Xuân Đinh Dậu

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          



Tình xuân
______________________
Bích Khê

          

Ngày xuân ai chẳng lại
Chơi xuân một nhành mai
Gió xuân rơi hoa hết,
Tình xuân dễ lợt phai.


          

          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          
... mượn Xuân Ca của
MiMi - Nắng Thủy Tinh - Vịnh Nghi
:flwrhrts:

( .. tết năm ngoái mượn gòi một lần, tết năm nay mượn típ là .. hai lần .. :giggles: .. )

          



[/audio]
Xuân Ca
Phạm Duy
MiMi . Nắng Thủy Tinh . Vịnh Nghi



:flower:

          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Thú chọi gà
    _________________
    Vương hồng Sển (Phong lưu cũ mới)




    ( .. tiếp theo .. )


          
:pntfngrri: ( .. đọc đoạn trước .. ) .:pntfngrlft:












          
Last edited by Hoàng Vân on Thứ sáu 06/01/17 10:29, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          













          
Last edited by Hoàng Vân on Thứ sáu 06/01/17 10:37, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          













          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          













          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          












( .. đọc tiếp .. )

          
Last edited by Hoàng Vân on Thứ ba 10/01/17 16:34, edited 3 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Tết nghĩ về Khái Hưng
    _______________________
    Dương Nghiễm Mậu





    Lời tòa soạn:

    Khái Hưng được coi là một nhà văn lớn của Việt Nam, là cột trụ của Tự Lực Văn Đoàn. Ngoài nhà văn, ông còn là một nhà cách mạng.

    Chúng tôi xin đăng lại bài viết này của nhà văn Dương Nghiễm Mậu viết cách đây 52 năm như một nén nhan để tưởng niệm lần thứ 70 nhà văn Khái Hưng bị Việt Minh giết và ném xuống sông tại Bến Đò Cựa Gà, Nam Định ngay sau Tết Đinh Hợi (chắc chắn không phải là 17-11-1947 như tác giả ghi trong bài viết này).

    Trong bài viết này tác giả Dương Nghiễm Mậu có nhắc đến tác phẩm cuối cùng của Khái Hưng - "Băn Khoăn". Những băn khoăn của nhân vật Cảnh trong tác phẩm này có lẽ cũng là những băn khoăn của nhiều người Việt hôm nay mặc dầu thời gian đã 70 năm trôi qua...

    (Việt Luận - Xuân Đinh Dậu 2017)          

    Khái Hưng đã chết như thế nào? Từ rất lâu, mỗi lần gặp lại tên Khái Hưng, tôi lại nghĩ đến điều đó và cùng lúc tôi vẫn muốn biết Khái Hưng, cùng Tự-lực văn-đoàn,cũng như tất cả những người ở thế hệ Khái Hưng đã làm cách mạng như thế nào, họ đã nghĩ gì, làm gì. Họ đã hoạt động trong giai đoạn kháng chiến giải phóng dân tộc ra sao?

    Tại sao Cộng sản thủ tiêu Khái Hưng?
    tôi nhớ câu thơ ấy của Thanh Tâm Tuyền.
    Khái Hưng đã bị thủ tiêu, điều ấy đã chắc. Hồi còn nhỏ ở Hà-nội, đọc một tờ tuần báo vào khoảng năm 1950 gì đó tôi có được thấy trong một thiên hồi ký, không nhớ tên tác giả, không nhớ rõ tên thiên hồi ký, tôi chỉ nhớ thiên hồi ký mô tả lại những ngày tù tội của các chiến sĩ quốc gia bị V.M. bắt giam, trong thiên hồi ký có một đoạn tác giả cho biết đã gặp Khái Hưng trong một trại giam ở Việt Bắc, tác giả cho biết lúc đó Khái Hưng ốm yếu, bị đi kiết vì bị hành hạ và cuộc sống đầy ải của nhà tù, rồi Khái Hưng chết ở đây, những chiến sĩ quốc gia, những bạn của Khái Hưng đã đẵn tre làm phên quấn xác Khái Hưng thay quan tài và an táng trong một khu rừng ở Đại-từ, những điều này tôi nhớ mơ hồ lắm và cùng đó hình như tác giả còn nói ngày Khái Hưng chết là 17-11 năm 1947. Tôi không nhớ rõ, nhưng trí óc tôi còn mường tượng nên viết ra, nó không nhằm cung cấp chính xác một tài liệu, mà tôi chỉ muốn ghi lại những điều mà trong tâm tưởng tôi hai chữ Khái Hưng vẫn có lúc nhớ đến.

    Trong thời gian làm tờ Văn Nghệ tại nhà in ở đường Cô Bắc tình cờ tôi được nghe truyện về Khái Hưng, người nói chuyện giới thiệu là một người cháu về đằng bà Khái Hưng, người này nói chính ông đã gặp Khái Hưng lần cuối vào ngay buổi chiều cán bộ V.M. bắt Khái Hưng dẫn đi, bọn cán bộ này là một thứ du kích tự vệ xã, Khái Hưng mặc quần áo thường, mang theo một chiếc chăn dạ màu cứt ngựa, người kể truyện gặp Khái Hưng ở đầu làng, Khái Hưng có nét mặt rầu rầu buồn bã mỉm cười và giơ tay chào. Sau đó, người nói chuyện bảo dù rất kín, mấy tên du kích đã lộ ra rằng họ bỏ Khái Hưng vào bao bố đâm chết rồi quăng xuống sông.

    Không hiểu ngoài những điều mơ hồ, không có gì làm bằng chứng kia, còn có những điều nào khác được kể về cái chết của Khái Hưng? Có điều Khái Hưng đã chết. Khái Hưng đã chết thực và tác phẩm cuối cùng của Khái Hưng -theo như ghi chép- để lại cho chúng ta là tác phẩm Băn khoăn, trước khi Khái Hưng bước vào đoạn đường tranh đấu cách mạng cùng các bạn, cùng toàn dân để giải phóng dân tộc và Khái Hưng đã chết trong cuộc tranh đấu đó.

    Nghĩ về cái chết của Khái Hưng, cùng lúc tôi nghĩ đến cái chết khác của các chiến sĩ quốc gia kéo theo sự thất bại của những người quốc gia trong lúc đối đầu với Cộng-sản, tôi muốn tìm hiểu và rút ra từ đó những nguyên nhân đưa đến hoàn cảnh lịch sử đương thời mà với chúng tôi buộc phải có trách nhiệm. Trở về khung cảnh, những hoạt động của
    • sau năm 1901 khi Đông-Kinh Nghĩa-thục phải ngưng hoạt động,
      sau năm 1924 chiến khu Yên-thế của Hoàng Hoa Thám bị tan,
      sau năm 1930 Nguyễn Thái Học bị chết ở Yên-báy,
    Tự-lực văn-đoàn với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thế Lữ, Thạch Lam, Tú Mỡ ... hoạt động trên mặt trận báo chí, văn chương không phải chỉ là để làm báo, làm văn chương, mà những công việc của nhóm đã chứng minh rõ, họ chỉ dùng văn chương báo chí để hoạt động cách mạng, hay nói khác đi, nhẹ hơn, đúng hơn dùng văn chương báo chí cho một vận động cải cách xã hội theo tinh thần Tây-phương.
    Những gì đã được viết ra trên báo Phong Hóa, báo Ngày Nay, cùng các tác phẩm đã minh chứng điều này. Sau bao nhiêu năm bế môn tỏa cảng, người Tây-học, người trí thức mới của thế hệ 1930 đã nhận thấy sức mạnh của Tây-phương, cụ thể là nền đô hộ của người Pháp, người trí thức mới nhận ra sự bại trận, nô lệ của mình: xã hội ta lạc hậu, tinh thần Nho-giáo suy đồi, hủ lậu, dân ta cực khổ thất học, với quá nhiều tệ đoan, mê tín. Họ thấy rõ muốn thoát cảnh lệ thuộc trước hết phải nâng cao dân trí, cải cách xã hội. Và họ đã làm. Các tác phẩm văn chương của Tự-lực văn-đoàn đã đóng một vai trò lớn trong công việc này: mô tả tranh chấp mới cũ, đề cao đời sống mới. Trên căn bản chấp nhận tinh thần tự do, dân quyền của những nhà tư tưởng đã làm thành cuộc cách mạng tư sản 1789 của Pháp.
    • Lý thuyết gia chỉ đạo của Tự-lực văn-đoàn là Hoàng Đạo đã viết: Mười điều tâm niệm,
      Nhất Linh đã viết Đoạn tuyệt,
      Khái Hưng đã viết Nửa chừng xuân.
    Trên phương diện xã hội đã đưa ra phong trào Ánh Sáng.
    Sau cùng Tự-lực văn-đoàn thành đảng Hưng Việt hoạt động cách mạng, kéo liền theo đó,
    • Khái Hưng chết.
      Nhất Linh bỏ ghế bộ trưởng chạy sang Tầu,
      Hoàng Đạo chết ở Tầu,
      Tú Mỡ, Thế Lữ ở lại với Cộng-sản,
      còn một mình Nhất Linh bơ vơ, lạc lõng ở Miền Nam đề cao văn chương vượt thời gian không gian, và với chính bản thân chọn cái chết chống lại chế độ Ngô Đình Diệm.


    Suốt một lịch sử kéo dài ba mươi năm, trong đó liên tiếp 20 năm chiến tranh trên quê hương chúng ta, nếu đổ tội cho cái vận nước mình khốn khổ, khốn nạn thì không nói làm gì nữa, nhưng nói đến trách nhiệm của những ai tự nhận như một chiến sỹ quốc gia thì
    • chúng ta phải nhận chúng ta đã thua,
      chúng ta phải chịu trách nhiệm nghiêm khắc với hiện tình, và từ đó phải nhận định:
      từ những vận động của thế hệ 1930, qua cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc đến nay, cuộc cách mạng phải có của chúng ta vẫn chưa chấm dứt, vì chúng ta vẫn chưa có
      • một mẫu người mới,
        một xã hội mới
        được xây dựng trên một ý thức hệ Việt mới.

    Có phải tôi đã nói lông bông lang bang, vì tôi đang viết những gì về Khái Hưng không? Có thể phải mà cũng có thể không vì tôi đã nghĩ đến nó khi nhớ lại những điều Khái Hưng đã viết, và cái chết của Khái Hưng để lại cho tôi. Và vì tôi, chính tôi, đang có những vấn đề đặt ra:
    • văn chương với xã hội,
      văn chương với cách mạng,
      sự liên hệ của người cầm bút với xã hội, quê hương
      và nhất nữa khi đặt mình là nhà văn tôi phải làm gì?
      Có văn chương nghệ thuật thuần túy không?


    Trong số các tác phẩm của Khái Hưng, cuốn được ghi cuối cùng là Băn khoăn, cuốn sách hình như đã được viết ngay vào lúc đầu những hoạt động cách mạng của tác giả cùng với lúc Nhất Linh viết cuốn Bướm trắng. Tôi vẫn tự hỏi: tại sao giữa tác phẩm và đời sống tác giả lại không có một chút liên hệ nào như vậy. Tại sao Nhất Linh và Khái Hưng lại viết được hai tác phẩm thuần túy như thế vào giữa lúc họ bắt đầu hoạt động cách mạng. Có thực Băn khoăn và Bướm trắng đã được viết lúc ấy hay đã viết từ trước mà mãi lúc đó mới in ra?

    Hơn nữa Nhất Linh đã viết Đôi bạn, và tôi nhớ có đọc được một vài số báo nào đó Khái Hưng viết truyện Xiềng xích rõ ràng là những tác phẩm liên can mật thiết đến tư tưởng và đời sống tác giả trong xã hội đương thời ấy.

    Có hai tác phẩm của Khái Hưng tôi lưu giữ mà với chủ quan tôi cho là quan trọng và giá trị là Tiêu-sơn tráng sĩ và Băn khoăn. Cuốn trên tôi thích có lẽ một phần vì nhân vật Phạm Thái, một nhân vật vừa là chiến sĩ, vừa là tu sĩ, vừa là nghệ sĩ mà Khái Hưng đã làm sống lại được, còn cuốn sau, tôi cho đó là một tiểu thuyết rất mới của thời đó, và cho đến bây giờ nữa về nội dung đã cho tôi một phần nào lý do sự thất bại của những trí thức mới trong giai đoạn lịch sử vừa qua.





    Băn khoăn của Khái Hưng muốn nói là "băn khoăn" của ai? Của Cảnh chăng? Cậu sinh viên trường luật học giỏi đã hai mươi nhăm tuổi đang yên ổn học hành... nhưng sang năm thứ ba một hôm như chợt lởn vởn trong đầu chàng câu hỏi:
    • "Học để làm gì, và đỗ để làm gì?"
    Rồi câu hỏi trở thành ám ảnh dòng dã hàng tháng, ám ảnh kỳ cho tới khi nẩy ra câu trả lời mới thôi. Câu trả lời ấy là:
    • "Học để chẳng làm gì ráo. Đỗ cũng chẳng ích lợi gì cho chàng, cho tương lai của chàng."
    Rồi chàng lý luận ầm ỹ trong thâm tâm để tìm nguyên tắc, quan niệm, ý nghĩa của sự sống, của đời mình. Luận lý cho tới lúc đến một kết cục chán nản, đau đớn. sống không mục đích, đời là vô vị[1].

    Cảnh không học nữa, và mới bắt đầu một cuộc phiêu lưu, dấn mình vào cuộc sống chơi bời.
    • "Muốn thì được"
    Cảnh thường nói. Mà khi người ta giàu như Cảnh thì người ta lại càng dễ được cái người ta muốn. Vì thế mà ngay đêm hôm ấy Cảnh đã trở nên tình nhân người yêu của bạn. Khi đã phạm tội, hai người ngỏ với nhau những ý riêng của mình rồi ôm nhau cười ngất.
    Liên bảo Cảnh:
    • - Đối với bọn chúng ta chả còn cái gì chúng ta cho là thiêng liêng nữa.

    Cảnh lạnh lùng:
    • - Rõ em khéo nói kiểu cách!... Và ở cái thời gian khoa học này, đến thần thánh cũng đã mất hết thiêng liêng đối với lòng tín ngưỡng thành kính của người đời, thì còn cái gì đáng gọi là thiêng liêng nữa. Họa chăng chỉ có cái tính xác thịt, cái thú vui hiện tại đáng gọi là thiêng liêng cho một cái gì"[2].

    Rồi Cảnh yêu Lan Hương, rồi yêu Hảo, ăn chơi, đánh bạc, bán cả nhà của bố cho, sau chót bỏ đi, đi đâu, phải chăng đó là cái "băn khoăn" Khái Hưng muốn nói?

    Hay cái "băn khoăn" đó là cái "băn khoăn" của ông Thanh Đức, xuất thân từ một gia đình buôn bán, cai thầu, kinh doanh, và ông đi theo con đường ấy, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến tiền, đến mỏ, đến đồn điền, cho ngay tới khi đang đánh bạc với một người tình mà ông đã say đắm theo đuổi nghe nói đến cơ hội làm giàu cũng rũ áo đứng lên ngay. Hoằng, người đang ngồi cùng chiếu bạc đã phê phán:
    "Kim tiền! Trời ơi! Kim tiền! Kim tiền làm cho người ta quên hết ghét, yêu, thù, tức để chỉ nghĩ đến nó, chỉ nhớ đến nó, chỉ chạy theo một nó. Kim tiền vạn tuế! Sống mãi trong xã hội này, thì một ngày kia tôi điên thật."[3]
    Chừng như với ông Thanh Đức tiền có thể mua được tất, mua người này một đêm, mua người kia một đêm, mua nhà, mua mỏ, mua nhân nghĩa danh vọng. Như vậy ông Thanh Đức "băn khoăn" cái gì, "băn khoăn" vì không lấy được Hảo chăng?

    Hay cái "băn khoăn" đó là "băn khoăn" của Hảo, con gái độc nhất của bà án, giàu có, trẻ đẹp, 20 tuổi sống một cuộc đời nhung lụa với bên cạnh vô số bậc thượng lưu trí thức, vô số thanh niên tân học tán tỉnh, một người mà bố con Thanh Đức cùng yêu, cùng muốn chiếm đoạt mà cuối cùng lại lấy một người khác. Phải chăng "băn khoăn" bày tỏ tâm trạng lưỡng lự khi lựa chọn trước vô số người trước mặt mình của Hảo?

    Ba nhân vật Cảnh, ông Thanh Đức, cô Hảo là chính trong câu chuyện "băn khoăn" của Khái Hưng. Thời gian của tác phẩm ngắn ngủi, khởi đầu từ lúc có tin ông Thanh Đức muốn tục huyền cho tới khi cô Hảo, người con gái mà ông Thanh Đức theo đuổi, báo tin lấy ông huyện Tô thì chấm dứt.

    Khung cảnh xã hội
    • "một đời nhiễu loạn, vô gia đình giáo dục, vô gia đình luân lý"[4],
    đưa thanh niên đến nhận định
    • "sinh ra ở đời để mà sung sướng, để mà thỏa mãn, chớ không phải để khổ sở; để than phiền, hay để theo đuổi một mục đích viển vông nào."[5]
    Khung cảnh của một xã hội thượng lưu với rượu, với cà-phê rum ngây ngất, với những canh bạc không nghĩ đến ăn thua; với một phút quyết định đã đủ phương tiện để rời Hà-nội đi Sầm-sơn tắm biển, rồi từ Sầm-sơn đi Hải-phòng coi chớp bóng, ngủ với gái, với sinh viên luật thấy chẳng cần phải thi đỗ, với bác sĩ có bịnh viện giao cho người phụ trông nom, với những cô gái mà tất cả các bạn đều là tình nhân chung chăn chung gối, chán người này đổi người khác, một xã hội mà ngay trong đó đã có người phán xét...
    • "thấy đám thanh niên sống không mục đích, hay với mục đích độc nhất là sự chơi bời phóng lãng thì em ghê sợ... cho họ quá, và tiếc cho họ nữa... Những bực thanh niên trí thức như anh Đoan em mà chịu khó làm việc, làm việc với lòng tín ngưỡng thì... hay biết bao, có ích cho đồng bào biết bao?"[6].


    Những nhà luân lý đã từng nói đến những truyện của Sagan thời hậu chiến vô luân, mà có ai nhớ đến rằng, chính đời sống vô luân, cảnh chồng chung vợ chạ, cảnh đề cao thú vui xác thịt đã có trong tác phẩm Khái Hưng từ thời tiền chiến ở Việt Nam.

    Trình bày câu chuyện Băn khoăn của Khái Hưng tới đây, tôi ngưng lại để trở về nhận định tôi đã đưa ra: vì sao người trí thức Tây-học đã thất bại trong giai đoạn vừa qua khi lãnh đạo tranh đấu.

    Lớp trí thức mới sinh ra sai khi tinh thần Văn-Thân khởi nghĩa đã hết, sau khi lớp trí thức Nho học đã tàn, và người Pháp đã mang văn hóa Tây-phương vào đào tạo một lớp người mới. Từ tình thế lụn bại của tinh thần quốc gia đó, người trí thức Tây-học chạy theo ngay, hạ bệ cái cũ một cách tàn tệ, kịch liệt, và cái mới chói lòa trước mắt làm họ không nhìn thấy gì nữa. Họ du nhập đơn phương, không lựa lọc, không nhìn chính vào mình. Họ lên án nhà Nho câu nệ khuôn bó theo Khổng-học, thì chính họ lại bước theo con đường đó để đến với Tây-học, và tạo ra một lớp trí thức mất gốc, rơi vào cái thực trạng mà cuốn Băn khoăn của Khái Hưng đã phản ảnh. Với lớp người như thế, với tư tưởng như thế, họ làm sao không thất bại, phải chăng, đó chính là điều "băn khoăn" của Khái Hưng?

    Lỗi lầm của lớp trí thức Tây-học từ ngay lúc đầu đã gây ra, đưa đến hiện trạng này, và ngày nay,lớp thanh niên mới,với bài học cũ của lịch sử, đã nhận ra chưa trách nhiệm của mình từ ngay trên căn bản tư tưởng trong cuộc dấn thân mà họ phải thực hiện. Hay họ đang tiếp tục đi trên con đường mòn nối dài khi xưa mà họ cố tình làm ngơ như không biết?

    Nhưng tôi vẫn tự hỏi:
    • vì sao giữa lúc bước chân vào cuộc tranh đấu cách mạng mà Khái Hưng lại viết được Băn khoăn?
      Không hề có ảnh hưởng giữa đời sống và tư tưởng tác giả với tác phẩm sao?



    Dương Nghiễm Mậu (11-1964)
    Văn, số 22, ngày 15-11-1964, trang 33-39





    [1] Băn khoăn, Khái Hưng, bản in lần thứ ba, Phượng Giang, Sài-gòn, 1958, trang 16
    [2] Sách đã dẫn, trang 44.
    [3] Sách đã dẫn, trang 268.
    [4] Sách đã dẫn, trang 13.
    [5] Sách đã dẫn, trang 50.
    [6] Sách đã dẫn, trang 86.
    nguồn:
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          



Mùa xuân chín
______________________
Hàn Mặc Tử

          

Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý - Bóng xuân sang.

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây.

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng:
- "Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?"


          

          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Sài Gòn, văn hóa của báo Tết
    _________________________
    Viên Linh



    Giữa tháng 11 miền Nam Cali mưa xuống vài cơn lấm láp đường sá, người vô tâm lắm cũng phải tự hỏi mình: sao lại mưa thế này? Ngó tấm lịch trên bàn – từ lâu rồi ít thấy ai treo lịch trên tường – mới hay ngày Lễ Tạ Ơn đến rồi, nghĩa là Giáng Sinh đã cận kề, và Tết đang đến.
    Tết đang đến, mấy chàng làm báo hẳn đã bắt đầu lo Giai Phẩm Xuân; hay lo báo Tết. Và tự hỏi, Tết năm nay là Tết con gì, báo Tết năm nay là báo Tết thế nào đây? Tức là lo bộ mặt của báo Tết, nội dung của báo Tết, hình thức của báo Tết, khuôn khổ của báo Tết, dày hay mỏng, to hay nhỏ… Tức là vấn đề văn hóa của báo Tết.

    -Báo Tết mà cũng có văn hóa riêng sao?
    Tết năm nay văn hóa Tết của nó như thế nào?

    Báo có nhiều loại lắm, chẳng hạn báo chửi, báo chợ, báo thương mại, báo chính trị, báo phụ nữ, báo thiếu nhi, báo sáng tác, báo cóp nhặt, báo giấy, báo ôn lai, báo lên mạng, báo mang liệng, v.v… từng ấy loại báo, vậy các loại báo ấy mà ra báo Tết, họ có văn hóa báo Tết không?
    Ðương nhiên là phải có, còn có thế nào lại là chuyện sau Tết mới có kết quả.

    -Bây giờ còn cả hai tháng mới đến Tết Con Gà, nhà anh thất nghiệp hay sao mà ngồi đó bàn tán linh tinh?
    Tết Con Gà thì có văn hóa của con gà, văn hóa của loài gà là gì thì dễ quá, chỉ khác biệt nhau mà thôi, như văn hóa gà đi bộ, văn hóa gà trong chuồng vẫn gáy, văn hóa gà Tây, văn hóa gà què, như gà què ăn quẩn cối xay,…

    Viết lan man như thế người đọc có thể nghĩ tác giả đang vui?
    Không, người viết đang rất buồn. Người viết đang nhớ đến những ngày đã mất, những ngày Sài Gòn làm báo Tết. Ðúng ra, làm Giai Phẩm Xuân, vì báo Tết trước hết phải mang không khí mùa Xuân mới, phải màu sắc rực rỡ ấm nồng, phải là một giai phẩm, giai là đẹp, phẩm là có giá trị, ở đây là giá trị Tết, để nó khỏi trở thành báo dùng cho cả bốn mùa. Ngày Xuân ngày Tết, bên cạnh bánh chưng bánh tét, bên cạnh hoa đào hoa mai, trên mặt bàn bên ly rượu, tách trà, cần màu sắc thanh xuân. Ở trong tôi, những tờ Giai Phẩm Xuân giá trị của miền Nam loáng thoáng còn nhớ trong tâm tưởng.

    • Xuân Tiếng Dội, Xuân Tiếng Chuông, Xuân Tia Sáng của báo Nam.
      Xuân Tự Do, Xuân Nghệ Thuật, Xuân Khởi Hành của báo Bắc.





    Ký giả Diệp Văn Kỳ (1895-1945), chủ nhiệm Thần Chung.
    (Hình: Viên Linh cung cấp)


    Ký giả Diệp Văn Kỳ và báo Thần Chung

    Ông Diệp Văn Kỳ (1895-1945) thuộc dòng dõi danh sĩ Diệp Văn Cương người Sa Ðéc (cha ông vốn cùng nhóm du học sinh Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản là du học sinh Việt Nam ở Alger thời đất nước thuộc Pháp) – mẹ thuộc Hoàng tộc – du học Pháp tốt nghiệp cử nhân Luật rồi mới về nước.
    Diệp Văn Kỳ không thực thụ hành nghề Luật mà nghiêng về ngành báo chí, mở Hội Khuyến Học đào tạo mở mang cho lớp trẻ, và tổ chức nhiều cuộc diễn thuyết cũng trong chí hướng canh tân xã hội, phát triển văn hóa Việt Nam, và chống chính quyền do ngoại bang điều hành. Tờ báo đầu tiên của ông là Ðông Pháp thời báo, ra ba số mỗi tuần. Chính trong dịp này nhà thơ Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu từ Bắc vào Sài gòn, cộng tác với Ðông Pháp, và ông Diệp Văn Kỳ nổi danh là người hào phóng, trọng sĩ, khi tặng cho thi sĩ nghèo 1,000 (một ngàn) đồng Ðông Dương. Cuộc cộng tác Nam-Bắc trong làng báo được dư luận truyền tụng rất tốt đẹp.
    Tờ Thần Chung của Diệp Văn Kỳ xuất hiện năm 1929, nhưng bị đóng cửa sau vài năm. Nhóm các nhà báo tranh đấu chống đô hộ Pháp gồm Diệp Văn Kỳ, Bùi Thế Mỹ, Ðào Trinh Nhất bị Pháp trục xuất khỏi Nam kỳ, kẻ ra Bắc, kẻ về Trung. Nhưng một năm sau lệnh trục xuất được rút lại, các nhà báo tiền bối bất khuất lại tiếp tục tranh đấu, nhưng Diệp Văn Kỳ bị ám sát chết năm 1945 ở Củ Chi. Trước sau ông xuất bản hai tờ báo, Ðông Pháp và Thần Chung, không tờ nào sống lâu trên thực tế, nhưng danh tiếng lại trường cửu.

    Trong cuốn “Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy tới 1930,” (1) hai tờ đó được ghi vắn tắt như sau:

    • Ðông Pháp Thời Báo:
      Cơ quan thông tin và thời sự, tuần 3 kỳ, sau đó thành nhật báo.
      Chủ bút: Nguyễn Kim Ðính, rồi Diệp Văn Cường.
      Năm I, số 1, 2-5.1923, Saigon. BN (Jo 93.859) BST từ 2-5.1923 đến 31.12.1927.
    • Thần Chung:
      Nhật báo thông tin và chính trị, cơ quan chống chính quyền.
      Chủ nhiệm: Diệp Văn Kỳ. Chủ bút: Nguyễn Văn Bá.
      Năm I, số 1, ngày 7.1.1929 – 22.3.1930, Saigon. BN (Jo 95.077) BST từ 8.1.1929 đến 22.3.1930


    Tờ Thần Chung vào thập niên 50 được tục bản tại Sài Gòn.





    Bìa giai phẩm Xuân Thần Chung năm 1954
    cảnh phụ nữ miền Nam và đồng lúa, hoa mai, hình của Phạm Công Luận.
    (Hình: Viên Linh cung cấp)


    Bìa báo Xuân miền Nam trước hết là một họa phẩm.

    Bìa báo Xuân miền Nam không phải là một ảnh chụp tự thân, mà là ảnh chụp một tấm tranh. Một thời gian dài trước Tết, các họa sĩ nổi tiếng đã được các báo liên lạc, đặt vẽ tranh báo Xuân, và những cái bìa này sau đó, sau Tết, thường được người ta cắt ra, lộng kiếng treo lên, hay ít ra cũng được dán lên vách tường, vách quán.
    Có thể nói người họa sĩ ăn khách nhất vào mỗi mùa Xuân là họa sĩ Lê Trung, đến nỗi không cần đọc tên, chỉ nhìn bìa báo Xuân, người ta biết ngay ai là người vẽ tấm tranh đó: Lê Trung. Chín phần mười là tranh phụ nữ, và đó là một phụ nữ đẹp mỹ miều, gợi cảm, với tấm thân nở nang, ngực áo căng, đôi môi mọng, lông mày lá liễu đen mượt, cái nhìn trong sáng. Những tờ báo nổi danh miền Nam thường là phải in tranh bìa Lê Trung, từ Tiếng Dội của Trần Tấn Quốc tới Tiếng Chuông của Ðinh Văn Khai, và vô số những báo khác, nếu họ không mua được hình các cô đào thượng thặng như Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng, Mộng Tuyền, thì cần có tranh Lê Trung. Ông vẽ nhan sắc diễm lệ, song tranh ông không vì thế mà bị xếp loại chung chung, nó vẫn là tranh giá trị.

    Lê Trung tên thật là Lê Toàn Trung, người Châu Ðốc, từng theo học trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Ðông Dương năm 1938. Tôi phải mượn lời tả của một người bạn trẻ từng phỏng vấn họa sĩ Lê Trung mới lột được hết vẻ đẹp phụ nữ miền Nam trong tranh bìa báo xuân của ông họa sĩ này:

    • “Tranh của Lê Trung được chú ý nhiều nhất là vẽ thiếu nữ với nét đẹp diễm lẽ, sóng mắt ướt rượt, ngực nở, eo thon, hừng hực sức sống như cây trái miền Nam. Giới bình dân ở Sài Gòn, người dân miền Tây Nam bộ đặc biệt mê tranh bìa báo Xuân do Lê Trung vẽ. Tranh của ông đứng hẳn riêng một góc… Dạng tranh này có sức sống thật sự đến nỗi cho đến nay nhiều người còn nhắc đến để nhớ về một dĩ vãng êm đềm của thập niên 1950 lúc vừa thoát khỏi chế độ thực dân và chiến tranh chưa lan rộng.” (2)


    Báo Tết hay Giai Phẩm Xuân do đó là một sản phẩm văn hóa, bắt đầu từ cái bìa. Chưa kể nội dung, các mục, các tác giả, nó là bộ mặt và thông điệp hàng năm của của một tờ báo theo ý riêng của người viết bài này.


    Viên Linh
    23-11-2016

    ________________
    (1) Lịch sử báo chí Việt Nam, Huỳnh Văn Tòng, Trí Ðăng, 1973.
    (2) Sài Gòn chuyện đời của phố, Phạm Công Luận, Văn Hóa Văn Nghệ, 2015.
Trả lời

Quay về “Chuyên đề”