Nguyễn Xuân Phước - Ngàn Cánh Hạc
Đã gửi: Thứ sáu 26/06/15 11:41
- Một Số Vấn Đề Pháp Lý
Quanh Hiệp Định Biên Giới Việt Trung
______________________________________________________________________
LS Nguyễn Xuân Phước, Tiến Sĩ Luật Khoa, Hoa Kỳ - 10/02/2002
LÀ MỘT CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI, không thực sự đại diện cho dân tộc VN, lại mang bản chất tham nhũng, hèn nhát, lại sống cạnh một "đàn anh" cộng sản khổng lồ là Trung Cộng, nên cộng sản Hà Nội đã cam tâm đem tài nguyên, đất đai của tổ quốc dâng cho cộng sản Nga, Tàu để phần đánh đổi vũ khí theo đuổi cuộc chiến xâm lăng Miền Nam, phần tìm chỗ nương tựa, đối phó với nguy cơ mệnh danh "diễn tiến hòa bình", nhằm bảo vệ quyền lực, tiếp tục cai trị, chà đạp dân tộc VN.
Nửa thế kỷ trước, thủ tướng CS Phạm Văn Đồng và bộ chính trị CS Hà Nội đã lén lút bán nước cho Tàu. Và mới đây, hai bản hiệp ước biên giới liên quan đến lãnh thổ và lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc được CSVN ký kết với CS Trung Quốc là bằng chứng mới nhất và cụ thể nhất chứng tỏ cộng sản Hà Nội vẫn sẵn sàng vì quyền lợi cá nhân và phe nhóm, tiếp tục bán rẻ tài nguyên, đất đai của tổ quốc.
Điều này chứng tỏ, về bản chất, CSVN hôm nay và CSVN cách đây nửa thế kỷ, hoàn toàn là một. Mọi việc làm, mọi chính sách, đường lối được mệnh danh là đổi mới, cải cách, hoàn toàn chỉ là những bước đi đầy mánh khóe, thủ đoạn nhằm đánh lừa dư luận trong và ngoài nước, để phụng sự cho quyền lực và quyền lợi của cộng sản.
Điều này cũng chứng tỏ, mọi ảo tưởng về những thay đổi, đổi mới của cộng sản, hoặc ảo tưởng về một người "cộng sản chân chính" được một số người Việt, một số hội đoàn, đoàn thể đấu tranh chính trị của người Việt hải ngoại nuôi dưỡng và cổ võ, hoàn toàn không có đất đứng.
Trước hành động cắt đất bán nước mới nhất của CS, một số câu hỏi then chốt được đặt ra ở đây.- Thứ nhất, đâu là những nguyên nhân đích thực đằng sau những duyên cớ quanh co được CS Hà Nội đưa ra nhằm biện minh cho hành động bán nước của chúng"
- Thứ hai, trên phương diện pháp lý và công pháp quốc tế, những hiệp ước do CS Hà Nội, một nhóm người không thực sự đại diện cho dân tộc VN, một nhóm người không do đa số dân Việt Nam bầu, ký kết với cộng sản Tàu, liệu có hiệu lực hay không"
- Thứ ba, trước hành động bán nước một cách công khai của cộng sản VN, đâu là hình thức đấu tranh thích hợp, hiệu quả và đúng đắn để chúng ta theo đuổi"
*
Hai hiệp ước biên giới liên quan đến lãnh thổ và lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hai đảng Cộng Sản âm thầm ký kết vào ngày 30 tháng 12 năm 1999 và ngày 25 tháng 12 năm 2000. Hai hiệp ước nầy đã được quốc hội Cộng Sản Việt nam thông qua cũng một cách âm thầm. Các tin tức về việc ký kết hiệp định biên giới, cho đến khi ký kết xong và được quốc hội thông qua cũng được giữ bí mật. Nội dung các hiệp ước nầy không được công bố cho nhân dân trong nước biết. Nhân dân không biết được bản đồ mới của Việt nam ngày nay ra sao. Thông tin chỉ được nhà nước tiết lộ sau khi làm lễ cắm mốc biên giới. Báo chí trong nước như tờ Nhân Dân (27 tháng 12 năm 2001) hoặc VNExpress.com chỉ làm một bản tin rất ngắn có nội dung giống nhau.
Mặc dù bị bưng bít nhưng tin tức về hiệp ước biên giới cũng lọt ra ngoài. Hơn một năm qua, các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ trong nước, và các nhà nghiên cứu ở hải ngoại và giới truyền thông không ngừng lên tiếng cảnh báo về sự việc đảng Cộng Sản sẽ dùng hiệp ước biên giới mở đường máu tìm sinh lộ cho bế tắc chính trị hiện nay. Mọi người đều e rằng đảng sẽ không ngần ngại bán đứng đất đai của đất nước để đổi lấy chế độ bảo hộ chính trị do Trung quốc đỡ đầu. Qua tin tức về buổi lễ hiến đất được cơ quan tuyên truyền của đảng Cộng Sản dè dặt loan tải, những quan ngại của những người đấu tranh cho dân chủ đã trở thành sự thật.
Bài viết nầy có mục đích duyệt xét lại một số vấn đề pháp lý chung quanh việc ký kết các bản hiệp ước nầy và các hậu quả pháp lý. Dĩ nhiên, bài viết không trả lời hết mọi câu hỏi. Tuy nhiên, người viết mong sẽ giải đáp một vài ưu tư có tính cách khẩn cấp như- hiệp ước nầy có giá trị quốc tế hay không"
Liệu chúng ta có thể phủ nhận hiệp ước nầy hay không"...
Nội Dung Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung
Về hiệp ước lãnh hải, chúng ta được biết hiệp ước nầy được ký kết vào ngày 25 tháng 12 năm 2000. Qua một số bài vở hiếm hoi chúng ta biết được sơ sơ về nội dung của hiệp ước nầy, được gọi là hiệp định “Phân Định Vịnh Bắc Bộ.” Theo ông Lê Công Phụng, thứ trưởng ngoại giao, người đặc trách lo việc đàm phán hiệp định cho biết là, chiếu theo hiệp định Vịnh Bắc Bộ, Việt Nam được 53.23% và Trung Quốc được 46.77% diện tích vịnh. (Tạp chí Cộng Sản Số 2 tháng 1-2001).
Theo tài liệu của kỷ sư Nguyễn Đình Sài thì hiệp ước phân định vịnh Bắc bộ chấm dứt hiệp ước giữa Pháp và Thanh triều. Diện tích khác biệt giữa hai hiệp ước là hơn 5,000km2 lãnh hải nay thuộc về Trung quốc.
Theo ông Ngô Nhân Dụng, báo Người Việt thì: “Trên pháp lý, văn kiện lịch sử ký năm 1895 giữa nhà Thanh bên Trung Quốc và chính quyền Pháp ở Việt Nam công nhận trong vịnh Bắc Việt phần thuộc Việt Nam chiếm 64%, Trung Quốc được 36%. Nay, Cộng Sản Hà Nội công nhận nước Việt Nam chỉ được 53%, còn Trung Quốc hưởng 47%.”
Còn hiệp ước về lãnh thổ, thì đảng Cộng Sản hoàn toàn không tiết lộ mọi chi tiết. Tuy nhiên, theo ông Trần Dũng Tiến, nhà đấu tranh dân chủ và là cựu chiến binh quân đội Bắc Việt, thì hiệp định biên giới đã ký kết ngày 30 tháng 12, 1999, ngày cuối cùng của thiên niên kỷ. Hiệp ước nầy cắt cho Trung quốc rất nhiều địa danh lừng lẫy trong lịch sử: thác Bản Giốc, suối Phi Khanh, ải Nam Quan, ải Chi Lăng. Tất cả nay đã thuộc Trung Quốc.
Theo Bác sĩ Trần Đại Sỹ thì “Việt Nam nhường cho Trung quốc dọc theo biên giới, 789 cây số vuông (chứ không phải 720 như tin lộ ra trong nước), thuộc hai tỉnh Cao bằng, Lạng sơn. Có mấy hiệp định thư (Photocol) đính kèm về việc thi hành. Quan trọng nhất là: Nhượng vùng Cao bằng, sát tới hang Pakbó, nơi Hồ Chí Minh ẩn thân lãnh đạo cuộc kháng chiến. Hang này trở thánh địa của đảng Cộng sản Việt Nam. Trước kia nằm rất xa biên giới (khoảng 50 km), nay nằm sát biên giới. Nhượng vùng đất bằng phẳng thuộc tỉnh Lạng sơn nơi có cửa ải Nam quan.
Theo bạn Dieu Van đăng tải trên trên Soc.Culture.Vietnamese thì chúng ta phải tìm hiểu nội dung hiệp ước qua các websites của Trung quốc. Bạn Dieuvan viết:- “Theo tài liệu của CSVN trước nằm 1979 biên giới Việt Nam Trung Cộng dài 1,300 Cây số nhưng theo tài liệu của CIA world Book ghi nhận sau năm 1979 còn lại là 1,281. Bây giờ sau khi ký kết bản thương ước mà được gọi là hiến đất của CSVN, biên giới chính thức mà Trung Cộng đưa ra con số là 1,200 chẵn như vậy đường biên giới thu nhỏ lại từ 1,300 Kilometters xuống 1,281 Kilometters bây giờ còn 1,200 Kilometers”.
Do tính chất bí mật của hiệp định biên giới, toàn thể nhân dân trong và ngoài nước phải dọ dẫm giải mã những tín hiệu mất nước mà họ tìm được trên internet. Nói cho ngay, nếu những hiệp ước này đem về mối lợi lớn cho Việt nam thì hệ thống thông tin tuyền truyền của Cộng Sản chắc đã không bỏ qua cơ hội ngàn vàng để ca tụng thắng lợi của đảng. Ngược lại, qua thái độ lén lút và hành vi giấu diếm của đảng Cộng Sản trong việc ký hiệp định,chúng ta có thể quả quyết được rằng đây không phải là một “thắng lợi to lớn” để cho đảng hãnh diện.
Những Vấn Đề Pháp Lý
1.Giá Trị Pháp Lý Đối Với Nhân Dân và Hiến Pháp:
Hiệp định quốc tế là hợp đồng giữa hai quốc gia. Điều tiên khởi để cho một hiệp ước có giá trị là chính phủ và người đại diện chính phủ đi ký kết đều phải có đủ tư cách pháp nhân, tính cách hợp pháp và chính thống để đại diện cho quốc gia hay nhân dân. Những yếu tố pháp lý nầy giúp cho hiệp ước có giá trị chắc chắn (certainty), vĩnh cửu và tính chất khả thi.
Vấn đề giá trị đại diện của đảng Cộng Sản đã được bàn rất nhiều, và đặc biệt trong những năm gần đây đã được phong trào dân chủ trong nước “bàn” đến cách triệt để. ở đây người viết xin bàn lướt qua vấn đề này.
a. Tính chất hợp pháp của hiến pháp:
Trong bài viết “Tính Chất Bất Hợp Pháp Của Hiến Pháp Việt nam Hiện Nay”, người viết chứng minh rằng các hiến pháp Việt Nam từ 1959 trở đi không có giá trị vì thủ tục thực hiện các hiến pháp nầy không tuân theo quy định của điều 70 của hiến pháp 1946. Điều 70 của hiến pháp 1946 đòi hỏi mọi thay đổi hiến pháp phải được toàn dân phúc quyết, tức là phải được trưng cầu dân ý. Vì tất cả các hiến pháp từ 1959 đến nay không được trưng cầu dân ý nên các hiến pháp đó không có hợp hiến, không có giá trị. Do đó, một chính quyền dựa trên một hiến pháp không có giá trị thì chính quyền đó không có tư cách pháp nhân, không có tính cách hợp pháp và không có năng lực pháp lý để đại diện cho nhân dân.
b. Tính chất bất hợp pháp của chế độ:
Trong một chế độ được gọi là dân chủ hay cộng hoà (republic), nhà cầm quyền phải được công dân bầu lên bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu tự do trong sạch. Chế độ gọi là “cộng hoà” khác với chế độ “quân chủ” ở vai trò của người dân trong việc quyết định người cầm quyền. Trong chế độ quân chủ, người cai trị nắm quyền không do lá phiếu của người dân. Nhà vua lên ngôi bằng sức mạnh, bằng sự thần phục của mọi người và bằng huyết thống. Do đó, đã là chế độ cộng hoà, dù là cộng hoà xã hội hay cộng hoà không xã hội, quyền lực của nhà nước phải được người dân ủy nhiệm bằng lá phiếu của họ qua một cuộc phổ thông đầu phiếu tự do dân chủ.
Quan niệm về chính thể Cộng Hoà (như trong cụm từ Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt nam) như nói trên, thì một chính phủ đại diện cho dân phải được nhân dân lựa chọn bằng những cuộc tổng tuyển cử tự do dân chủ có định kỳ. Trong suốt hơn 55 năm lãnh đạo đất nước, Đảng CS chỉ tổ chức một cuộc phổ thông đầu phiếu duy nhất là cuộc tổng tuyển cử năm 1946. Sau đó, họ quên làm tổng tuyển cử tự do. Ngay cả khi xua quân vào miền Nam năm 1960 họ đã nhân danh mục đích thực hiện cuộc tổng tuyển cử cho hai miền nam bắc. Sau khi chiến thắng, họ cũng không thực hiện cuộc tổng tuyển cử có quốc tế quan sát theo quy định của hiệp định đình chiến ký tại Geneve năm 1954. Đối với CS, bầu cử chỉ là hình thức, khả năng cướp chính quyền bằng bạo lực mới quan trọng.
Khả năng “cướp chính quyền” là lý do duy nhất để chế độ nầy biện minh sự độc quyền lãnh đạo đất nước. Năm 1945 họ đã “cướp” chính quyền từ các đảng phái quốc gia và từ triều đình Huế. Năm 1959 đảng Cộng Sản đã chính thức “cướp” quyền từ nhân dân bằng cách loại bỏ vai trò của công dân trong việc thay đổi hiến pháp. Với các hiến pháp tự ban hành, từ hiến pháp 1980 trở đi, họ đã chính thức thêm điều 4 hiến pháp quy định vai trò lãnh đạo độc quyền của đảng Cộng Sản. Đó là quyền lãnh đạo đất nước muôn đời. Trên bản chất đây là chế độ quân chủ. Do đó, điều 4 hiến pháp đã phủ định chế độ Cộng hoà và hai chữ Cộng Hoà Xã Hội đã hoàn toàn không có ý nghĩa pháp lý trong hiến pháp.
Trong thời đại dân chủ, quan điểm chính trị dựa vào khả năng “cướp chính quyền” bằng bạo lực, tự nó đã mất đi tính dân chủ, chính thống và hợp pháp. Do đó, một chính quyền không do dân bầu ra bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do và dân chủ, không có tư cách pháp nhân để đại diện nhân dân quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.
Do tính chất bất hợp pháp của nhà cầm quyền, tất cả hiệp ước do họ ký kết đều không có giá trị. Và giá trị thực thi của cá hiệp ước này cũng chấm dứt khi chế độ sụp đổ. Việc duy trì tích chất khả thi của các hiệp ước hay hợp đồng quốc tế đều do chế độ mới duyệt xét và quyết định dựa vào khả năng của chế độ mới đối phó với những hậu quả kinh tế quân sự hay ngoại giao do quyết định phủ nhận các hiệp ước đó gây ra.
c. Thẩm quyền ký hiệp ước quốc tế:
Vấn đề thứ hai là người đại diện đặt bút ký tên trong hiệp ước có phải là người phải có thẩm quyền để ký kết theo quy định của hiến pháp.ở đây chúng ta giả thiết là hiến pháp của CS hiện nay hợp pháp, và chúng ta phải xét người đại diện ký kết có đủ thẩm quyền do hiến pháp đó quy định hay không.
Theo chương VII điều 103 khoản 10 của hiến pháp 1992, Chủ tịch nhà nước có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: “Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm pháp, ký kết diều ước quốc tế nhân danh Nhà Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, với người đứng đầu Nhà nước khác; quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc Hội quyết định.”
Trong khi đó, chương VIII, điều 112 khoản 8 quy định quyền hạn và nhiệm vụ của chính phủ như sau: “Thống nhất quản lý công tác đối ngoại của nhà nước: ký kết tham gia, phê duyệt điều ước nhân danh chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài.”
Chiếu theo những điều khoản trên của hiến pháp 1992, chỉ có chủ tịch nhà nước là người có thẩm quyền ký kết các hiệp ước liên quan đến các vấn đề thuộc tầm mức quốc gia, tức là nhà nước CHXHCN Việt Nam, như vấn đề biên giới hiện nay; và chính phủ (thủ tướng và các bộ trưởng) có thẩm quyền ký kết các vấn đề liên quan đến quan hệ ngoại giao với chính phủ các nước. Vấn đề “nhân danh chính phủ” là những vấn đề có tính cách thủ tục và nghi lễ giữa hai nước.
Do đó,những hiệp ước liên quan đến quốc gia, như hiệp định về lãnh thổ và lãnh hải, do bộ trưởng ngoại giao ký kết đều không có giá trị pháp lý vì chúng không hợp hiến, cho dù những hiệp định đó được quốc hội thông qua.
ở đây chúng ta có thể xem lại ai là người đại diện cho Việt Nam ký kết các hiệp ước biên giới nói trên. Theo kiến nghị thư của 20 cử tri yêu cầu quốc hội không thông qua Hiệp Định Biên Giới Việt Trung thì hiệp định biên giới đưòng bộ được ký kết tại Hà Nội khi Đường Gia Truyền, Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Trung Quốc bay qua Việt nam năm 1999. Tài liệu và hệ thống tuyên truyền của Đảng Cộng Sản VN hoàn toàn không tiết lộ ai đã đại diện bên Việt Nam để ký kết. Tuy nhiên theo thông lệ ngoại giao thì phía bên Việt Nam phải là Bộ Trưởng bộ ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Và điều này được xác nhận bởi bản tin của Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
Về phần hiệp ước Phân Định Vịnh Bắc Bộ,theo Thứ Trưởng Lê Công Phụng cho biết hiệp ước này đưọc ký vào ngày 25 tháng 12 năm 2000 với sự chứng kiến của chủ tịch nhà nước Trần Đức Lương và Giang Trạch Dân. Bài viết này không nói rõ ai là người hạ bút ký đại diện cho Việt nam. Nếu nói là ông Trần Đức Lương với tư cách là nhà nước chỉ để chứng kiến, thì người hạ bút chắc không phải ông Lương. Hơn nữa nếu ông Lương ký thì tại sao ông Lê Công Phụng không nói rõ là ông Trần Đức Lương ký, mà phải nói là ông Lương “chứng kiến”"
Nếu sự kiện xảy ra như lý giải thì chủ tịch Cộng sản VN Trần Đức Lương đã không ký vào bất cứ một hiệp ước nào. Và như thế, chiếu theo chương VII điều 103 khoản 10 của hiến pháp 1992, thì các hiệp ước nầy không có giá trị đối với hiến pháp VN.
2. Giá Trị Pháp Lý Của Một Hiệp Ước Bất Hợp Pháp Đối Với Quốc Tế
Thông thường, để tránh trường hợp cãi vã về giá trị thực thi của hiệp ước, khi một nước ký kết một hiệp định với một nước khác, nước đó phải có bổn phận nghiên cứu tư cách pháp nhân của người đại diện quốc gia, cũng như những thủ tục phê chuẩn hiệp ước cần thiết để biết chắc giá trị pháp lý và giá trị thực thi của những điều khoản mà hai bên đồng ý. Trong trường hợp này, Trung quốc có trách nhiệm làm công tác sưu tra đó. Nói một cách khác, nếu những hiệp ước lãnh thổ Việt Trung đều do Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm ký kết, thì Trung Quốc đã ký kết những hiệp ước hoàn toàn không có giá trị. Và với bộ phận nghiên cứu pháp luật của Trung quốc họ phải biết là họ đã ký kết những hiệp ước hoàn toàn không có giá tri theo luật pháp Việt Nam.
Trên thực tế, dù chúng ta chứng minh rằng những hiệp ước nầy không có giá trị, giá trị cưỡng hành hiệp ước luôn luôn tùy thuộc vào thái độ quyết liệt của nước mạnh ký tên trong hiệp định. Lịch sử cho thấy những hiệp ước bất bình đẳng giữa Việt Nam với thực dân Pháp ký kết từ cuối thế kỷ thứ 19 có hiệu lực cho đến khi Pháp không còn đủ khả năng quân sự, kinh tế và ngoại giao để thực hiện các hiệp ước đó tại Đông Dương. Điều này cũng đang xảy ra cho việc giải quyết biên giới giữa Palestine, các nước ả Rập và Do Thái, và hầu hết các quốc gia có tranh chấp về biên giới.
Do nguyên tắc “mạnh được yếu thua” vẫn là nguyên tắc lõi cốt trong bang giao quốc tế, một hiệp ước quốc tế, hợp pháp hay không hợp pháp, có hiệu lực cưỡng hành hay không đều tùy thuộc khả năng quân sự, kinh tế và ngoại giao của các nước ký tên. Do đó, những lý luận liên quan đến giá trị hợp pháp của hiệp ước đều có giá trị nghiên cứu pháp lý, ngoạI giao và biện giải giá trị chính nghĩa. Còn giá trị thực tiễn của nó, hay giá trị quân sự, rất giới hạn.
Vấn đề được đặt ra là- với một hiệp ước dâng đất cho Trung Quốc như thế, khi có chính quyền dân chủ, Việt nam có quyền hủy bỏ các hiệp ước biên giới bất công đó hay không"
Câu trả lời tất nhiên là có. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, quyền phủ nhận những hiệp ước bất hợp pháp và bất lợi cho chúng ta luôn luôn bị giới hạn bởi sức mạnh quân sự, kinh tế và ngoại giao của chúng ta trong tương quan quyền lực đối với Trung quốc.
Kết Luận
Mặc dù nhà nước Cộng Sản Việt Nam- không có tư cách pháp nhân, tính chất hợp pháp để đại diện Việt Nam ký các hiệp ước biên giới dâng đất cho Trung Hoa,
và thủ tục ký kết hoàn toàn bất hợp hiến,
Đối với Trung Quốc đây là điều lợi lớn. Họ không tốn một giọt máu mà chiếm được hàng ngàn kilomet vuông lãnh thổ và hơn 5000 kilomet vuông lãnh hải. Trên mặt trận bang giao quốc tế, đối với vấn đề tranh chấp biên giới, chiếm giữ đất luôn luôn là thế thượng phong. Và để bảo vệ tổ quốc thì máu là chính, và giấy mực là phụ. Do đó, cho dù Trung quốc biết là phía Việt Nam không có tư cách pháp nhân, hiến pháp Việt Nam không hợp pháp, một khi họ đã đưọc dâng đất họ sẽ không bao giờ trả lại. Như thế, qua hiệp ước biên giới, Cộng Sản Việt Nam đã ngu xuẩn, đưa sinh mệnh dân tộc vào một con đường cùng cực kỳ hiểm nghèo mà thế hệ mai sau phải đem máu đào để trả.
Nói như nhà văn tranh đấu Dương Thu Hương:- “Lòng yêu nước của nhân dân là mỏ vàng ròng mà đảng Cộng Sản giành độc quyền khai thác”.
Đây là hành vi mà mọi người Việt yêu nước, không phân biệt chính kiến, đều tuyệt đối không thể chấp nhận. Thái độ quyết liệt đối với vấn đề chế độ CSVN dâng đất cho Trung Hoa là thước chuẩn đo lòng yêu nước của mọi người dân Việt.
Và đây cũng là giới tuyến rõ ràng nhất của người Việt chân chính yêu nước và chế độ độc tài CS bán nước hại dân.
LS Nguyễn Xuân Phước
nguồn:vietbao.com