- 30/04/2022 - tưởng niệm 47 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21156
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Nhật ký một bạn tù!

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Nhật ký một bạn tù!
    _____________________________
    Bác sĩ Phùng Văn Hạnh





    Tôi quen biết cả hai vợ chồng anh Nam. Gia đình chị Nam là nạn nhân của cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”. Cha chị, anh Khoa, là bạn học của tôi ở trưởng tiểu học xã. Lúc tôi làm việc ở Bệnh viện Đà-Nẵng, thì anh là xã trưởng xã Giao Hòa, gần quê tôi. Cha anh bị liệt vào hàng phú nông, đã bị du kích VC ở xã chôn sống, thời chống Pháp, chỉ vì ông chỉ trích biện pháp “tiêu thổ kháng chiến” trong đám giỗ gia đình ông. Người chỉ huy vụ thủ tiêu ông, là cháu kêu ông bằng bác, tên Cội. Cái “giỏi” của Cộng sản, là có thể khơi dậy ở người cháu lòng căm thù, để giết bác ruột. Khoa, lúc ấy, cũng là du kích, chứng kiến cái chết thê thảm của cha, mà không làm gì được. Sau đó, anh lẻn ra vùng Quốc Gia, và thề trả thù cho cha. Anh đã dẫn lính Bảo An, trong đêm tối phục kích tiểu đội du kích VC ở xã, và giết chết Cội. Thời Đệ nhị Cộng Hòa, xã Giao Hòa nằm trong vùng tranh chấp. Ban ngày, Khoa cùng Địa Phương Quân về đóng trong làng, ban đêm rút về quận. Con của Cội, lúc ấy, là “chủ tịch xã” (VC) ban đêm thường hay lẻn về đe dọa dân chúng, và thâu lúa gạo của dân.

    Tết Mậu Thân, 1968, con của Cội cùng “bộ đội” miền Bắc đột nhập quận, bắt được Khoa. Chúng dẫn Khoa về làng Giao Hòa, họp dân chúng lại, mở “tòa án nhân dân” xử Khoa, chúng hành hạ Khoa rất tàn nhẫn trước khi giết chết. Chị Khoa, vận đồ tang, về làng xin xác chồng đem về chôn tại quận. Bọn Cộng sản đã không cho, lại giết chết luôn chị Khoa, chỉ vì quá uất hận, chị đã thốt lên những lời mỉa mai trong khi khóc lóc trước mộ chồng.

    Hai vợ chồng Khoa chỉ có một cháu gái tên Thu, lúc ấy mới 10 tuổi. Thu bơ vơ được ông Quận trưởng Đại Lộc, Quảng Nam, nhận về nuôi cho đi học. Nam cùng quê với tôi. Cha chết sớm, vì ăn phải nấm độc, trong nạn đói thời “kháng chiến chống Pháp”. Mẹ Nam ở vậy nuôi con. Khi đồng quê mất an ninh, bà ra Đà-Nẵng giúp việc trong nhà cho tôi. Nam đậu Tú tài, vào học trường Nông Lâm Súc. Ra trường, thì bị động viên vào trường Võ Bị Thủ Đức. Nam được chọn đi học khóa Tâm Lý Chiến, rồi về phục vị tại sư đoàn 1. Ông quận trưởng, cha nuôi Thu nay là Đại tá Trung đoàn trưởng, cấp trên của Nam. Thấy Nam chăm chỉ, hiền lành, ông đã cố ý tạo cơ hội cho Nam và Thu gần nhau, hiểu nhau. Đám cưới hai người do tôi tổ chức vào cuối năm 1974. Hai vợ chồng ông Đại tá không có con, lại có căn nhà lớn ở Đà-Nẵng, nên đôi tân hôn sống chung với ông bà.

    Cuối năm 1978, Sĩ quan trại tù Kỳ Sơn chuyển lên trại “cải tạo” Tiên Lãnh. Trước đó mấy ngày, tù chính trị và phần lớn các đội lưu động chuyển đi “trại thôn Năm”, để chỗ cho “trại viên” mới. Một chiều ảm đạm, các trại viên cũ đều bị nhốt lại trong phòng, cửa sổ đóng kín. Nghe tiếng máy nhiều xe cam nhông đổ lại trước cổng trại. Tôi lúc ấy làm y tế trại, được lệnh ra nhận thuốc Tây mà các vị Sĩ quan mang theo, để nhập vảo tủ thuốc ký gửi. Các “cán bộ” trại đang ráo riết lục soát “trại viên” mới. Từng đống áo quần treillis, giày da đi trận, xắc đeo lưng bị tịch thu. Đồng hồ, bút máy, nhẫn đeo tay, tiền giấy phải đem ký gửi. Mỗi người nhận lại hai bộ đồ vải màu xám với một ít dồ dùng cá nhân. Công an đã đánh phủ đầu bằng cách lột sạch di tích tù binh, và nhắc nhở một kỷ nguyên thường phạm khắc nghiệt bắt đầu. Tôi gặp lại Nam, nhìn nhau mà không dám nói một lời. Vài tháng sau, Nam được ra làm chăn nuôi, nhờ có bằng kỷ sư Nông lâm súc. Lúc đầu chỉ ra chăn nuôi ban ngày. Ban đêm phải trở về ngủ chung trong phòng giam. Nam vốn ít nói và hiền lành, lại cứu được nhiều gia súc trong một nạn dịch, nên được “quản giáo” chăn nuôi dần dần tín nhiệm, đưa ra ở hẳn trong trại chăn nuôi. Thường ngày Nam dẫn một đàn bò độ 30 con, đi ăn trên những đồng cỏ quanh trại. Tuy không có thăm nuôi, song Nam không thiếu thốn nhiều về ăn uống. Nhờ lang thang với bày bò, Nam có dịp “cải thiện” bằng cách bẫy chim và thú rừng, đào sắn. Anh cũng trồng rau, bầu bí quanh khu chăn nuôi. Mỗi khi bò đẻ, Nam lấy nhau nấu ăn. Nam cũng hay cho tôi đồ “cải thiện” mỗi khi có dịp vào trại khám bệnh.

    Một lần đi đỡ đẻ cho một sản phụ ở bệnh xá dân, tôi có dịp đi ngang qua gò đất mà Nam hay đem bò ra đó gặm cỏ. Đỉnh gò có một miếu hoang, tường gạch, mái ngói, song mang dấu tàn phá của thời gian. Miếu nằm trọn vẹn dưới bóng mát của một cây đa to lớn, có nhiều rễ phụ. Bên cạnh miếu có một nghĩa địa nhỏ. Nam cho biết là có quen một giáo viên chế độ cũ (VNCH), bị đày lên dạy ở trường tiểu học gần đó. Anh nầy thường gửi thư giúp Nam qua bưu điện, khỏi sự “kiểm duyệt” của trại. Nam dẫn tôi vào miếu và chỉ chỗ kín, để khi nào có dịp ghé qua, mà không có Nam, thì giấu thư vào đấy, và Nam sẽ gửi đi giúp. Tôi đã dùng lối nầy gửi thư về nhà vài lần cho đến khi Nam được phóng thích.

    Nam ra trại được hai năm, thì bỗng một hôm, nghe nói có một “trại viên” cũ, treo cổ chết ở một cây đa ngoài trai. Lúc ấy, tôi không còn làm y tế nữa, không có dịp để kiểm chứng người chết là ai, song tôi vẫn ngờ ngợ người ấy là Nam. Cho đến khi tôi dược phóng thích. Tôi trở lại chỗ miếu hoang; vào chỗ kín mà trước kia tôi giấu thơ cho Nam gửi về nhà, xem thử. Nếu quả thật Nam đã trở lại đây tự tử, chắc Nam sẽ để lại cho tôi một lá thư tuyệt mệnh. Nam để lại cho tôi không những một lá thư, mà cả một tập nhật ký, viết trên những tờ giấy rời. Kể từ lúc Nam chết cho đến giờ đã năm năm rồi. Tập nhật ký bị mối mọt đục nhiều chỗ, phải dồn vào một bao nylon. Tôi trở ra, đứng dưới gốc cây đa, xem thử Nam đã treo cổ ở cành nào. Lá đa xanh nghít, xào xạc. Dưới chân đồi con sông lượn khúc, khói lam quyện vào mái tranh một căn nhà ven sông, vươn lên bầu trời xanh thẳm. Nam đã chọn chỗ để an giấc nghìn thu. Mộ Nam là một nấm đất nhỏ, cỏ mọc lưa thưa, trong nghĩa địa cạnh miếu. Một tấm bảng gỗ mang tên họ Nam cùng với ngày tháng chết cắm ở chân mộ. tôi quỳ xuống cầu nguyện cho Nam, mặc dù lúc sống, Nam là một Phật tử. Đang lúc suy tư, tôi nghe tiếng chân đạp trên lá sau lưng. Tôi quay lại, thì một trung niên bước tới giới thiệu. Hóa ra là ông giáo viên tiểu học, thường chuyển thư cho Nam ngày xưa. Ông với Nam đã thành bạn thân. Chính ông đã nhận là bà con với nam và xin với xã được chôn cất Nam trong nghĩa địa bên miếu. Ông kể là Nam đã ở lại nhà ông một đêm. Sáng ra Nam lên đồi và không trở lại nữa. Nam còn cẩn thận gửi cho ông giữ một số tiền vừa đủ để chôn cất Nam, trước khi ra đi. Ông cũng chôn theo Nam lon gô mà Nam đeo trên vai, bên ngoài có ghi: “tro của em yêu dấu”. Tôi cám ơn tấm thịnh tình của ông. Về Saigon, tôi giở nhật ký Nam ra xem:

    “02-09-79. Hôm nay “quốc khánh XHCN”. Trước kia, miền Nam không có ngày lễ nầy, vì phe Quốc Gia mặc nhiên xem ngày đó là trò hề, khởi đầu cho “cách mạng vô sản quốc tế”, loại bỏ dần dần mọi tham gia của người yêu nước Quốc Gia. Dù chỉ là “trại viên” đều được nghỉ lao động. Riêng chăn nuôi, thì phải dẫn bò đi ăn. Nằm dưới gốc cây đa, thấy những lá non gió đẩy đung đưa trên nền trời xanh, lại nhớ bài thơ:

    “Nằm im dưới gốc cây to,
    Nhìn Xuân trải nhựa muôn tờ lá non:
    Giữa trời hình lá con con,
    Trời xa sắc biển lá thon mình thuyền.
    Gió qua là gió triều lên,
    Hây hây gió đẩy thuyền lên biển trời.
    Chở hồn lên tận chơi vơi,
    Muôn chèo của nhạc, muôn lời của thơ.
    Bâng khuâng như thể bao giờ,
    Lênh đênh nào biết bến bờ là đâu!”


    “Cuộc đời có lắm buồn phiền, là bể khổ. Có những phút phiêu diêu như thế này, để quên thân phận tù đày. Vẫn nhớ Thu không nguôi. Lời bài hát “Nắng chiều” làm anh nhớ đến lúc chúng mình mới quen nhau: “Anh nhớ trước đây, dáng em gầy gầy, dịu dàng nhìn anh đôi mắt long lanh”. Mẹ đã trở về làng cũ Túy La, sống với gia đình chú Chín, giúp chú làm tằm. mỗi năm mẹ thăm nuôi hai lần, cũng đơn sơ, đạm bạc. Mẹ cũng không có tin tức gì về Thu.

    07-10-79. Gửi thư về cho Thu nhiều lần với địa chỉ nhà cũ ở Đà-nẵng, nhưng không có hồi âm. Không biết bây giờ, em trôi giạt về đâu. Chúng mình lạc nhau ngay ở bờ biển Sơn Chà (Sơn Trà) khi nhóm binh sĩ và sĩ quan Biệt động quân đứng thành vòng tròn, mỗi người trên tay một quả lựu đạn đã mở chốt. Khi họ la lên là “đồng bào hãy tránh xa”, anh và em mạnh ai nấy chạy. Nghe một loạt nổ chát chúa và hơi gió tạt từ sau đến. Họ tự tử tập thể, chắc là vì quá tuyệt vọng. Khi anh trở lại hiện trường, thấy cảnh người chết banh thây, mùi máu tanh tưởi, anh vội rời xa, vì nghĩ chắc là em đã thoát. Rất tiếc, là trong lúc hốt hoảng, anh quên không nắm tay em cùng chạy. Mặc dù lúc đó Việt cộng đang ở đèo Hải Vân bắt đầu pháo kích vào Sơn Chà, anh vẫn vừa chạy vừa ẩn núp, để tìm em. Tìm mãi em không được, anh trở về nhà cha nuôi em, song nhà vắng tanh. Anh ở lại đó, chờ em về. Song vẫn biệt tăm. Nghe lịnh “ủy ban quân quản” thành phố, anh ra trình diện, và bị tập trung vào Vĩnh Điện, rồi Kỳ Sơn…” (nhật ký bị rách nát nhiều trang không đọc được).

    “… Xa em đã gần bốn năm. Chúng mình sống bên nhau chưa đầy sáu tháng. Những kỷ niệm thân thương không hề phai nhạt:

    Bốn năm trời xa em,
    Chúng ta mất biết bao ân ái mặn nồng.
    Nhớ đến lúc bên nhau hai đứa…
    Khắng khít uyên ương, thiên đường nguyên thủy…
    Anh quỳ bên em ngất ngây thờ lạy,
    Vẻ mỹ miều của thân thể trinh nguyên,
    Anh hôn lên vầng trán bình yên,
    Lên đôi má hây hây say tình e thẹn.
    Lên đôi môi nở hoa dâng hiến,
    Ôi ngọt ngào là miệng lưỡi của em.


    Hơi thở thơm tho, anh mãi mãi thèm…” (bài thơ lại bị mối đục thủng đoạn kế tiếp). Một mảnh giấy rời, có câu thơ còn đọc được. Bài thơ chắc dài, chỉ còn chục câu, gợi nhớ thương, lo lắng cho vợ lúc đi chăn bò.:

    “Gió sớm mai mát rượi, như bàn tay yêu thương,
    Biết bao giờ trở lại bên em, ôi cả một thiên đường!
    Tiên Lãnh vào Thu, núi rừng đẹp lắm:
    Trời lộng xanh cao, cỏ đồi dệt thảm,
    Lấp lánh, lao xao, chạy theo nắng ấm,
    Vẳng bên tai, chim gió, hát lưng trời.
    Cảnh vật an bình, xao xuyến lòng người,
    Ngồi dưới gốc cây đa, bên ngôi miếu cổ,
    Nhìn đàn bò thong dong gặm cỏ,
    Mà tâm hồn bay bổng, hướng về em.
    Em ở nơi mô, cuộc sống có êm đềm!
    Mà chẳng đến thăm anh tù đày khốn khó?
    Lo cho em, chắc nhiều trắc trở,
    Xin cầu Trời phù hộ cho em.


    20-09-80. Được phóng thích ngày 28-08-80, nhân dịp “quốc khánh”. Trong giấy ra trại cho về nguyên quán làng Túy La. Hai mẹ con dựng một nhà tranh nhỏ, trên miếng đất ngày xưa, sớm chiều có nhau. Kỷ niệm thơ ấu, những ngày hồi cư đói khát, cha chết, không có vải làm khăn tang, trở lại trong giấc ngủ đầy ác mộng. Việc đầu tiên là tìm tông tích của Thu. Lên Giao Hòa hỏi thăm, chẳng có đầu mối gì, chỉ biết thêm là người giết cha mẹ Thu, đã vào tù vì tham nhũng, khi hắn ta làm “chủ tịch Hợp tác xã nông nghiệp quận”. Nghe nói, là hắn “có thể bị xử tử”.

    09-10-80. Lo làm ăn, đầu tắt, mặt tối, mà chỉ đủ hai mẹ con, ngày hai bữa, ăn bắp, ghế cơm. Mẹ nhắc hồi nhỏ, mình nói ngọng, kêu bắp là bú, kêu gạo là gụ, và năn nỉ nấu “nửa bú, nửa gụ” cho dễ ăn. Nay hai mẹ con ăn “nửa bú, nửa gụ” thế là tốt rồi. Ra Đà-nẵng nhiều chuyến dò la tin tức Thu. Lúc nào cũng khấn thầm Trời Phật phù hộ tìm ra tông tích nàng. Mộng mị thấy nàng trong giấc ngủ thường xuyên. Tình cờ một hôm vào quán mì Quảng gần chợ Cồn, gặp lại Thúy, bạn học Thu, nay là giáo viên tiểu học. Thúy nói là rất mừng, gặp lại tôi, để thông báo là có thể Thu đã chết trong ngày chạy loạn ở Sơn Chà. Tôi bàng hoàng chết điếng. Em Thu! Em ra đi không một lời từ biệt! Thúy cho biết là cùng Thu chạy về mũi Sơn Chà, giữa rừng người hoảng hốt. Một quả đại bác rơi gần đó. Khi Thúy chổi dậy, thấy chung quang người chết nằm la liệt. Thu nằm bất động, rên khe khẻ, máu rỉ ra từ một vết thương trên trán. Thu thều thào nhờ Thúy báo tin cho Nam. Sau đó Thúy may mắn xuống một thuyền nhỏ ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi, vào được Saigon. Lúc trở về Đà nẵng, thì chẳng biết tôi ở đâu để nhắn tin.

    12-10-80. Có người mách là có thể đến bệnh viện Đà-nẵng xem danh sách những người bị thương và chết được xe cứu thương mang về đó trong những ngày cuối thắng 03-75. Tôi đến nhà xác bệnh viện. trong quyển sổ cũ, giấy đã vàng, tôi tìm được tên em. Phải lên nghĩa địa Hòa Khánh để tìm mộ. Song mộ lại dời đi Gò Cà trong đợt dời mộ năm 1976 do “lệnh chung của tỉnh”. Nghĩa địa Gò Cà mênh mông, bao trùm nhiều đồi trọc cát sỏi. Cũng may, là anh ra tù sớm. Mộ bia của em, một tấm gỗ nhỏ, đã ngã nằm ra đất, chữ viết bằng loại sơn xấu đã nhòe nhoẹt dưới nắng mưa. Anh bới mộ em lên. Không nhầm lẫn được: hàm răng dưới em có em có chiếc răng cời bên trái. Trán còn mang lỗ thủng mà chị Thúy có nhắc đến. Chiếc áo lụa em bận ngày chạy loạn chưa hư nát hết. Lượm từng cái xương của em, mà nước mắt tuôn ra không ngớt. Em nhìn anh bằng cặp mắt của hư vô. Bỏ xương vào một hủ sành, anh mang về Túy La.

    11-11-80. Cái thằng thôn trưởng thật hắc ám. Mỗi tuần hắn bắt trình diện một lần và khai báo, mặc dù chẳng có gì lạ. Những tạp dịch trong thôn, hắn bắt mình “xung phong” làm. Ngay chuyện gỡ mìn quanh đồn bót cũ, cũng là mình. Lúc nào cũng coi mình là “thù địch”. Trồng dâu, hái dâu, làm cỏ, nuôi tằm, công việc xoay như chong chóng. Những ngày giữ bò còn “sướng” hơn bây giờ.

    Đã đốt xương em, cho vào một lon gô, để ở đầu giường, để được gần gụi em. Tối tối, lại trò chuyện cùng em. Trong lòng anh chẳng ai thay thế được em. Có nhiều cô gái trong thôn tỏ tình, nhưng anh dửng dưng, nguội lạnh. Tâm hồn giống như một ông già. Những lúc cô đơn, hay làm việc một mình, tự nhiên lại thốt lên: “đời sao buồn quá” hoặc ngâm se sẽ: “buồn ơi xa vắng, mênh mông là buồn”. Bái hát của Từ Công Phụng nói về nỗi cô đơn, khi người yêu đã mất nghe thấm thía quá: “kể từ khi em đem cô đơn mọc lên phố vắng, khi em đem nụ cười khỏi đời, từng chiều rơi, ta nghe như cõi lòng tê tái. Nghe giữa đời còn gọi tên nhau”. Đoạn giữa của bài hát đúng như lúc chúng mình đứng ở bãi biển Sơn Chà, một đêm sao sáng đầy trời, em ngước mắt nhìn anh, chờ đón nụ hôn, trong khi bài tình ca du dương, từ một quán xa vọng tới: “ngày ấy cho nhau một lần, một lần tiếng hát đồng lõa, đưa anh vào vùng trời lấp lánh, bằng những ánh sao trời vào đôi mắt ngước trìu mến”. Anh muốn tìm lại ánh mắt của em ở thế giới bên kia!

    06-12-80. Những bài học về tư tưởng yếm thế hay quanh quẩn trong đầu. Có một thi sĩ Tầu không nhớ tên, đã viết:

    “Tích ngã vị sinh thì,
    Minh minh vô khả tri.
    Thiên công hốt sinh ngã.
    Sinh ngã lục hà vi?
    Vô y sử ngã hàn,
    Vô phạn sử ngã cơ,
    Hoàn nhỉ thiên sanh ngã,
    Hoàn ngã vị sinh thì”.


    Tạm dịch:

    “Khi tôi chưa sinh ra,
    Hỗn mang nào có biết.
    Trời bỏ tôi ra đời,
    Ôi số phận cay nghiệt,
    Không áo để che thân
    Không cơm đói muốn chết,
    Trả lại Trời công sinh
    Trả lại tôi thời chẳng biết”.


    Cuộc đời bi thảm quá. Chỉ muốn trở về với hư vô, (nhật ký rách vụn nhiều trang). Mấy trang chót còn đọc được:

    15-07-82. Mẹ đã ra đi một cách êm thắm. Thường ngày mẹ dậy rất sớm. Song hôm nay mặt trời đã lên cao mà mẹ vẫn chưa thấy dậy. Lại giường mẹ xem sao, thấy sắc mặt hơi tái, sờ tay thấy lạnh ngắt. Thì ra, mẹ đã ra đi trong giấc ngủ. Mẹ lúc nào cũng sống âm thầm như chiếc bóng. Lúc giã từ vĩnh viễn, mẹ cũng không muốn quấy rầy con. Thương mẹ, thương em quá chừng. Ma tang đơn giản. Chôn mẹ cạnh mộ cha sau vườn:

    Bởi con nghèo, nên mẹ chết âm thầm,
    Kẻ giàu có, thì linh đình ngày xuống huyệt.


    Mẹ chết rồi, con không còn gì để ràng buộc với thế gian này nữa. Con muốn trở về gốc cây đa, mà con đã trải qua nhiều giờ phút suy tư về kiếp sống con người, và yên nghỉ cùng Thu. Ở một nghĩa địa cổ Hy Lạp, người ta phát giác một bia mộ ghi những lời sau đây:
    “hỡi những người qua đường, hãy nhẹ chân, vì đêm nay là đêm cuối cùng ta ngủ được ngon giấc”.
    Ông ta lúc sống chắc trải qua những khổ đau cùng cực, nên mất ngủ triền miên. Tôi thì không đến nỗi như ông, song giấc ngủ dài yên lặng của nấm mồ, tôi thầm mong ước được như thế”.


    Thì ra, nhật ký không viết cho tôi. Mà chỉ là những gửi gắm riêng tư. Nam cũng không ngờ là tôi trở lại miếu hoang nầy. Chiến tranh, chết chóc, chia ly, thời thơ ấu thiếu thốn, đau buồn đã hằn lên tâm hồn Nam nhiều đau thương!

    Cha chết sớm, chưa kịp dạy Nam yêu đời. Nếu Thu còn sống, chắc Nam cũng yêu đời như ai.



    Bác sĩ Phùng Văn Hạnh
    (Trích trong: Tình Yêu Hiện Sinh Một Kiếp Người)



    https://hon-viet.co.uk/BsPhungVanHanh_N ... tBanTu.htm
Ngoc Han
Bài viết: 1601
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: - 30/04/2022 - tưởng niệm 47 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Ngoc Han »

Đọc lại..
Tháng Tư Lại Về !
Vương Mộng Long

Bây giờ là tháng Tư, trong ký ức tôi những kỷ niệm 30 năm trước lại hiện về, rõ mồn một như thể là nó mới xảy ra ngày hôm qua, hôm kia. Bây giờ là tháng Tư, tôi lại nhớ đến trận đánh oai hùng cuối cùng của QLVNCH, trận Xuân-Lộc! Tôi bùi ngùi hồi tưởng những vinh quang nhận được từ chiến thắng để đời này, cùng những tủi nhục nhận lãnh trong những ngày đen tối tiếp theo sau đó, khi quê hương nát tan. Những dòng này viết lên để tưởng niệm những thuộc cấp của tôi đã ngủ yên giấc tháng Tư, bên con suối Rét (Xuân-Lộc), trên một ngọn đồi không tên ở Long-Thành, và trong đường phố Hố-Nai (Biên-Hòa).

Đầu tháng Tư năm 1975, Quân đoàn 2 không còn nữa. Vì liên đoàn trưởng và liên đoàn phó vắng mặt, nên tôi được chỉ định nhận nhiệm vụ chỉ huy và hướng dẫn Liên đoàn 24/ Biệt Động Quân từ Quảng-Đức tìm đường ra biển để bắt tay với quân bạn. Khi liên đoàn được trực thăng vận về Phan-Thiết thì Tiểu đoàn 82 BĐQ được đưa thẳng về sân bay Long-Khánh đặt thuộc quyền xử dụng của BTL/ SĐ 18 BB. Tại đây, suốt 10 ngày đêm ròng rã, Tiểu đoàn 82/ BĐQ đã tả xung hữu đột chặn đứng mọi mũi tiến công dũng mãnh của lực lượng xe tank Cộng-Sản Bắc-Việt nhắm vào sân bay Xuân-Lộc và Tòa Hành Chánh Long-Khánh vùng đông nam thành phố. Với tôi, trận Long-Khánh là một trận đánh "để đời" cho những tay cầm quân chuyên nghiệp.
Cộng sản Bắc Việt tiến vào Long Khánh
Ngày xưa tôi rất mê Rommel, tôi đã tìm đọc nhiều sách viết về "Con Cáo Sa Mạc" này, và tôi mơ tưởng có ngày được đánh những trận thần sầu như Rommel đã làm. Ngày đầu đặt chân xuống phi trường Long-Khánh (6/4/1975) tôi thật khó mà tưởng tượng ra rằng tại nơi này mình lại có dịp tham dự vào một trận đánh long trời lở đất vài ngày sau đó. Trận Xuân-Lộc là lần đầu trong đời lính, tôi được thỏa mãn ước vọng đọ sức so tài với một địch thủ nặng cân hơn về vũ khí, đồ sộ hơn về quân số. Địch đông gấp ba, bốn lần quân bạn, được T54 trang bị đại bác 100 ly dẫn đường. Pháo yểm của CSBV gồm đủ loại hạng nặng: đại bác 130 ly, 122 ly nòng dài, 105 ly, 75 ly sơn pháo, cối 120 ly, cối 82 ly, và phòng không 37 ly. Thậm chí trong ba ngày đầu địch dùng cả phòng không 37 ly bắn trực xạ vào trại 181 Pháo Binh/ SĐ18BB, nơi tôi đặt bản doanh BCH Tiểu đoàn 82 BĐQ. Ấy vậy mà đoàn quân hung hăng của "Con Cháu Bác" không làm cách nào vượt nổi khúc xương khó nuốt là cái trại 181 PB bé tí teo để xông thẳng vào tòa Hành Chánh tỉnh, nơi ông Đại tá BĐQ Phạm văn Phúc (K10VB) tỉnh trưởng, đang trợn tròn con mắt theo dõi tên đàn em về từ Pleime chơi trò ú tim với xe tank CSBV.

Rạng đông 9/4/1975 chiến trận bắt đầu bùng nổ. Chiến trường mịt mù dưới đất, tóe lửa trên trời. Những cánh F5 thét gào, lên, xuống, thả hết đợt bom này tới đợt bom khác lên đầu địch. Đáp lại, địch cũng trả đòn bằng những chùm 37 ly phòng không nở hoa trên mây. Những chiếc Khủng Long AC 119 bao vùng cả ngày lẫn đêm, những họng đại bác 20 ly gầm rú từng hồi. Súng nổ như bắp rang khắp nơi trong thành phố, ngoài vòng đai. Đủ loại đại bác thét gầm; đạn xé gió ào ào tới tấp tưới trên mục tiêu của cả hai phía. Những đám cháy không người chữa, lửa càng lúc càng cao, thần hỏa tự do tung hoành. Máy truyền tin ơi ới gọi nhau. Những thân hình ngã xuống, những tiếng hô xung phong nghe rợn tóc gáy. Những chiếc T54 hung hãn khạc đạn không ngừng, những cái lô cốt ngả nghiêng vì trúng đạn đại bác 100 ly của xe tank địch. Trong những ngày đầu tháng Tư Long-Khánh, một góc địa cầu đã rung rinh vì bom đạn!

Khi chiếc PT 76 vướng vào cuộn kẽm gai vòng nơi góc rào tây bắc của trại 181 Pháo Binh Sư Đoàn 18 thì cũng là lần đầu đoàn quân xâm lăng khựng lại hoảng hồn bởi những tiếng hô, "Biệt Động! Sát! " ... "Biệt Động! Sát!" Chiếc xe tank đầu tiên lãnh một quả M72. Chiếc PT 76 xấu số cháy bùng. Những tên bộ đội Cộng-Sản tùng thiết rút lui trối chết về hướng rừng lau. Chúng tôi đã ra mặt đương đầu với đoàn chiến xa CSBV ngay từ giờ đầu súng nổ. Nơi góc đông nam thị xã, những người xâm lăng đã biết chúng tôi là Biệt Động Quân.

"Biệt Động! Sát!" , "Biệt Động! Sát!" tiếng hô vang dậy một góc trời. Biệt Động Quân đang có mặt nơi đây!

Săn đánh xe tank là cả một nghệ thuật, nó còn là một cái thú nữa, cái thú vui chết người! Hơ hỏng một chút thôi là mất mạng như chơi. Trong số 12 BĐQ Pleime tử trận ở Long Khánh tháng 4/1975 đã có 7 người chết trong khi săn đuổi xe tank CSBV. Mỗi chiến cụ, mỗi vũ khí đều có chỗ yếu của nó. Cái bộ phận phun khói của xe tank là cái "gót chân Achilles" của xe tank CSBV. Tất cả những chiếc tank địch bị TĐ82 BĐQ tiêu diệt trong trận Xuân-Lộc đều bị bắn từ phía sau đuôi, nơi phun khói.

Đánh tank cũng có qui luật. Việc đầu tiên là "tỉa" tên xạ thủ 12,8 ly, nó là tai mắt của chiếc tank, nó có một chân trái hoặc phải bị khóa vào dây xích trên ghế phòng không. Việc thứ nhì là "bung" một trái lựu đạn khói hoặc lân tinh làm màn chắn che mắt cái tank bạn của nó ở cách nó không xa, cây phòng không trên chiếc tank thứ nhì là tử thần gọi chết. Việc thứ ba thật là giản dị, cứ đứng xổng lưng bóp cò cây M72 nhắm ngay phần phun khói sau đít cái tank mục tiêu, đây là phần mỏng nhất, dễ bắn thủng nhất của chiến xa. Một tiếng "bùm! " rồi tiếp sau đó là xăng và đạn trong xe cháy nổ "lóc! tóc!... ùm! ùm! " ngọn lửa dâng cao, khói dâng cao. Xong!

Mỗi lần một chiếc PT 76 hay T 54 bị bắn cháy, cột khói chưa lên cao khỏi ngọn cây thì người Anh Cả của chiến trường đã có mặt trên vùng.

-Tiên Giao đây Hằng Minh gọi!

- Hằng Minh, Tiên Giao nghe!

- Come on! Gắng lên nghe em! Đánh cho nó tà đầu hết cục cựa! Okay?

- Vâng, tôi nghe 5, đánh cho nó tà đầu hết cục cựa!

- Okay! You're a man! Don't let 'em run away! Okay?

- Vâng, không cho nó ôm đầu mà chạy!

- Kill 'em! Kill 'em! Okay!

- Vâng! Đây là cái tank thứ (2) (3)... đó nghe Hằng Minh! Nó vào cái nào, tôi hạ cái nấy nhé!

- Okay! I like the way you fight!

- Vâng, tôi nghe rõ 5!

- You're great! You're excellent!



Sau khi thị sát trận địa và khích lệ tinh thần tôi, người Anh Cả bay sang mặt trận hướng Tây thị xã. Trên đường bay, ông liên tục đối thoại với vị chỉ huy trưởng phòng thủ Xuân-Lộc, Đại tá Trung đoàn trưởng Tr/Đ 43/ SĐ18 BB Lê xuân Hiếu (K10) cũng bằng ngôn ngữ nửa Việt nửa Mỹ. Người Anh Cả của mặt trận này là Thiếu tướng Lê Minh Đảo (K10) Tư lệnh Sư đoàn 18 BB. Ông lấy danh hiệu đàm thoại là Hằng Minh, tên người em ruột của ông. Trung tá Lê Hằng Minh là người hùng TQLC Tiểu đoàn trưởng TĐ2/ Trâu Điên năm xưa đã tử trận trên chiến trường Thừa-Thiên. Tiên Giao là tên đứa con gái út của tôi, danh xưng truyền tin tôi chọn cho mình trong trận đánh này. Ngày qua ngày, pháo địch như mưa, T 54 có bộ binh tùng thiết, từng đợt, từng đợt ào ạt xung phong vào vòng đai phòng thủ thị xã. Nhưng những tổ chống tank ba người của TĐ 82/ BĐQ ẩn hiện như ma trơi, sau ô mối, sau gốc xoài, trong bụi chuối, cứ từ từ rang hết con cua T 54 này đến con cua T 54 khác. Tiểu đoàn tôi đánh vùi với chiến xa địch cả tuần lễ không biết mệt. Toán diệt tank này bị loại, toán khác lên thay. Có cả một giang sơn hướng đông nam thị xã cho chúng tôi mặc sức tung hoành! Chúng tôi đã làm cho địch tổn hại nặng nề. Chúng tôi đã đánh cho chúng nó "tà đầu" như ý của Thiếu Tướng Tư Lệnh mặt trận. Một ngày giữa tháng Tư năm 1975, ngoài vòng đai phòng thủ, một chiếc T 54 chạy lạc loài. Cái ống khói của nó lãnh trọn một quả M 72 từ toán diệt tank của Đại Đội 1/ TĐ82 BĐQ. Anh binh nhì Phan Thọ trong toán hộ tống của TĐT82BĐQ cùng với anh phóng viên nhà báo lao vụt về hướng súng nổ. Ít phút sau tôi nghe choang choác, tiếng phòng không 12,8 ly nổ dòn ngoài xa. Trong máy PRC 25 tiếng Th/úy Học, ĐĐT1/82 BĐQ báo cáo, thằng Thọ bị thương nặng, xin tản thương. Thì ra anh B2 Thọ gan dạ này thấy chiếc T 54 đã nằm bất động, anh leo lên gỡ khẩu phòng không đem về cho thầy. Không ngờ còn một chiếc chiến xa T 54 khác nằm ẩn trong bụi lau cách đó không xa; thấy anh đứng nghênh ngang sau pháo tháp, nó quạt cho anh một tràng 12,8 ly. Anh rơi xuống đất như con chim bị ná. Ruột anh đổ ra lòng thòng, máu tuôn như suối. Anh phóng viên và một người lính trong toán diệt tank khiêng Thọ về sân bay. Sĩ Quan Trợ Y Tiểu đoàn phải dùng cả một tấm băng lá to bằng hai bàn tay xòe để che cho ruột của Thọ khỏi phòi ra.

Mặt Thọ tái xanh, môi run run,

- Thiếu tá đừng la em nhé! Em thấy cây súng dễ ăn quá, không ngờ tụi nó bắn lén em!

Tôi an ủi Thọ,

- Ừ Thiếu tá không la em đâu, nằm im đó chờ xe. Hoàng Long sẽ đem em đi tản thương!

Hoàng Long là danh xưng của Đại úy Ngũ văn Hoàn, Tiểu đoàn phó TĐ 82/ BĐQ.

Tôi một mặt lo xin pháo binh trong vòng đai trực xạ vào vị trí chiếc xe tank còn lại, một mặt điều động ĐĐ1 TĐ1 Trung đoàn 43 BB đánh bọc bên phải tiếp tay cho Thiếu úy Học ĐĐ1/82 có thì giờ dùng kẽm gai concertina quây quanh chiếc xe mới bị bắn cháy. Chỉ có concertina mới ngăn cản hữu hiệu được bước tiến của chiến xa địch. Con đường độc nhất để tiến quân bằng xe tank của địch nhắm vào sân bay Long-Khánh đã bị đan chằng đan chịt kẽm gai vòng. Chiếc tank mới bị cháy nằm hơi xa ngoài hàng rào và nó là chiếc T54 thứ tư bị sơn lên pháo tháp dòng chữ "Tiểu đoàn 82/ BĐQ diệt tank". Năm 1981 tại trại Cải Tạo Z30 C Hàm-Tân, có một Thiếu úy thuộc LĐ 81/ BCND tên là Nguyễn văn Vinh tìm gặp tôi. Anh nói, "Tháng 5/1975 em bị nhốt ở Long-Khánh, em ở trong toán tù binh bị bắt đi chùi những chữ 'Tiểu đoàn 82 BĐQ diệt tank' viết trên bốn cái tank T54 và một cái lội nước PT 76 ở bìa rào phòng thủ Xuân-Lộc. Công nhận tiểu đoàn anh đánh tank tuyệt quá!"

Chiếc xe tản thương của Trung đoàn 43 BB đã đưa B2 Phan Thọ về ngã ba Tân-Phong, tháp tùng có Đại úy Hoàn, anh phóng viên nhà báo và một anh y tá BĐQ. Khi quay trở về vị trí phòng thủ, ông Đại úy Tiểu đoàn phó kể lại chuyện dưới đây. Xe tới BTL/ SĐ18/ HQ thì Thọ rất mệt vì máu ra đã nhiều, anh xuống xe ngồi dựa lưng vào một gốc xoài. Ông Đ/úy Hoàn đi tìm Sĩ quan Quân Y Sư đoàn để xin tải thương. Bất ngờ Tướng Tư Lệnh từ trong lều bước ra, thấy Thọ, ông hỏi,

-Em là lính của ai? Bệnh gì? Muốn về Sài-Gòn hả?

Thọ im lặng mở tấm băng lá cho Tư Lệnh thấy vết thương của mình. Bất ngờ, bộ ruột của anh trào ra khỏi miệng vết thương; máu anh tuôn xối xả.

Anh y tá vội thưa,

- Trình Thiếu tướng, anh này là lính TĐ 82 BĐQ , ảnh bị phòng không bắn khi đang gỡ khẩu 12,8 ly trên cái chiến xa vừa bị bắn cháy. Thiếu tá em cho phép ảnh được tản thương về Sài-Gòn đó Thiếu tướng.

Tư Lệnh la lớn,

- Quân y đâu băng bó cho chú em ngay.

Ông quỳ xuống tự tay ấn từng đoạn ruột của người lính vào bụng của anh ta. Người y tá vội vàng làm phận sự của mình tiếp tay với Tư Lệnh.

Đại úy Hoàn vừa kịp quay lại chưa kịp chào trình diện thì Tư Lệnh đã lớn tiếng,

- Phi hành đoàn C&C đưa gấp chú em này về Cộng-Hòa cho tôi.

Quay qua Thọ, Tướng nhẹ giọng,

- Em là lính của Thiếu tá Long, em can đảm lắm, qua sẽ cứu em!

Thọ lí nhí,

- Cám ơn Thiếu tướng.

Rồi anh quay qua Đại úy Hoàn,

- Cho em điếu thuốc đi Đại úy.

Đại úy Hoàn chưa kịp móc túi lấy thuốc cho Thọ, thì Tướng đã có sẵn điếu thuốc lá đưa vào môi người lính can trường. Ông một tay che gió, một tay bật lửa mồi thuốc cho Thọ. Mặt Thọ tái xanh, những thớ thịt trên má bắt đầu co giật. Thọ hút một hơi thuốc dài, mắt Thọ long lanh, chợt anh ngoác miệng cười,

- Khẩu phòng không còn mới cáo cạnh, nước thép xanh biếc thấy mê luôn Đại úy ơi!

Ông Đại úy Hoàn an ủi,

- Giờ này chắc tụi nó đã mang khẩu súng ấy về nộp cho Thiếu tá rồi. Mày nói đúng đó, nó còn mới cáo cạnh, hèn nào mày không mê nó đến đổ ruột luôn!

Thọ cúi đầu cười xẻn lẻn.

Cái bảng nhôm sơn đỏ có sao trắng được lật mặt ra đàng sau đã trở thành cái bảng nhôm màu trắng thanh khiết bên hông chiếc C&C. Không bảng sao, chiếc trực thăng chỉ huy trở thành giản dị bình thường, như ngàn vạn chiếc tàu khác. Trước khi lên máy bay, Thọ còn ra dấu cho Đại úy Hoàn lại gần để anh nhắn nhủ một điều gì quan trọng lắm,

- Em đi rồi không có ai pha cà phê sáng cho Thiếu tá. Đại úy nhớ nhắc thằng Bích khi pha cà phê cho Thiếu tá thì cho ít đường thôi! Thiếu tá không thích uống ngọt lắm đâu. Nhờ Đại úy nhắn với Thiếu tá rằng, khỏi bịnh, xuất viện là em lên với Thiếu tá ngay. Thôi em đi đây!

Không rõ Tư Lệnh có nghe lời nhắn của anh lính BĐQ gởi cho thầy của anh ta không, nhưng rõ ràng đôi mắt Tư Lệnh rưng rưng. Chiếc trực thăng khuất trong vòm mây từ lâu mà cánh tay Tư Lệnh còn vẫy theo chưa hạ xuống. Đây không phải là lần đầu cái can trường của thuộc cấp làm tôi cúi đầu kính phục. Mà đã nhiều lần trong quá khứ, dưới quyền tôi, không thiếu những ngưới lính dũng cảm như thế. Thời 1966 vùng triền sơn Quảng-Nam đầy rẫy những họng súng bắn tỉa. Cứ nghe tiếng "tắc cù" là chú Hạ sĩ Phong lại đưa cái thân cao ngỏng còng queo của chú che cho tôi, chú nói,

- Em phải che cho Thiếu úy, em trúng đạn có mình em chết. Thiếu úy trúng đạn cả chục người chết theo.

Rồi cũng có lần chú bị bắn toác nón sắt khi đưa thân che chở cho tôi, khi Đại đội tôi chạm địch gần ga Hương- An, Tam-Kỳ.

Năm 1969 trong trận Bình-Tây 49 dưới chân đỉnh Chư-Pa, Đại đội 1/ TĐ11BĐQ của tôi đánh cứu viện cho Đại đội 4/ TĐ11 BĐQ của Tr/ úy Nguyễn Lạn (K20). Trận này quân nhân đơn vị của tôi và Lạn bị thương khá nhiều. Từ đầu trận, người lính mang đồ ngủ của tôi, anh B1 Trung đã bị bắn bể hông phải. Đã có nhiều chuyến tải thương đi, mà Trung vẫn còn ngồi chờ trên bãi đáp. Tôi hỏi tại sao anh không lên máy bay về bịnh viện, anh phân bua,

- Em chờ xem có ai bàn giao đồ ngủ của Trung úy xong em mới yên lòng đi về.

Tôi ngỡ ngàng kêu lên,

-Trời ơi! Sao mày khờ thế! Cứ quăng đại cho ông thường vụ! Lên tàu ngay! Luẩn quẩn ở đây đến chiều, hết tàu tản thương. Qua đêm máu ra hết thì chết!

Trung giao đồ ngủ của thầy anh ta cho ông thường vụ đại đội, bàn giao kỹ lưỡng nhiệm vụ của mình rồi mới chịu lên chuyến tải thương cuối cùng về Quân Y Viện Pleiku. Vết thương của anh nặng lắm, sau ngày lành bệnh, anh B1 Trung đã được giải ngũ lãnh tàn phế 100%. Những người lính của tôi dễ thương như thế ấy! Họ chỉ biết vâng lời người chỉ huy mình, bất kể đúng hay sai. Cấp chỉ huy ra lệnh tử thủ, họ tử thủ; cấp chỉ huy ra lệnh rút lui, họ rút lui; không ý kiến, không bàn cãi phán xét mà chỉ có tuân lệnh thi hành. Họ đã cùng tôi bao tháng ngày đồng hành qua những chiến trường rực lửa, từ Pleime qua Kiến-Đức tới Lâm-Đồng rồi về Xuân-Lộc. Những người lính của tôi không màng đến vinh quang mà chỉ phụng sự cho cái vinh quang của người chỉ huy mình. Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ, nợ với tổ quốc, nợ với đồng bào, và nợ với thuộc cấp của mình, những người đã hi sinh cho cái vinh quang mà mình đã một thời nhận được. Là người cầm quân, vinh quang là cứu cánh, vinh quang là ý nghĩa của cuộc sống.

Tôi không có dịp tham dự vào cuộc phản công tái chiếm chợ Xuân-Lộc, khách sạn Long-Khánh và Cua Heo cũng như những cuộc giao tranh trong khu trung tâm thị xã. Tin tức liên quan đến mặt trận hướng Tây tôi hoàn toàn mù tịt. Suốt mười ngày dầu sôi lửa bỏng tháng Tư Long-Khánh 1975, TĐ 82 BĐQ chỉ biết có mặt trận đông nam thị xã mà thôi. Bên hướng đông suối Rét là Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá (K15) Nguyễn văn Đỉnh làm búa. Bên hướng tây suối Rét là cái đe do Thiếu tá (K20) Vương mộng Long, TĐT82BĐQ chỉ huy, gồm TĐ 82 BĐQ tăng cường thêm 1 Đại đội của TĐ 1/ 43 BB, 1 Đại đội Địa Phương Quân Tiểu Khu Long-An và 1 Đại đội Điạ Phương Quân từ Bình-Long di tản về. Làm đe thì đỡ công di chuyển, đỡ mệt thân xác, dễ kiểm soát đội hình, quân số. Nhưng làm đe cho Dù thì quả là mất mạng như chơi! Pháo Dù nó tưới như mưa, làm đe bị lãnh tản đạn là thường. Trong trận này có ba người lính Thượng của tôi thiệt mạng vì tản đạn của pháo Dù. Tháng Tư 1975 tôi đã chôn họ ngay bên dòng suối Rét. Tôi đã cầu nguyện cho linh hồn họ yên vui trên đường phiêu du về nguyên quán Pleiku.

Từ ngày đầu chiến dịch, một anh phóng viên chiến trường của một tờ báo ở Sài-Gòn, đã có mặt bên tôi không rời. Anh có dáng lòng khòng dong dỏng như một triết nhân. Anh mặc đồ trận, đội nón sắt, nhưng không trang bị súng ống. Anh chỉ có cái máy ảnh, quyển sổ tay, và cây bút làm hành trang. Ngày mà đạn pháo Dù bao trùm suối Rét cái lều của anh nhà báo rách toang. Cũng may anh thoát chết vì lúc đó anh đang ở với ĐĐ1 TĐ82 BĐQ của Th/úy Học; anh bận chụp hình cái tank cháy ngày hôm trước nơi hàng rào bắc của trại 181 PB/ SĐ18. Giữa tháng Tư Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tung ra nhiều đợt tấn công mãnh liệt nhắm vào một Trung đoàn CSBV trong đồn điền chôm chôm hướng đông nam suối Rét. Chúng tôi ở bên này bờ, hào hứng quan sát pháo Dù nổ rền trời phía bờ bên kia. Từ nơi đồn điền Thống tướng Tỵ, cán binh CSBV từng tốp chạy túa ra bìa rừng, nhảy ùm xuống suối Rét. Những tay súng Pleime nhả đạn từ từ và chính xác. Những người lính Bắc-Việt bật lên khỏi mặt nước như những con cá trắm cỏ, quẫy mạnh một lần rồi chìm luôn...

Những tiếng hô "Biệt Động! Sát!" hoà lẫn tiếng súng M16, M60 làm cho một số cán binh CSBV vừa ló đầu ra trảng trống đã vội chạy ngược lại bìa rừng.

Rồi cũng có người cầm cờ trắng chạy từ trong rừng ra bờ suối, súng AK dơ lên cao khỏi đầu. Thế là họ đầu hàng!

-Thôi! Vứt súng xuống suối rồi lội sang đây! Vứt súng xuống suối! Dơ tay lên cao khỏi đầu, lội sang đây! Nghe rõ chưa?

- Dạ cháu nghe rõ ạ!

Tôi và người phóng viên nhà báo mồi cho ba anh cán binh CSBV ba điếu thuốc lá. Họ còn rất trẻ, chỉ độ mười lăm. Bơ phờ mất ngủ, mắt quầng thâm.

- Cậu mấy tuổi rồi?

- Dạ thưa Thủ trưởng, cháu lên mười sáu ạ!

- Sao đi bộ đội sớm thế? Mới mười sáu mà đã đi lính rồi à?

- Cháu là thanh niên xung phong. Thủ trưởng của cháu nói rằng Miền Nam giải phóng rồi. Chúng cháu chỉ vào để tiếp thu thôi ạ!

- Thế đánh nhau mấy ngày nay cậu thấy thế nào?

-Thưa Thủ trưởng, nhà cháu sợ lắm ạ!

- Thôi đừng sợ, chốc nữa có người đưa cậu về Sài-Gòn. Hết chết rồi, đừng sợ!

- Thủ trưởng có nói thật không hử Thủ trưởng? Nhà cháu sợ chết lắm Thủ trưởng ơi!

Đôi mắt trẻ thơ ngơ ngáo. Ngón tay cậu bé run run cầm điếu thuốc thơm đưa lên môi, chỉ sợ nó rơi...

Thì ra thế! Những cậu bé này được đưa vào đây là để... tiếp thu Miền Nam!

Một hôm, Đại tá Hiếu gọi tôi vào máy để "check fire". Tôi liếc qua nơi cần hỏa tập. Ồ! Cái tọa độ ấy chẳng liên hệ gì tới quân bạn, không trở ngại! Rồi Đại tá Hiếu lại gọi tôi vào máy để "check fire". Rồi tôi lại trả lời, "không trở ngại!" Cứ vậy, ba bốn lần hỏi qua, đáp lại. Chiều hôm ấy tôi nghe một tiếng "ùm!" âm vang hướng đông bắc. Tôi đã từng nghe B52 đánh cận phòng nhiều lần trên chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2. Tôi đã nghe quen tiếng những trái bom 500 cân Anh, 300 cân Anh thun thút từ trên mây xanh, những tiếng "ủn ủn" theo đuôi nhau chui trong không khí kiếm mục tiêu. Nghe tiếng bom nổ chùm, tôi có thể phân biệt được đó là Box 3km x 1km, Box 2km x 1km, hoặc Box 1km x 1km. Tiếng "ùm!" lần này có vẻ như âm vang của 1 Box B52 đánh gọn ô vuông mỗi chiều 1km x 1km ngày nào? Tôi thấy một cột bụi dâng cao dần dần tới mây. Trời cao và mây xanh ngắt. Có một chiếc C130 còn lượn trên vùng. Tôi nghĩ chắc chiếc C130 là tác giả cú "ùm!" vừa qua. Mãi sau này tôi mới biết tiếng "ùm!" đó là 1 trong 2 trái CBU 55 (hay CBU 85) được xử dụng trong trận Xuân-Lộc. Một trái được thả xuống vùng núi Tre hướng Tây Bắc Long-Khánh, tôi không nghe báo. Trái thứ nhì thì được thả xuống chận đường kẻ thù đang tiến vào khu vực phòng thủ của Trung đoàn 43/ SĐ18 BB trong đó có TĐ 82 BĐQ tăng cường.

Mặt trận tạm yên thì phái đoàn Thượng Hạ Viện từ Sài-Gòn đã bay ra tới tận cuối sân bay Long-Khánh để ủy lạo những người lính Vùng 2 đang đổ máu bảo vệ mảnh đất còn lại của quê hương nơi Vùng 3. Những gói quà, những cái bắt tay, những lời hứa hẹn khen thưởng làm ấm lòng người chiến sĩ. Tôi nằm trên võng dưới tàn cây điều lộn hột, lòng buồn nhớ thương vợ con tôi không rõ giờ này ra sao. Những người lính dưới quyền tôi cũng vậy, mặt người nào cũng không vui, thân nhân chúng tôi đã rơi vào tay địch nơi chân trời cũ xa xôi Ban-mê-Thuột, Pleiku... Một sớm mai, từ hướng đông, chiến xa địch dàn hàng tiến về vòng đai phòng thủ Xuân-Lộc. Đại tá Hiếu gọi tôi và cho biết lần này bộ binh tùng thiết của CSBV có vẻ đông hơn những đợt tấn công trước đây nhiều. Pháo binh bạn đã bắn tối đa để chận địch. Tôi thấy vài cột khói bốc lên từ những chiếc tank bị cháy. Có một chiếc T54 bị bắn đứt xích cách vòng rào trại 181 PB không xa lắm. Chúng tôi nghe tiếng búa của bộ đội CSBV gõ trên thành xe, chúng đang sửa cái xe tank bị đứt xích! Pháo binh từ trong vòng đai liên tiếp trực xạ hướng vào chiếc T54 bị thương. Địch không phản ứng. Tiếng búa chạm sắt cũng im. Họ án binh chờ lệnh? Rồi bên quân bạn cũng không thấy ai yêu cầu tác xạ thêm, pháo binh của ta cũng tạm ngưng. Từ trưa tới chiều chạng vạng, mặt trận yên tĩnh lạ lùng. Khi mặt trời vừa lặn, pháo địch từ nhiều hướng khác nhau tập trung trên thành phố Xuân-Lộc, đủ loại súng nặng, bắn thẳng, cầu vồng, có điều khác lạ là tất cả đều là pháo tầm xa (?) Pháo địch kéo dài cỡ một giờ đồng hồ rồi im hơi. Màn đêm buông xuống, tôi nghe tiếng động cơ chiến xa nổ rộ, rồi nghe tiếng bánh sắt chạm đường đất đá, âm vang kéo dài từ gần rồi xa dần. Toán tiền thám BĐQ ngoài vòng đai báo cáo, chiếc T54 bị đứt xích đã được kéo đi và cả đoàn chiến xa dàn hàng ngang ngoài vòng đai phòng thủ cũng đang rút đi (?) Tôi báo cáo sự việc này cho Đại tá Hiếu, ông cũng ngạc nhiên không hiểu vì lý do gì, địch đang chuẩn bị một cuộc sống mái thì đột nhiên đổi hướng.

Những ngày sau đó tình hình im ắng như tờ, những con ve sầu trên ngọn điều lộn hột cất tiếng hòa ca điệu cuối Xuân trong khung cảnh thật là tĩnh mịch êm ả đồng quê. Những cây chuối trên đồi rủ lá. Những sợi khói lam từ mái rạ bay cao. Khoảng ba giờ chiều ngày 20/04/1975 Đại tá Hiếu cho xe ra sân bay đón tôi vào họp hành quân. Ông rầu rầu,

- Ông Toàn ra lệnh cho chúng ta bỏ Long-Khánh rút về Bà-Rịa. Ông Đảo vừa được lệnh và cho tôi biết. Tôi đón chú vào cho chú hay để mà chuẩn bị. Chút nữa ông Đảo họp với ông Toàn xong trở về sẽ có lệnh chi tiết sau. Tôi ngồi với Đ/Tá Hiếu một lúc thì có điện thoại của Tư Lệnh. Đại khái ông cho biết, lệnh bỏ Long-Khánh là từ Tổng Thống. Địch không vây Long-Khánh nữa mà đi bọc về đánh Biên-Hòa và thủ đô Sài-Gòn nên quân ta phải bỏ Xuân-Lộc, về bảo vệ Thủ Đô. Tướng Đảo cực lực phản đối vụ triệt thoái này nhưng Tổng Thống và Tướng Toàn đã quyết định cắt tiếp ứng, tiếp tế, yểm trợ cho SĐ 18 để ép Sư đoàn này thi hành lệnh lui binh.

Tôi được lệnh rút TĐ 82 BĐQ về ngã ba Tân-Phong trước 8 giờ đêm, chờ lệnh. Tiểu đoàn 82 BĐQ cuốn lều, lấp hầm hố phòng thủ khi đêm rơi. Cuối tháng ba năm 1975 chúng tôi đã làm việc này ở Kiến-Đức; chúng tôi đã bỏ lại sau lưng một trận địa, một kẻ địch kinh hoàng đến độ hai ba ngày sau mới dám mon men vào điểm trú quân đã bỏ trống của đơn vị BĐQ một thời ngang dọc Vùng 2. Tôi đã rút đi, theo lệnh, để lại Kiến-Đức hàng chục nấm mồ thuộc cấp của mình bên QL14. Quận Kiến-Đức và Đồn Pleime cách nhau không bao xa, cũng còn là trong lãnh thổ Vùng 2! Lần này 12 người lính của Pleime ngủ lại bên bờ suối Rét, lạ lẫm quê người, quanh đây chỉ có điều lộn hột, chuối, xoài và đồng cỏ mênh mông. Nơi này thật xa những ngọn núi hùng vĩ Chư Gô, Chư Don, thật xa con sông mơ màng Ia Meur lững lờ quanh năm. Công lao khó nhọc dặm trường nửa đường đứt gánh.

Đơn vị tôi vừa di chuyển ngang cổng Tòa Hành Chánh tỉnh Long-Khánh thì Đại tá BĐQ Phạm văn Phúc, tỉnh trưởng đã chờ ở đó. Đại tá yêu cầu tôi cho Tiểu đoàn 82 BĐQ đi với đoàn quân của Tiểu khu Long-Khánh, và ông xin được tháp tùng Tiểu đoàn 82 BĐQ trong cuộc rút lui. Tôi từ chối với lý do,

- Đại tá có cả một Tiểu Khu, Đại tá phải chỉ huy họ, là cấp chỉ huy của họ. Đại tá không thể đi theo tôi mà để họ không người chỉ huy.

Đại tá Phúc hiểu ra, cám ơn tôi đã có lời nhắc nhở nhiệm vụ của ông. Chúng tôi bắt tay từ biệt. Mãi tới năm 1979 tôi mới gặp lại Đại tá trong trại cải tạo Nam-Hà A ngoài Bắc. Trong cuộc rút binh, Đại tá Phúc đã bị bắt khi đi được nửa đường Xuân-Lộc, Bà-Rịa và bị giữ trong trại tù từ ngày đó. Ra tới QL1 tôi phải cho quân đi hàng một và cách lề trái đường vài chục mét. Khi đến ngã ba Tân-Phong tôi được lệnh ngừng lại chờ lệnh. Trên QL1 những chiếc xe cam nhông chở đầy ắp lính ngồi hai hàng, xe chạy như bay, chiếc này bám đuôi chiếc khác. Xe mở đèn pha sáng choang. Có những người lính bộ binh lưng mang nặng balô, súng đeo vai đi sát hai bên đường. Một người lính bộ binh chạy băng ngang từ bên phải sang bên trái đường. Anh trượt chân té, chiếc xe cam nhông chạy qua đè ngang hai chân anh. Anh lính la hét đau đớn được một câu thì chiếc xe cam nhông thứ hai đã đè đủ năm chiếc bánh bên trái qua người anh ta. Tôi nghe rõ tiếng "rốp!" khi bánh xe lăn qua đầu anh. Cái xác dẹp lép của người lính cách chân tôi khoảng hai mét. Tôi kéo xác anh vào lề đường. Cái căn cước quân nhân cho tôi biết tên người xấu số là Nguyễn thành Long, sinh quán Long-An. Hai bên đường người cứ đi như chảy hội, trên đường, xe cứ nối đuôi nhau.
. . . . . . . .

Vương Mộng Long
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21156
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Chiến sĩ vô danh

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          


          





Chiến sĩ vô danh
Phạm Duy - Hoàng Vân . Ngàn Khơi


          
Ngoc Han
Bài viết: 1601
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: - 30/04/2022 - tưởng niệm 47 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Ngoc Han »

Cám ơn anh Hoàng vân, bài Chiến Sĩ Vô Danh nghe mà nhớ lại những ngày xa xưa. Mời anh và Nhà Nam đọc tiếp trang quân sử viết bởi Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang (Tư lệnh sư đoàn 6 KQ, phòng thủ căn cứ Phan Rang).

Những Chiến Tích của QLVNCH
Mặt Trận Phan Rang

Nhớ lại suốt hạ tuần tháng 3 năm 1975, sau khi có lệnh bỏ Huế và Đà Nẳng, các đơn vị ta cứ lần lượt tháo lui, làm các tỉnh thành, quận lỵ phải rút theo, tạo ra cảnh đỗ vở tan thương cho không biết nhiêu gia đình quân nhân cũng như dân chính. Tốc độ rút lui nhanh hơn tốc độ truy đuổi. Các đơn vị VC đến tiếp thu, không bị đánh chận, nên cứ ung dung tiến văo thành phố đã bị bỏ ngỏ. Đến khi vào tiếp thu Nha Trang, chúng vẫn cứ tin rằng Phan Rang cũng đã bỏ chạy, nên tiếp tục cho các toán tiền thám cứ tiến vào. Ngạc nhiên, và cũng là lần đầu tiên bị ngăn chận trước khi đến Phan Rang, chúng bèn tháo lui về hướng Bắc, vào ẩn nấp trong vùng Ba Ngòi chờ viện binh. Mãi đến ngăy 16.4.1975, khi tung ra toàn lực âp đảo, chúng mới vào được Phan Rang.

Vào thời điểm các đại đơn vị ta rút lui, mà không có một sự kháng cự đáng kể nào để làm khó khăn và thiệt hại cho đối phương, thì căn cứ Phan Rang đã anh dũng chống cự, và đã làm thiệt hại đáng kể cho quân đội chánh quy Bắc Việt.

Chiến trận tại Phan Rang có thể chia ra làm 3 giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhứt từ ngày1 đến 3.4.1975, là giai đoạn hình thành tuyến phòng thủ, với Sư đoàn 6 Không quân và Tiểu đoàn 5 Dù thuộc Lữ đoàn 3 Dù cùng một số đơn vị địa phương quân còn lại.

Sư đoàn 6 Không quân gồm:

– 3 Phi đoàn A-37, 524, 534, 548

– 1 Phi đội A-1

– 2 Phi đội tản thuơng 259 B và 259 C

– 2 Phi đoàn Trực thăng 229 và 235

Lữ đoàn 3 Dù gồm:

– Bộ chỉ huy

– Tiểu đoàn 5

Giai đoạn thứ hai từ ngày 4 đến 12.4.1975, là giai đoạn củng cố tuyến phòng thủ, với sự thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3, với Lữ đoàn 2 Dù. Đây là thời gian đem đến ít nhiều lạc quan trong việc ổn định tình hình sau nhiều ngày xáo trộn. Một số đơn vị nhỏ của địch đã hoàn toàn bị đẩy lui khỏi đèo Du Long rút về ém quân tại khu Vườn Dừa, Cam Lâm đợi tăng viện.

Lử đoàn 2 Dù gồm:

– 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11

– 1 Tiểu đoàn Pháo binh

– Các đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận

Giai đoạn thứ ba từ 13 đến 16,4.1975, là giai đoạn của trận chiến quyết định, với các đơn vị gồm:

Liên đoàn 31 Biệt động quân gồm:

– 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52.

Tăng cường cho Bộ Tư Lệnh Tiền phương:

– Toán Thám sát / Nha Kỷ thuật

Sư đoàn 2 Bộ binh gồm:

– 2 Trung đoàn 4 và 5

– 2 Pháo đội gồm 10 khẩu 105 ly

– 2 Chi đội Thiết Vận Xa gồm 10 chiếc

Lực lượng Hải quân gồm:

– Duyên đoàn 27

– 2 Khu trục hạm

– 1 Giang pháo hạm

– 1 Hải vận hạm và một số tàu yểm trợ

Trong 2 ngăy 13 và 14, Lữ đoàn 2 Dù được lịnh rút về Saigon. Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh ra thay. Vừa thay quân vừa chiến đấu, và phòng tuyến Phan Rang bị tràn ngập vào trưa ngày 16.4.1975, bởi 2 sư đoàn VC 325 và 3 Sao vàng, cùng với các đơn vị của Đoàn 968 VC. Trong ngày 14.4.1975, ngoài Duyên đoàn 27 đã có mặt tại Phan Rang, Hải quân Saigon tăng cường khẩn cấp 2 Khu trục hạm, 1 Giang pháo hạm, 1 Hải vận hạm cùng một số tàu yểm trợ.

Lực lượng địch:

Theo tù binh thuộc Đoàn Hậu cần 57 địch bị bắt tại đèo Du Long ngày 9.4.1975, các cấp chỉ huy địch ngở Phan Rang đã bỏ chạy, nên tiếp tục cho các bộ phận truy đuổi, cứ yên tâm tiến vào tiếp thu. Bị đánh đuổi, chúng lui về lẫn trốn vùng Vườn Dừa, Ba Ngòi chờ đại quân của 2 Sư đoăn 3 và 325 VC từ phía Bắc đến. Các nhóm du kích vẫn hoạt động gần phi trường. Đoàn 968 VC vừa ghi nhận có mặt. (xác nhận bởi Đại tá Nguyễn Thu Lương và Trung Tá Phạm Bá Mạo khi bị đơn vị nầy bắt tại mặt trận.)

I. HÌNH THÀNH TUYẾN PHÒNG THỦ

Kể từ ngày 1.4.1975, sau khi Nha Trang bỏ ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên trở thành căn cứ tiền tuyến của Miền Nam. Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn Phát, Lử đoàn trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn và một phần của Tiểu đoàn 5, trên đường rút từ Khánh Dương xin vào để chờ phi cơ về Saigon. Căn cứ tôi lúc bấy giờ rất là trống trải, vì một số lớn quân nhân Địa Phương Quân canh gác vòng đai đã bỏ nhiệm vụ. Trong căn cứ, một số quân nhân trẻ nổ súng loạn xạ vì lo sợ vu vơ. Ngoài thị xả, Tỉnh trưởng đã rời nhiệm sở, dân chúng thì ngơ ngác, phân vân. Trên quốc lộ 1 và 11 hướng về Saigon, từng đoàn xe dân sự và quân sự chật nứt người rầm rộ tiếp nối nhau chạy giặc. Tệ hại hơn nửa là Đà Lạt cũng bỏ chạy, và đoàn xe của Trường Võ Bị Đà Lạt đang theo Quốc lộ 11 trên đường đi Bình Tuy cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc nầy thực sự, căn cứ tôi đang trở thành tiền đồn và đang ở trong tình trạng hết sức cô đơn.

Chuẩn bị tìm phương kế giữ an toàn, tôi chỉ thị hạn chế sự ra vào căn cứ để tránh xáo trộn do toán người tháo chạy mang đến. Vì vậy nên khi nghe có đơn vị Dù xin vào căn cứ, tôi liền hỏi xin lệnh Bộ Tư Lệnh KQ. Được biết đó là do Bộ Tư Lệnh Dù yêu cầu để Lử đoăn III được văo căn cứ như đơn vị tăng phái phối hợp phòng thủ, tôi mới thuận cho đoàn quân của Trung tá Phát vào phi trường. Thật là đúng lúc cần thiết và tôi rất bằng lòng có thêm người để giử an toàn cho căn cứ hiện trong tình trạng bỏ ngỏ. Tôi phối họp ngay với Trung tá Phát để phối trí việc phòng thủ căn cứ với Không đoàn Yểm Cứ của Trung tá Phạm Bá Mạo và Trung tá Nguyễn Văn Thiệt vì căn cứ mênh mông với vòng đai hình vuông mỗi cạnh 6 km, mà Liên đoàn Phòng Thủ chỉ có khả năng phụ trách canh gác vòng đai gần mà thôi. Dù muốn dù không, căn cứ không quân Phan Rang đã trở thành tiền đồn của Miền Nam mà tôi đang là người có nhiệm vụ phải chống giữ. Tôi chỉ thị Trung tá Diệp ngọc Châu Phụ tá Nhân Huấn phải theo dỏi sát vấn đề nhân viên, để đừng xảy ra tình trạng bung chạy, vì quá hoang mang, giao động trước việc, có thể chiến đấu như bộ binh.

Trung tá Phát xử dụng Đại đội Trinh sát Dù, bung ra kiểm tra nội vi căn cứ và đánh đuổi một vài tên du kích mon men vào Đồn Đại Hàn gần cổng số 2 của căn cứ. Về phần Không quân, câc cấp phi hành và kỷ thuật đê am hiểu tình hình mới, chấp nhận thực trạng và hết mình nổ lực chiến đấu vì nhu cầu phòng thủ.

Vào buổi chiều, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 ghé căn cứ thăm hỏi tình hình. Sáng hôm sau, rời căn cứ bay về Saigon.

Ngày 2.4.1975, Saigon tăng cường một đơn vị Dù. Trung tá Phát liền xử dụng để kiện toàn an ninh cho phi trường và phối hợp với các đơn vị Địa phương quân trong việc giữ an ninh cho thị xả.

Lúc 2 giờ chiều, tôi bay xuống Phan Thiết đón Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3. Khi gặp tôi, ông nói sở dĩ muốn gặp tôi tại Phan Thiết là để xác nhận sự hiện hữu của Phan Rang, mà giờ nầy lẻ ra cũng đã bỏ chạy như Nha Trang và Cam Ranh rồi. Sau khi nghe tôi thuyết trình tình hình, Trung tướng Toàn nói:” kể từ buổi thị sát nầy, Phan Rang sát nhập vào Quân đoàn III, trở thành cứ điểm cực Bắc của quân đoàn.”

Cùng ngày tôi nhận được lệnh Bộ tổng tham mưu chỉ định tôi phụ trách bảo vệ Phan Rang.

Ngày 3.4.1975, TĐ5 Dù để tạm kiểm soát các khu vực cạnh thị xã và nội vi phi trường. Từ Ba Râu đến Thị xã, dân chúng bớt hoảng sợ mặc dầu sanh hoạt vẫn còn rụt rè. Trong căn cứ Không đoàn Yểm Cứ đã chấn chỉnh an ninh nội bộ khiến cho căn cứ lần lần lấy lại sanh hoạt bình thường.

Đại tá Lê văn Thảo Không đoàn trưởng Không Đoàn 92 Chiến Thuật với 3 phi đoàn A-37, 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu và 548 Ó Đen. đã sát cánh cùng đoàn viên xuất kích đêm ngày rất hữu hiệu.

Trung tá Lê Văn Bút Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật với 2 phi đoàn trực thăng 229 và 235, 1 phi đoàn Quan sát 118 và một bộ phận của Phi đoàn 530 A-1 với Phi đội tản thương 259 C, đã bay thi hành nhiều công tác khó khăn nguy hiễm.

Trung tá Đổ hữu Sung và đoàn kỷ thuật gan dạ, chu toàn mọi công tác sửa chửa và trang bị dưới làn pháo kích ngày đêm của địch.

Theo tin tức của các quân nhân ta từ các nơi ghé xin phương tiện về Saigon, thì VC đang xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Tôi liền cho phi cơ quan sát bao vùng và chỉ điểm cho phi cơ A-37 đánh phá.

Cộng thêm các khó khăn, việc tiếp tế nhiên liệu đang gặp trở ngại vì xe bồn không cung cấp như bình thường, bởi cảng Cam Ranh đã bị địch chiếm. Vì vậy hàng ngày, tôi phải nhận tiếp tế từ Saigon bằng phi cơ C-130, một số lượng nhiên liệu tối thiểu cho hành quđn mà thôi.

Để tránh hổn loạn khi bị pháo kích dồn dập, tôi cũng phải cho nửa số phi cơ về trú đêm ở Saigon, để sáng hôm sau trở ra với đầy nhiên liệu.

Trong ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng vảng ngoài vịnh Phan Rang để chở một số người, tôi liền cử Trung tá Lý Văn Bút dùng trực thăng đáp trên một trong những tàu đó để chào hỏi và cho biết hiện tình ở Phan Rang. Tiếp đón và trả lời những điều muốn biết trong lối 1/2 giờ, Hạm trưởng thúc giục Trung tá Bút rời tàu. Xuyên qua lời trình thuật của Trung tá Bút, tôi đê hiểu rỏ ràng là trong cấp thời, Mỹ không còn có ý định dính líu gì nửa đến cuộc chiến đang diễn tiến hiện nay.

II – BỘ TƯ LỆNH TIỀN PHƯƠNG

Phan Rang nằm vào phía Nam của một thung lủng hẹp bao bọc bởi các dải núi về hướng Tây, Bắc và Đông Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện cho việc phòng ngự. Ngày đêm phi cơ trong căn cứ liên tục quan sát bao vùng và oanh tạc ngay các mục tiêu bị phát hiện. Các đơn vị VC đã tiến quá xa với hậu tuyến của họ. Họ chỉ mới tiếp thu Nha Trang và Cam Ranh. Với mức độ hành quân 10 cây số ngày hoặc gia tăng với phương tiện chiếm được thì không thể tập trung tấn công ngay được. Có thể có những phần tử lẻ tẻ đã xâm nhập và đang ém quân, nhưng ngoài ra Phan Rang chưa có nguy cơ bị tấn công ngay bởi quân chánh quy. Muốn tấn công, có thể chỉ có từ 2 hướng: Một là từ hướng Bắc, theo QL 1 tiến qua đèo Du Long thẳng vào thị xả và hai là từ hướng Tây tấn công từ Khrông Pha qua Tân Mỹ hướng về thị xả Phan Rang. Ngoài ra còn có một ít đường mòn từ Vườn Dừa, Ba Ngòi chạy theo hướng Nam Tây Nam sát căn cứ KQ hướng về Tân Mỹ có thể chọn để xâm nhập được. Trong lần bay quan sát chiều ngày 14.4.75, tôi thấy một vài thiết vận xa địch trên những đường mòn nầy vào hướng Tây Bắc của căn cứ, cách khoảng 8 km. (Đương nhiên, khi bị phát hiện, chúng đều lẫn trốn trước khi bị oanh tạc.)

Thị xã và Phi trường Phan Rang nằm vào phần Nam của cái thung lũng đó. Quốc lộ 1 và đường xe lửa chạy song song xuyên qua đèo Du long về thị xả, tách ra tại Thôn Ba Râu, chạy sát phi trường rồi tiến về Nam không qua thị xã. Từ thị xã đến Du Long khoảng 15 km với Ba Râu khoảng 9 km và với Că Đú khoảng 4 km. Từ Cà Đú đến thị xã, mặt đất bằng phẳng.

Phi trường Phan Rang rất rộng, hình vuông, mỗi cạnh trên dưới 6 km, nằm giữa QL 1 và QL 11 và sát với đường xe lửa về hướng Đông, cách thị xả 5km và Nha Trang khoảng 80km. Có 2 đường bay song song, 1 bằng xi măng cốt sắt vă 1 bằng vĩ nhôm dài 10.000 bộ, rộng 150 bộ. Có đầy đủ cơ sở cho kỷ thuật, tiếp liệu với các bồn xăng và kho bom theo tiêu chuẩn an ninh tối tân. Việc phòng thủ bao gồm 60 chòi gác, với 2 cổng chung quanh căn cứ do 7 đại đội Địa phương quân phụ trâch.

Ngày 4.4.1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chánh thức đến Phan Rang cùng với toán truyền tin và chuyên viên, nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang, và thiết lập Bộ chỉ huy Tiền Phương trong Căn cứ của Sư đoàn 6 Không quân, nằm vào lối 5km Bắc Tây Bắc của Thị xã Phan Rang. Ông cho biết là đã được Thượng cấp chấp thuận gởi ra một số đơn vị chưa bị ảnh hưởng của việc rút quân để giữ Phan Rang. Bởi tin tưởng vào lời hứa hẹn nầy, nên Ông rất vui lòng đảm nhận chức vụ.

Vì địa thế của Phan Rang có nhiều thuận lợi cho việc phòng thủ, nên Trung tướng Nghi quan niệm:

” Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du Long, mặt Tây từ Quận Tân Mỹ và phải giữ an toàn cho căn cứ Không quân, cũng như giữ an ninh cho Thị xả phối họp với một số đơn vị Địa phương quđn còn lại.”

Theo quan niệm đó, Trung tướng Nghi thảo ra kế hoạch phòng thủ Phan Rang với một lực lượng cở 2 sư đoàn mới có thể trong tạm thời phòng thủ được. Đó là:

Mặt Bắc, trên Quốc lộ 1 trấn giữ các điểm cao tại đèo Du long với một dải chiến tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba Tháp để ngăn chận mọi cuộc tấn công hướng vào thị xả hoặc vào căn cứ.

Mặt phía Tây, trín Quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, một chiến tuyến để chận địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi trường.

Bảo vệ an ninh cho thị xả và phi trường do các đơn vị chánh quy phối hợp với Địa phương quân phụ trách.

Ngày 5.4.1975. Trong ngày, thỉnh thoảng vẫn có vài quân nhân Không quân thất lạc trình diện xin phương tiện về Saigon và luôn xác nhận là vẫn có một số VC xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Chúng nói vì có quân Dù của ta ở phía trước nên chúng còn nấp chờ chi viện.

Ngoài ra Tướng Times, phụ trách an ninh cho Tòa Đại sứ Mỹ, đến thăm và nói sẽ sắp xếp cho người của ông thường xuyên ở lại đây, để chuyển tin ngay về tòa đại sứ.

Trong mấy ngày qua, tôi đã điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư đoàn 6 KQ. Vô tình tôi đã biến căn cứ Không quân Phan Rang thành một cứ điểm phòng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp nầy.

Ngày 6.4.1975, trong ngày, sinh hoạt trong căn cứ không quân đã có sự bình thường và các phi vụ đều được thi hành như thông lệ. Thêm một số quân nhân của 7 Đại đội Địa phương quân phụ trách canh gác vòng ngoài phi trường tiếp tục trở về.

Quân địch sau khi chiếm Nha Trang, liền vội vã đến tiếp thu Cam Ranh. Toán viễn thám của họ theo đă chạy tiếp thu, có thể đã xâm nhập từ Vườn Dừa, Ba Ngòi, qua đồi Du Long, xuống về phía Nam. Các Sư đoăn xâm nhập chưa thấy xuất hiện. Chỉ biết có đơn vị F-10 hoặc 968 đang lẫn núp xâm nhập lẻ tẻ.

Ngày 7.4.1975 là ngày đáng ghi nhớ.

Đại tá Trần Văn Tự, Tỉnh trưởng Phan Rang, vừa trở về với một số công chức, và đang tập họp các lính Địa phương quân và Nghĩa quân.

Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Dù, với 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11 và 1 Tiểu đoăn Pháo binh cùng các Đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận lần lượt đến căn cứ. Trung tướng Nghi liền giao cho nhiệm vụ chiếm các cao điểm và tổ chức tuyến phòng thủ tại Du Long mặt Bắc và tại Tân Mỹ mặt Tây. Tập trung lực lượng khi cần để chận không cho địch vượt qua Du Long. Xử dụng Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá Phát hiện có mặt tại căn cứ giữ an ninh cho phi trường.

Ngày 8.4.1975, khi đơn vị cuối cùng của Lữ đoàn 2 Dù đến căn cứ, Đại tá Lương liền điều dộng giải tỏa đoạn Quốc lộ 1, từ Thị xã đến Du Long, qua các Thôn Cá Đú, Ba Tháp, Ba Râu và Du long, với 2 Tiểu đoàn 11 và Tiểu đoàn 3. Trên đường tiến quân, Tiểu đoàn 3 Dù đuổi địch chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba Râu. Địch tổn thất khoảng một đại đội với nhiều vũ khí. Tiểu đoàn 11 được trực thăng của Sư đoàn 6 Không quân, đưa đến chiếm Du Long, và các cao địa trọng yếu kiểm soát đường đỉ Du Long.

Bắt sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc đoàn hậu cần địch cùng một số quân lính VC, vì ngở Phan Rang đã bị chúng chiếm, nên cứ ngang nhiên di chuyển. Đồng thời, tìm thấy bộ đồ bay của Trung úy Lý Tống, thuộc Không đoàn 92 Chiến thuật/ Sư đoàn 6 Không quân, còn để tại vùng đèo Du Long, khi phi cơ A-37 của mình vừa bị bắn rơi, lúc cùng phi đội oanh tạc khu Vườn Dừa. (Trung úy Lý Tống là người đã thả truyền đơn chống cộng tại Saigon năm 1992, tại Cuba trong năm 2000 và tại Saigon cuối năm 2000, nhân dịp Tổng Thống Bill Clinton đến thăm Việt Nam.)

Tại phía Tây, phần lớn của Tiểu đoàn 5 Dù đã trấn ngữ đầu cầu hướng về Tân Mỹ, ngừa được sự tấn chiếm từ hướng nầy. Trong căn cứ, toán Trinh sât Dù cũng lại đuổi khỏi đồn Đại Hàn một số quân nhân địch vừa lén lút xâm nhập. Tiểu đoàn 7 trừ bị giám sát việc giữ an ninh trong căn cứ không quân với Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù. Kết quả là trong ngày nầy, Phan Rang đã hoàn toàn kiểm soát được tình hình vốn bị trì trệ từ khi Nha Trang và Cam Ranh tháo chạy.

Buổi sáng, lúc Trung úy Nguyễn thành Trung vừa oanh tạc Dinh Độc Lập, thì Bộ Tư Lệnh Không Quân bảo tôi phải cho ngăn cản và bắt đáp, nếu Trung bay qua Phan Rang. Lệnh đã được cấp tốc thi hành, và Trung đã không bay qua đây.

Đặc biệt Cha giáo sứ Hồ Diêm, với niềm phấn khởi, đến thăm Trung tướng Nghi để hoan nghênh quân Dù đã giải tỏa được Phan Rang. Điểm đáng đề cao là chính Cha, cùng với lực lượng Nghĩa quân và Nhân dân tự vệ của giáo sứ, đã thành công bảo vệ địa phận mình chống lại các cố gắng len lỏi xâm nhập của địch.

Ngày 9.4.1975, Trung tá Lê Văn Bút, Không đoàn trưởng Không đoàn 72 Chiến Thuật, bay chỉ huy 40 trực thăng HU với 12 trực thăng Võ trang cơ hữu cùng 8 trực thăng Chinook từ Biên Hòa biệt phái. Mục đích là để lên Khánh Dương tìm kiếm và chở về các toán còn kẹt lại của Lữ đoàn 3 Dù, gồm 2 Tiểu đoàn 2 và 6 cùng một số quân của Tiểu đoàn 5, lúc Nha Trang rút chạy. Cùng đi có Trung tá Trần Đăng Khôi, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 3 Dù phụ giúp tìm kiếm, chọn bãi đáp để rước toán thất lạc nầy trở về. Bấy giờ khu vực Khánh Dương đa trở thành vùng địch kiểm soât, nên tôi cho bay theo 2 phi đội A-37 yểm trợ. Kết quả là đoàn trực thăng đã mang về đến căn cứ Phan Rang, hơn 600 người mà phần lớn lă quân nhân của các Tiểu đoàn 2 và 6, cùng một số thất lạc của Tiểu đoàn 5 với một số ít dân sự chạy loạn đi theo. Toán nầy vào buổi chiều được chở toàn bộ vào Saigon. Cuộc hành quân trực thăng vận thành công tốt đẹp, đem về được số quân nhân thất lạc của Lữ đoàn 3 Dù. Thật đúng là một chuyến bốc quân lịch sử. Đoàn trực thăng 60 chiếc đã phải bay qua vùng địch chiếm với mọi hiểm nguy và bất trắc khôn lường.

Trong thị xã, Đại tá Trần Văn Tự Tỉnh trưởng tiếp tục chấn chỉnh các phần vụ hành chánh, đồng thời lo chỉnh đốn hàng ngũ các đơn vị Địa phương quân. Ngoài thị xã, dân chúng hãy còn e dè ở lại, nhưng không tuôn chạy nhiều như những ngày trước. Cuộc sống có chỉ dấu trở lại bình thường, tạo nhiều phấn khởi.

Các ngày 10 và 11. 4.1975 có được sự yên tĩnh trong toàn bộ vùng Phan Rang. Bộ Tư lệnh tiền phương đang trù tính kế hoạch chiếm lại Cam Ranh để sau đó lấy lại Nha Trang. Địch sau khi bị đuổi khỏi các địa điểm xâm nhập đang tập trung ém quân tại vùng Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi viện quân.

Ngày 12.4.75 là ngày khởi đầu có bất trắc trong việc phòng thủ Phan Rang.

Lệnh từ Quân đoăn III cho biết sẽ rút Lữ đoàn 2 Dù và Tiểu đoàn 5 Dù vào ngày 13.4.1975, và thay bằng Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn, và Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 trung đoàn, cùng 2 Chi đội Pháo và Chi đội Thiết vận xa.

Liên đoàn 31 Biệt động quân vừa rút khỏi Chơn Thành, sau nhiều ngày tác chiến gian khổ với nhiều tổn thất, chưa kịp nghĩ dưỡng quân, thì được tung ra tiền tuyến với quân số thiếu thốn trầm trọng.

Sư đoàn 2 Bộ binh cũng vừa tháo chạy từ Quảng Ngải, vừa tập trung tại Bình Tuy và đang được bổ sung quân số thì được lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả đơn vị hảy còn hoang mang, dao động. Vì chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị nầy phải thu lượm một số pháo và thiết vận xa để mang theo cùng với các trung đoàn ra Phan Rang bằng đường bộ.

Bộ Tổng tham mưu Phòng 7 vừa bổ sung toán thám sát, vì kiểm thính phát hiện rộ lên nhiều liên lạc vô tuyến của các đơn vị địch xung quanh Phan Rang.

Chuẩn tướng Lê Quang Lưởng Tư lệnh Sư đoàn Dù và Trung tướng Trần Văn Minh Tư lệnh Không Quân, cùng đến thám sát công cuộc phòng thủ. Cả hai vị đều tỏ ý bất đồng về việc điều quân nầy. Trung tướng Minh nói để căn cứ không quân làm tiền đồn là sai lầm, vì khi hữu sự dưới lằn đạn pháo thì không thể sửa chửa, trang bị cho phi cơ có khả năng hành quân như yêu cầu được. Chuẩn tướng Lưỡng cũng nói, muốn giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị đang chiến đấu tốt mà thay bằng 2 đơn vị đã từng vội vã rút quân vă còn đang chờ đợi bổ sung quân số.

Trung tướng Nghi cũng bất ngờ vì không có được những đơn vị như đã hứa trước lúc ra nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang.

III. TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH

Ngày 13.4.1975 là ngày đánh dấu nhiều việc không may xảy đến cho tuyến phòng thủ Phan Rang.

Trong ngày, liên tục toán kiểm thính Phòng 7 TTM báo cáo có sự hoạt động bất thường của các đơn vị Sư đoàn 325 và Sư đoàn 3 Bắc Việt.

Tướng Times của Tòa Đại sứ Mỹ hấp tấp bay đến, dẫn theo Ông Lewis, chuyên viên truyền tin, để chuyển về Tòa Đại sứ mọi biến chuyển mới nhứt của mặt trận. Ông Lewis ở lại, rất tích cực làm việc và rất bình tĩnh lúc địch dồn dập tấn công.

Sau mấy ngày ém quân, địch bắt đầu chuyển quân từ khu ém quân và khởi sự pháo kích văo căn cứ không quđn. Các đơn vị địch đang tìm cách tấn công các điểm cao ở vùng đồ Du Long và phía Đông Ba Râu. Đơn vị địch 968 cũng bắt đầu xâm nhập lẻ tẻ từ phía Tây của căn cứ không quân, phối họp với từng đợt pháo kích.

Tiếc thay, trong tình thế như vậy mà cơ cấu phòng thủ phải thi hành lệnh thay quân đang chiến đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa mới được bổ sung sau khi bị tổn thất nhiều về trang bị và tinh thần.

Trong khi bộ phận lớn của Lữ đoàn 2 Dù, gồm Tiểu đoàn 7 với các bộ phần nặng và Tiểu đoăn 5 của Lữ đoăn 3 Dù rời căn cứ, thì Đại tá Nguyễn Văn Biết, chỉ huy trưởng Liên đoàn 31 Biệt động quân và 3 tiểu đoàn 31, 36 và 52 cũng vừa từ Biên Hòa tới bằng phi cơ C-130. Quân số Liên đoàn gồm khoảng 1.000 người. Các đơn vị liền vội vã đến trám vào các địa điểm đóng quân của Tiểu đoăn 11 Dù tại Du Long và Ba Râu. Tiểu đoàn 31 trám tại Du long, Tiểu đoàn 36 trám từ Ba Râu đến Cá Đú và Tiểu đoàn 52 làm trừ bị. Đang thay quân thì chạm súng với các toán thăm dò của địch.

Cùng lúc, Trung đoàn 4 của Sư đoàn 2 Bộ Binh, quân số khoảng 450 người, từ Bình Tuy theo đường bộ cũng vừa tới, và được giao trách nhiệm trấn giữ mặt Tây căn cứ và bảo vệ phi trường thay cho Tiểu đoàn 5 Dù vừa rời căn cứ.

Theo khuyến cáo của Bộ Tư lệnh Không quân, Đại tá Nguyễn Đình Giao, Tham mưu trưởng Sư đoàn 6 Không quân được nhiệm vụ cùng các chuyên viên về Tân Sơn Nhất để phụ lo việc quân số và tiếp liệu cho Sư đoàn.

Ngày 14.4.1975, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, cùng Trung đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân, được giao nhiệm vụ bảo vệ mặt Nam căn cứ và phi trường vì Lữ đoàn 2 Dù đã hết nhiệm vụ và đã bàn giao với Trung đoàn 4 hôm qua. Lực lượng Pháo binh chỉ có 1 Pháo đội 105 ly hiện diện tăng phái cho Tiểu khu trong đó có một Trung đội đóng tại An Phước, phía Nam phi trường lối 10 km.

Thị xả được phòng vệ bởi khoảng 1 tiểu đoàn Địa phương quân còn lại. Cùng lúc, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại tá Trương Đăng Liêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 giử chức vụ tỉnh thưởng thay Đại tá Trần Văn Tự.

Cũng để dự phòng cho những ngày tác chiến sắp tới, Bộ Tư lệnh Không quân cũng vừa gởi đến, một phi cơ C-47 để tăng cường phương tiện hành quân cho Bộ Tư lệnh Hành quân.

Bên ngoài căn cứ, từ sáng sớm, địch lần lượt tung vài đơn vị cấp Đại đội từ khu ém quân, đánh thăm dò cơ cấu phòng thủ tại Du Long và Ba Râu. Một trong các đơn vị nầy đã xâm nhập được vào cổng số 2 phi trường về phía Bắc, lúc mờ sáng. Phi cơ trực thăng tuần tiểu phát hiện, và cùng với trực thăng võ trang, yểm trợ cho một bộ phận của Tiểu đoàn 11 Dù đang chờ phi cơ về hậu tuyến, được gởi ra tiêu diệt toán xâm nhập nầy. Kết quả địch rút chạy, bỏ lại gần 100 tên bị hạ với khoảng 80 vũ khí đủ loại, trong đó có 2 súng cối 82 ly và 2 khẩu đại bác không giựt 75 ly. Ta chỉ có 6 chiến sĩ hy sinh và 1 thiết vận xa phòng thủ phi trường bị chây. Trung tướng Nghi tưởng thưởng ngay huy chương Anh dũng bội tinh cho các quân nhân hữu công.

Khoảng trưa, Tướng Nghi và tôi cùng Đại tá Lương chạy xe thong thả từ phi trường đến Ba Tháp, Ba Râu và Du Long thị sát công việc phòng thủ. Tại Du Long Tướng Nghi có tập họp và trấn an số Nghĩa quđn có mặt tại đây.

Tóm lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc đánh thăm dò của địch, mặt trận vẫn đứng vững như những ngày qua.
Ngày 15.4.1975 từ sáng sớm địch liên tục pháo từng chập văo căn cứ. Buổi chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung tướng Trần Văn Đôn Tổng trưởng Quốc phòng và Trung tướng Nguyễn Văn Toăn Tư lệnh Quân đoàn 3 đến thị sát mặt trận. Sau khi thăm thị xả, nghe Tướng Nghi thuyết trình tình hình và ghi nhận các đề nghị, Trung tướng Tổng trưởng Quốc phòng tỏ vẻ chú trọng đến việc phòng thủ Phan Rang và hứa sẽ tìm mọi cách bổ sung đầy đủ mọi trang thiết bị thiếu hụt.

Từ chiều trở đi, Trung tướng Nghi liên tiếp nhận được tin địch sẽ tập trung tấn công đêm nay. Một trong những công điện của Bộ chỉ huy địch với danh hiệu Sông Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ tấn công vào Phan Rang lúc 5 giờ sáng. Tiến quân theo đường rầy xe lửa cùng với 300 chiến xa, theo quốc lộ 1 phát xuất từ rừng dừa ở Ba Ngòi. Biết ý định của địch, Trung tướng Nghi báo động ngay mọi nơi đề phòng, đặc biệt là Liên đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ án ngữ ở Du Long.

Quả nhiên, sau 8 giờ tối địch gia tăng cường độ pháo vào phi trường, đồng thời cho di chuyển suốt đêm rất nhiều đoàn xe chở bộ binh, thiết giáp, pháo binh v.v…Chúng vượt đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn qua phòng tuyến phòng thủ của Tiểu đoàn 31 Biệt động quân mà tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu đoàn 31 đã ở tại chổ chiến đấu gan dạ mặc dầu đoàn xe địch vượt được qua. Tại Ba Râu, Ba Tháp và Cá Đú, từ địa điểm đóng quân chờ di chuyển về hậu cứ, từ 2 giờ sáng trở đi, Tiểu đoàn 11 Dù trừ và Tiểu đoàn 3 Dù, cùng với Tiểu đoàn 36 Biệt động quân vừa trám chổ, chạm địch ác liệt, làm chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn cơ giới địch. Liên tục bị oanh kích, chúng tẻ xuống đường, tắt đèn và lại tiến tới. Phi cơ A-37 không ngớt tung xuống đợt oanh tạc ngăn chăn, nhưng vì không đủ phương tiện soi sâng và hỏa long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn thất khá nặng nề. Bên ta có 4 A-37 bị bắn bể bình xăng phải về đáp. Trận nầy Không đoàn 92/Chiến thuật đã tung toàn lực phi cơ cơ hữu kể cả 4 A-1 của Phi đoàn 530.

Tôi cùng Trung tá Lưu đức Thanh Phụ tá Hành quân Sư đoàn 6 KQ đích thân theo dỏi trận đánh suốt đêm. Chúng tôi liên tục đốc thúc phần tham gia của không quân, kể từ lúc các đơn vị bộ binh chạm súng, liên tục báo cáo địch đang xử dụng hàng đoàn xe để đến sáng chạy từ Du Long tràn xuống. Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba Râu, vă chiếm thị xả lúc 7 giờ sáng ngày16.4.1975.

Tại Bộ chỉ huy tiền phương, Trung tướng Nghi cũng theo dỏi trận chiến suốt đêm và không nhận được tin gì từ Du Long của Liên đoàn 31 Biệt động quân sau 3 giờ sáng. (Sau nầy, Thiếu tá Đào Kim Minh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 36 Biệt động quân và Thiếu tá Nguyễn văn Tú Tiểu đoăn trưởng Tiểu đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ trấn giữ Ba Râu và Du Long cho biết không hiểu vì lý do gì mà từ 2 giờ sáng không liên lạc được với Bộ chỉ huy. Sở dỉ cần liên lạc khẩn cấp là vì đã 3 ngày, từ lúc thay quân, cứ liên miíê đụng địch nên cấp số đạn dược mang theo đã gần cạn. Đến sáng, khu vực trách nhiệm vẫn yên tịnh như sau những lần chạm súng. Trên đường vẫn an toàn nhưng nhìn vào phi trường thấy đang bị pháo kích.)

Ngày 16.4.1975, lúc vừa sáng, địch lại lẻ tẻ xâm nhập vào cổng số 2 của phi trường về hướng Bắc và kho bom ở hướng Tđy. Đến khi phòng không chúng, bắn trúng chiếc phi cơ quan sát O-1 vừa cất cánh quan sát hành quân, phải trở lại đâp khẩn cấp, thì đồng thời chúng gia tăng số lượng pháo kích.

Lúc bấy giờ mới khoảng gần 8 giờ sáng. Đại tá Biết bổng báo cáo là Du long bị mất và địch đã vào thị xã khiến cho Trung tướng Nghi phải tìm phương thế thích nghi. Cùng lúc, Chuẩn tướng Nhựt vừa đặt văn phòng cạnh Văn phòng Trung tướng Nghi, liền được mời tham gia vào việc duyệt xét tình hình. Sau đó Ông đi thị sát mặt trận tại nơi trách nhiệm của đơn vị mình.

Trong khi Trung đoàn 4 Bộ Binh đang án ngữ bên ngoài phía Tây của phi trường và Trung đoàn 5 đang phòng ngự địch tràn lên từ thị xả, thì bên trong căn cứ tình hình bắt đầu có chiều hướng bất lợi. Địch vẫn giữ mức độ pháo kích quấy rối từng chập. Nhân có các khoảng trống giữa những đợt pháo kích, một số lớn phi cơ đã rời căn cứ. Còn lại chỉ có một số rất ít trực thăng võ trang và tản thương ở lại đến phút chót.

Khoảng hơn 9 giơ sáng, khi trực thăng võ trang bị hỏa tiển SA.7 bắn tại ngọn đồi gần phi trường thì tình hình đã khá nguy ngập. Trung đoăn 4 báo cáo đang chạm địch. Toán Dù bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền phương đang thanh toán các toán VC lẻ tẻ chạy lạng quạng gần khu vực Bộ Tư lệnh Tiền phương. Đến lúc nầy, Trung tướng Nghi vẫn tin tưởng văo khả năng chiến đấu của Trung đoàn 4 bảo vệ phi trường và Trung đoàn 5 án ngữ ngăn chận địch tràn vào cổng số 1 của căn cứ.

Đến khoảng gần 10 giờ, khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi liền họp cùng Chuẩn tướng Nhựt, Đại tá Lương và tôi để tái duyệt xét tình hình. Vì lẽ mặt trận đã bị thủng từ Du Long và địch đang hăm dọa căn cứ nên Trung tướng Nghi dự tính có thể sẽ dời Bộ Tư lệnh Tiền phương về Cà Ná để lập tuyến phòng thủ mới tại đó, nếu địch chọc thủng được phòng tuyến bảo vệ phi trường. Dự trù sẽ đi khỏi phi trường từ cổng số 1 và đi cùng Trung đoàn 5.

Khoảng 10,30 giờ sáng, mãi đến khi các toán quân địch sắp tiến vào Bộ Tư lệnh Tiền phương thì Trung tướng Nghi mới ra lịnh rời căn cứ bằng đường bộ, từng đơn vị theo đơn vị trưởng mình rút theo hướng Nam về Cá Ná để lập phòng tuyến mới. Trung tướng Nghi, Đại tá Lương, Ông Lewis chuyên viên Tòa Đại sứ Mỹ cùng các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền phương, Sư đoàn 6 Không quân, Lữ đoàn 2 Dù cùng các toán quân lẻ tẻ của Liên đoàn 3I Biệt động quân lối 400 người rời căn cứ tiến ra cổng số 1 về hướng Nam.

Đoàn quân di chuyển trật tự đến cổng số 1 khoảng 11 giờ, để cùng đi với Trung đoàn 5 về Cà Ná như dự định. Tại đây, vì không liên lạc được với Chuẩn tướng Nhựt, nên Trung tướng Nghi quyết định theo đường rào phía Nam, di chuyển dọc theo đường từ Tour Cham đến ngã ba An Phước. Đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ Đức lúc 12 giờ trưa.

Trên đường rút khỏi Ba Tháp, Tiểu đoàn 3 Dù lần xuống bãi biển, tẻ sâu về hướng Nam và không còn thấy Giang đoàn 27, chiến hạm WHEC cùng bất cứ chiếc tău nào khác tại cảng Ninh Chử. Đến một bãi cát xa hơn về hướng Nam của thị xả, đơn vị Dù nầy, gặp và kháng cự với một toán quân địch khác đến bao vây. Sau khi thoát vòng vây với ít nhiều tổn thất, Tiểu đoàn 3 Dù được một đoàn trực thăng, bốc về an toăn. (Đoàn trực thăng cấp cứu nầy, dự trù đón Bộ tư lệnh tiền phương, nhưng vì Trung tướng Nghi không thuận cho đáp vì lý do an toàn bãi đáp, nên trên đường trở về, mới bốc được toán Dù trên.)

Tiểu đoàn 11 Dù còn lại rút được qua sông, phối hợp với toán quân vừa thoát khỏi trận phục kích ở Thôn Phú Qúy về được an toăn.

Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh với một ít đơn vị cố gắng di chuyển về Nam lại chịu thêm tổn thất trên đường rút lui. Đại tá Lê Thương, Chỉ huy trưởng Pháo binh Sư đoàn 2 Bộ binh, trên đường rút về An Phước nơi có Trung đội Pháo binh đang trú đóng, cũng gặp địch đã đóng làm nút chận tại đây rồi,

Tại phi trường, khi đoàn quân của Trung tướng Nghi di chuyển khá xa, thì Sư đoàn 325 VC phối họp với Sư đoàn 3 VC cùng Đoàn 968 tấn công và chiếm phi trường lúc 11,30 giờ trưa.

Thiệt hại của Sư đoăn 6 không quân rất đáng kể vì mất toàn bộ kho bom đạn và các trang thiết bị phụ thuộc, với lối 10 phi cơ đủ loại không bay được. Tuy nhiên tổn thất hành quân tương đối là nhẹ: 1 A-37 rớt, 4 A-37 bị bắn về đáp an toàn, 2 trực thăng cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực thăng bị bắn nhưng về đáp được an toàn.

Hải quân ta chỉ có một số ít Giang thuyền bị chìm và mộït chiến hạm bị pháo.

Tại Thôn Mỹ Đức lúc khoảng 4 giờ chiều, Trung tướng Nghi được toán truyền tin của Đại tá Lương cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác nhận vị trí để xuống bốc. Lúc bấy giờ, với số gần 700 quân nhân vă thân nhân nên khó bóc hết được, vả lại khi trực thăng đến, khó lòng mà giữ được trật tự, chắc chắn sẽ tạo hổn loạn làm lộ mục tiêu giúp địch đến vây bắt. Vì vậy Trung tướng Nghi quyết định vì sự an toàn cho đồng đội, từng khổ cực chiến đấu với nhau mà không vì an toàn cho bản thân, nên ra lịnh toán cứu cấp đó không nên đâp, và chỉ nên đến ngày hôm sau, tại một địa điểm xa hơn về phía Nam.

Lúc 9 giờ tối, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người bắt đầu rời Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa thì bị phục kích. Trung tướng Nghi, Ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Trên đường tôi thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thiểu, lang thang đi ngược trở về. Tôi bổng cảm nhận rất có tội đối với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành. Ở tại Đồn điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẳng bằng đường bộ. Tại đây, ngày 22.4.1975 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ. Chúng thả Ông Lewis vào tháng 8.1975, Trung tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992.

IV. KẾT LUẬN

Sư đoàn 6 Không quân rời Pleiku ngày 16.3.1975 đến tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22.3.1975 được lịnh đến căn cứ Phan Rang đồn trú. Chưa kịp thích nghi với sanh hoạt địa phương thì phải đương đầu với nhiều nổi ưu lự kể từ lúc Nha Trang rút bỏ. Liên tiếp trong 16 ngày, toàn thể quân nhân Sư doăn 6 Không quân đã khắc phục bao khó khăn, trong một hoàn cảnh khác thường của một căn cứ Không quân bổng trở thành một tiền đồn, vừa thi hành các phi vụ, vừa tham gia chiến đấu như bộ binh.

Địa phương quân và Nghĩa quân Phan Rang có những đơn vị hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ đáng khen, như việc bảo vệ Giáo sứ Hồ Diêm được an toàn là một thí dụ.

Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 Trung đoàn 4 và 5, tuy có một số lớn quân nhân hảy còn hoang mang, dao động vì lo lắng cho thân nhân còn kẹt lại khi đơn vị vội vả rút lui, nhưng cũng đã cố gắng tham dự.

Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52, chứng minh được cái tinh thần của người chiến sĩ mũ nâu, mặc dầu sau những trận đánh ác liệt tại Chơn Thành được điều động thẳng ra Phan Rang, không có một ngày nghĩ dưỡng quân, cũng như không được bổ sung quân số, tái trang bị đầy đủ.
Lữ đoăn 2 Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 và 11 cùng Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù đã chiến đấu rất tích cực và tạo được sự tin tưởng của nhiều người, quả xứng đáng là những đơn vị thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Với những đơn vị như trên cộng thêm Phan Rang có vị trí rất thuận lợi cho việc phòng thủ, đáng lý Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được.
Chiếm được Phan Rang, địch mới có lý do tung ra kế hoạch Tổng công kích, mà đáng lý ra theo dự trù, chúng chỉ có thể tung ra vào năm 1976 thay vì năm 1975. Tướng VC Văn Tiến Dũng, sau chiến thắng, đã tuyên bố tại Cuba: ” Khi chiếm được Phan Rang thì coi như chiếm được miền Nam.” Lời tuyên bố nầy chứng minh được việc chọn phòng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng tham mưu Quđn lực Việt Nam Cộng Hòa. Việc mất Phan Rang quả đúng là một tổn thất quâ lớn cho công cuộc bảo vệ Miền Nam vậy.
Đã hơn 25 năm, chắc chắn tôi không thể còn nhớ đầy đủ các diễn biến liên quan đến việc phòng thủ Phan Rang. Tôi đã tham khảo một vài tài liệu và tiếp xúc một vài thân hữu. Cộng với ký ức, tôi đã cố gắng ghi lại trong bài viết nầy mọi hiểu biết có thể có và đương nhiên chắc phải có nhiều thiếu sót.

Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002

Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21156
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Những nén hương thắp muộn trên đỉnh Tiền Đồn 5

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Những nén hương thắp muộn
    trên đỉnh Tiền Đồn 5

    _____________________________
    Phạm Tín An Ninh_2019





              

              

    Đang tản bộ trong một công viên ở London với mấy đứa cháu ngoại, tôi bất ngờ nhận được tin nhắn từ Việt Nam qua Viber. Khi ấy ở Việt Nam đúng 11 giờ trưa ngày 28.7.2019:

    - Cháu đã nhìn thấy ngọn núi Tiền Đồn 5 ngay trước mặt và đang chuẩn bị vượt con suối để đến đó, chỉ còn cách chừng hơn một cây số.

    Gần một giờ sau, tôi nhận mấy tấm ảnh và vài cảnh phim được quay bằng điện thoại trên đỉnh Tiền Đồn 5. Bây giờ chỉ là một khung cảnh hoang tàn, đầy lau sậy, vương vãi một số mảnh bao cát, mấy đoạn kẽm gai concertina, đế của một chiếc giày trận và một vài chiếc vỏ đạn rỉ sét. Tôi cảm động hơn khi hình ảnh người con trai tật nguyền, chỉ còn một cánh tay trái, đang quì lạy tứ phương với một bó nhang nghi ngút khói hương. Và đó cũng chính là người vừa nhắn tin và gởi những hình ảnh cho tôi. Cháu Nguyễn Thế Vinh đang đứng trên vị trí mà cha cháu đã hy sinh và nằm lại đây đúng 45 năm, bây giờ đứa con trai mới biết được nơi này.




    _____________

    Khi các chiến thắng liên tục của những người lính Việt Nam Cộng Hòa vào mùa Hè 1972, không những đã giữ vững được thành phố Kontum mà còn gây thiệt hại rất nặng nề cho các đại đơn vị thuộc Mặt Trận B-3 của Cộng Sản, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn F 10, Sư Đoàn 2 và sau này có thêm Sư Đoàn tân lập 968. Tất cả buộc phải rút về vùng biên giới Tây Nguyên và Lào để tái lập, bổ sung, thì bất ngờ Hiệp Định mạo danh Hòa Bình được Hoa Kỳ và Bắc Việt thỏa thuận ký kết tại Paris vào ngày 27/1/1973, sau khi chính phủ Nixon đã đi đêm, mặc cả với Trung Cộng, bất chấp sự phản đối của chính quyền Nam Việt Nam. Hiệp định này chẳng khác nào một huyệt mộ được đào lên nhằm chôn sống VNCH.

    Các vùng địch xâm chiếm bỗng dưng trở thành an toàn khu của chúng. Nhiều sư đoàn cùng với chiến xa vũ khí hạng nặng, nhiên liệu, đạn dược từ miền Bắc ồ ạt xâm nhập công khai vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, cùng lúc Quốc Hội Mỹ cắt hết mọi viện trợ quân sự cho VNCH.

    Đầu năm 1974, lợi dụng tình thế bất lợi này của VNCH, Bắc Việt đã tung đại quân tràn ngập, ngang nhiên lấn chiếm một số căn cứ, đơn vị của ta. Đặc biệt tại các vùng mà lực lượng của chúng được phép nằm lại theo hiệp định Paris quái đản, trong khi Hoa Kỳ và tất cả các nước cùng ký tên trong bản hiệp định đều im tiếng, không một lời phản đối.

    Đặc biệt, mặc dù Dak Tô, Tân Cảnh đã bị Cộng quân lấn chiếm từ cuối tháng 4/ 72, nhưng Căn cứ Biên phòng Dak Pek và Chi khu Dak Pek vẫn đứng vững nhờ hệ thống công sự liên hoàn kiên cố và tinh thần chiến đấu vô cùng dũng mãnh của các chiến sĩ Biệt Động Quân. Qua rất nhiều lần tấn công, địch quân đều thảm bại. Căn cứ Dak Pek nằm ngay giữa ngã ba biên giới Miên-Lào-Việt, án ngữ con đường huyết mạch của Cộng quân, cách thị xã Kontum 98 cây số về hướng Tây Bắc, được phòng thủ bởi Tiểu Đoàn 88 Biệt Động Quân Biên Phòng của Thiếu Tá Võ Ngọc Di, bên cạnh là Chi Khu Dak Pek được bảo vệ chỉ một đại đội ĐPQ và khoảng 8 trung đội Nghĩa Quân. Cuối tháng 4/72, sau khi Cộng quân chiếm Dak Tô, Tân Cảnh, Dak Pek trở thành một tiền đồn cô lập, nằm giữa lòng địch, việc tiếp tế chỉ giới hạn bằng phi cơ.

    Ngày 15.5.1974, Cộng quân tập trung một lực lượng hùng hậu cấp sư đoàn, do tướng CS Vương Phú, Tư Lệnh Phó Mặt Trận B-3 tổng chỉ huy, gồm Trung Đoàn 3 (ĐoànThuận Hóa) thuộc Sư Đoàn 324 được điều động từ A- Lưới, Trị Thiên vào Tây Nguyên, phối họp cùng Trung Đoàn 66 (Đoàn Pleime) của Sư Đoàn 10, Trung Đoàn 40 Pháo hạng nặng, Trung Đoàn 37 Phòng Không, được tăng cường một tiểu đoàn đặc công, và đại đội chiến xa T 54, tràn qua sông Pô-Kô đánh chiếm Căn cứ Dak Pek và Chi Khu Dak Pek. Căn cứ thất thủ chiều ngày 16.5. 74, sau gần hai ngày chống trả một lực lượng địch gấp 20 lần. Sau đó, để tránh đụng độ với các đơn vị chủ lực của ta, gồm Sư Đoàn 23 BB và các Liên Đoàn BĐQ hoạt động ở phía Bắc và Tây Bắc Kontum, chúng kéo xuống phía Đông Nam bao vây Măng Buk, đồng thời tăng cường lực lượng địa phương, tiếp tục tấn công về hướng thị xã Kontum, cô lập Chương Nghĩa (Platoni), Măng Đen nằm về hướng Ba Tơ, Quảng Ngãi. Khu vực này hoàn toàn do lực lượng ĐPQ của Tiểu Khu Kontum đảm trách.

    Tiền Đồn 5 trở thành phòng tuyến đầu để ngăn chặn làn sóng xâm lăng của Cộng Sản. Đây là một trong dãy tiền đồn của Tiểu Khu Kontum, nằm phía Đông Bắc, cách thị xã Kontum khoảng 15 cây số đường chim bay, trên một ngọn đồi có cao độ đúng 1200 mét (so với mực nước biển trung bình), và cách con đường tỉnh lộ nối liền Kontum – Quảng Ngãi (khi ấy đang bỏ hoang) khoảng bốn cây số, được phòng thủ bởi một tiểu đoàn ĐPQ của Tiểu Khu Kontum.

    Đầu tháng 6/1974, Cộng quân mở nhiều đợt pháo kích, bao vây Tiền Đồn 5 nhằm tiêu diệt lực lượng trú phòng và phục kích các đơn vị tiếp viện của Tiểu Khu. Lực lượng và vũ khí quá chênh lệch, bên ta bị thiệt hại nặng. Nhờ Không yểm, tiểu đoàn trú đóng mở đường máu di tản, nhưng hơn một nửa quân số bị tổn thất, hai đại đội đóng quân bên ngoài phải phân tán, thất lạc. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chỉ định Sư Đoàn 23 Bộ Binh mở các cuộc hành quân khẩn cấp giải tỏa áp lực địch và sau đó đưa một tiểu đoàn đến trú đóng tại Tiền Đồn 5, thay thế cho đơn vị ĐPQ đã phải triệt thoái, nhằm ngăn chặn đường tiến quân của địch. Tiểu Đoàn 1/44 nhận lãnh trách nhiệm gay go này ngay sau khi có một vị chỉ huy mới, Đại úy Dương Đình Chính (Khóa 20 Võ Bị) vừa thay thế Thiếu Tá Phan Văn Khánh (Khóa 12 Võ Bị) đi nhận nhiệm vụ mới.

    Ngày 12.7.1974, Tiểu Đoàn 1/44 được trực thăng vận xuống Tiền Đồn 5, vừa củng cố lại công sự phòng thủ đã bị phá hủy bởi các cuộc pháo kích và tấn công của địch, vừa hành quân tảo thanh chung quanh căn cứ để hổ trợ Tiểu Đoàn ĐPQ tìm gom những binh sĩ còn đang thất lạc. Do vị tiểu đoàn trưởng ĐPQ mang cấp bậc thiếu tá, nên khó khăn trong việc chỉ huy, phối hợp, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn chỉ thị Trung Đoàn 44 BB phải thành lập ngay một Bộ Chỉ Huy Nhẹ đến Tiền Đồn 5 để chỉ huy tổng quát. Ngày 14/7/1974, BCH Nhẹ gồm Thiếu Tá Lê Thái Như, Phụ Tá Hành Quân của Trung Đoàn Trưởng cùng một toán tháp tùng được thả xuống Tiền Đồn 5, trong số này có Đại úy Nguyễn Đức Vinh, là sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233 PB. Thiếu Tá Lê Thái Như nguyên là Quận Trưởng Quận Phụng Hiệp (Phong Dinh) vừa mới thuyên chuyển đến Trung Đoàn 44 BB, chưa có chức vụ chính thức, tạm thời làm sĩ quan phụ tá hành quân cho Đại Tá Phùng Văn Quang và sau đó là Trung Tá Nguyễn Hữu Lữ, Trung Đoàn Trưởng. (Trung Tá Nguyễn Hữu Lữ, nguyên là Đại tá Trung Đoàn Trưởng của SĐ2/BB, nhưng do phạm sai lầm nào đó, bị Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh QĐ I giáng cấp xuống trung tá và thuyên chuyển về QĐ II. Vì là thuộc cấp cũ thân tín của Tướng Nguyễn Văn Toàn lúc còn ở Sư Đoàn 2 BB, nên được Tướng Toàn ( lúc này đang là Tư Lệnh QĐ II) đề cử giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng 44 thay thế Đại Tá Phùng Văn Quang. Trung Tá Lữ có lệnh giải ngũ sau khi Tiền Đồn 5 thất thủ và bàn giao Trung Đoàn lại cho Trung Tá Ngô Văn Xuân)

    Lúc này trên Tiền Đồn 5, ngoài BCH Nhẹ Trung Đoàn 44, BCH Tiểu Đoàn 1/44 và Đại Đội Chỉ Huy Yểm Trợ, được bảo vệ bởi Đại Đội 2/1 của Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang, Quyền Đại Đội trưởng. Các đại đội còn lại hoạt động ở các cao điểm và hành quân lưu động chung quanh, cách Tiền Đồn 5 từ 2 đến 5 cây số.

    Hai ngày sau, các công sự phòng thủ chưa được sửa chữa xong, vào sáng sớm ngày 16.7.1974, khi sương mù còn đang phủ kín cả một vùng núi non và thung lũng, Cộng quân pháo kích dồn dập vào Tiền Đồn 5 từ nhiều hướng khác nhau trong suốt một tiếng đồng hồ bằng đủ các loại pháo 120 ly, 122ly và 155ly bắn thẳng. Lúc này, Pháo Binh của ta đã bị hạn chế tác xạ vì không còn đủ đạn dược và Không Quân cũng không thể yểm trợ được bởi thời tiết quá xấu. Ngay những loạt đạn pháo đầu tiên, hầm chỉ huy bị sập, hệ thống truyền tin bị phá hủy và một số đông quân trú phòng đã bị tử trận, trong số đó có Đại úy Dương Đình Chính, Tiểu Đoàn Trưởng, Đại úy PB Nguyễn Đức Vinh và Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang, Q.Đại Đội Trưởng ĐĐ 2/1. Riêng Thiếu Tá Lê Thái Như bị thương nhẹ, chạy thoát ra ngoài, nhưng bị bắt làm tù binh sau đó.

    (Năm 1976, khi bị chuyển tù ra miền Bắc, người viết bất ngờ gặp lại Thiếu Tá Lê Thái Như ở Trại 6 Nghĩa Lộ. Chính Thiếu Tá Như đã kể lại chi tiết trận đánh này).

    Cộng quân tràn ngập. Tiền Đồn 5 trở thành một địa điểm “oanh kích tự do” sau đó. Tất cả tử sĩ đều phải đành vùi thây nơi chiến địa. Gia đình họ nhận “Tờ Trình Ủy Khúc” (một hình thức báo tử) để chỉ biết người thân của mình đã hy sinh tại một địa danh xa lạ nào đó, với tọa độ AR 863-994 mà chỉ có những nhà quân sự mới có thể biết được.

    Bà quả phụ Nguyễn Xuân Quang cũng nhận được “Tờ Trình Ủy Khúc” như thế, nhưng bà không tin là chồng đã chết. Vì trước đây, vào giữa năm 1973, bà cũng nhận được giấy báo tử tương tự, nhưng sau đó mấy tháng thì bất ngờ nhận được tin chồng còn sống và đang được điều trị tại quân y viện Quảng Ngãi. Lần đó, Thiếu úy Quang bị địch bắt tại trận Ngô Trang, phía Bắc Kontum, nhưng vì anh bị thương khá nặng, nên địch quân bỏ anh lại trên đường áp giải tù binh ra Quảng Bình, họ nghĩ là anh sẽ chết, nhưng anh đã may mắn được trực thăng bên ta phát hiện cứu sống. Sau khi được điều trị lành vết thương, anh xin trở lại đơn vị cũ tiếp tục chiến đấu.

    Thiếu úy Quang ra đi, để lại cho người vợ trẻ bốn đứa con thơ. Cháu lớn nhất chín tuổi và đứa út chưa tròn một tuổi.





    _________________

    Cuối tháng 3/75 gần cả miền Trung lọt vào tay Cộng sản sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và cuộc di tản trên Tỉnh Lộ 7B đã trở thành một nỗi kinh hoàng. Cuối cùng đến ngày 30/4/75 cả miền Nam cũng hoàn toàn bị nhuộm đỏ. Kể từ đó, những mồ mả của tử sĩ miền Nam được chôn cất tại các nghĩa trang trong thành phố còn bị CS đập phá, san bằng, thì chuyện đi tìm những người thân hy sinh trên các vùng núi non vô danh xa lạ, như Tiền Đồn 5 đã trở thành câu chuyện hoang đường. Hơn nữa ở thời điểm ấy, người sống chưa giữ được mạng mình thì làm sao còn có thể lo cho người đã chết.

    Bà Nguyễn Xuân Quang không còn cách nào khác, rời bỏ ngôi nhà nhỏ bên khu trại gia binh Sông Mao, dắt bốn đứa con thơ về tá túc nhà cha mẹ ở Phan Thiết. Khổ nỗi, bà còn có người anh là một sĩ quan cấp tá tốt nghiệp (Khóa 16) Trường Võ Bị Đà Lạt và hai cậu em đều là sĩ quan Thủ Đức, nên cha mẹ bà cũng bị đuổi ra khỏi nhà. Bây giờ ông bà già phải cưu mang cả cô con gái và bốn đứa cháu ngoại tuổi còn thơ dại. Ông bà, con cháu cùng dắt díu nhau, bỏ thành phố Phan Thiết thân yêu, chạy về vùng quê Chợ Lầu, dựng tạm căn nhà lá bên bờ sông Lũy, kiếm sống qua ngày bằng khoai sắn tự trồng và cá lưới dưới dòng sông. Vậy mà cuộc sống lang bạt ấy vẫn chưa một ngày yên ả. Những hành xử và lời nói khắc nghiệt của những người bên thắng cuộc đã làm cho bà Quang không còn con đường sống. Bà đã uống mấy chai thuốc rầy để chết đau đớn trước mặt cha mẹ mình và bốn đứa con thơ. Bà xin lỗi vì đã để lại cho cha mẹ già một gánh nặng, và xin lỗi các con đã phải đành lòng bỏ con lại bơ vơ, bà không thể bắt các con phải chết theo mình. Sau đó vài năm, đứa con trai lớn cũng đã uống thuốc rầy theo mẹ. Đứa con trai thứ nhì, Nguyễn Thế Vinh, năm 1975 mới lên năm, bây giờ trở thành người phụ giúp đắc lực cho ông ngoại trong cuộc mưu sinh đầy khốn khó. Nhưng đau đớn thay, “họa vô đơn chí”, năm chín tuổi, khi chăn hai con bò của Hợp tác xã, lấy mấy ký lúa phụ ông ngoại, Vinh bị té xuống đất từ trên lưng bò. Cánh tay phải bị gãy. Do không có thuốc thang và băng bó không đúng cách, cánh tay bị nhiễm trùng, hoại tử phải bị cắt bỏ đến gần bả vai.

    Ông bà ngoại lần lượt qua đời, mấy chị em Vinh lại được bà dì Út không lấy chồng, ở vậy cưu mang. Dù khốn khó, bữa no bữa đói, nhưng Vinh không chịu bỏ học hành. Bị tật nguyền, nhưng cậu bé lên mười vẫn thừa hưởng ý chí sắt đá của người cha để lại, Vinh vượt qua tất cả khó khăn, làm đủ thứ nghề để học hành thành đạt, mặc dù với cái lý lịch rất “đen”, Vinh không chút hy vọng gì mình có thể được ngoi lên trong một xã hội đang còn đầy dẫy những đố kỵ, hận thù. Đỗ Đại học Kinh tế ưu hạng, nhưng không kiếm được việc làm. Ngày tốt nghiệp có hai ba nơi gởi thư chọn Vinh khi thấy số điểm tối ưu của Vinh, nhưng không bao giờ gọi Vinh đi nhận việc. Vinh đi dạy kèm, mở các lớp luyện thi, và đặc biệt hơn, Vinh đã thành công bằng nghề tay trái – với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: Đánh đàn – tất nhiên chỉ bằng tay trái.

              

              

    Những năm còn nhỏ, đặc biệt khi cậu hai Minh vừa trong tù cải tạo trở về, như để giải sầu trước một tương lai mịt mờ đen tối, ông thường ngồi đàn trong đêm vắng, lúc chỉ còn có hai cậu cháu. Vinh đã say mê, vì dường như chỉ có tiếng đàn mới làm tan biến những đau buồn, trắc ẩn trong lòng, làm cho Vinh tạm quên đi bao nỗi bất hạnh khi tuổi đời mới lớn, mà chung quanh tưởng chừng chỉ còn là bóng tối luôn bao trùm chụp phủ lấy Vinh. Chuyện đàn guitar bằng một tay mà lại là tay trái là một điều không tưởng, nhưng rồi với đam mê và ý chí, Vinh đã thành công. Tài năng và nổ lực phi thường của cậu bé chưa thành niên đã được Nhạc sĩ Nguyễn Ánh Chín biết tới, nâng đỡ, chỉ dạy thêm, và cuối cùng chính ông đã giới thiệu Vinh đến đàn cho Phòng Trà ATB của nữ ca sĩ Ánh Tuyết. Sau đó Vinh được một số đài truyền hình mời biểu diễn. Người nhạc sĩ một tay, đàn guitar bằng tay trái và thổi harmonica, đặc biệt những bản tình ca của Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng đã làm rung động lòng người, được cả nước tán dương. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là điều mà mọi người biết đến để ngưỡng mộ Nguyễn Thế Vinh như sau này.

              

              

    Từ lúc bỏ Sài gòn lên Bến Cát, Bình Dương mở các lớp dạy kèm và luyện thi đại học, Vinh có dịp được gặp nhiều học sinh nghèo, mồ côi, tật nguyền nhưng hiếu học. Suy nghĩ từ thân phận của chính mình, Vinh đã vận động bạn bè, đi khắp nơi kêu gọi những nhà hảo tâm, đứng ra mở Trung Tâm Hướng Dương, bảo bọc, nuôi dạy trên một trăm các em học trò nghèo, mồ côi và khuyết tật. Bây giờ thầy giáo Vinh trở thành chủ gia đình Hướng Dương, là cha, là anh cả của đám học trò mà chính Vinh đã đi khắp nơi, những vùng xa xôi, nghèo khổ để gom góp dắt díu về đây nuôi dạy. Đến hôm nay, trong số những học trò ấy, đã có nhiều em tốt nghiệp đại học, trên ba mươi em du học tại Nhật Bản, một em du học tại Úc Châu và một em đang du học tại Hoa Kỳ. Cậu bé, có cha là lính VNCH tử trận khi chưa tròn bốn tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm lên bảy, mất cánh tay phải từ năm lên chín, giờ trở thành người nổi tiếng được bao nhiêu người trong và ngoài nước yêu thương cảm phục. Nhưng Vinh vẫn vậy, hiền lành, nhân hậu, chân chất, không ai tìm thấy trong nụ cười đôn hậu của Vinh một nét kiêu hãnh hay mối hận đời nào. Điều đáng phục hơn, trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay cả khi được các đài truyền hình và báo chí trong nước phỏng vấn, lúc nào Vinh cũng hãnh diện để nói về người cha quá cố, một sĩ quan QLVNCH đã hết lòng chiến đấu và hy sinh cho lý tưởng của mình.

    Để có đủ tiền trang trải việc điều hành và nuôi dạy các em tại Trung Tâm Hướng Dương, hằng năm Vinh đều phải đi vận động, trình diễn khắp nơi ở hải ngoại, qua chương trình “Góp Lá Mùa Xuân” từ Úc, Âu, Á đến Mỹ Châu, phối họp với các cơ quan từ thiện khác, đặc biệt cùng tham gia tổ chức “Ngọc Trong Tim”, Vinh được mọi nơi hưởng ứng và hỗ trợ hết lòng. Đến đâu Vinh cũng hãnh diện để nói về người cha của mình, một sĩ quan VNCH đã anh dũng hy sinh. Hình ảnh người cha khá mơ hồ trong ký ức nhưng lại là một động lực để Vinh đứng lên từ nỗi bất hạnh tột cùng, và giúp tha nhân bằng tất cả trái tim mình. Tâm sự với bạn bè, Vinh bảo, điều hạnh phúc nhất của Vinh là nghĩ cha mẹ đang dõi bước chân mình và mỉm cười nơi chín suối.





    ____________________

    Tháng 7/ 2019 trong dịp đến Úc Châu, Vinh cũng trình bày về cái chết của cha và ước mong được liên lạc với những người đồng đội cũ cùng đơn vị của ông ngày trước để được biết tường tận hơn về cái chết và địa điểm nằm xuống của cha mình. “Tờ trình ủy khúc” cũng đã thất lạc sau ngày mẹ Vinh qua đời.

    Vinh được Luật sư Nguyễn Văn Thuần giới thiệu đến tôi, vì Thuần là người bạn đồng hương khá thân, biết tôi từng phục vụ gần mười năm ở Trung Đoàn 44 BB, đơn vị cuối cùng mà cha của Vinh, Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang đã hy sinh. Vợ chồng LS Nguyễn Văn Thuần cũng là những người có nặng tấm lòng, tích cực hỗ trợ tổ chức “Ngọc Trong Tim”, gom góp yêu thương mang đến cho những người khuyết tật cùng các anh Thương Binh VNCH còn đang sống khốn khổ ở quê nhà.

    Tôi liên lạc với Vinh qua điện thư, rồi qua điện thoại. Ngay sau khi biết rõ cấp bậc, tên họ và đơn vị cuối cùng của người đồng đội Nguyễn Xuân Quang, tôi liên lạc hỏi thăm một số bạn bè cùng Tiểu Đoàn 1/44 với anh Quang lúc xưa, được biết chắc chắn là anh Quang đã hy sinh tại Tiền Đồn 5 ở Kontum. Tôi nhớ ngay đến trận đánh tại địa danh này qua lời kể của Thiếu Tá Lê Thái Như, lúc chúng tôi bất ngờ gặp nhau tại trại tù số 6 ở Nghĩa Lộ. Thiếu tá Như là người may mắn sống sót và bị bắt làm tù binh trong trận này.

    Tôi còn nhớ mang máng Tiền Đồn 5 nằm không xa, nhìn xuống con đường đất nối liền Kontum – Quảng Ngãi, lúc ấy bỏ hoang vì chiến tranh, nhưng không biết ở quãng nào, thuộc địa danh nào, hơn nữa thời gian đã quá lâu, hơn 45 năm rồi, có biết bao biến đổi. Tôi tìm cách liên lạc với một số sĩ quan thâm niên ở Tiểu Khu Kontum, may mắn gặp một anh đồng hương với vợ tôi, trước kia anh là Đại úy Chi Đoàn Trưởng Chiến Xa M-48, vì phản đối một khẩu lệnh hành quân của cấp chỉ huy mà anh cho là vô lý, chắc chắn sẽ đưa Chi đoàn của mình vào sa lầy, thảm bại, như trường hợp một chi đoàn bạn, anh bị kỷ luật, cho ra khỏi binh chủng, chuyển về Tiểu Khu Kontum giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn ĐPQ. Anh đã từng đóng quân tại Tiền Đồn 4, Tiền Đồn 5, và giữa tháng 10/1974, đơn vị anh bị địch quân tràn ngập ở Chương Nghĩa, anh bị bắt làm tù binh, khi ấy anh vừa được thăng cấp Thiếu Tá hơn một tháng. Anh ngồi vẽ lại vị trí Tiền Đồn 5 cho tôi, và để bảo đảm chính xác hơn, anh gọi cho một anh trung úy, đại đội trưởng dưới quyền của anh lúc xưa, là người Kontum và cũng đã từng đóng quân một thời gian dài tại Tiền Đồn 5. Trí nhớ anh bạn này rất chính xác.

    Tôi liền viết một điện thư khá dài cho Vinh :

    • “Hai hôm nay, chú đã liên lạc với chú Sơn, chú Khanh (ở cùng Tiểu Đoàn 1/44 với ba cháu) và vài người khác, đã tham dự các trận chiến trong cùng thời gian, cùng và chung quanh địa điểm mà ba cháu đã hy sinh, đặc biệt trong số này có người từng sinh ra, lớn lên và đi lính tại Tiểu Khu Kontum.

      Đến hôm nay chú và chú Sơn, chú Khanh đã có được một số chi tiết tương đối chính xác về trường hợp hy sinh của ba cháu.

      Ba cháu hy sinh tại Tiền Đồn 5 (khác với Căn Cứ 5 ở Tân Cảnh). Tiền đồn này nằm bên con đường từ Kontum đi Quảng Ngãi (lúc ấy bỏ hoang, không sử dụng từ lâu vì chiến tranh), bây giờ là Quốc Lộ 24.

      Tiền Đồn 5 này nằm cách Thị Xã Kontum khoảng 15 km, gần khu vực Kon Xom Luh, giữa 2 địa danh có tên Kon Cha Re và Kon Se Tieu (không tìm thấy tên trên Google Map, có lẽ vì hai địa danh quá nhỏ).

      Đặc biệt, tại Kon Xom Luh hiện có nhà thờ Kon Xom Luh.Nếu có dịp đến Kontum, cháu tìm đến nhà thờ này hỏi thăm các vị linh mục, nhờ quí ngài chỉ giúp, hay hỏi thăm người dân địa phương (lớn tuổi) Kon Cha Re và Kon Se Tieu nằm ở đâu.

      Riêng ngày mất của ba cháu, chú nghĩ trong khoảng 15 đến 30 Tháng Sáu, 1974, nhưng chú Sơn và chú Khanh đang tìm hiểu từ những bạn bè có tham dự trận đánh ấy, để cho cháu một ngày chính xác hơn.

      Tiếc quá, nếu cháu còn giữ ‘giấy báo tử’,lúc ấy được gọi là “Tờ Trình Ủy Khúc”, dành cho người mất tích (Lính hy sinh nhưng không tìm thấy xác đều gọi là mất tích), trong đó có ghi rõ ngày giờ và đặc biệt là tọa độ (địa điểm chính xác nhất) nơi ba cháu hy sinh.

      Thời gian đã quá lâu, mọi sự đã thay đổi, các dấu tích chiến tranh và cả xương thịt những người lính hy sinh, chắc cũng không còn. Tuy nhiên tất cả đều để lại trong lòng những người còn sống như các chú và nhất là cháu, những vết thương khó lành cùng với một nỗi hoài niệm khó nguôi.

      Các chú xin được thành tâm chia sẻ về sự mất mát và nỗi buồn lớn lao này của cháu và cầu nguyện ơn Trên che chở và giúp cháu tìm lại được những điều mà cháu từng mong ước…”


    Vinh nhận được email này của tôi lúc đang trên đường ra phi trường Sydney để rời Úc trở về lại Việt nam. Vinh chỉ kịp gởi cho tôi vài hàng tin nhắn qua Viber:
    • - Cháu sẽ lên Kontum ngay sau khi về lại Việt nam, cháu sẽ làm theo lời hướng dẫn của chú. Có gì cháu sẽ gọi chú qua Viber.

    Trời đã không phụ lòng những con người hiếu thảo, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn giữ được trái tim, đặc biệt đối với một tâm hồn không hề vướng chút bụi bẩn của một xã hội kim tiền, vô cảm, Vinh đã được tất cả mọi người giúp đỡ tận tình, từ các vị nữ tu, đến người lính Thượng miền Nam thuở trước và cả những người lái xe ôm nghèo khổ, tận tình hướng dẫn và giúp Vinh đến Tiền Đồn 5.

    Vinh kể:

    • “Cháu đến chân núi của Tiền Đồn 5 là 11 giờ trưa ngày 28 Tháng Bảy, 2019. Lúc đó trời muốn mưa và mây phủ kín hết ngọn đồi của Tiền Đồn 5. Những ngọn đồi thấp hơn nằm chung quanh thì còn thấy thấp thoáng. Nhiều người dân nơi đó lo lắng cho cháu, khuyên không nên lên vì đường khó đi, nhưng lòng cháu lại cảm thấy rất nôn nóng, muốn đi liền ngay tức khắc.

      Với sự giúp đỡ của người dân, hai thanh niên địa phương dùng hai chiếc xe gắn máy mà bánh xe phải ràng dây xích, một chiếc chở cháu, một chiếc chở đồ ăn, thức uống, hoa quả, bắt đầu leo núi.

      Sau một tiếng leo núi bằng xe Honda qua nhiều đồi khác nhau, khi đến chân đồi của Tiền Đồn 5 thì không còn đường để xe gắn máy chạy nữa, nên cháu bắt đầu đi bộ, vừa đi vừa phải dùng rựa chặt cây mở đường. Sau 30 phút, cháu đến được đỉnh đồi của Tiền Đồn 5.

      Những bao cát dùng làm chiến hào bị rách nát, vài đế giày bốt-đờ-sô vương vãi, những cục pin dẹp nằm chỏng chơ, những cọng kẽm gai phần chôn dưới đất, phần ló lên trên… là những gì cháu nhìn thấy trên khoảng đồi trống của Tiền Đồn 5. Cháu có cảm giác dấu tích trận đánh và âm thanh súng đạn năm nào vẫn còn hiển hiện, phảng phất nơi đây.

      Nhìn những gì còn sót lại đó, cháu cảm thấy rất xúc động. Và thật lạ, là từ lúc lên đây sương mù đã phủ kín hết bầu trời, nhưng khi cháu lấy hoa quả bày ra và thắp bó nhang cho ba cùng các chú, các bác đã nằm lại nơi này, thì trời lại bỗng dưng ló nắng”.


    Cuối cùng thì Vinh cũng đã đến được đỉnh Tiền Đồn 5, nơi mà xác thân Thiếu úy Quang, người cha thân yêu của Vinh đã nằm lại đó từ 45 năm trước, giờ chắc cũng đã tan cùng tro bụi.

    Quỳ giữa đỉnh đồi vắng lặng, bàn tay trái duy nhất cầm chặt bó nhang, Vinh cúi đầu khấn vái hồn thiêng của cha và những người lính miền Nam đã chết cho quê hương và lý tưởng cao đẹp của mình. Bốn mươi lăm năm, đã trải qua biết bao chia lìa, khốn cùng, bi thảm, nhưng Vinh đã vươn lên, vượt qua những thử thách cay nghiệt nhất, để ngẩng cao đầu trong một xã hội mà cả gia đình mình từng là nạn nhân, luôn bị bên thắng cuộc cố tình xô đẩy ra bên lề xã hội, đến bước đường cùng, bởi một thứ hận thù không còn nhân tính. Nhưng cuối cùng, nhờ dòng máu của người cha còn luân lưu trong huyết quản, Vinh đã chiến thắng. Không chỉ thắng được số phận của chính mình, mà cao cả hơn, cũng giống như cha mình và những đồng đội của ông, Vinh đã thắng được lòng người. Cái thắng xem chừng vinh quang và bất diệt nhất.

    Vinh đã được mời lên nói chuyện ở các đài truyền hình, tọa đàm trong các buổi tu học tại các cơ sở Phật giáo trước hàng vài ngàn Phật tử, được ví như “Cây Xương Rồng Trên Cát”, nói chuyện trong các hội văn nghệ, văn học. Cuốn tự truyện “Ông Giáo Làng Trên Tầng Gác Mái” của Vinh được độc giả cả nước bình chọn là “Tác phẩm Xuất Sắc Nhất của năm 2018, với nội dung truyền cảm hứng và động lực nhất để sống và để cống hiến”. Vinh nhận được giải thưởng lớn,100 triệu đồng, và đã góp hết vào ngân quỹ của gia đình Hướng Dương.

    Trong cuốn tự truyện của mình, Nguyễn Thế Vinh cho biết:
    • “Chính những ngày tháng dạy học cho các trẻ em nghèo, mồ côi, khuyết tật… đã làm nảy nở trong tôi ước mơ về một ngôi trường, cũng là mái nhà cho mấy đứa trẻ thiệt thòi ấy chui ra chui vào, vừa học chữ, vừa học làm người. Lũ trẻ và tôi sẽ dũng cảm bước đi trên con đường hướng tới tương lai bằng tinh thần tích cực và độc lập nhất”.

    Một nhà phê bình đã viết về cuốn tự truyện của Vinh:
    • “Cuốn sách này kể cho bạn nghe chuyện đời của một “hạt bụi” ngát hương, hết sức hồn nhiên trong cõi trăm năm đi về. Sức sống của “hạt bụi” ấy có thể khiến những ai đang bị cuộc đời dồn ép hoặc thấy mình sắp bị đời xô ngã sẽ kiên cường đứng vững và chân thật mến yêu cuộc đời”

    Một nhạc sĩ tên tuổi đã từng thổ lộ:
    • “Một lời tử tế chưa đủ để nói về Vinh”.

    Hầu hết học trò của Vinh đều bảo:
    • “Thầy Vinh là cha, là bạn và cũng là vĩ nhân”.


              

              



    ________________

    Vinh dự trù sẽ tổ chức một buổi tưởng niệm và cầu siêu cho cha và những đồng đội của ông đã hy sinh trên ngọn đồi Tiền Đồn 5, vào dịp cuối năm hay Tết Nguyên Đán với sự đồng tế của các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo. Tất cả sẽ cùng thắp sáng lại trong tâm hồn một mùa Xuân, mùa của lòng biết ơn và hy vọng.

    Vinh cũng nhờ các cơ quan truyền thông, báo chí và đồng đội của cha, giúp tìm cách thông báo đến thân nhân của những chú, bác đã cùng hy sinh với cha Vinh. Xin hãy liên lạc với Vinh để cùng tham dự buổi lễ tưởng niệm đặc biệt này. Người đầu tiên đã nghe được tiếng gọi của Vinh, một thanh niên hiện định cư ở bên Úc , chính là trưởng nam của cố Thiếu Tá Nguyễn Đức Vinh, sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233/PB cũng đã nằm lại trên Tiền Đồn 5 ngày ấy. Điều may mắn là cậu ta còn giữ được “Tờ Trình Ủy Khúc” trong đó có ghi rõ ngày giờ và địa điểm chính xác nơi cha anh đã hy sinh: ngày 16 tháng 7 năm 1974, tại Tiền Đồn 5, Tọa độ AR 863-994. Những chi tiết mà cháu Nguyễn Thế Vinh cũng đang cần muốn biết. Sau đó Vinh cũng đã liên lạc được với con của Cố Thiếu Tá Dương Đình Chính ở Sài Gòn, và sẽ gặp một thuôc cấp cũ của ba Vinh ở Sông Mao, để có thể liên lạc với gia đình những tử sĩ khác.

    Cuộc chiến đã kết thúc – dù trong tột cùng bất công và tức tưởi – nhưng mãi đến 45 năm sau, hơn nửa đời người, những người con mới tìm đến được nơi cha mình đã hy sinh, xác thân vùi chôn ở đó. Nhìn hình ảnh người con trai chỉ còn một cánh tay với những nén nhang thắp muộn trên ngọn đồi hoang vắng, điêu tàn, từng xảy ra bao trận chiến đẫm máu đồng đội, lòng tôi lắng xuống. Hồi tưởng lại thời gian cuối cùng của cuộc chiến, tôi bỗng thấy đồng cảm, thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh” (All Quiet On The Western Front), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Erich Maria Remarque, mặc dù câu chuyện đã xảy ra từ thời Đệ Nhất Thế Chiến:
    • “Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”

    Chỉ có một điều khác biệt. Anh Paul Bäumer may mắn hơn chúng tôi, đối phương của anh dù là người không cùng một nước, nhưng chắc chắn không tàn ác và man rợ như kẻ thù đã chiến thắng chúng tôi, những người có cùng dòng giống nhưng không hề có trái tim người.

              

              



    Phạm Tín An Ninh


    https://hon-viet.co.uk/PhamTinAnNinh_Nh ... enDon5.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21156
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Những nén hương thắp muộn trên đỉnh Tiền Đồn 5

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Hoàng Vân đã viết: Thứ hai 11/04/22 20:07 Tiền Đồn 5, Tọa độ AR 863-994
  •           
    chính xác hơn là

    49P AR 863 994
    [Military Grid Reference System (MGRS)]

    Kinh độ & Vĩ độ
    14.44924 108.09048
    14° 26.955' B 108° 5.429' Đ
    14° 26' 57.28" B 108° 05' 25.73" Đ





    Vị trí Tiền đồn 5 trên bản đồ hành quân 1972





    Đường đi lên từ Kon Tum ngày nay



Ngoc Han
Bài viết: 1601
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: - 30/04/2022 - tưởng niệm 47 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Ngoc Han »

Đọc lại để tưởng nhớ đến Tiểu Đoàn 92 BĐQ và Phi hành đoàn Lôi Thanh,

PHI VỤ TỐNG LÊ CHÂN

Nguyễn Văn Ba
“Tống Lệ Chân”, mới nghe qua, như tên người con gái Trung Hoa, có nhan sắc đẹp tuyệt vời, tài danh nổi bật, được ghi trong sử sách lưu truyền cho hậu thế!

Tôi không biết mỹ danh đó có từ lúc nào, xuất xứ từ đâu? Nhưng nó đã chiếm một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng trong mùa Hè đỏ lửa 1972.
Nhiều sư đoàn chánh quy Bắc Việt được yểm trợ bởi chiến xa và đại pháo hạng nặng, ồ ạt tiến sang từ biên giới Campuchia và Hạ Lào, theo đường mòn Hồ Chí Minh, với mưu đồ đánh chiếm hai tỉnh Bình Long và Phước Long để thành lập chánh phủ gọi là “Mặt trận Giải phóng Miền Nam”, gây hậu thuẫn quốc tế và đặt áp lực nặng nề cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tại Sàigòn.
Tống Lệ Chân là một địa danh, hay đúng hơn là một ngọn đồi chiến luợc, khoảng hơn năm dặm về hướng Tây Nam của thành phố An Lộc.Ngọn đồi này nhờ nằm ở một địa thế cao, được trấn giữ bởi một tiểu đoàn Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hòa rất tinh nhuệ, nên nó chính là tai và mắt, không những cho thành phố An Lộc mà ngay cho chính thủ đô Sàigòn, vì nó kiểm soát được sự vận chuyển của bộ đội Bắc Việt và cơ giới chiến tranh, về hướng Tây Bắc Sàigòn, đưa quân vào Bình Dương, Lái Thiêu và Biên Hòa, nơi đặt Bộ Tư lệnh Vùng III Chiến Thuật. Vì lý do chiến thuật và toàn bộ chiến lược xâm chiếm miền Nam, nên ngọn đồi Tống Lệ Chân là cây gai nhọn nhức nhối trong nách, Cộng Sản phải nhổ nó đi bằng mọi giá.
Từ một ngọn đồi hiền lành, xung quanh bao bọc bởi rừng xanh bát ngát, dưới chân đồi một con suối uốn khúc quanh co, tô đậm nét như một bức tranh thủy mạc. Nếu không có trận chiến vừa qua, cũng chẳng có ai cần biết nó, như Ben Hét, Đức Cơ, Dakpek, Dakto..v..v…
Những địa danh thật xa lạ với mọi người dân thị thành, nhưng bỗng chốc, nó trở thành những danh xưng được nhắc nhở thường xuyên qua những trận đánh hãi hùng, khiếp đảm, hàng ngày trên báo chí, đài phát thanh, màn ảnh truyền hình, đã làm chấn động lương tâm thế giới.
Đã lâu lắm rồi, những vết tích tàn phá của chiến tranh trong trí nhớ gần như đi vào quên lãng. Nhưng chiều hôm nay nó được hâm nóng và sống lại trong tôi, vì tình cờ đã gặp lại những chiến hữu cùng một đơn vị sau hơn hai mươi năm dài đằng đẵng cách biệt.
Người hùng “Tống Lệ Chân”, cựu Đại úy Lê Văn Cầu, Phi tuần Trưởng của Phi đoàn 237 Chinook, tôi không dùng đại danh hay ca tụng anh để lấy lòng, nhưng sự thật đã xảy ra cách đây trên hai thập niên vừa qua. Vẫn dáng người gầy gầy như ngày nào, nhưng không bao giờ thiếu nụ cười cỡi mở, buông thả trên gương mặt để đón chào anh em chiến hữu.
Gặp lại anh trong bữa tiệc họp mặt tại thành phố San Jose California, với một số anh em cựu Lôi Thanh như: Nguyễn Mai, Trần Duy Tôn, Lưu Thế Ngọc, Nguyễn Văn Tiên, Nguyễn Vũ, Nguyễn Văn Mai (Đà Nẵng), cùng hai phu nhân của hai anh Vũ và Mai. Thật sung sướng và hãnh diện, tôi được may mắn gặp lại anh em đã có một thời chiến đấu vào sinh ra tử có nhau, chia sẻ từ bịch gạo xấy, lon thịt heo ba lát, cùng ngồi ăn trưa dưới bụng tàu, trong những buổi trưa Hè nắng cháy của vùng hỏa tuyến Tây Ninh.
Bây giờ gặp lại các anh em ở vùng đất xa lạ này, chúng ta tuy có già thêm đôi chút, cuộc sống nhiều thay đổi hơn xưa, tuy vậy tình anh em vẫn nổng nàn, ấm áp như thuở nào.
Tôn vẫn tính nào tật nấy, hào hoa quá mức, Ngọc ăn chơi công tử, Vũ vẫn hoạt bát trẻ trung, Mai cứ ngỡ là tài tử Henry Chúc, Tiên mói sang nên còn nhiều ưu tư bỡ ngỡ. Niên truởng Mai cựu Phi đoàn Trưởng Đà Nẵng, mới về hưu ở hãng IBM, trông đạo mạo như cụ non, cần nhiều chất tươi để để tóc bớt rụng.!
Chúng tôi chia nhau chén tới chén lui, chén qua chén lại, từ ba giờ trưa mãi đến gần bảy giờ chiều, vì có nhiều anh em phải đi đám cưới chiều hôm đó nên chúng tôi tạm chia tay nhau, và hẹn sẽ gặp lại ở vũ trường Mini vào lúc chín giờ ba mươi tối.
Niên trưởng Mai đưa tôi về để thăm gia đình anh chị. Còn “chú Tư Cầu” về nhà rước vợ con sẽ tới sau.
Thật hạnh phúc và sung sướng không ai bằng, “chú Tư Cầu” được thím Tư vừa trẻ, vừa đẹp, về để giúp chú “nâng cằm sửa mũi…” và tặng cho chú hai cháu thật ngoan hiền, kháu khỉnh dễ thương. Lúc này niên trưởng Mai, có lẽ muốn dành sức lực để phục vụ bà xã tối nay, nên xin vào nghỉ lưng một tí, cón tôi với “chú Tư Cầu” ngồi lai rai nhậu tiếp dài dài, kể chuyện rên trời dưói biển, rồi đến chuyện hành quân ly kỳ, hấp dẫn của một thời “Dốc Sỏi” Biên Hòa.
Tôi biết Cầu từ ngày thành lập đệ nhất Phi đoàn Chinook Lôi Thanh 237, vào giữa khoảng năm 1970-1971, anh thuộc vào nhóm sĩ quan hoa tiêu trẻ, mới ra trường, chưa vợ con, rất hăng say hoạt động trong mọi công tác. Cón chúng tôi, lúc đó không đến nỗi già lắm, tuy nhiên đối với anh em thì được xếp vào lớp “lão làng”.
Vào khoảng mùa Hè năm 1972, chiến trận ở vùng III Chiến Thuật càng ngày càng trở nên khốc liệt hơn, thành phố An Lộc chịu đựng hàng ngàn quả đạn pháo ngày đêm, nhà cửa, phố xá nát tan từng mảnh vụn, dân chúng đã bồng bế, dẫn dắt nhau, bỏ hết tài sản theo quốc lộ chạy về hướng Chơn Thành, về gần Sàigòn.
Tiền đồn Tống Lệ Chân được tủ thủ bởi khoảng một tiểu đoàn Biệt Động Quân, đã bị cô lập nhiều tuần bởi cả trung đoàn chính quy Bắc Việt, đang rình rập sát dưới chân đồi, trực thăng tải thương và tiếp tế bị hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 và súng phòng không đe dọa trầm trọng, không thể đáp được trong ban ngày, phi cơ vận tải C-130 thả dù thực phẩm, thuốc men, phần lớn đều bị gió đưa ra ngoài, vào vùng kiểm soát của địch.
Việt Cộng thường xuyên pháo kích, đại pháo cày nát gần trọc hết ngọn đồi, những chiến sĩ Mũ Nâu gan lì Việt Nam Cộng Hòa, núp trong những giao thông hào, sâu trong lòng đất như những con rắn độc, đã oai hùng, mảnh liệt đốn ngã những đợt tấn công biển người của Việt Cộng. Trung tá Ngôn, Chỉ huy Trưởng tiến đồn kêu gọi Không Quân cho trực thăng đưa quân vào tăng viện và chuyển bớt thương binh về bệnh viện để ông rảnh tay chiến đấu. Lệnh từ Tổng Tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đưa xuống Chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 3 Không Quân, yêu cầu cho trực thăng Chinook CH-47 – Phi đoàn 237 – thi hành phi vụ cảm tử này. Lôi Thanh I, Phi đoàn Trưởng, Phi đoàn 237 nhận đưọc mật lệnh, ông cho mở một cuộc họp kín, với sự có mặt đầy đủ một số anh em phi hành đã có nhiều kinh nghiệm chiến trận, để chọn người tình nguyện. Sau khi Lôi Thanh I tuyên bố lý do và cho biết mật lệnh, không khí trong phòng họp lúc đó trở nên cực kỳ im lặng, nặng nề và khó thở, không ai có một lời thêm bớt hay bình luận gì cả.
Tôi nhìn tất cả các anh em hoa tiêu và anh em hạ sĩ quan phi hành lòng chùng xuống, mắt mờ đi, tâm não hoàn toàn như tê dại, tự nhủ thầm:
– Người ta sắp bắt chúng tôi làm vật tế thần.
Thật ra tất cả anh em chúng tôi không phải là những người sợ chết hay muốn tránh né những phi vụ hiểm nguy, nhưng cái bực tức không nói lên được lúc đó là cấp chỉ huy đã không hiểu khả năng kỹ thuật cơ giới của một chiếc Chinook, hay vì sợ trách nhiệm nên xử dụng chúng tôi một cách sai lầm?… Cũng không thể dựa vào các yếu tố chiến tranh chính trị hay tâm lý chiến thuật nào khác để bào chữa cho phi vụ, vì nó có thể thực hiện được bằng trực thăng loại nhỏ UH-1, chở mỗi lần mười quân nhân va chọn thời gian đáp trong năm lần khác nhau. Loại trực thăng UH-1 được chế tạo dùng trong chiến thuật đạt yếu tố bất ngờ trong lòng địch, như chiến thuật “Diều Hâu”, nó có khả năng xoay trở rất nhanh nhẹn, chỉ cần một thời gian, trong khảng năm giây đồng hồ, là có thể đổ được quân và đem được thương binh lên dễ dàng, ta có thể ước đoán tông số thời gian kể như nguy hiểm nhất, từ lúc vào bãi đáp cho đến khi rời khỏi vị trí một cách tương đối an toàn, chỉ tốn vào khoảng hai mươi giây đồng hồ là tối đa. So với một chiếc Chinook CH-47, thật to lớn kềnh càng, chở năm chục binh sĩ, khi hạ cánh với một tốc độ rất chậm, vào một tiền đồn trên đồi, không chỗ ẩn núp, diện tích bãi đáp không lớn hơn khuôn viên một căn nhà, xung quanh triền đồi toàn là quân chính quy Bắc Việt, núp dưới giao thông hào chằng chịt, với những đại liên phòng không tối tân của Nga Sô và Tiệp Khắc, hỏa tiễn SA-7, súng cối 82 ly, và đại pháo 122 ly, đã lấy tọa độ bãi đáp chính xác.
Tôi giả sử binh lính Việt Cộng có mù mắt, điếc tai, ngủ gục hết cả lũ, tính theo thời gian nhanh nhất, khi tàu giảm tốc độ vào cận tiến để chuẩn bị đáp an toàn cho năm mươi quân nhân chạy ra phía cửa sau đuôi và chờ khiên thương binh đưa vào, xong xuôi cất cánh, ra tới vị trí tương đối an toàn, ít ra cũng phải mất hết khoảng hai trăm giây đồng hồ. Nếu ta thử so sánh thời gian nguy hiểm trên vùng với chiếc phản lực cơ F-5, khi chúi xuống thả bom, xong kéo lên rời vị trí, chỉ trong tích tắc vài giây đồng hồ mà đôi khi còn bị bắn hạ bởi SA-7 hay đạn phòng không một cách dễ dàng, còn chiếc Chinook, to lớn gấp hai, ba lần, xoay trở rất chậm chạp, hai bên hông tàu mang cả chục ngàn lít xăng JP-4, chỉ cần một phát súng nhỏ, nhạy lửa là nó trở thành một cây đuốc khổng lồ, soi đường cho thần chết, không những thiêu mạng phi hành đoàn mà nó còn đốt cháy năm mươi quân nhân ngồi phía sau nữa.
Trong phạm vi bài này, tôi không có ý gián tiếp chỉ trích cá nhân bất cứ một cấp chỉ huy thừa hành nào cả, vì tôi biết lệnh từ trên tối cao đưa xuống, tôi chỉ đưa ra những dẫn chứng sai lầm về sự xử dụng kỹ thuật tác chiến cơ giới. Nhưng quân đội, lệnh là phải thi hành, nếu may mắn còn sống sót không tật nguyền hoặc sứt tay, gãy gọng là điều đáng mừng, phước đức ông bà để lại.
Một phút im lặng nghẹt thở trôi qua, như dò xét sự phản ứng của tất cả đoàn viên phi hành. Lôi Thanh I cho biết rằng đây là lệnh của thượng cấp đưa xuống, nếu không có người tình nguyện ông sẽ chỉ định người để thi hành phi vụ tối quan trọng này. Thời gian chậm chạp như muốn ngừng lại, tôi lên tiếng hỏi để biết nhiệm vụ chính của phi vụ dùng vào công việc gì?… Mặc dù tôi là Trưởng phòng Hành quân của phi đoàn lúc đó, nhưng ông ta cũng từ chối, cốt ý để bảo toàn bí mật cho bãi đáp. Khi Lôi Thanh I vừa dứt lời, tôi nhận thấy đại úy Lê Văn Cầu, phi đội trưởng Phi đội 1 ngồi bên ghế trái của tôi, đưa tay lên xin tình nguyện, tiếp theo là Đại úy Huỳnh Bá Hùng, phi đội trưởng Phi đội 2 cũng đưa tay tình nguyện. Bây giờ cần một cơ phi, xạ thủ và áp tải. Thượng sĩ Nguyễn Văn Tranh, Trung sĩ Nguyễn Văn Hoàng cũng đưa tay tình nguyện, tôi nhớ cũng còn nhiều anh em sĩ quan và hạ sĩ quan khác nữa cũng xin tình nguyện, nhưng sau cùng chỉ chọn được phi hành đoàn có đầy đủ khả năng như sau: Trưởng phi cơ cho phi vụ Đại úy Cầu, hoa tiêu phụ Đại úy Hùng, cơ phi Tượng sĩ Tranh, xạ thủ Trung sĩ Hoàng và áp tải viên tôi rất tiếc là không còn nhớ rõ tên anh.
Phiên họp kết thúc vào khoảng bốn giờ chiều, để bảo toàn bí mật phi vụ, lệnh phi đoàn cấm trại 100% cho tới khi nào công tác thi hành xong. Tôi đưa các anh em trong phi hành đoàn tình nguyện vào khu quán ăn của cư xá hạ sĩ quan trong căn cứ Không Quân để dùng cơm chiều.
Bảy giờ chiều ngày 26-12-1972, phi cơ được lệnh cất cánh từ phi trường Biên Hòa, liên lạc với C&C qua tần số vô tuyến FM, để đáp vào An Lộc nghe thuyết trình và nhận lệnh từ đơn vị bạn.
Trời cuối tháng vào mùa lễ Noel nên có vẻ tối sớm hơn thường lệ, những tia nắng hanh vàng đã bắt đầu nhạt dần, ở phía bên kia đầu phi đạo, sân bay đã vắng người qua lại, chỉ còn mình tôi lẻ loi đang ngồi đây để tiễn đưa anh em.
Trong trận thế chiến vừa qua, phi đội Thần Phong cảm tử của Nhật Hoàng trước khi cất cánh ra trận, được vinh dự đứng trước hàng quân uống cạn ly rượu “Sakê” hâm nóng, trao tặng từ một tướng lãnh cao cấp để rồi bay vào tử địa. Còn các anh bây giờ được ai tiễn, ai đưa? Hàng quân vinh dự nào đứng dàn chào để tiễn biệt các anh? Tôi biết các anh cũng chẳng cần những thứ rườm rà, màu mè đó, nhưng với ý chí và lòng dạ sắc son nguyện dâng hiến đời mình cho quê mẹ Việt Nam, nên các anh đã hy sinh tình nguyện chấp nhận phi vụ, đáp vào một nơi được gọi là “địa ngục trần gian”.
Phi cơ đã mất hút, chìm vào bóng hoàng hôn về hướng Tây Bắc chân trời. Tôi lặng lẽ lái xe trở về phòng Hành quân Phi đoàn để theo dõi tin tức phi vụ, lòng lâm râm khấn vái cầu nguyện cho các anh đi được bình an…
Trách nhiệm phi vụ các anh chia đều cho nhau, Đại úy Cầu chỉ huy toàn diện, cũng như lo phần bay và điều khiển các cơ phận phi cơ. Đại úy Hùng lo phần vô tuyến, truyền tin liên lạc với C&C và đơn vị bạn, cũng như kiểm soát bản đồ, hướng bay và tọa độ hành quân, các anh em cơ phi, xạ thủ và áp tải giữ an ninh phía trong tàu và đồng thời kiểm soát, báo cáo các vị trí phòng không, SA-7 của Việt Cộng từ dưới bắn lên, để phi cơ tránh né cùng lúc xử dụng hỏa lực tối đa của hai khẩu đại liên, gắn hai bên thân tàu để làm áp lực địch.
Kim đồng hồ chỉ hơn tám giờ tối, phi cơ đã đến vùng chỉ định, bên ngoài chỉ còn lại là một màu đen, xung quanh là rừng núi âm u của đêm sau ngày Chúa Giáng sinh. Thành phố An Lộc hoàn toàn như một bóng ma trong đêm, không còn một ngọn đèn đường nào đứng vững hay được cháy sáng để ghi nhận là vị trí của một khu phố. Ngọn đồi Tống Lệ Chân cách đó không xa lắm nghe tiếng phi cơ bèn chớp đèn hiệu, không liên lạc được với C&C hai anh cứ ngỡ đó là thành phố An Lộc, nên cho phi cơ bay thẳng vào hướng có ánh đèn hiệu. Một phút sau, những tia chớp sáng không ngừng của đại liên phòng không từ dưới đất bắn lên như pháo bông ngày Tết, các anh mới nhận ra là đang bay hơi chệch về hướng Tống Lệ Chân. Đại úy Cầu bình tĩnh kéo nhanh cần lái về phía phải cho con tàu lướt nhanh ra khỏi tầm hỏa lực địch, cũng trong lúc đó Thượng sĩ Tranh báo cáo nhìn thấy đèn hiệu về hướng một giờ cách đó không xa lắm. Sau khi quan sát thật kỹ và liên lạc được với quân bạn, Đại úy Hùng OK, đưa ngón tay cái lên trời đồng ý cho Đại úy Cầu chuẩn bị cho phi cơ đáp xuống phía Nam của An Lộc.
Sau khi kiểm soát lại phi cơ, mọi sự đều an toàn, anh em phi hành đoàn được đưa vào bộ chỉ huy hành quân tiền phương để nghe thuyết trình phi vụ. Sĩ quan tình báo cho biết quân chính quy Bắc Việt được trang bị với đại liên phòng không đủ loại đang ẩn núp dưới các hầm hố xung quanh chân đồi, tin cũng cho biết thêm là chúng cũng có thể đã được trang bị hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 để chống lại các loại phi cơ chiến đấu của Không lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhiệm vụ chính của phi vụ là chở năm chục lính Biệt Động Quân để tăng viện và thay thế những người ở quá lâu trong đó, đồng thời rước về một số thương binh, Phi vụ rất giản dị có thế thôi, nếu ở một vị trí nào khác thì công việc không có gì quan trọng hay đáng nói cả.
Giờ hẹn tại bãi đáp là đúng 12 giờ khuya. Trung tá Ngôn, Tiểu đoàn Trưởng Biệt Động Quân phải chuẩn bị sẵn sàng tại bãi đáp, đèn hiệu phải đặt dưới hầm trú ẩn để Việt Cộng khỏi nhìn thấy.
Phi hành đoàn họp nhau để bàn về kỹ thuật đáp và phân chia công việc cho mọi người. Tàu sẽ chở năm chục quân nhân với trang bị vũ khí đầy đủ, là một việc khó khăn cho hoa tiêu điều khiển phi cơ để tránh né đạn phòng không vì quá nặng nề, không xoay sở nhanh chóng được. Nếu bay sát ngọn cây với tốc độ thật nhanh, đột ngột từ phía chân đồi nhảy lên thẳng bãi đáp quá nhỏ, xung quanh là ụ súng của tiền đồn, thì là một chuyện không thể thực hiện được nhất là về ban đêm như tối hôm nay, chỉ có loại phi cơ nhỏ một cánh quạt như UH-1 hay H-34 là có thể thực hiện được lối bay nguy hiểm tránh phòng không này; như vậy chỉ còn lại một giải pháp cuối cùng là kỹ thuật đáp 360 độ. Cầu và Hùng đều đồng ý với lối bay này tuy nó rất là nguy hiểm, vì sẽ làm mồi cho súng phòng không, nhưng còn có cơ hội sống sót nhiều hơn là kỹ thuật bay “nhảy bổ” vào lúc ban đêm.
Đúng 11 giờ 45 khuya, trời bên ngoài tối om như mực, năm mươi quân nhân Biệt Động đã ngồi yên lặng trong lòng tàu. Đại úy Cầu cho quay máy chuẩn bị cất cánh, âm thanh phản lực của hai động cơ gắn phía sau hòa lẫn với tiếng cánh quạt quay đều trong gió, nghe như tiếng rống phẩn nộ của rừng xanh vang lên trong đêm khuya tĩnh mịch, Đại úy Hùng kiểm soát lại các tần số liên lạc với C&C và các danh hiệu đơn vị lần cuối, Thượng sĩ Tranh báo cáo cho Trưởng phi cơ tình trạng tàu tốt sẵn sàng cất cánh.
Hơn 11 giờ 50, C&C cho lệnh cất cánh lấy cao độ khoảng hai ngàn bộ, trực chỉ hướng Tây Nam vào thẳng Tống Lệ Chân. Đại úy Cầu ra lệnh cho Trung sĩ Hoàng lên đạn hai khẩu đại liên để sẵn sàng tác xạ. Đèn Navigation bên ngoài phi cơ đã tắt, chiếc phi cơ hiên ngang như một dũng tướng ngày xưa đơn thương độc mã tiến vào trận địa.
Đại úy Hùng chỉ về phía trước mặt đèn báo hiệu bãi đáp đã nhấp nháy dưới hầm, tiền đồn Tống Lệ Chân gần kề trước mặt.
– OK! “Pitch down”!
Toàn thân phi cơ như hụp xuống khỏi mặt nước, xoay tròn thật gắt 360 độ về phía trái như muốn vỡ tung, hết sức khó chịu vì sức rơi lúc đáp quá nhanh từ trên cao độ.
“Rầm… Rầm…!!!” Nhiều khối lửa to lớn đang chớp nhoáng phía dưới, chúng đang pháo kích vào bãi đáp. Địa ngục trần gian bắt đầu cơn bão lửa! Đạn phòng không dưới chân đồi đã tập trung giăng chằng chịt cả màn đêm, những viên đạn đỏ tươi như màu máu vọt lên đan vào nhau thành những tia sáng như hình rẻ quạt quét cả trọn vùng trời, nhắm về hướng phi cơ đang lơ lửng xoay tròn giữa không gian; vì trời quá tối nên nhiều trái sáng được địch quân bắn lên để cho chúng dễ dàng nhận diện phi cơ.
Dưới sức sáng nhân tạo của các trái hỏa châu, con tàu thật lẻ loi đơn độc không thể dấu mình trong màn đêm được nữa, đã gánh chịu hàng trăm viên đạn của loài quỷ đỏ hung hăng ghim vào thân xác như một con đại bàng bị tên trúng vào tử huyệt, nhưng oai hùng dang cánh thản nhiên đáp trên đầu địch.
Đại úy Hùng không còn liên lạc qua tần số vô tuyến với C&C được nữa, cơ phận phát điện bị trúng đạn phát hỏa, hệ thống thủy điều bị bể ống hoàn toàn ngưng hoạt động, cần lái bị “locked” chặt cứng không còn điều khiển được. Đại úy Cầu như tê dại nhìn thẳng phía trước, dùng hết sức còn lại với phản ứng tự nhiên của mình, cố điều khiển để cho con tàu rơi từ trên cao hơn 30 bộ xuống bãi đáp. Thân phi cơ chạm mạnh trên đất nhảy dựng trở lên, uốn mình như con khủng long hung hăng dãy chết, những cánh quạt phía trước chặt mạnh vào ụ súng của tiền đồn tan nát văng từng mảnh vụn. Lửa khói đã cuồn cuộn cháy ở phía sau đuôi, đạn súng cối, hỏa tiễn địch quân liên tiếp pháo vào, những chuỗi dài nối tiếp nhau chớp sáng của tạc đạn nổ long trời, cát bụi tung bay mù mịt cả bốn bề.
Con tàu sau vài giây đồng hồ mới chịu đứng yên, chấp nhận ngày cuối cùng của đời mãnh long trên ngọn đồi xa lạ này. Lửa đã cháy dữ dội hơn, một số Biệt Động Quân còn sống sót chạy tràn ngập ra phía trước phòng lái, tìm cách thoát ra ngoài. Đại úy Cầu cảm thấy đau đớn nhức nhối ở gót chân mặt nhưng vì sự sống còn, anh cố gắng lết ra từ phía bên trái cửa sổ phi cơ. Bên ghế phải Đại úy Hùng đang bị buộc chặt vì dây an toàn bị gãy chốt, ghì chặc anh vào thành ghế với áo giáp, súng đạn mang lỉnh kỉnh bên hông, lại bị lính Biệt Động Quân chen lấn thoát thân đè chặt anh xuống ghế, lửa đã cháy sát bên lưng, sức nóng hừng hực của cả ngàn lít dầu JP-4 táp vào mặt, anh cảm thấy gần như tuyệt vọng, trong lúc đó một anh lính Biệt Động sau cùng vừa trèo lên để chui ra thì bị một mảnh đạn pháo kích trúng vào đầu bị thương ngã người lại phía sau, tay anh lính níu chặt lấy chiếc gối nệm phía sau lưng Đại úy Hùng để khỏi ngã quỵ xuống sàn tàu, chiếc gối sút ra văng xuống theo tay anh lính. Nhờ cơ hội may mắn hiếm hoi này Đại úy Hùng lòn mình thoát ra được từ phía lỗ trống trên nóc phòng lái. Trung sĩ Hoàng nhờ Trời, Phật che chở nên chui ra ngoài được an toàn trước khi phi cơ phát nổ.
Tất cả những anh em thoát chết đều cố gắng bò nhanh xuống hầm trú ẩn gần đó, đạn pháo vẫn tiếp tục rú lên trong gió gây ra những âm thanh thật kỳ dị nghe như tiếng ma tru, quỷ rống rợn cả người. Lửa cháy phi cơ soi sáng cả góc trời, có lẽ giờ phút đó dưới chân đồi trong các hang hóc chằng chịt, loài quỷ đỏ đang ăn mừng nhảy múa bên các vong linh oan hồn mà chúng vừa mới sát hại.
Trung tá Ngôn cho anh em Biệt Động Quân ra khiêng Đại úy Cầu vào băng bó, kiểm điểm quân số phi hành đoàn không thấy Thượng sĩ Tranh, mọi người nghĩ rằng anh đã chết. Sáng hôm sau mọi việc tương đối yên lặng, anh em lần mò bò ra phi cơ để lấy xác vì có rất nhiều quân nhân Biệt Động đã bị súng phòng không của Việt Cộng bắn chết trong lúc đáp, cũng như bị thương chạy ra ngoài không được bị chết cháy trong tàu. Phi hành đoàn nhận diện được dấu tích của Thượng sĩ Tranh mặc dầu đã bị cháy tan biến, nhưng thẻ bài kim loại và súng đạn anh mang theo, cho biết rằng anh đang đứng gần cửa phía sau thân tàu, có thể anh bị đạn phòng không chết trước khi đáp. Đại úy Hùng thu nhận cẩn thận tất cả thân xác còn lại của anh chờ ngày mang về để mai táng.
Khoảng ba ngày sau, phi hành đoàn được báo là sẽ có một phi hành đoàn UH-1 vào rước về, mọi người thức suốt đêm chờ đợi sau cùng được báo là phi vụ cứu cấp bị lộ nên bải bỏ, không thể nào rước các anh ra được. Những giờ phút ở đây thật dài vô tận, những giấc ngủ chập chờn, tử thần luôn luôn rình rập, ranh giới giữa sự sống và chết gần như lẫn lộn không giới tuyến rõ rệt. Các anh lính Mũ Nâu anh hùng chiến đấu thật cô đơn, cam khổ, đạn pháo địch ngày đêm từng chập không ngơi nghỉ, tiếng trống, tiếng loa của loài quỷ đỏ vẫn hò hét, kêu gào dưới triền núi vọng lên như tiếng khóc than từ địa ngục. Những anh lính Biệt Động Việt Nam Cộng Hòa ngày đêm kìm chặt tay súng, núp sâu dưới lòng đất sẵn sàng đứng lên để đập vỡ cái mưu toan của chúng muốn biến nơi này thành mồ chôn tập thể.
Vào khoảng chín giờ tối của đêm thứ năm, Trung tá Ngôn cho phi hành đoàn biết lệnh mật từ Bộ chỉ huy Hành quân Không Quân là sẽ có người vào rước anh em trong giờ giao thừa của đầu năm Dương lịch. Mọi trách nhiệm và kế hoạch di tản được chuẩn bị đầy đủ. Trung sĩ Hoàng sẽ cõng Đại úy Cầu bị thương chân không đi được, Đại úy Hùng sẽ ôm xác Thượng sĩ Tranh cố gắng chạy nhanh ra tàu.
Bây giờ là 23 giờ 55 đêm 31-12-1972, chỉ còn năm phút nữa là một năm mới sẽ ra đời. Trong những giây phút thiêng liêng này ở các quốc gia khác, người ta đang hạnh phúc sung sướng bên những ly sâm-banh sùi bọt, những lời chúc an lành, những nụ hôn ấm cúng, những dạ hội, những vũ điệu, những bài ca gần như bất tận trong đêm nay. Còn tại nơi đây, nơi một quốc gia nhỏ bé, một tiền đồn heo hút nằm giữa rừng hoang vắng, nơi mà những căm thù được dựng lên bằng những suy luận vô lý của hai ý thức hệ ngoại lai.
Hởi những người Việt Nam da vàng máu đỏ, tại sao?… Và tại sao?…
Tiếng động cơ trực thăng đã bắt đầu nghe rõ từ hướng Đông Bắc, như một thiên thần từ trời cao đang ngang nhiên tiến vào chiến tuyến giữa đêm trừ tịch để cứu người lâm nạn. Đạn lửa phòng không nổ ròn như pháo Tết, hỏa tiễn ì ầm rơi vào bãi đáp. Cộng Sản đang làm lễ đăng quang để tiếp rước thiên thần đang giáng thế. Thật bình tĩnh với nụ cười ngạo mạn, Trung úy Phát tự “Phát Sứt”, đã nhiều lần vào sinh ra tử khéo léo đặt con tàu vào bãi đáp một cách dễ dàng, bên ghế trái, hoa tiêu phụ là Trung úy Bằng, một cựu Biệt Động Quân Biên Phòng, một người anh hùng luôn luôn đặt nặng trách nhiệm và bổn phận của Tổ Quốc giao phó trước sự sống còn của đời mình.
Đạn pháo kích vẫn tiếp tục rơi tới tấp, những cái chớp nhoáng, lập lòe gây ra một thứ ánh sáng cực kỳ man rợ. Trung sĩ Hoàng hết sức khó khăn vất vã mới đưa được Đại úy Cầu lên tàu. Đại úy Hùng nhất quyết ôm chặt tro xác của Thượng sĩ Tranh lần mò chạy theo sau. Phi hành đoàn đã lên tàu đầy đủ. Trung úy Bằng đưa ngón tay lên trời ra dấu cho trưởng phi cơ Trung úy Phát sẵn sàng cất cánh. Như một con chiến mã thật hiên ngang nhảy vọt lên không trung, chỉ trong tích tắc sau đó đã lặng lẽ biến mình trong màn đêm dày đặc
Xin giã biệt Tống Lệ Chân, giã biệt những anh hùng Mũ Nâu Biệt Động. Qua tần số radio của đài phát thanh Sàigòn, chuông kiểng nhà thờ đã rộn rã khua lên từng hồi để chào đón một năm mới vừa ra đời.
Các anh: Cầu, Hùng, Hoàng và vong linh của Thượng sĩ Tranh, cũng như phi hành đoàn UH-1 cấp cứu, anh Phát, anh Bằng… Hôm nay tôi viết bài này để nhắc nhở những thành tích oanh liệt, can trường của các anh. Các anh là những anh hùng của Không Quân nói riêng và của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa nói chung. Vì vận nước không may các anh đã chia tay nhau mỗi người mỗi nẻo khắp nơi trên thế giới, nhưng “tinh thần Tống Lệ Chân” của trên hai mươi ba năm về trước các anh đã thể hiện được tình huynh đệ chi binh, quên thân mình để cứu giúp đồng đội, chiến hữu. Tôi cầu nguyện và chúc lành các anh em gặp được nhiều may mắn và hạnh phúc trong quãng đời còn lại.
Riêng Thượng sĩ Tranh, tôi xin thành tâm khấn vái và cầu nguyện cho vong linh anh được yên lảnh trong thế giới vĩnh cửu, hãy vui trong giấc ngủ bình yên…
Cựu Lôi Thanh II
Phi đoàn 237
Nguyễn Văn Ba
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21156
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Những người lính cũ, nhắc lại để thương để nhớ

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Những người lính cũ,
    nhắc lại để thương để nhớ

    _____________________
    Bé Dương _ 28/03/2008





              

              

    Trong bài thơ “Dưới chân đồi Chu Pao” của nhà thơ Lâm Hảo Dũng, viết về trận đánh trên Quốc Lộ 14 dẫn vào Kontum trong Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972, có hai câu:
              
    “Chu Pao ai oán hờn trong gió
    Mỗi chiếc khăn tang một tấc đường”

              
    Chỉ hai câu thơ này thôi cũng đủ nói lên sự tổn thất to lớn của những người lính cũ thi hành sứ mạng bảo quốc an dân.

    Những người lính cũ? Họ là ai?

    Họ là Lưu Trọng Kiệt, Lê Hằng Minh, Nguyễn Ðình Bảo, Lương Quế Vượng, Mã Thành Cương, Lê Văn Khoắng, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Viết Cần, Hoàng Ưng, Cao Hoàng Tuấn, Nguyễn Bá Tòng, Ðỗ Cao Trí, Nguyễn Mạnh Dũng, Dương Hữu Trí, Mai Gia Thược… đã nằm xuống trên những chiến trường miền Nam hay trong các trại tù cải tạo điểm đầy trên quê hương sau ngày tàn cuộc chiến. Họ là những người lính cho nổ lựu đạn tự sát, là người sĩ quan cảnh sát đã tuẫn tiết dưới chân tượng Thủy Quân Lục Chiến, là Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai… Họ là Nguyễn Hữu Luyện, Lê Tuấn Ngô, Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Tấn Sang, Huỳnh Văn Của, Trần Văn Nam, Nguyễn Văn Cầu… ngày nay đã xa cố quốc nhưng lòng vẫn luôn nhớ về các đồng đội ngày xưa. Họ chỉ là một con số rất nhỏ, trong số bao nhiêu người lính Việt Nam Cộng Hòa, đã từng hy sinh trọn thời thanh niên chiến đấu để bảo vệ tự do, để cho người dân miền Nam được hưởng 21 năm tự do ngắn ngủi.

    Bao nhiêu người lính VNCH đã nằm xuống để đổi lấy từng hơi thở tự do cho người dân. Họ và đồng đội đã hứng chịu bao gian nan khốn khổ cho hậu phương được những ngày bình yên. Mưa gió tầm tã miền tuyến lửa Ðông Hà, nắng cháy rát mặt nơi cao nguyên, đất sình đen vùng Ðồng Tháp dính nặng đôi giày sô không làm cho người lính sờn lòng. Họ vẫn luôn giữ vững tay súng bảo vệ từng phần đất tự do. Họ là những người lính Không Quân, Hải Quân. Họ là những người lính mũ đỏ, mũ xanh, mũ nâu… Họ là những người lính “bùn lầy còn pha sắc áo xanh” của Sư Ðoàn 1, Sư Ðoàn 5, Sư Ðoàn 18, Sư Ðoàn 21, Sư Ðoàn 22, Sư Ðoàn 25… Họ là những người lính Thiết Giáp, Pháo Binh, Truyền Tin, Quân Cảnh, Biệt Kích, Nha Kỹ Thuật, Biệt Ðội Người Nhái, Công Binh, Nữ Quân Nhân, Quân Y… Họ là những người lính dân quê của Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân. Còn nhiều nữa, họ còn là những thương phế binh Nguyễn Văn Nhạn, Bùi Văn Bon… với tấm thân tàn phế, vẫn còn lê lết chuỗi ngày tàn trong một tương lai đầy ảm đạm.

    Tướng Douglas MacArthur đã nói: “Old soldiers never die, they just fade away.” Nhưng riêng với chúng ta, người lính Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ bị phai nhạt và không thể bị phai nhạt. Vì họ là cha, là mẹ, là anh, là chị, là em, là bạn bè, là người láng giềng cùng xóm. Họ chính là chúng ta.

    Vì vậy Nhớ Người Lính Cũ là điều chúng ta đã làm và phải làm hằng ngày, không phải chỉ qua một vài bài viết. Số báo nhỏ nhoi này chỉ là một nhắc nhở đến mọi người về nguồn cội của chúng ta, những người đang chịu ơn các vị anh hùng đó.





    ***
    Người sĩ quan Quân Lực VNCH đó là một người lính dân quê, từng là tiểu đoàn trưởng của một tiểu đoàn xuất sắc nhất của Sư Ðoàn 7 Bộ Binh. Trong một trận đánh vào đầu năm 1968 ông bị trúng thương nặng nhưng vẫn cố gắng chỉ huy binh sĩ cho đến khi tàn trận. Vết thương thập tử nhất sanh trên ngực buộc ông phải nằm trong phòng hồi sinh gần một tuần lễ. Sau một thời gian dưỡng thương ông được đưa trở lại nắm đơn vị cũ. Vết thương vẫn không bao giờ hoàn toàn lành lặn, thỉnh thoảng vẫn rỉ máu, và nhiều lần ông phải dùng thuốc cầm máu. Ông đã có thể từ chối thượng lệnh nhưng tinh thần trách nhiệm của người lính VNCH với đồng đội đã buộc ông chấp nhận không một lời kêu ca. Một thời gian sau ông được thăng cấp và chuyển đi nhận nhiệm vụ mới. Ngày ông rời đơn vị, trong buổi lễ bàn giao, nhiều người lính đã rơi nước mắt từ giã vị chỉ huy cũ. Ông là lính tác chiến trọn đời binh nghiệp nhưng ông phải hứng chịu nhiều bất công, và ông đã cắn răng không than van chỉ vì “còn nhiều người lính khổ hơn mình.”

    Ðược giải ngũ vào đầu năm 1975, một người mà trọn đời binh nghiệp là lính tác chiến, tưởng đã có thể sống một đời yên ổn bên gia đình sau bao năm chinh chiến thì biến cố 30 tháng 4, 1975 ập đến. Ông được mời di tản nhưng chỉ có chỗ cho một mình ông và ông đã từ chối vì không thể bỏ lại vợ con.

    Sau khi trình diện học tập cải tạo ông bị đưa ra miền Bắc như nhiều sĩ quan khác của Quân Lực VNCH. Trước khi đưa mọi người lên xe lửa ra Bắc, bọn người thắng trận đã ra lệnh tịch thu tất cả những gì họ xem là có thể giúp tù cải tạo trong việc đào thoát, trốn trại. Thuốc men của ông mang theo để dùng cho vết thương cũ bị tịch thu dù đã có lý do chánh đáng.

    Trong trại tại vùng Hoàng Liên Sơn, người tù cải tạo phải chịu những hành hạ lao lực. Mỗi ngày người tù phải kéo gỗ từ dưới sông về trại trong những ngày rét buốt. Sức khỏe của ông ngày càng suy yếu vì lao lực quá độ. Một ngày kia ông vấp ngã, bị thân cây đè và vết thương cũ vỡ ra. Ông xin ban quản giáo trại cho lại số thuốc men đã bị tịch thu. Họ từ chối. Sau nhiều lần nài nỉ của ông và các bạn cùng trại, ông được phát cho vài viên APC (một loại aspirin của quân đội cũ). Vài ngày sau ông chết đi. Thi hài ông được bó bằng tấm chăn vải dù đã theo ông suốt cuộc đời chinh chiến và đem chôn ở một ngọn đồi gần trại.

    Một điều tàn nhẫn cuối cùng, gia đình của ông không được thông báo về cái chết của ông, và giấy báo tử được trưởng trại ký 18 tháng sau ngày ông mất. Mười sáu năm sau ngày ông mất, di cốt của ông đã được gia đình đem về an táng tại quê nhà.





    ***
    Người lính già kể câu chuyện này thuộc một gia đình nông dân ở gần Phụng Hiệp. Thời trai trẻ, chỉ được học hành ít ỏi nhưng ông vui sống đời cày cấy bên thửa ruộng, con trâu như bao nhiêu người dân miền Nam chất phác khác. Lệnh tổng động viên được ban ra, ông và người anh lớn sang Vĩnh Long đăng lính Nghĩa Quân, phục vụ dưới quyền của một người anh họ đang là thiếu tá quận trưởng của một quận tại đây.

    Hai anh em ông tham gia vào mọi cuộc hành quân tuần tiễu, công tác bình định trong quận và được tiếng là gan dạ, dũng cảm. Trong một trận Việt Cộng tấn công vào quận lỵ, hai người đã đẩy lui nhiều cuộc xung phong và bảo vệ cho người anh họ quận trưởng khi địch chen vào được phòng tuyến quận đường.

    Chiến tranh chấm dứt hai anh em trở về làng cũ. Dù chỉ là những người lính thường, không chức tước nhưng tại quê hương cả hai đều bị trả thù tàn khốc. Con cái bị cấm đến trường học, vợ bị cấm buôn bán tại chợ. Gia đình túng quẫn chỉ còn trông cậy vào mấy công ruộng nhà. Nhưng đám người chiến thắng vẫn không để yên cho họ. Hai người bị kêu trình diện mỗi đêm tại trụ sở công an.

    • “Tụi nó không làm gì mình hết, chỉ bắt mình ngồi đó độ mươi, mười lăm phút hay một vài tiếng đồng hồ rồi cho về. Vừa đến nhà nằm xuống, chưa kịp ngủ thì nó lại xuống gọi lên. Có đêm tụi nó làm như vậy vài lần. Ngày lễ của tụi nó thì mình phải lên ngồi cả ngày ở đó. Riết rồi không còn sức lực làm lụng gì được. Bị hành hà quá đến nỗi chú nói: ‘Mấy ông có muốn bắn muốn giết tụi tui thì cứ làm chớ đày đọa làm chi như vầy.’ Nhưng tụi nó cũng không tha. Ruộng vườn cứ bán dần mà sống. Buồn quá, nhìn vợ con nheo nhóc mà không làm gì được chú chỉ còn biết mượn rượu giải sầu đến khi vướng phải bệnh ghiền lúc nào cũng không biết. Thấy anh em chú thân tàn ma dại, không làm gì được nữa tụi nó mới chịu tha.”
    • “Cuộc đời của thằng lính thua trận như vậy đó con ơi!”
    Người lính già nấc lên, nước mắt chảy ra, nói với người cháu trong một cơn tỉnh ngắn. Mắt đứa cháu cũng cay xè, ươn ướt.





    ***
    Có một gia đình, cả hai vợ chồng đều là sĩ quan Quân Lực VNCH. Sau ngày 30 tháng 4, 1975 cả hai người đều phải đi học tập cải tạo như bao nhiêu người lính khác của quân đội buộc phải buông súng. Người chồng trình diện đi trước, người vợ chờ đi sau. Trong khi chờ đợi chị xin những người chiến thắng cho được ở lại để chăm sóc ba đứa con còn nhỏ vì không có người gởi gấm. Thật ra vào thời điểm lúc đó cũng chưa chắc đã người dám nhận. Lời khẩn cầu bị bác bỏ ngay, không được chấp nhận. Cũng vì “Với chánh sách khoan hồng của cách mạng chị chỉ đi học tập vài ngày rồi về thì có gì mà lo.” Cả bốn mẹ con phải nhập trại vào Thành Ông Năm ở Hóc Môn.

    Trại này được chia làm hai phía: bên dành cho những người lính VNCH nam, bên dành cho các nữ quân nhân VNCH, ngăn cách nhau bằng một hàng rào kẽm gai. Khẩu phần ăn dù đã ít ỏi nhưng chỉ được phát cho người mẹ vì các con không phải là thành viên chánh thức của trại. Biết được hoàn cảnh thương tâm đó, nhiều người bên trại nam đã cố gắng ném các vắt cơm nhỏ qua để nuôi các cháu nhỏ. Về sau được tin là người mẹ qua đời vì lao lực, và các cháu cũng không biết trôi dạt về đâu. Người cha vẫn biệt vô âm tín.

    Người kể chuyện này là một trong những người đã từng ném vắt cơm tình nghĩa nuôi các cháu.



    https://vinhdanhquanlucvietnamconghoa.b ... c-vit.html
    https://hung-viet.org/a8449/nhung-nguoi-linh-cu






    ____________________________

    Ý kiến bạn đọc
    tai lu _ 17 Tháng Giêng 2012




    Tôi là một sĩ quan, vợ là cô giáo ở huyện, chúng tôi có một con trai.

    Sau khi 30.4.75, tôi đi học tập cải tạo, vợ cũng bị đi học tập nhưng may mắn đi được 1 tuần rồi trở thành "mất dạy", con chúng tôi lúc đó mới 4 tháng tuổi.

    Ba vợ tôi là Nghị viên Hội đồng Tỉnh, cũng bị học tập thời gian ngắn, khi về vì Trưởng Công an huyện (dân gọi là ông Sáu Liên xô - ông này to lớn như LX) muốn chiếm nhà nên tạo chuyện là ba vợ tôi hoạt động chống Nhà nước CS, nên bắt và đánh đập gần nửa năm trời, khi có người cò mồi "nếu hiến nhà thì sẽ tha", nhà do vợ tôi đứng tên,nên vợ tôi phải về SG là nhà chồng để lánh mặt, ký tên hiến nhà, và các em vợ tôi làm chuyện đó. Lập tức trong vòng 1 tuần là ba vợ tôi được tha, tất cả ruộng vườn nhà cửa đều bị tịch thu, chỉ chừa lại 2 công vườn để cất nhà, tất cả gia đình bên vợ tôi phải ở chung căn nhà lá nhỏ đó với ông cha bị bệnh tật sau những ngày bị tra tấn đổ máu, bể be sườn...

    Tôi đi học tập được 3 năm (hiện nay còn ở SG, khi về không được cho ở Thành phố, nên phải xin về địa chỉ quê vợ, những ngày tháng này, thật là tồi tàn, không làm ăn gì được, cứ bị tập trung học cái này cái kia nhất là vào những ngày lễ của Nhà nước này. Hoặc là liên tục đi đào kênh thủy lợi..., nghĩ đến tương lai con , tôi phải bỏ về SG, nơi gia đình của cha mẹ ruột tôi. Không hộ khẩu, CA Khu vực kiếm chuyện đủ điều, nói tôi có tiền chìm tiền nổi, ngày nào cũng bắt tôi đi theo ghi chép hết cái này rồi tới cái kia, tối đến là phải tập trung đi dân phòng, cuộc sống đầy áp bức, tôi phải chạy xích lô để cả ngày ở ngoài đường, tối khuya mới về. Vợ tôi sau khi "mất dạy" phải đi buôn hàng chuyến để nuôi chồng và con, năm ba ngày là mất vốn vì hàng bị tịch thu (lúc ấy là gạo, nếp, đường)rồi phải đi vay nợ, ôi thật là khủng khiếp. Còn con tôi sau này cũng được vào làm Công ty Nhà nước, dù có khả năng, nhưng không được vào đảng là không làm được gì cao cả.

    Còn em trai vợ tôi học tới lớp 12 sau khi nhà bị tịch thu, cha bị ghép tội, nó cũng không được cho học tiếp, buồn chán và sinh ra bệnh tâm thần và đã chết năm 2010 khi trong Trung tâm các bác sĩ quá thờ ơ không theo dõi cho sát, một con người rất hiền, học giỏi của trường, khi chết những người bệnh trong Trung tâm còn khóc, bệnh từ 19 tuổi và chết 54 tuổi, khi ai hỏi bao nhiêu tuổi thì trả lời là 19 tuổi và chỉ nhớ những gì khi còn đi học, một vài câu tiếng Anh thông thường vẫn còn nhớ để đối đáp, nhưng chỉ vài câu là đầu óc của người bệnh trổi dậy và nói nhảm.

    Thật là đáng tiếc cho đất nước này. Đó là những gì xảy ra sau 30.4.1975 của gia đình tôi và cũng có thể là một số gia đình khác.



Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21156
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Bên Đồi Chư Pao

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




              



              
    Bên Đồi Chư Pao
    _________________________







    Súng dội trời trai thôi cũng nản
    Chiến chinh không thấy một ngày mai
    Những bông hoa dại buồn trong gió
    Như khóc than thời chôn xác trai

    Chư Pao ngỡ chết trong lòng địch
    Vẫn có ngày vui dù mong manh
    Những chiến binh ngồi nghe đạn réo
    Pháo gầm bom nổ rát trời xanh

    Chư Pao một dãy mồ chôn xác
    Những chiến binh đầu đêm cuối thu
    Ai muốn qua vùng Tân Phú (*) ngắm
    Những hầm than máu chảy về đâu?

    Chư Pao ai oán hờn trong gió
    Mỗi chiếc khăn tăng một tấc đường
    Những mồ hôi đổ tan thành đá
    Tan nát lòng ta khách viễn phương



    (*) Tân Phú: tên một ngôi làng bên quốc lộ 14 dưới chân đồi Chư Pao





    Lâm Hảo Dũng

              



              

              

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21156
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Cờ Ta Bay Trên Quảng Trị Thân Yêu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”