tuyên truyền cực kỳ dối trá và bẩn thỉu. Cái chết của Lê Xuân Đèo đã làm sáng tỏ chân giá trị đích thực của người lính thuộc QLVNCH. Họ cầm súng để nối nghiệp tiền nhân, tận tụy ngày đêm đi gìn giữ quê hương, đem xương trắng máu đào để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.






    * * *
    Sau Tết Mậu Ngọ 1978. Tất cả anh em chúng tôi khăn gói lên đường, di chuyển đến một trại tù cải tạo khác, lần nầy thì di chuyển thật. Và chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ khai quang, dựng nhà, trồng hoa màu ở những vùng rừng núi hiểm trở khác để đồng bào miền xuôi về đó, xây dựng nông trường. Lúc vượt qua đỉnh đèo Lủng Lô, Trương Đăng Sỹ, Nguyễn Minh Thanh và tôi dừng lại giây phút ngắn ngủi, chúng tôi cùng hướng về rặng núi Phu Luông còn phảng phất sương mù, vẫy tay chào vĩnh biệt người bạn tù thân mến, anh Lê Xuân Đèo: NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN!





    Nguyễn Vĩnh Long Hồ
              

    https://hon-viet.co.uk/NguyenVinhLongHo ... CaiTao.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Mưa Trên Đảo Air Raya ― Trường Hải ― Elvis Phương

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          











          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Đường Ra Vĩnh Phú

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Những Anh Hùng Vô Danh đồn Dak Seang
    __________________________________
    Trường Sơn Lê-Xuân-Nhị





    “Thành kính tưởng niệm các chiến sĩ Địa Phương Quân anh dũng đồn Dak Seang”

    “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” Đại úy Ngọc thòng một câu đùa trong chiếc Phi Cơ L19 ở cao độ 8 ngàn bộ, hôm chúng tôi cất cánh từ Nha Trang đi Kontum với hành trang cho 15 ngày biệt phái. Đồng ý đó là một câu đùa, nhưng tôi không cười được chút nào cả vì lòng tôi đang héo hon như cái vỏ xe bị xì lốp.

    Đang vui vẻ với đám bạn bè từ Ban-Mê-Thuột về Nha Trang nghỉ mát, ngày nào cũng sáng tiểu yến với cà phê, phở, thuốc lá 3 số 5. Chiều đại yến với la de, nem nướng, sò huyết mà phải khăn gói qủa mướp ra đi như thế này thì thật là đau khổ vô cùng, lại mới bị Thủy giận, tôi chưa có dịp làm hòa. Tính vốn lo xa, tôi đâm ra hãi. Đi biền biệt 15 ngày mà không từ gĩa em được, em tưởng mình… rớt máy bay chết rồi bèn đi cặp * khác thì hết một đời trai. Cứ tưởng tượng cái cảnh Thủy cặp tay một * chết tiệt nào đó đi coi hát bóng, đi nhảy đầm vung vít là tôi cảm thấy… hết muốn bay bổng. Đời phi công sao khổ thế nầy, tôi than thở. có lẽ thấy được những cái vẻ đau khổ khó chịu trên khuôn mặt * Thiếu úy trẻ, anh Ngọc cười.
    • Nhìn thấy cái bản mặt táo bón của chú mầy tao nhớ đến cái thuở huy hoàng của những ngày..chưa lấy vợ.
    Tôi phản đối “ở Phi Đoàn 114 mà không biết phản đối thì chẳng bao giờ lớn được”.
    • Chưa lấy vợ thì khổ bỏ xừ đi chứ huy hoàng gì anh?. Bị đào hành lên hành xuống, quay vòng vòng như con mắm có gì mà huy hoàng,. Lại còn phải đi biệt phái lâu ngày như thế này, xát thân ở nơi tiền tuyến không sợ mất mà chỉ sợ… mất đào ở nhà.
    Đại úy Ngọc bật cười lên khoái chí.
    • Hậu sinh…. chẳng biết mẹ gì cả. Mày lấy vợ đi rồi mới thấy cái gía trị của những ngày biệt phái. này nhé, ở nhà với vợ, có * chó nào dám ti teo, đi phải thưa về phải trình, tiền bạc phải “báo cáo”đầy đủ. Ấy là chưa nói đến chuyện ở gần mặt trời thì phải sống có qui củ, có nề nếp, gặp xếp từ xa là phải cung tay chào rốm rốp. * nào cũng muốn kiếm thêm tí điểm thì phải biết điếu đóm v..v..
      Đi biệt phái, nói một cách văn chương, đó là “những ngày nghỉ mát” vì thứ nhất mình thoát khỏi vòng cương tỏa… bà tư lệnh , muốn làm gì thì làm, gặp bất kỳ cô thôn nữ yêu kiều nào cũng có quyền đấu tưới hột sen, muốn khoe mình chưa vợ hay vợ… mới chết thì đó là quyền của mình. Các cô thôn nữ vốn dễ dãi và cả tin, chẳng ai thèm khiểm chứng hay thắc mắt lôi thôi.
      Thứ hai, đi biệt phái, cuộc sống không gò bó như ở phi đoàn. Mình tự chỉ huy lấy, đời sống thoải mái hơn, chỉ làm sao đừng bê trể công việc, thứ ba, làm việc trực tiếp với bộ binh có nhiều cái thú. Mười tám tuổi bỏ nhà đăng lính đâu phải để suốt ngày dòm ba cái đồng hồ phi cơ rồi cứ hết cất cánh rồi hạ cánh. Phải có “Action” phải có đánh bomb, có ăn pháo kích v..v.
    Nghe anh Ngọc thuyết một lúc là tôi đã thấy xiêu lòng.
    • Mẹ, tôi đâu biết là lấy vợ sẽ khổ như thế này. Sống bị kềm kẹp vậy chả trách gì ông nào cũng có vẻ chán đời.
    Anh Ngọc cảm thấy hình như tôi đã thấm ý, nên kết luận.
    • - Đó là những cái khác nhau giữa hai thế hệ, Thế hệ chưa vợ và thế hệ có vợ. Bây giờ nhìn lại mấy chú, anh thấy tiếc hùi hụi. Rồi hứng tình, anh chơi thêm hai câu thơ, giọng vịt cồ nghe không có tính chất…văn học chút nào hết.
      • Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
        Đời hết vui khi đã vẹn câu thề

    Sau hai câu thơ là một chuỗi cười hì hì nghe rất ngứa lỗ tai. Men rượu của buổi tiệc gĩa từ tối hôm qua còn ngây ngất trong máu tôi, làm đầu óc cứ dật dờ. Tôi tắt radio, bảo anh Ngọc:
    • - Anh bay hộ, em buồn ngủ quá.

    Anh Ngọc dễ dãi:
    • - Ngủ đi, tao bay cho. Ráng ngủ lấy sức, xuống đến Kontum chuyến này có nhiều chuyện lắm.

    Tôi kéo tuột ghế ra sau, nhắm mắt làm một giấc ngon lành….





    Biệt đội Kontum lần ấy, các phi hành đoàn ở trong cư xá vãng lai Sĩ Quan của Tiểu Khu. Cả thành phố Kontum như một trại lính khổng lồ, đi đâu cũng chỉ gặp toàn lính là lính. Từ lính không quân đến lính bộ binh, lính nhảy Dù, lính Lôi Hổ, lính Biệt Động Quân, lính Biệt Kích….., ai nấy võ khí trang bị tới răng trông phát khiếp. Lâu lâu, phải chịu khó tìm tòi và chờ đúng giờ tan học mới nhìn thấy được vài tà áo dài phất phơ cuả các em nữ sinh, Những tà áo dài bé nhỏ xinh xinh coi có vẻ vừa lạc lõng vừa hiền lành làm sao trong cái thế giới đầy dẫy súng đạn của thành phố địa đầu này. Cũng như một con én không làm được mùa xuân, một chiếc áo dài tha thướt cũng không làm mất đi được cái vẻ chinh chiến của quê hương khốn khổ. Đứng nhìn ngắm những tà áo này, tôi thấy nhớ Thủy chi lạ, buổi chiều cơm nước xong về khu tạm trú thắp đèn cầy đánh bài cho hết giờ. Buổi tối, cái khổ nhất của chúng tôi là hai cây cà nông 175 ly to tổ bố của thiết đoàn 14 Kỵ Binh đặt cách dẫy nhà chúng tôi ở chừng 500 thước. Hai cây súng mắc dịch này, ban đêm, giữa lúc mọi người đang ngủ say, cứ thỉnh thoảng nổ một vài phát bắn quấy rối rồi nằm im. Đang mơ màng giấc diệp, tiếng súng đại bác ở sát bên bắn một phát làm chúng tôi nẩy tung muốn văng ra khỏi giường
    • ” Đêm hôm khuya khoắc, bắn con C…gì mà bắn độc thế? Sao không về nhà mà bắn… bà xã cho được việc”,
    một giọng càu nhàu cất lên. Lại có giọng khác hăm dọa
    • ” ngày mai tao phải “phản đấu”mới được.
    Đó là tiếng nói của Đại úy Bá, trưởng biệt đội. Ông đại úy này người dân xứ Quảng, lâu lâu phải để cho ông ấy “phản đấu” ai một lần thì ông ăn cơm mới ngon. Mất cả tiếng sau mới dỗ được giấc ngủ. Nhiều khi vừa mới chợp mắt thì lại “ầm” một tiếng như trời long đất lở tiếp theo, lỗ tai như bi ai tống vào một cây đinh. Đến lúc này thi đại úy Bá không nhịn được nữa, chửi thề um sùm
    • “Đ..” mọa nó, bén chi mà bén miết..”.
    Thế là hết mẹ nó một tiếng đồng hồ nữa rồi… Tôi không hiểu các anh em bộ binh làm sao mà sống được như vậy không phải chỉ trong 15 ngày biệt phái như tôi mà tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác.

    Phải đi biệt phái những nơi như vầy mới hiểu được và thương các anh em bộ binh. Người lính bộ binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác biệt giữa sự sống và cái chết hầu như không có ranh giới. Cuộc đời là địa ngục thì chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Và có lẽ, chết sẽ là một giải thoát. Tôi đã tận mắt nhìn thấy nhiều người sống suốt mấy tháng trong giao thông hào nước ngập tới háng. Đó là nơi mà anh em vừa ăn, ỡ ngủ v.v.. Các anh cũng là người với những cảm giác bình thường, biết lạnh, biết nóng, biết thèm ăn ngon, biết sợ đau khổ, sợ chết. Mãnh lực nào. sức lôi cuốn nào đã khiến anh em từ bỏ gia đình ôm cây M16 để trở thành người lính bộ binh. Trở thành người linh bộ binh để “chết thay dùm dân tộc” để chấp nhận mọi đắng cay, mọi hiểm nguy, Chắc chắn không phải để lãnh số lương mười mấy ngàn , chỉ đủ mua bao gạo. Cũng không phải vì sợ cảnh sát bắt đi quân dịch ở đầu ngõ. Cũng càng không phải vì mủi lòng bỡi vài cái bích chương kêu gọi rẻ tiền của chính phủ dán trong thành phố, hay vì câu hát của Hùng Cường , Mai Lệ Huyền. Tôi nghĩ, anh em đã ra đi chỉ vì lòng yêu nước. Vì, anh em nghĩ rằng cầm súng chiến đấu là bổn phận của ngững người trai thời ly loạn. Chỉ biết rằng đi để thể hiện chữ “Yêu” yêu Quê Hương yêu Tổ Quốc, không cần tính toán, không đo lường gía cả. Chỉ vài ngày đi bay mà anh em ai cũng bị hốc hác thấy rõ. Đêm mất ngủ, lên trời gió mát, chỉ muốn nhắm mắt. Cùng tắc biến, biến tất thông, mấy hôm sau chúng tôi biết cách trị.. Pháo Binh. Trước khi leo lên giường ngủ, chúng tôi lấy bông gòn nhét kín hai lỗ tai. Thế là mấy chú thiết giáp cứ mặc sức mà bắn. Có *… Thiếu úy tên On nằm gần giường tôi, mới được cho đi hành quân lần đầu nên lẩm cẩm không chịu được. Tên nghe đã lẩm cẩm mà người lại còn lẩm cẩm hơn. Đang đêm, tôi thấy nó thỉnh thoảng ngồi dậy, móc bông gòn ra khỏi hai lỗ tai, nghe ngóng một chút rồi lại nhét vào, nằm xuống. Mặt mày nó làm ra vẻ quan trọng lắm. Trằn trọc không ngủ được, tôi thắc mắc:
    • - Mày làm cái trò khỉ gì đó ông Thiếu úy On?

    Nó đáp tỉnh queo :
    • - Tao phải thức dậy để nghe ngóng xem có pháo kích không.

    Tôi suýt bật cười. Đúng là * lẩm cẩm, nó làm như Việt Cộng chờ nó tháo bông gòn ra khỏi hai lỗ tai rồi mới thèm pháo. Tôi phịa một câu :
    • - Tao có ý kiến này hay hơn. Mày chỉ cần rút bông gòn ra khỏi một lỗ tai thôi. Một tai bịt kín để khỏi nghe pháo binh mình, tai kia bỏ trống để nghe VC pháo kích.

    Một thoáng êm lặng, rồi như biết được câu móc lò của tôi, * On chửi thề:
    • - Đ.. M.. * mất dạy. Mày mà đòi móc lò tao sao được. Tao đâu có ngu.







    Thấm thoát mà 15 ngày biệt phái của tôi trôi qua mau. Con người qủa thật là dễ thích ứng với hoàn cảnh mới. Tôi chỉ còn nhớ Thủy… sơ sơ thôi chứ không còn “nồng nàn da diết” như những ngày mới đến đây nữa. Cuộc đời biệt phái cũng có nhiều niềm vui khác như đi uống cà phê đêm, nhậu nhẹt, gặp lại bạn bè cũ, kết bạn bè mới. Với lại, chúng tôi vừa khám phá ra một quán cà phê mới khai trương. Cô Cashier coi xinh không chịu được. Thế là chiều chiều cơm nước xong, chúng tôi bảy tám người chất nhau lên chiếc xe Jeep ra quán cà phê ngồi… lì đến tới tối. Giữa khu rừng núi hoang dại này, dễ gì kiếm được một cành hoa. Tôi để ý thấy Thiếu úy On yêu đời ra mặt. Không hiểu nó tính dợt le với ai mà đi biệt phái ở nơi rừng sâu núi thẩm này cũng mang theo được mấy cái khăn quàng cổ đủ các màu. Đi uống cà phê những lần sau này nó nhất định phải đóng thêm cái khăn quàng cổ màu tím vào cho ra cái điều như là… màu tím hoa sim, coi chán đời không chịu được. Vào quán cà phê, Thiếu úy On ăn nói chững chạc đàng hoàng, không láu cá nham nhở như tôi.. Có mấy lần tôi tính thò tay ra sờ mông em thì bị nó gạt phắt đi, điệu hung hãn làm như nó… chưa sờ đít ai bao giờ. Nó muốn mang khăn quàng màu gì hay tán tỉnh gì thì kệ nó, tôi không để ý tới. Cái làm tôi thích thú nhất là mỗi lần ra về, cu cậu nhất định dành trả tiền cho kỳ được. Di nhiên, tôi không bao giờ phản đối cái mục này. Tôi biết * khỉ này nó có bao giờ trả tiền cà phê cho ai đâu. Hóa ra là con người khi yêu ai cũng trở thành dễ thương hết. Chả trách gì nhà văn Shakespeare đã phán một câu
    • “everybody loves the lover”. Cả thế giới đều yêu một kẻ si tình.
    Đúng thật. Tôi ước giá phi đoàn có chừng chục * như Thiếu úy On thì tôi khỏi sợ tốn tiền cà phê thuốc lá. Được trớn, tôi xúi dại nó, bảo hay là mầy xin ở lại Kontum luôn cho anh em nhờ. Nhưng nó quắc mắt lên, cười khỉnh
    • “Vừa phải thôi… tám. Tao tuy ngu nhưng đâu có ngu hơn mày.”


    Lần biệt phái này, trái với lời anh Ngọc tiên đoán, sư đoàn 23 BB không có đụng trận nào ra hồn cả. Thỉnh thoảng một bọn ” giặc cỏ” đến quấy rối rồi lặn mau như chuột. Dường như cả hai bên đang nghỉ ngơi dưỡng sức. Dưới đất mà không thèm đánh nhau thì trên trời biết ăn thua với ai. Những phi vụ air cover nhàn rỗi, tôi hỏi đại úy Ngọc đi ” duy trì khả năng” bắn rocket. “duy trì khả năng” là một danh từ không quân dành cho những anh chàng phi công văn phòng, sợ lâu quá không bay thì lúc leo lên tàu, thì quên béng nó mất cái cần lái nằm chỗ nào nên phải bay “duy trì khả năng” cho khỏi quên. Tôi thì khoái tập bắn rocket sao cho nó đẹp như ‘Dăng gô” bắn súng. Chỉ đâu bắn trúng đó. Cái kiểu bắn rocket của tôi phi đoàn ai cũng chán vì lối bắn mất dạy. Bay trên mục tiêu, Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào nhiều khi gần như cắm đầu thẳng xuống. Cứ thế mà bóp cò. Bắn thì dễ nhưng khi kéo tàu lên mới là cực hình. “G” đâu mà lắm thế , mặt mũi cứ dài ra cả thước. nhưng đại úy Ngọc chịu chơi, lần nào cũng cho tôi bắn. Nhiều khi anh còn nhìn “tác phẩm” của tôi phê bình
    • “Số mày sinh ra để bay khu trục mà bị trời bắt lái .. L19. Đúng là con nhà vô phúc”.
    Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai vào khoảng 3 giờ chiều. Lên trời, làm vài vòng, tôi hỏi đại úy Ngọc :
    • - Hay mình làm vài vòng, nếu không có gì thì đi kiếm cái chòi thượng nào đó “duy trì khả năng” rồi về đáp. Mai đổi biệt đội khác rồi.

    Đại úy Ngọc tự nhiên phản đối:
    • - Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak Pek đi. Tao đi quan sát lần chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi hành đoàn mới.

    Có cái gì thắc mắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra. Lát sau anh nói:
    • - Mày để ý thấy chiến trường lần này, đặc biệt là cách mấy ngày hôm nay yên lặng một cách quá đáng không?

    Tôi chả biết gì, trả lời:
    • - Yên thì có yên đó, nhưng mà có gì không anh?
      - Thường thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.

    Tôi nói xuôi:
    • - Mai mình về rồi, nhằm nhò gì.








    Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn Dakseang, phía Nam của Dakto. Đại úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo một vòng.
    - Để tao coi. Đ.M. hình như đồn này đang bị pháo kích.
    Chỉ một thoáng sau anh la lên:
    - Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.
    Anh Ngọc gọi máy về Trung Tâm Hành Quân, báo cáo những gì mình thấy và xin tần số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung Tâm Hành Quân xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho thấy đồn sẽ bị tấn công. Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm cao độ. Vừa tà tà bay vô thì bỗng hàng chục cây phòng không nhắm vào chúng tôi nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu vì tôi nghe lên vài tiếng bụp bụp. Tôi càu nhàu:
    • “15 ngày biệt phái không sao, ngày cuối cùng mà lãnh một viên vào.. đít là xui quảy..”
    vô không nổi, tôi quẹo ra. Đại úy Ngọc phê bình:
    • - Trên trời mà phòng không “kèm cứng một rừng” như vậy là dưới đất nó đã chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng thì đồn này chắc mất tối nay.

    Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi cơ được sử dụng liên tục. Cái gọi pháo binh, cái trực với đồn Dakseang, cái nói thẳng với Bộ Tư Lệnh chiến trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc liệt, Tôi lên cao chút xíu rồi rình rình lại chui vào từ một hướng khác. Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây “broken” từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến gần 8 ngàn bộ trên trời. Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây thì phải mất một lúc mới trở lại được chỗ quan sát cũ. Đại úy Ngọc chửi thề
    • “Đ.M. mây mà cũng bị VC dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao la sao không kiếm chỗ bay mà cứ lẩn quẩn làm con C.. ở đây.”
    Tôi đã cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị hàng chục họng phòng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên
    • “súng đâu mà chúng nó lắm thế”
    Tôi đành vật lộn với mấy cụm mây…VC này. Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nả 130 ly vào đồn, Hai cây đại pháo, một cây đặt ở ven làng cách đó chừng 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện cứ tà tà nã từng trái một vào đồn. Từ trên, tôi nhìn thấy rõ ràng những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo “phụ diễn”. Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần nát cả họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện, anh Ngọc gọi pháo từ căn cứ pháo binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được tọa độ, đã nghe ở dưới đất kêu trời:
    • - Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới… Tết cũng huề.
      - Thì bạn quay nòng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó cũng được.
      - Xong rồi, để tôi cho yếu tố tác xạ
      – Yếu tố mẹ gì, bắn đi bạn….







    Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dakseang có vẻ bối rối:
    • - Bạch Ưng, đây Thanh Trị.
      - Nghe 5 bạn.
      - Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.

    Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa cối vừa pháo xuông một diện tích tí teo như thế kia thì còn hầm còn hố nào.
    Anh Ngọc bỗng nẩy ra một kế…chết người.
    • - Nếu để nó pháo điệu này thì chừng tí nữa quân mình chẳng còn gì hết. Mình phải “chiến tranh chính trị” mới được.
      – Có học trường chiến tranh chính trị ngày nào đâu mà đòi… chiến tranh chính trị anh?

    Người phi công chiến tranh chính trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ.
    • - Từ từ để tao cắt nghĩa. Chiến tranh chính trị nghĩa là… có là không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần thì mình phải làm như có phi tuần. Mình phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như phi tuần sắp tới thì pháo nó mới câm được.
      - Xong rồi.

    Mặc dù vẫn còn ngán mấy chục họng phòng không nhưng trong hoàn cảnh này, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn? Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung quanh tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:
    • - Mầy đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng. Đạn nó né tao.

    Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có 2 người, đạn nó bay vào đây mà né anh Ngọc thì nhất định nó phải kiếm người khác để chui vào. Người đó còn ai khác hơn tôi. Bỗng nhớ ra điều gì, anh sờ tay vô ngực quờ quạng rồi rú lên:
    • - Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có đem theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo nó chỗ phuy nước quên đeo vô rồi.
    Nhưng anh nói ngay:
    • - Nhưng tử vi nói tao sống thọ lắm, yên chí lớn đi * em.

    Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm đều kiếm ra một lý do gì đó để tự tin và hy vọng. Càng đi xa đồn thì phòng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đã nằm ngay dưới cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn vòng chung quanh cây pháo. Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện. Đại úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được mấy tiếng “everywhere”. Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền. Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn. Như vậy con cháu họ Hồ đang “tùng thiết” đi vô chăng? Dĩ nhiên phòng không giặc bây giờ đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn. Trận thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5 phút là hết đạn, quay lui. Khốn nạn hơn cái món chiến tranh chính trị xem ra hết ép phe. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa giả nên cây pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại úy Ngọc gầm lên:
    • - Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó… bỏ bomb thấy mẹ mày.

    Tức quá mà không làm gì được thì… chửi cho đã tức. Chúng tôi chỉ có 4 quả Rocket khói, chẳng sơ múi gì được. Rồi Peacock gọi thông báo sẽ có phi tuần khu trục A-1 đang cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm việc với chúng tôi. Đại úy Ngọc hớn hở gọi máy:
    • - Thạnh Trị, đây Bạch Ưng
      - Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó bạn.
      - Có sao không bạn?
      - Không, mấy * chuồn chuồn tới đúng lúc với lại con cái tôi đánh giặc còn “tới” lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chùng 50 xác nằm dài dài. Mấy * Tây đánh đẹp lắm.
      - Chúng tôi sẽ có 2 phi tuần lên liền bây giờ với bạn.
      - Bạn ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn.
      - Tôi hiểu bạn.

    Cây 130 ly quái ác vẫn đì dạch phọt ra từng cụm khói đen. Tôi bảo anh Ngọc.
    • – Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra….
      – Ờ, may ra….

    Tôi làm vòng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp cò. Oành cái Rocket nổ…gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi, nhưng có chết * chó nào đâu? Không chết nhưng cây pháo lại im tiếng một lần nữa. Tốt! Tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên. Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A-1 nghe lên bên tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà nó…đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niền tin, của sức mạnh, của tình chiến hữu. Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.
    • - Thạnh Trị, đây Bạch ưng.
      - Nghe bạn 5.
      - Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn. bạn muốn tôi đánh đâu?
      - Bạn lo dùm mấy con gà cồ trước đi.
      - OK! Roll.

    Phi tuần khu trục vừa xuất hiện thì cả bầu trời biến thành một biển lửa. Số lượng phòng không bây giờ không biết là bao nhiêu cây, nhưng dòm hướng nào cũng chỉ thấy lửa và lửa. Trời đã về chiều nên những viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rõ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo phòng không vì trời quá xấu. Những đám mây…phản quốc, khốn nạn vẫn chình ình khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những loạt đạn phòng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm rơi bomb, rồi kéo lên. Còn 2 trái cuối cùng, người phi công A-1 “để” vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội. Xong một cây. Anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thừ hai đang làm ăn thì tôi nghe tiếng gọi:
    • - Bạch ưng, đây Thạnh Trị
      - Nghe 5 bạn
      - Báo bạn biết, hầm chỉ huy tôi xập rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.
      - Bạn nhớ giữ liên lạc với tôi.
      - Bạn…

    Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. “ra giao thông hào với mấy đứa con” vậy là bi đát lắm rồi. Anh Ngọc bảo tôi:
    • - Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng TTHQ xin gấp cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp là tụi nó sẽ “over run” Dakseang trong vòng nửa tiếng đồng hồ.

    Tôi đổi tần số FM, Anh Ngọc cẩn thận dặn dò thêm:
    • - Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp…dái thì cha con nó mới chịu chạy dùm.

    Tôi phì cười, ông đại úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai bóp dái tôi cũng la được vì hò hét và tả oán là sở trường của tôi. Tôi gọi máy và có kết qủa ngay. Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông báo có một phi tuần F4 của Hải Quân Mỹ sẽ cất cánh ngay từ hàng không mẫu hạm vào làm việc. Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:
    • - Bạch ưng, đây Thạnh trị
      - Nghe bạn 5
      - Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó đang “à lát xô” lên.

    Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 còn mấy trái bomb bỏ dở cây, hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên.
    • - Tụi nó đông như kiến bạn ơi.
      - Còn phải hỏi.

    Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những tràng cà nông 20 ly. Tình hình lúc này đã bi đát lắm rồi. Giặc xung phong lên ào ào. Thạnh trị thông báo là một góc phòng tuyến đã bị vỡ và con cái anh đang xáp lá cà với giặc. Tôi nghe Trung tâm hành quân “TTHQ” thêm ba căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc. Anh Ngọc bảo tôi:
    • Tao còn lạ gì cái trò này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm Dakseang đó. Phải cẩn thận.

    Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau tiếng trao đổi cả trên trời và dưới đất nghe loạn cào cào.. Bởi trong những tiếng ồn ào đó, có tiếng gọi của mấy ông F 4 Hoa Kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ khí tận răng. Hai chiếc F4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm vòng chờ ở khoảng 20 ngàn bộ. Anh Ngọc chỉ “briefing” một tí, mấy ông “Roger” và “Sir” lia lịa nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt Nam đánh đã đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai. Từ khoảng 15 ngàn bộ, mấy ông nhào xuống dưới trần mây, để những trái bomb thật chính xác. Phòng không bắn dữ dội nhưng xem ra không ăn thua gì với mấy chiếc F4 này. Đang đánh ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưới đất:
    • - Bạch ưng, đây Thạnh trị.

    Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà bình tĩnh lạ thường.
    Anh Ngọc bấm máy:
    • - Nghe bạn 5, cho biết tình hình đi bạn.
      - Tôi yêu cầu Bạch ưng cho đánh ngay vào trong đồn.

    Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng là mình nghe…lộn. Chúng tôi sững sờ không trả lời được. Người chỉ huy phía dưới đất xác nhận lại:
    • - Bạch ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.
      - Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn?
      - Đúng 5. Hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi.
      - Bạn suy nghĩ kỹ chưa?

    Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn:
    • - Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may mắn. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà bạn…








    Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dakseang một lần nữa rồi cho biết kết qủa. Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không còn liên lạc được với Thạnh Trị nữa. Báo cáo trở lại, quân đoàn quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải… cẩn thận.
    • “Cẩn thận con C… ông”
    anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy thong báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người phi công hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém:
    • - Roger! Sir, Did you say…right on it? Over
      - Yes sir, it’s all over. I said you salvo right on it. Over.
      - Roger, sir, I understood, sir, Over.

    Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang chứng kiến một hình ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói gì lúc này đây cho những người chiến sĩ Địa Phương Quân QLVNCH? Tất cả những ngôn từ, những ý nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi thảm hào hung này. Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần. Làm sao còn có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?. Những thịt, những xương, những máu của các anh hùng Dakseang đã tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất. Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh đâu biết người thân của mình vừa anh dũng đền nợ nước, vừa “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” như lời trăn trối cuối cùng của người đồn trưởng, vừa chết để cho cả dân tộc được sống, được hít thở không khí Tự Do dù chỉ trong một khoảnh khắc… Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vã lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẳm? Hình ảnh nào có thể thay thế được hình ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoảng đời còn lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời? Dân tộc tôi đã làm gì nên tội, “Tử biệt sinh ly” câu nói nghe được từ thuở học trò bầy giờ mới thấy trọn nghĩa ý đau thương. Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bỗng chan hòa nước mắt. Tôi tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi chẳng còn thấy gì, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây oan khiên vừa rồi vẫn còn vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, còn sống chẳng chịu giúp nhau, bây giờ người đã chết, đồn đã mất sao còn lảng vảng để khóc thương.

    Trời chiều cao nguyên vốn đã thê lương cô quạnh lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một hợp đoàn tác chiến bay những vòng tròn thấp chung quanh đám đất đá điêu tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rũ lượn từng vòng quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết quả oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:
    • - Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to tell you this: Those people down there have fought like men and have gone in honor.

    Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:
    • - Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over.

    Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.
    • - Roger! We have thousand of Alamo like that every day in our country.
      - Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.

    Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên nghe đã đi vào huyền sử của dân tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hãnh diện. Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ. Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ “Y pha nho” mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa Kỳ đã tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ cho đến giây phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đã bị tàn sát. Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có bao nhiêu thành Alamo còn tàn khốc hơn, đẫm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu năm chinh chiến.







    Sáng hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước khi bàn giao biệt đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đã cày nát khu tập trung quân giặc. Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số cũ để gọi cho Thạnh trị. Nhưng chả còn Thạnh trị nào để trả lời cho Bạch ưng nữa. Đồn Dakseang chỉ còn là đống đất vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù. Tôi nhìn xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua. Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà giờ đây đã ngàn thu vĩnh biệt. Bay thêm vài vòng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi cũng đến lúc phải từ giã để ra đi. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” Thôi thì xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh. Những người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi. Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa Phương Quân, thứ lính…âm thầm nhất trong các thứ lính của quân lực; không màu mè, không áo rằn ri, không có những huyền thoại khủng khiệp, không “truyền thống, binh chủng” không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người. Nhưng Địa Phương Quân Pleiku chiều hôm qua đã bình tĩnh xin
    “cho nó nổ trên đầu tôi”.
    “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi”
    Xin vĩnh biệt và cảm tạ. Cảm tạ các anh đã đem cái qúi giá nhất của cuộc đời là mạng sống mình để đổi lấy cho quê hương dù đã rách nát tả tơi còn có được những ngày xanh hy vọng. Cho buổi hợp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn còn được an bình. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những mái tôn cháy nắng còn rộn tiếng trẻ thơ cười. Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi còn được ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những người ở lại như tôi đây biết rằng mình sống tức còn nợ phải trả…. Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc lòng tôi thuộc làu làu lúc còn là một đứa bé :
              
    Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
    Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
    Đã xông vào khói lửa quyết liều thân
    Để bảo vệ tự do cho tổ quốc
    Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc
    Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan
    Người thất cơ đành thịt nát xương tan
    Những kẻ sống lòng son không biến chuyển
    Tuy tên họ không ghi trong sử sách
    Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
    Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
    Không ai đến khẩn nguyền dâng lễ vật
    Nhưng máu họ đã len vào mạch đất
    Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
    Và linh hồn chung với tấm tình trung
    Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.

              
    Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng các anh.



              
    Các anh chính là những “Anh Hùng Vô Danh”.
    Tổ Quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam ngàn đời sẽ còn ghi ơn các anh.
    Xin vĩnh biệt và cảm tạ.

              






    tác giả: Trường Sơn Lê-Xuân-Nhị
              

    http://www.canhthep.com/modules.php?op= ... 1210601359
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Trên đầu súng

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          







          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Tháng tư đau

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          



          




Tháng tư đau
____________________________






Tụi nhỏ nói đám già chết tiệt
chuyện tháng tư - nửa kỷ đi qua
sao cứ kéo dài thêm oan nghiệt
hận thù chi chuyện nước chuyện nhà

Vợ thì bảo mười năm tù ngục
kệ - phận người sống sót là may
cứ ăn, ngủ mặc đời lăng nhục
cùng lắm thì vác nặng hai vai

Bè bạn bảo thôi già chống gậy
cố mà đi cho hết cuộc đời
tay run mắt mờ đời vẫn vậy
tháng tư hận chi đất cùng trời?

Chịu nổi không trời hỡi là trời
ta là người - thứ người chung thủy
bao năm, mỗi ngày ta cứ đợi
dù đợi thiên thu chẳng được gì

Tháng tư lại nhớ ngày rách áo
bước đau trên súng trận giày đinh
mấy mươi năm chỉ toàn cơm gạo
sức nào còn gánh nợ chiến chinh

Đau lắm tháng tư ơi! đau lắm
làm gì đây ta biết làm chi
tháng tư nắng, sao trời đen thẵm?
ta là ai? còn nợ nần gì ?




12-04-2020
nguyễn thanh khiết




          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Kuku, hòn đảo tị nạn của người Việt vượt biên

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          
























          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Chuyện tù “cải tạo” của Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia VNCH

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Chuyện tù “cải tạo”
    của Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia VNCH

    __________________________________
    Trần Đỗ Cung






    Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp Ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.

    Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.

    Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?

    Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc mà còn mất cả cá tính nữa.

    Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi.

    Bà nói:
    • “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”?
    Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.

    Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng,
    • “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”.
    Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều.
    • “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản.
      Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.

    Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn.
    • “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.

    Rồi xẩy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình,
    • “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”?
    Bà nói:
    • “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?

    Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước.
    • “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.






    Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh.
    • Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình.
    • Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn.
    • Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác.
    Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.

    Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình.
    • Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ.
    • Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính.
      Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng.
    Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.

    Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo.

    Anh nói,
    • “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”!
    Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.

    Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực.
    • “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”!
    Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.

    Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là
    • bắt tù từ bỏ niềm tin,
    • chối bỏ lý tưởng và gia đình,
    • khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ.
    Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.

    Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đầu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão.
    • “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.

    Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.

    Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện.
    • “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”.
    Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.

    Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói,
    • “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”.
    Mắt tràn lệ, anh nói tiếp,
    • “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”!
    Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.
    • “Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”.


    Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi,
    • “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”!
    Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.

    Cán bộ la to,
    • “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”.
    Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.

    Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận được một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.

    Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo dõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.

    Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống.
    • “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.


    Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, giảm ý chí và mất óc phán đoán.

    • “May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!
      “Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.







    Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.

    Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá.
    • “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.

    Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai.
    • “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.

    Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.

    Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và
    • “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.

    Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ.
    • “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”.
    Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?
    • “Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”,
    thi anh xúc động hỏi lại,
    • “Bộ chúng không đủ ăn sao”?
    Bà chậm rãi trả lời,
    • “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà dì đã đến đó trước rồi”.
    Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò,
    • “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”!
      “Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.

    Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam.
    • “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”.
    Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành.
    • “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?

    Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa?
    • “Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”.
      Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!
      Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh.
      Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả.
      Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.







    Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gặp một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn.

    Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc. Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói,
    • “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”.
    Bà Đảnh kết luận,
    • “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”:
      “Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.







    Vài cảm nghĩ.

    - Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học, chỉ lặp lại những danh từ Sô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.

    Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?





    Trần Đỗ Cung
              

    https://hon-viet.co.uk/TranDoCung_Chuye ... iaVNCH.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Galang Refugee Camp - Pulau Galang - Indonesia 1980s

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          











          
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”