Nguyễn Cao Kỳ, con người của thời cuộc
Đã gửi: Thứ hai 18/04/22 13:43
-
Bài nói chuyện của Tướng Nguyễn Cao Kỳ
tại Đại Học DeAnza, Cupertino, California
________________________
LTS:
Quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam đang ấm dần lên qua vấn đề Biển Đông, ĐCV đăng tải lại bài phát biểu của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ tại Đại học DeAnza, trong cố gắng thuyết phục Hoa Kỳ bắt tay với CSVN ngăn chặn Trung Quốc, gây nhiều tranh cãi trước đây.
Lời người dịch:
Ngày 13 tháng 6 năm 2003, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ được giáo sư John K. Swensson, Khoa truởng Khoa Ngôn Ngữ của trường Đại Học DeAnza, Cupertino, California mời nói chuyện về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Nhân cuộc hành trình của Tướng Kỳ gây nhiều sôi nổi trong cộng đồng, tôi phiên dịch bài diễn văn này ra quốc ngữ để cống hiến bạn đọc. Hy vọng các bạn đọc sẽ chia sẻ đuợc tâm ưu của Người Lính Già Nguyễn Cao Kỳ, có cái nhìn xa về thời cuộc mà phải hứng chịu nhiều hiểu nhầm của dư luận ngày hôm nay. Ông ta đã chiến đấu và đã không ngừng mưu cầu cho dân tộc có một tương lại tươi sáng hơn.
Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ
Trước tiên, tôi xin cảm ơn các bạn sinh viên và quý trường đã cho tôi có dịp để chia sẻ vài cảm nghĩ của tôi. Đặc biệt xin cảm tạ bà Martha Kanter và ông Khoa truởng John Swenson đã có nhã ý mời tôi đến nói chuyện hôm nay.
Vào tháng Tư của 27 năm truớc, sau 20 năm chống trả anh dũng, Miền Nam Việt Nam đã rơi vào tay kẻ thù. Bao biến đổi từ đó. Nhiều nguời trong số các bạn chưa ra đời; với những người nào còn nhớ lại ngày đen tối đó, những nguời mà sau bao năm tháng, thời gian đã in hằn trên khuôn mặt những nếp nhăn và tóc đã điểm mầu sương khói, đã bảo toàn danh dự trong những giờ phút khó khăn, không làm mất đi lý tưởng mà các bạn theo đuổi. Các bạn đã trưởng thành, sự hy sinh và nhiệt huyết của tuổi trẻ đã mang lại sự thành công và trách nhiệm ở những địa vị xứng đáng trong xã hội Mỹ. Còn đối với tôi, như các bạn thấy, tôi không còn khoác khăn quàng tím, mặc áo bay đen, lưng đeo súng lục. Tôi đã chôn tất cả dưới đáy rương, kỷ vật của một thời quá khứ. Cuộc chiến đã lùi dần vào lịch sử, sự thất bại về dân chủ ở Việt Nam đã để lại những dấu ấn trong lương tâm của hai quốc gia. Những câu hỏi đặt ra từ năm 1975 vẫn chưa được giải đáp thỏa đáng. Làm sao với một đồng minh Mỹ vô địch về kinh tế, chính trị và quân sự cộng thêm sự hỗ trợ của các nước đồng minh khác mà Nam Việt Nam lại bị đánh bại bởi một quân đội lạc hậu, nghèo đói của Bắc Việt? Hôm nay tôi xin đưa ra những câu trả lời về vấn đề này.
Thưa qúy vị,
Sử liệu của Hoa Kỳ thường cho rằng sự thất trận xảy ra vì cuộc chiến thiếu chính danh, vì chính phủ và quân đội Miền Nam tham nhũng, vì lính Nam Việt hèn nhát, vì Mỹ bỏ rơi Nam Việt vv… Tuy nhiên, không một điều kể trên được chấp nhận như một định nghĩa đúng. Tôi muốn nói: “Chúng ta thất trận vì hai lý do. Vì bang giao giữa Mỹ và Nam Việt không đồng nhất, không quân bình, đôi khi trịch thượng. Và cũng bởi vì chiến lược của chúng ta là chiến tranh tự vệ, một chiến thuật tự nó đã đưa đến sự thất bại và sau cùng là sự thất trận”. Làm sao điều này đã thật sự xảy ra? Là một nguời sinh ra và lớn lên trong cuộc chiến, một nguời đã từng tham dự và chỉ huy, đã chứng kiến và chia sẻ sự khổ đau của dân tộc và nhân dân tôi, tôi sẽ cố trình bày một cách khách quan về những sự kiện và những nhận xét đã đưa tới câu tuyên bố táo bạo này. Đêm nay, thật là khó khăn khi phải trực diện nó, các bạn sẽ nghe được những sự thật mà các bạn chưa bao giờ nghe và tôi tin là các bạn sẽ đồng ý với lời kết luận của tôi.
Sau hiệp định Genève 1954, Việt Nam bị chia đôi. Trên giấy tờ, Bắc và Nam Việt Nam là hai quốc gia song sinh được sinh ra cùng một thời điểm. So sánh với Miền Bắc qủy quyệt, thì Miền Nam chỉ là một đứa trẻ thơ dại. Có nghĩa là từ nhiều năm, trước khi có sự chia đôi đất nước, Hà Nội đã chứng tỏ là một thực thể chính trị đáng nể sau khi đã tham dự hàng loạt các hội nghị quốc tế và theo đuổi cuộc chiến tranh du kích chống Pháp. Hồ Chí Minh đã có tiếng vang trên chính truờng quốc tế qua sự lãnh đạo cuộc chiến chống thực dân Pháp. Chính quyền Hà Nội nắm quyền lực với một thành tích là đánh đuổi ngoại xâm và tranh đấu cho quốc gia độc lập. Họ tự cho họ là những nguời giải phóng nhân dân. Lúc đầu, họ nhận được sự ngưỡng mộ và thiện cảm của đa số các nuớc “bị trị” thuộc Khối Không Liên Kết của Thế Giới Thứ Ba, dĩ nhiên sẽ đối nghịch với những nước giàu có như Pháp và Hoa Kỳ. Bắc Việt còn được sự yểm trợ tối đa của hai siêu cường cộng sản là Nga Sô và Trung Cộng. Điều này đã làm họ tuyệt đối tin tưởng là cuối cùng họ sẽ thắng. Tôi muốn đào sâu vấn đề hơn.
Ai cũng hiểu là nếu không có sự giúp đỡ vĩ đại của các siêu cường Cộng Sản, Bắc Việt không thể kéo dài cuộc chiến xâm lăng trong nhiều năm được. Nga Sô và Trung Cộng rất kín đáo về sự trợ giúp của họ. Trong suốt cuộc chiến, không một viên chức Nga hay Trung Cộng nào có lời tuyên bố can thiệp lộ liễu vào nội bộ của Bắc Việt. Trái lại, những nhà lãnh đạo Bắc Việt luôn luôn đuợc đẩy ra ngoài ánh sáng quốc tế, đuợc trình diện như những người theo chủ nghĩa Dân Tộc, những nhà ái quốc, những nhà tranh đấu cho chính nghĩa, lật đổ đế quốc thực dân và tư bản hầu giải phóng nhân dân Việt ra khỏi ách thống trị. Chẳng bao lâu bộ mặt Mác-Lê bị lật tẩy, Hà Nội cũng bị mất cảm tình chút ít trên thế giới, nhưng sự ngưỡng mộ vẫn còn. Nếu họ không còn có chính nghĩa là đánh đuổi thực dân nữa, đối tượng để tranh đấu chính trị sẽ không còn, thì họ chẳng còn gì để mà tranh đấu.
Về phía Miền Nam, sự việc khác hẳn. Nam Việt phải xây dựng từ số không, và ngay từ đầu đã lệ thuộc quá nhiều vào các siêu cường Tây Phương. Thí dụ như một người sống nhờ vào tiền an sinh xã hội, càng ngày càng lệ thuộc vào sẽ khó dứt bỏ đuợc. Trong những năm của thập niên 50, những hoạt động chính trị và quân sự ở Việt Nam đã chịu ảnh hưởng nặng nề của Pháp, một ông chủ thực dân, về tất cả những quyết định quan trọng. Nguời Pháp đưa ông Bảo Đại ra làm Quốc Trưởng, vị vua cuối cùng của Triều Nguyễn dưới thời bảo hộ Pháp. Tất cả nội các của ông Bảo Đại đều là những người có thời liên hệ với Pháp. Họ không được sự ủng hộ của quần chúng trong nuớc. Chỉ khi ông Ngô Đinh Diệm xuất hiện thì Nam Việt mới có một thể chế và lãnh đạo xứng đáng. Rất tiếc là sau vài năm ngắn ngủi, chính quyền Nam Việt Nam bị băng hoại vì sự áp dụng độc tài gia đình trị. Nhưng so với sự độc tài đảng trị của cộng sản Việt Nam thì sự độc tài ở Miền Nam không thể nào sánh bằng. Khi ảnh hưởng của Pháp bắt đầu mờ dần, sự xuất hiện của Mỹ đã trực tiếp ảnh hưởng hàng ngày vào những quyết định của Nam Việt Nam, thì một vị Tổng Thống có tinh thần quốc gia cấp tiến mà cứng đầu như ông Diệm bắt buộc phải bị lật đổ.
Thưa các bạn,Bang giao giữa Mỹ và Nam Việt Nam chưa bao giờ thể hiện được bình đẳng trong sự hợp tác. Cuộc chiến trở thành “cuộc chiến tranh của Johnson” thay vì chúng ta chiến đấu cho tự do và độc lập. Từ quan niệm trên mà Nam Việt Nam chỉ được xem như là một tiền đồn để chống chủ nghĩa cộng sản. Cuộc chiến đấu giành tự do của chúng ta là một việc cao qúy nhưng chúng ta không cho đó là vấn đề chủ yếu để giải thích cho dân chúng Mỹ và Việt Nam hiểu rằng đây không phải là một cuộc nội chiến giữa chính quyền và quân phản loạn ở Nam Việt Nam, mà là một sự xâm lăng trắng trợn một quốc gia Nam Việt Nam bởi một quốc gia khác có tên gọi là Bắc Việt Nam. Vào giữa thập niên 60, Hoa Kỳ đã đổ nửa triệu quân vào Miền Nam. Mười tỷ đô la đã đổ vào để sử dụng cho quân đội và viện trợ kinh tế, và còn nhiều số tiền lớn khác được chi ra. Sự hiện diện của Hoa Kỳ được thấy rõ trong nhiều lãnh vực hoạt động, ở bất cứ một giai tầng nào trong chính phủ. Ngay cả trong giai cấp lãnh đạo, kể cả Tổng Thống, cũng được chỉ định một vị cố vấn đặc biệt. Sự có mặt và ảnh huởng của Mỹ thật là quá rõ rệt. Nhiều đến nỗi một nguời dân Việt ở ngoài phố đã thốt lên rằng “Ông Đại sứ Mỹ là Quan Toàn Quyền giống như dưới thời Pháp thuộc”. Ảnh hưởng của báo chí và chính giới Mỹ còn tệ hại hơn nữa, luôn luôn muốn nhấn mạnh vai trò của người Mỹ tại Việt Nam, họ đã biến chiến tranh Việt Nam thành một sự đối kháng giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt, đẩy nhân dân, chính phủ và quân đội của Nam Việt vào vai trò phụ. Điều này càng được khuyếch đại bởi bộ máy tuyên truyền của cộng sản quốc tế. Vì thế chính quyền Nam Việt Nam dưới con mắt nguời dân trong nuớc và cả thế giới đã trở thành một chế độ bù nhìn được dùng cho quyền lợi của tư bản Mỹ. Hậu quả là mặc dù chúng ta có chính nghĩa, nhưng chúng ta không bao giờ có được một chính danh cần thiết để được lòng nhân dân, một yếu tố tối cần thiết cho sự chiến thắng.
Thưa các bạn,
Chúng ta đều hiểu rằng trong chiến tranh, yếu tố chính trị và quân sự phải hỗ tương. Điều này rất đúng tại Việt Nam. Không những chúng ta bị thất lợi về chính trị mà chúng ta còn áp dụng một căn bản sai lầm trong binh pháp khi chúng ta chọn chiến đấu trong một trận chiến giới hạn và tự vệ. Hải Quân và Không Quân hùng mạnh của Hoa Kỳ đã không được dùng để tấn công vũ bão vào lực luợng địch, buộc họ phải qui hàng, như đã xảy ra trong cuộc chiến Vùng Vịnh và Afghanistan. Hoa Kỳ đã không thi triển sự chớp nhoáng của Không Quân chiến luợc hay sự hùng hậu của Đệ Thất Hạm Đội để tiêu diệt những căn cứ địch, để ngăn cản đường tiếp tế trên bộ cũng như trên biển, để phong tỏa những hải cảng của địch.
Vì phải chiến đấu trong một cuộc chiến giới hạn và tự vệ, Hoa Kỳ đã cho phép kẻ thù liên tục tiếp tế cho quân lính họ ở chiến truờng. Những chính trị gia của Hoa Kỳ vì e ngại Trung Cộng sẽ can thiệp và gây ra một cuộc chiến Triều Tiên khác. Nước Mỹ đã và đang có một Hải Quân hùng mạnh nhất thế giới, nhưng vì sợ mích lòng Nga, đã không chịu phong tỏa Hải Phòng. Hàng tấn vũ khí đã đưa qua hải cảng này để chuyển vào đánh Nam Việt và các đồng minh.
Đã từ lâu, trước khi Hoa Kỳ quyết định ngưng chiến, tôi đã nhận thấy sự thất bại là một kết quả không thể tránh được khi mà Hoa Kỳ thiếu quyết tâm chiến thắng. Tôi đã yêu cầu tình nguyện lãnh đạo một cuộc “Bắc Tiến”. Tôi chỉ đòi hỏi Hoa Kỳ một điều kiện duy nhất là họ sẽ yểm trợ về Không Lực vì quân đội Hoa Kỳ cũng đã có mặt ở Miền Nam để bảo vệ những nơi đông dân cư. Mục đích của tôi không phải là để xâm lăng Miền Bắc, mà chỉ để ép buộc Hà Nội phải rút quân từ phía Nam về để chống đỡ và từ đó sẽ đưa đến thương thuyết hòa bình.
Các bạn cũng như tôi có thể không phải là nhà chiến lược giỏi, nhưng chúng ta cũng phải biết là “Tiên hạ thủ vi thượng sách”, ngay cả lúc chúng ta ở thế bị động. Cái được gọi là chiến dịch “truy kích và tiêu diệt” cũng chỉ được dùng trong ranh giới của chúng ta. Căn cứ địa của địch vẫn luôn luôn là hậu cứ an toàn. Địch đã dùng các nước lân bang như Lào và Campuchia để làm trạm giao liên, căn cứ tiếp liệu và trung tâm dưỡng quân của họ.
Những tuớng lãnh của địch đã áp dụng một kế hoạch hành động là luôn luôn chủ động mở cuộc tấn công. Khi quân mạnh thì họ tấn công, khi họ suy yếu hay mệt mỏi thì họ rút lui về hậu cần để nghỉ ngơi, để an dưỡng và tái phối trí.
Bên phía chúng ta, dân chúng Mỹ đã chờ đợi quá lâu mà không thấy ánh sáng cuối đường hầm, họ đã mất kiên nhẫn. Họ đòi hỏi phải có chiến thắng huy hoàng, một điều không thể nào thực hiện được trong tư thế hoàn toàn bị động của chúng ta. Tinh thần quân lính xuống thấp vì họ bị buộc phải chiến đấu với đôi tay bị trói sau lưng. Mặc dù sự thật là địch đã bị đánh bại và tổn thất nặng nề, cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 đã là một chiến thắng vẻ vang cho phe địch. Dù thua trên trận địa chiến, họ đã thành công trong việc chia rẽ chính quyền và quần chúng Hoa Kỳ, một yếu tố quan trọng trong chiến lược và đem lại khích động tối đa cho các phong trào phản chiến.
Tòa Bạch Ốc và Ngũ Giác Đài đã trực tiếp điều khiển cuộc chiến qua hàng ngàn dặm đường, đã chỉ thị những chính sách mâu thuẫn với những quyết định không ngừng đưa đến sự lúng túng của các đơn vị trưởng ngoài mặt trận. Việc ra lệnh trải bom B-52 của Tổng Thống Nixon lúc gần cuối cuộc chiến đã quá trễ và quá ít. Điều này chỉ dùng vào một mục đích duy nhất là ép buộc cộng sản phải ngồi vào bàn hội nghị tại Paris để Hoa Kỳ có thể sửa soạn một cuộc rút quân khỏi Việt Nam trong danh dự. Sau vụ Watergate, Hoa Kỳ như con thuyền không lái. Việt Nam đã bị bỏ rơi, trôi theo dòng định mệnh. Sự rã ngũ của Tháng Tư năm 1975 là một kết thúc không thể tránh đuợc. Điều chúng ta tiếc nuối nhất là nó đã kết thúc trong nhục nhã và bi đát.
Thưa các bạn,
Tham nhũng và khả năng chiến đấu của quân đội Nam Việt Nam là một trong những lý do được lý giải đưa đến sự thất trận. Dĩ nhiên là có sự tham nhũng ở Việt Nam. Nhưng xin các bạn hãy nêu lên tên của một quốc gia nào mà không có tham nhũng, kể cả những quốc gia dân chủ và xã hội tân tiến nhất. Vẫn biết rằng vì chiến tranh và nghèo đói, mức độ tham nhũng ở Nam Việt Nam có cao hơn mức độ trung bình của quốc tế, nhưng hãy cho phép tôi mở một dấu ngoặc ở đây để thông báo rằng cũng từ ngày làm chủ lãnh thổ Việt Nam thì cộng sản đã tự biểu lộ cho thấy họ cũng hăng hái trong trò chơi tham nhũng này. Ý chí chiến đấu của quân đội Nam Việt nếu các bạn nhìn vào đời binh nghiệp của tôi như một điển hình, các bạn sẽ thấy rằng những chiến công của tôi cũng không thua gì những quân nhân của các nước khác. Phải nói rằng đa số chiến hữu của tôi đều có một tinh thần chiến đấu cũng cao như tôi. Hãy nhìn vào con số thống kê các quân nhân tử trận, những người lính chiến đấu đã hy sinh trong suốt 25 năm chiến tranh, các bạn phải công nhận họ là những người xuất chúng nhất của chúng ta. Rất tiếc là họ đã không được dùng và được yểm trợ đúng mức, và họ đã bị bỏ rơi một cách nhục nhã.
Một vài nhà trí thức tự do thường chỉ trích chế độ Nam Việt là một chế độ độc tài quân phiệt. Thế kỷ vừa qua là một thế kỷ của quyền lực thực sự cai trị. Tất cả sự khác biệt về chủ thuyết và kinh tế đều được giải quyết bằng vũ lực. Sức mạnh của quân đội là một điều cần thiết cho việc bảo vệ chủ quyền, tự do, độc lập của một quốc gia. Ngoại trừ những nước tiên tiến đã có một quá trình dân chủ lâu dài, một đời sống hòa bình và thịnh vuợng, tất cả những nước nghèo đói, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá của Thế Giới Thứ Ba đều sống dưới một chế độ ảnh hưởng bởi quân đội cả.
Nam Việt Nam cũng không đi ra ngoài biệt lệ đó. Muốn Việt Nam vừa chống chiến tranh xâm luợc vừa xây dựng Dân Chủ là một điều không thực tế. Xây dựng dân chủ ở Tây phương, Anh quốc và Hoa Kỳ cần phải tranh đấu đến hàng trăm năm. Nhưng người Việt Nam chúng tôi chỉ có thể xây dựng dân chủ sau khi hoàn tất hòa bình và độc lập. Cho dù có hoàn tất đi chăng nữa thì dân chủ cũng không thể có ngay lập tức, mà phải xây dựng từng giai đoạn một để hòa nhịp với nếp sống văn hóa, xã hội và kinh tế của mỗi nguời dân. Chỉ trích Nam Việt Nam đã không xây dựng được một chế độ dân chủ để rồi lấy đó làm cái cớ để bỏ rơi Nam Việt Nam là một sự phản bội phũ phàng đối với một đồng minh đã đặt niềm tin vào lời nói của Hoa Kỳ.
Năm 1968, khi lực lượng cộng sản chọn ngày Tết để tổng tấn công vào những thành phố chính của Miền Nam, khi mà những nguời lính Nam Việt Nam bị bao vây và bị tràn ngập, họ đã kêu gọi các lực lượng đồng minh Hoa Kỳ đến yểm trợ hỏa pháo và phi pháo, thì những người Việt Nam chúng tôi chỉ gặp phải những lời giải thích bí ẩn bảo rằng không có một phi cơ hay trọng pháo nào sẵn sàng, hoặc là đơn vị cần phải chờ lệnh của thượng cấp. Khi đó tôi có thể nhìn ra từ phía nhà tôi, và thấy rằng hàng dãy phi cơ khu trục của Hoa Kỳ nằm án binh bất động. Tại sao đồng minh chúng tôi lại không tiếp cứu chúng tôi tức khắc khi chúng tôi kêu cứu? Chỉ có một điều để giải thích cho sự việc này là, có một nhân vật cao cấp nào đó trong chính phủ của Hoa Kỳ đã can thiệp vào vụ tấn công này, muốn nó sẽ thành công đến một mức độ mà nhà cầm quyền Nam Việt phải nhượng đất cho “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”, một cánh tay của quân xâm lăng Bắc Việt.
Trong thời gian Hòa Đàm Paris, ông Đại Sứ Mỹ Averell Harriman đã nhấn mạnh rằng “Mặt Trận Giải Phóng” phải được ngồi ngang hàng với Nam và Bắc Việt Nam. Ông ta đã từ chối không nghe lời phản đối của chính quyền chúng tôi.
Thưa các bạn,
Khuôn mẫu của Hoa Kỳ là tự do, cơ hội học vấn và kinh tế tài chính, là lối sống, là sự giàu sang và hoàn mỹ của một quốc gia và dân tộc đã đưa đến sự ganh tị trong các nước văn minh. Ngày nay, ở Việt Nam, con cháu của những người đã một thời chống Mỹ cách đây hai thập niên, tất cả đều yêu chuộng mọi điều thuộc Mỹ quốc. Cách đây vài năm, hàng ngàn cựu chiến binh Hoa Kỳ đã viếng thăm Việt Nam, đã được quần chúng đón chào và ngưỡng mộ. Khi Tổng thống Bill Clinton viếng thăm Việt Nam cách đây hai năm, mọi nguời dân từ Nam chí Bắc đều chen chúc nhau để được nhìn thấy ông. Bởi vì cho dù những nhà lãnh đạo ở Việt Nam có tuyên bố gì trong quá khứ đi chăng nữa thì đại đa số nguời dân Việt Nam (hiện giờ là 83 triệu) đều theo Mỹ cả. Hoa Kỳ tượng trưng cho một đời sống tốt đẹp hơn, cơ hội và hy vọng. Điều mà tất cả những nguời lính Hoa Kỳ và Nam Việt Nam trước kia đã chiến đấu để mang lại cho đất nước chúng tôi. Sự niềm nở đón tiếp ông Clinton hay những người Mỹ khác cũng vậy, là một bằng chứng cụ thể rằng những người chiến đấu cho dân chủ và tự do đã đứng ở phía chính danh.
Vì thế tôi muốn nói hôm nay với những cựu chiến binh Việt Nam, Hoa Kỳ, Úc, Tân Tây Lan, Thái, Nam Hàn và tất cả những người đã ủng hộ cho cuộc chiến vì tự do của chúng tôi, chúng ta không có gì để mà xấu hổ. Với ba mươi năm dưới sự cai trị tồi tệ của Đảng Cộng Sản đã chứng tỏ là chúng ta chống chế độ cộng sản là đúng. Do đó, chúng ta hãy bỏ qua mặc cảm tội lỗi, cái gọi là “Hội Chứng Chiến Tranh Việt Nam” và tự hãnh diện về chúng ta và những cố gắng của chúng ta. Thế giới đã thay đổi rất nhiều trong thập niên vừa qua. Những nước theo cộng sản ở Đông Âu đã từ bỏ chủ thuyết Mác-Lê và du nhập những nguyên tắc kinh tế thị trường vào kinh tế của quốc gia mình.
Tập đoàn cộng sản lãnh đạo ở Việt Nam đã qui tiên rồi: “Hồ Chí Minh đã mất, Phạm văn Đồng đã đi, Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ Chí Công đã mất. Ngay cả những nhà lãnh đạo cuộc chiến chống họ như ông Richard Nixon và ông Lyndon Johnson đều đã mất. Những nhà lãnh đạo Miền Nam như ông Ngô Ðình Diệm đã qua đời. Ông Nguyễn văn Thiệu đã chết. Ông Dương văn Minh cũng đã chết. Riêng chỉ còn mình tôi. Tôi là người cuối cùng. Và tôi muốn nói rằng đây là lúc mà thế hệ của tôi gọi là “nguời Việt chống Cộng” hãy bỏ quên đau buồn và thù hận để nhường buớc cho thế hệ trẻ hơn, những con em của chúng ta, có cơ hội mang người Việt Nam xích lại với nhau. Đây là thời điểm mà thế hệ của tôi nên chấm dứt kêu gọi hận thù.
Giống như hầu hết những người Việt chống Cộng khác, tôi là một chiến sĩ. Tôi chiến đấu hết mình và tôi rất hãnh diện về những điều mà tôi đã hoàn thành trong thời chiến. Tôi rất thương tiếc những đồng đội can đảm của tôi đã chết cho chính nghĩa tự do. Và tôi cũng thấu hiểu những anh chị em đã chịu đựng sự đau khổ dưới chế độ cộng sản. Tôi hiểu rằng họ đã chịu đựng nỗi khổ đau của cái gọi là trại tù cải tạo, rằng họ đã mất đi người thân, mất đi tự do cá nhân, mất đi cả nhà cửa và tài sản. Điều này thật bất công và đau đớn. Nhưng quá khứ đã qua. Chúng ta giờ đã quá già, tương lai Việt Nam không còn trông cậy vào chúng ta nữa. Hãy để cho thế hệ trẻ tự tìm ra hướng đi về tương lai mà không phải mang gánh nặng tạo ra bởi cha ông chúng. Đây là thời điểm để cho thế hệ chúng ta ngưng rao giảng sự thù hận và cay đắng. Có lợi gì để tranh cãi ai đúng, ai sai?
Do đó hôm nay tôi muốn nói, chúng ta, những người đã già, hãy bỏ qua một bên những sự thù hận. Nếu chúng ta không thể tha thứ thì chúng ta hãy quên đi. Chúng ta hãy để cho một thế hệ mới tự đi tìm con đường của họ, bởi vì Việt Nam sẽ chỉ phát triển khi có sự đoàn kết. Việt Nam đã đến lúc cần phải có những quyết định dứt khoát. Trung Hoa dường như muốn biến đất nước chúng ta thành một thuộc địa về kinh tế, một nguồn cung cấp tài nguyên, một thị truờng cho các hàng tiêu thụ. Việt Nam sẽ phải quay sang Trung Hoa vì đó là nguồn gốc của đa số di sản văn hóa hay là thiết lập một bang giao bền vững với Hoa Kỳ dựa trên mô thức của sự tương kính và hỗ tương quyền lợi kinh tế mà vẫn giữ được độc lập? Điều mà những thường dân mong muốn rất rõ ràng qua sự đón chào thân thiện với du khách Mỹ. Bây giờ mọi nguời đã biết là nguời Cộng Sản Việt Nam đã chết.
Đồng bào chúng tôi muốn bắt chước như Nam Hàn, Singapore, Đài Loan và Hồng kông. Họ muốn biến Việt Nam thành một tiểu long th̗ứ năm. Điều đó không phải dễ. Việt Nam phần lớn vẫn là một quốc gia nông nghiệp, vẫn cần sự giúp đỡ phát triển hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Vấn đề tham nhũng vẫn tồn tại, mặc dầu cuối cùng thì chính quyền Hà Nội cũng đã nhận thức đuợc điều gì phải làm để thanh lọc và giảm thiểu tham nhũng đến mức bình thường được quốc tế chấp nhận. Tôi tin tưởng rằng sự thay đổi của nền kinh tế và cơ chế của Việt Nam đã bắt đầu.
Sự hồi sinh kinh tế Việt Nam đã bắt đầu để có thể khuyến khích những người tị nạn trở về. Hơn ba triệu người trong chúng ta, hai phần ba ở Bắc Mỹ. Nếu so sánh với một người Việt Nam trung bình ở quê nhà thì chúng ta có kiến thức và nhiều khả năng chuyên môn hơn. Có nguời cho rằng giới trẻ sinh ra ở đây hay đã rời xa quê hương lúc còn nhỏ sẽ không muốn từ bỏ nếp sống thoải mái ở Mỹ, Gia Nã Đại, Pháp hay Úc. Nhưng tôi tin rằng có rất nhiều bạn trẻ mong muốn giúp nuớc nhà phát triển. Bao năm qua, tôi đã đi tới nhiều nơi trên đất Mỹ, gặp gỡ và thăm hỏi nhiều bạn trẻ, đã cho họ biết rằng họ là rường cột của tương lai Việt Nam, rằng đất nuớc cần đến khối óc và bàn tay của họ. Và tôi cũng vui mừng thông báo cùng các bạn là trong số những nguời trẻ mà tôi có dịp nói chuyện, nhiều người cũng có lòng yêu nuớc không kém ước vọng cá nhân, họ sẽ trở về quê nhà khi thấy có cơ hội để áp dụng sở trường của họ.
Những nguời Hoa Kỳ đến Việt Nam để tìm môi trường buôn bán sẽ nhận thấy một tình thế khác hẳn thời gian những quân lính đến vì chiến tranh. Họ sẽ không còn là những “Anh Hai” đến để giúp chiến đấu. Họ sẽ là những cổ phần viên, những nhà thầu. Nhưng để xây dựng cây cầu nối lại những hiểu lầm không thể tránh được giữa Đông và Tây sẽ là những người trẻ Việt Nam sinh trưởng hay theo Đại Học tại Hoa Kỳ. Trong vòng mười, mười lăm năm nữa, hầu hết những công ty thương mại thành công sẽ được quản trị bởi những người có kiến thức và tư duy theo kiểu Mỹ.
Tôi rất lạc quan về thế hệ lãnh đạo Việt Nam kế tiếp. Bây giờ thì Hiệp Uớc Thương Mại đã được phê chuẩn. Sự giao thiệp giữa hai quốc gia đã gia tăng. Những viên chức của Đảng Cộng Sản đã viếng thăm Mỹ quốc, tiếp xúc với nhiều người Mỹ, tôi tin tưởng rằng họ sẽ sớm thay đổi những điều luật kinh tế đã hạn chế Việt Nam mấy chục năm nay. Vì thể chế chính trị được xây dựng trên nền tảng luật lệ kinh tế, thay đổi luật lệ chính trị sẽ theo sau, việc quốc doanh nhường chỗ cho chủ nghĩa tư bản. Hậu quả sẽ lung lay tới mọi giai tầng xã hội, kể cả tư pháp và lập pháp. Hiện giờ đã có những chuyên gia và doanh gia hăng hái tham dự vào những quyết định hàng ngày của chính phủ. Một khi Việt Nam đã theo đường hướng tư bản, thì dân chủ và luật lệ sẽ đi theo. Chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam kéo dài chưa đầy năm mươi năm, nhưng khi chúng ta nhìn lại Việt Nam với bốn ngàn năm văn hiến thì sẽ thấy năm mươi năm chỉ là một nháy mắt. Tuy tôi không còn là một thanh niên, nhưng sức khỏe vẫn còn tráng kiện, hy vọng sẽ sống thêm nhiều năm nữa. Tôi muốn sống để nhìn thấy một nước Việt Nam tái sinh. Xin tất cả cá bạn giúp một bàn tay để điều này thành sự thật.
Thưa các bạn,
Để kết luận, cho phép tôi được nói là tôi rất sung sướng được hiện diện ở đây. Tôi sinh ra và lớn lên trong chiến tranh. Tôi đã chiến đấu bên cạnh các chiến binh Hoa Kỳ và đã cùng đổ mồ hôi, máu và nuớc mắt với nhau. Tôi lấy làm vinh dự được chia sẻ những nỗi vui, buồn của những nhà lãnh đạo đáng kính của quí quốc. Trong suốt hai mươi bảy năm sống đời tị nạn, tôi đã từng làm việc mười bốn tiếng một ngày trong một tiệm rượu, và tôi cũng đã từng là một ngư phủ sống trên biển hàng tuần để câu tôm cá. Tôi đã thấy các con tôi trưởng thành và tự lập và tôi cũng đã qua bao thăng trầm của cuộc sống. Điều an ủi lớn nhất trong đời tôi là lần đầu tiên ở nơi đất khách, dù trong hoàn cảnh nào, tôi luôn luôn được người Mỹ đón tiếp nồng nàn. Nước Mỹ đã cưu mang tôi và gia đình tôi trong suốt hai mươi bảy năm yên lành trên một đất nước thịnh vượng và hoàn mỹ nhất thế giới. Hoa Kỳ là quê hương thứ hai của tôi. Tuy nhiên, tôi quyết định một ngày không xa, tôi sẽ trở về chôn nhau cắt rốn, được sống và chết nơi quê nhà. Xin cảm ơn lòng tốt và bao dung của các bạn và nhân dân Hoa Kỳ. Thay mặt tất cả những người Việt Nam, tôi xin đa tạ 58 ngàn người Mỹ đã hy sinh bỏ mình cho tự do của dân tộc tôi. Tôi cũng xin tỏ lòng biết ơn hàng triệu người đã quên thân mình cho dân tộc tôi, những người đã gác bỏ ước vọng riêng tư để giúp đỡ những người khốn cùng mà không mong được trả ơn. Cảm ơn lòng can đảm, lòng vị tha và bao hy sinh đau đớn của các bạn.
Năm nay tôi đã 72 tuổi (năm 2003), một người lính già. Và như Douglas McAthur, một trong những danh tuớng của các bạn đã nói: “Người lính già không bao giờ chết, họ sẽ dần dần mờ nhạt đi thôi”. Trong những năm tháng còn lại, người lính già này luôn hướng về Việt Nam, quê cha đất tổ. Tôi xin dâng hiến phần đời còn lại để phụng sự cho quê mẹ và cho dân tộc tôi mà không có một tham vọng nào và không đòi hỏi một sự báo đáp nào. Tôi kêu gọi các bạn, nhất là các chiến hữu Hoa Kỳ của tôi, hãy giúp sức xây dựng một nhịp cầu thân hữu nối lại giữa hai quốc gia. Sự yêu thương hay thù hận hãy quên đi. Thù hận phải được thay thế bằng tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Cám ơn sự theo dõi của các bạn. Và bây giờ tôi xin trả lời các câu hỏi.
Người dịch: Nguyễn Lệ Hà
___________________________
Speech by Gen Nguyen Cao Ky,
13 Jun 2003 , De Anza College, Cupertino, California
Students, faculty, administrators and staff, I thank you for this opportunity to share a few thoughts. I am particularly indebted to President Martha Kanter and to Dean John Swensson for your kind invitation to speak today.
Twenty-seven years ago last April, after 20 years of heroic resistance, South Vietnam fell to the enemy. Much has happened since. Many of you were not yet born-but those who still recall that dark day, those to whom over the years time has added lines to your faces and gray to your heads, who served through those difficult times with honor-you have not lost the dedication to liberty inspired by your high ideals. You have matured, and the sacrifices and passions of your youth have given way to the rewards and responsibilities that accompany your positions of esteem in American society. As for me, as you can see, I am no longer wearing my purple scarf, my flight suit, my six-shooter. I have put them all away at the bottom of my trunk, memorabilia of a time past.
If the war has faded into history, democracy’s defeat in Vietnam has left deep marks in the consciousness of both nations. The questions asked since 1975 have yet to bring satisfactory answers. How could an alliance of the 25 million people and armed forces of South Vietnam with the colossal American political, economic and military apparatus, along with the forces of other allied nations, have been defeated by the small, impoverished people and army of North Vietnam?
Today I will offer my own answers to those questions.
LADIES AND GENTLEMEN:
American history books postulate that the war was lost because it lacked legitimacy, because of corruption in the government and armed forces of South Vietnam, because of the cowardliness of South Vietnamese troops, because America abandoned South Vietnam, and so forth. None of these, however, is accepted as definitive.
I say to you now: We lost the war for two reasons: Because of the ill-conceived, unequal, and often condescending relationship between the United States and South Vietnam.
And because our overall strategy was defensive war, a strategy that by itself would have led to failure and eventual defeat.
And how did this happen, exactly? As someone born and raised during that war, one who participated in and led it, who has witnessed and shared in the sufferings of his country and of his people, I will attempt to present as objectively as I can the facts and observations that lead me to such a bold statement. Tonight, as difficult as it may be to face them, you will hear facts that you have not heard before, and I trust you will share my conclusions.
LADIES AND GENTLEMEN:
After the 1954 Geneva international conference, Vietnam was divided into two parts. On paper, North and South Vietnam were twin countries born at the same moment. Compared to the sophisticated North, however, the government of South Vietnam was a very young and innocent sibling. To explain: Many years prior to the partition, through participation in a series of international conferences, and by pursuing a guerrilla war against a European power, the Hanoi leadership had demonstrated that they were a formidable political reality.
Through leadership of the fight against French colonialism, Ho Chi Minh had made a name for himself in the international political arena. The Hanoi government took power with a record of resistance against the colonialists and of struggle for national independence.
Claiming to be the liberators of the people, the North Vietnamese enjoyed from the beginning the admiration and sympathy of the majority of the Third World’s non-aligned nations, which suffers from “oppressed peoples’ complex” and are naturally against such mighty and wealthy countries as France and the United States.
Furthermore, the North Vietnamese had the full support of the two communist superpowers-the Soviet Union and Communist China-and this gave them absolute confidence in their final victory.
I would like to dwell a little on that support. We all know that without the massive assistance of the communist superpowers, North Vietnam could not have prolonged its war of invasion for so many years. But the Soviet Union and Communist China were very quiet about their aid. Indeed, during the entire war, no Soviet or Chinese official made any statement that sounded like instructions or smacked of interference in the internal affairs of North Vietnam. Quite the contrary. North Vietnamese leaders were always pushed into the international limelight, presented as nationalists, as patriots, as fighters in a noble cause, seeking to overthrow colonialists and imperialists, and to liberate the oppressed people of Vietnam.
When they were later revealed as Marxist-Leninists, the Hanoi regime lost some sympathy around the world, but continued to benefit from lingering admiration. If they no longer had a just cause-the expulsion of a colonial power-they maintained the appearance of legitimacy because they had no significant political opposition. They had none, because they had taken great pains to eliminate it.
In the South, however, things were very different. South Vietnam had to be built from scratch and, from the very beginning, depended far too much on the Western superpowers. As in the case of a person on public welfare, this dependency, which became greater with each day, was quite difficult to shake.
During the Fifties, political and military activities in Vietnam were heavily influenced by the French, who as recent colonial masters, made all-important decisions. The French installed as the first head of state Bao Dai, last emperor of the Nguyen dynasty that ruled Vietnam when it was under French domination. All the men selected to assist Bao Dai had a past that was closely linked with the French colonial era. They had no support among those they governed.
Only with the advent of Mr. Ngo Dinh Diem did South Vietnam have a worthy regime and a dignified leadership. It is regrettable that within a few short years, as power corrupts, the South Vietnamese regime deteriorated into a family dictatorship. But it was no match for the dictatorship of the communist party in the North. At a time when the French influence was fading and when the American presence was directly affecting even day-to-day decisions in South Vietnam, a stubborn radical nationalist like Mr. Diem was bound to be overthrown.
LADIES AND GENTLEMEN:
The relationship between the US and South Vietnam never appeared to be a partnership between equals. Instead, our struggle for freedom and independence became “Mr. Johnson’s War.”
From its inception, South Vietnam was only considered to be an outpost in the war against communism. Our fight for freedom was a noble undertaking, but we committed a major political blunder because we did not give top priority to explaining to the American and Vietnamese people that this was not a civil war between the government and rebels in South Vietnam, but a blatant invasion of the country of South Vietnam by another country, a country called North Vietnam.
By the mid-sixties, the United States had poured more than half a million troops into South Vietnam. Tens of billions of dollars had been spent for military expenditures and economic assistance, and even larger sums were earmarked. The American presence was felt in every field activity, at every level of government. Even the top leaders of South Vietnam, including the President, were each assigned a special advisor. The American presence and influence were strikingly blatant. So much so that the Vietnamese man in the street referred to the US Ambassador as the Governor General, as the French had called their top colonial official.
The influence of the American media and politicians was even more devastating. Always emphasizing the role of the Americans in Vietnam, they transformed the Vietnam war into a conflict between the United States and North Vietnam, relegating the people, the government and the armed forces of South Vietnam to a subordinate role. This situation was further misrepresented by the propaganda machine of international communists. The government of South Vietnam thus became, in the eyes of the peoples of Vietnam and of the world, a puppet regime serving the interests of American imperialists.
Consequently, although our cause was just, we never acquired the appearance of legitimacy necessary to win the hearts and minds of the people, an essential ingredient of victory.
LADIES AND GENTLEMEN:
We all know that in war the political and military factors have to complement each other. This was particularly true in Vietnam. We were not only politically at a disadvantage, but we also committed a basic blunder in military strategy when we chose to fight a limited and defensive war.
The might of the US Air Force and US Navy was not used in lightning attacks to force the enemy to his knees, as it was in Afghanistan and in the Gulf War. America did not unleash its vaunted Strategic Air Force or its massive Seventh Fleet to destroy enemy bases, to interdict their lines of supply on land and sea, to blockade enemy ports.
By fighting a limited, defensive war, America permitted the enemy to endlessly re-supply their field armies. American politicians were afraid that the Chinese might intervene and create another Korean war. The US was and is the world’s leading naval power, but, fearing to offend the Soviets, failed to blockade Haiphong. A river of munitions flowed through that port to be used against South Vietnam and its allies.
Long before America decided to quit the war, I realized that this would be the inevitable result of America’s lack of commitment to victory. I offered to lead a South Vietnamese attack on North Vietnam, which was defended by a single division of regular troops. All I required from the US was air support, and that US troops already in my country would defend population centers. My purpose was not to conquer, but to force Hanoi to withdraw its divisions from the South in order to defend the North, and thus to bring about genuine peace negotiations.
You and I may not be brilliant strategists, but we should all know that the best defense is a good offense. Moreover, even our defense was passive. So-called “Search and Destroy” operations were kept within our borders. Enemy territory was always a safe rear base. The enemy also used neighboring Laos and Cambodia to establish lines of communication, supply bases, recuperation centers for their troops. The enemy general staff had adopted a plan of action calling on them to always take the initiative. When their troops are strong, they would attack, but when they were tired and weak they would withdraw to their rear bases to rest, recuperate and regroup.
On our side, because the American people had waited too long without seeing the light at the end of the tunnel, they became impatient. They demanded glorious military victories, an impossible achievement in view of our totally defensive posture. Troop morale plunged because they were asked to fight with their hands tied behind their backs. In spite of the fact that they were beaten back and suffered great losses, the Tet offensive of 1968 was a major enemy victory. Even though they lost on the battlefield, they accomplished an essential strategic objective by breaking the resolve of the U.S. government and American people, and giving maximum impetus to the anti-war movements.
The White House and the Pentagon directly conducted the war from thousands of miles away, issuing contradicting policies with ever- changing directives that created confusion in commanders at the front. The B-52 carpet bombings ordered by President Nixon toward the end came too late and were too short-lived. They served only to pressure the Communists to come to the Paris peace talks so that America could prepare for an honorable withdrawal from Vietnam. After Watergate, America was a ship without a rudder. Vietnam was left to its own devices, drifting along towards its fate. The disintegration of April 1975 was an unavoidable conclusion. Our only regret and sorrow was that that ending was shameful and tragic.
LADIES AND GENTLEMEN:
Among the reasons apologies have advanced to explain the defeat was the corruption and the fighting capability of the troops in South Vietnam. Of course there was corruption in Vietnam. But please name one country, including the most democratic and the most advanced societies, where there is no corruption to take its toll. I recognize, however, that due to the war and poverty, the degree of corruption in South Vietnam was somewhat above the international average. But allow me to open a parenthesis here and report that, since taking over the control of all Vietnam, the Communists have shown themselves quite adept at the game of corruption.
Concerning the will to fight of the South Vietnamese troops, if you take my military career as typical for most of the fighting men of South Vietnam, you will find that my achievements will compare favorably to those of any other military man in any other country. I must say that the majority of my comrades-in-arms have the same spirit and the same fighting capability as I do. Look at the number of our soldiers killed in action. Consider the privations and the sacrifices of these South Vietnamese fighting men during 25 years of war, and you will have to recognize that they were our best and brightest. It’s too bad that they were not used and supported adequately, and that they were shamelessly abandoned.
LADIES AND GENTLEMEN:
Some liberal intellectuals used to criticize the South Vietnamese regime as a military dictatorship. The century just past is one in which sheer force always ruled. Every economic or doctrinal difference had to be resolved by force. Military strength is necessary to protect sovereignty, the freedom and independence of a country. With the exception of those advanced countries that had a long democratic tradition and were lucky to live in peace and prosperity, all the poor, backward, war-torn countries of the Third World lived under the direct influence of the army.
South Vietnam was no exception. To insist that Vietnam fight a war while at the same time building democracy was impractical. Building democracy in the West, in England and then in the United States, took centuries of struggle. We Vietnamese could only begin to build democracy after achieving peace and independence. And even then, democracy could not be achieved overnight, but must be built in stages and in harmony with the cultural, social and economic traditions of each people. To accuse South Vietnam of not establishing a democratic regime and to use that as an excuse for abandoning South Vietnam was a blatant betrayal of a trusting ally that had put all his faith in the word of America.
In 1968, when the communist forces chose the Lunar New Year, known as Tet, to launch a coordinated attack against major South Vietnamese cities, beleaguered and outnumbered South Vietnamese defenders called upon neighboring US forces for fire support, for air support, for troop support. We Vietnamese were met with cryptic explanations that no aircraft or artillery were available, or that the unit had to wait for instructions from high headquarters. I could look out of my house at this time and see rows of US fighter-bombers parked in revetments. Why did our allies not come to our aid immediately? There can be only one explanation, and that is that someone, high in the US Government, anticipated this attack, and wanted it to succeed to the degree where South Vietnam would have to cede territory to the NLF, which, as history has shown, was merely an arm of the North Vietnamese invasion force.
Nevertheless, during the Paris Peace Talks US Ambassador Averill Harriman insisted that the NLF be seated at the negotiating table as an equal to South Vietnam and North Vietnam. He refused to listen to my government’s pleas.
LADIES AND GENTLEMEN:
The idea of America – its freedom, its financial and educational opportunities, the lifestyle, wealth and beauty of the country and its people, remains the envy of the civilized world. In Vietnam today the sons and daughters of those who fought against American soldiers for two decades love everything American. Over the last few years, tens of thousands of American veterans have visited Vietnam and encountered a populace that welcomes and admires them.
When President Bill Clinton visited Vietnam two years ago, Vietnamese from Hanoi in the north to Saigon in the south turned out in droves, eager for even a glimpse of him. Because whatever Vietnam’s leadership may have said in the past, the great masses of Vietnamese people, now numbering 83 million, are for America. The US represents a better life, opportunity, hope – everything that American and South Vietnamese soldiers fought to bring to our country so many years ago. The tremendous outpouring of affection for Mr. Clinton, no less than for all Americans, is proof that those who fought for freedom and democracy were on the right side.
Therefore I say today that the veterans of that lost war, Vietnamese and Americans, Australians and New Zealanders, Thais and South Koreans and all the others who supported our fight for freedom – we have no cause for shame. Thirty years of misrule prove conclusively that we who opposed the Communist regime were right!
So, let us each now put aside our feelings of guilt, the so-called “Vietnam War Syndrome,” and be proud of ourselves and our efforts.
The world has changed a lot in the last dozen years. The formerly Communist nations of Eastern Europe have renounced Marxist dogma and adopted free market principles in their national economies. And the communist cadres who ran Vietnam for decades now sleep with their ancestors. Ho Chi Minh is gone. Pham Van Dong is gone. Truong Chinh, Le Duan, Vo Chi Cong – all dead.
And so are the American leaders who fought them: Mr. Richard Nixon and Mr. Lyndon Johnson – both gone. Of the leaders of the South, Ngo Dinh Diem is gone. Nguyen Van Thieu passed from this world. Duong Van Minh is gone.
Only I remain. I am the last.
And I say that it is now time for the so-called anti-Communist Vietnamese, my generation, to let go of our pain and anger, to allow the younger generation, our sons and daughters, to have their chance to bring Vietnam together. It is time for my generation to stop preaching hate and bitterness.
Like most of the old Anti-Communists, I am a fighter. I fought hard, and I take pride in what I was able to accomplish during the war.
I still mourn my brave comrades who died fighting for freedom. And so I understand how my brothers and sisters suffered under Communism. I know that they endured the agonies of the so-called re-education camps, that they lost loved ones, lost their personal liberty, lost their homes and property. It was unjust. It was humiliating. It was painful.
But our time has passed. We are now too old; the future of Vietnam no longer depends on us. It is only right that the new generation find their path to the future without having to carry the heavy burdens created by their parents. So it is time for my generation to stop preaching hate and bitterness. What is the point in arguing now about who was right and who was wrong?
So I say today, let us older people put aside our own feelings of pain and anger. If we cannot forgive, then let us forget. Let us allow the new generation to find its own way, because Vietnam will realize its potential only through unity.
Vietnam now approaches a crossroads. China seems to want to turn my country into an economic colony, a source of raw materials, a market for its manufactured goods. Should Vietnam turn toward China, source of much of its cultural heritage, or, by establishing an enduring partnership with America based on a new paradigm of mutual respect and shared interests, remain independent?
What most ordinary Vietnamese want is very clear from the friendly reception given to visiting Americans.
Now everyone knows that Vietnamese Communism is dead. The business of Vietnam is now business. My countrymen want to emulate South Korea and Singapore, Taiwan and Hong Kong. They want to turn Vietnam into the fifth Small Dragon.
This is not an easy task. Vietnam remains a largely agrarian nation that still needs to develop a modern infrastructure. The problem of corruption remains, though it appears that at long last the Hanoi government realizes what must be done to clean its house and reduces corruption to internationally accepted norms. I am confident that the transformation of Vietnam’s economy and institutions have already begun.
Vietnam’s economic rebirth has already begun to encourage many exiles to return. There are more than three million of us, two-thirds in North America, and compared to the average Vietnamese we are better educated and have superior skills.
While some worry that the younger generation, those born in exile or who left Vietnam as small children, may not want to give up comparatively easy lives in the US, Canada, France and Australia, I believe that many will want to help develop the land of their fathers. I have crisscrossed America for years, meeting and spending time with this younger generation, telling them that they are important to the future of Vietnam, that the country needs their brains and their hard work. And I am happy to report that among those with whom I have spoken, many young Vietnamese, motivated by patriotism no less than personal ambition, will return to their homeland when they see ways to employ their skills.
Americans who come to Vietnam to pursue business opportunities will find a much different situation than the soldiers who came during the war. They will not be big brothers come to help fight. They will be partners, contractors. Helping to bridge the inevitable misunderstandings between East and West will be the generation of Vietnamese born or educated in America. In ten or fifteen years, most successful Vietnamese enterprises will be run by those who have learned American techniques and American thinking.
I am optimistic about the next generation of Vietnamese leaders. Now that the trade agreement is ratified, there has been a sharp increase in contacts between the two countries. As Communist Party officials see more of America and meet more Americans, I am confident that they will see the wisdom of moving Vietnam toward the West. I believe that they will soon change the economic rules that have limited Vietnam for decades.
Because political systems are built on a foundation of economic rules, changes in political rule will follow as state ownership gives way to private capitalism. The effects will ripple through every corner of society, including the courts and the legislature. Already, bright technocrats and entrepreneurs have begun to make the day-to-day decisions of government and business. Once Vietnam embraces capitalism, democracy and the rule of law will follow.
Communism in Vietnam lasted less than 50 years. When you consider that Vietnamese culture is thousands of years old, that half-century is really not much more than a temporary pause, the blink of an eye. If I am no longer a young man, my health is good and I expect to live many more years. And so I believe that with the help of America, I will live to see Vietnam reinvent itself. I invite you to all to find ways to make that possible.
LADIES AND GENTLEMEN:
In conclusion, allow me to say that I am very happy to be here meeting with you. I was born and grew up during war. I have fought alongside American fighting men and women, and together with them I have shed blood, sweat and tears. I have been privileged to share many joys and sorrows with the remarkable men who were the leaders of your country. During my 27 years living in exile, I have worked years of 14-hour days in a liquor store, and I have been a fisherman who spent weeks at a time on the open sea to catch fish and shrimp. I have watched my children grow up and start their own families, and I have experienced enough ups and downs to last a lifetime.
My biggest consolation is that in what were at first alien surroundings, and under any circumstance, I have always been welcomed by Americans. You have accepted me and given me and my family 27 peaceful years in the wealthiest and most beautiful country in the world. Although I am determined to someday return to my homeland, and when my time comes, to return to the soil where my ancestors sleep, I accept America as my second home. I thank each of you for the abundance of kindness and courtesy that you and your countryman have extended.
And, on behalf of all Vietnamese, I thank the 58,000 Americans who so many years ago made the ultimate sacrifice in defense of my country’s liberty. I am equally grateful to the millions of others who risked life and limb for my country, who put aside careers and personal aspirations to come to the aid of desperate people that they did not even know. Thank you for your courage, your compassion, your many painful sacrifices.
I am 72 years old now, an old soldier, and as Douglas MacArthur, one of your most celebrated generals, has said, “Old soldiers never die, they just fade away.” In his fading years, this old soldier still yearns for Vietnam, the land of his ancestors. I offer the remaining years of my life to the service of my motherland and to my people without any ambition and without asking for anything in return. I am appealing to you and especially to my American comrades-in-arms, to try and build this bridge of friendship between our two countries. This love and hate affair has to end. Hate needs to be replaced with a new deep sympathy between our two people.
Thank you for your kind attention, and I will now take a few questions.
_____________________________
Vài Phản hồi cho “Bài nói chuyện của Tướng Nguyễn Cao Kỳ tại Đại Học DeAnza, Cupertino, California”
NguoiVN says:
12/08/2010 at 11:16
FREEDOM FOR VIETNAM
DEMOCRACY FOR VIETNAM
IT’S ABOUT TIME TO END THE COMMUNIST PARTY IN VIETNAM
IF YOU LOVE VIETNAM THEN STOP THE COMMUNIST PARTY AND GIVE FREEDOM AND DEMOCRACY TO ALL THE VIETNAMESE PEOPLE .
HS. TS. VN
nvtncs says:
12/08/2010 at 10:53
Nguyễn Cao Kỳ is a soldier of very limited political vision during the war, to be charitable.
In 2003, his appeal for cessation of hate and for “deep sympathy” between the two counties ( the word “sympathy” is incorrectly used, for it means two totally different emotions in English and in French ), again shows his naivete in international relations.
In international relations, there is no hate or “sympathy” or more exactly, friendship or morality. There are only national interests and temporary alliances towards the fulfillment of these interests.
To the American people and the American government, communism is the enemy of democracy. That was and is a tenet of their international policy.
If there is to be a temporary alliance between VN and the USA, it is to use VN’s blood and manpower to counterbalance and contain Chinese hegemony and encroachment in South East Asia. It is NOT because the USA have a “deep sympathy” for the communist government of VN.
The threat of China’s spreading towards Australia and Canada, two large countries, sparsely populated and rich in mineral resources is real.
Let us be clear: there is neither hate nor division between the VN people and the VN political refugees.
There is however a struggle for democracy and liberty for Vietnam, of which the fall of Saigon in the hands of the North Vietnamese communists in 1975, is but a brief episode.
That struggle continues today, tomorrow and for a long time in the far future given the lack of a free press, communist propaganda in VN, and a lack of democratic consciousness among the VN masses.
For 4000 of its history, VN only knew a very limited, very imperfect and very brief glimpse of democracy during the 1st and 2nd republics of South VN, totaling just 21 years. For the rest of the time, VN knew wars, 1000 years of Chinese colonization, 200 years of internal war, absolute monarchy, 80 years of French colonialism and 65 years of brutal communist dictatorship.
It is in reason of its long history spent in political wilderness that the struggle for democracy of the VN people must go on, today, against the communist party of VN which stood and stands in the way of democracy.
Some of us believe the people of VN deserve a better education, truth in information, and democracy as exists in America or Western Europe, no less.
The struggle against communism is carried out dispassionately, without hate or revenge, for if VN is to have a future, that future is not rooted in hate.
ddn says:
14/08/2010 at 10:48
Great response!
Democracy is the only answer. Only then, when the best and the brightest (elected by the people) run the government system, the people will have what they are promised for so long (the price they paid was and is still very high): “doc lap, tu do, hanh phuc”.
You’re absolutely right, the people deserve better.
No matter how much money or “sympathy” from abroad, as long as VN is run by a small group of millionaires (on the process of becoming billionaires), the people will have nothing.
ngan nam thang long says:
12/08/2010 at 09:56
From what I read in this talk, NCK is smarter than many ex-VNCH about US and know ahead what will happen then. May be ex-VNCH should learn from him
)
nvtncs says:
13/08/2010 at 10:09
“Nước Mỹ thật vô cùng may mắn khi đã có nhiều lãnh tụ tài ba .. ..”
Nước Việt Nam thật vô cùng may mắn khi đã có nhiều lãnh tụ tài ba”
Nước Việt Nam thật vô phúc khi những lãnh tụ tài ba bị CHÚNG NÓ thủ tiêu hết sạch.
“Việt Nam, qu’as tu fait de tes fils?”
———————————————-
The story of South Vietnam of 1975 when it fell under communist domination.
Chapter 1: Sous le signe du buffle favorable
Ch2 : Hanoi sape le credit de Saigon
Ch3: La campagne Ho Chi Minh
Ch4: Thieu s’efforce de garder l’initiative politique
Ch5: La colere des generaux humilies
Ch6: Le bombardement du palais presidentiel
Ch7: Le pere Thanh:croise de la purification
Ch8: “Ne faites jamais confiance aux Etats Unis en temps qu’allies.”
Ch 9: Le fer est engage a Xuan Loc
Ch 10: Nous ne sommes pas laches, nous n’avons pas peur de mourir
Ch11: Avec la longue file des refugies
Ch12:Avec les vieux Francais de Saigon
…
Ch26:Les lendemains amers d’une “liberation”
Ch27Trente ans de guerre: rien n’est regle
Taynguyen says:
14/08/2010 at 16:56
Nếu đi (tòa soạn đục bỏ) hoặc bưng bô cho VC là “smart” thì để Tướng Nguyễn Cao Kỳ và ngannamthanglong “smart”. Tớ chả thèm cái “smart” mẹ rượt đó .
Viết Tiếng Anh như vậy mà cũng viết. Rõ là “smarter many Ex VC”
ngan nam thang long says:
18/08/2010 at 11:25
Co CAY Dang Thi cung da thua tran Roi). CAN DAM va KHON NGOAN thi dau thua tran mai the ? 35 nam truoc bi Dan Anh MY bo roi o VN. 35 nam sau cung Bi Dan Anh MY bo roi …..o Au My !!!!:-)
D.Nhật Lệ says:
12/08/2010 at 04:00
Nguyễn Cao Kỳ năm 2003 và năm 2010 khác nhau như ngày với đêm,vậy thì đưa bài viết xưa cũ của ông ta lên đây làm gì ở thời điểm này ?
Đọc bài viềt này,tự nhiên tôi hình dung NCK,.là một Xuân Tóc Đỏ thứ hai giữa thời chiến tranh nhiễu nhương cho đến 1975, Kỳ ta còn mơ mộng quyền lực khi kêu gọi nhân dân miền Nam hãy đứng lên chống CS.chứ đừng đi đâu cả.Thế rồi,khát vọng quyền lực bị tiêu ma cộng thêm làm ăn thất bại,thì Kỳ mới chấm dứt mơ mộng mà trở nên thực dụng hơn cả Mỹ và VC.vốn sành tâm lý của Kỳ là kẻ háo danh,ham gái,tham tiền nên đã dụ Kỳ dễ dàng đi làm cái loa “hoà hợp hoà giải” của VC.cho đến nay.Đúng là hai bên đều có lợi.VC.được lợi làm phân hóa tinh thần chống cộng độc tài của nhân dân VN.còn Kỳ được kề vai quàng cổ với chúa đảo Tuần Châu và lấy làm đắc chí lắm ! Than ôi là mãnh lực ghê gớm của cái vòng danh lợi mà chỉ có bậc chân tu mới thoát được mà thôi !
D.Nhật Lệ says:
12/08/2010 at 20:13
Khi nói là người Việt không nên hận thù nữa thì NCK. thực sự không biết hận thù xảy ra với ai,ở đâu và tại sao như vậy.Đây là một ngộ nhận cần phải vạch rõ để tránh nhận định kiểu ấu trĩ và vô lý.
Thật ra,sự hận thù là giữa nhà nước CS.độc tài với quần chúng nhân dân,những ai thấp cổ bé họng, những người bị VC.tước đoạt quyền công dân, dù có ghi rõ ràng trong Hiến Pháp, và nhân quyền, dù VC.trân trọng ký vào Tuyên ngôn Nhân quyền của LHQ. nhưng vất vào sọt rác với luận điệu rằng nhân quyền mỗi nơi mỗi khác, da trắng khác da đen v.v.
Chính VC.khơi dậy hận thù để thống trị như họ từng đấu tranh giai cấp,triệt hạ trí thức v.v.Thành thử, việc ngộ nhận của Kỳ ta không phải vô tình hay ngu dốt mà là cố ý ngụy biện nhằm dọn đường cho việc Kỳ làm tà lọt cho VC.để được “theo voi hít bã mía” ! Thực dụng một cách hèn hạ là như vậy !
Trước tình hình đất nước hiện nay, có ai nghe thấy Kỳ nói gì không hay là chỉ dám nói thầm thì nên chẳng ma nào biết. Hoặc là VC. có quyền bắt Kỳ phải câm mồm và chỉ được phép nói khi được chủ ra lệnh. Điều này chắc là chính xác.
Dan Viet says:
12/08/2010 at 17:15
Tôi đồng ý với phát biểu của anh Trường Sơn , chỉ xin bổ sung thêm 3 chữ :” Chúng ta đã từng ở 2 bên chiến tuyến nhưng giờ đây hãy khép lại quá khứ , hướng tới tương lai Dân tộc Việt “. Tương lai của mỗi con người chúng ta thì quá dễ lựa chọn . Giờ đây anh có thể đứng trước tòa báo Người Việt mà kêu gào , than khóc , chửi bới … nhưng mươi năm nữa thế hệ thứ 3 trong nhà anh , bọn trẻ nó còn cần biết người Việt của VNCH khác với người Việt của Việt cộng như thế nào nữa không ; cũng như chúng ta bây giờ có còn cần biết họ tộc mình ngày xưa là theo Trịnh hay theo Nguyễn trên 2 bờ sông Gianh nữa hay không . Còn chia rẽ , Dân tộc Việt còn khốn khổ ; chỉ có Đoàn kết đấu tranh cho Dân chủ thực sự , phát triển Kinh tế xã hội mới mong mở mày mở mặt cùng thế giới .
Taynguyen says:
12/08/2010 at 17:09
Quân chủng Không Quân VNCH có tâm niệm : “Không bỏ anh em , không bỏ bạn bè” Thiếu Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ bỏ hết: bỏ bạn bè, bỏ anh em, bỏ Lý TƯỞNG (1), một mình sang sông để mưu tìm một đời sống khá hơn về vật chất khi về già.
T/T Kỳ rất lầm lẫn khi cho rằng chúng tôi chống cộng vì hận thù. Ngay thời chiến tranh chúng tôi,những chiến sĩ QLVNCH, chưa bao giờ hận thù người CSBV. Chúng tôi có chương trình chiêu hồi. Hơn 300 ngàn cán binh VC đã hồi chánh trở về với chính nghĩa Quốc gia. Chúng tôi đã đối xủ tử tế với tù binh CSBV. Ngược lại người CSBV lúc nào cũng gây câm thù trong đầu của các cán binh CSBV cuồng tín , bị tuyên truyền, bị nhồi sọ, bị lừa bịp… Ngay bây giờ chúng tôi chống cộng là chống cái ác, cái láo, cái lừa của chúng nó.
Muốn về xây dựng lại quê hương , muốn những người Việt hải ngoại đem khả năng, kiến thức về giúp nước thì phải dẹp bọn cộng sản Láo, Lừa, Ác qua một bên. Trả lại quyền tự quyết cho toàn dân. Phải để toàn dân làm chủ hoàn toàn đất nước. Chứ về quê hương như Thiếu Tuớng Nguyễn Cao Kỳ là nối giáo cho giặc, là tiếp tay cho bọn CS lừa bịp thế giới , là giúp cho bọn CSVN có lý do để tiếp tục cai trị đất nước bằng độc tài, tham nhủng và nhà tù.
Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã vì miếng ăn mà phản bội lại Tổ Quốc, phản bội lại đồng bào , và nhất là đã phản bội lại các chiến sĩ đã cùng ông xông pha lửa đạn ngày nào. Chúng tôi ước mong không phải nghe , thấy bất cứ chuyện gì của Tướng Kỳ nữa
(1) Tên tờ báo của Không Quân VNCH
batbinh says:
12/08/2010 at 22:01
Mấy tên CCCD này đầu óc đặc kẹo, già nua hay sao mà (toà soạn đục bỏ) hoài không hiểu. Có mắt cũng như mù, có tai như điếc bởi vậy không thấy không nghe tình hình chính trị tại VN đã ổn định như thế nào. Giờ này mà còn ngồi nói chuyện đời xưa ai tốt hơn ai nghe phát mệt. Cái miệng bố la bố lếu, bao năm qua lập lại luận điệu cũ: “Ơ tôi chống cái ác, cái láo, cái lừa của chúng nó” rồi trơ tráo, không biết hổ thẹn khi “phải dẹp bọn cộng sản Láo, Lừa, Ác qua một bên. Trả lại quyền tự quyết cho toàn dân”. Mịa, ăn nói nổ cho sướng cái … miệng thì ai mà không nói được.
Đã bảo trước khi góp ý, chê bai người khác thì hãy nhìn lại bản thân mình trước coi, trên răng dưới … thì mình còn cái gì khác? Mịa, bản thân thì vô sản, tay chân như que củi mà cứ đòi chuyện vá trời, lấp biển. CS thì ngày càng vững mạnh và có chiều hướng thay đổi theo đường lối của Mỹ, con nít nó còn rành. Vậy mà vẫn có những tên đù đì, giờ này đòi lật đổ chính phủ VN, hahaha diễu dỡ quá mấy (đục bỏ) ơi.
Ông NCK là một người nhìn xa hiểu rộng nên đã có những nhận định chính xác, đoán trước được diễn biến của thời thế, chuyện đã rõ ràng như vậy mà giờ này còn nhiều (đục bỏ) cãi bướng. Đúng là tâm tư hẹp hòi, ích kỷ, sạo sự.
Nghe này: Chúng tôi là lớp người trẻ cũng không muốn thấy, muốn nghe mấy tên CCCD khoa môi múa mõ tầm xàm ba láp, góp ý linh tinh mà chẳng làm được cái tích sự gì hết. Muốn một VN tốt đẹp hơn thì phải xắn tay áo lên, lăn xả vào, góp sức, góp tiếng nói. Chứ còn cứ ở riết bên xứ an bình này, lâu lâu (đục bỏ) về chửi thì (đục bỏ) … nào làm không được. Thực tế chút xíu đi mấy (đục bỏ).
Quang Trung says:
14/08/2010 at 03:04
Mi lấy cái tên batbinh mà chỉ cố tìm cách chửi láo những người vạch ra những sự thật về tội lỗi của bọn cs dã man (với bao vụ giết hại người dân như Cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, tù binh cải tạo, Tết Mậu Thân ở Huế…..), láo xược, mất dạy (với bao người dân phản đối bọn cướp tàu cộng, những người có ý tưởng dân chủ, tự do….)….., bọn cs của mi còn nhiều điều mất dại nữa, mi hãy batbinh với chúng nó đi.
Nếu mi thật sự batbinh thì mi hãy batbinh với thầy của mi là 15 tên ở bađình, với chủ của mi là bọn tàu cộng ở bắc kinh về những vụ cướp, giết, đòi tiền chuộc mạng, phá tan tài sản ngư cụ của những ngư dân hiền lành quanh năm chỉ biết trần thân giữa biển khơi của quốc gia để kiếm sống, cũng như mi hãy batbinh về các vùng đất biển đảo của dất nước giờ đang ở trong tay của bọn chủ mi.
Thái Lê says:
12/08/2010 at 16:04
-GÁI ĐĨ GIÀ MỒM, còn bao nhiêu tướng lĩnh sẽ có những bài nói chuyện xuất sắc hơn ông Kỳ mà họ không dám,không muốn và không cần nói,họ còn biết nhục vì không dám tuẩn tiết như các tướng lãnh,sĩ quan,quân dân cán chính trong ngày 30/4/75,còn biết hổ thẹn khi kế hoạch bỏ rơi miền Nam đã được đồng minh thực hiện nhuần nhuyễn trong khi quân đội VNCH vẫn còn ngây thơ hy sinh từng sinh mạng để gìn giữ từng tất đất xinh đẹp trù phú,nhiều hơn nhất là họ đã từng có những trận đánh oanh liệt trong lịch sử chiến tranh thế giới mà không 1 loại sách báo nào còn ghi nhận cho đến ngày hôm nay, như vậy nói để làm gì hả thưa ông NCK.
-Tính đến năm 2003 là ngày ông được nói chuyện kể trên,28 năm sau ngày thôn tính miền Nam,ngoài thành tích cướp ngày của bạo quyền dối trá ,bọn tư bản đỏ sau khi đã đẩy những chiến hữu của ông vào trại cải tạo, tịch thu nhà cửa,làm những trò tồi bại, vô liêm sĩ với vợ con ,thân nhân của người bị trói tay khiến hàng triệu người hoảng loạn phải tìm đường thoát thân v.v.., đối với dân đen, bằng luận điệu phát triển kinh tế trong khuôn khổ của luật rừng, ngày nay ngay cả người đã từng chiến đấu dưới lý tưởng của đảng cũng còn phải lầm than , gia đình bị băng hoại, tan nát không thua gì kẻ thù mà mình đã lầm lẫn tiêu diệt đến tận 3 đời của họ,như vậy ông còn muốn những nạn nhân chưa siêu thoát, còn phẩn uất vì kẻ cướp vì lầm đường lạc lối phải tiếp tục nghe những lời rao giảng của 1 loại hèn tướng vộ đạo đức nữa hả ông!,chúng tôi yêu quê hương, yêu dân tộc, giống nòi,nhưng không ví lý do đó mà chúng tôi lại phải chấp nhận đưa đầu cho kẻ cướp 1 lần nữa,ông đừng bao giờ hy vọng tuổi trẻ hôm nay tha thứ cho ông,không tha thứ đã là 1 ân huệ, còn nghe lời ông thì chúng tôi sẽ biến dân tộc VN luôn có những thảm họa.
-Nhìn ông bà và những loại cặn bã chụp hình trong những tờ báo lá cải của nền báo chí 1 chiều, chúng tôi tởm lợm khi nhớ đến tiền thuế của hơn 80 triệu dân đen đã được đồng bọn của ông tại phủ Bắc bộ chiêu đãi ông trong những tiện nghi sang trọng bề ngoài mà vô cùng nhơ nhớp trong toan tính của loại động vật hình người, ông sẽ sống rất thọ trong điều kiện ưu đãi của kẻ thù dành cho 1 con chốt,tôi có chúc ông sống đến 200 tuổi cũng chỉ làm hình ảnh ông hoen ố thêm, thôi thì tôi cứ an ủi mình và tưởng tượng phải chi hồi đó bác NCK tự bắn vào tim như bác Lê Văn Hưng thì đã từ lâu hình ảnh oai hùng của ông đã ngự trị trong tinh thần của lớp trẻ khờ dại chúng tôi.
Senterman says:
12/08/2010 at 14:59
Tôi không góp ý về bài viết của Nguyễn Cao Kỳ vì thời điểm đó ông nhận định đúng. Tôi chỉ góp ý về lời “phi lộ” của người dịch Nguyễn Lệ Hà.
Thưa Ông/Bà Lệ Hà căn cứ vào đâu Ô/Bà cho rằng người lính già Nguyễn Cao Kỳ vì có cái nhìn xa về thời cuộc mà phải hứng chịu nhiều hiểu nhầm của dư luận ngày hôm nay. Ông ta đã chiến đấu và không ngừng mưu cầu cho dân tộc có một tương lai tươi sáng hơn! Rõ ràng một người có thể nhầm nhưng cả một tập thể không thể nhầm đến vô ơn không biết trọng kẻ đã thi ân cho mình. Xin bà/Ô hãy nhìn cho rõ cuộc đời đóng góp cho đất nước của Nguyễn Cao Kỳ trước khi phát biểu. Nội việc tạo xào xáo tranh quyền làm mất đoàn kết quốc gia, chia rẻ quân đội lúc cần đoàn kết nhất để chống Cộng đã tỏ tường là kẻ thất trí. Việc về vườn dùng ảnh hưởng cá nhân chiếm đất ở Khánh Dương và đưa lính tráng và cả phương tiện của quân đội khai khẩn tỏ rõ là kẻ “biết” coi rẻ cương thường đạo lý. Việc xách trực thăng đi hiểu dụ quần chúng ở lại chống Cộng xong bay thẳng ra đệ thất hạm đội ngồi “cười” là hành động lường gạt chỉ có kẻ thất học mới làm. Bài thuyết trình nói đúng nhưng tôi cũng đã đọc nhiều bài hay và sâu sắc hơn bài đó. Đó là về quá khứ. Còn hiện tại dư luận chỉ lên án những đê hèn của ông khi về bắt tay CS và xum xuê tuyên bố bợ đỡ nghe phát ngượng. Dịch giả hẳn còn nhớ lời ông ta phát biểu ở Dana Point chứ, dịch giả nên ghép lời tuyên bố như thế cho những con tương cận nào cho xứng tầm vóc? Đất nước nầy, dân tộc nầy không chịu ơn mưu cầu cho đời sống tốt đẹp hơn của Nguyên Cao Kỳ, dịch giả nên nhớ dân Việt Nam không bao giờ là kẻ vong ân.
Nguyễn thế Hùng says:
13/08/2010 at 13:08
Các bác,chú hay anh chị nói gì thì nói,riêng tôi với bài nói chuyện của bác Nguyễn Cao Kỳ đối với tôi phải gọi là quá hay và rõ ràng để lớp người trẽ như chúng tôi được hiểu nhiều hơn đối với thế hệ cha anh đã chiến đấu để bảo vệ miền nam . Nhưng không may chúng ta vì vì quá lệ thuộc vào một đồng minh Hoa Kỳ nên khi họ ra đi thì chúng ta không còn chổ dựa và mất miền nam, nhưng bù lại chúng ta có cả một nước VN không còn bị phân chia. Bây giờ thì đất nước VN chỉ còn hy vọng vào những lớp người trẻ tuổi trong và ngoài nước để thay đổi tình hình hiện tại và đưa đất nước tiến lên. Chủ nghĩa CS rồi cũng phai tàn và phải nhường bước trước tuổi trẻ đầy lòng nhiệt huyết và quyết tâm xây dựng tương lai cho VN, không mang lòng thù hận với quá khứ . Người Hoa kỳ họ còn không thù hận thì tại sao chúng ta là người VN lại mang thù hận .Tôi tin chắc chắn lời của bác Kỹ nói, một khi VN thay đổi thì sự tự do cũng sẽ theo sau cho mọi con người VN. Chúc bác Kỳ sống lâu và khỏe mạnh đê/ thấy tương lai đất nước VN thay đổi
DCV - web truyen thong bat luong says:
13/08/2010 at 04:39
Dan chim viet la cua dac cong do Vu Thu Hien do ba con oi! Đây là ổ rắn độc của bọn việt gian CS. mong cac ban đưng ngây thơ ma mắc lừa.
nvtncs says:
13/08/2010 at 18:12
Cứ bấm “Ban Điều Hành” thì biết họ là ai.
D.Nhật Lệ says:
13/08/2010 at 19:49
Ý kiến này nặng phần suy diễn theo cảm tính chứ không có lý lẽ gì cả.
Vấn đề của bài viết này đặt ra là khi bàn về chính trị,chẳng lẽ chúng ta phán đoán dựa vào 1 bài báo cũ rích từ 2003 chăng ? Chính trị thay đổi như chong chóng mà vẫn dựa vào nhận định đúng của người phát biểu từ 10 năm trước nghe không hợp lý chút nào ! Thời điểm đó thì NCK. nhận định chính xác nhưng nay NCK. làm ngược lại, chẳng đếm xỉa gì đến chủ quyền, độc lập, dân chủ tự do gì hết !
NGUYEN CON CAY says:
13/08/2010 at 02:23
BON CSVN NEU AI MA TIN THEO CHI CO CON DUONG TU SAT CHI CO LOAI GIOI BO VA SUC VAT MOI TIN BON CSVN VA NGUYEN CAO KY DANG (tòa soạn đục bỏ) BON CSVN KHONG HON KEM MOI NGUOI DAN HAI MIEN NAM BAC CON HIEU VA HIEU MOT CACH SAU SACTHE NAO BON CHO DE CSVN BUON DAN BAN NUOC VA DA GIET HAI DAN TOC VN NHU THE NAO BAI PHONG VAN NAY THUA DUA CON NIT O VN HIEU THE NAO LA SU DA MAN VA TAN BAO CUA BON CSVN HIEN NAY CON CHO KY HAY HAY LAM KIEP CHO CHO CSVN THI TOT HON DUNG SUA THEM NUA BOI VI NO SE KHONG SUA DUOC TIENG NGUOI ONG THIEU NOI DUNG NGHE NHUNG GI CS NOI MA HAY NHUNG GI CS LAM BAY DAT DUA HINH MOT CON CHO CSVN DE SUA GAU GAU GAU THAT QUA NHUC
myhoangsa says:
18/08/2010 at 12:51
D.Nhật Lệ nói quá chính xác về cá nhân Nguyễn cao kỳ. hòa hợp hòa giải với csvn là bị csvn đồng hóa thành cộng sản luôn và mất hết danh gía người vnch. vậy mà kỳ râu chai mặt bá vai nguyễn minh triết chủ tịch csvn từng tuyên bố lố bịch khi sang bợ dế Cuba rằng: cuba ngủ thì triết mò, cuba thức thì triết mần. mần mò làm bậy, sửa bậy, chửi bậy bẩn thỉu là chân lý muôn đời của đảng csvn
hai ton says:
17/08/2010 at 14:35
mot thoi coi ngua ban cung
het thoi di bo lay day thun ban ruoi
xin chuc ong nguyen cao ky co nhung ngay thang cuoi doi binh an
Hoang Cong Tinh says:
17/08/2010 at 13:37
Chúng tôi là người sống và lớn lên dưới thời Cộng sản Việt nam chúng tôi rất cảm phục tinh thần trách nhiệm với đất nước của ông Cao Kỳ. Dù ông sống dưới thời Mỹ đô hộ làm phó tổng thống nhưng tinh thần độc lập tự tôn dân tộc vẫn có trong ông, khác hẳn với những người chỉ cúi đầu theo lệnh Mỹ. Ông dám nói tất cả tư tưởng đó để bày tỏ quan điểm yêu nước của mình. Nhưng rất tiếc ông cũng chỉ là con tốt sáng giá của Mỹ mà thôi. Còn hôm nay, ông đã nhận thức được thời cuộc sớm hơn nhiều người Việt nam khác nên tôi hiểu là tại sao ông bị nhiều người co tư tưởng bảo thủ, sân hận ghét chửi bới ông nhung đa số nhân dân yêu quý ông. Ông cũng nói đúng cái yếu điểm của chế độ nhà nước Cộng sản hôm nay nhưng với tư tưởng ôn hoà và xây dựng chú không phải là lật đổ. Chính cái tư tưởng và hành động đó nên những lời nói của ông và việc làm trở về Đất nước dù nhiều người cộng sản bảo thủ không hề thích thú nhưng những người cộng sản tiến bộ và ôn hoà đã hoan nghênh ông, quý trọng ông. Tôi thử hỏi các bạn nếu bạn muốn dân chủ mà không hoà nhập để tạo không khí dân chủ machì muốn chém giết thì hỏi liệu có thay đổi được không? Ba mươi năm khi Việt nam hoà nhập với thế giới thì đất nước thay đổi bằng nghìn năm phong kiến và hơn cả thời Mỹ Thiệu rất nhiều. Nêukhống hoà nhập thì sao có thay đổi đó. Ngay hôm nay vị tướng Trung Quốc, sinh trong gia đình Cộng sản nòi cũng đã nói rõ quan điểm này. Haycởi mở và dung hoà trong tình thương yêu hơn là cứ phân chia thù nghich chém giết nhau. Nhưng thử hỏi những vị kêu gào thánh chiến lật đổ đó có giám về làm cuộc cách mạng như mồm họ nói không hay là xui bẩy người khác như hẩy chó bụi rậm để rồi họ bị tù tội oan uổng. Tôi không đồng ý kiểu trách nhiệm với đất nước loại này mà thích tư tưởng hành động của ông Cao Kỳ hay ông Phạm Duy hay nhiều người yêu nước khác.
Tôi tin là Báo Đàn Chim Việt đưa tin này cũng sẽ bị những người này chửi bới la ó, nhưng đó là một việc làm đáng quý.
Trân trong:
Hoàng Công Tình
Taynguyen says:
14/08/2010 at 17:21
Có một đồng chí ếch (BB) đang ngồi dưới đáy giếng trổ tài lừa bịp người ta về “sự cố tình hình chính trị tại VN đã ổn định” Ngồi ở đáy giếng mà muốn lấy tay che mắt thế gian. Hàng ngàn người dân đã tràn ngập UBND Bắc Giang làm mấy đầy tớ nhân dân trốn chui trốn nhủi, Ở Cồn Dầu, ở Thái Hà… Trên khắp cả nước những người dân oan đã xuống đường kéo nhau đi đòi đất, đòi ruộng, đòi nhà.
Bước ra biển thì bi “tàu lạ” của mấy thằng Tàu phù bắn giết , cướp ghe, cướp cá. Bước vào đồn công an nhân dân thì bỏ mạng sa trường. Đi học thì bị mấy quan đầu tỉnh hiếp dâm còn bị bắt bỏ tù. Vậy mà nói tình hình chính trị VN ổn định chỉ là những lời láo khoét của bọn LÁO-LỪA-ÁC Cộng sản
Đồng chí ếch xưng là người trẻ. Chê mấy anh già CCCĐ. Thế thì Thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, LS Lê Công Định , Nguyễn Văn Đài, Lê Chí Quang… BS Phạm Hồng Sơn,Phạm văn Trội, Phạm Thanh Nhiên, Vũ Hùng , Nguyễn Vũ Bình ….Họ là những người rất trẻ chả có ân oán gì với bọn CS láo, lừa ác. Họ chỉ muốn tranh đấu cho một nước VN Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc mà sao ở tù ráo trọi vậy ta?
Khi cả thế giới đều lên án cộng sản là tội ác của nhân loại. Chống cộng là bổn phận và trách nhiệm của mọi người trên thế giới. Làm gì có chuyện Chống Cộng Cực Đoan hở đồng chí ếch BB
Bỏ đi tám
Nguyen Quoc Viet says:
14/08/2010 at 16:21
Theo tôi thì ông Nguyễn Cao Kỳ là người thức thời trong cac người Việt nam thức thời hiện nay. Ông biết cái mạnh cái yếu, cái xu hướng thòi đại va cả cái bất nkhả kháng để mà vận dụng cho đúng các quy luật tự nhiên va xã hội. Ông lại là người có trách nhiệm với đất nước chăm lo cho tương lai cua đất nước Việt nam mình. Ông đánh giá tất cả các vấn đề một cách khách quan va biện chứng. Tôi rất không hiểu là tại sao nhiêu người vết thương đã lên da non đang lành nặn mà cứ cào xé ra để đau mãi. Muốn dập lửa hận thù thì chỉ bằng tình thương yêu và lòng vị tha mới dập được còn cứ đổp thêm dầu căm hận thì lửa sẽ chỉ càng cháy to hơn mà thôi và cuối cùng thì chẳng đạt được điều gì. Như Mỹ hôm qua là tử thù của Việt nam thì hôm nay họ đã bắt tay làm bạn. Vậy tại sao là người Việt nam chúng ta lại không thể hoà hợp hoà giải mà lại cứ chống nhau và trong cơn nóng giận có thể phá cả đất nước không chừng vì bên cạnh đó con cọp Trung quốc đang chờ hai con nai già húc nhau để rồi vồ ăn thịt cả hai. Vậy là khôn hay dại đây? Cho nên quan điểm của ông Kỳ là đứng đắn và thực sự đãchứng minh là đúng. Và Việt nam từ ngày bang giao với Mỹ và thế giới rõ ràng có tiến bộ hơn tuy nhiên tham nhũng và nhiều vấn nạn khác cần phải được thay đổi. Tôi tin là các bạn trẻ, nhưng tương lai của đất nước họ sẽ làm những điều đó. Xin hãy sống thanh bình của những ngày ngắn cuối cùng của đời chúng ta và hãy chăm lo cho đất nước khi còn làm được chút ít gì có ích hơn la ngồi than khóc và chửi bới hay xui người khác cũng dem dầu sân hận tưới vào ngọn lửa đang chực tắt đã lâu. Tôi cảm ơn Báo Đàn Chim Việt đãcho đăng bài nói chuyện quý báu này để thế hệ trẻ biết tới sự thật lịch sử không bị du ngủ hay hiểu sai vào bất kỳ quan điêm cực đoan nào dù là Cộng sản hay những người bên kia chiến tuyến chưa nguôi lòng căm hận dù đất nước đã qua đi cuộc chiến hơn 35 năm rồi.
Nguyễn Quốc Việt
Minh Triết says:
14/08/2010 at 15:52
Bài cũ (2003) hình mới (2010) chẳng giống ai, lấy bài cũ hấp với hình mới để mời thực khách?
Ông Kỳ nói cũng đúng. nhưng lời kêu gọi của ông ấy chẳng khác nào đầu hàng?
Ông Kỳ nói; “tôi muốn nói rằng đây là lúc mà thế hệ của tôi gọi là “nguời Việt chống Cộng” hãy bỏ quên đau buồn và thù hận để nhường buớc cho thế hệ trẻ hơn, những con em của chúng ta, có cơ hội mang người Việt Nam xích lại với nhau. Đây là thời điểm mà thế hệ của tôi nên chấm dứt kêu gọi hận thù“.
Tại sao ông Kỳ chỉ kêu gọi những “Người Việt chống Cộng” chấm dứt hận thù, trong thực tế thì chính bạo quyền CSVN mới là kẻ gây ra hận thù, thì ông Kỳ lại không có một lời kêu gọi, có phải ông Kỳ đã gởi sai địa chỉ, hay đầu hàng cộng sản?
vokhoa says:
14/08/2010 at 08:32
Nguyen cao Ky nhu con (tòa soạn đục bỏ),, duong loi Ngueyn cao ky dang di la duong loi hop tac voibon cong san viet nam,, giongnhu duong loi cua hai (đục bỏ) than cong Nguyen khoa Thai Anh va Nguyen huu Liem,,dung la mot bon…(đục bỏ)…
Timsuthat says:
19/09/2011 at 23:11
Trên căn bản những tuyên bố này của NCK, ngoài quan niệm về việc “hòa hợp hòa giải” (HHHG) với ĐCSVN, tôi hoàn toàn đồng ý với ông Kỳ. Nhật xét của ông về chiến tranh VN và những lý do căn bản tại sao VNCH không thể thắng là chính xác. Cảm phục ông về những nhận xét này và mong những người tìm hiểu lịch sử đọc được bài này.
Tuy tôi vẫn cảm thấy hổ thẹn với cách cư xử của ông ta trong chính trường VN (và ngay cả đời tư) như một anh cao bồi – nhất là sau khi đọc về cuốn sách autobiography của ông chứng minh điều này – không xứng đáng tư cách của một lãnh tụ quốc gia, tôi vẫn cám ơn công nghiệp của ông trong thời chiến, chống CS giữ an ninh cho miền Nam VN được gần 20 năm tự do, và đã cố gắng sống sạch không tham nhũng, ít nhất theo căn bản người VN thời đó. (Đời sống tư của ông sau khi qua Mỹ thì miễn bàn trên forum này, vì đó là đời tư.)
Việc ông về VN sau khi ông tuyên bố trong bài này để HHHG với ĐCSVN có nhiều khía cạnh đã hoàn toàn bất lợi cho ông:
1. Ông đã đánh giá sai mục đích chính trị của ĐCSVN trong việc đón nhận ông về. Cái não trạng của ĐCSVN từ lâu nay còn rất xa sự hòa giải, và họ đón nhận ông không ngoài mục đích muốn thu tiếp khối HN vào hàng ngũ họ, phá tan nhóm chống cộng HN. Không có sự hòa hợp với ước mong của nhóm tị nạn, mà chỉ có củng cố quyền lực và ảnh hưởng của ĐCSVN. Tôi không nghĩ ông hoàn toàn ngây thơ về vấn đề này, nhưng ông coi thường sự quyết tâm của ĐCSVN.
2. Ông hy vọng việc cộng tác kinh tế, giúp VN phát triển sẽ đưa đến thay đổi chính trị (một cách hòa bình), nhưng quả đó là một ảo tưởng, vì họ vẫn đặt niềm tin vào XHCN và chỉ họ có độc quyền vừa yêu nước vừa cai trị. Đó là mặt trận chính trị mà ĐCSVN sẽ chiến đấu đến cùng, dù phải hy sinh trong các lãnh vực khác. Như China và các chế độ độc tài khác, nắm quyền lực là cốt lõi với họ – họ sẽ sẵn sàng dùng đủ mọi thủ đoạn, bạo lực để ngăn chặn ảnh hưởng thay đổi chính trị. Các chế độ này có triển vọng trở thành “fascism” và gây tai họa cho thế giới (như Nazis Germany); chỉ khi dân nổi loạn đến mức xã hội xụp đổ, hoặc bị thua trong chiến tranh với ngoại bang họ mới thay đổi; không có diễn tiến hòa bình!
3. Ông đã làm phần đông khối người HN mất đi tất cả những tôn trọng, tình cảm mà họ còn lại cho ông, dù không còn bao nhiêu. Với chỗ đứng trong lịch sử của ông, đáng nhẽ ông đừng làm thế thì hay hơn dù ông có ý tốt, mà hãy để những người khác làm thế ông. Nhất là những tuyên bố của ông coi thường những người chống cộng không thương lượng đã làm nhiều người cho là ông đã “sell-out”, chỉ lo tìm tư lợi. Vì ông đã già, tôi không nghĩ như thế, nhưng khi ông mất đi mà không thấy kết quả gì cho việc này, tôi nghĩ ông đã phí đi cả danh dự của ông. Có thể đây là một sự hy sinh, liều mình cuối đời của ông, nhưng chắc lịch sử sẽ chứng minh đây là sự hy sinh uổng phí vô nghĩa, ngay cả tính mạng của ông (dù đã già) – trừ khi ông đã là sứ giả mang tin tối mật mà HK muốn gửi cho các đảng viên lãnh đạo không có quan hệ mật thiết với Trung Quốc!
Buồn cho ông!
khach quan says:
30/07/2011 at 16:28
Bai noi chuyen rat hay. Quan diem rat ro rang. The he gia nua lien quan den cuoc chien cua hai mien Nam – Bac khong the nao ngoi lai dduoc voi nhau. The he tre sau nay se xich gan nhau hon de xay dung dat nuoc… Nhung cau noi nay rat chi ly,” neu khong tha thu duoc thi hay quen ddi”. va xin nhung ke cuc doan ” Hay ngung rao giang han thu cho gioi tre. ” Nhung ke cong kich ong Ky chang co ten nao noi dduoc loi le cua con nguoi giong nhu ong ta ca.
Nguyễn Tuấn says:
30/07/2011 at 12:06
Tùy người sống thôi ! Mình nghĩ cái này là do gia đình. Tuy nhiên phủ cờ Mỹ thì lạm dụng phi lý và chứng tỏ họ chẳng hiểu gì cả !!! Phủ cờ VNCH thì họ sợ VC hoạnh họe thì họ hết đường làm ăn, vì tay đã lỡ dính chàm. Phủ cờ VC thì VC cũng không cho phép và nếu như thế thì quá muối mặt với cộng đồng tỵ nạn. Đáng lẽ ra không phủ cờ hoặc phủ cờ cấp tướng 2 sao là đúng hơn cả. Theo như diễn tiến thì đáng lẽ phải đưa Lui về VN mới phải, vì những lời Lui đã tuyên bố là ..dzìa… lại quê hương, tổ c..uốc, tổ cò thì Lui phải được chôn tại VN mới là ý nguyện ! Nhưng có lẽ VC không cho, vì chó chết là hết chuyện, VC không khai thác được cái gì nữa trên xác chết, nên chúng vắt chanh bỏ vỏ, thế thôi. Nếu mang xác Lui về, chính quyền VC không làm rình rang thì khó chứng minh là thực tâm hòa hợp, hòa giải. Mà làm rình rang thì là trực tiếp công nhận Cao Cầy ngang hàng đối thoại với chúng. VC KHÔNG BAO GIỜ CHẤP NHẬN NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA bàn chuyện đại sự với chúng, vì như vậy là chúng GIÁN TIẾP thú nhận là chúng đã gian ngoan, lưu manh, bôi bác những người yêu nước để chiếm miền Nam, đối với chúng, những người dân miền Nam cầm súng chống lại chúng muôn đời là những kẻ bán nước, tội đồ. Phải coi hồi ký Võ long Triều mới hiểu được là Cao Cầy đã bị VC cho vào xiếc !! Moi đã gởi cái hồi ký này ra mà các Vous nhất định lười không chịu đọc thì làm sao mà hiểu được chuyện chính trị !!!!! Chán các Ngài quá, chỉ ngồi nhà học hỏi mà cũng không xong !!!!! Nên nhớ tin tức đầu tiên đưa ra thì Lui bịnh ở VN chữa không được, đưa qua Mã Lai, nhập viện, 1/2 tiếng sau thì chết. Bây giờ lại nói đang làm việc ở Mã Lai, phát bịnh và chết tại đó !! Nên nhớ bịnh về đường hô hấp không chết ngay như Stroke hay Heart Attack, mà phải diễn tiến từ từ, tuần lễ, 1/2 tháng phổi không làm việc, chứa nước, người ta rút nước ra, chích Steroid kích thích cho phổi làm việc cho bơm oxy vào. Khi nào 2 lá phổi hoàn toàn không làm việc, lúc đó mới chết ! Nếu đúng như vậy thì lúc Lui sắp chết. VC không cho hắn chết ở VN, sang Mã Lai mà chết và đem tro qua Mỹ mà …t…hờ !
Một bài học cho các Vịt Cừu ..ngây thơ ( Ngu như Vịt, nhút nhát như Cừu ) ! học bao lần mà vẫn không thuộc bài. Để tụi Bắc Cộng nó ăn rồi ỉa trên đầu mà vẫn nhất định không hiểu và không biết !!!!!!!!
(Đây là email trao đổi về thắc mắc của một ông bạn là theo hình ảnh đám tang thì tại sao gia đình lại phủ cờ Mỹ trên quan tài ông Kỳ !
Nina says:
30/07/2011 at 08:22
Theo ý tôi, hận thù không đến từ phíá người Việt hải ngoại mà đến từ phía nhà cầm quyền CS Hà Nội. Ngay sau khi chiếm được miền Nam, họ đã khơi động, tạo ra hận thù bằng tập trung cải tạo, đốt sách, báo, bắt bỏ tù văn nghệ sỹ, cải tạo tư bản, mại sản, chế độ lý lic̣h với sinh viên, học sinh, với những người xin việc làm……
Cho đến bây giờ vẫn còn ăn mừng chiến thắng rất hoành tráng, rầm rộ mỗi độ 30.4 về đáng lẽ ra họ phải xin, tôi nói xin nhé, người Việt hải ngoại tha thứ cho họ, cho cái đảng CSNVN. Từ hòa hợp hòa giải cũng đến từ phía Hà Nội mà.
Minh Đức says:
30/07/2011 at 06:46
Trích ông Kỳ nói: “Tôi rất lạc quan về thế hệ lãnh đạo Việt Nam kế tiếp.”
Ông Kỳ lạc quan về thế hệ trẻ lãnh đạo Việt Nam kế tiếp. Thế nhưng vụ Vinashin bị phá sản thì lại do những cán bộ đã từng điều hành các công ty quốc doanh lỗ lã. Các vụ cán bộ chiếm đất làm giàu, công an đánh dân chết, chính sách bịt miệng dân, lối hành xử không theo pháp luật, lối công an mạng rình mò tung tin sai lạc thì lại là do các đảng viên, cán bộ vẫn hành xử theo cách của thế hệ cũ.
Còn thế hệ lãnh đạo Việt Nam kế tiếp thì ở đâu? Thế hệ lãnh đạo Việt Nam kế tiếp là những người như Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Đài, Cù Huy Hà Vũ… những người muốn xây dựng một xã hội thật sự theo nguyên tắc pháp trị, chứ không phải chỉ nói mà không làm. Đáng lẽ ra, ông Kỳ phải có lời lên tiếng bênh vực sự tranh đấu của những người thuộc thế hệ kế tiếp đó, bênh vực những người vì tranh đấu cho một xã hội mới mà bị tù.
Trung Kiên says:
30/07/2011 at 03:32
Theo ngu ý của tôi thì đây là bài phát biểu “dọn đường về VN” của ông Kỳ! Nhận định ở phần đầu của ông làm cho tôi cảm khái khi viết rằng;
“Nguời Pháp đưa ông Bảo Đại ra làm Quốc Trưởng, vị vua cuối cùng của Triều Nguyễn dưới thời bảo hộ Pháp. Tất cả nội các của ông Bảo Đại đều là những người có thời liên hệ với Pháp. Họ không được sự ủng hộ của quần chúng trong nuớc. Chỉ khi ông Ngô Đinh Diệm xuất hiện thì Nam Việt mới có một thể chế và lãnh đạo xứng đáng. Rất tiếc là sau vài năm ngắn ngủi, chính quyền Nam Việt Nam bị băng hoại vì sự áp dụng độc tài gia đình trị. Nhưng so với sự độc tài đảng trị của cộng sản Việt Nam thì sự độc tài ở Miền Nam không thể nào sánh bằng. Khi ảnh hưởng của Pháp bắt đầu mờ dần, sự xuất hiện của Mỹ đã trực tiếp ảnh hưởng hàng ngày vào những quyết định của Nam Việt Nam, thì một vị Tổng Thống có tinh thần quốc gia cấp tiến mà cứng đầu như ông Diệm bắt buộc phải bị lật đổ“.
Bình luận; Ông Kỳ đã nói thẳng nói thật về toàn cảnh VN lúc đó, và trong phát biểu này ông đã tỏ ra “thương cảm” Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một người VN, một vị Tổng Thống “cứng đầu” không chịu khuất phục trước sự trịch thượng của Mỹ nên đã bị lật đổ và sát hại, mà chính ông (Kỳ) cũng là một thành phần đã góp phần, nhúng tay vào máu ông Diệm!
Trích bài chủ:…”Thưa các bạn,Bang giao giữa Mỹ và Nam Việt Nam chưa bao giờ thể hiện được bình đẳng trong sự hợp tác. Cuộc chiến trở thành “cuộc chiến tranh của Johnson” thay vì chúng ta chiến đấu cho tự do và độc lập. Từ quan niệm trên mà Nam Việt Nam chỉ được xem như là một tiền đồn để chống chủ nghĩa cộng sản“.
Bình luận: Nhận định của ông Kỳ lý giải cho suy nghĩ của tôi ở trên. Nhưng theo thiển ý của tôi thì những lời lẽ của ông Kỳ đã làm nhiều người khó hiể và bất mãn (?):
“Tập đoàn cộng sản lãnh đạo ở Việt Nam đã qui tiên rồi: “Hồ Chí Minh đã mất, Phạm văn Đồng đã đi, Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ Chí Công đã mất. Ngay cả những nhà lãnh đạo cuộc chiến chống họ như ông Richard Nixon và ông Lyndon Johnson đều đã mất. Những nhà lãnh đạo Miền Nam như ông Ngô Ðình Diệm đã qua đời. Ông Nguyễn văn Thiệu đã chết. Ông Dương văn Minh cũng đã chết. Riêng chỉ còn mình tôi. Tôi là người cuối cùng. Và tôi muốn nói rằng đây là lúc mà thế hệ của tôi gọi là “nguời Việt chống Cộng” hãy bỏ quên đau buồn và thù hận để nhường buớc cho thế hệ trẻ hơn, những con em của chúng ta, có cơ hội mang người Việt Nam xích lại với nhau. Đây là thời điểm mà thế hệ của tôi nên chấm dứt kêu gọi hận thù. (do Trung Kiên tô đậm)
Bình luận: Ông Kỳ đã “cầm nhầm” quyền tuyên bố, đã đứng “nhầm vị trí”… khiến các “chiến sĩ” của ông và NVTN bất bình là phải!
Người đã gây ra hận thù chia rẽ chính là csvn, lẽ ra ông Kỳ nên… chỉ đường vẽ lối cho lãnh đạo csvn và kêu gọi họ hãy “xin” nhân dân VN xoá bỏ hận thù để tạo sự ĐOÀN KẾT DÂN TỘC mới đúng “vị thuốc” cho con bịnh!
Rất tiếc và rất đáng tiếc cho ông Kỳ!
Tuy nhiên ông đã có cái nhìn “viễn kiến” rằng:..”Trung Hoa dường như muốn biến đất nước chúng ta thành một thuộc địa về kinh tế, một nguồn cung cấp tài nguyên, một thị truờng cho các hàng tiêu thụ. Việt Nam sẽ phải quay sang Trung Hoa vì đó là nguồn gốc của đa số di sản văn hóa hay là thiết lập một bang giao bền vững với Hoa Kỳ dựa trên mô thức của sự tương kính và hỗ tương quyền lợi kinh tế mà vẫn giữ được độc lập?“…
Còn câu…”Bây giờ mọi nguời đã biết là nguời Cộng Sản Việt Nam đã chết” của ông chỉ là “lạc quan tếu”, vì rằng…cây “chết khô” mà chưa đổ thì bóng của nó vẫn còn đó!
boo says:
29/07/2011 at 23:54
Ong Ky dau oc non not qua. Muon hoa hop hoa giai voi ke thu? Doi voi Cong san khong co van de hoa hop hoa giai. Du ong co cui lay chung mot ngan lan, Co dem tanh mang vo con ong ra the thot chung cung chang nghe dau. Ngay tho vua vua chu ong cu. Lanh tien gia va ngoi choi xoi nuoc di. Neu ong don duong cho vo cu va con gai ve Vietnam mo quan cafe hay quan pho thi moi nguoi con tin ong. Foget chuyen hoa giai di ong noi oi. Trong mat tuong khon nhung ma dai
http://old.danchimviet.info/archives/16 ... ia/2010/08
http://old.danchimviet.info/archives/16 ... /2010/08/2