Thi sĩ Nhất Tuấn qua đời

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Thi sĩ Nhất Tuấn qua đời

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Thi sĩ Nhất Tuấn qua đời




    Thi sĩ Nhất Tuấn (1935 - 2021)



    Cựu Trung Tá Giuse Phạm Hậu, tức thi sĩ Nhất Tuấn,

    tác giả các tập thơ Truyện Chúng Mình nổi tiếng tại Miền Nam Việt Nam trước 1975, đã qua đời ngày 31 tháng 7 năm 2021 tại Bothell, Tiểu bang Washington

    Hưởng thọ 86 tuổi.






              
Last edited by Bạch Vân on Chủ nhật 08/08/21 14:22, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Thi sĩ Nhất Tuấn qua đời

Bài viết bởi Bạch Vân »

          


Khi Thi Sĩ Khóc
(Gửi theo Thi Sĩ Nhất Tuấn)

Đã lâu rồi anh không nhớ tên mình
Không nhớ mỗi người đều có một cái tên
Chỉ vào ai anh cũng lắc đầu


Nhớ mãi không ra khuôn mặt lạ

Anh không nhớ tên xóm tên làng
Thành phố anh đang ở sao mà thay đổi quá
Anh không nhớ tên con đường vào nhà mình
Nhà số mấy
số mấy mà không được

Anh không biết sáng biết chiều
Ấm lạnh áo khăn không tự mặc
Con cháu à….
thấy đang quen quen bỗng thành rất lạ
Bạn hữu ư…ông nào thế nhỉ
Còn bà kia …tôi chưa gặp bao giờ

Anh cười cười… đầu lắc lắc… ngu ngơ

Anh chỉ nhớ có một người duy nhất
Anh chỉ nghe và nói với một người
Anh chỉ tay vào nàng, gọi……Oanh ơi!

Đời sống xa dần anh hay anh xa dần đời sống

Người đàn bà của anh, người anh gọi Oanh ơi!
chạy chung quanh anh như chiếc đèn kéo quân chạy quanh ánh sáng
Chị mang anh đi họp mặt bạn bè, anh ngồi ngoan như cậu bé, chờ người cho miếng bánh.

Bạn đọc Thơ cho anh nghe
Có nhớ Thơ của ai không
Anh lắc đầu, từ tốn ăn miếng bánh
Thơ Đinh Hùng đấy
Thơ Vũ Hoàng Chương đấy
Anh lắc đầu, từ tốn ăn miếng bánh

Nhưng ô kìa,
Hình như anh đang khóc
Hình như có người đang đọc Thơ Nhất Tuấn

Nước mắt giàn giụa trên mặt anh
Nước mắt giàn giụa trên mặt Thi Sĩ
khi nghe đọc Thơ mình.

Thơ như chuông ai đang kéo trong đầu
Thơ như chuông đang gọi hồn ai

Kính coong… kính coong…kính coong…
Nóc giáo đường dồn dập những hồi chuông

Người Thi Sĩ ấy
Đã bay theo tiếng chuông và những bài Thơ của mình

Hình như có người đang đọc Thơ Nhất Tuấn

Kính coong…kính coong……


Trần Mộng Tú
Ngày 31/7/2021



Nguồn:https://www.diendantheky.net



          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Thi sĩ Nhất Tuấn qua đời

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Nhất Tuấn, muôn thuở
    “Truyện chúng mình”


    Nhất Tuấn và “Nàng thơ” (1971)
    Tình như tóc rối xin đừng gỡ ra
    (“Tóc rối”, thơ Nhất Tuấn)



    • Ngày ấy tuổi học trò
      Sân trường đầy phượng đỏ…


    Câu thơ Nhất Tuấn và mầu phượng thắm sân trường luôn gợi lại trong mỗi chúng ta nỗi tiếc nhớ xa xôi về những tháng năm tươi đẹp nhất của một đời người.

    Mầu hoa phượng trong thơ Nhất Tuấn còn gọi là “mầu hoa học trò”, mầu hoa thắm tươi và đẹp tựa mối tình đầu vụng dại của những cô cậu học trò hay mơ hay mộng.

    Tình đầu là nụ hoa vừa chớm nở, là những xao xuyến, những rung động của trái tim vừa chớm biết yêu. Tình đầu là mộng ước, là giấc mơ tươi đẹp nhất của một thời tuổi trẻ.

    Phượng đỏ, mimosa vàng

    • Bây giờ còn nhớ hay không?
      Ngày xưa hè đến phượng hồng nở hoa
      (Hoa Học Trò)


    “Ngày xưa”, hai tiếng ấy nghe sao êm đềm quá! Chuyện “ngày xưa” ấy chỉ còn lại những tấm ảnh cũ đã nhạt mầu và những cánh hoa ép khô của một mùa kỷ niệm nằm im lìm trong những trang thơ Truyện Chúng Mình một thuở.

    Sân trường phượng vỹ, tiếng ve gọi hè, và mối tình đầu thuở học trò ấy, làm sao mà quên được!

    Trong những giấc mộng nhỏ êm đềm đưa chúng ta về gặp lại một mùa nào “hoa bướm ngày xưa”, vẫn thấp thoáng những cánh phượng hồng và một sân trường kỷ niệm.

    • Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa
      gửi vào đây một bài thơ cuối cùng

      Bây giờ còn nhớ hay không
      đến người em nhận làm chồng? Mà… thôi!

      (Hoa Học Trò)


    “Mà… thôi!” Hai tiếng ấy trong câu thơ cuối của Nhất Tuấn nghe như lời trách cứ nhẹ nhàng, như tiếng thở dài thật nhẹ mà vẫn nghe lòng chùng xuống, vẫn nghe tim thắt lại.

    • Rưng rưng phượng đỏ trên đầu
      Tìm em, anh biết tìm đâu bây giờ!

      (Hoa Học Trò)


    Tôi yêu hai chữ “rưng rưng” trong câu thơ ấy. Câu thơ đọc nghe… rưng rưng.

    Tôi cũng yêu hai chữ “khắc khoải” trong thơ Nhất Tuấn.

    • Đêm nay Noel đây
      Chuông nhà thờ khắc khoải
      Gió đồi lang thang bay
      Mưa buồn giăng ngõ tối

      (Mimosa Thôi Nở)

    Câu thơ nghe một nỗi gì... khắc khoải, một không gian lạnh và buồn.

    Câu thơ cũng mang một khí hậu rất Đà Lạt, thành phố cao nguyên đầy mây trắng và sương mù, và cũng gợi nhớ những năm dài “chinh chiến điêu linh”. Rồi cuộc đời lính chiến, rồi “mấy dặm sơn khê”, rồi “mưa rừng gió núi”…, đã khiến cho những lứa đôi yêu nhau phải “người ở một phương nhớ một phương” vì những cách ngăn, chia lìa của một mùa ly loạn.

    • Lại một Noel nữa
      mấy mùa Giáng Sinh rồi
      Anh ở đồn biên giới
      thương về một khung trời

      (Niềm Tin)


    Khung trời nào đây? Thành phố nào đây? Nếu không phải là thành phố suốt đời mây bay ấy.

    • Rừng Ái Ân vẫn đó
      Hồ Than Thở còn đây
      Thông im buồn đợi gió
      Mây đồi xa còn bay

      (Nhớ Về Đà Lạt)


    Ðà Lạt như cô gái xuân thì, xinh tươi và mơ mộng. Ðà Lạt, thành phố của những tên gọi khác nhau, thành phố ngàn thông, thành phố mù sương, thành phố của tình nhân.

    Đà Lạt, trong những trang thơ Truyện Chúng Mình của Nhất Tuấn, còn là thành phố của từng cụm mây trắng lững lờ, thành phố của những hồ, những thác, những thung lũng, những ngọn đồi, những con đường dốc, những hàng thông xanh và những cánh đồng ngút ngàn hoa mimosa vàng.

    • Mimosa nở vàng cành
      Thông reo, gió đuổi mây xanh cuối trời

      (Truyện Cành Hoa Mimosa)


    Đà Lạt, trong những trang thơ Truyện Chúng Mình của Nhất Tuấn, còn là “thành phố mimosa vàng”, thành phố của những câu thơ trữ tình nhuốm màu vàng tươi của sắc hoa.

    • Nhưng em không về nữa
      Đường khuya mưa bay bay
      Mimosa thôi nở
      trong hồn anh đêm nay

      (Mimosa Thôi Nở)


    • Trong mưa bay anh thờ thẫn ra về
      Mimosa tràn ngập lối anh đi...

      (Mưa Trong Kỷ Niệm)


    Có từng sống ở thành phố của những cánh mimosa vàng rực ấy mới thấy được, mới cảm được và mới yêu được vẻ đẹp nên thơ của những cơn mưa phùn, mưa bụi ấy. Những cơn mưa lất phất đánh thức những nhớ thương dịu dàng. Những cơn mưa thật mỏng, thật nhẹ, những cơn mưa gọi là “chỉ-vừa-đủ-làm-ướt-tóc” của những đôi tình nhân.

    • Đà Lạt mờ sương khói
      một mình anh lặng im...
      Giá mình đừng gặp nhau
      trên núi đồi Đà Lạt
      Vì tình yêu ban đầu
      đã tan theo sóng nhạc

      (Tiếng Hát Đồi Sim)



    Ông bà Nhất Tuấn – Seattle, 6/2019




    Có vẻ như thành phố “mờ sương khói” ấy, thành phố của những ngày vui mơ hồ ấy, vẫn luôn ở một góc nào trong trái tim chàng thi sĩ và trong những trang thơ Truyện Chúng Mình ngày nào chàng còn ở với cuộc sống.

    Có phải vì lẽ ấy, trong chuỗi ngày ly hương và trong buổi hoàng hôn của đời người, nhà thơ đã chọn về định cư ở Seattle, “Thành phố mưa bay” hay “Thành phố ‘xanh hoài ngàn năm’” (Evergreen City) giữa miền đồi núi chập chùng ở vùng trời tây bắc Hoa Kỳ, để tưởng vọng về thành phố quê hương đầy ắp những kỷ niệm mà một phần đời của nhà thơ còn gửi lại nơi chốn ấy.

    • Tình một thuở, tình muôn thuở
      Hình như họ biết chúng mình... với nhau

      (“Chờ nhau”, Nguyễn Bính)


    Không rõ có sự đồng cảm, đồng điệu nào giữa thi sĩ Nguyễn Bính và tác giả Truyện Chúng Mình, chỉ biết rằng cả hai chàng thi sĩ đều chuộng cách gọi ấy và vẫn hay kể về những câu chuyện “chúng mình” làm xao xuyến không ít những trái tim.

    “Chúng mình” nghe thân mật hơn, thắm thiết hơn và cũng tình tứ hơn những “đôi mình”, “đôi ta”... hay bất kỳ tên gọi nào để cho hai người cùng gọi chung một tên.

    “Truyện chúng mình” của Nhất Tuấn là những chuyện vui chuyện buồn, chuyện vu vơ mưa nắng, chuyện thì thầm nhỏ to, chuyện tâm tình và hò hẹn, chuyện nhớ nhung và đợi chờ, chuyện ghen tuông và hờn trách, chuyện gặp gỡ và chia phôi, chuyện... ngàn lẻ một chuyện của những lứa đôi trên đời này.

    Thơ Nhất Tuấn là những dòng thơ hồi tưởng. Hồi tưởng về những mùa vui, tràn ngập hạnh phúc, tràn ngập thương yêu. Tâm hồn nhà thơ là tâm hồn nặng trĩu những hồi tưởng, nặng trĩu những hoài niệm quá khứ. Tuổi đời càng chất chồng, tình quê càng đậm đà. Càng xa quê lâu năm, nỗi nhớ càng thêm se sắt.


    • Tóc mây Hà Nội năm nào
      Em đem từng sợi buộc vào đời anh
      Bây giờ tóc bạc, tóc xanh
      Tình xưa anh vẫn quẩn quanh tìm hoài



    Những câu lục bát ấy ở trong bài “Tóc rối”, một trong những bài tôi yêu thích nhất của tác giả Truyện Chúng Mình. “Bắt” được những câu thơ hay trong một bài thơ hay luôn luôn là điều thú vị. Những câu thơ hay tựa những bông hoa đẹp. Những người khác có thể yêu thích những câu thơ khác trong những bài thơ khác của Nhất Tuấn, tựa như người ta yêu những bông hoa, những vẻ đẹp khác nhau vậy. Ðiều này cũng cho thấy, mỗi người đều có thể tìm được trong những trang thơ Nhất Tuấn những bài thơ, những câu thơ mình yêu thích.

    Tôi hiểu được vì sao nhiều người yêu thơ Nhất Tuấn đến độ thuộc nằm lòng hoặc nắn nót chép lại và cất giữ cẩn thận nhiều bài thơ Truyện Chúng Mình trên những trang báo cũ. Thật dễ hiểu, mỗi người đều ít nhiều bắt gặp mình, bắt gặp những câu chuyện lòng của mình trên những trang thơ ấy và vẫn muốn tìm lại bài thơ cũ mình yêu thích như đi tìm lại thuở ban đầu khó quên.

    • Bốn mươi năm, cuộc tình sầu
      Bốn mươi năm, mối duyên đầu khó quên

      (Tóc Rối)


    “Tình một thuở” trong thơ Nhất Tuấn đã hóa thành “tình muôn thuở”.

    Chàng thi sĩ ấy từng có một thời để yêu và một thời để ngồi kể lại Truyện Chúng Mình.

    Những bài thơ tình không-bao-giờ-cũ ấy, ở bất cứ tuổi nào, bất cứ thời nào, đọc lên nghe vẫn rưng rưng cảm xúc vì là những bài thơ tình muôn thuở, kể về những câu chuyện chúng mình muôn thuở, muôn-đời-muôn-kiếp-không-phai.

    Nhất Tuấn, ông đã viết hộ những đôi tình nhân những trang nhật ký tình yêu thắm thiết. Truyện Chúng Mình của Nhất Tuấn, tưởng rằng chỉ là “chuyện hai người”, tưởng rằng chỉ có “hai người” biết với nhau thôi, vậy mà đã hóa thành “truyện chúng mình” của bao nhiêu là lứa đôi.

    Nhất Tuấn, ông đã nhận được biết bao nhiêu lời cám ơn của biết bao nhiêu lứa đôi nên vợ thành chồng nhờ vào mối duyên tơ đến từ những bài thơ Truyện Chúng Mình ấy.

    Nhất Tuấn, ông đã như chìm đắm trong màn sương mù dày đặc của lãng quên vào những năm tháng cuối đời. Đôi lúc tôi bắt gặp ông ngồi lặng lẽ một mình một bóng, vẻ mặt không vui không buồn. Đôi lúc ai đó thử gõ gõ vào cánh cửa im bặt ấy để mong đánh thức được chút gì trong ông, nhưng chỉ hoài công.

    Cho dù ông có nhớ nhớ quên quên như thế nào, cho dù ông có lìa xa thế gian này một ngày nào, người ta vẫn không sao quên được ông như vẫn không sao quên được những lời thơ tha thiết ấy,

    Bây giờ còn nhớ hay không?... / Bây giờ còn nhớ hay không?

    Câu thơ cứ lặp đi lặp lại, nghe như một nỗi gì tiếc nuối xa xôi.

    Câu thơ ấy vẫn nghe vẳng lên, câu hỏi ấy vẫn đeo đuổi mãi, như muốn nhắc nhở người yêu thơ Truyện Chúng Mình tìm về những “dấu chân kỷ niệm” vẫn còn nguyên vẹn đó như những giấc mơ ngọt ngào không bao giờ tắt hẳn.

    Bây giờ còn nhớ hay không?…

    Lê Hữu


    “Nhất Tuấn, muôn thuở Truyện Chúng Mình” qua giọng đọc Bích Huyền trong Chương Trình Thơ-Nhạc đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA):





    Nguồn:https://www.diendantheky.net




              
Hình đại diện
nắng thủy tinh
Bài viết: 3554
Ngày tham gia: Thứ sáu 15/05/15 06:14

Re: Thi sĩ Nhất Tuấn qua đời

Bài viết bởi nắng thủy tinh »

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Hình ảnh
Thiên Hùng
Bài viết: 314
Ngày tham gia: Thứ tư 04/08/21 06:15

Re: Thi sĩ Nhất Tuấn qua đời

Bài viết bởi Thiên Hùng »

Hình ảnh

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Mây thiếu gió, mây buồn rơi xuống thấp
Gió thiếu cây, há được gọi cuồng phong
Cây thiếu hoa, sao tránh khỏi thẹn lòng
Hoa thiếu bướm, hoa thẫn thờ rũ cánh
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Thi sĩ Nhất Tuấn qua đời

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Nguyễn Tường Thiết: Vài Kỷ Niệm Với Anh Phạm Hậu (Trích đoạn từ bài Rải Tro Theo Gió)






    … Trưa hôm nay tôi lái xe đến thăm anh Phạm Hậu. Nhà anh Hậu ở Bothell, cách Shoreline chỗ chúng tôi ở khoảng 20 phút lái xe. Từ mấy năm nay chúng tôi có một giao ước. Cứ cách khoảng hai tháng là hai đứa phải ới cho nhau một tiếng, hẹn nhau tại một quán ăn, ăn trưa rồi ngồi hàn huyên. Luân phiên chúng tôi trả tiền. Nhưng dạo này anh hơi lẫn, ngại lái xe, nên tôi thường đến nhà anh chở anh đi.

    Từ trong nhà bước ra anh nói ngay:
    – Tôi quên mất rồi. Không biết lần này ai trả tiền, ông hay tôi?
    – Tôi cũng không nhớ. Nhưng nhầm nhò gì. Để tôi trả cho. Anh cứ “vô tư” đi cho tôi nhờ!
    – Này này! Ông đừng có lợi dụng cái bệnh Alzheimer của tôi nhé! Cái gì cũng phải cho nó sòng phẳng…

    Trong lúc lái xe tôi nghĩ đến sự tình cờ hi hữu đã khiến chúng tôi gặp lại nhau và ở gần nhau trên nước Mỹ. Bốn mươi năm trước chúng tôi có một thời gian cùng phục vụ tại Khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT. Anh Hậu lúc ấy là Thiếu tá nhưng anh chỉ tạm trú ở Tổng Cục vài tháng trước khi chờ biệt phái sang Phủ Tổng Thống. Hồi đó tôi nghe đồn anh có “gốc” lớn lắm. Sau này kể anh chuyện ấy anh cười nói: “Gốc mẹ gì! Toàn là đồn nhảm không à!”. Tôi cũng nhớ là sau khi biết tôi là con của ông cụ, anh Hậu, tác giả tập thơ Chuyện Chúng Mình, có đọc cho tôi ngay câu thơ mà anh đã làm trước đó mười năm: “Yêu Nhất Linh tôi chọn tên Nhất Tuấn”. Cùng sang Mỹ năm 1975 và cùng chọn tiểu bang miền Tây Bắc nước Mỹ để định cư, chúng tôi đã có dịp gặp nhau thường xuyên từ hơn ba mươi năm nay.

    Ăn trưa xong, bên tách trà nóng, chúng tôi ngồi ôn chuyện cũ. Lẫn trong câu chuyện hình ảnh của những người mà chúng tôi đã từng quen biết năm xưa, người mất kẻ còn, lần lượt hiện ra. Tội nghiệp Trung tá Ngô Văn Hùng, Trưởng khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT, xếp của chúng tôi, đã chết vì ngộp thở trên chuyến tàu hỏa chở những tù nhân cải tạo ra Bắc. Trung tá Nguyễn Đình Bảo, Trưởng phòng Nghiên Cứu Kế Hoạch, xếp trực tiếp của tôi, cũng đã ra đi tại tiểu bang New Jersey miền Đông nước Mỹ. Trung tá Vĩnh Huyền, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 50 CTCT, người mà anh Hậu vẫn khen là có gương mặt và tác phong rất bảnh, đã từ lâu tôi mất liên lạc, không biết còn ở Calgary bên Canada hay không. Và Thiếu tá Nguyễn Công Luận nữa, không biết anh còn ở San José hay không, sức khoẻ anh hiện ra sao…

    Bên ngoài lướt qua khung kính của nhà hàng mưa nhẹ bay bay. Bãi đậu xe lá vàng phủ ướt nhẹp. Bây giờ là cuối thu, những chiếc lá của hàng cây phong trồng trên bãi đậu xe đã bắt đầu chuyển từ màu vàng óng sang màu đỏ tía. Mỗi lần cơn gió mạnh thổi lá rụng lả tả bay đậu trên mui trên kính những chiếc xe hơi nằm trên bãi.

    Tôi nhìn anh Phạm Hậu ngắm hàng râu mép của anh và bỗng thấy anh cũng bảnh y như Trung tá Vĩnh Huyền trong hình ảnh ký ức tôi năm xưa. Chỉ khác là bây giờ râu tóc của nhà thơ này đã chuyển sang màu muối tiêu. Nhớ đến Trung tá Vĩnh Huyền tôi lại liên tưởng đến lần chúng tôi ra Huế năm 1972 và tôi nói với anh Hậu:

    – Tôi đang viết giở một bài về tướng Ngô Quang Trưởng, nghe nói anh có làm bài thơ về ông Trưởng hay lắm, anh có thể đọc cho tôi được không?

    Năm ngoái cũng trong một lần đi ăn trưa như hôm nay tôi đã kể cho anh Hậu nghe về ước muốn sau cùng của anh Trưởng là sau khi anh chết tro của anh được thả trên đèo Hải Vân. Vào mùa hạ năm 2008, một năm sau khi anh chết, ý nguyện đó đã được gia đình thực hiện. Theo lời Nhung kể cho tôi trong một lần điện đàm thì anh Trưởng có một người tài xế sống ở Việt Nam mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc và giúp đỡ từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy đã đón Nhung và các con Nhung tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Nhung mang bình tro anh Trưởng về Việt Nam. Từ phi trường chú tài xế chở mọi người về nhà chú tại ngoại ô thành phố Sài Gòn. Thật là một điều lạ lùng là nhà chú tài xế đó lại ở trên đường Thạch Lam, một con đường mới mở sau này khá lớn và dài ở sâu trong Chợ Lớn. Tôi có hỏi Nhung là chú ấy có biết Nhung là con của Thạch Lam hay không Nhung trả lời là chú ấy không biết và Nhung cũng không nói. Rồi sau đó tất cả bay ra Huế thuê xe lên đèo Hải Vân.

    Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm có một cái miếu nhỏ thờ những người bị tai nạn chết ở đó Nhung quyết định chọn chỗ này để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió. Mấy mẹ con và chú tài xế khấn nguyện trước miếu. Một lát lâu sau khấn xong ngửng lên thì trời đất bỗng dưng quang đãng hẳn lên mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng từng người một kể cả người tài xế trung thành lần lượt rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng danh của quân sử VNCH bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân nơi mà chú tài xế kia đã nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục lộ Huế-Đà Nẵng, ngọn đèo đã đưa vị tướng trấn lĩnh vùng địa đầu lên đỉnh vinh quang và cũng là ngọn đèo đã kéo vị tướng ấy xuống chốn cùng thảm bại.

    Rải tro theo gió… trên đỉnh đèo Hải Vân… ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.

    Ngậm ngùi tôi lắng nghe anh Phạm Hậu đọc bốn câu thơ sau đây của anh:

    • Lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế!
      Bao chiến công… cũng thế mà thôi.
      Hải Vân… tro rắc bốn trời,
      Hạt tro nào… lạc vào nơi cổ thành?

      Nhất Tuấn
      Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù VN (3/1954-9/1954).



    Nguyễn Tường Thiết


    Nguồn:https://www.diendantheky.net



              
Trả lời

Quay về “câu chuyện thi thơ”