Trang 4/11
Re: - 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do
Đã gửi: Chủ nhật 28/04/24 08:13
bởi Bạch Vân
49
Tranh Ann Phong – Những Đứa Con Thời Loạn
tháng tư đưa tay nhặt
vỡ nát của ngày xưa
còn đây, chồng sách cũ
những quả chín trái mùa
còn đây, chiều gió nổi
những ngôi mộ rạp mình
bia gỗ nào run rẩy
hồn linh nào tủi thân
chiến trường lâu đã nguội
hơi sắt và hơi đồng
mấy chục mùa hoa rụng
hư không tìm hư không
đã khô dòng máu ấm
cho đất mẹ não nề
cát vàng trôi đầu sóng
Nhật Tảo thôi hoài vọng
súng lắp đạn u mê
xếp origami
từ những trang sách cũ
xếp người chồng, người yêu
xếp người cha mất tăm
xếp người con mất biệt
với mũ bạc đường trưa
với giày sô bùn đọng
với mặt người bụi loang
trên mờ phai thù hận
xếp điệp trùng gian nan
xếp phũ phàng kết cuộc
xếp một thời quặn đau
xếp vết thương còn buốt
phóng cả vào không trung
một phần của người sống
một phần của người chết
một chút của non sông
bay lên tầng mây thẳm
thanh thoát trang sách vàng
một ngày mưa rất ngọt
vào đất giải mối oan
kc Nguyễn
Nguồn:https://vietbao.com
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo & Sư Đoàn 18 Bộ Binh
Đã gửi: Chủ nhật 28/04/24 08:25
bởi Hoàng Vân
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
& Sư Đoàn 18 Bộ Binh
Cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc
- Phần 1 -
Phạm Phong Dinh
PHẦN 1
Ba mươi năm, kể từ ngày 30.4.1975, Việt Nam Cộng Hòa ngừng tồn tại, những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị buộc phải buông súng một cách ngỡ ngàng, phải đi vào những trại tù của phía được gọi là “chiến thắng” một cách uất hận. Kể từ cái khoảnh khắc đau thương đó, cho mãi đến tận hơn một phần tư thế kỷ sau, những nhà viết sử Cộng Sản vẫn ra rả lăng mạ và sỉ nhục những người lính tạm gọi là “bại trận” của QLVNCH, bằng tất cả những phương tiện mà có thể giúp họ phun nọc đầu độc thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam sau chiến tranh. Truyền thông, sách báo, nhà văn (văn nô “phản kháng” lẫn “phản tỉnh”), là những công cụ cực tốt để làm cái loa tuyên truyền, bôi nhọ và bóp méo lịch sử. Cộng vào đó, phải kể đến một khối lượng cực nhiều sách báo của thế giới phương Tây, qua lăng kính và tài liệu của khối Cộng, thân Cộng, thiên Cộng, phản chiến và trở cờ, cũng tàn nhẫn tham gia vào cái trò chơi nhục mạ một quân đội bị bức tử một cách oan ức là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Quân lực ấy, và những người lính ấy chỉ có mỗi một lỗi lầm duy nhất, là đã dám anh dũng đương đầu với hai thế lực cực lớn để bảo vệ một nửa nước Việt Nam, mà đã bị hai thế lực ấy chia cắt ngày 20.7.1954 tại hội nghị Geneva. Sau ba mươi năm, người ta đã thấy rõ ràng, là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải nỗ lực chống trả đại khối Cộng Sản quốc tế mười ba nước, trong đó Cộng Sản và quân đội Bắc Việt được dùng làm những tên lính tiền phong xung sát, thực hiện sách lược “Dùng người Việt giết người Việt” của đại khối ấy. Trong ròng rã hơn hai mươi năm, từ năm 1954 đến năm 1975, những người lính quá đỗi khổ ải của chúng ta không những đem xương máu ngăn chống những cơn sóng bão lửa của chiến tranh ngoài tiền tuyến, mà còn phải đau đớn hứng chịu những nhát đâm chí mạng từ phía sau lưng từ phía những người gọi là bạn và bọn nội thù thân Cộng, phản chiến và theo Cộng. Rồi khi đã gục ngã một cách không mong muốn, thì những bầy quạ đen, những con kên kên từ khắp mọi nẽo đường thế giới xúm nhau vào làm cái việc an táng cuối cùng quân lực một thời kiêu hùng ấy. Bằng những cái mỏ khoằm khoằm, từ đó vang vọng những lời lăng mạ thật kinh tởm. Và bằng những cái móng vuốt nhọn bén như dao, muốn chôn vùi những chiến tích lừng lẫy của những người lính chúng ta vĩnh viễn vào quá khứ. Nhưng có phải là người lính Việt Nam Cộng Hòa đã thực chết hay không? Và những người gọi là “chiến thắng”, dành quyền sĩ nhục người bại trận, có phải thực sự chiến thắng hay không?
Cộng Sản Hà Nội nên nhớ lại cơn ác mộng chiến bại Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 và cuộc không tập mười hai ngày đêm trên lãnh thổ Bắc Việt trong mùa Giáng Sinh cuối năm ấy. Ngày cuối cùng Cộng quân chỉ còn đúng sáu chiếc hỏa tiễn Sam, lãnh đạo Hà Nội với những anh Ba anh Tư, và những ông tướng huyền thoại đang chuẩn bị trói mình đầu hàng vô điều kiện, thì người ta đã dễ dàng dành cho họ một con đường sống bằng Hiệp Định Paris ký với nhau ngày 27.1.1973. Như vậy, chỉ trong vòng có mười hai ngày thôi, quân đội Hoa Kỳ đã có thể nhanh chóng tống táng chế độ Cộng Sản cùng hung cực ác Hà Nội xuống tận đáy địa ngục nếu muốn. Thì có vinh dự gì mà bọn Cộng Sản Bắc Việt còn có can đảm vỗ ngực chiến thắng và nguyền rủa những người lính Việt Nam Cộng Hòa kém may mắn. Cái “chiến thắng” mà chúng cứ ra rả ngày đêm chưa thấy mỏi mệt, thực chất chỉ là một màn trình diễn của những con người chiến bại tinh thần, luôn luôn cảm thấy xấu hổ và mặc cảm thua kém mọi bề từ tận đáy thâm tâm của họ. Nhưng dù sao thì sau ba mươi năm, gió cũng đã đổi chiều. Bên cạnh hàng ngàn cuốn sách mà chúng ta vừa nhắc đến ở trên, đã xuất hiện ngày càng nhiều những cuốn sách mới được viết từ những sử gia Tây phương, với cái nhìn vô tư hơn và ít thiên kiến hơn để thẩm định lại những sự thực lịch sử trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhờ vào những tài liệu khổng lồ đã được giải mật trong các văn khố của Hoa Kỳ, cũng như của Nga, mà trước năm 1990 là Liên Xô, những nhà viết sử đã được đi thẳng, hay nói thật đúng là đã bới móc sâu vào tận cùng những bí mật hiểm hóc nhất, để trưng ra cho công luận thế giới những khía cạnh đứng đắn nhất của lịch sử. Những sử gia Hoa Kỳ, mà trong những thập niên trước đây đã cho ấn hành những cuốn sách đầy dẫy thiên kiến, lệch lạc, chưa nói đến sự ấu trĩ. Có lẽ là vì lúc đó người ta cần phải bào chữa cho những điều mà chính phủ của họ đã theo đuổi. Hoặc biện hộ cho sự nhượng bộ khối Cộng. Hay tàn nhẫn hơn, trút mọi lỗi lầm và sự hèn nhát của họ vào một đối tượng tế thần là nước Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng dần dần rồi cũng có những sử gia có lương tâm và tỉnh táo hơn, đã tận tụy tìm kiếm tài liệu từ cả hai phía, đã phân tích và gạt ra ngoài những định kiến, chỉ chắt lọc những dữ kiện. Từ những dữ kiện đó, chúng đủ nói lên được nhiều điều chưa từng được nói.
Từ những ký ức đau buồn của một lần gọi là bại trận của một người lính, từ những hoài cảm về những trang chiến sử chói lọi của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi đã may mắn nhận được vài chục trang biên khảo của sử gia Hoa Kỳ, ông George Jay Veith viết về Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn trong cuộc chiến đấu cuối cùng tháng 4.1975 mà ông đã đặt tựa là “Fighting is an Art: The ARVN Defense of Xuan Loc, April 9- 21, 1975″ (Chiến Đấu Là Một Nghệ Thuật: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Phòng Thủ Xuân Lộc, từ 9 – 21.4.1975). Sử gia Jay Veith đã không gặp phải khó khăn lắm trong vấn đề nghiên cứu các tài liệu viết bằng tiếng Việt từ hai phía, vì nhờ có một sử gia Hoa Kỳ cộng tác, ông Merla L. Pribbenow, rất thông thạo Việt ngữ. Ông Pribbenow là một nhân viên Tòa Đại sứ Hoa Kỳ từ năm 1970 đến năm 1975, từng dịch sang Anh ngữ nhiều tài liệu và sách Việt ngữ viết về chiến tranh Việt Nam. Trong thư mục tham khảo nguồn tài liệu hay trực tiếp phỏng vấn phía Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi ghi nhận các tác giả: Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Đại Tá Hứa Yến Lến, Phạm Huấn, Hồ Đinh, Nguyễn Đức Phương và Phạm Phong Dinh. Về phía nguồn tài liệu Bắc Việt, hầu hết các nhân vật cao cấp từng viết sách về chiến tranh Việt Nam như Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, Hoàng Cầm, Đào Đình Luyện, Nam Hà, v.v…
Trong bài biên khảo khá dài này, sử gia Jay Veith đã diễn tả lại rất tỉ mỉ những chuẩn bị chiến tranh từ hai phía. Một bên là Quân Đoàn 4 Cộng Sản Bắc Việt, với các Sư Đoàn 6, 7 và 341 dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Hoàng Cầm, một danh tướng của Cộng quân, với sự giám sát và hỗ trợ của Tướng Trần Văn Trà, Tư Lệnh Lực Lượng Quân Giải Phóng Miền Nam, thuộc Trung Ương Cục Miền Nam. Cấp cao hơn nữa là Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch Nguyễn Huệ (trong tháng 4.1975 đổi thành chiến dịch Hồ Chí Minh) do Tướng Văn Tiến Dũng chỉ huy. Rồi cao hơn hết là Bộ Chính Trị tại Hà Nội do “anh Ba” Lê Duẫn chỉ đạo nghệ thuật. Một bên là Sư Đoàn 18 Bộ Binh thiếu thốn quân số vì những trận đánh liên miên từ đầu năm 1975, với Thiếu Tướng Tư Lệnh Lê Minh Đảo cùng các đơn vị tăng phái như Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của Đại Tá Nguyễn Văn Đỉnh; Địa Phương Quân và Nghĩa Quân Long Khánh dưới quyền của Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long mới vừa từ tỉnh Quảng Đức băng rừng về đến. Cấp chỉ huy trực tiếp của Thiếu Tướng Đảo là Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III & Quân Khu III, sau khi đồng ý trả Trung Đoàn 48 của Trung Tá Tá Trần Minh Công từ Tây Ninh về cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh, thì ông đã phải rất bận rộn với những điều động và bố trí khác, đã mặc nhiên giao phó mặt trận Long Khánh cho Thiếu Tướng Đảo. Cấp chỉ huy cao hơn nữa là Bộ Tổng Tham Mưu thì cũng đang bù đầu tái tổ chức các đơn vị di tản từ Quân Khu I và Quân Khu II về. Vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao QLVNCH là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng chẳng ra một lệnh cần thiết nào cho Thiếu Tướng Đảo.
Như vậy, ở cương vị Tư Lệnh Sư Đoàn, Thiếu Tướng Đảo đã gánh vác sức nặng của cuộc chiến cuối cùng, đương đầu với một quân đoàn hùng hổ quân Cộng cùng một hệ thống chỉ huy chằng chịt và hung hãn. Thiếu Tướng Đảo đã nói với ông Jay Veith: “Tướng Toàn đang rất bận rộn tổ chức phòng thủ Sài Gòn, trông cậy tôi lo liệu chuyện Sư Đoàn 18 Bộ Binh và khu vực trách nhiệm. Tôi không nhận được lệnh nào từ Tổng Thống Thiệu và Bộ Tổng Tham Mưu trong việc phòng thủ Xuân Lộc. Đối với tôi thì chuyện này cũng dễ hiểu, vì tính linh động mềm dẽo của QLVNCH, trong khi phía Cộng Sản, không một cá nhân nào có thể thực hiện mọi quyết định tự ý được”. Điều mà Jay Veith muốn nhấn mạnh ở đây là nghệ thuật phối trí và chỉ huy chiến trận của cả hai phía. Một phía là những tập hợp gọi là “đỉnh cao của trí tuệ”. Còn một phía, chỉ duy nhất một danh tướng của VNCH là Thiếu Tướng Lê Minh Đảo. Một cuộc đọ sức đọ trí giữa các cấp chỉ huy Cộng quân và cấp chỉ huy một sư đoàn QLVNCH trong vòng mười hai ngày đêm, mà chiến thắng vang dội của phía số ít đã làm rúng động thế giới và làm cho các quân đoàn Cộng quân phải xáo trộn, Tướng Hoàng Cầm bị thay thế bằng chính Tướng Tư Lệnh Quân Giải Phóng Miền Nam Trần Văn Trà. Rồi Trần Văn Trà cũng chẳng làm nên được cơm cháo gì, buộc phải rời bỏ chiến trường Xuân Lộc đi vòng xuống Biên Hòa tiến đánh Sài gòn. Như vậy có vinh quang gì không, khi tướng lãnh Cộng Sản viết sách ngợi ca chiến thắng (giả tạo và được người Mỹ ban tặng).
Trong những ngày Quân Đoàn I và Quân Đoàn II di tản về miền duyên hải và cố gắng tìm về khu vực Quân Khu III, thì các Sư Đoàn 5, 18 và 25 của Quân Đoàn III đã có những trận đánh với Cộng quân và chịu nhiều thiệt hại. Nhưng những trận đánh này đã rất mờ nhạt trong những tin tức chiến sự hàng ngày, vì hậu phương và giới truyền thông báo chí đang chú tâm theo dõi cuộc di tản của quân dân từ miền cao nguyên và miền Trung vào. Cho nên khi mặt trận Long Khánh nổ lớn tại thành phố Xuân Lộc, thì người ta mới lại chú ý đến Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Người ta không được biết rằng, quân số của sư đoàn đã sụt xuống mức báo động. Nhiều tiểu đoàn quân số 450 người, khi trận Xuân Lộc bắt đầu, chỉ có không quá 350 chiến binh. Một tiểu đoàn gồm bốn đại đội, mỗi đại đội quân số đầy đủ phải trên 150 người. Giờ đây mỗi đại đội chỉ có không quá 100 chiến binh, nhưng phải cáng cáng công việc gấp rưỡi. Có nghĩa là người lính QLVNCH phải đổ máu xương gấp rưỡi để giữ vững Xuân Lộc. Nếu diễn tả lại diễn tiến trận đánh kéo dài từ những ngày Sư Đoàn 18 Bộ Binh giao chiến với các Sư Đoàn 6 và 7 BV trong lãnh thổ tỉnh Long Khánh cho đến ngày nổ ra trận Xuân Lộc từ ngày 9.4.1975 thì có lẽ phải cần một cuốn sách dày vài trăm trang. Chúng tôi chỉ xin được lược diễn lại những giai đoạn quan trọng nhất và xin được chú trọng vào những diễn biến nổi bật, cũng như những con người và những yếu tố làm nên thành chiến thắng Xuân Lộc.
Cấp chỉ huy chiến trường của quân Cộng
Để biết Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã đánh cho bọn tướng tá Hà Nội thua xiểng liểng đến như thế nào, chúng ta hãy cùng điểm một vài khuôn mặt cấp chỉ huy của địch quân trực tiếp hay gián tiếp trong trận đánh Xuân Lộc. Người chịu trách nhiệm mặt trận Long Khánh là Thiếu Tướng Hoàng Cầm. Tướng Cầm, bí danh Nam Thạch, từng tham dự trận Điện Biên Phủ năm 1954, lúc đó ông làm Tiểu Đoàn Trưởng, trực thuộc trung đoàn mà đã xông vào trung tâm và bắt sống được tướng Tư Lệnh De Castries. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Tướng Cầm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 312 nổi tiếng thiện chiến, rồi được điều làm Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bắc Việt, khi sư đoàn này thành lập ngày 2.9.1965. Trong mùa hè 1973, Tướng Cầm được đề bạt lên làm Tham Mưu Trưởng Trung Ương Cục Miền Nam, và chức vụ cuối cùng là Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Cộng Sản BV nhận lệnh tấn công Xuân Lộc để mở toang cánh cửa tiến xuống Sài Gòn. Quân Đoàn 4 của Tướng Hoàng Cầm gồm các Sư Đoàn 6, 7 và 341.
Sư Đoàn 341 là một trong những sư đoàn non tuổi đời nhất so với các sư đoàn kỳ cựu như Sư Đoàn 2, 3, 304, 308, 324, 325, v.v.. Đại Tá Trần Văn Trấn được gọi nắm sư đoàn cuối năm 1973. Trước đó Trấn làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1BV và bị quân ta bắt làm tù binh trong năm 1970. Trấn đã khôn khéo dấu tung tích, chỉ khai là nhân viên quân y. Khi Hiệp Định Paris ký kết, hai bên trao trả tù binh, Trấn trở về Bắc và nhanh chóng được giao cho nắm Sư Đoàn 341. Thông thường thì một cán bộ tù binh được trả về Bắc, rất có nhiều triển vọng được các đồng chí Hà Nội cho vô nằm nhà đá đếm lịch, nhưng trường hợp của Trấn lại là ngoại lệ. Tháng 2.1975, Đại Tá Trấn nhận lệnh đưa SĐ 341 vào Nam. Binh đội sư đoàn được 500 chiếc xe vận tải theo đường Hồ Chí Minh vào đến khu vực Quân Khu 7 của Cộng quân, bao gồm hầu hết lãnh thổ Quân Khu III của Việt Nam Cộng Hòa. Ở đây, Đại Tá Trấn cùng ban tham mưu của ông ta được lệnh điều nghiên chiến trường Long Khánh, đặc biệt thám sát địa thế thành phố Xuân Lộc, để chờ Sư Đoàn 7 CSBV từ miền Lâm Đồng đổ xuống làm nỗ lực chính cường tập.
Viên phụ tá Tư Lệnh Mặt Trận Long Khánh là Tướng Bùi Cát Vũ chịu trách nhiệm các kế hoạch hành quân của Sư Đoàn 7 Cộng Sản Bắc Việt. Tư Lệnh sư đoàn là Lê Nam Phong, biệt danh “Nam Lửa” (Fiery Nam), vì tính khí nóng nảy, người gốc Nghệ An. Sư Đoàn 7 Bắc Việt là một sư đoàn cứng của Cộng quân, từng tham dự những trận đánh lớn ở An Lộc, Phước Long. Cho nên nó được chọn làm nỗ lực chính công phá chiến tuyến Xuân Lộc của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo. Sau khi tỉnh Ban Mê Thuột của Quân Khu II rơi vào tay địch quân trong đầu tháng 3.1975, thì Tướng Hoàng Cầm đề nghị cho quân đoàn của ông ta đánh tràn xuống Quân Khu III của Việt Nam Cộng Hòa, với sự hỗ trợ của Tư Lệnh Quân Giải Phóng Trần Văn Trà. Nhưng Lê Duẫn, tán đồng ý kiến của Tướng Văn Tiến Dũng, đã ra lệnh cho Sư Đoàn 7 hành quân lên đánh chiếm tỉnh Lâm Đồng, chờ các quân đoàn khác đánh chiếm miền duyên hải Quân Khu II, rồi cùng vào đánh Xuân Lộc. Nhưng sau này, khi Lê Duẫn nhận thấy tình hình quá suy sụp của VNCH, liền lệnh cho Phạm Hùng, Ủy Viên Chính Trị Trung Ương Cục Miền Nam lợi dụng sự hỗn loạn ấy để đánh xuống phía Nam. Vì vậy Sư Đoàn 7 Bắc Việt đang hành quân lên Lâm Đồng nhận lệnh trở xuống Long Khánh. Sư Đoàn 6 Cộng quân hình thành từ tháng 8.1974, là sư đoàn nhẹ chỉ có hai trung đoàn được cấu thành từ các đơn vị độc lập trong Quân Khu 7, hoạt động trong quân khu. Tướng Tư Lệnh là Đặng Ngọc Sĩ, từng làm Tư Lệnh Sư Đoàn Đặc Công 27.
Những trận đánh đầu năm 1975
Các đơn vị của Sư Đoàn 6 và 7 Cộng quân đã từng giao tranh ác liệt với Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Địa Phương Quân & Nghĩa Quân trong khu vực Long Khánh, trong lúc quân dân Quân Khu I và II đang ùn ùn đổ về Quân Khu III, và trước khi nổ ra chiến cuộc Xuân Lộc. Một buổi họp quan trọng giữa Tướng Bùi Cát Vũ, Tướng Lê Đức Anh, Tư Lệnh Phó B2 (Cao Nguyên) và Tướng Lê Nam Phong, Sư Đoàn 7 BV được giao trách nhiệm đánh thông Quốc Lộ 20 từ hướng Bắc quận Túc Trưng đến Phương Lâm. Để làm được điều này, Tướng Nam Lửa phải đánh chiếm cho được quận Định Quán và tiêu diệt Chi Khu. Ngày 17.3.1975 tiếng súng của giặc bắt đầu nổ rền trời Định Quán. Quân Cộng đụng phải chiến tuyến rất cứng của các chiến sĩ Địa Phương Quân & Nghĩa Quân trong Chi Khu, với hỗ trợ vòng ngoài của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 43, thuộc SĐ18BB, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã cẩn thận gửi tiểu đoàn thiện chiến nhất của ông lên giữ con lộ 20 huyết mạch này. Các chiến sĩ Đại Đội 377 Địa Phương Quân, dù quân số và vũ khí ở thế hạ phong, vì quân giặc quá đông cộng với chiến xa yễm trợ, nhưng đã anh dũng giữ vững được cao điểm bảo vệ Chi Khu trong vòng hai ngày. Chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/43 cũng bận rộn chống trả những làn sóng tấn công điên cuồng của địch, nhưng cuối cùng buộc phải rút về một cụm đồi không cao lắm ở hướng tây, cách thị trấn lối vài cây số, một điểm cao nhìn xuống con sông La Ngà. Trung Đoàn 209 BV tiếp tục tấn kích Tiểu Đoàn 2/43. Thiếu Tá Chế cùng chiến hữu giữ vững cao điểm dưới áp lực rất nặng của quân Cộng. Thiếu Tá Chế cho hai khẩu pháo 105 ly chúc mũi bắn trực xạ bằng đầu đạn Beehive chống biển người. Trong vòng vây trùng điệp của giặc, tiểu đoàn hao mòn dần.
Vận rủi lại giáng thêm một đòn chí mạng lên chiến sĩ SĐ18BB, khi một chiếc F-5 ném bom lầm lên đầu quân ta. Con số thương vong của tiểu đoàn qua những ngày giao tranh đã lên đến 80 người, Thiếu Tá Chế nghiến răng quyết không nhường một tấc đất cho giặc dù ông có hy sinh trên cao điểm này, nhưng Thiếu Tướng Đảo đã lệnh cho Thiếu Tá Chế dẫn quân về Núi Thị, cao điểm bảo vệ phía Tây Xuân Lộc. Trung Đoàn 209 BV thúc quân đánh tới cầu La Ngà. Thiếu Tá Lầu Vĩnh Quay, chỉ huy Địa Phương Quân gọi pháo binh bắn ngay lên vị trí của ông, giết chết nhiều địch quân, nhưng chiếc cầu La Ngà vẫn lọt vào tay địch. Gần như cùng thời điểm đó, Tiểu Đoàn 3/43 của quân ta trấn giữ quận Hoài Đức bảo vệ Tỉnh Lộ 303 trong tỉnh Bình Tuy cũng bị quân Cộng bức thoái. Trong tình hình khẩn trương đó, với Trung Đoàn 48 còn đang hành quân ở Tây Ninh, Trung Đoàn 52 không thể rời khỏi Xuân Lộc, nhận thấy quân ta bị căng mỏng quá mức, Thiếu Tướng Đảo quyết định gọi hai Tiểu Đoàn 1/43 và 4/43 rút quân về bảo vệ Xuân Lộc. Như vậy phần phía Bắc của tỉnh Long Khánh đã lọt vào tay giặc. Sư Đoàn 18 Bộ Binh, từ ngày Thiếu Tướng Đảo về làm Tư Lệnh tháng 4.1972, là một trong hai lực lượng cơ động của Quân Đoàn III (cùng với Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi) Đông xông Tây đụt, Nam bình Bắc phạt trong phạm vi những tỉnh Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy, Tây Ninh và tăng viện liên miên cho các sư đoàn bạn. Sức người chiến sĩ có hạn mà cường độ chiến tranh ngày càng nóng đỏ, đến sắt thép cũng phải chảy mềm. Hầu hết các sử gia Hoa Kỳ và phương Tây không hiểu, không biết hoặc không muốn biết người lính QLVNCH đã chiến đấu đến tận cùng khổ ải như thế nào. Thiên kiến trong sách của họ là, quân ta “nhởn nhơ” trong lúc quân Mỹ thiệt mất đến 58.000 người. Hình như họ không dám đưa ra con số 250.000 chiến sĩ QLVNCH tử trận và trên nửa triệu chiến sĩ thương phế, để biện minh cho sự tháo chạy của người Mỹ. Ít nhất thì sử gia Jay Veith đã dành những hàng trân trọng ngợi ca người lính của chúng ta và dành cho các anh một chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử.
Song song với hoạt động của Sư Đoàn 7 Bắc Việt, Sư Đoàn 6 BV cũng tấn công các vị trí khác của quân ta dọc theo khu vực Liên Tỉnh Lộ 2 dẫn về phía Nam đến Bà Rịa, đồng thời tấn chiếm các đồn Địa Phương Quân & Nghĩa Quân tại Ngã Ba Ông Đồn và Gia Ray. Vị trí ĐPQ trên Núi Chứa Chan sau hai ngày chiến đấu khốc liệt cũng chịu rút bỏ. Sư Đoàn 6 Bắc Việt tiếp tục áp lực một khu vực dài 50 cây số phía Đông Xuân Lộc theo Quốc Lộ 1 về Bình Tuy. Như vậy, ý đồ của Tướng Hoàng Cầm là cô lập Xuân Lộc với cao nguyên từ hướng Quốc Lộ 20, với tiếp vận và tăng viện từ Sài Gòn trên Quốc Lộ 1 ở phía Nam, và với miền duyên hải Quân Khu II cũng trên QL1 ở phía Đông. Đến ngày 28.3.1975, Sư Đoàn 7 Cộng quân quặt lên hướng Bắc tấn công tỉnh Lâm Đồng. Sai lầm chiến thuật này đã buộc quân địch phải trả một cái giá, sau những ngày tháng 3.1975 thắng lợi. Thiếu Tướng Đảo lệnh cho Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 52, dưới quyền của Đại Úy Huỳnh Văn Út và Đại Đội 52 Trinh Sát tấn công và tái chiếm được Núi Chứa Chan. Khi quân của Đại Úy Út tiến đánh một địa danh gọi là Ngã Ba Cua Heo gây thiệt hại rất nặng cho các đơn vị của Trung Đoàn 270, thuộc Sư Đoàn 341BV, thì dân chúng vùng Kiệm Tân hân hoan đem tặng chiến sĩ SĐ18BB hai con bò và 200.000 đồng để khao quân. Khi nhận được tù binh gửi về, Thiếu Tướng Đảo hết sức sững sốt nhìn những người bộ đội với khuôn mặt sợ hãi, non choẹt ở tuổi thiếu niên. Họ chỉ trong độ tuổi 16, 17, là những học sinh bị bắt vào quân đội huấn luyện qua loa trong vòng hai tuần lễ rồi bị dồn vào Sư Đoàn 341. Qua hai mươi năm chiến tranh, bọn lãnh đạo cùng hung cực ác Hà Nội đã vét tới những người thiếu niên cuối cùng ngoài miền Bắc ném vào lò lửa miền Nam, để thỏa mãn tham vọng điên rồ, là làm cho máu dân tộc chảy láng lênh thành cả một đại dương thãm sầu, xương trắng chất chồng cao dầy như dãy Trường Sơn. Tiếng kêu khóc hai miền vang vọng lên đến chín cõi trời, đến quỷ thần cũng phải rùng mình.
(Mời đọc tiếp phần 2)
Phạm Phong Dinh
https://hon-viet.co.uk/PhamPhongDinh_Th ... anLoc1.htm
===========================
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
& Sư Đoàn 18 Bộ Binh
Cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc
- Phần 2 -
Phạm Phong Dinh
PHẦN 2
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo cố gắng tái chiếm lại những cao điểm chung quanh Xuân Lộc. Ông biết sớm muộn gì rồi thì Xuân Lộc cũng là một bãi chiến trường lớn, rất lớn, quyết định số phận của Việt Nam Cộng Hòa. Gánh nặng của cuộc chiến tranh hai mươi năm bây giờ đang đè nặng lên vai ông, một trong nhũng cây cột trụ cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Với sự ra đi của Sư Đoàn 7 BV, Sư Đoàn 18 Bộ Binh của chúng ta có được những khoảnh khắc quí báu để tái tổ chức, bổ sung quân số và tái trang bị cho một cuộc thư hùng mà sẽ rất đẫm máu. Bộ Chính Trị Cộng Sản nhận định đã đến lúc giáng một đòn quyết định đánh gục Việt Nam Cộng Hòa. Bại tướng Võ Nguyên Giáp trong hai cuộc chiến Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 làm báo cáo gửi lên Lê Duẫn, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản với những nhận xét của ông ta như sau: “Vì sự chiến đấu “yếu kém”, sự thiệt hại nặng nề và tinh thần suy sụp của QLVNCH, thay vì chờ đợi sự tập hợp các quân đoàn, một cuộc cường kích của B 2 (tức các đơn vị cao nguyên) sẽ hủy diệt được Thiệu. Khi quân đội VNCH “sợ hãi” bỏ chạy, thì các đơn vị đặc công và cảm tử đã đột nhập được vào Sài Gòn, sẽ dậy lên một cuộc “tổng… nổi dậy”, kết hợp với các lực lượng bên ngoài đánh vào”. Dường như ông Giáp vẫn chưa học được bài học và cơn ác mộng “tổng nổi dậy” của ông ta. Ông ta cứ mơ tưởng ngày đêm một cuộc tổng nổi dậy hoang tưởng, ít nhất hai lần đã chôn vùi tên tuổi huyền thoại của mình trong năm 1968 và 1972. Khi dân chúng miền Nam không chịu tổng nổi dậy với binh đội miền Bắc, thì Giáp đã ra lệnh cho quân ông ta dội pháo làm cho nhiều chục ngàn dân chúng các thành thị năm 1968 và người dân ba tỉnh Quảng Trị, Kontum, An Lộc năm 1972 phải tổng… nằm xuống vĩnh viễn một cách oan khuất.
Thiếu Tướng Hoàng Cầm trong ngày 3.4.1975 trở lại bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Bắc Việt đóng về phía Đông-Nam cầu La Ngà bắt đầu chiến dịch Xuân Lộc. Sư Đoàn 7 BV đang hành quân trên QL20 tiến về Đà Lạt nhận lệnh quày trở lại. Sư Đoàn 341 chịu trách nhiệm mở những cuộc thám sát địa hình địa vật. Sư Trưởng 341 (cách gọi Tư Lệnh sư đoàn của phía Cộng) Trần Văn Trấn, Sư Phó, các Trung Đoàn Trưởng vượt sông La Ngà gặp các cán binh địa phương nhờ dẫn đường. Ngày 5.4.1975, công cuộc nghiên cứu địa thế, binh tình Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Tiểu Khu Long Khánh kết thúc, trong đó, theo quân sử phía Cộng thì chỉ huy trinh sát là Lê Anh Thiện đã đột nhập vào đến chỗ cư ngụ của Tỉnh Trưởng Long Khánh, Đại Tá Phạm Văn Phúc. Ngày 6.4.1975 Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 341BV gửi phúc trình và kế hoạch tấn công. Quân Đoàn 4 Bắc Việt chấp nhận. Trận thế chiến tranh hình thành như sau: Trung Đoàn 266 sẽ đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố. Trung Đoàn 270 tấn kích Gia Tân (vùng Kiệm Tân) và Núi Thị, mà trên đó trấn đóng một tiểu đoàn Pháo Binh của SĐ18BB, một trung tâm Truyền Tin và Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Trung Đoàn 273 BV làm lực lượng trừ bị, trong khi đó Trung Đoàn Pháo Binh 55 BV phụ trách yễm trợ hỏa lực, Tiểu Đoàn Phòng Không 12 trách nhiệm khống chế vùng trời. Hai Trung Đoàn 33 và 274 của Sư Đoàn 6 BV sẽ bao vây Xuân Lộc ở phía Nam và chận đánh quân ta ở Ngã Ba Dầu Giây trên Quốc Lộ 1. Sư Đoàn 7 BV làm nỗ lực chính nhận lệnh đánh hủy diệt Trung Đoàn 48 của Đại Tá Trần Minh Công, Sư Đoàn 18 Bộ Binh, từ đó chiếm lấy khu vực Tân Phong ở mặt Nam Xuân Lộc. Tuy nhiên sau đó kế hoạch thay đổi. Trung Đoàn 165 của SĐ 7BV sẽ đánh các đơn vị hậu cứ và Bộ Tư Lệnh của SĐ18BB, cũng như chiến tuyến phía Đông-Bắc Xuân Lộc do Trung Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng trấn giữ. Trung Đoàn 209 Bắc Việt phải đánh chiếm con đường QL 1 từ Suối Cát đến Tân Phong, và Trung Đoàn 141 BV làm trừ bị. Như vậy trận thế bao vây và tấn công của Quân Đoàn 4 địch đã hình thành, giống như cái miệng túi đang dần thắt chặt lại. Chúng ta hãy xem Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh sẽ vạch kế hoạch chiến đấu và phòng thủ ở Xuân Lộc như thế nào, mà sử gia Mỹ Jay Veith đã gọi đó là một nghệ thuật.
Nghệ thuật bố trí trận liệt của Bộ Tham Mưu Sư Đoàn 18 Bộ Binh Trong lúc Hoàng Cầm đang ráo riết chuẩn bị kế hoạch đánh Xuân Lộc, thì Thiếu Tướng Đảo và Bộ Tư Lệnh của ông cũng rất bận rộn thiết trí trận liệt phòng thủ những cao điểm, yếu điểm chung quanh Xuân Lộc và thị xã Xuân Lộc. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo sinh ngày 5.3.1933 tại Sài Gòn, nhưng các cụ thân sinh thì gốc gác ở tỉnh Long An. Tốt nghiệp Khóa 10 Trường Võ Vị Quốc Gia Đà Lạt khi ông vừa đúng hai mươi tuổi. Là một chiến sĩ rất dũng cảm, chẳng mấy chốc mà số lượng huy chương tưởng thưởng cho ông đã đầy hết ngực áo. Nhưng với bản tính khiêm tốn, hiếm khi người ta thấy ông đeo những chiếc huy chương đó. Thiếu Tướng Đảo là một trong những vị tướng đi lên chức vụ của mình bằng những chiến công ngoài chiến trường. Ông đã từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội, từng làm Tỉnh Trưởng Chương Thiện và Định Tường. Đỉnh cao nhất trong đời quân ngũ của ông khi ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh từ tháng 4.1972, vinh thăng Chuẩn Tướng tháng 11.1972. Ngày 23.4.1975, Tổng Thống Trần Văn Hương gắn Bảo Quốc Huân Chương và vinh thăng ông lên Thiếu Tướng.
Thiếu Tướng Đảo nổi tiếng là một vị Tướng thanh liêm, cần mẫn, năng động, kiên quyết và trí dũng song toàn. Sĩ quan và binh sĩ dưới quyền rất thương mến vị Tư Lệnh của họ, vì Thiếu Tướng Đảo luôn quan tâm chăm sóc đời sống thuộc cấp và gia đình họ. Ông luôn có mặt ở những vị trí tiền tuyến của sư đoàn để nâng cao tinh thần chiến binh. Nguyên tắc làm việc của ông mà ông đòi hỏi các cộng sự viên phải tuân thủ là liên lạc xuống dưới ít nhất hai cấp. Thí dụ, một Trung Đoàn Trưởng phải nắm được tình hình tận cấp Đại Đội, hay thấp hơn nữa. Với hệ thống làm việc sát cánh này, tinh thần binh sĩ lên rất cao, vì lúc nào họ cũng nghe thấy cấp trên đang có mặt bên cạnh. Họ đền đáp sự quan tâm ấy bằng những chiến thắng vang dội và lòng trung thành tuyệt đối.
Phụ tá cho Tư lệnh là một giàn sĩ quan xuất sắc. Đại Tá Hứa Yến Lến, Tham Mưu Phó kiêm Tham Mưu Trưởng/Hành Quân/ SĐ18BB, cánh tay phải của Thiếu Tướng Đảo, cùng chia xẻ gánh nặng chiến cuộc trong những ngày tàn khốc. Đại Tá Lến trong suốt đêm 20.4.1975 triệt thoái ra khỏi Xuân Lộc đã đảm nhận trọng trách bảo toàn đoàn cơ giới cồng kềnh của Sư Đoàn, trong đó có hai khẩu đại bác 175 ly của Quân Đoàn III, và ông đã đem toàn bộ đoàn cơ giới ấy nguyện vẹn về được căn cứ Long Bình, Biên Hòa. Trấn đóng ở những điểm trọng yếu bảo vệ Xuân Lộc, là những cấp chỉ huy trẻ tài giỏi của QLVNCH, với Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43; Trung Tá Trần Minh Công, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 48 và Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 52. Thiếu Tướng Đảo đặc biệt để ý nâng đỡ các sĩ quan cấp thấp và trao gắn cấp bậc vinh thăng lên nắm những tiểu đoàn. Với giàn sĩ quan trung đoàn, tiểu đoàn đầy tài năng, Thiếu Tướng Đảo có thể yên tâm nghênh chiến quân Cộng. Vị chỉ huy lực lượng Địa Phương Quân & Nghĩa Quân Long Khánh cùng hợp tác phòng thủ Xuân Lộc là Đại Tá Phạm Văn Phúc. Đại Tá Phúc xuất thân từ binh chủng Biệt Động Quân, nổi tiếng là một sĩ quan xuất sắc và rất dũng cảm. Ông được điều về làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Long Khánh từ ngày 1.4.1975. Một thời điểm đã quá muộn để ông có thể chấn chỉnh nâng cao tinh thần và khả năng chiến đấu của các chiến sĩ diện địa. Vị tỉnh trưởng tiền nhiệm đã không chăm sóc đúng mức đời sống binh sĩ và tìm hiểu tâm tư cùng giúp đỡ ít nhiều gia đình của họ. Nhưng được chiến đấu dưới quyền của một Đại Tá Mũ Nâu trẻ, tận tụy trong tinh thần huynh đệ chi binh, các chiến sĩ diện địa đã đánh những trận long trời, bắn cháy nhiều chiến xa địch và giữ vững Xuân Lộc trong vòng mười hai ngày đêm. Trong ngày di tản ra khỏi Xuân Lộc, chiếc xe Jeep của Đại Tá Phúc bị trúng một trái B 40, ông bị thương nặng và rơi vào tay giặc. Được phóng thích từ trại tù Cộng Sản sau năm 1975, Đại Tá Phúc hiện vẫn còn sinh sống ở Việt Nam.
Cần phải kể thêm sự đóng góp quan trọng và quyết định của Đại Tá Hưng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, một sĩ quan Pháo Binh ngoại hạng. Thiếu Tướng Đảo đặc biệt dành cho Tướng Hoàng Cầm một cái bẫy mà ông gọi là “máy nghiền thịt”, với kế hoạch hỏa lực kinh khủng trông cậy vào tài năng của Đại Tá Hưng. Thiếu Tướng Đảo bố trí các khẩu pháo của ông như sau. Một khu vực “chết” nằm ở bìa hướng Tây Xuân Lộc mà sẽ bị 24 khẩu 105 ly và 12 khẩu 155 ly dội bão lửa xuống. Mười khẩu 105 ly được di chuyển lên Núi Thị dưới sự bảo vệ của Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Hai khẩu 105 ly tăng cường cho Trung Đoàn 43 của Đại Tá Hiếu nằm trong Xuân Lộc. Hai khẩu khác qua tăng cường cho Tiểu Khu Long Khánh. Mười hai khẩu 105 ly được điều cho Trung Đoàn 48 trấn đóng Đồi 300. Chưa kể hai khẩu 175 ly của Quân Đoàn III tăng phái sẵn sàng bắn xa đến ít nhất 30 cây số để làm câm họng các khẩu 130 ly của địch được đặt gần Bộ Chỉ Huy của Tư Lệnh sư đoàn tại ngã ba Tân Phong. Đại Tá Hưng đích thân điều chỉnh tất cả những khẩu đại pháo. Ông cho các xe bulldozer ủi những hố sâu đặt những khẩu pháo để che dấu. Những hố pháo này ăn thông với những hầm tránh pháo kích do Công Binh thiết kế, để bảo vệ các chiến sĩ Pháo Binh và kéo những khẩu pháo vào ẩn trú bên trong. Với sáng kiến này, quân Cộng khó có thể phát giác vị trí Pháo Binh của quân ta để dội đạn xuống hủy diệt, trong khi đó thì những vị trí pháo của chúng bị Pháo Binh SĐ18BB pháo kích dữ dội, nhờ các điểm cao quan sát của ta báo cáo về khi phát giác được. Để có thể dự trữ khối lượng đạn pháo dành cho kế hoạch, Tướng Đảo đã phải giảm mức tiêu thụ hàng ngày xuống còn 20%. Với sự phân tán các khẩu trọng pháo của quân ta vào những vị trí bí mật, đến ngày Cộng quân nổ súng tấn công, chúng đã không hủy diệt được pháo của quân ta, và Đại Tá Hưng đã dội lửa xuống những con sóng tấn công biển người của địch, gây thiệt hại rất nặng cho chúng. Song song đó, Thiếu Tướng Đảo cũng cho di chuyển bộ binh ra nằm ngoài rìa thị trấn, cho nên thiệt hại vì pháo địch rất nhẹ khi chúng dồn hỏa lực bắn vào trung tâm. Rồi khi quân giặc ào ạt tràn vào thành phố, lập túc bị quân ta từ bên ngoài siết chặt vòng vây tấn công ngược vào làm bọn chúng hoảng loạn bỏ chạy ra khỏi thành phố. Bản thân Thiếu Tướng Đảo cũng di chuyển liên tục trong ba bộ chỉ huy sư đoàn khác nhau, Cộng quân cứ bắn dò mãi mà không tìm thấy ông. Trong khi đó thì Thiếu Tướng Đảo đang ung dung đứng dưới chiến hào với chiến sĩ của mình. Thiếu Tướng Đảo đã cho thiết lập ba Bộ Chỉ Huy ở ba vị trí khác nhau, một đặt ngay trong tư dinh Tư Lệnh trong Xuân Lộc, một tại Tân Phong và một khác trong rừng cao su. Để làm cho binh sĩ yên tâm chiến đấu và tránh cảnh hỗn loạn, Thiếu Tướng Đảo trước ngày 9.4.1975 đã cho máy bay trực thăng di tản tất cả gia đình binh sĩ và thương bệnh binh về căn cứ Long Bình.
Để nghênh chiến với trận liệt bố trí bộ của địch, Thiếu Tướng Đảo thiết trí chiến tuyến của Sư Đoàn 18 Bộ Binh như sau. Trung Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng giữ khu vực Túc Trưng và Núi Trản gần sông La Ngà và khu vực Ngã ba Dầu Giây, với sự yễm trợ của Chi Đoàn 3, Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh. Một đại đội dưới quyền chỉ huy của Trung Úy Mại Mạnh Liêu thuộc Tiểu Đoàn 3/52 của Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ, lên trấn giữ Đồi Móng Ngựa nằm về phía Đông Quốc Lộ 20. Chỉ với một đại đội này, Trung Úy Liêu và chiến sĩ SĐ18BB đã giữ vững vị trí mặc dù địch tổ chức nhiều cuộc tấn công biển người cấp tiểu đoàn, đánh cho giặc những trận thất điên bát đảo và bị thiệt hại nặng. Về hướng Đông Xuân Lộc, cao điểm Núi Thị được trao cho Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Tiểu Đoàn 1/43 của Đại Úy Đỗ Trung Chu và Tiểu Đoàn 3/43 của Thiếu Tá Nguyễn Văn Du trấn giữ các yếu điểm dẫn vào thành phố từ hướng Đông. Đại Đội 18 Trinh Sát dưới quyền của Đại Úy Phạm Hữu Đa nổi tiếng húc như điên phòng thủ trường trung học ở hướng Tây-Bắc Xuân Lộc. Trung Đoàn 43 quyết tâm tử thủ Xuân Lộc, quân ta đánh quá dữ và gây tổn thất lớn cho Sư Đoàn 341. Cộng quân ghi nhớ mối hận này, chỉ vài ngày sau QLVNCH bị buộc buông súng ngừng chiến đấu, Thiếu Tá Du bị giặc bắt tại nhà riêng ở Vũng Tàu rồi đem đi hành quyết ngay sau đó. Đại úy Chu may mắn sống sót, hiện nay ông đang sinh sống tại Úc Đại Lợi. Tiểu Đoàn 1/48 thuộc Trung Đoàn 48 của Trung Tá Trần Minh Công cùng hai chi đoàn của Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh của Trung Tá Nô được giữ làm lực lượng trừ bị, trong khi đó thì Tiểu Đoàn 3/48 nằm giữ Quốc Lộ 1 ở hướng Đông Xuân Lộc, Tiểu Đoàn 2/48 vẫn còn bị kẹt nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho thị xã Hàm Tân, Bình Tuy, không về tham chiến được trong những ngày đầu. Hai Đại Đội Địa Phương Quân 353 và 367 dưới quyền Đại Tá Phúc phòng thủ thành phố.
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh với các Tiểu Đoàn 1, 2, 8 và 9 Nhảy Dù, khoảng 2.000 chiến sĩ, cùng với Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù là một tấm lá chắn cứng ngắt ở phần phía Nam Xuân Lộc, đã giao chiến dữ dội với quân Sư Đoàn 7 BV trong khu vực đồn điền của Thống Tướng Tỵ, còn gọi là Vườn Ông Tỵ, sau khi được trực thăng vận xuống trong ngày 11.4.1975. Nhân dịp 100 chiếc UH này trở về, các phi công thuộc Sư Đoàn 3 và 4 Không Quân đã giúp di tản thật nhiều thương binh và đồng bào ra khỏi mặt trận đang lên đến cơn đỏ lửa nhất. Trưa ngày 6.4.1975, Thiếu Tướng Đảo được báo tin có một đơn vị lạ của quân ta đang hành quân về hướng Xuân Lộc. Khi liên lạc với nhau, ông được biết đó là Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân, thuộc Liên Đoàn 24 Mũ Nâu. Thiếu Tá Vương Mộng Long, Tiểu Đoàn Trưởng đã dẫn dắt tiểu đoàn của ông băng rừng từ quận Kiến Đức tìm về miền Đông, sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và Quân Đoàn II triệt thoái từ ngày 16.3.1975. Liên Đoàn 24 Mũ Nâu với ba Tiểu Đoàn 63, 81 và 82 BĐQ đã bị kẹt trên miền cao tỉnh Quảng Đức, đã phải lội bộ trong những cánh rừng Trường Sơn bạt ngàn, thậm chí đi xuyên qua những mật khu của Cộng quân, lấy thực phẩm trong những kho hậu cần của chúng, đến hai mươi ngày sau mới về đến miền Đông. Tiểu Đoàn 63 và 81 Mũ Nâu lại nhận lệnh ra tăng phái cho mặt trận Phan Rang. Tiểu Đoàn 82 Mũ Nâu quân số hao hụt chỉ còn có 200 chiến binh sau khi về đến được thị xã Bảo Lộc, Lâm Đồng, rồi từ đó hành quân xuống tăng phái cho SĐ18BB. Thiếu Tá Long là một trong những sĩ quan trẻ xuất sắc của binh chủng Biệt Động Quân, nên trong khu vực trách nhiệm của mình là phòng thủ phi trường, ông và 200 chiến sĩ Mũ Nâu đã đánh quân giặc thua xiểng liểng và bị thiệt hại nặng. Với trận liệt mà Thiếu Tướng Đảo đã bố trí, với những cấp chỉ huy tài năng và anh dũng như vậy, dù quân ta quân số thiếu kém, hỏa lực yếu nhưng đã đánh một trận cuối cùng làm rúng động thế giới và làm cho quân giặc cúi mặt kinh hoàng.
Ngày 8.4.1975 Thiếu Tướng Đảo bàng hoàng được Quân Đoàn III báo tin cho hay người bạn của mình là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III đã chết một cách bí mật ngay trong văn phòng của ông, nên Thiếu Tướng Đảo vội lên trực thăng trở về Biên Hòa thăm hỏi. Cũng trong thời điểm đó thì Thiếu Tướng Đảo nhận được một tin khó chịu khác nữa. Tên nằm vùng Cộng Sản Đại Úy phi công Nguyễn Thành Trung lái một chiếc F5E bỏ bom Dinh Độc Lập, với ý định giết chết Tổng Thống Thiệu, nhưng Tổng Thống Thiệu không hề hấn gì. Rồi sau khi đào tẩu ra phía Cộng quân Trung đã lái và dẫn nhiều chiếc A-37 trở vào oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất ngày 29.4.1975. Sau nhiều cuộc thảo luận với Quân Đoàn III, Thiếu Tướng Đảo vào căn cứ Long Bình điều hợp công tác tiếp vận cho SĐ18BB và ông ngủ đêm tại đây. Đến 5G 40 sáng thì Quân Đoàn 4 BV cho nổ phát đại bác đầu tiên bắn vào Xuân Lộc mở màn cho cuộc chiến. Quả nhiên quân Cộng đã nghiên cứu rất tỉ mỉ địa hình Xuân Lộc, nên những trái đạn pháo đã dội trúng Bộ Chỉ Huy 1 của Tương Đảo. Đại Tá Hứa Yến Lến gọi điện báo tin cho Tướng Đảo, rằng tư dinh của ông đã bị phá hủy. Thật may mắn cho đất nước chúng ta, nếu Tướng Đảo về sớm hơn và vào Bộ Chỉ Huy 1, thì sự mất mát quá lớn đó sẽ là nhát chém chí mạng cuối cùng lên QLVNCH. Thiếu Tướng đảo lập tức lên trực thăng lao vào Xuân Lộc, tham dự cuộc chiến đấu cuối cùng và lừng lẫy nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông.
Cuộc quyết chiến Xuân Lộc
Trung Đoàn 165 của Sư Đoàn 7 Cộng quân được chọn làm mũi nhọn tấn công chính trong giây phút đầu tiên công phá vị trí Sư Đoàn 18 Bộ Binh từ hướng Đông. Có 8 chiếc T54 được tăng cường cho cánh quân này, với ý đồ dùng những con ngoáo ộp này đè bẹp quân ta. Bộ binh và thiết giáp giặc ầm ầm xông tới với một khí thế mạnh mẽ và tự tin, chúng có ảo tưởng rằng chiến sĩ Sư Đoàn 18 cũng sẽ không đánh mà tan và sẽ vỡ chạy như các đơn vị ngoài Quân Khu I và Quân Khu II. Nhưng sự chuẩn bị thế trận và tinh thần rất tỉ mỉ của Bộ Tham Mưu Sư Đoàn 18 Bộ Binh đâu phải để chạy mà là dành cho quân giặc một sự ngạc nhiên đớn đau. Nên nhớ là Xuân Lộc không phải là Pleiku, Huế hay Đà Nẵng. Mà là chiến tuyến được đốt lên bằng thứ lửa thịnh nộ của người lính Quân Khu III.
Sư Trưởng Nam Lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt đã phạm một lỗi lầm rất lớn không thể tha thứ được, là ông ta đã bỏ qua giai đoạn trinh sát thực địa thực lực đối phương trước khi ban lệnh tấn công. Cuộc gọi là “chiến thắng” dễ dàng trong những ngày tháng 3.1975 đã làm tăng thêm sự kiêu ngạo đến ngỗ ngáo của bọn tướng tá Cộng Sản. Lẽ ra Nam Lửa phải đích thân tìm hiểu xem ông ta đang đối đầu với những ai mới phải. Nam Lửa đã mắc sai lầm lớn mà có thể sẽ đưa ông ta về Bộ Tư Lệnh Miền để trình diện cấp trên, và sẽ phải trả lời ông ta đánh giá Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Tư Lệnh Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo ra làm sao mà Sư Đoàn 7 của ông ta đã bị thiệt hại đến 2,000 bộ đội, một con số có thể trả giá bằng cái đầu của ông ta.
Với tư tưởng chắc thắng đó Trung Đoàn 165 Bắc Việt từ lúc 5 giờ 40 sáng đã dùng chiến thuật biển người tràn lên hung hăng xông qua tám lớp hàng rào kẽm gai chằng chịt của quân Nam. Nhưng ngay trong giờ đầu tiên, binh đội Cộng Sản đã bị các chiến sĩ Tiểu Đoàn 1 và 3 của Trung Đoàn 43, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Xuân Hiếu đánh gục ngay tại chỗ. Một ngạc nhiên đẫm máu đang chờ đón tám chiếc xe tăng của giặc. Chiến sĩ Trung Đoàn 43 đã phát minh một sáng kiến “tân kỳ” diệt tăng địch từ một khoảng cách rất an toàn. Những khẩu M 72 “Bà Già Giết Giặc” được giương ra sẵn và đặt trên một cái giá cố định đã được ngắm trước, bộ phận kích hỏa được nối với những bình điện. Người bấm dây diện sẽ nấp trong chiến hào ở một chỗ rất kín đáo và an toàn, chờ xe tăng địch đến đúng tầm, a lê hấp bấm mạch điện. Chiếc hỏa tiễn đen nhánh với 2 in 75 (khoảng 3 phân rưỡi) xịt một cái xẹt đúng vào pháo tháp địch, sức nóng trên 2,000 độ C của nó xoáy sâu vào lớp thép dầy chui vào bên trong và nổ bùng lên. Trong khoảnh khắc 4 chiếc T54 bị bắn cháy ngay trước vòng rào chiến tuyến, lính thiết giáp địch có chết cũng không nhắm mắt, vì chúng không thấy đối phương nào nhú đầu lên bắn cả. Vậy thì cái gì đã bắn chúng chứ hả. Khi ánh bình minh lên, đoàn khu trục cơ A 1, A 37 và F 5 từ Biên Hòa gầm rú xuất trận làm cho tinh thần quân ta càng bốc cao ngất trời. Trong những ngày Long Khánh đỏ lửa, Không Quân Việt Nam đã góp phần tích cực và quyết định trong nhiều trận đánh khốc liệt, mà nếu không có những người phi công dũng cảm đến phi thường đó, anh em bộ binh dưới đất còn gặp nhiều vất vả và tổn thất thêm nhiều máu xương. Mũi dùi thứ hai, binh đội Trung Đoàn 209 Cộng Sản ào ào ôm AK, B40, B41 chạy vào chiến tuyến của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân mới vừa từ mặt trận Quảng Đức về đến Long Khánh chỉ có mấy ngày. Một trung đoàn địch tưởng có thể áp đảo 200 chiến sĩ Mũ Nâu. Nhưng đụng phải Thiếu Tá Vương Mộng Long, một hào kiệt Biệt Động Quân và những ngườ lính Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân đang bừng bừng cơn uất hận triệt thoái Quân Khu II, Trung Đoàn 209 bị đánh văng ra khỏi trục Quốc Lộ 1 với thiệt hại rất nặng. Thiếu Tướng Hoàng Cầm, Tư Lệnh Mặt Trận đã phải kêu lên trong cuốn Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân (Quân Bắc cộng): “Không có đợt tấn công nào của sư đoàn (7) vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn 18 ngụy (sic) và hậu trận của Trung Đoàn 52 đạt thành quả. Bộ đội chúng ta đã chật vật đánh nhau với địch để giành quyền kiểm soát từng đoạn chiến hào, từng căn nhà, từng góc phố. Giải thích tinh thần chiến đấu can cường của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Chuẩn Tướng Đảo cho biết: “Tất cả chiến sĩ đều quyết chiến đấu. Thậm chí những sĩ quan tham mưu, binh sĩ hậu cứ đều vào tuyến đánh địch. Còn nữa, tất cả những thành phần chiến thương hay lao công đào binh đều được phép cầm súng tử chiến. Tất cả chiến sĩ đều rất dũng cảm và giết nhiều quân địch”.
(Mời đọc tiếp phần 3)
Phạm Phong Dinh
https://hon-viet.co.uk/PhamPhongDinh_Th ... anLoc2.htm
===========================
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
& Sư Đoàn 18 Bộ Binh
Cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc
- Phần 3 -
Phạm Phong Dinh
PHẦN 3
Sư Trưởng Đại Tá Trần Văn Trấn của Sư Đoàn 341 tân lập non kém mới từ miền Bắc vào Nam thận trọng hơn Nam Lửa nhiều. Biết mình biết người, Trấn đã cất công đi trinh sát tỉ mỉ vị trí và trận thế của quân ta. Khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn 341 ở hướng Tây Bắc Xuân Lộc nhờ có địa thế hiểm trở bảo vệ, nên cuộc tấn công của sư đoàn này vào Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng tương đối “dễ thở” hơn từ hướng Đông Bắc khá trống trải của Sư Đoàn 7 Bắc Việt. Trấn cho Trung Đoàn 266 chia nhiều cánh tấn công vào khu trường trung học, chỗ Đại Đội 18 Trinh Sát của Đại Úy Phạm Hữu Đa và vào khoảng đường ngoặt vòng gọi là Ngã Ba C. Các máy bay yểm trợ hỏa lực Hỏa Long C119 của Không Quân đã tức tốc bao vùng và xạ kích dữ dội xuống những chiếc áo màu rêu lổn nhổn ngoài 5 lớp kẽm gai phòng thủ, cộng thêm với quyết tâm của Đại Úy Đa và em út của ông, Trung Đoàn 266 bị đánh bật trở ra ngoài. Những thành phần khác của Trung Đoàn 266 Bắc Việt mở mũi đột phá định xông về hướng Đông xuyên qua vị trí của Tiểu Đoàn 340 và 342 Địa Phương Quân dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Long Khánh. Hai Tiểu Đoàn 5 và 7 của Trung Đoàn 266 Cộng Sản bị quân Trinh Sát và Địa Phương Quân đánh tan nát, tiểu đoàn còn lại với 300 bộ đội buộc phải bỏ trận địa tìm cách đi vòng qua khỏi trường trung học và đã xâm nhập sâu 300 thước vào tỉnh lỵ Xuân Lộc. Khu chợ Xuân Lộc, nhà thờ, bến xe đò, Tiểu Khu Long Khánh tràn ngập địch quân. Đến 7 giờ 40 sáng, quân Trung Đoàn 266 của Sư Đoàn 341 đã bắt đầu quậy phá thành phố, nhưng quân ta vẫn kiểm soát phần lớn Xuân Lộc.
Tại mặt trận phía Tây, Trung Đoàn 270 Bắc Việt tiến đánh căn cứ Núi Thị và Gia Tân, nhưng chạm phải sức kháng sự kiên quyết của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 43 Bộ Binh làm nó bị khựng lại. Mới chỉ bị tổn thất có 12 bộ đội mà Trung Đoàn 270 đã vội vã chém vè (rút lui) về vị trí xuất phát chờ lệnh mới. Để đương đầu với tất cả những mũi dùi đột phá và những cánh quân vào sâu trong Xuân Lộc của quân Cộng, Chuẩn Tướng Đảo tung ra một đợt phản công rất quyết liệt. Từ lúc 11 giờ trưa, lực lượng trừ bị của Sư Đoàn 18 là Tiểu Đoàn 1 của Trung Đoàn 48, do Trung Tá Trần Minh Công làm Trung Đoàn Trưởng, cùng với các thiết kỵ của Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh bắt đầu hoạt động càn quét địch. Sư Đoàn 341 liền gọi Trung Đoàn 270 còn nguyên vẹn lực lượng gửi một tiểu đoàn thọc ngang hông Tiểu Đoàn 1/48 để chận bước tiến của quân ta. Nhưng ở trên chiến trường Long Khánh này, phía địch đã mất hết yếu tố bí mật, các đơn vị địch dần dần lộ diện và tập trung đông đảo. Đó là điều mà Chuẩn Tường Đảo và Sư Đoàn 3 Không Quân cùng Pháo Binh chờ đợi từ những ngày đầu thiết kế. Càng tập trung quân phía địch càng lâm vào thế thất lợi và thiệt hại lớn, vì dễ dàng làm mồi cho các loại hỏa lực rất hùng hậu của quân ta. Những dàn đại pháo 130 ly, 122 ly từng gây nhiều sóng gió trên những mặt trận khác đã tỏ ra vô hiệu quả trên chiến trường
Long Khánh. Những khẩu 105 ly và 155 ly được Đại Tá Hưng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 18 phân tán ở những vị trí được ngụy trang cẩn thận, ông còn cho xe ủi đào những đường sâu rộng trong đất và kéo pháo xuống dấu, chỉ còn ló lên mũi súng. Chiến sĩ Pháo Bnh được đất mẹ bảo vệ chung quanh nên rất ung dung và hăng hái yểm trợ hỏa lực cho chiến hữu Bộ Binh. Chiến thuật rải quân chận địch ngay ngoài chu vi thị xã của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18 đã ngăn chận hiệu quả thành phần tiền sát viên địch bám sát vào các vị trí pháo của ta để chỉ điểm tọa độ. Cho nên, trong trận Xuân Lộc, pháo binh địch chỉ bắn dò dẫm như những anh mù và pháo bừa bãi vào khu dân cư, gây tội ác lên dân chúng vô tội rất giống thời An Lộc, Quảng Trị và Kontum của mùa hè 1972. Phụ tiếp với Tiểu Đoàn 1/48, Tiểu Đoàn 1/43 và hai Tiểu Đoàn 340, 342 Địa Phương Quân mở cuộc tảo thanh khu trục thành phần Trung Đoàn 266 của Sư Đoàn 341 xâm nhập tỉnh lỵ hồi sáng. Trung Đoàn 266 liều chết cố bám thành phố nên đã cam chịu thiệt mạng đến 600 cán binh.
Tại khu vực trách niệm của Sư Đoàn 6 tân lập Cộng Sản, áp lực của sư đoàn này đè nặng lên các tiểu đoàn Địa Phương Quân về hướng Tây Xuân Lộc. Trung Đoàn 274 Cộng quân tấn công xã Trần Hưng Đạo và chiếm được đoạn Đèo Mẹ Bồng Con. Đây là con đường đèo thấp chạy xuyên qua một khu rừng cao su, địa thế rậm rạp, rất thuận lợi cho địch quân thiết trí chốt từ Ngã Ba Dầu Giây về phía Xuân Lộc. Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 6 hỗ trợ cho Trung Đoàn 274 bằng cuộc tiến đánh làng Hưng Nghĩa và Hưng Lộc trệch về phía Tây Ngã Ba Dầu Giây. Nhưng thật ngạc nhiên và thật ngỡ ngàng cho cánh quân đánh Hưng Lộc, khi đơn vị Nghĩa Quân Long Khánh ở đây người ít, súng kém mà đã đánh quá hăng, làm quân Trung Đoàn 33 không vào được. Ý định khống chế Ngã Ba Dầu Giây cũng không thành vì Tiểu Đoàn 1/52 Bộ Binh của quân ta đã ngăn chận được. Tuy nhiên trận chiến đấu càng kéo dài thì Sư Đoàn 18 Bộ Binh càng không còn đủ quân số để hành quân càn quét những chốt chận trên Quốc Lộ 1 ở khu vực này, quân ta chỉ có thể giữ chắc những chiến tuyến án ngữ hướng tiến của địch.
Ngày đầu tiên bị thất lợi và thiệt hại trên khắp mọi hướng tấn công, Hoàng Cầm, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Cộng quân kiêm Mặt Trận Long Khánh buộc phải chấp nhận lời thỉnh cầu của Tướng Bùi Cát Vũ, Tư Lệnh Phó, điều động thành phần dự bị là Trung Đoàn 141 nhập cuộc. Các Trung Đoàn 165, 209 đều nhận thêm chiến xa và đơn vị phòng không để khai diễn đợt tấn công kế tiếp. Sư Đoàn 341 lệnh cho Trung Đoàn 270 tìm cách xâm nhập thành phố để “chi viện” (danh từ tăng viện tiếp cứu mặt trận của phía Việt cộng) Trung Đoàn 266 đang rách nát tả tơi. Cũng khoảng 5 giờ 27 sáng ngày 10.4.1975, Quân Đoàn 4 Bắc Việt mở màn cuộc tấn công đợt hai vào Xuân Lộc bằng 1,000 trái đạn pháo đủ loại vào thành phố. Đạn nổ tứ tung và bừa bãi chỉ gây đổ nát thêm cho nhà cửa dân chúng, nhưng không hề hấn gì đối với chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Vì từ những ngày trước khi mặt trận nổ, Chuẩn Tướng Đảo đã cho di chuyển các đơn vị ra thiết trí ngoài thành phố và di tản tất cả gia đình binh sĩ và thương binh về Biên Hòa. Một số dân chúng cũng được trực thăng Chinook CH 47 bốc về nơi an toàn. Nên hy vọng sẽ tạo nên một bãi máu thịt kinh khiếp như thời An Lộc của Tướng Hoàng Cầm đã không gây được một mức độ đáng kể nào, ngoài những đống gạch, tôn thiếc cháy đổ ngỗn ngang khắp nơi. Chuẩn Tướng Đảo còn chu đáo bố trí những trạm quan sát trên những cao điểm để phát giác các điểm đặt súng đại bác của địch, từ đó dàn nhạc Pháo Binh của Đại Tá Hưng và Không Quân dội xuống tiêu diệt chúng. Hoạt cảnh chiến bại lập lại y hệt một cách lạ lùng như ngày 9.4.1975. Trung Đoàn 209 vẫn bị Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân ghìm chân ở phía phi trường. Trung Đoàn 165 Cộng quân vẫn không qua được Trung Đoàn 43 của Trung Tá Trần Minh Công, mà lại hao tốn thêm 5 chiếc T54 nữa. Thế mới đau.
Cũng giống như ngày hôm trước, đến trưa hai Tiểu Đoàn 1/43 và 1/48 của Sư Đoàn 18 làm thành hai gọng kềm đánh từ ngoại ô vào và từ lòng thành phố ra để dọn dẹp bộ đội Sư Đoàn 341 ẩn náu trong thành phố. Nhiều tù binh trẻ măng, quá trẻ là đằng khác, chỉ khoảng 16, 17 tuổi, bị quân ta bắt được trong trạng thái kinh hoàng tột độ. Đó là những em bé còn ngồi ở ghế nhà trường bị Cộng Sản đem xe đến xúc đi chở vào quân trường. Ở đó những thiếu niên nạn nhan này được huấn luyện qua loa chạy, nằm, trườn, bò, cách bắn súng, thảy lựu đạn trong vòng không quá một tuần lễ, để rồi bị thảy vào lò lửa miền Nam. Rất nhiều cậu bé mặt mũi xanh xám vì chết khiếp nằm núp trong những ống cống mà băng đạn còn nguyên xi trong ổ AK chưa bắn một viên nào. Cuộc trường chinh làm tay sai cho quốc tế Cộng Sản của bọn Cộng Sản khát máu Hà Nội chính là một cuộc trường thiên đại tàn sát thế hệ trẻ và người dân vô tội hai miền Nam Bắc.
Thất bại buổi ban ngày, bọn tướng tá cộng vẫn không chịu cam tâm khuất phục, chúng tiếp tục khuấy phá thành phố suốt đêm với 2,000 trái đạn pháo. Chúng đang áp dụng chiến thuật làm sức lực quân ta tiêu hao, mệt mỏi vì mất ngủ như đã làm ở An Lộc. Nhưng những chiếc C130 trang bị đại bác 20 ly của Sư Đoàn 3 Không Quân Việt Nam đã cất cánh lên vùng trời Long Khánh xạ kích yểm trợ quân bạn. Quân cộng lại thối lui, những trục đường tiếp liệu và tải thương gặp nhiều khó khăn vì phi cơ Không Quân bắn dữ quá.
Mặt trận Long Khánh bước sang ngày thứ ba 11.4.1975, Hoàng Cầm lệnh cho Sư Đoàn 341 bằng mọi giá phải đánh thủng chiến tuyến của Trung Đoàn 43 Bộ Binh để bắt tay với Sư Đoàn 7. Lúc 5 giờ 30 sáng, pháo binh địch đã dội một cơn bão lửa xuống thành phố Xuân Lộc trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Màn lửa đạn của chúng dần dần chuyển về phía Núi Thị và Tân Phong để yểm trợ khu vực tấn công của Sư Đoàn 7 Bắc Việt. Nhưng thật khốn khổ cho lũ cán binh địch, nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì. Hai cánh quân của Sư Đoàn 341 và 7 Cộng quân vẫn bị đánh văng trở ra y hệt như hai ngày trước, trong khi đó chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã tái chiếm lại được gần hết những vị trí bị giặc xâm nhập trong Xuân Lộc. Sư Đoàn 7 có 300 cán binh bị thương, Sư Đoàn 341 có 1,200 bị thương. Đó là con số của phía Cộng quân công bố, trong thực tế con số này còn cao hơn nhiều. Ngoài ra Hoàng Cầm cũng thừa nhận là tất cả súng không giật 85 ly và 57 ly sau ba ngay giao chiến đều đã bị Sư Đoàn 18 Bộ Binh hủy diệt hết. Hơn 100 chiếc xe vận tải của địch rùng rùng tuôn xuống từ phía Bắc trên Quốc Lộ 20 bị Không Quân Việt Nam chận đánh dữ dội buộc phải quay đầu tháo chạy.
Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh xung trận
Tuy rằng Quân Đoàn 4 Bắc Việt đang bị ghìm chân ở Long Khánh và bị thiệt hại rất nặng, nhưng Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nhận định rằng, ý nghĩa của mặt trận Long Khánh không phải chỉ liên quan mỗi vấn đề phòng thủ, mà còn là tinh thần chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nếu quân ta có thể gây tổn thất nặng nề cho quân Cộng, chiến thắng đó sẽ gây tác dụng tốt trong tình thế hiểm nghèo của Việt Nam Cộng Hòa, và có thể lật ngược được cán cân đang rất bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế, bằng mọi cách phải khai thác chiến thắng Xuân Lộc và củng cố hùng khí chiến đấu của Sư Đoàn 18 bằng cách gửi một lực lượng chia sẻ bớt sức ép của địch trong tỉnh Long Khánh. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, vừa mới lên nhận chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III & Quân Khu III thay thế Trung Tướng Dư Quốc Đống chưa được mấy thời gian, đã rất bận rộn đương đầu với vấn đề sinh tử của quốc gia. Tướng Toàn lập tức điều động Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng cường Biệt Động Quân và Pháo Binh để trở thành Lực Lượng Kỵ Binh Xung Kích Quân Đoàn III, vào mặt trận Long Khánh. Nhiệm vụ tiên khởi của Chuẩn Tướng Khôi sẽ là khai thông trục Quốc Lộ 1 từ xã Hưng Nghĩa cho đến Ngã Ba Dầu Giây. Chuẩn Tướng Khôi đã tổ chức Lực Lượng Xung Kích thành ba chiến đoàn như sau, mỗi chiến đoàn gồm một Chi Đoàn Kỵ Binh, một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân và một Pháo Đội Pháo Binh:
Chiến Đoàn 315, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Đỗ Đức Thảo.
Chiến Đoàn 318, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Đức Dương.
Chiến Đoàn 322, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Văn Liên.
Lực Lượng Kỵ Binh Xung Kích Quân Đoàn 3 từng gây kinh hoàng cho giặc trong chiến dịch Toàn Thắng đánh sang các căn cứ ẩn núp và kho hậu cần của Cộng Sản trên đất Kampuchea năm 1970, 1971. Rồi đến những chiến dịch An Điền, Rạch Bắp, Tam Giác Sắt của năm 1973. Được đặt dưới quyền của Chuẩn Tướng Trấn Quang Khôi và những sĩ quan cấp Tá trẻ tuổi đầy tài năng, Lực Lượng 3 Xung Kích thực sự là một quả đấm bằng thép giáng vào bất cứ đội hình cứng nào của giặc và đánh cho nó bể vỡ ra thành nhiều mảnh nhỏ. Sự ra đi của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh khỏi Tây Ninh ít nhiều cũng làm giảm thiểu sức mạnh của Sư Đoàn 25 Bộ Binh, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, đang đối đầu với Quân Đoàn 3 Bắc Việt. Chuẩn Tướng Bá chỉ còn có thể trông cậy vào Thiết Đoàn 10 Kỵ Binh cơ hũu của Sư Đoàn. Đoàn chiến xa M 48 của Lực Lượng 3 Xung Kích hành quân nhanh chóng đến Hưng Nghĩa trong ngày 11.4.1975 liền đụng độ ngay với chốt của Sư Đoàn 6 Cộng Sản gần Hưng Lộc. Chiến Đoàn 315 tiếp tục theo con đường số 1 húc tới, Chiến Đoàn 318 rẽ lên phía Bắc để bảo vệ cạnh sườn Lực Lượng Xung Kích, đồng thời tìm con đường bọc vòng qua chốt địch. Chuẩn Tướng Khôi thiết lập Bộ Chỉ Huy Lực Lượng tại Trảng Bom. Cuộc tiến quân của Chiến Đoàn 315 chậm chạp vì địa thế rừng núi phức tạp hai bên quốc lộ, chiến xa của Kỵ Binh chỉ có thể tiến hàng một trên con đường nhựa và đã gặp khó khăn vì không thể dàn đội hình xung phong dội hỏa lực tiêu diệt chốt địch. Biệt Động Quân được gọi lên bứng chốt. Con đường Hưng Lộc – Dầu Giây làm gợi nhớ con đường máu Chơn Thành – Tàu Ô của Bình Long 1972. Sư Đoàn 6 Cộng Sản bám chặt Quốc Lộ 1, giống như Sư Đoàn 7 Cộng Sản giữ cứng ngắt Quốc Lộ 13 hồi mùa hè 1972. Cuộc chiến đấu của Biệt Động Quân kéo dài dằng dai qua đến ngày 13.4.1975. Ý định cho Lực Lượng 3 Xung Kích bắt tay với Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng đang bố trí quân gần Quốc Lộ 20 ở đoạn Ngã Ba Túc Trưng và ở phía Tây Bắc Xuân Lộc đã không thực hiện được.
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tăng viện mặt trận
Trong lúc Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh cầm chân Sư Đoàn 6 Bắc Việt tại Ngã Ba Dầu Giây, Chuẩn Tướng Đảo vẫn tiếp tục mở những cuộc phản công càn quét quân giặc tại Xuân Lộc. Tiểu Đoàn 2/48 đang giữ an ninh cho thị xã Hàm Tân, Bình Tuy, được gọi về tăng cường cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Một tin vui nữa bay đến làm nức lòng quân dân Xuân Lộc. Trung Tướng Toàn quyết định ném Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù vào mặt trận. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh rút về từ Quân Khu I đang làm nhiệm vụ bảo vệ Sài Gòn và tổng trừ bị cho Bộ Tổng Tham Mưu. Sự ra đi của Lữ Đoàn 1 Dù đã để lại một khoảng trống lớn tại Sài Gòn, nhưng nếu quân Dù có thể đánh thắng Quân Đoàn 4 Bắc Việt tại cửa ngỏ dẫn vào Sài Gòn là Long Khánh để giúp nâng cao tinh thần chiến đấu chung của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thì đó là việc phải làm.
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù với một lực lượng hùng hậu gồm Tiểu Đoàn 1, 2, 8 và 9 Dù, cộng với Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, quân số 2,000 chiến sĩ. Bộ Tổng Tham Mưu đã tận lực giúp Trung Tướng Toàn bằng cách huy động 100 chiếc trực thăng UH 1 và nhiều Chinook CH 47 để câu những khẩu đại bác vào vị trí chiến đấu. Hai Tiểu Đoàn Dù được không vận, một chiến thuật quen thuộc và thần tốc của quân Mũ Đỏ, nhảy ngay lên Quốc Lộ 1 ở phía Nam Xuân Lộc chiếm lĩnh và càn quét những thành phần địch bám giữ ở đó. Một Tiểu Đoàn Dùø khác nhảy xuống thiết lập chiến tuyến trong khoảng rừng cao su gần đồn điền cũ của Đại Tướng Lê Văn Tỵ, hình thành thế bao vây một tiểu đoàn của Sư Đoàn 7 Cộng Sản Bắc Việt. Một Tiểu Đoàn Dù cuối cùng nhảy vào Xuân Lộc tăng viện cho lực lượng của Đại Tá Phúc, Tỉnh Trưởng Long Khánh. Cũng nhân cơ hội quí giá này, dân chúng và thương binh còn bị kẹt trong thành phố đã được bốc ra khỏi chiến trường an toàn.
Trước khi Lực Lượng 3 Xung Kích tiến quân lên Quốc Lộ 1, thì Tiểu Đoàn 1/52 trấn giữ ấp Phan Bội Châu bị áp lực rất nặng của Trung Đoàn 33, Sư Đoàn 6 Bắc Việt, nhưng chiến sĩ Tiểu Đoàn đã giữ chắc vị trí. Mặc dù Trung Đoàn 52 đang gặp nhiều khó khăn, con số chiến thương càng lên cao, nhưng Chuẩn Tướng Đảo vẫn quyết định gọi Tiểu Đoàn 2/52 đang giữ ấp Nguyễn Thái Học trở về tăng viện Xuân Lộc ngày 10.4.1975. Tiểu Đoàn 3/52 của Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ ở gần đó nhận lệnh gửi hai đại đội trám chỗ cho Tiểu Đoàn bạn. Cuộc hành quân trở về Bộ Tư Lệnh của Tiểu đoàn 2/52 là cả một chuỗi chiến đấu hào hùng trong vòng vây thắt ngặt của giặc. Trước hết các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/52 len lỏi trên con đường mòn giữa rừng tìm cách bọc vòng qua Trung Đoàn 274 của Sư Đoàn 6 Cộng quân đang chốt chận trên khoảng Đèo Mẹ Bồng Con. Quân ta lầm lũi đi suốt đêm trong cánh rừng cao su gần ấp Núi Tùng. Nhưng đến rạng sáng ngày 11.4.1975 thì Tiểu Đoàn 2/52 chạm phải một đơn vị Cộng Sản đang chiếm giữ ấp. Cuộc tao ngộ chiến diễn ra dữ dội và kéo dài đến 4 giờ chiều, quân địch tháo chạy, quân ta tiếp tục cuộc hành trình ngay trong đêm đó và đã đến được khoảng đường Ngã Cua C. Sáng ngày 12.4.1975, Tiểu Đoàn 2/52 lại va phải một đơn vị địch khác từ phía sau lưng. Dĩ nhiên chiến sĩ ta không bỏ lỡ cơ hội nện lên lưng địch một cú để đời, tống tiễn 60 cán binh xuống địa ngục và tịch thu đúng 60 súng AK. Trận đánh này đã kết thúc đoạn đường máu trong vòng vây giặc để Tiểu Đoàn 2/52 bắt tay được với Trung Đoàn 43 Bộ Binh trấn giữ thành phố. Song song với cuộc chiến đấu của Tiểu Đoàn 2/52, các Tiểu Đoàn Dù của Lữ Đoàn 1 Dù sau nhiều trận giáp chiến đã đi đến giai đoạn bao vây Tiểu Đoàn 8 của Sư Đoàn 7 Bắc Việt tại khu vực xã Bảo Định.
Cộng Sản Hà Nội rúng động
Sau những ngày tháng 3.1975 thắng lợi một cách giả tạo, tin chiến bại của Quân Đoàn 4 báo cáo về đã làm cho Hà Nội bàng hoàng rúng động. Chỉ mới có ba ngày giao chiến mà bọn chúng đã giật mình kinh hoảng, cho thấy cái lá gan thỏ đế của chúng lớn đến như thế nào. Từ đó người ta có thể rút ra được kết luận rõ rãng, rằng bọn chính trị và tướng tá giặc chỉ giỏi khoác lác mồm miệng khi có được sự may mắn nào đó, và rất nhanh chóng lộ rõ bản chất hèn nhát khi chạm phải thực tế phũ phàng. Mới có ba ngày giao tranh thôi, chưa hẳn Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã hoàn toàn thắng thế, vậy mà những khuôn mặt “lớn” của chiến dịch xâm lăng như Lê Đức Thọ, Chính Ủy, Văn Tiến Dũng, Tư Lệnh,Trần Văn Trà, Tư Lệnh Mặt Trận Miền Đông, đã rối rít kéo nhau về họp để cùng “tái lượng định” tình hình, để cuối cùng nặn ra một kế hoạch nhục nhã như sau. Ngày 13.4.1975, Trần Văn Trà sẽ xuống tận hiện trường để xem bọn Hoàng Cầm, Bùi Cát Vũ làm ăn bết bát thế nào, nếu cần thì Trà đích thân chỉ huy.
Tưởng là Trà sẽ có kế sách gì hay ho lắm để tiếp tục tấn công, bản thân ông ta cũng thấy quá khó khăn khi đối đầu với Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, những sĩ quan chỉ huy trẻ thao lược và chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh dũng mãnh. Đến đây đã lộ rõ sự thật về tinh thần và sức mạnh tác chiến của binh đội Bắc Việt. Một quân đội mà chỉ được xây dựng trên sự ép buộc dã man như bắt thanh niên đi lính, nếu trốn tránh thì cứ đè cha mẹ họ ra mà cắt hộ khẩu cho chết đói; trên sự hằn thù giết chóc: bộ đội buộc phải tiến về phía trước, chính trị viên và cấp chỉ huy dí súng đằng sau lưng, nếu bỏ chạy về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xin hàng là bị chúng bắn, hay bỏ chạy về phía sau cũng bị bắn luôn, thậm chí bị xích vào vị trí chiến đấu. Và trên hết một quân đội được xây dựng hoàn toàn bằng sự nói láo và xô đẩy cán binh vào chỗ chết vì sự dối trá tàn nhẫn ấy, thì làm sao bọn tướng tá giặc có thể hy vọng cán binh của chúng thực tâm chiến đấu cho những tham vọng và ảo vọng khát máu của chúng cho được. Bởi vậy trận đánh Xuân Lộc ba ngày chiến bại chứng minh hoàn toàn quân đội miền Bắc là một đạo quân rời rã mà chỉ được kết dính bằng thứ keo của bạo lực, nhồi sọ, căm thù và láo khoét.
(Mời đọc tiếp phần 4)
Phạm Phong Dinh
https://hon-viet.co.uk/PhamPhongDinh_Th ... anLoc3.htm
==============================
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
& Sư Đoàn 18 Bộ Binh
Cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc
- Phần 4 -
Phạm Phong Dinh
PHẦN 4
Thị sát chán chê những đơn vị tả tơi của Quân Đoàn 4 Cộng Sản, Trần Văn Trà nhanh chóng đi đến một quyết định mà Hoàng Cầm và Bùi Cát Vũ đã nghĩ đến nhưng không dám trình lên, là rút quân. Nhưng để cho cuộc thối lui đó được tô vẽ bằng một thứ nước sơn giả dối khác, Trà đề nghị kế hoạch cho Quân Đoàn 4 đi vòng tránh Sư Đoàn 18 Bộ Binh và tiến thẳng về Sài Gòn. Về sau này, Trà đã rất tự đắc huênh hoang viết hồi ký khoe “sáng kiến” bỏ chạy ấy là của mình, tranh công với Văn Tiến Dũng, cũng vỗ ngực nói là “chiến lược” của ông ta. Dũng, Trà và cả bộ chính trị Hà Nội thực sự đã dự định đánh tan tành Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại Xuân Lộc để gọi là làm nhục Quân Đoàn III vàQuân Lực Việt Nam Cộng Hòa trên trường quốc tế, điều mà chúng may mắn có được với Quân Đoàn I và Quân Đoàn II của quân ta trong tháng 3.1975, từ đó sẽ nghênh ngang kéo quân trên Quốc Lộ 1 về Sài Gòn. Dù sau này trong tất cả cuốn sử hay hồi ký của tướng tá Việt cộng có nói khéo thế nào, thì người đời sau cũng hiểu rõ rằng, trận đánh tại Xuân Lộc là một cuộc chiến bại nhục nhã của Cộng Sản. Muốn làm nhục một quân đội anh dũng là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhưng Hà Nội đã nhận được một bài học cay đắng tại Xuân Lộc, mà bài học đó sẽ còn lưu lại trong sách sử đến ngàn đời sau.
Chiến thắng cuối cùng
Khi tổ chức bao vây Xuân Lộc, Quân Đoàn 4 Cộng Sản đã để rất nhiều thời gian nghiên cứu, thì khi muốn rút lui ra khỏi mặt trận, cấp chỉ huy địch cũng phải vạch kế hoạch tỉ mỉ không kém để làm sao cho Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn 18 Bộ Binh không giải đoán được ý định của chúng. Quân Đoàn 4 sẽ rút quân dần dần, các đơn vị còn ở lại vẫn tiếp tục mở những cuộc tấn công làm ra vẻ chúng còn quyết chiếm Xuân Lộc. Theo kế hoạch này, Văn Tiến Dũng đã đích thân ra lệnh miệng cho Hoàng Cầm, từ đó Cầm điều động Trung Đoàn 165 và Trung Đoàn 266 cứ ở yên tại vị trí. Trong khi đó thì Trung Đoàn 209 vẫn cứ tạo áp lực lên cạnh sườn các đơn vị của Lữ Đoàn 1 Dù. Trung Đoàn 270 Cộng Sản rút dần về phía Núi Thị và tổ chức tấn công lên cứ điểm này. Như vậy dưới mắt cấp chỉ huy Sư Đoàn 18 Bộ Binh, lực lượng Cộng quân vẫn có vẻ tiếp tục kéo dài cuộc tấn chiếm Xuân Lộc. Tin tức tình báo cũng báo động cho biết Trung Đoàn 95B của Sư Đoàn 325 thiện chiến Bắc Việt đang có mặt trên cao nguyên Darlac, là thành phần tham gia chiến dịch tấn chiếm tỉnh lỵ Ban Mê Thuột, đã được gọi xuống tăng cường cho mặt trận Long Khánh. Trung Đoàn 95B, mệnh danh là Trung Đoàn Sông Hương, sau một ngày bôn tập, ngày 13.4.1975 đã có mặt trên chiến trường miền Đông.
Một cuộc họp quan trọng diễn ra tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Bắc Việt, Tướng Trần Văn Trà và các cấp chỉ huy ở đó đi đến quyết định: “Xuân Lộc là một trọng điểm trên tuyến phòng thủ của địch, chúng đã tập trung nhiều đơn vị lớn để bảo vệ. Chúng ta không còn giữ được yếu tố bất ngờ nữa. Vì vậy chúng ta không còn lợi thế để tiếp tục cuộc tấn công Xuân Lộc. Nếu chúng ta chiếm giữ Ngã Ba Dầu Giây thì Xuân Lộc không còn là một trọng điểm nữa, vì nó đã nằm ngoài chu vi phòng thủ. Từ đó, chúng ta có thể thực hiện hai cuộc chuyển quân: Một là, tập trung sức tấn công vào Dầu Giây từ hai hướng. Hai là, chúng ta rút quân ra khỏi Xuân Lộc”. Rất ngán sợ hỏa lực của Không Quân Việt Nam, Trà lệnh cho các đơn vị pháo 130 ly âm thầm di chuyển vào sát phi trường Biên Hòa trong tầm với tới của pháo, với ý đồ phá hủy phi trường Biên Hòa hay ít nhất quấy rối bằng pháo kích đến tối đa để ngăn chận đoàn phi cơ của quân ta cất cánh yểm trợ cho mặt trận Long Khánh và Dầu Giây. Sau cuộc họp, các đơn vị Cộng quân lục tục rút quân dần dần ra khỏi vị trí hiện tại. Dĩ nhiên những cuộc di chuyển đó không qua khỏi sự quan sát chặt chẽ của những toán Viễn Thám nằm sâu trong lòng địch báo về. Quân Đoàn 4 rút ra khỏi Xuân Lộc thì Chuẩn Tướng Đảo điều động các đơn vị bám sát theo sau, đồng thời nhân cơ hội đó 8 chiếc trực thăng Chinook đã đem vào Xuân Lộc 93 tấn đạn pháo, 100 tấn lương thực thuốc men và đạn súng nhỏ. Trong vòng năm ngày Sư Đoàn 18 Bộ Binh đánh thắng được sáu cuộc tấn công cường kích của Quân Đoàn 4 Bắc Việt, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Graham Martin hân hoan gọi về Washington báo tin Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đánh thắng hai trận đầu tiên, một tại Xuân Lộc và một tại Thủ Thừa, Long An, sau những ngày triệt thoái. Sự kiện đó đã trả lời hùng hồn câu hỏi từ chính giới Hoa Kỳ, rằng liệu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có chịu chiến đấu hay không. Với báo cáo này, ông Martin hy vọng Tổng Thống Gerald Ford có được yếu tố thuận lợi để yêu cầu Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận khoản quân viện bổ sung 722 triệu mỹ kim cho năm 1975. Tổng Thống Ford đã xác nhận mạnh mẽ trước Lưỡng Viện Quốc Hội:”Quân Đội Nam Việt Nam rất muốn chiến đấu. Tại Xuân Lộc, mặc dù quân số ít hơn, nhưng Quân Đội Nam Việt Nam đã chiến đấu rất anh dũng, đã giữ vững vùng đất của họ và đã gây thiệt hại nặng nề lên quân địch…” Những minh chứng rõ ràng đó đã không thuyết phục được những nhà chính trị Hoa Kỳ đã quá mỏi mệt, thiếu kiên nhẫn và không áp đảo được khuynh hướng phản chiến lẫn chủ bại trong Quốc Hội, mà Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits là đại diện cho tất cả những cái đó, với câu trả lời rất lạnh lùng, trịch thượng và tàn nhẫn ngày 14.4.1975:”Tôi sẽ thuận cho quý ngài một ngân khoản lớn để tổ chức cuộc di tản, nhưng không một xu quân viện nào cho Thiệu”. Số phận Việt Nam Cộng Hòa coi như đã được những nhà chính trị kiêu ngạo ấy đánh dấu chấm hết từ ngày 14.4.1975. Hành động phủi tay đó rồi nhiều năm sau sẽ bị công luận thế giới phân tích và phê phán nặng nề, đến nỗi người ta đã đi đến kết luận không lấy gì làm vinh dự và đẹp đẽ lắm dành cho chính giới Hoa Kỳ, rằng kết đồng minh với Hoa Kỳ có nghĩa là chắc chắn sớm hay muộn sẽ bị bỏ rơi. Nhưng đó là việc của người Mỹ. Dù có nhận được quân viện hay không thì quân dân Việt Nam Cộng Hòa vẫn xác quyết: chiến đấu đến cùng. Mặt trận Long Khánh tiếp tục nổ lớn.
Trong những ngày tình hình tạm lắng dịu, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa muốn cho thế giới hiểu rõ tường tận hơn ý chí quyết chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và bối cảnh chiến thắng ở Xuân Lộc của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đã tổ chức một cuộc thăm viếng tỉnh lỵ này dành cho giới báo chí truyền thông trong và ngoài nước. Buổi sáng rất đẹp trời ngày 13.4.1975, nhiều chiếc Chinook đã chở những ký giả ngoại quốc vào Xuân Lộc. Phái đoàn được thả xuống tại Tân Phong, một vị trí dùng làm Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Chuẩn Tướng Đảo. Tại đây, giới báo chí được mời ngồi nghe người dũng tướng nước Nam, cây cột trụ chống đỡ đất nước giữa cơn nghiêng ngã, thuyết trình diễn tiến trận đánh. Người hùng Xuân Lộc đã quả quyết tuyên bố:”Sư Đoàn 18 Bộ Binh sẽ giữ vững Xuân Lộc, dù Cộng Sản có ném vào đây bao nhiêu sư đoàn đi nữa”. Lời xác quyết can cường đó đã được chứng minh bằng cuộc thối quân của toàn Quân Đoàn 4 Bắc Việt trong những ngày tiếp theo. Theo Quốc Lộ 1, đoàn ký giả tiến vào thành phố. Họ đã chứng kiến và chụp hình, quay phim cảnh đổ nát của phần phía Bắc Xuân Lộc. Sau khi Đại Tá Phạm Văn Phúc thuyết trình diễn biến chiến sự trong năm ngày qua, Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 hướng dẫn phái đoàn đi bộ vào khu chợ Xuân Lộc và đến địa điểm triễn lãm vũ khí tịch thu được từ quân Cộng Sản. Cuộc thăm viếng của đoàn nhà báo quốc tế đã đem lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam Cộng Hòa trong sự chú ý của dư luận quốc tế. Tuy nhiên trong những ngày ảm đạm cuối cùng của tháng 4.1975 ấy, những bài báo ngợi ca chiến thắng của Sư Đoàn 18 Bộ Binh chỉ còn là những ánh hào quang lẻ loi trước khi toàn quân lực bị bức tử trong sự ngoảnh mặt làm ngơ của thế giới.
Đánh Xuân Lộc không được, giờ đây Quân Đoàn 4 Bắc cộng tập trung quân đánh vào khu vực Ngã Ba Dầu Giây, là vị trí trách nhiệm trấn giữ thuộc Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng. Muốn đi vòng Xuân Lộc để tiến về Biên Hòa và Sài Gòn, thì Quân Đoàn 4 Cộng quân phải đánh bứt các vị trí của Trung Đoàn 52, để từ đó theo Quốc Lộ 20 tuôn xuống phía Nam. Đại Tá Dũng và chiến sĩ của ông ở trong một tình thế thật hung hiểm, số ít đối đầu với số đông đã đành, mà địa thế khá là bằng phẳng và trống trải khu vực trách nhiệm rất không thuận lợi cho một cuộc phòng thủ lâu dài. Phía Cộng Sản, với giá nào chúng cũng phải đánh thủng chiến tuyến, dù có phải thí quân tàn bạo đến như thế nào đi nữa. Ngày 13.4, trận đại chiến giữa Trung Đoàn 52 và quân Cộng bắt đầu tái diễn. Vẫn một trận bão pháo kinh khủng trút vô giới hạn xuống vị trí của Tiểu Đoàn 1/52. Dứt pháo, Trung Đoàn 33 Cộng quân thuộc Sư Đoàn 6 Bắc Việt hò hét xung phong biển người lên giao thông hào của chiến sĩ Tiểu Đoàn 1/52 đang trấn giữ ấp Phan Bội Châu. Quân ta vừa chống trả vừa lùi dần về phía Ngã Ba Dầu Giây. Đại Tá Dũng lệnh cho Tiểu Đoàn 3/52 của Thiếu Tá Mỹ cấp tốc hành quân đến giải vây cho Tiểu Đoàn 1/52, rồi cùng kéo về ấp Nguyễn Thái Học. Nóng lòng cuộc tử sinh của chiến hữu, hai đại đội còn lại của Tiểu Đoàn 3/52 suốt đêm lầm lũi xuyên qua những cánh rừng lá thấp bụi rậm giăng mắc, để cuối cùng bắt tay được với 1/52. Hai tiểu đoàn quân số đã sụt xuống con số đau lòng, chỉ còn 1/3 số tay súng khỏe mạnh, cùng bảo vệ nhau kéo ra khỏi Ngã Ba Dầu Giây, trong khi đó thì Tiểu Đoàn 2/52 đã tách ra khỏi Trung Đoàn để về trấn giữ tỉnh lỵ từ mấy ngày trước theo lệnh của Chuẩn Tướng Đảo. Như vậy, Đại Tá Dũng chỉ có thể xoay sở với hai tiểu đoàn thiếu của ông để chống ngăn cơn sóng hung bạo của cả một sư đoàn lên đến 9 tiểu đoàn.
Hoạt động của Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III
Lực Lượng Xung Kich Quân Đoàn III của Chuẩn Tướng Khôi vẫn còn dậm chân tại Hưng Lộc, vì những chiến xa M48 của Kỵ Binh không thể dàn được đội hình đột phá trên con lộ độc đạo. Nếu đánh thủng Hưng Lộc, thì Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của ông mới có thể tiếp cứu được Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Chuẩn Tướng Khôi quyết định đánh bọc hông Sư Đoàn 6 bằng cách điều động Chiến Đoàn 315 và 322 lên phía Bắc Hưng Lộc. Chiến Đoàn 325 được tổ chức thành hai cánh quân như sau. Cánh A vẫn tiến quân trên Quốc Lộ 1 thu hút sự chú ý của quân Cộng ở mặt Nam. Cánh B gồm Tiểu Đoàn 64 thuộc Liên Đoàn 33 Biệt Động Quân và Chi Đoàn 1/15 dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Phạm Văn Bản, với nhiệm vụ húc qua chốt cộng và bắt tay với Trung Đoàn 52 tại ấp Nguyễn Thái Học. Đến giữa trưa ngày 14.4.1975, cánh quân của Đại Úy Bản đã xông lên tiến chiếm được Đồi 122, cao điểm phía Bắc Hưng Lộc, và sẵn sàng tiến tới nữa. Thật không may, nhiều con suối đã chận ngang đường đi, Đại Úy Bản buộc phải cho con cái tạm dừng chờ Công Binh lên bắc cầu. Sự chậm trễ này đã hiến cho Sư Đoàn 6 Cộng Sản cơ hội phát hiện được cuộc tiến quân bí mật của Chuẩn Tướng Khôi, chúng vội điều quân tới chận đánh Cánh B từ ba hướng Bắc, Đông và Tây. Chiến sĩ Tiểu Đoàn 64 Mũ Nâu dàn quân kháng cự ác liệt để bảo vệ đoàn chiến xa của quân ta. Quân giặc trùng điệp tràn lên như những bầy kiến đỏ hung dữ. Cuộc chiến đấu của quân ta càng lúc càng khó khăn, sức nặng của hỏa lực và biển người càng lúc càng chồng chất lên vai chiến sĩ Biệt Động Quân và Kỵ Binh. Đại Úy Bản đã kể lại:”Địch quân tiến tới đông nghẹt như một bầy kiến, phóng ra nhiều đợt biển người lên đồi từ ba hướng. Trong tình thế nguy ngập đó, tôi đã gọi Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn yểm trợ hỏa lực phi pháo. Nhưng tất cả hỏa lực gửi đến chỉ là một vài chiếc trực thăng võ trang bắn vài loạt hỏa tiễn rồi bay đi…
Cường độ tấn công của Cộng quân càng mãnh liệt dần lên. Tôi tưởng rằng quân ta sẽ bị tràn ngập trên Đồi 122, hay bị bao vây và bị cô lập hoàn toàn… Bỗng nhiên Việt cộng rút lui, cuộc giao tranh chấm dứt… Phía chúng tôi có 20 chiến sĩ bị thương, Biệt Động Quân gần 40… Còn xác Việt cộng nằm la liệt khắp cánh đồng lúa “. Mặc dù Cộng quân đã thôi tấn công Đồi 122, nhưng ý định đánh vào mạn sườn Bắc quân địch của Chuẩn Tướng Khôi đã không thành công và bị khựng lại, phần lớn là do địa hình ngăn trở.
Những chuyên viên Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Xuân Lộc, còn có những đóng góp rất âm thầm của nhóm công tác gồm 20 nhân viên đặc biệt từ Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu đến Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Các chiến sĩ này làm việc suốt ngày đêm để dò sóng truyền tin địch và giải mã những bức điện văn. Nhờ đó quân ta biết được ý định hành quân, nơi tập trung bộ đội và báo cáo tình hình quân số của địch trên khắp chiến trường. Nhờ những dữ kiện đó mà Bộ Tổng Tham Mưu có được chi tiết chính xác để gửi một chiếc C130 chở một trái bom 15,000 cân Anh (tương đương 7.000 kí) có tên là Daisy Cutter bỏ xuống vị trí nghi ngờ là Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 4 Bắc Việt cùng với một trung đoàn bảo vệ đóng quân gần đó. Cũng nhóm Phòng 7 sau đó đã bắt được sóng địch báo cáo 75% Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 4 Bắc Việt đã bị hủy diệt. Vẫn chưa hết, hàng ngày từ 8 đến 12 chiếc C130 trong chiến dịch Flame Wafare (Hỏa Chiến) do sáng kiến của Không Quân Việt Nam, đã chở những cái bè gỗ trên đó chất những thùng cỡ 200 lít dầu và hơi cháy trút xuống các đơn vị địch, tạo nên những cơn sóng chấn động và lửa nóng chẳng kém gì bom lửa Napalm. Tiếng nổ liên hồi ầm ầm của những loạt bom đó rất giống tiếng bom B52, đã làm cho Hà Nội phải la làng inh ỏi, rằng Không Quân Hoa Kỳ “chơi” bom sát thương hàng loạt loại mới. Còn phía quân dân tử thủ Xuân Lộc thì hò reo hân hoan cho là B52 đã nhập cuộc. Khi biết rõ những cuộc dội bom ấy xuất phát từ Không Quân Việt Nam, chiến sĩ dưới đất đã gọi đó là những “B 52 Việt Nam”.
Trung Đoàn 52 Bộ Binh đánh địch
Dù bị Không Quân Việt Nam dội bom Daisy Cutter và bom “B-52 Việt Nam”, nhưng quân Cộng vẫn bám cứng khu vực Trung Đoàn 52 Bộ Binh, đồng thời gấp rút điều động Liên Đoàn 75 Pháo Binh pháo kích phi trường Biên Hòa liên tục nhằm vô hiệu quá sức mạnh của Không Quân. Đồng thời đặc công địch đã bò vào phá hủy được kho đạn trong phi trường. Hai sự kiện đó quả thật đã gây trở ngại lớn cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đặc biệt tại tuyến Dầu Giây. Rạng sáng ngày 15.4.1975, Trung Đoàn 33 và Trung Đoàn 95B Sông Hương còn nguyên vẹn sinh lực của Sư Đoàn 6 Cộng Sản mở cuộc tấn công vào ấp Nguyễn Thái Học và Đồi Móng Ngựa. Trên Đồi Móng Ngựa Đại Úy Mạch Mạnh Liêu và đại đội của ông vẫn xác định quyết tâm giữ vững vị trí, mặc dù quân số đại đội đã hao hụt quá nhiều mà không có bổ sung.
Trung Đoàn 33 và 95B là hai trung đoàn thiện chiến rất kỳ cựu của địch, chúng hoạt động thường xuyên trên vùng Tây Nguyên và đã giao tranh nhiều trận rất lớn với Quân Đoàn II của ta nhiều năm trước đây. Trung Đoàn 33 Bắc Việt được dùng làm thành phần chủ yếu cấu thành Sư Đoàn 6 tân lập của Cộng Sản trong chiến dịch tấn công của năm 1975. Nhiều ngàn trái đạn đủ loại dội ùng oàng ác liệt xuống khắp vị trí của Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Sau cơn pháo, Trung Đoàn 33 Bắc Việt tiến chiếm được Ngã Ba Dầu Giây và định đánh bứt ấp Nguyễn Thái Học. Nhưng với sự có mặt của Cánh B Chiến Đoàn 315 trên Đồi 122, Trung Đoàn 33 Cộng quân buộc phải chuyển sang đối phó với lực lượng này. Trung Đoàn 95B tổ chức ba cuộc tấn công lên Đồi Móng Ngựa. Với một đại đội mà quân số đã dần hao mòn, nhưng chiến sĩ Trung Đoàn 52 Bộ Binh đã dũng liệt đánh văng xuống đội trung đoàn thiện chiến nhất của địch. Dù vậy, Đại Tá Ngô Kỳ Dũng vẫn cẩn thận gửi tăng viện Đồi Móng Ngựa một đại đội nữa. Đại đội trấn giữ Đồi Móng Ngựa đã được đại đội bạn mang vác tiếp liệu đến bổ sung và tiếp tay di tản các chiến thương. Những sĩ quan cùng chung trong Trung Đoàn cảm khích siết chặt tay nhau thề cùng sống chết trên ngọn đồi thấp này.
Chẳng lâu la gì, Tiểu Đoàn 2 của Trung Đoàn 95B Việt cộng xua quân biển người tràn lên đồi. Một đại đội tử thủ chúng còn không lên nổi, giờ đây thêm một đại đội nữa, chiến sĩ Trung Đoàn 52 dễ dàng đánh Tiểu Đoàn 2/95B địch lăn lộn xuống chân đồi. Một tiểu đoàn thứ hai âm thầm men theo Quốc Lộ 20 định đánh vào sườn quân ta trên đồi, thì đã bị Pháo Binh dội những tràng đạn tập trung chết chóc xuống làm chúng phải thối lui.
Khi Chiến Đoàn 315 của Lữ Đoàn 3 Xung Kích đã bị khựng lại, thì Cộng quân bắt đầu mở cuộc đột phá vào ấp Nguyễn Thái Học do các đại đội còn lại của Tiểu Đoàn 3/52, Chi Đoàn 3/5 Kỵ Binh và các thành phần khác của Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Cộng quân đánh quá dữ, bằng mọi giá chúng phải bứng được quân ta ra khỏi khu vực Ngã Ba Túc Trưng nằm chặn trên Quốc Lộ 20 và Ngã Ba Dầu Giây trên Quốc Lộ để Quân Đoàn 4 Bắc Việt tiến về Sài Gòn. Quân ta cũng không chịu rút, dù càng lúc quân số càng hao hụt. Nhiều chiến sĩ bị thương hai ba lần, nhưng người nào còn cầm súng được vẫn cứ nghiến răng tựa lưng vào chiến hào tử chiến với giặc Cuộc giao tranh quá đỗi khốc liệt ấy kéo dài liên tục trong mười tiếng đồng hồ, tiếng đạn pháo hai bên nổ rền trời. Đến lúc mà quân số của toàn Trung Đoàn đã sụt xuống con số đau thương là chỉ còn 20% tay súng, Đại Tá Dũng đành phải ra lệnh cho chiến sĩ trên Đồi Móng Ngựa ngay trong đêm phải rút xuống và trở về với Tiểu Đoàn 3/52. Khoảng 6 giờ rưỡi chiều, Đại Tá Dũng chia lực lượng rách nát của ông thành hai nhóm. Đích thân Đại Tá Dũng dẫn một nhóm bộ binh và Kỵ Binh thoát ra khỏi rừng cao su. Nhóm thứ hai là Tiểu Đoàn 3/52 theo một hướng thoát thân. Với kinh nghiệm hành quân nhiều năm trong khu vực tỉnh Long Khánh, cả hai nhóm quân của Trung Đoàn 52 len lỏi giữa những vị trí đóng quân của địch và đã về đến được Trảng Bom an toàn.
Mặt trận Long Khánh đã thiếu vắng một đơn vị thiện chiến, Sư Đoàn 18 Bộ Binh giờ đây phải tự điều chỉnh trận liệt với Trung Đoàn 43 và Trung Đoàn 48, cộng thêm Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. Tin Phan Rang thất thủ chẳng mấy chốc đã bay đến Xuân Lộc. Sư Đoàn 341 Cộng quân thôi không đánh Xuân Lộc, chúng di chuyển lên hướng Bắc tấn chiếm được Kiệm Tân và Túc Trưng, song song với những cơn pháo mãnh liệt vào phi trường Biên Hòa. Như vậy ý định cô lập Sư Đoàn 18 Bộ Binh ra khỏi chu vi phòng thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa của Quân Đoàn 4 Bắc Việt đã dần dần thành hình. Một tin tức không vui khác đến từ đất nước Hoa Kỳ. Ngày 17.4.1975, Quốc Hội Mỹ đã chính thức bác bỏ khoản quân viện 722 triệu đô la cho Việt Nam Cộng Hòa. Có nghĩa là Việt Nam Cộng Hòa phải tự lực xoay sở cứu lấy mình, Hoa Kỳ đã hoàn toàn phủi tay đứng ngoài cuộc. Thật mỉa mai. Mười hai năm về trước của năm 1975, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị sát hại vì không chấp thuận sự hiện diện của quân đội Mỹ. Mười hai năm về sau của năm 1963, chẳng ai xua đuổi mà quân đội Mỹ vẫn cứ ung dung rút chạy ra khỏi Việt Nam.
Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III & Quân Khu III trong một nỗ lực cuối cùng ngăn chận đoàn quân giặc sắp sửa tràn xuống Sài Gòn, đã điều động Trung Đoàn 8 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, dưới quyền của Trung Đoàn Trưởng Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng viện Lực Lượng 3 Kỵ Binh Xung Kích. Trung Tá Hùng cùng Trung Đoàn 8 Bộ Binh đang giữ thị trấn Phú Giáo ở phía Bắc căn cứ Lai Khê, bản doanh của Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Trung Tá Hùng từng là Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 Bộ Binh, nên ông rất quen thuộc thông thổ Long Khánh. Nhưng khi ông được cử đi học khóa Tham Mưu Cao Cấp tại Hoa Kỳ từ năm 1972 cùng với Chuẩn Tướng Khôi, thì Đại Tá Lê Xuân Hiếu lên thay. Trung Tá Hùng xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù, ông từng chỉ huy hai Đại Đội Dù tấn công vào Dinh Độc Lập ngày 1.11.163 để lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Khi được gọi về trình diện Trung Tướng Toàn nhận nhiệm vụ đánh Dầu Giây, Trung Tướng Toàn hỏi Trung Tá Hùng chỉ huy Trung Đoàn 8 được bao lâu rồi. Chuẩn Tướng Đảo và Chuẩn Tướng Khôi cùng có mặt lúc đó đã dành nhiều lời nồng hậu cho Trung Tá Hùng, nên Trung Tướng Toàn vui vẻ thăng cấp ngay lên Đại Tá cho ông. Nhưng vì trong văn phòng Tư Lệnh Quân Đoàn lúc đó chỉ có ba ông Tướng, nên sĩ quan tùy viên phải chạy ra ngoài tìm lon mới cho vị Đại Tá tân thăng. Khi Trung Đoàn 8 đến Hưng Nghĩa trên những chiếc GMC, Đại Tá Hùng nhận lệnh Chuẩn Tướng Khôi chỉ huy luôn Chiến Đoàn 322, với nhiệm vụ đánh thông Quốc Lộ 1. Mặc dù Đại Tá Hùng cùng Chiến Đoàn 322 cố gắng mở cuộc đột phá rất quyết liệt xông qua ấp Hưng Nghĩa và Hưng Lộc, Chiến Đoàn của Đại Úy Bản đánh từ Đồi 122, nhưng Trung Đoàn 95B Cộng Sản kháng cự dữ dội, quân ta không qua được, vì vậy mà Trung Đoàn 95B bị thiệt hại quá nặng, buộc Sư Đoàn 341 phải trở lại thay thế nó.
(Mời đọc tiếp phần 5)
Phạm Phong Dinh
https://hon-viet.co.uk/PhamPhongDinh_Th ... anLoc4.htm
================================
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo & Sư Đoàn 18 Bộ Binh
Cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc
- Phần 5 -
Phạm Phong Dinh
PHẦN 5
Triệt thoái khỏi Xuân Lộc
Cuộc quyết chiến giữa Quân Đoàn 4 Bắc Việt và Sư Đoàn 18 Bộ Binh diễn ra thật đẫm máu từ ngày 10.4.1975 đến ngày 13.4.1975, với phần thắng nghiêng về phía chiến sĩ Cung Tên Miền Đông. Nhưng Quân Đoàn 4 giặc vẫn tiếp tục dùng pháo binh quấy rối quân ta ngày đêm. Từ ngày đó, quân dân Xuân Lộc không còn đương đầu với bộ binh địch nữa, mà chỉ nằm chịu pháo. Một tuần tiếp theo sau là trận đánh giữa Lữ Đoàn 1 Dù và Tiểu Đoàn 8 Bắc Việt. Quân Dù đã dần dần thắt chặt vòng vây kẹp tiểu đoàn địch trong khu vực đồn điền Đại Tướng Tỵ để dứt điểm nó.
Ngày 19.4.1975, Sư Đoàn 7 Bắc Việt trong cố gắng giải cứu Tiểu Đoàn 8, đã gấp rút tung vào chiến trường Trung Đoàn 141 trừ bị. Bộ phận dò sóng của chuyên viên Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu báo lên Chuẩn Tướng Đảo nội dung nghe được rất thú vị như sau:”Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 141 đích thân lên máy vô tuyến thúc giục bô đội xông lên đánh quân Dù, nhưng cán binh Trung Đoàn 141 nghe nói đánh Nhảy Dù, đã sợ hãi không dám lên. Trung Đoàn Trưởng 141 khuyến dụ cán binh, rằng quân Nhảy Dù bây giờ đánh không còn “ngon” như hồi trước nữa”. Biết được nỗi dao động của cán binh Trung Đoàn 141 Cộng quân khi đối đầu với chiến sĩ Dù, Chuẩn Tướng Đảo thông báo cho Trung Tá Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù biết trước cuộc tấn công này. Nên khi quân 141 xuất hiện trước chiến tuyến, chiến sĩ Mũ Đỏ chuẩn bị sẵn trận thế, đã xác minh lời của Trung Đoàn Trưởng 141 khuyến dụ cán binh, rằng lính Dù đánh không còn “ngon” là hoàn toàn dối trá. Cuộc giao tranh giữa Lữ Đoàn 1 Dù và Sư Đoàn 7 còn đang dằng dai, thì Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nhận được tin Quân Đoàn 2 Bắc Việt và Sư Đoàn 325 đã vào tới Rừng Lá, cách Xuân Lộc 20 cây số về hướng Tây. Như vậy Biên Hòa rồi đến Sài Gòn sẽ nằm dưới áp lực rất nặng của quân Cộng. Lúc 9 giờ sáng ngày 20.4.1975, Trung Tướng Toàn và Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu bay vào Xuân Lộc ban lệnh rút quân về chống giữ Biên Hòa. Con đường được chọn lựa triệt thoái sẽ là Liên Tỉnh Lộ 2 ở phía Nam Xuân Lộc. Theo kế hoạch của Trung Tướng Toàn, một khi Sư Đoàn rút ra khỏi Xuân Lộc an toàn, thì đoàn GMC sẽ đưa toàn quân số về Căn Cứ Long Bình để nghỉ ngơi vài ngày, bổ sung quân số và tái trang bị.
Cuộc quyết chiến giữa Quân Đoàn 4 BV và Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã diễn ra khốc liệt từ ngày 9 đến 21.4.975, hai bên đều bị tổn thất nặng, nhưng phần thắng cuối cùng đã nghiêng về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Theo ước lượng của Thiếu Tướng Đảo về sau này, thì phía Cộng quân bị giết chết đến 10,000 người, một con số quá cay đắng chưa từng thấy trong một thời gian quá ngắn. Cơn chiến bại này coi như là một vết hằn trong cuộc đời binh nghiệp của Thiếu Tướng Hoàng Cầm. Đích thân Tướng Trần Văn Trà xuống “chi viện” cho Hoàng Cầm. Nhưng chính Trà sau khi suy tính nát nước, không thấy một chút le lói hy vọng chiến thắng nào, dù Trung Đoàn 52 của quân ta đã bị tổn thất rất nặng phải rút về Biên Hòa trước, đã không dám đánh SĐ18BB. Trà buộc lòng cho lệnh Quân Đoàn 4 bỏ Xuân Lộc đi vòng về Biên Hòa theo hướng Quốc Lộ 15, chỉ để các đơn vị của Sư Đoàn 7 ở lại bao vây và quấy rối Xuân Lộc. Sau này khi viết hồi ký, thì Trà lại tự cho là mình đã “phát huy sáng kiến” đánh bọc vòng xuống Biên Hòa, nhưng chúng ta nhớ lại trước khi mặt trận Xuân Lộc nổ, cũng chính Trà đã thúc giục “anh Ba” Lê Duẫn cho quân giải phóng đánh Xuân Lộc trước. Cả Trà và Cầm đều là bại tướng, nếu cách chức thì phải cách chức cả hai tướng này, chứ không phải riêng trách nhiệm của Cầm.
Vì các quân đoàn của địch tránh né Sư Đoàn 18 Bộ Binh đi vòng theo hướng Quốc Lộ 20 và Quốc Lộ 15 xuống đánh Biên Hòa, nên nhiệm vụ bảo vệ Xuân Lộc của sư đoàn cũng chấm dứt. Đồng thời Chiến Đoàn 3 Xung Kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi đang đánh địch tại Ngã Ba Dầu Giây cũng được lệnh kéo quân về bảo vệ thành phố này. Với hai lực lượng rất mạnh tử thủ Biên Hòa, một lần nữa tướng tá giặc lại kéo nhau đi vòng, bỏ Biên Hòa và tiến thẳng về Sài Gòn. Để đem được toàn bộ sư đoàn và các đơn vị biệt phái ra khỏi Xuân Lộc, là một công tác cực khó khăn, đòi hỏi một kế hoạch tỉ mỉ và kiên quyết. Một lần nữa, người ta lại thấy tài năng lãnh đạo và chỉ huy của những vị tướng trẻ QLVNCH trong những trường hợp dầu sôi lửa cháy như thế này. Để đánh lạc hướng Sư Đoàn 7 BV, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù nhận nhiệm vụ đánh cầm chân chúng để cho toàn bộ SĐ18BB rút đi trước. Kể từ 8 giờ tối đêm 20.4.1975, Trung Đoàn 48 của Trung Tá Trần Minh Công và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh của Trung Tá Nô chịu trách nhiệm mở đường theo Liên Tỉnh Lộ 2 về hướng tỉnh Phước Tuy. Rồi đến đoàn cơ giới gồm Pháo Binh, Quân Vận, Công Binh, các đơn vị Tiếp Vận khác, hai khẩu 175 ly, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Hứa Yến Lến, Tham Mưu Trưởng sư đoàn. Khi đoàn Pháo Binh di chuyển đến Long Giao, một căn cứ cũ của Hoa Kỳ, thì Đại Tá Hưng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh sư đoàn sẽ thiết trí một căn cứ hỏa lực tạm thời để yễm trợ hỏa lực cho toàn cuộc di tản, với sự bảo vệ cương quyết của Đại Đội 18 Trinh Sát dũng mãnh. Ở khoảng giữa sẽ là các đơn vị Địa Phương Quân & Nghĩa Quân Long Khánh dưới quyền Đại Tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh Trưởng, cùng với số đồng bào còn kẹt lại trong thị xã. Các đơn vị thuộc Trung Đoàn 43 của Đại Tá lê Xuân Hiếu và Tiểu Đoàn 82 của Thiếu Tá Vương Mộng Long chịu trách nhiệm đoạn hậu. Tất cả đơn vị đều di chuyển trong đêm 20.4.1975. Đó là chưa kể Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế vẫn còn đang trấn giữ trên Núi Thị và phải rút sau cùng. Khi Lữ Đoàn 1 Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh rút lui, thì Tiểu Đoàn 2/43 là tiểu đoàn đơn độc còn sót lại, Chuẩn Tướng Đảo phải bay trên trực thăng hướng dẫn hướng hành quân cho tiểu đoàn này rút theo sư đoàn trong ngày hôm sau. Trong suốt cuộc hành quân triệt thoái, Chuẩn Tướng Đảo và các sĩ quan thuộc Bộ Tư Lệnh đều cùng di chuyển bộ với binh sĩ, đặc biệt Tướng Đảo đi lên đi xuống dọc hàng quân để khích lệ và nhắc nhở chiến sĩ luôn cố gắng bảo vệ đồng bào trong đoàn. Một chiếc trực thăng chỉ huy C&C bay trên bầu trời với Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, để giúp Tướng Đảo liên lạc và điều hợp đoàn di tản. Lữ Đoàn 1 Dù và Tiểu Đoàn 2/43 ở vào một tình thế cực kỳ nguy hiểm, rất giống như cuộc di tản Hạ Lào 719 năm 1971. Sư Đoàn 7 BV khám phá dù muộn màng cuộc triệt thoái, Trung Đoàn 141 đã hành quân đuổi theo chận đánh và phục kích quân Mũ Đõ dữ dội. Lữ Đoàn 1 Nhày Dù nhận nhiệm vụ chận hậu cho đoàn quân triệt thoái đã đụng độ nặng với Trung Đoàn 141 Cộng Sản tại Bảo Định và chịu tổn thất. Thật đau lòng, tất cả tử sĩ và chiến sĩ bị thương nặng đều không thể cáng theo được. Con đường dài đến 40 cây số xuyên qua những cánh rừng cao su thâm u dầy đặc quân Cộng, giống như một cuộc hành trình đi qua cửa địa ngục. Những tấn thảm kịch đầy máu và nướ c mắt sao cứ mãi đeo đẳng lên đôi vai còm cõi của người lính chúng ta như một định mệnh tàn nhẫn. Vẫn chưa hết, khi đoàn Mũ Đỏ ra đến Quốc Lộ 1 lúc 9 giờ đêm, thì một cảnh tưởng xúc động đến nát lòng đang chờ đón các anh. Hàng ngàn gia đình đồng bào ở những ấp Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo Hòa lển mển hành trang, tay bồng tay bế tập trung hai bên đường xin được đi theo quân ta. Nhiệm vụ đánh hậu còn oằn nặng chưa xong, giờ đây chiến sĩ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù phải bảo vệ sinh mạng của những đồng bào ruột thịt của các anh. Đồng bào không bao giờ chấp nhận Cộng Sản, dù có phải bỏ hết nhà cửa, tài sản khó nhọc chắt chiu từ nhiều chục năm, nhưng để được tự do, thì người dân sẵn sàng cùng dấn thân với người lính Việt Nam Cộng Hòa trên bất cứ con đường khổ ải nào.
Đoàn quân và dân lẫn lộn xen kẻ nhau kéo đi lầm lũi trong đêm tối hãi hùng. Từ Tân Phong, đoàn người khốn khổ đến được Đức Thành. Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù được Đại Đội 1 Trinh Sát Dù bảo vệ là đơn vị duy nhất đi trên con lộ 2 hoang phế. Các Tiểu Đoàn 1, 2, 8 và 9 Dù rải quân đi sâu vào hai rừng cao su bể bảo vệ đoàn quân dân trên mặt lộ. Khoảng 4 giờ sáng rạng ngày 21.4.1975, Pháo Đội C của Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh và một Trung Đội Trinh Sát lọt vào ổ phúc kích của hai tiểu đoàn giặc tại ấp Qui Ca gần ranh giới hai tỉnh Long Khánh – Phước Tuy. Quân giặc đã hò hét xung phong biển người lên tràn ngập cánh quân này. Quân ta đã tận lực chống trả đến người cuối cùng. Nhưng nhờ sự hy sinh cao cả này mà đoàn quân dân lọt đến được khu vực núi Cấm Tiên, để ở đây, Tiểu Đoàn 9 Dù đánh một trận lừng lẫy cuối cùng cho trang chiến sữ đẫm máu và lệ của binh chủng Dù, chịu chết chóc để đưa được đoàn quân dân về đến được Phước Tuy bình yên.
Hồi tưởng lại những ngày chiến đấu ở Xuân Lộc và cuộc triệt thoái trên Liên Tỉnh Lộ 2, Đại Úy Nhảy Dù Hoàng Văn Tuất, một Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù đã kể lại trong bài viết Trận Chiến Cuối Cùng Của Tiểu Đoàn 9 Dù như sau. Đại Úy Hoàng Văn Tuất xuất thân Khóa 9/68, tốt nghiệp Khóa 5 Huấn Luyện Viên, Tổng Cục Quân Huấn. Khi lên cấp Trung Úy một thời gian, anh xin thuyên chuyển về Sư Đoàn Nhảy Dù để thỏa chí trai bốn phương ngang dọc,Trung Úy Tuất nhận một trung đội và bắt đầu cuộc đời chiến trường đỏ lửa của anh. Theo Đại Úy Tuất, một sĩ quan cấp Trung Úy trở xuống thuộc đơn vị khác không phải xuất thân từ binh chủng Dù, chỉ được nhận trung đội để quen dần với hệ thống chỉ huy và kỹ thuật tác chiến của binh chủng Mũ Đỏ.
Nhớ về các bạn Thiếu Úy Mỹ, Sơn và Đông.
Hồi tưởng lại mùa xuân 1975 tại Đà Nẵng. Sau những tháng năm dài đóng quân ngoài miền hỏa tuyến, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù hậu cứ đặt tại Đà Nẵng lệnh cho Tiểu Đoàn 9 Dù hàng ngày tung những cánh quân nhỏ cấp Trung Đội hành quân lục soát thường xuyên trên các đỉnh đồi ( 400 hay 500 thước). Thật là bực bội và khó chịu cho chúng tôi, nhưng phải tuân hành. Cánh quân vũ bão hàng đầu, sau trận chiến Thường Đức 1062, Quảng Nam, không còn được dùng đúng chỉ số nữa. Sáng sớm đi lục soát, đến chiều tối mới mò về, y hệt như những chiến hữu Địa Phương Quân của Tiểu Khu Quảng Nam vậy. Đôi lúc chúng tôi gặp nhau trên đường hành quân, sau vụ Việt cộng pháo kích vào thành phố và phi trường Đà Nẵng.
Vào một ngày nắng đẹp, sau hai tuần lễ thay phiên nhau trèo đèo lội suối, chúng tôi thay đồ đẹp tính đi dạo phố, không ngờ lịnh trên cho chuẩn bị hành trang gọn gàng và chờ đợi. Đổi vùng. Lịnh chỉ có thế. Chúng tôi thực sự mừng rỡ, ở một chỗ quá lâu không tốt và cũng là mục tiêu cho bọn Cộng Sản nằm vùng dòm ngó. Tin một chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến ra trám chỗ cho chúng tôi. Chúng tôi khăn gói cuốc bộ đến phi trường. Nơi đây không khí nhộn nhịp hẳn lên, những vận tải cơ C130 lên xuống không ngừng, cố gắng hoàn tất nhiệm vụ là vận chuyển cả Lữ Đoàn Dù xuôi Nam. Nghe tin tình hình vô cùng xáo trộn và bi đát, rồi sẽ có đảo chánh nữa, vì thế Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mới ra lịnh cho đơn vị Dù về phòng thủ vòng đai an ninh thủ đô. Vì không đủ máy bay nên Lữ Đoàn 1 Dù phải chia làm đôi. Phân nửa về bằng tàu, nửa kia về bằng máy bay. Tiểu Đoàn 8 và 9 Nhày Dù lên máy bay thẳng một lèo về Sài Gòn, còn Tiểu Đoàn 1 Dù về bằng tàu Hải Quân đến Khánh Hòa, thì có lịnh tấp vô bờ phụ với Lữ Đoàn 2 Dù ở Khánh Dương. Sài Gòn thành phố thân yêu, dân chúng vẫn tấp nập buôn bán, làm ăn sinh hoạt bình thường hơn so với các nơi khác. Đơn vị rảnh rang gửi binh sĩ qua học bổ túc chiến thuật, cũng như những ai chưa có bằng Dù đều được về Trại Hoàng Hoa Thám thụ huấn khóa Dù ngay. Chỉ vài ngày sau thì Đà Nẵng mất, Thủy Quân Lục Chiến gặp nguy, cố vùng vẫy và chiến đấu lẻ loi vì không được đơn vị nào đến tiếp cứu, đành mở đường máu cố gắng về Đà Nẵng rồi tìm phương tiện xuôi Nam. Chợt nhớ đến Chiến, người bạn cùng khóa, cùng trung đội, đã tình nguyện về Thủy Quân Lục Chiến, mà trước khi mãn khóa một tuần đã tự sắm bộ đồ bông xanh mặc vào đi khoe khắp Đại Đội. Cầu nguyện cho nó được bình an.
Học bổ túc cũng chỉ được vài ngày. Lúc bấy giờ mặt trận Long Khánh đã bùng nổ rất ác liệt, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo của Sư Đoàn 18 và các đơn vị dưới quyền của ông quyết không để một tấc đất nào rơi vào tay bọn Cộng Sản. Tướng Cộng Sản giận dữ tung thêm các sư đoàn thiện chiến vào định giải quyết chiến trường mau lẹ, để rồi tiến thẳng vào Sài Gòn càng sớm càng tốt như ý họ mong muốn. Nhưng Bộ Tổng Tham Mưu của ta không để cho chúng được toại nguyện, lịnh tung quân Dù vào trận chiến. Tiểu Đoàn 9 Dù có tên trong danh sách nhập trận. Chúng tôi đành bỏ khóa học Dù nửa chùng. Đoàn GMC chở chúng tôi qua phi trường Tân Sơn Nhứt, để rồi từ đó lại được các trực thăng Chinook đưa vào Long Khánh. Nhìn vào bản đồ mới lảnh sau khi họp với Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, sao chấm đỏ (Cộng Sản) ở đâu mà nhiều thế. Thiếu Úy Khánh phụ tá cho Đại Úy Chỉ, sĩ quan Ban 3 kêu nhỏ chúng tôi lại một góc và dặn dò:
– Chúng mày cẩn thận, trận chiến này ác liệt lắm đó nghe. Ráng giữ mình để rồi còn về nhậu với tao!
Thiếu Úy Mỹ, Sơn của Đại Đội 92, Thiếu Úy Đông và tôi của Đại Đội 93 hiện rõ nét ưu tư trên khuôn mặt. Chúng tôi lặng lẽ lui ra và căn dặn thuộc hạ thận trọng trong cuộc hành quân này. Chinook thả chúng tôi vào trận chiến, trực thăng đậu ngay trên quốc lộ. Chúng tôi ào ra và thật ngỡ ngàng. Dân chúng kẻ bồng người bế, lần lượt di tản. Cạnh quốc lộ xác chết vô số kể, dân thì không nói chi, còn lính thì được bạn bè phủ cho tấm poncho, rồi vội vàng cất bước, phần đông bị trúng đạn pháo của địch. Chúng tôi dàn quân và tiến một cách thận trọng. Đầu tiên băng qua vườn trái cây, vườn mít. Ngày đầu chúng tôi ăn mít trừ cơm, ôi, những múi mít vàng thơm ngon lạ thường. Đêm đó tôi mắc võng ngủ dưới tàng cây và hương thơm của mít đã ru chúng tôi vào giấc ngủ đầy mộng mị. Đêm bình yên đã qua, sáng sớm được lịnh di chuyển, gần cả ngày vẫn không thấy động tịnh gì. Chúng tôi bắt đầu lo, hễ vào vùng rồi mà yên tĩnh như thế là biết bọn Cộng Sản ở phía trước đang chờ đón chúng tôi. Tuy nhiên, trên bầu trời Không Quân bạn đủ loại từ A1 Skyraider đến A 37, rồi trực thăng võ trang không ngừng xuất hiện thay phiên oanh kích và bắn phá xung quanh chúng tôi đẻ yểm trợ.
Đến ngày thứ hai, bọn Cộng Sản bắt đầu lộ diện và giao tranh cầm chừng cốt nhữ chúng tôi vào bẫy mà chúng đang giăng. Chúng tôi tiến chậm. lục soát kỹ vài giao thông hào còn mới toanh, bọn chúng nhữ chúng tôi vào sâu hơn. Qua khỏi những vườn trái cây, sâu vào phía trong, chúng tôi đụng phải vườn cao su bao la ngút ngàn rộng cả trăm mẫu. Việt cộng xuất hiện mọi nơi, giờ thì chúng tôi thực sự chạm địch. Một vài tên Cộng Sản khôn ngoan núp trên cây cao su nhắm bắn chúng tôi tùng thiết sau thiết giáp M113, cỏ mọc cao ngang bụng. Thiết Giáp khai hỏa trước, sau đó chúng tôi xung phong tấn công mục tiêu, mà hễ lên bao nhiêu là bị đốn ngã bấy nhiêu. Một chiếc thiết giáp bị trúng B40 nữa, Dù và Thiết Giáp mới vỡ lẽ, cùng đồng loạt hướng mũi súng lên các ngọn cây cao su mà khai hỏa. Từ xa chúng tôi thấy xác chúng rơi xuống như mít rụng. Tổng kết trong ngày, Tiểu Đoàn 9 Dù thiệt hại nhẹ, tuy nhiên có một sĩ quan Dù tử trận. Được biết anh ấy nhận lịnh chiếm mục tiêu, thấy binh sĩ bị thương anh nóng ruột tiến hàng đầu trong lúc binh sĩ chưa chuẩn bị kịp thì anh đã bị đốn ngã.
Trận chiến cứ tiếp diễn từ ngày này qua ngày khác, ban ngày tiến chiếm mục tiêu, nửa khuya lặng lẽ rời bỏ vị trí, có lúc 9, 10 giờ đêm vẫn còn đánh. Xác chiến hữu hồi chiều đến giờ vẫn còn nằm bên miệng hố địch mà không làm sao đem ra được. Đại Úy Tường, Đại Đội Trưởng Đại Đội 93 ra lịnh trung đội tôi bằng mọi cách phải đem xác về. Đợi đến khuya chúng tôi lấy dây dù cột võng nối hai, ba sợi lại làm một im lặng bò lên dùng đầu dây cột vào chân xác chết kéo nhẹ về. Việt cộng nghe động liền nổ súng. Khi kéo được xác bạn mình về thì thân thể anh nhận thêm một số vết đạn nữa. Đêm đó chúng tôi chôn xác anh tại chỗ. Khoảng 2 giờ sáng, đang ngủ ngon sau một ngày vất vả, chúng tôi được lịnh bỏ vị trí và dời quân. Cứ như thế cho đến suốt cả tuần. Lương thực và đạn dược bắt đầu cạn dần, tiếp tế rời rạc khó khăn. Đôi lúc chúng tôi xin thực phẩm của dân để bù dắp.
Trở ngại đến với chúng tôi mỗi lúc một nhiều hơn. Như hôm nay đang di chuyển bỗng gặp một nhánh sông trước mặt mà nhìn vào bản đồ lại không có tên. Chúng tôi cố gắng vượt qua. Nhảy Dù mà, cố gắng hết mình. Nhưng Nhảy Dù dở ở chỗ là nhân tài biết lội lại không nhiều, hành trang cồng kềnh, chưa kể súng đạn, nên khi qua kiểm điểm lại có vài binh sĩ bất khiển dụng vì uống nước sông quá nhiều, cũng như có hai binh sĩ bị nước cuốn trôi vì dòng sông nước chảy siết. Thật vô lý, sau đó chúng tôi tự nguyện mỗi lần về hậu cứ, sau giờ học Thái Cực Đạo là xin cấp trên cho đi học bơi. Ra khỏi vùng bàn giao cho đơn vị bạn, chúng tôi được nghỉ xả hơi một ngày cạnh quốc lộ và cũng nhận được tin vui từ Bộ Tư Lệnh Dù là đã được Bộ Tổng Tham Mưu tưởng thưởng bằng cách thăng cấp tại mặt trận cho các quân nhân từ cấp Trung Đội Trưởng trở xuống hàng khinh binh lên một cấp. Thêm vào đó, chúng tôi được bổ sung vài sĩ quan hiện dịch về Tiểu Đoàn. Họ đã ra trường sớm hơn ngày mãn khóa, và đồng thời lúc đó cũng là ngày buồn cho Cộng Sản đã được lãnh hai quả CBU do Không Quân ta gởi tặng.
Sau một ngày ngơi nghỉ lại tiếp tục di chuyển, tiến men theo quốc lộ Sài Gòn – Vũng Tàu về hướng Bà Rịa. Vừa đến gần Tiểu Khu Phước Tuy, chúng tôi bị pháo kích, đoàn quân hỗn loạn. Trung Tá Nguyễn Văn Nhỏ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 9 Dù của chúng tôi bị thương đầu tiên. Thiếu Tá Đường Tiểu Đoàn Phó lên thay. Tại Tiểu Khu Phước Tuy, chúng tôi được Tiểu Khu Trưởng (một cựu sĩ quan Dù) tiếp đón ân cần và tiếp tế lương thực. Dân chúng Bà Rịa hay tin có mặt đơn vị Dù ở đây, họ vui mừng khôn xiết đem đồ ăn và tặng phẩm tới tấp. Chúng tôi có được hai ngày ở Phước Tuy thật thoải mái, hàng quán chỉ còn thưa thớt nhưng được chúng tôi chiếu cố thật kỹ. Đến ngày thứ ba, binh sĩ gác cầu Long Hương phát giác tăng địch xuất hiện nhưng họ tưởng là chiến xa bạn nên không báo cáo. Lúc ấy Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn Dù đóng trong dinh Tỉnh Trưởng được thiết vận xa nằm ngoài làm an ninh. Những trung đội chúng tôi nằm rải rác dọc theo hai bên phố ngoài thị xã. Chiến xa địch sau khi điều chỉnh tác xạ, chúng bắt đầu nã đại liên cùng đại bác về phía Dù. Thấy việc lạ, chúng tôi báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và xin lịnh. Khi được tin đúng là tăng địch, Dù và Thiết Giáp thêm một lần vất vả, vì không ngờ đó là T54, trong khi Thiết Giáp tăng phái chỉ toàn M113 và 2 chiếc M 48. Binh sĩ Dù nằm dọc theo hai bên phố lấy lại bình tĩnh và bắt đầu sử dụng M72 bắn cầm chân chiến xa địch để Thiết Giáp hộ tống Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 9 Dù rút về hướng Vũng Tàu. Chiến xa địch cũng không dám tiến lên, chúng đang đợi bộ binh tùng thiết đến tấn công, chúng tôi lợi dụng khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đưa toàn Bộ Chỉ Huy thoát khỏi tầm đạn tăng địch. Tuy nhiên địch vẫn bám theo sát. Đến cầu Cỏ May, địch lại càng gần ta hơn vì quân ta gặp một trung đội Thủy Quân Lục Chiến đang giữ cầu không cho chúng tôi qua. Sau một hồi thảo luận họ mới kéo hàng rào cản, và không hiểu sao họ lại theo chúng tôi luôn. Thực sự lúc đó địch đã gần kề. Lịnh trên cho toán Công Binh Dù nổ mìn giựt sập cầu. Nhưng mìn mang theo lúc đó không còn nhiều, nên sức công phá chỉ đủ sập một nhịp mà thôi. Như thế cũng khá lắm rồi. Tăng địch bắt buộc dừng lại, nhưng chúng cũng không để yên, luôn bắn đạn tầm xa với theo chúng tôi làm một số binh sĩ theo những chiếc M113 sau cùng bị thương.
=================================================
PHẦN 6
Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo (Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh) Chiến trường Xuân Lộc 1975
Gần đến thị xã Vũng Tàu, qua khỏi một khúc quanh không xa Trường Thiếu Sinh Quân cho lắm, cả một đại đội địch ở đâu không biết ào ra bao vây chiếc M113 do tôi dẫn đầu và mở đường cho Tiểu Đoàn Dù phía sau. Tuổi chúng còn thật trẻ, vài đứa mặc quần áo của ta trông thật không giống ai. Tôi lấy khẩu T38 nhét dưới đùi, trường hợp bất trắc có thể sử dụng ngay. Nhanh trí tôi liền đứng dậy đưa hai tay tỏ dấu thân thiện và la lớn:
– Bạn đây, bạn đây, đừng bắn!
– Một tên tiến đến gần có vẻ là cấp chỉ huy đã hỏi tôi:
– Bạn hả? Mới lấy được tăng ngụy phải không? Còn chúng nó đâu?
Tôi vẫn tiếp tục cứng với nó, mặc dù trong bụng hơi run, không biết có qua mặt nỗi bọn ác ôn này không. Tôi chỉ đại ra phía sau, bỗng dưng hắn tưởng thiệt, ra lịnh cho đám lính lui và dạt ra hai bên nhường đường cho xe tôi qua Như đã nói trên là đang ở khúc quanh, xe tôi và chiếc thứ hai khá xa nên không thấy gì hết. Tôi cầm khúc cây nhỏ khỏ vào đầu nón sắt của anh lính Thiết Giáp ra lịnh tống hết ga chạy về phía trước, rồi nói với anh hiệu thính viên liên lạc với chiếc thứ hai rằng bọn chúng đang phục kích trước mặt, hãy đề phòng. Như chuẩn bị trước, những chiếc kế tiếp tiến lên và khai hỏa vào hai bên đường. Bọn Việt cộng chết vô số kể và lẩn trốn để đoàn xe tiếp tục triệt thoái về hướng Vũng Tàu.
Tới Bến Đá, giờ đây đủ các quân binh chủng của ta thuộc Quân Khu III, chưa kể một số đơn vị thuộc Quân Khu II và còn dân chúng nữa. Không thể tưởng tượng được, Thiết Giáp không còn đất sử dụng và cũng cùng đường rồi. Những tài xế lái thiết xa cho máy nổ, sang số cho xe chạy sát bờ biển, ra lịnh mọi người nhảy ra ngoài, xe tiếp tục lăn xích đi xuống lòng đại dương. Trung Sĩ Hai đứng chết lặng, hai hàng nước mắt tuôn rơi nhìn lần cuối chiếc M113 từ từ mất dạng trong biển nước mênh mông. Giờ thì Thiết Giáp theo lính Dù luôn, chúng tôi đi đâu họ theo đó. Hậu cứ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù ở Vũng Tàu đem thuyền nhỏ đến rước chúng tôi, vì không còn phương tiện hiện hữu nào có thể sử dụng vào lúc này. Lênh đênh ngoài khơi cả buổi, liên lạc nghe ngóng, tình thế hoàn toàn tuyệt vọng. Rồi bản tin nghe được từ máy radio bỏ túi, lịnh Tướng Minh tuyên bố buông súng đầu hàng. Thôi hết rồi. Tiểu Đoàn 9 thuộc Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù quăng tất cả vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng xuống biển và tự ý tan hàng sau lời nhắn nhủ đầy xúc động của Thiếu Tá Đường Tiểu Đoàn Trưởng. Chúng tôi giã từ vũ khí một cách bất đắc dĩ ngoài khơi Vũng Tàu, không đầy hai hải lý cách đất liền. Ngoại trừ một số chết và bị thương, quân số Tiểu Đoàn còn 80%.
Viết để hồi tưởng lại, người sống cũng như người chết, bạn hữu, thân bằng quyến thuộc đã hy sinh cho Chính Nghĩa Quốc Gia và Dân Tộc. Tin vào ngày mai, tất cả sẽ đổi thay như luật trời đã định. Đoàn quân ta sẽ trở về trong danh dự và bọn Cộng Sản không còn hiện hiện trên đất nước thân yêu của chúng ta nữa.
Ngày 25.4.1975, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù được xuất phái ra khỏi Sư Đoàn 18 Bộ Binh, di chuyển về bảo vệ Vũng Tàu. Trước đó, trưa ngày 22.4.1975, một chiếc C 130 chở một trái bom CBU 55 bay lên vùng trời Long Khánh và đã thả nó lên chỗ tình nghi là Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 341, mà đang đóng ngay ngoại ô tỉnh lỵ Xuân Lộc. Tấm thảm lửa phosphor từ trái bom vỡ bùng lên và ngay lập tức, một khoảng không gian bị hút lấy dưỡng khí từ đám lửa, đã làm cho binh đội Việt cộng bên dưới ngã lăn ra chết vì ngạt thở. Tổn thất của Sư Đoàn 341 thật khủng khiếp, 250 cán binh Cộng quân chết trong những tư thế đau đớn. Sau GBU 7 tấn, thì CBU 55 là loại bom sát thương chống người, trong nỗ lực ngăn chống làn sóng Cộng Sản quốc tế. Nhưng một vài trái bom đó không đủ làm thay đổi tình thế, mà chỉ kéo dài thêm thời gian hấp hối của Việt Nam Cộng Hòa. Cũng trong ngày 22.4.1975, Trung Đoàn 8 Bộ Binh và Chiến Đoàn 322 của Đại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng đã chiếm được Hưng Nghĩa, nhưng được lệnh rút quân ngay về bảo vệ Biên Hòa.
Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Chế nhận lệnh Chuẩn Tướng Đảo đang bay chỉ huy trên C&C rời bỏ con đương Liên Tỉnh Lộ 2 chia thành nhiều nhóm nhỏ cắt đường rừng mà đi. Cộng quân cứ ra rả gọi loa kêu đích danh Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế bó tay qui hàng. Các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/43 cực nhọc chiến đấu liên tục đến ngày 23.4 mới về đến được Phước Tuy, quân số hao hụt đến hơn 50%. Một con số hết sức đau xót cho số thân nhân của các tử sĩ đang ngóng trông các anh ở hậu cứ Long Bình. Cuộc hành quân hoàn tất buổi chiều ngày 21.4.1975. Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã phải bỏ ra ba ngày để tái trang bị, bổ sung quân số tại Long Bình. Ngày 24.4.1974, chiến sĩ Sư Đoàn nhận được tin vui. Tổng Thống Trần Văn Hương đến Long Bình vinh thăng đặc cách Thiếu Tướng cho Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và thăng thưởng nhiều chiến sĩ hữu công khác.
Nhớ lại mười hai ngày đêm chiến đấu tại Long Khánh, các chiến sĩ bộ binh dưới sự hỗ trợ của trên 600 phi xuất Không Quân, Pháo Binh và Kỵ Binh, đã bắn cháy hơn 30 xe tăng địch quân, tiêu diệt 10,000 quân giặc. Sư đoàn di chuyển về khu vực Sài Gòn để chuẩn bị đánh những trận đẫm máu cuối cùng bảo vệ thủ đô. Sáng ngày 30.4.1975, các đơn vị sư đoàn đang trấn giữ khu vực Nghĩa Trang Quân Đội trên xa lộ Biên Hòa, thì Thiếu Tướng Đảo nhận được điện gọi của Đại Tá Lê Xuân Hiếu báo tin Tướng Dương Văn Minh đã đầu hàng giặc và lệnh cho toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải buông súng “ai ở đâu thì ở đó chờ quân giải phóng đến bàn giao”. Trong một nỗ lực cuối cùng, Thiếu Tướng Đảo cố gắng liên lạc với các Trung Đoàn Trưởng, nhưng các đơn vị đều đã tan rã. Vẫn không chịu khuất phục và bỏ cuộc, trong bộ quần áo dân sự, Thiếu Tướng Đảo tìm cách về đến được Cần Thơ, với hy vọng Quân Đoàn IV của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam và Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng tiếp tục chiến đấu. Nhưng người anh hùng thất cơ lỡ vận của chúng ta chỉ có thể tìm thấy một thành phố ngơ ngác, hoảng loạn và tin tức về cái chết anh dũng của hai vị Tướng. Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh bảo vệ Cần Thơ cố gắng liên lạc với Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, với một hy vọng mỏng manh nào đó. Nhưng Chuẩn Tướng Hai cũng đã uống thuốc độc tử tiết chiều cùng ngày. Sư Đoàn 9 Bộ Binh của Chuẩn Tướng Huỳnh Văn Lạc hãy còn đang đánh nhau với Cộng quân tại chiến trường biên giới Mộc Hóa, rồi cũng tan hàng trong cay đắng. Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc đánh dấu chấm hết một cách oan khuất và tức uất kể từ giây phút đó. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, người anh hùng cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam trở về Sài Gòn. Ngày 9.5.1975 Thiếu Tướng Đảo bị gửi vào trại tù Cộng Sản. Người anh hùng của đất nước phải trả một cái giá quá đắt cho chiến thắng Xuân Lộc với mười bảy năm tù dài đăng đẵng. Tháng 4.1993, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đặt chân lên mảnh đất tự do Hoa Kỳ. Một trong những công việc trước nhất mà ông nghĩ tới, là đi tìm thăm lại tất cả những chiến sĩ thuộc cấp từng sát cánh chiến đấu với ông từ ngày ông về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Câu hỏi đầu tiên của ông lúc nào cũng là:”Các anh em có phiền trách gì tôi không?”. Đã một phần tư thế kỷ trôi qua rồi mà Thiếu Tướng Đảo vẫn hãy còn rất băn khoăn, rằng ông đã có lỗi để cho chiến hữu của ông phải rơi vào cơn bão xoáy tang tương của đất nước đến như vậy. Nhưng câu trả lời bao giờ cũng là:”Anh em vẫn luôn kính yêu Hằng Minh (danh xưng chiến trường của Thiếu tướng) như ngày nào. Hằng Minh không có lỗi gì hết”. Thiếu Tướng Đảo đã dùng danh xưng chiến trường Hằng Minh để tưởng nhớ đến sự hy sinh dũng liệt của cố Trung Tá Lê Hằng Minh, là bào đệ của ông, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên Thủy Quân Lục Chiến, tại vùng Phong Điền, Thừa Thiên, trong một cuộc phản phục kích đẫm máu với quân giặc.
Trong trại tù, Thiếu Tướng Đảo đã khảng khái nói với các cai ngục Cộng Sản:“Nếu các ông còn đang giam giữ nhiều chiến hữu sư đoàn của tôi, thì tôi mong là tôi sẽ là người sau chót bước ra khỏi đây. Nếu khác đi thì tôi không còn mặt mũi nào nhìn họ nữa”. Khi được hỏi về những ký ức ở Xuân Lộc, Thiếu Tướng Đảo đã trầm ngâm đôi giây phút:”Chiến đấu là một nghệ thuật.Chúng ta không phải dùng tay và chân thôi, mà còn trí óc nữa. Cho dù biết đang thua cuộc chiến tranh, tôi vẫn chiến đấu“. Với bản tính khiêm tốn, lời nhắn nhủ với tác giả sử gia Jay Veith, người đã bỏ công phục hiện lại diễn tiến Xuân Lộc, của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, được dùng làm lời kết cho thiên anh hùng ca này:”Xin đừng gọi tôi là anh hùng. Những chiến hữu của tôi đã hy sinh tại Xuân Lộc và những chiến trường khác mới chính là những anh hùng“. Không cần thiết phải ngợi ca Thiếu Tướng Lê Minh Đảo là một anh hùng. Những dữ kiện của sự thật đã nói lên được điều đó.
Tướng Đảo đặt vòng hoa: Lễ đặt vòng hoa tại đài tưởng niệm ở Phoenix. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo và Trung Tướng Edison đang nghiêm chào tượng đài chiến sĩ trận vong.
(Trích trong Thiên Hùng Ca Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa)
Tài liệu tham khảo:
• George J.Veith, Fighting is an Art: “The ARVN Defense of Xuan Loc, April 9 – 21, 1975″.
• Đại Tá Hứa Yến Lến, Tuyến Thép Xuân Lộc, 12 Ngày Đêm Ác Chiến Với Cộng Sản Bắc Việt.
Phạm Phong Dinh
https://hon-viet.co.uk/PhamPhongDinh_Th ... anLoc5.htm
Re: - 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do
Đã gửi: Chủ nhật 28/04/24 08:34
bởi Bạch Vân
Phân loại kẻ thù Cộng Sản
Đã gửi: Chủ nhật 28/04/24 08:39
bởi Hoàng Vân
Phân loại kẻ thù Cộng Sản
Trần Công Lân
Chuyện Võ Văn Thưởng bị phế chỉ là bề ngoài, cộng đồng Việt Nam (CĐVN) cần tìm hiểu nhiều hơn về hệ thống nhân sự của cộng sản Việt Nam (CSVN) vì phê bình cộng sản trên mạng không làm cho CSVN lo sợ mà chỉ yên tâm vì người Việt tự do chưa đe dọa được chế độ.
Nói về lý thuyết hay tư tưởng (Hồ Chí Minh, Mao, Mác) thì ai cũng biết đã vô dụng vì ngay cả Tập Cận Bình còn không vận dụng được thì CSVN chỉ có câm (không nói nữa) và điếc (không nghe nữa). Vậy còn nhân sự?
Lãnh đạo cao cấp
CSVN chơi trò dân chủ giả mạo, cũng có bầu cử, ứng cử viên do đảng chọn, ép dân đi bầu, có báo chí thổi kèn từ hành pháp, lập pháp, tư pháp nhưng để do đảng CSVN điều động. Vậy để chọn lãnh tụ đảng quan trọng hơn thủ tướng hay chủ tịch nước. Chúng ta (người Việt tự do) thường nghĩ là phe phái (thân Nga, Mỹ, Tàu) nhưng thử đặt chân vào vị thế CSVN thì sẽ thấy gì?
Để đóng vai trò lãnh đạo đảng đòi hỏi những gì? Sự sống còn của đảng, thù trong, giặc ngoài; quyền lợi sống còn của đảng trong tương lai sẽ như thế nào khi lý thuyết CS (tư tưởng Mác, Mao, Hồ) không còn xài được. Để bảo đảm vai trò độc tôn (1) lãnh đạo của đảng đòi hỏi guồng máy đàn áp nhân dân: bộ công an.
Chủ tịch đảng phải là người nắm được linh hồn của bộ trưởng công an, kẻ dữ dằn tàn bạo nhất VN đương thời. (2) Chủ tịch đảng phải là người được sự ủng hộ của đa số các tỉnh ủy (các ông trùm địa phương = sứ quân). Để thuyết phục các sứ quân ủng hộ thì phải có bùa: đó là chính sách ngoại giao và nội trị. Ngoại giao là làm sao đối phó với Tàu, Nga, Mỹ và thế giới với chính sách “cây tre” (thực sự chỉ là “cỏ đuôi chó” theo ngôn ngữ VNCH). Cùng với sự phân chia quyền lợi trong nước khi có viện trợ, thương mại, mậu dịch với nước ngoài, nhân vật chủ tịch (tương lai) sẽ phải thuyết phục các đàn em (sứ quân) đó là con đường tốt nhất để tồn tại và thịnh vượng (tham nhũng). (3) Như vậy chính sách ngoại giao và đối nội cho thấy ai sẽ có khả năng lèo lái đảng trong tương lai. (4) CSVN sợ Tàu thật nhưng không đến nỗi quỵ lụy mà chỉ là nương theo để tránh xung đột (hai bên cùng có lợi) và du giây với Mỹ, Âu Châu để đánh bóng bàn (ping pong) với Tàu mà trọng tài là tư bản nước ngoài.
Vốn là đảng cướp nên tìm một người có khả năng, vừa khôn ngoan vừa hiểm độc để có thể nắm đầu trùm công an là người ngăn chặn mọi chống đối từ bên trong cũng như bên ngoài thì không dễ kiếm. Đại diện trong Quốc Hội chỉ là bù nhìn. Đại hội đảng là chiến trường thanh lọc, sắp xếp hàng ngũ trung ương, địa phương và chính trị bộ là giai đoạn cuối cùng để chọn lãnh đạo tương lai. Đừng coi thường tiến trình “dân chủ” của CSVN đi từ trên xuống dưới. Vì mục tiêu của đảng là cầm quyền. Mọi đe dọa quyền lực đảng có nghĩa đảng sẽ bị tiêu diệt. Để tìm lãnh đạo có khả năng đó đòi hỏi Khôn và Ác. Từ trên (lãnh đạo trung ương) xuống dưới công an phường (địa phương) đều hiểu điều đó và sự dàn xếp đi từ cao cấp, trung cấp (tỉnh ủy) xuống hạ tầng (địa phương phường xã). Bộ máy công an là xương sống của đảng đi với bộ máy cai trị do các tỉnh ủy nắm giữ. Với bộ trưởng công an như Tô Lâm (hay Trần Quốc Hoàn, Mai Chí Thọ) có thể xử bất cứ nhân vật nào trong nội các chính phủ, quốc hội, tòa án hay các tỉnh ủy địa phương.
Mỗi “triều đại” (Lê Duẩn, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng...) đều được chọn lựa theo hoàn cảnh bên ngoài (quốc tế) và bên trong (ai có khả năng ăn chia với các tỉnh ủy và nắm được trùm công an). Nếu công an phường khóm độc ác, thâm hiểm một thì trùm công an phải là 100 hay hơn. Nhưng bộ máy công an chưa đủ nếu không có ngoại vi là các nhóm du đãng (xã hội đen).
Khi chính sách ngu dân (qua sự phá hoại văn hóa Việt) CSVN sắp xếp các khu du lich, ăn chơi ngoài việc chiêu dụ du khách còn là bộ máy thanh lọc các Việt kiều về VN du lịch: Bạn nếu không về ăn chơi, hưởng thụ thì tất phải là dân làm ăn (và cán bộ được chấm mút). Nếu bạn không thuộc hai thành phần đó thì về làm gì? Phải chăng âm mưu chống chế độ?
Hạ tầng cơ sở
Tại sao sau bao năm cầm quyền CSVN vẫn tồn tại? Vì CSVN vẫn nuôi được những kẻ cam tâm làm chuyện ác. Nuôi dưỡng kẻ Ác bằng quyền lợi, đe dọa, mua chuộc và bảo vệ. Mọi sự phê bình, chỉ trích từ bên ngoài (hải ngoại) không làm CSVN sờn lòng khi hệ thống công an và du đãng vẫn đàn áp từng người dân một nếu cần thiết (nhân quyền).
Khi CSVN cho dân du lịch nước ngoài, du học thì CĐVN mới thấy có những thành phần đi luôn (ở lại) và thành phần đi-về vì làm ăn hai mặt (ngoại quốc lẫn trong nước). Thành phần này chẳng có lý tưởng gì cả chỉ là lợi trên hết. Họ chưa phải là công an nhưng sẵn sàng làm chỉ điểm cho công an khi cần (vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Đức 2017). Vậy chúng ta (CĐVN) sẽ xử trí như thế nào với những hạng người như vậy?
Những thành phần công an địa phương, du đãng (tay sai cho công an) cũng có gia đình, thân nhân... họ cũng là người nhưng trong đầu óc họ nghĩ gì khi trong gia đình có kẻ đi làm tay sai cho chế độ đàn áp dân lành? Đây là khúc mắc quan trọng nhất cho cuộc đấu tranh dân chủ của người Việt tự do: Nếu chúng ta đấu tranh Nhân quyền, Nhân bản thì hạng người như vậy cần được (sẽ được) chuyển hóa như thế nào để ý thức vai trò của họ đối với tương lai dân tộc và đất nước? Họ theo đóm ăn tàn để có tiền (qua vai trò công an bóc lột dân) để đi du lịch hay mua nhà đất làm giàu thì con cái họ sẽ hưởng như thế nào? Trốn ra nước ngoài hay tiếp tục ăn chơi và làm tay sai chế độ cho đến bao giờ? Họ có muốn bị liệt vào danh sách bị trừng phạt khi ra nước ngoài hay khi chế độ sụp đổ?
Nếu họ muốn thay đổi thì phải thay đổi nhân sự làm việc cho chế độ. Bao nhiêu người phục vụ chế độ CS thống trị 100 triệu dân Việt? Nếu những khuôn mặt công an địa phương được xác định trong hồ sơ những kẻ vi phạm nhân quyền vả sẽ bị truy tố trong tương lai thì gia đình, vợ con họ sẽ nghĩ sao? Đó cũng là điều những người dân lành có thể thực hiện bằng cách thu thập dữ kiện về các nhân vật ác ôn tại địa phương gửi ra hải ngoại bằng nhiều phương tiện.
Một khi hàng ngũ hạ tầng cơ sở của CSVN bị lung lay có nghĩa là chế độ bị đe dọa. Rút từng viên gạch củng cố chế độ sẽ đưa đến sự sụp đổ của chế độ. Sự tàn ác hay khôn ngoan của lãnh đạo cũng không thể thay thế việc làm của nhân sự hạ tầng (tướng không thể làm việc của lính). Tiến trình cải hóa này cũng là tiến trình xây dựng Nhân quyền, Nhân bản của VN tương lai. Giáo dục và cải tạo con người không thể chỉ thay đổi chế độ qua cuộc đảo chánh hay đưa ra một hiến pháp. Khi quốc tế đưa ra biện pháp bắt và truy tố Putin nếu hắn ra khỏi nước Nga là bài học cho CĐVN. Nếu chúng ta thực hiện được hồ sơ các nhân vật CSVN ác ôn đàn áp Nhân quyền và vận động quốc tế phong tỏa sự chuyển ngân, xuất ngoại của các viên chức CSVN sẽ khiến những ai theo đảng CSVN phải suy nghĩ lại.
Liệu chúng ta có quyết tâm thực hiện hay chỉ tiếp tục chống Cộng trên mạng?
Lại một mùa 30/4 đến và qua đi.
Trần Công Lân
Tháng 4 năm 2024 (Việt lịch 4903)
https://hon-viet.co.uk/TranCongLan_Phan ... ongsan.htm
Máu Trung Tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ
Đã gửi: Chủ nhật 28/04/24 08:59
bởi Hoàng Vân
Kính mời quý vị xem bài của Duyên Anh:
Máu Trung Tá Long
đã thấm xuống lòng đất mẹ

Tôi không hiểu, trong Dinh Độc Lập, Dương văn Minh và bọn hàng thần lơ láo đến mức độ nào trước ống kính xấc xược của bọn phóng viên cộng sản và trước những câu hạch hỏi hỗn láo của bộ đội "giải phóng" cấp tá. Họ có nghe những tiếng súng danh dự, trách nhiệm, tổ quốc của lính văn nghệ diệt T-54 ở cầu Thị Nghè, của lính nhẩy dù cách cổng Dinh Độc Lập chẳng bao xa? Chúng tôi vào trung tâm thành phố. Dân chúng đang bu kín công viên dựng hai người chiến sĩ thủy quân lục chiến Việt Nam họng súng nhắm thằng vào Hạ Viện. Những chiếc loa gắn trên cây cao đã oang oang giọng nói mới chào mừng giải phóng miền Nam. Bài hát Tiến vào Sài gòn ta quét sạch giặc thù muốn rung chuyển thành phố. Nhưng trời vẫn thiếu nắng. Cộng sản đã tiếp thu Đài phát thanh, Bưu điện... Giọng nói cầy cáo của Lý Quý Chung và ca khúc Nối vòng tay lớn không còn nữa.
Chúng tôi lách đám đông. Dưới chân tượng đài của thủy quân lục chiến, xác một người cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi rói. Người sĩ quan cảnh sát đeo lon Trung tá. ông ta mặc đồng phục màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long. Trung tá cảnh sát Long đã tự sát ở đây Cộng sản để mặc ông ta nằm gối đầu trên vũng máu. Phóng viên truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14 giờ 30. Dân chúng đứng mặc niệm trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người không khóc thì mắt đỏ hoe, chớp nhanh. Tất cả im lặng, thây kệ những bài ca cách mạng, những lởi hoan hô bộ đội giải phóng.
Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng trấn Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Đô trưởng Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia đã đào ngũ. Không có Hoàng Diệu, ở những trạng lịch sử chó đẻ của thời đại chúng ta. Và trên những tiểu thuyết đấu tranh, những hồi ký chiến đấu của những con người tự nhởn sống hùng mọi hoàn cảnh, người ta không thấy một dòng nào viết về cái chết tuyệt vời của trung tá Cảnh sát tên Long. Cộng sản đã chẳng ngu dại phong anh hùng, liệt sĩ cho quốc gia. Họ độc quyền anh hùng, liệt sĩ. Ở những cuộc đấu thầu anh hùng, liệt sĩ quốc gia tại hải ngoại, chưa thấy một nén tâm hương tưởng mộ trung tá Long. Có lẽ, liệt sĩ đích thật không lãi lớn bằng liệt sĩ giả vờ thế thì thời đại chúng ta đang sống là cái thời đại gì nhỉ? Nó không chịu, không thích vinh tôn cái thật, đã đành, nó còn nhởn chìm cái thật và vấy bẩn lên cái thật một cách thô bạo, ẩn ý và lạnh lùng. Khi cái thật bị nhận chìm, bị vấy bẩn, cái giả nổi bật, sáng giá và chói lọi, thơm tho. Như vậy, mọi giá trị về tinh thần, về đạo nghĩa bị nhởn chìm theo. Rốt cuộc, bọn giả hình sống với cái giả của chúng, huyễn hoặc mọi người bằng cái giả với bạo lực của quyền uy hợp pháp và cả quyền uy ảo tưởng hậu thuẫn. Và người công chính thụ động, buông xuôi. Cuối cùng, con cháu chúng ta sẽ chỉ biết liệt sĩ đất sét, anh hùng gian dối, vĩ nhân phường tuồng.
Tôi muốn biểu dương trung tá Long như Hoàng Diệu hôm nay, Hoàng Diệu của Sài gòn. ông ta đang nằm kia, dưới chân tượng đài thủy quân lục chiến Việt Nam anh dũng. Máu trung tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ. Cái chết của trung tá Long nếu chưa thức tỉnh được sự u mê của thế giới tự do thân cộng, của bọn phản chiến làm dáng thì, ít ra, nó cũng biểu lộ cái khí phách của một sĩ quan Việt Nam không biết hàng giặc. Tôi không mấy hy vọng cái chết của trung tá Long lay động nổi cái bóng tối vô liêm sỉ trùm đặc tâm hồn những ông tướng đào ngũ. Chúng ta hãnh diện làm người Việt Nam lưu vong vì chúng ta còn trung tá Long không đào ngũ, không đầu hàng giặc và biết chết cho danh dự miền Nam, danh dự của tổ quốc.
- Tôi chứng kiến tự phút đầu.
- Ông nói sao?
- Tôi nhìn rõ ông ta rút súng bắn vào thái dương mình.
- Thật chứ?
- Đáng lẽ tôi phải nói dối.
- Tại sao?
- Vì nói thật lúc này không có lợi.
Tôi nghe hai người Sài gòn nói chuyện. Và tôi được nghe "Huyền sử một người mang tên Long" do một trong hai người kể. Truyện như vầy: 10 giờ 30, Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng, quân đội và cảnh sát tuân lệnh Tổng thống, lột quần áo, giầy vớ, nón mũ, vất súng đạn bỏ chạy về nhà mình hay nhà thân nhân của mình. Một mình trung tá Long không lột chiến bào, không phi tang tích huân chương, không liệng súng đạn. Trung tá Long từ nơi nào đến, chẳng ai rõ. ông xuất hiện ở công viên trước Hạ Viện hồi 12 giờ. Ngồi trên ghế đá, ông ta trầm ngâm hút thuốc. Rồi ông ta nhìn trước, nhìn sau, ngó ngang, ngó dọc. Rồi ông ta đưa tay ôm lấy đầu, cúi thấp. Khi ấy, Sài gòn đã ồn ào tiếng hoan hô cộng sản giải phóng. Bất chợt, ông ta đứng dậy, chậm rãi bước gần chân tượng đài. Trung tá Long đứng thẳng. ông ta ngẩng mặt. Thản nhiên, ông ta rút khẩu Colt, kê họng súng vào thái dương mình bóp cò. Tiếng đạn nổ trùm lấp tiếng hoan hô cộng sản. Trung tá Long đổ rạp.
- Đó, diễn tiến cái chết của Trung Tá Long.
- Ông có mặt ở đây trước lúc trung tá Long xuất hiện?
- Phải. Tôi tuyệt vọng, không thiết về nhà nữa.
- Rồi sao?
- Dân chúng bu quanh xác trung tá Long. Cộng sản chưa có thì giờ kéo xác ông ta đi. Phóng viên truyền hình Pháp thu cảnh này kỹ lắm. Chỉ tiếc họ đã không thu được cái oai phong lẫm liệt của trung tá Long. Họ đến quá chậm và họ chỉ quay phim một xác chết. ông hãy nhìn cho kỹ. Trung Tá Long tuẫn tiết cùng chiến bào, cùng cấp bậc, cùng tên mình.
Tôi đã nhìn kỹ. Lịch sử của chúng ta đã có những vị anh hùng chỉ có tên mà không có họ. Như Đô đốc Tuyết, Đô đốc Long... Hôm nay, chúng ta có thêm trung tá Long. Những ai sẽ viết lịch sử? Và liệu sử gia đời sau có soi tỏ niềm u ẩn của Trung tá Long chảy máu mắt nhìn quê hương lạc vào tay quân thù mà bất lực cứu quê hương, mà chỉ còn biết đem cái chết tạ tội quê hương, dân tộc. Đã hàng tỉ tỉ chữ viết về những chuyện khốn nạn, viết về những tên khốn kiếp, viết về những sự việc khốn cùng. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Người ta đã viết cả pho sách dày cộm để nguyền rủa xác chết. Người ta cũng đã viết cả pho sách dầy cộm để suy tôn xác sống. Người ta ồn ào. Người ta vo ve. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Ai đã làm công việc sưu tầm lý lịch đầy đủ của vị liệt sĩ đích thực này? Than ôi, lịch sử đã hóa thành huyền sử. Cho nên người ta nhìn quốc kỳ mà không cảm giác linh hồn tổ quốc phấp phới bay. Chúng ta đang bị sống trong cái thời đại của những ông tướng đào ngũ, của những ông tổng trưởng đào nhiệm không hề biết xấu hổ. Thời đại của chúng ta còn đòi đoạn ở chỗ, kẻ sĩ và kẻ vô lại đồng hóa trong "lý tưởng" nguyền rủa xác chết và suy tôn xác sống.
Xưa, Hàm Nghi 8 tuổi, hỏi cận thần:
- Tay bẩn lấy gì rửa? Cận thần đáp:
- Nước.
Hàm Nghi hỏi thêm:
- Nước bẩn lấy gì rửa?
Cận thần ngơ ngác:
- Tâu bệ hạ, thần không hiểu.
Hàm Nghi nói:
- Nước bẩn lấy máu mà rửa!
Trung tá Long đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính nhẩy dù đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính văn nghệ đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Những kẻ tạo ra ô nhục 30-4 lấy gì nhỉ? Họ đang cầm ca, cầm đĩa xếp hàng ngửa tay lấy cơm, lấy nước ở đảo Guam. Biết đâu chẳng xẩy ra tranh cơm như tranh quyền bính. Và biết đâu chẳng bị ông quân cảnh Mỹ đen tặng một vài cái tát xiếc! Những kẻ này vẫn thừa thãi vô liêm sỉ để họp bàn, hiến kết cứu nước. Lịch sử lại thêm vài phụ trang chó đẻ.
Giải phóng quân đã đổ đầy trước thềm Hạ Viện. Cỏ đuôi chó hoan hô tưng bừng. Dân chúng chiêm ngưỡng Trung Tá Long tản mạn. Trung Tá Long nằm nguyên chỗ ông ngã rạp cho máu rửa nhục Sài gòn. Giã từ liệt sĩ! Vĩnh quyết liệt sĩ. Xin hãy phù hộ tôi kéo dài cuộc sống hèn để có ngày được viết vài dòng về Trung Tá.
======================================================
=======================================================
======================================================
BBT: Qua nhiều bài viết về Trung Tá Nguyễn Văn Long mà chúng tôi có dịp đọc trước đây, chúng tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó còn thiếu sót, nếu không muốn nói là chưa thỏa mãn được những gì mà chúng ta muốn biết về Trung Tá Long. Người mà chúng tôi nghĩ đến có thể bổ túc cho những thiếu sót đó không ai khác hơn là cựu Trung Tá Nguyễn An Vinh, nguyên Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Đà Nẳng, người đã có thời gian dài được gần gũi với Trung Tá Long, trong phạm vi Bộ Chỉ Huy Khu I, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Kính mời quý vị xem bài của cựu Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Nguyễn An Vinh
Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc Gia trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên Huế, họat động ngành an ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An. Có ông chỉ tại chức 32 ngày. Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt Cộng Sản, một vài tay chân của nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống đường phá rối. An ninh trật tự hoàn toàn suy sụp.
Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng 6 năm 1966 Trung Ương quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn chỉnh lại những hoạt động của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa phương đầy biến động này, đồng thời bổ nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát Quốc-Gia Vùng. Quận Trưởng Cảnh Sát Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm 1963 và là người đầu tiên giữ vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn loạn quá dài. Ðể mau chóng ổn định nhân-sự cũng như họat động, Ông cho lệnh di chuyển Nha CSQG từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong một tháng để thu xếp gia-đình.
Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn định việc nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá Long, lúc ấy vừa được bổ nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm Thanh Tra, là còn loay hoay chưa kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình. Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm xoay sở nữa mà đã sáng kiến thực hiện một việc cổ kim không giống ai:
Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng Thành Phố, Ông dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường thành của một Công Sở. Ðó là nơi gia đình ông đang cư trú, không điện không nước.
Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà ban đêm thắp hai ngọn đèn dầu lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một cái đèn Manchon. Ông từ chối nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không chịu, bắt họ đem đi trả lại.
Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở sở. Một hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân Ðoàn, tôi kể Ông nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc lắc đầu nói: “...tính của Long là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó là một người rất tốt, thanh liêm và cương trực, đông con nhà nghèo...”. Từ lúc đó cho đến khi vào họp Ông không nói thêm lời nào. Ông lặng lẽ, dường như có điều tính toán suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường. Tuần lễ sau, tôi ghé nhà Long thăm đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong lúc Ông Long đi làm, có 2 người tới bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một vòi nước. Họ không lấy tiền cũng không cho biết ai sai tới. Tôi biết ngay là do sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc. Biết Ông không ra mặt tôi cũng làm thinh luôn.
Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ tôi, nhà Long có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông gật đầu, mỉn cười nhìn về phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung. Ông vui vì đã giúp được thuộc cấp một việc tuy nhỏ nhưng rất cấp bách cần thiết. Tính Ông quảng đại, kín đáo và chi-tiết. Nhiều khi làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn, không cần cho ai biết.
Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc cũng không có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand Hotel trên đường Bạch Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông thường dùng bữa vớí nhiều viên chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn công việc. Những lúc không mời ai, Ông gọi tôi tới ăn cơm chung. Nhờ có chút khả năng giao-thiệp, quen biết nhiều người và luôn sẵn những chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều giờ với tôi, bàn về đủ mọi thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất, không dính dấp gì tới công vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện Trung Tá Long và hỏi Ông lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt điện nước vào nhà. Ông cườì rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông Giám đốc Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn văn Long:
“...Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả ( tiếng thông dụng miền Trung có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy ) mới gia-nhập Ngành An ninh thời Tây. Giả nổi tiếng1à siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong sạch. Lương bổng không đến nỗi tệ nhưng gia-đình đông con lại suốt đời không tơ hào những bổng lộc phi nghĩa nên thời nào cũng nghèo. Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm 1963 Giả cũng có một căn nhà tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố Huế. Nhà này có từ nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh Ông Diệm, Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông điều tra khai thác. Trong thời gian bị ngưng chức không lương tiền hàng tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà này để đong gạo cho gia đình...
...Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả năng xoay xở, lại càng không muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn răng chịu đựng, không hề muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải chịu ơn người khác. Ðiều này giải thích được tại sao tôi không trực tiếp cho biết đã nhờ người bắt điện nước cho gia đình Giả. Chuyện nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn....
... Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn 20 năm, Long có khá nhiều cơ hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua, có khi còn quyết liệt từ chối thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật hẹp với đồng lương của một công chức.
... Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau khi Chính Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm Trưởng Ban Công Tác Ðặc nhiệm điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như của nhóm Cần Lao. Nhiều người cứ tưởng dịp này Long tha hồ ân oán giang hồ. Nhưng trái với mọi suy đoán, Long hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm, không thành kiến, cũng như không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay môi giới chạy chọt xin xỏ đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya mớí lạch cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình đã theo đạo Công Giáo, nhà thuê ngay kế bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế.. Nhà Long cữa đóng then cài. Long không tiếp bất cứ ai.
...Năm 1965, Long đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công an Ðặc Biệt Bến Hải, đóng dọc theo Nam Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh Quảng Trị. Nhận việc chưa bao lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu , Kế Toán đưa cho Giả một phong bì đầy tiền. Long hỏi cái gì thì họ cho biết, như thông lệ từ trước, đây là số tiền bán bớt xăng nhớt và văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật phí giao tế. Giả đỏ mặt, trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám léng phéng chuyện tiền nong lem nhem với Long...”
Kể đến đây Ông Giám Ðốc cườì thành tiếng và nói đùa: “...Nếu Long chịu nhận vàì ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải cắm dùi đường Duy Tân. Nên nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được lệnh di chuyển từ Quảng Trị vào Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày trước ngày sau phải ở bụi ở đường thì thế gian chỉ có một Nguyễn văn Long mà thôi, không có người thứ hai. Bổ nhiệm Long vào chức An Ninh Nội Bộ và Thanh Tra, tôi yên tâm nhưng cũng có nhiều anh khó chịu không vui đấy...”
Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung , Ông cho biết vụ ấy không hẳn là có thật mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công việc của Phan Quang Ðông là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo gián điệp ra Bắc hoạt động vùng Thanh Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không dính líu gì đến vấn đề nội chính và an ninh quốc nội. Ðông bị xử tử hình để bịt miệng, do áp lực từ Cộng Sản trong nhóm tranh đấu, gây rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì Ðông cũng bị giết.
Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông tại Sân Vận Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi, Long từ chối. Long nói:
“...chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và có quá nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi, không nên buộc... Ông Giám Ðốc kết luận:...Long khắt khe sắt thép với chính mình nhưng khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng với kẻ khác, cả với kẻ vừa mới giam giữ mình...”
Năm 1970 , tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng để ra Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu một cơn bão lụt Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm năm. Mưa như trút nước. Sóng biển gầm thét dữ dội. Một phần đường trong thành phố ngập nước quá đầu gối. Giáp ranh phía Bắc Thành Phố là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước mênh mông. Nhưng ngặt nghèo và nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này là một giải cát bồi thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả, không một bóng cây. Từ tầm xa nhìn tới , toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy lác đác ít nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật từng cơn. Bộ Chỉ Huy Cành Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ hữu như Giang Ðoàn và trưng dụng thêm một số ghe thuyền tư nhân trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an toàn, lúc ấy là sân Trường Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh Ðường Họ Giáo Ngọc Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.
Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở vào một khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ lúc nào. Cả gia-đình đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang ngồi trên một cái chõng tre, tay cầm chai rượu thuốc, nói là để ở lại giữ nhà, không chịu đi đâu hết. Tôi nghe mà lạnh người. Cũng lại cái “Ông Trời sợ” này nữa. Tôi không thể quên vụ Ông cắm dùi ở đường Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc Võ Lương kín đáo giúp đỡ bắt điện nước cho Long.
Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện với Long. Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi không sao đâu. Sau một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải viện dẫn lý do an ninh cũng như xin Ông hợp tác để làm gương cho đồng bào. Cuối cùng Ông mới chịu vào bờ.
Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đỗ nát. Tôi điện thoại cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh bơ: Nhà chỉ có mấy tấm ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư hại. Tuần này tôi xin nghỉ mấy ngày phép và mất một mớ đinh là xong ngay.Tôi bái phục cái thái độ bình tâm giản dị gần như bất cần của Ông, nhưng quyết định phải ra tận nơi coi cho biết. Tôi mặc thường phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi Honda, luồn lách ra Ngọc Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn.
Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo gồm mọi thứ tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Nhà nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các gia đình đổ về từ những vùng quê Quảng Nam mất an ninh. Giây điện và giây phơi áo quần chằng chịt. Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo cáo của Cảnh Sát Ðặc Biệt về việc Cộng Sản cài người vào dân tị nạn và vụ xe ông Trưởng Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp đi mua vật liệu bên Quận Ba bị đặt Plastic chết banh xác trên gần Chợ Cồn năm nào. Thương Ông, tôi nhất định phải đưa Ông vào thành phố.
Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho Ông Long cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4 chỗ. Tôi lái xe đưa Ông đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần ngại không quyết định, viện dẫn nhiều lý do nghe cũng được. Chuyện không thể chậm trễ, tôi nói ngay: hay là Ông vô ở chung với tôi. Ông cười khẩy, tưởng tôi bực mình nói lời mỉa mai. Sự thực khi nói câu đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh dành cho gia đình Chỉ Huy Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành phố, sát tường rào Trường Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông. Ông chịu liền nhưng còn bán tín bán nghi. Ðể xác nhận không phải chuyện bông đùa, tôi đưa Ông tới một trại cây đường Phan đình Phùng, nói với bà chủ chọn cho Ông một số cây ván thứ tốt, hoá đơn gởi cho tôi. Tới đây Ông mới tin là chuyện thật và bắt tay tôi vui vẻ, nói lời cám ơn.
Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng vợ cả gần chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2 tuần là xong, điện nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ đã đành, phần tôi cũng vui không ít.
Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn tới, hỏi ra mới biết: thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một ít ván gắn vào mặt tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ tạp nhạp từ một bãi phế thải ở đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác về, đóng phía trong phía ngoài khá tươm tất. Một lần nữa tôi cảm phục tính lương thiện và sòng phẳng của Ông. Dọn vào nhà mới xong, ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm Chánh Sở Tư Pháp, tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở bên cạnh nhà tôi và tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát:
Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có cả cặp sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm một đứa cháu mồ côi, anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho Ông giữ. Chưa hết. Nhà còn có thêm một con heo con. Bà Long nói phải nuôi thêm con heo làm lợi, cho đứa cháu mồ côi thêm tiền ăn học. Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều người không tin, đòi đến coi. Làm gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát mà lai có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh gia-đình, cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long, tôi không phản đối. Mấy đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy sang xem, cho heo ăn, trầm trồ khen heo sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa thích, tôi cũng vui. Bà Long lại càng vui hơn.
Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa nói chuyện gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các con làm trọng. Ông thường dặn con: dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm cho được ba mớ chữ. Câu Ông thưòng nhắc đi nhắc lại với các con là: Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái đầu phải có kiến-thức để điều khiển toàn thân làm những việc khá hơn là việc tay chân lao động.
Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và thường dấm dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp sách, khi thì mua bộ áo quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi thương nhất. Ông Long có mấy con đã trưởng thành. Hai anh đi không quân, một thiết giáp, ba Cảnh Sát. Đứa đầu lòng tên Phụng, Sĩ Quan Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng các cháu về phép, nhà tôi thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có chút ít tiền cho các cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như thế chỉ có các con và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà tôi đã hiểu tính Ông Long rất tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ những người thân.
Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần, đi chung với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa cho thêm một người bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An Quảng Tín làm căn nhà đằng sau , phía bên phải. Nhà Ông Long bên trái. Ông Võ Hoàng là một nhà phong thủy cho biết hai căn nhà phía sau Tư dinh là một phối trí phong thủy tuyệt hảo, che chắn hết mọi bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng kẻ xấu chém lén sau lưng. Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài. Tôi không biết nhiều về phong thủy, cũng không hẳn tin. Tôi chỉ muốn làm một việc tử tế khi có cơ hội để giúp cho hai người bạn mà tôi rất thương yêu và mến phục.
Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin ân huệ cho mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần như cam chịu. Bà Long thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước đến nay và ao ước được ở đây mãi mãi.. Niềm ao ước bình thường giản dị ấy không được bao lâu thì Ðà-Nẵng thất thủ, cuối tháng ba 75. Tai trời ách nước đổ sập xuống, chúng tôi tan tác mỗi người một nơi.
Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại đây dùng tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển khơi, tôi gặp Ông Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi đổi tàu cùng Ông xuôi Nam. Về đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một ngã. Tôi tìm cách cùng gia đình thoát thân lần nữa. Qua tới Guam được mấy ngày thì được tin Long tự sát. Tôi bàng hoàng xúc động, thương Ông suốt một đời lận đận và kết thúc tức tưởi thế kia. Từ đó tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận phải tìm thêm tin tức của Long:
Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở Quốc Hội, sắc phục và cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng, nhưng không có báo nào nói xác Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi thể vô thừa nhận đã bị vùi dập ở một xó xỉnh nào.
Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào nhà thương Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo Long có thẻ căn cước địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà thương cứ theo địa chỉ đó mà báo tin. Tôi nhớ là cái căn cước bọc nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi vừa mới dọn vào ở chung, đặc biệt có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không phải chữ ký của Thiếu Tá Chỉ Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có chút suy nghĩ sao mà cái việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa năm xưa lại đưa đến một sự việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ ký của tôi đó không phải vì nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng lại chính nhờ nó mà gia-đình nhận đươc xác của Long. Ðây có phải chỉ là một diễn tiến tình cờ hay là một tính toán cẩn thận của Long. Giả thuyết thứ hai hợp lý hơn.
Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không có tiền vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận xác. Tới SàiGòn ngày 17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ hai tên Ðào và người em gái tên Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới nhà thương Grall. Tại dây nhân viên Bệnh Viện, như có được lệnh của Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ dàng, chỉ vẽ tận tâm chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ tắm rửa, thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các con cảm-động và ngạc nhiên. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục và xe tang đàng hoàng, khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí. Thi hài được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn giáo. Có Linh-Mục đến làm phép xác. Rõ ràng là cái chết công khai và lẩm liệt của một Anh Hùng vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người trân trọng. Ít năm sau gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng, đầy đủ vợ và các con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.
* * *
Ngày mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều Tướng Lãnh, Sĩ Quan, Binh Lính, Cảnh Sát và cả nhân- viên Dân Chính đã tự sát tại nhiều nơi và bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên chí khí bất khuất không đầu hàng, không để cho thân rơi vào tay giặc. Nhưng cái chết của Trung Tá Nguyễn văn Long mới được cả thế giới biết đến mau nhất, gây xúc động mạnh nhất. Long đã chọn cách thế, giờ giấc cho cái chết có mục đích tại một địa điểm không thể có nơi nào thích hợp hơn. Trước Tòa Nhà Quốc Hội, dưới chân Tượng Ðài Chiến Sĩ là nơi biểu tượng Trái Tim đang thoi thóp của Miền Nam. Ông đã nằm xuống đó để chấm dứt nhịp đập trái tim Ông. Ông dâng hiến máu tươi và mạch sống cho Tổ Quốc. Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả thế giới cùng công nhận Long đã bình tĩnh sửa soạn cho cái chết từng chi-tiết. Long mặc sắc phục, cấp bậc chỉnh tề, thẻ căn cước cài trong túi áo. Trước lúc bắn vào đầu, Long đứng nghiêm, chào kính Tượng Ðài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng dứt khoát và chính xác, Long anh dũng đền ơn nước.
Ðã một thời sống gần và làm việc chung, tôi thương mến Long lúc sinh thời, kính phục Long khi đã chết và sẽ mãi mãi nhớ Long. Cái chết của Long là một cái chết bất tử.



Máu Trung Tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ.
Hình tuẫn tiết của anh hùng Nguyễn Văn Long, Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà
trong ngày 30-4-1975 dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến đối diện trụ sở Hạ Nghị Viên VNCH.
https://hon-viet.co.uk/DuyenAnh_TrungTa ... ngThan.htm
Cái chết trong tù Cộng sản của cựu Thủ tướng Phan Huy Quát
Đã gửi: Chủ nhật 28/04/24 09:10
bởi Hoàng Vân
Cái chết trong tù Cộng sản
của cựu Thủ tướng Phan Huy Quát
Nguyễn Tú
Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Phòng, lần cuối cùng giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, vào năm 1965. Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972. Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù Chí Hòa. Bài dưới đây do ký giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại “như một nén hương chiêu niệm chung.”

Ông Phan Huy Quát

Gia đình Thủ Tướng Phan Huy Quát
Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bịnh gan rất nặng song Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không được nhận. Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố, cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông lên bịnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979.
Tang gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát tang ở đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lịnh phải an táng ngay, vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế – nếu biết đến cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam – có thể ngó tới tình trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái chết trong tù của ông – bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí thức văn nghệ sĩ khác – của nhà cầm quyền Hà Nội.
Chí Hòa, Sài Gòn – Một ngày cuối Tháng Tư 1979
Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm, giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi mới được xối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không “vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi” dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.
Cả bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác đến điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có mục đích riêng.
Kiểm tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên cầu thang, tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ dưới sân đã bắt đầu vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chảy dồn dập trên da. Hạnh phúc thiệt!
Buồng 5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán bộ. Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem lại một cảm giác thoáng khí hơn.
Căn phòng chỉ còn lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ miều là “trại viên” Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt bình thản. Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt đã chuyển sang màu tai tái càng nổi bật với màu trắng của chòm râu và mái tóc. Bịnh nhân nằm im, không cựa quậy, thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần, chức vụ cuối cùng và cao nhứt trong hoạt động chánh quyền của ông là chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã trên 70 tuổi.
Tôi đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn không một bóng người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát bên. Bịnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng tới cổ chân. Ðôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bịnh nặng đã hơn một tuần – một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và tư thế – mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn vừa dũng mãnh giữa thân phận con người và hoàn cảnh.
Tôi khẽ lên tiếng: “Anh Quát! Anh Quát!”
Không một phản ứng của bịnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bịnh nhân, hơi cao giọng: “Anh Quát! Anh Quát!” Vẫn không một phản ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng sối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích khai bịnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.
Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng “phản động” nhứt trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự “đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy.” Một buồng “ngụy nặng” nên được Việt Cộng tận tình “chiếu cố” trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên “ăng ten” tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bịnh nhân, cao giọng thêm: “Anh Quát! Anh Quát!”
Bịnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thiệt gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thiệt rành rẽ: “Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi không?” Lần này đôi mi bịnh nhân hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy lòng trắng mắt vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết bịnh gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào: “Anh Tú!” Tôi hơi yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: “Anh mệt lắm phải không?” Ðầu bịnh nhơn hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: “Anh có nhắn gì về gia đình không?” Bịnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm. Dưới sân không còn tiếng xối nước nữa. Có tiếng các buồng trưởng dục anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn một phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: “Ai đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!” Ðôi môi bịnh nhân như mấp máy.
Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bịnh nhân. Một hơi thở khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười: “Thôi! Anh Tú ạ.” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã bắt đầu từ chưn cầu thang. Tôi chưa chịu buông: “Nói đi! Anh Quát! Nói đi!” Một hơi thở một chút gấp hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót! “Thôi! Thôi! Bỏ đi!” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên trán.
Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng lặng tiếng.
Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: “Anh Châm! Anh coi lại xem anh Quát bịnh tình hôm nay ra sao?”
Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa – trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.
Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bịnh xá chứ!” Phương là hạ sĩ quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa, có lẽ vì “xấu máu.” Anh em bèn dán cho cái nhãn hiệu “Phương đầu bạc.” Phương lặng thinh, coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ chối. Tôi quay về phía Bác Sĩ Châm: “Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng của Bác Sĩ Quát đi!” Ông Châm bèn bảo: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ ngay đi!” Phương không đáp, lộ rõ vẻ ngần ngại. Trong phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt: “Báo cáo đi! Chờ gì nữa? Bịnh như vậy mà không đi báo cáo, còn chờ gì nữa? Chờ người ta chết à?” Căn phòng đang im ắng, sống động hẳn lên.
Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng: “Ðâu?” Bác Sĩ Châm nhích người qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ Quát: “Ðây, cán bộ!” Nhìn một lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn phòng chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết sinh tử của trại.
Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở bịnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ khác, chắc là ở bịnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của mình.
Phương “đầu bạc” dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bịnh nhơn như mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng xúm nhau nâng bịnh nhơn đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén… Băng ca được khiêng đi. Bịnh nhơn vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! “Lấy cơm!” Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.
Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: “Bác Sĩ Quát chết rồi!” Cả phòng nhao nhao: “Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?” Một anh đáp: “Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì phải.”
Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt một câu: “Bịnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bịnh xá, không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!” Một điếu văn ngắn, gọn, hàm súc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhơn, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng đi. Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: “Nhớ làm bản kê khai, nghe không!” Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ “trại viên” nào.
Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.
Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chánh trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhơn dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ “nghi vấn.” Nhiều người cho rằng nếu được đi bịnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.
Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là “rất căng.” Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu suôn sẻ về mặt quân sự, thì về mặt dân tình và chánh trị lại chẳng suôn sẻ chút nào. Nhiều nơi đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xảy ra chưa đầy một năm sau “đại thắng Mùa Xuân” của Việt Cộng đã làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chánh trị. Tuy không có bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác “ăng ten,” tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.
Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng “dư” lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bịnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bịnh, Huy Anh nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi bịnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan. Lần “nhìn thăm” thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát.
Hôm Bác Sĩ Quát được khiêng đi bịnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu giếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu “thật tâm cải tạo tốt.” Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của cha, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất “siêu” về thủ đoạn dọa nạt, nhứt là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chánh trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông cha nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.
Trong thập niên 1940's, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bịnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bịnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chánh trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ. Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh ngày 20 Tháng Bảy 1954.
Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Phòng.
Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chánh quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.
Cuộc đời chánh trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.
Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối “chính quy,” trong “đường lối chính quy.” Và con người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chánh trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ dàng.
Sau ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp “lời mời” ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả “ngụy quân, ngụy quyền”. Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời “du mục” trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn “trụ” hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.
Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhứt để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống “tự nhiên cái đã”. Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ nhứt vượt biên, thứ nhì chống Cộng.
Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14 người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ tới chuyện vượt biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không kém.
Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư 1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ của mình ở Saigon nhơn danh chánh phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau. Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông gồm 14 người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Ðiểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột độ, chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn không có Bác Sĩ Quát và gia đình.
Như đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ trong vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn. Ðồng thời ông cũng không muốn làm “kẻ bỏ chạy” vì ông cũng rất nặng tình quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình, Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và ông đã chọn.
Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bịnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được thả.
Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa. Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh, Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống bất cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm Saigon thất thủ.
Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.
Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)
Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có “khách hàng”. Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1. Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng. “Ăng ten” cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc “phiêu lưu” của ông và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát, đường Võ Tánh. Ông kể:
“Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp thấp nhứt, đến cao nhứt gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân, chính đều làm việc theo chỉ thị và mịnh lịnh của tôi. Một mình tôi trách nhiệm. Chúng không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc đó nhịp tim đập của tôi loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc gia. Trên trang nhứt, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng cũng nhận tập viết của tôi.”
Tôi hỏi Bác Sĩ Quát: “Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không? – Tôi ngờ lắm. Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa biết điều đó hơn ai hết.”
Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhứt của ông mà ông thật tâm tác thành cho: “Có thiệt hay không, tiếng đồn có người đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?” Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời, giọng bình thản: “Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng.” Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.
Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài hôm, phòng nhận thêm một tù nhơn từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nảy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.
Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính quyền cũ.
Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn hiệu “tên phản bội, tên lừa bịp”, ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: “Thôi! Bỏ đi!” để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã “được” Việt cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu sữa.
Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu gió.
Vì ông đã cứng.
Tôi thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc dân nhứt, do đó quan trọng vào bực nhứt vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhứt đến tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trong chánh phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái độ khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu cương quyết trong thương thảo rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở Ðại học Y khoa Hà Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác được giảng dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm lặng nhưng thiệt rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến hành cải cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh danh một cách rất xứng đáng là “Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát.” Tên tuổi ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân tộc.
Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?
Một phòng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa phòng, một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rõ dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống chưn.
Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.
Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây “Anh hùng nhất mực” và “ra ngõ là gặp anh hùng” lại sợ đủ thứ!
Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho chắc!
Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết “thần giao cách cảm” với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là “nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng”.
Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.
Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:
“Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây…”
Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.
Nguyễn Tú
Ký giả Nguyễn Tú, nguyên đặc phái viên chiến trường Nhựt báo Chính Luận tại Việt Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã bị giam hơn mười năm trong lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong Kong năm 1990 và sau đó tới Hoa Kỳ. Hiện ông cư ngụ tại vùng Hoa Thịnh Ðốn.
https://hon-viet.co.uk/NguyenTu_CaiChet ... uyQuat.htm
Hồi ký của bà Lê Văn Hưng
Đã gửi: Chủ nhật 28/04/24 09:15
bởi Hoàng Vân
Hồi ký của bà Lê Văn Hưng
Ngày 21/4/75, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi còn nhớ rõ lời ông Thiệu nói: “Mất một Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bênh anh em chiến sĩ”. Lời tuyên bố của ông Thiệu đã gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố đó đã bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời. Thiếu tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi cũng không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào.
Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lãnh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đã mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đài yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. Còn mùa hè 30/4/75 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta còn đủ ngôn từ nào để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, tử biệt, cuống cuồng ấy không? Tin thất trận từ vùng 1, 2, 3, bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đã bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử.
Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến lòng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quít chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ thì thào bảo nhau: “Tổng thống Thiệu, Thủ tướng Khiêm, Đại tướng Viên đã cao bay xa chạy, còn đánh đấm gì nữa. Ông Tướng này, Ông Tỉnh nọ, đã trốn đi ngoại quốc, chúng ta còn đánh làm gì”. Họ còn hỏi nhau: “Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?”. Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan rã. Lại có những câu hỏi: “Quân không có Tướng chỉ huy thì sao?”. Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai: “Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái gì! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng”.
Lời phê bình của những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, thì cũng có nhưng vị tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất mãn ấy đã vô tình hay cố ý không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng lãnh, Sĩ quan và Binh sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân.
Có nhiều người đã nêu lên câu hỏi với tôi: “Tại sao tướng Nam, tướng Hưng chết chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?” Lại có người nghiêm khắc trách tôi: “ Bà thật dở. Nếu là tôi, quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?” Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng lãnh, hoặc còn ở trong tù, hoặc đã an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê bình ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẫm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng đã, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đã nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi xin trân trọng xin những vị nào đã có những lời chỉ trích nên bình tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán vì Ẩ những vị tướng lãnh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhã trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đã từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng lãnh, đã từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi giản dị buông tay tự sát sao?
Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: “Thưa toàn thể quí vị sĩ quan QLVNCH.
Ngày quí vị nhận lãnh chiếc mũ sĩ quan của trường Võ Bị, quí vị còn nhớ sáu chữ gì ghi trên mũ ấy không? Sáu chữ mà quý vị trịnh trọng đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”. Ngày mãn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quý vị nào hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc lòng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại sẵn sàng vào tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, vì thật tình tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng. Hai vị Tướng này đã ba lần từ chối di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bã bỏ đi.
Trước đó vào ngày 28/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu trên đài phát thanh Sài Gòn ra lệnh tất cả mọi người Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, thì chính lúc “kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đã hoàn tất”.
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đã dùng tình cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn dò xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với tướng Nguyễn Hữu Hạnh, tướng Hưng luôn khẳng định: “Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng”.
Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi vì hoàn cảnh đắm chìm của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ mình ký tên dâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.” Vị Tướng lãnh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và tình hình chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu não đã trốn hết, thì còn chờ lệnh ai? Phải tuân lệnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đã không được tướng Nam và tướng Hưng đáp ứng.
Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ khi nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đã bật òa khóc lên khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đã ôm lá cờ Tổ Quốc, ôm khẩu súng vào lòng nức nở. Có những Chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định đã không chịu đầu hàng. Họ tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời mình. Cấp bậc của các anh ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần chiến đấu của anh em cao cả và hùng thế đấy.
Trong khi Sài Gòn bỏ ngõ đầu hàng thì Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đã thảo xong. Vũ khí đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lệnh mật hành quân đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài chiến cuộc thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nảo, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đã lọt vào tay giặc Cộng.
Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1975, dân chúng nhốn nháo hoang mang, đã có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xã, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đã xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đã ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân nào đã bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy trì an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, hò hét như lũ điên. Chắn chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ý đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ.
Lúc này tướng Nam và tướng Hưng vẫn còn liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xã Cần Thơ để bảo vệ bộ chỉ huy Quân Đoàn, nằm chung quanh vòng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đã điểm. đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến cấp chỉ huy các đơn vị thì mới hay họ chưa biết gì về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.
Tìm kiếm Đại tá an ninh, người mà đã lãnh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, thì mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đã đưa vợ con tìm đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay Đại úy dưới quyền. Ông này cũng cuốn gói theo ông Đại tá đàn anh, cho có thầy có trò. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đã biến mất. Thiếu tướng Nam và Chuẩn tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng và sự đau khổ thất vọng của Hưng, những đường gân trán nổi vòng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm gãy đỗ bất ngờ. Hưng ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi: “Có đồng ý đem con đi lánh nạn không?” Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, tìm sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi: “Thành công là đều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?” Tôi đáp: “Thì cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản”.
Và để khỏi rơi vào tay giặc Cộng, tôi bình tĩnh thu xếp cho cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thoát cuối cùng của chúng tôi. Bốn giờ 45 chiều ngày 30/4/75, tướng Hưng rời bỏ văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ô nhục sắp tới giữa Thiếu tướng Nam và tên Thiếu tá Việt cộng Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở Dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh vòng đai thị xã Cần Thơ về họp.
Sáu giờ chiều ngày 30 tháng 4, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn. Họ gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xã, yêu cầu: “Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xã. Cần Thơ sẽ nát tan, thành bình địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đã như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hãy vì dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tính khí khái can cường...” Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau lòng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đã pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ còn khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời: “Xin các ông yên lòng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng.” Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi: “Em còn nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền Đông, rồi cũng vì dân chúng mà cụ Phan đã nhún mình nhường thêm ba tỉnh miền Tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đã nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh”. Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp: “Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nhìn Việt Cộng tràn vào”.
Sáu giờ 45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi tình hình các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xã đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là đã thâu băng lời kêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần Thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gãy đổ đau lòng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay vì phát thanh cuốn băng của Thiếu tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu tá Cộng sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của tướng Nam. Muộn màng rồi. Không còn níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đã thưa thớt lại càng thêm thưa thớt.
Bây giờ 7 giờ 30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh: “Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do những ngyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ đã không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ. Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng: “Em phải sống ở lại nuôi con.” Tôi hoảng hốt: “Kìa mình sao mình đổi ý?”. “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con”. “Nhưng không để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngũ cực mạnh cho con.
Chờ em một chút chúng ta cùng chết một lúc”. “Không thể được cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quí vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí có ngày còn phục hận cho đất nước chúng ta”. “Nếu vì con, mình thương con, sao không đi ngoại quốc? Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc: “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?”. Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi: “Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế”.
Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh: “Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”. Tôi phát run lên hỏi: “ Nhưng mình ơi, còn em? Em phải làm gì trong lúc này?”. Nắm chặt tay tôi Hưng nói: “Vợ chồng mình tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cài trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình”.
Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy: “Vâng, em xin nghe lời mình”. Hưng sợ tôi đổi ý, rồi tiếp lời thúc giục: “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”. “Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?”. Hưng suy nghĩ giây lâu gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi: “Em mời má và các con lên lầu gặp anh”.
Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ dựng ở góc phòng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói: “Bao nhiêu năm chiến đãu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó.” Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi: “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên.” Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống.
Vâng lệnh Hưng tôi mời tất cả binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút tử biệt giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói: “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rày la không có nghĩa là ghét bỏ. Rày la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành theo nước, chớ không thể bỏ nước, bỏ dân trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung với bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”.
Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu tá Phương, Trung úy Nghĩa, Hưng gởi gấm: “Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả.” Mọi người đều đứng yên không nói lên được một lời nào. Mẹ tôi chạy lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi. Yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngọai. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài.
Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin: “Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết”. Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chặt cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa: “Nghĩa trở lại với tôi”. Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ. Tiếng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8 giờ 45 tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết. Giêng run run lấy giao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngã người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay giang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi: “Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?” Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở: “Thiếu Tướng! trời ơi, Thiếu Tướng!” Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ tay và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc: “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!”. Tôi bảo Giêng: “Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ cầu thang, bất cứ giá nào cũng phải ngăn chận Việt Cộng”. Tôi tìm kiếm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết khẩu súng để ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap vấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lìa xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa tự sát theo. Bé Hải lúc ấy 5 tuổi, ôm hai chân cha, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.
Nghĩa điện thọai khắp nơi tìm Thiếu tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội mở đặc lệnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta.
Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang: “ Alô, Alô, ai đây?”. “Dạ thưa chị đấy à? Hồ Ngọc Cẩn đây”. Tôi bàng hoàng: “Anh Cẩn có chuyện chi cần không?”. Tôi cố gắng giữ cho giọng nói bình thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi: “Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút.” Tôi lúng túng vài giây: “Ông đang điều động quân ngoài kia”. “Chị chạy ra trình Thiếu Tướng tôi cần gặp. Trung úy Nghĩa đâu chị?”. “Nghĩa đang ở bên cạnh Thìếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé”. Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nhìn xác Hưng rồi nhìn sang Nghĩa hỏi: “Đại tá Cẩn đòi gặp Thiếu tướng làm sao bây giờ Nghĩa?”. Nghĩa lúng túng: “Cô nói Thiếu tướng chết rồi”. “Không thể nói như vậy được Đại tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng”.
Trí óc tôi chợt loé sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt: “Thiếu tướng không thể vào được. Cẩn cần gì cứ nói. Tình hình ở Chương Thiện ra sao? Anh còn đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?”. “Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu tướng còn giữ y lệnh không?”. “Cẩn vui lòng chờ một chút”. Tôi lại áp chặt ống điện thọai vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu vãn tình thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định: “Alô. Cẩn nghe đây: Lệnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?”. Cẩn đáp thật nhanh: “Lúc nào, cũng sẵn sàng chớ chị!”. “Tốt lắm, vậy thì y lệnh”. “Dạ, cám ơn chị!”. Tôi buông máy xuống gục bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ: “Vĩnh biệt Cẩn, Vĩnh biệt Cẩn!”.
“Anh Cẩn ơi, hồn anh có phảng phất đâu đây, khi tôi ngồi viết lại những dòng nầy, nước mắt tôi rơi trên giấy, anh có cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi! Đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu tới viên đạn cuối cùng, anh đã hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rõ Hưng, hiểu rõ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rõ tâm trạng tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi?” Kính thưa toàn thể quý vị thân bằng quyến thuộc của Đại tá Cẩn. Kính thưa qúy vị đã đọc những dòng chữ này. Xin quý vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đã chết. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đã thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ mình trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện.
Mười một giờ đêm ngày 30 tháng 4 năm 1975, điện thoại lại reo. Lần này chính giọng của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam: “Alô, chị Hưng”. Tôi vừa khóc vừa đáp lời Thiếu tướng: “Thưa Thiếu Tướng Ẩ..”. Giọng tướng Nam buồn bã u uất: “Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi xin chia buồn với chị, nghe chị Hưng”. Tôi vẫn nức nở: “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đã gãy đổ?”. “Hưng đã nói với chị nghe hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu vãn được vì lệnh hành quân không được Đại tá Ẩ.. thi hành. Phóng đồ và lệnh không tới tay các Đơn Vị Trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu vãn nổi tình hình”. Nói đến đây, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam hỏi tôi: “Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?”. “Thưa biết, Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng nói vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?”. “Chị quên còn có dân chúng sao? Cọng sản coi rẻ mạng dân, còn mình thì Ẩ.. Đàng chị thế nào?”. “Thưa Thiếu Tướng, tụi nó tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản”. “Còn mấy chú đâu hết?”. “Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. Còn tất cả bỏ đi hết. Hưng đã chết rồi. Tôi không màng đến tài sản. Miễn chúng đừng đụng đến xác Hưng”. “Chị tẫm liệm Hưng chưa?”. “Thưa chưa, vừa tắm rửa thay quần áo thì Thiếu Tướng gọi tới”. “Chị nên tẫm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không còn kịp. Chúng nó sẽ không để yên”. “Thiếu Tướng còn dạy thêm điều gì không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?” Người thở dài trong máy. Người nói những lời và đến chết tôi cũng sẽ không quên: “Số phận Việt Nam khốn khổ thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đã sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, còn bị phản bội giờ chót”. Người chép miệng thở dài: “Thôi chị Hưng ơi”. Bỗng giọng người trầm xuống ngậm ngùi: “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết. Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước thì phải chết theo nước”. Giọng người bình tĩnh và rắn rỏi: “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống vì mấy đứa nhỏ. Đêm nay có gì nguy cấp nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mã mới”. “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”.
Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nhìn xuống. Ở dưới sân, sĩ quan và lính tráng đã bỏ đi hết, trừ còn Nghĩa ở lại. Cổng rào bỏ ngỏ, gió thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẻo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cọng Hòa, cho trò đời bể dâu hưng phế. Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam và Đại tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương Thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên được giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của tướng Nam.
Bảy giờ sáng ngày 1 tháng 5, vừa tụng đứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay vì Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát, xác còn nằm tại Quân Y Viện. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đã linh cảm, biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng. Tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi tướng Nam còn nằm đó, cầu nguyện: “Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đã gặp Hưng, xin linh thiên phù hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cọng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ”.
Trung úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đã mời được Trung tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin khắc ơn sâu. Tám giờ sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975, các sĩ quan Quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở nhìn lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai dòng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên. Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm chìm trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho đến lúc chết, tướng Nam và tướng Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người, chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại tá kia. Xin quý vị hiểu rõ dùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đắt nước, khi lòng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát hay bị bắt trở lại.
Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả sinh mệnh cũng không nâng đỡ nổi tòa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta còn mang trong người của dòng máu Lạc Hồng, còn hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta còn nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quý mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ý. Sao chúng ta không nêu gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ý chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân tình đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hãm hại, chà đạp nhau, để rồi vô tình làm lợi cho bọn cướp nước Cộng Sản.
Đọc những gì tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đã hiểu tất cả sự thật vì sao tướng Nam và tướng Hưng đã tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem thành bại để luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ đem tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử. Chúng ta, những người còn sống, những người miền Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: “Chúng ta đã làm được gì cho đừng hổ thẹn với những người nằm xuống? Họ đã nằm xuống không phải vì họ hèn nhát! Họ đã nằm xuống là vì muốn bảo toàn sáu chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm. Nếu chưa làm được gì cho quê hương, xin hãy thận trọng lời phê phán vô ý thức. Đừng vô tình thành tàn nhẫn sĩ nhục những người dám chết cho tổ quốc.”
Phạm Thị Kim Hoàng
Phu Nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng
Nguồn: http://www.nguyenkhoanam.com/tam_tu3.html
https://hon-viet.co.uk/PhamThiKimHoang_ ... anHung.htm
30 tháng 4 - Ði tìm thời gian đánh mất
Đã gửi: Chủ nhật 28/04/24 11:04
bởi Hoàng Vân
Bà Phan Thị Minh Yến, Phu nhân Tướng Lê Nguyên Vỹ
Đã gửi: Chủ nhật 28/04/24 11:16
bởi Hoàng Vân
Bà Phan Thị Minh Yến,
Phu nhân Tướng Lê Nguyên Vỹ
Từ một nữ sinh trường đầm kiêu sa, thành bà Tướng đầy uy quyền, rồi thế thời đổi thay thành thợ hớt tóc 30 năm dài để nuôi 4 người con nên người mang tên QUANG, MINH, CHÍNH, ĐẠI, đặt tên theo tâm niệm của người chồng chiến binh một đời anh dũng.
Đó là Bà Phan Thị Minh Yến, phu nhân Tướng Lê Nguyên Vỹ, vị tướng tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Quân Lực VNCH, một trong 5 vị tướng Miền Nam đã tuẫn tiết để nêu cao khí phách anh dũng và để gìn giữ danh dự của một quân đội vừa mới thua trận trong biến cố 30. O4. 1975.

…Vào năm 1954, cô Phan Thị Minh Yến còn rất nhỏ, nhà ở Cầu Đất, Hải Phòng bắt đầu theo cha mẹ di cư vào Nam. Cô gái Bắc Kỳ nho nhỏ được gia đình cho học chương trình Pháp tại Sài Gòn và đã có câu chuyện tình từ năm 17 tuổi. Khi được 19 xuân xanh thì chính thức lập gia đình với một anh Đại Úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Lúc đó là mùa Xuân năm 1964. Chàng hơn nàng 10 tuổi. Nhưng trước sau cô Yến chỉ có một mối tình từ khi biết yêu cho đến lúc thành hôn. Tiếp theo là 10 năm làm vợ lính thời chinh chiến. Rồi bắt đầu làm mẹ. Những đứa con lần lượt ra đời. Các cháu Quang, Minh, Chính, Đại. Ba đứa con trai đầu lòng đặt tên với niềm tự hào của người cha cương trực sống trong một hoàn cảnh đất nước nghiêng ngả. Nhưng cô Út bé bỏng, xinh đẹp chỉ được gọi là em Đại ở trong gia đình. Khi ở ngoài lớp học thì đây là cô nhỏ Tường Vi của bà mẹ Hải Phòng.
Suốt thời gian thơ ấu, người cha đi chinh chiến đêm ngày. Các con phần lớn sống gần gũi và trông cậy vào mẹ. Tuy nhiên, hình ảnh người cha quân đội vẫn là chỗ dựa tinh thần mạnh mẽ cho cả mẹ con.
Tháng 4 năm 1975, bà mẹ 29 tuổi dẫn 4 con từ 6 tuổi đến 10 tuổi di tản qua Hoa Kỳ. Người chồng chỉ huy đơn vị nên không có cơ hội tiễn chưn vợ con. Lần chia tay sau cùng mà vợ chồng không biết là lần vĩnh biệt. Anh đã ra đi vào miền vĩnh cửu khi quân đội tan hàng. Không một mảnh khăn tang. Không một giọt nước mắt. Vợ con cũng không hề biết tin về cái chết của người thân yêu. Năm đó chưa 30 tuổi, cô Phan Thị Minh Yến trở thành góa phụ ở vậy nuôi con cho đến năm nay 2008 vừa đúng 33 năm.
Qua Hoa Kỳ, một mẹ và 4 con nhỏ, Minh Yến bắt đầu bằng nghề cắt tóc. Cố gắng tự lập nuôi con. Vừa làm mẹ, vừa làm cha. Từ nữ sinh trường đầm ở Sài Gòn, trở thành vợ lính sống cảnh gia binh, rồi trở thành góa phụ.
Sau bằng ấy năm trời, các con đã trưởng thành, tốt nghiệp đại học, có cháu nội cháu ngoại. “Hỏi rằng bây giờ chị làm gì” Còn làm gì nữa. Trước sau cũng chỉ làm một việc cắt tóc chải đầu.
Nhưng nghề chính là vừa làm cha vừa làm mẹ.
Làm mẹ thì cũng dễ vì đã làm mẹ từ Việt Nam. Nhưng làm cha cho những đứa con trai ở Hoa Kỳ mới thiệt khó. Tất cả đều phải quyết định một mình. Không bàn với ai được. Ba đứa con trai ở tuổi niên thiếu tại miền đất lạ. Biết bao nhiêu là khó khăn. Chuyện học hành, chuyện sinh sống, chuyện yêu đương của các cháu rồi đến chuyện hôn nhân. Cái gì cũng là chuyện của các con.
Khi được hỏi rằng “thế chị làm ở tiệm tóc thì làm chủ hay làm thợ”. Được trả lời rằng “trước sau chỉ làm công mà thôi. Đã bảo rằng nghề chính là làm mẹ, nếu bôn ba mở tiệm, e rằng không có đủ thì giờ trông nom lũ nhỏ.”
Hỏi rằng “đi làm như vậy có gặp những điều gì khó chịu không.” Trả lời rằng “lúc đầu cũng thấy tủi thân lắm. Nhưng rồi thì cũng phải nhịn nhục cho quen đi. Vả lại, ở đây cũng không ai biết hoàn cảnh mình ra sao nên cứ việc mình, mình làm. Cũng thi lái xe, cũng lấy bằng, cũng tìm đường đi học nghề, đi làm và nuôi con. Vâng, việc chính là nuôi con”.
“Chị có buồn giận về chuyện anh nhà đã không đi được vào năm 1975 hay không” Trả lời rằng “thì anh nghĩ coi, ai mà chả muốn có vợ có chồng. Các con muốn có đủ cha mẹ. Nhưng phần số đã như vậy thì mẹ con phải sống sao cho phải đạo với sự hy sinh của ông nhà tôi. Ông ấy mà còn thì cũng chỉ muốn cho các con của chúng tôi được học hành tốt nghiệp đại học, rồi dựng vợ gả chồng cho các cháu như bây giờ gia đình tôi đã được như vậy.”
Ngoài việc hãnh diện về chuyện con cái, bà mẹ gốc Hải Phòng còn kể thêm với niềm hào hứng đặc biệt. Đó là mối thuận thảo với mẹ chồng.
Số là ngay sau khi di tản qua Hoa Kỳ, gia đình được tin chồng chết nên đã tìm cách báo về Bắc cho bà mẹ già biết tin. Tội nghiệp chưa. “Ông nhà tôi, lời chị Yến, cũng di cư vào Nam từ 54, mẹ con xa nhau 21 năm không liên lạc. Bây giờ bà cụ mới biết tin con dâu và các cháu ở Mỹ thì đồng thời cũng biết tin con trai đã qua đời”.
Những năm đầu ở Hoa Kỳ cũng rất chật vật nên không tiếp tế được nhiều. Những năm sau này bắt đầu gửi tiền về miền Bắc cho bà cụ. Chính tôi là con dâu mà chưa hề biết mặt mẹ chồng. Đến khi liên lạc được thì chồng đã chết. Gia đình tôi và các cháu tiếp tục liên lạc về Bắc. Mấy năm gần đây cụ vào Nam gặp các bà chị tôi rồi thu xếp cải táng đưa di hài nhà tôi về Bắc. Xong công việc quan trọng, cụ mới qua đời mấy năm gần đây.
Vâng, thưa quý vị, tôi vừa kể hầu quý vị một câu chuyện của bà mẹ Việt Nam trong nghĩa vụ thay chồng làm cha thời hậu chiến kéo dài hơn 30 năm tại Hoa Kỳ. Một người thiếu nữ 10 năm làm vợ nhưng đã có đến 30 năm vừa làm cha, làm mẹ, và làm dâu hàm thụ qua thư tín.
Cũng suốt 33 năm tại Hoa Kỳ, với vốn liếng Pháp văn và Anh ngữ của trường Đầm Sài Gòn, trước sau bà cũng vẫn chỉ là cô Yến làm tóc tại Hoa Kỳ. Bởi vì, người phụ nữ Việt Nam đơn giản này đã có một nghề cao quý vô cùng mà bà phải hết lòng theo đuổi. Đó là nghề làm mẹ. Do đó Ngày Của Mẹ hàng năm sẽ là ngày đặc biệt đối với những đứa con của bà.
Và mỗi năm, ngày tang 30 tháng 4 cũng là ngày giỗ bố của đám nhỏ. Bà mẹ Việt Nam tổ chức giỗ chồng bằng âm lịch những vẫn dặn con vào ngày cuối tháng 4, dù ở đâu cũng phải dành cho bố những giây phút tưởng niệm.
Bởi vì thân phụ của các cháu đã chết đúng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tên ông là Lê Nguyên Vỹ, người Sơn Tây, Bắc Việt, chết tại Lai Khê miền Đông Nam Phần.
Ngày nay, tại ngôi đình làng cũ tỉnh Sơn Tây có thờ bài vị của tướng công Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Binh Đoàn Số 5 của quân đội Sài Gòn. Ông đã tự sát vào ngày đất nước đã rơi vào tay giặc.
Đó là cách ghi nhận của người đồng hương Sơn Tây với một chút tự hào. Và hình ảnh của ông vẫn trong lòng các con Lê Nguyên Quang, Lê Nguyên Minh, Lê Nguyên Chính và con gái út Lê Nguyên Đại Tường Vi tại miền Virginia Hoa Kỳ.
Đối với lũ trẻ Quang Minh Chính Đại, ba trăm sáu mươi lăm ngày, ngày nào cũng là Ngày Của Mẹ./-
https://hon-viet.co.uk/BaPhanThiMinhYen ... uyenVy.htm
Vượt thoát
Đã gửi: Chủ nhật 28/04/24 11:21
bởi Hoàng Vân
Vượt thoát
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Tù chuyển trại trên những chiếc xe tải của quân đội Liên Xô. Xe che kín bằng tấm vải bạt, dù rất kín đáo, nhưng dân chúng hai bên quốc lộ vẫn phát hiện được đoàn xe chở tù.
Nhìn qua khe hở của tấm bạt phủ xe, tù nhân nhìn thấy hai cụ gìa giậm chân la khóc, tay vẫy vẫy về hướng đoàn xe khiến cho anh em tù xúc động rơi nước mắt. Vài chiếc honda rượt theo cố lượm những mảnh giấy nhắn tin của tù thả rơi đang cuộn bay trong bụi đường. Tù hy vọng những tờ giấy nhắn tin ấy sẽ đến tay thân nhân của họ ở tận các vùng Kinh tế mới xa xôi.
Nhà tù mới, nằm sâu trong khu rừng già. Trại được xây dựng kiên cố. Tường thành bằng gạch xi măng bọc quanh khu nhà giam. Tường cao trên hai mét, đầu tường cơi thêm ba đường dây kẽm gai. Phòng giam mái ngói, vách gạch, một cửa ra vào và bốn khung cửa sổ nhỏ. Sáu mươi tù nhân chen chúc trong một diện tích chưa đầy tám mươi mét vuông. Mỗi người có năm tấc bề ngang chia đều trên hai dãy sạp bằng thân cây nứa đập dập.
Chính sách giam giữ tù chính trị không thời hạn lại đặt vào thành phần nguy hiểm của chế độ. Lối hành xử của công an là trút hận thù bằng những ngón đòn vô cùng tàn độc. Bản nội quy là sợi dây trói chặt tù không còn cựa quậy, khắc nghiệt hơn cả thời Bắc thuộc.Tù xây nhà giam để nhốt mình, lao động sản xuất đủ mọi ngành nghề để nuôi sống bản thân và nuôi cán bộ cả nước.
Trong sản xuất, chúng buộc tù phải tăng chỉ tiêu tối đa. Ngược lại, tiêu chuẩn phần ăn hạ mức tối thiểu đến tàn nhẫn. Không cho tù ăn no. Những người từng ở tù qua bốn chế độ: Pháp, Nhật, Quốc gia và Cộng sản, đã so sánh và khẳng quyết rằng: Không có nhà tù nào vô nhân đạo bằng nhà tù Cộng sản. Ðói, lạnh, lao động khổ sai và đàn áp tinh thần là bốn biện pháp giết người tối độc. Ðức quốc xã tiêu diệt dân Do thái tại lò hỏa thiêu bằng hơi ngạt, Cộng Sản tiêu diệt tù chính trị bằng cách tiêu hao sinh lực lần mòn. Cái chết đến từ từ, kéo dài sự đau đớn triền miên. Không chết vì mất sức, bệnh tật trong trại giam,cũng chết vì bệnh nan y sau khi ra khỏi tù.
Một cái Tết thứ tư trong tù ngắn ngủi vô vị xói mòn niềm hi vọng được trở về với gia đình. Cái mốc thời gian ngồi tù mù mù tăm tăm! “Lao động tốt, cải tạo tiến bộ”là tiêu chuẩn để xét duyệt tha tù, chẳng khác gì bức tranh vẽ cánh đồng cỏ nhử trước mắt loài ngựa nức lòng đi tới.
Qua Tết, trại bắt đầu khởi công xây chiếc cầu treo nối liền hai bờ sông Côn. Cầu dài gần trăm mét. Vật liệu phần lớn do tù tự chế và góp nhặt. Người đứng ra vẽ kiểu và thiết kế cây cầu là tù nhân Trần Xuân Lộc, một cựu sĩ quan Công binh đã từng tu nghiệp tại Hoa Kỳ.
Sáu tháng ròng rã, Lộc miệt mài trong công việc. Anh phơi nắng dầm mưa, xông xáo từ nơi này đến nơi khác cùng với một toán tù được tuyển chọn gồm những tay chuyên môn thuộc các ngành liên hệ. Họ làm việc không ngơi nghỉ nhưng thích thú và tự hào. Niềm vui trong công tác này là Lộc được phục vụ cho người dân địa phương đã mong ước bao đời nay có một cây cầu để qua lại con sông trong mùa nước lũ. Cuối cùng, công trình hoàn tất mỹ mãn.
Chiếc cầu treo trông khá đẹp mắt và nên thơ. Nổi bật trên hai môi cầu là bốn trụ vươn cao bằng những thanh sắt đường rầy xe lửa ghép đôi làm điểm tựa cho hai đường dây cáp bằng thép giăng qua sông. Từ xa, trông chiếc cầu duyên dáng như một cây đàn dây. Cầu đứng sừng sững, hiên ngang vượt qua dòng nước cuồn cuộn chảy.
Ngày khánh thành có cả đại biểu cấp Quân khu và Tỉnh về tham dự cùng với đồng bào địa phương. Ban giám thị trại nhận bằng tuyên dương đã thực hiện thành công tốt đẹp công trình có phẩm chất cao. Người ta chẳng đá động gì đến công lao của người đứng ra lãnh trách nhiệm như một Công trình sư. Từ bản vẽ thiết kế đến điều hành đều do một tay Trần Xuân Lộc.
Trong buổi lễ, Lộc ngồi trong đám tù khổ sai với chiếc áo rách tả tơi. Chiếc áo mà anh vẫn mặc hàng ngày suốt thời gian xây dựng cây cầu dưới mưa nắng. Kẻ bất tài; cướp công được vinh danh cười rạng rỡ. Buồn thay cho thân phận Lộc, anh chỉ là một tù nhân!
o 0 o
Thời tiết đã qua khỏi ngày Ðông chí. Cơn mưa dầm dứt hẳn. Bầu trời quang đãng. Những lọn mây trắng bắt đầu bay lơ lửng trên đỉnh rừng già. Mặt trời đi trốn suốt mùa Ðông cũng trở về mang ánh nắng vàng vọt rải đều trên đồi nương ngọn cỏ,. Nắng bị khuất phục bởi khối lạnh cắt da đang ngự trị trong miền thung lũng. Màu nắng trở nên yếu ớt xanh xao vàng vọt như màu da bệnh hoạn của đám tù đang phơi mình dưới ánh nắng đầu mùa. Những khuôn mặt trắng bệch thũng nước và thân hình vẹo vọ với làn da nhăn nheo bày ra đầy đủ những góc cạnh, xương xẩu trên thân thể con người. Nhìn vào những bộ xương cách trí ấy, không một ai có thể ngờ rằng trước đấy không bao lâu, họ là những người trai cường tráng đầy sinh lực đã từng sống một thời oanh liệt.
Từ bốn ngày qua, đội 3 được điều động đi khai phá thung lũng Bảy Mẫu trồng khoai lang. Ðội phải xuất trại đầu tiên và nhập trại sau cùng. Ðường đến khu sản xuất mất gần hai giờ di chuyển. Cuốc và rựa được cột lại thành bó rồi phân công tù vác đi ở cuối hàng.
Sáng nay, khí trời giá buốt, sương núi mờ mịt làm ướt sũng cây rừng. Toán 1 phụ trách chặt cây và phát quang quanh khu vực. Họ phải mặc áo mưa trong lúc làm việc. Số người khác giẫy cỏ, cuốc đất, vun thành từng vồng cao rồi giâm những đoạn dây rau lang xuống đấy. Họ âm thầm làm việc như đám người máy không ngưng tay. Tiếng rựa chặt cây, tiếng cuốc bổ vào lòng đất tạo thành những âm thanh khô khốc, như nỗi chai cứng của tâm hồn người tù. Chốc chốc lời quở trách của quản giáo dội xuống đầu tù nhân làm việc lơi tay như ngọn roi quất vào tâm não làm tăng thêm cơn đói rã rời.
Cứ mỗi mười lăm phút điểm danh một lần. Theo thông lệ, anh đội trưởng tù là người số một, rồi người kế cận đếm số hai và cứ như thế cho đến anh cuối cùng. Cách thức kiểm tù này là một trong những khuôn mẫu tại các trại tập trung mà Cộng sản Liên Xô đã áp dụng sau cuộc cách mạng tháng Mười đẫm máu tại nước Nga. Không một tù nhân nào bỏ trốn mà không bị phát hiện kịp thời.
Thời gian chờ đợi tiếng còi nghỉ ăn trưa dài thê thảm. Những lát sắn luộc buổi sáng đã hết sạch trong bao tử tự bao giờ. Phần ăn trưa vẫn là chén cơm ghế sắn thêm một ít canh rau lang với muối và bột ngọt. Lượng thức ăn như thế, nào có đủ ca-lo-ri cho một cơ thể phải làm việc cật lực trong suốt tám tiếng đồng hồ, chưa kể thời giờ phải lội bộ lên dốc xuống đèo trên con đường đầy đất đá.
Ngoài xã hội, Việt cộng áp dụng chính sách bần cùng hóa nhân dân. Thu tóm mọi nguồn tài sản về cho Ðảng. Ðời sống của cả nước chẳng khác gì một nhà tù.
Mác ví tư bản là con đỉa hai vòi. Một vòi hút máu dân trong nước, vòi kia hút máu dân thuộc địa. Trên thực tế, chế độ Cộng Sản như loài đỉa nhiều vòi. Mỗi cấp chính quyền, mỗi xí nghiệp quốc doanh là những vòi đỉa bu vào đồng bào ruột thịt hút đến giọt máu cuối cùng và vươn cái vòi “thuộc địa” để hút máu của dân tộc láng giềng bằng một hành động rất thâm độc cộng sản: “tinh thần quốc tế vô sản”! Âm mưu ấy bị thế giới chận đứng ngay trên xứ Chùa tháp nên chúng “co vòi” luôn.
Rồi giờ ăn cũng đến. Tiếng còi vừa thổi là cả đội gom cuốc rựa vào một nơi. Ðám tù được lệnh tập trung quanh khu vực có bóng cây. Họ ăn vội vã để dành chút thì giờ ít ỏi ngả lưng trên lá khô hay dựa vào gốc cây hầu lấy lại sức.
Chẳng mấy chốc, giờ lao động buổi chiều lại bắt đầu, tù nhân được kiểm tra kỷ lưởng. Lần này, cả đội đếm tới đếm lui vẫn thiếu bốn người. Sự hốt hoảng hiện rõ trên khuôn mặt tên quản giáo và ba công an võ trang. Hắn đích thân đếm từng người một rồi hét vào mặt anh đội trưởng tù:
“Bốn thằng đó tên gì?”
Thoạt nhìn, ai cũng biết ngay bốn anh vắng mặt là Ngọc, Huệ, Lộc và Hạp. Họ thuộc tổ 1 làm công tác chặt phát những cây dại trong khu đất trồng khoai.
Ðai úy Nguyễn Ngọc, nguyên là Ðai đội trưởng Ðịa phương quân thuộc tỉnh Tuyên Ðức ( Lâm Đồng). Nhà tù bây giờ là trại biệt kích thuộc lực lượng cũ của anh đồn trú ngày xưa, nơi xuất phát các cuộc hành quân đột kích vào mật khu VC. Do vậy Ngọc rất am tường địa thế trong vùng rừng núi Thượng Ðức nầy.
Trương văn Huệ là sĩ quan trong phái đoàn Quân sự Bốn Bên Kiểm Soát Ðình Chiến Hiệp định Paris thông thạo Anh ngữ và tiếng Khờ me.
Lê Hữu Hạp, trung úy phi công lái phản lực cơ được đào tạo tại Hoa kỳ. Hạp còn là một hướng đạo sinh vững vàng về mưu sinh thoát hiểm.
Riêng Trần Xuân Lộc ai cũng biết con người đa dạng của anh, can đảm và xông xáo.
Với thành phần ấy, bạn tù tin tưởng họ sẽ thành công trong cuộc trốn thoát.
Tên quản giáo đích thân kiểm tra lại dụng cụ lao động mới phát hiện thiếu bốn cây rựa. Hắn lập tức ra lệnh tên công an bảo vệ cấp tốc về trại báo. Ðội tù được lệnh ngồi gom lại một chỗ. Ba nòng súng chĩa thẳng vào đám tù với tư thế sẵn sàng nhả đạn.
Nửa giờ sau, hai chiếc xe GMC chở đội công an vũ trang đến áp tải tù nhân về trại. Số còn lại cùng với hai con chó lùng sục chung quanh khu vực.
Công an truy bắt tù vượt ngục từ thành phố cũng được điều động đến ngay. Chúng ïthiết lập các nút chặn trên tuyến đường chính, lục soát tất cả các loại xe di chuyển trên trục lộ.
Từng ngày trôi qua là từng ngày bạn tù hồi hộp, lo âu nhưng cũng không che giấu được niềm vui trên ánh mắt họ.
Nói về toán trốn trại (*). Thừa lúc lộn xộn trong giờ ăn trưa, họ lủi vào rừng mang theo thức ăn và cây rựa giấu trong áo mưa. Giờ đầu tiên, họ luồn lách rất nhanh theo đúng kế hoạch đã tính toán. Sau thời gian nghỉ ăn trưa, đội tù mới được kiểm số trở lại trước khi làm việc. Khi phát hiện, họ đã vượt ra khỏi vòng đai mà lực lượng truy bắt tù không thể bủa vây.
Năm ngày dài băng rừng, toán vượt ngục đã đi được một quãng đường khá xa. Thức ăn khô mang theo chỉ còn đủ cho ba ngày nữa. Họ phải bẻ măng rừng, hái trái bòn bon ăn giặm. Ngày đi, đêm ngủ tại những hốc cây cổ thụ hay trong hang đá.
Cuối cùng thức ăn đã cạn. Cơn đói hành hại suốt hai ngày khiến họ hết kiên nhẫn đành phải quyết định vào rẫy đào trộm sắn. Sắn chưa kịp nhổ lên, bất ngờ một tên du kích người thượng bắt gặp. Mặc dầu khai là dân đi rừng nhưng hắn vẫn áp giải họ về cơ quan của bản làng. Trên đường đi, Ngọc bị trật quai dép lùi lại phía sau. Nhanh như chớp, anh trở sống rựa đập vào đầu tên du kích, cướp khẩu các-bin cùng cả toán chạy vào rừng.
Ngọc không cố ý giết tên du kích, nhưng vì cú đánh khá nặng tay nên hai ngày sau hắn lên cơn động kinh rồi tắt thở.
Người Thượng rất dễ tin nhưng cũng khó tha thứ. Cái chết của tên trai làng đã làm tăng thêm sức thuyết phục lòng trung thành của họ đối với chế độ hiện hữu.
Cơn đói đã khiến cho toán trốn trại mỗi ngày mỗi chậm lại. Cần thức ăn để có sức tiếp tục băng rừng, thế nên buôc lòng họ phải tìm đến rẫy sắn. Rút kinh nghiệm lần trước, lần nầy họ vào rẫy ban đêm.
Toán trốn tù không ngờ cái chết của tên du kích đã khiến cho dân bản Thượng quyết tâm phục hận. Vừa đặt chân bên trong hàng rào là bị ngay những loạt đạn nả vào họ. Lê Hữu Hạp bị trúng đạn gãy chân, ba người còn lại tẩu thoát vào rừng.
Chúng kéo Hạp về buôn Thượng và triệu tập dân trong bản Thượng chứng kiến cảnh xử tội kẻ thù. Với thân thể lõa lồ, Hạp bị cột căng hai tay hai chân vào bốn trụ đóng nơi sân cờ của cơ quan Xã, rồi cả đội du kích vừa hò reo vừa phóng những cây lồ ô vót nhọn vào thân thể Hạp như đâm một con trâu để tế thần. Chúng giết Hạp để trả thù cho đồng đội.
Sáng hôm sau, Ban Giám Thị trại tù cho người khiêng Hạp về đặt xác bên cổng trại ra vào kèm theo một tấm bảng ghi hàng chữ: “Tên Lê Hữu Hạp trốn trại bị cách mạng xử lý ” thay cho một lời cảnh cáo!
Nhìn thi thể Hạp, không một ai khỏi ghê tởm cách giết người dã man đến thế. Ðôi tròng mắt bị nát bấy bởi thanh lồ ô đâm suốt qua so nãọ. Ðôi mắt chỉ còn là hai lỗ thủng sâu máu đọng đen sì.
Ôi, Lê Hữu Hạp, người phi công tài ba đã một thời ngang dọc trên bầu trời quê hương. Giờ đây anh chết thảm thương bởi những bàn tay man rợ nhất loài người.
Công an đã xác định được tọa độ của toán vượt ngục. Chúng khoanh vùng dồn lực lượng vào một nơi.
Toán tù kỳ vọng vào rau rừng, măng le sẽ nuôi sống họ một thời gian, chờ khi yên tĩnh sẽ lần mò xuống đồng bằng. Nhưng khốn thay, đồng bào Thượng bị đói quanh năm nên đã vét sạch, bứt sạch những gì có thể ăn được trên rừng già.
Biết điểm đứng đã bị lộ nhưng phải có chút gì để ăn hầu đổi hướng đi. Họ bị khuất phục bởi cơn đói nên đành liều mạng trở lại rẫy sắn. Ðúng ngày thứ mười sáu kể từ khi chạy trốn, toán vượt trại bị bao vây tại một đồi sắn. Trương văn Huệ mở đường máu bằng những loạt các-bin và thoát được vào rừng, Ngọc và Lộc đều bị bắt sống.
Chúng nhốt hai người tại hai phòng kiên giam riêng biệt. Ba ngày sau, Ngọc bị giết trong cùm bằng phương cách rất thông dụng của công an giữ tù: Dùng thanh sắt đè vào cổ nạn nhân cho đến khi tắt thở.
Cách giết người như thế thường lưỡi của người bị chết lè ra thật dài và đôi tròng mắt lồi ra ngoài hố mắt. Ngọc đã chết thê thảm như vậy bởi anh cương quyết không chịu khai một điều gì cả. Ngay chiều hôm đó, một phái đoàn giới chức từ thành phố đến trại khám nghiệm tử thi, chụp hình. Phần kết luận trong bản phúc trình hẳn nhiên là: “Phạm nhân Nguyễn Ngọc đã cắn lưỡi tự tử”.Đây là hình thức che mắt của CS giết tù nhân trong các trại giam mà bọn công an thường xuyên áp dụng.
Trần Xuân Lộc bị giải về Ty Công an để khai thác kẻ đồng mưu cung cấp thực phẩm, thuốc men và viết diễn tiến cuộc trốn trại. Lộc còn phải liệt kê các địa điểm mà đồng bạn anh đã ngủ đêm cùng những dự định cho những ngày sắp tới khi chưa bị bắt...
Sau mười ngày hỏi cung, Lộc được trả về trại để ra trước một phiên tòa cấp tỉnh mở ngay tại trại tù. Thành phần tham dự gồm ban giám thị, đội công an bảo vệ và gần ngàn tù nhân.
Mở đầu phiên tòa, một đại diện của hội đồng xét xử đọc bản cáo trạng của bên công tố. Tiếp theo, tên Thư ký tòa đọc bản tường thuật của Lộc về diễn tiến cuộc trốn tù. Theo thứ tự lớp lang được sắp xếp làm nhiều màn, nhiều cảnh.
Xen vào mỗi màn là cảnh một già làng sắc tộc thiểu số than khóc, kể lể về cái chết của tên du kích và yêu cầu tòa kết án tử hình bị cáo để đền mạng. Phiên tòa xử án mà ta có cảm tưởng họ đang trình diễn một tuồng kịch với đám diễn viên vụng về. Sự lố bịch của phiên tòa là diễn xuất theo kiểu “tòa án nhân dân” xét xử theo nguyện vọng của nhân dân. Cái nguyện vọng nào có lợi cho đảng và tập đoàn cầm quyền là chúng tận dụng. Còn nguyện vọng nào bất lợi chúng dùng chuyên chính vô sản đàn áp. Đó là Pháp luật của đất nước nằm trong bàn tay bạo quyền.
Phần kết thúc phiên tòa, tên chánh án tuyên bố: “ Phạm tù Trần Xuân Lộc được phép phát biểu ý kiến sau cùng”.
Cả hội trường im phăng phắc, chờ đợi lời phát biểu của anh Trần Xuân Lộc.
Lộc mặc aó quần tù màu xám nhạt, hai tay bị khóa còng số 8, hai chân mang xích sắt. Anh đứng sau vành móng ngựa, đối diện với hội đồng xét xử có bốn công an võ trang trấn bốn góc. Khuôn mặt Lộc gầy rộc, hốc hác, nổi lên hai gò má nhô cao. Mái tóc hớt ngắn cùng với bộ râu quai nón của anh vừa mới cạo để lộ ra màu da trắng xanh. Anh quay mặt về hướng người tham dự, đưa ánh mắt nhìn bạn đồng tù rồi dõng dạc nói:
“Thưa các ông, thưa các bạn, tôi bác bỏ hoàn toàn bản cáo trạng buộc tội tôi giết người, nhưng tôi không phủ nhận rằng tôi có tội. Vâng, tôi có tội với nhân dân miền Nam vì tôi chưa làm tròn trách nhiệm của người sĩ quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và...”
Nói chưa hết câu, tên công an vũ trang đẩy vào miệng Lộc một báng súng. Máu miệng và mũi trào ra loang đầy cả ngực áo. Lộc ngã gục xuống nền nhà. Nhiều tiếng lao xao trong đám tù nổi lên, tiếp theo là tiếng lách cách lên đạn “cảnh cáo”của đám vệ binh đang bủa vây xung quanh hội trường.
Ðáng lẽ tòa dành mười phút để nghị án, nhưng với tình huống nầy chúng chẳng cần phải trình diễn tiếp vở tuồng. Tên chánh án vội vã mời mọi người đứng dậy và tuyên án
“… Tử hình phạm tù Trần Xuân Lộc”!
Không có một ai ngạc nhiên với cái án tử hình ấy. Một phiên tòa xét xử tội đại hình mà chẳng có luật sư biện hộ và chẳng có nửa lời đối chất của bị cáo. Người ta thật sự đau xót cho thân phận con người sống trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa, một chế độ dùng baọ lực đè bẹp công lý, một chính quyền dung dưỡng dối trá và hận thù.
Chẳng đợi mười lăm ngày theo thủ tục kháng án hay xin ân giảm, mà ngay trong đêm hôm sau, chúng giết Lộc trên đồi sắn rồi chôn anh tại đó. Một tấm bia bằng gỗ xẻ mỏng được viết ngoằn ngoằn tên Trần Xuân Lộc bằng sơn.
Mùa mưa đến, nước trên đỉnh núi đẩy xuống san bằng luôn nấm mộ. Từ khi đó, nếu ai để ý trên ngôi mộ Lộc sẽ thấy từ từ xuất hiện những viên đá cuội, mỗi ngày mỗi nhiều hơn. Rồi những năm tháng sau này nấm mộ Lộc trở thành đống đá vun cao.
Lộc nằm đó, thân xác tiêu hủy theo thời gian nhưng gương can trường của người chiến sĩ miền Nam vẫn còn sáng ngời trong long mọi người. Bạn tù đã điếu tang anh bằng bài thơ truyền khẩu sau đây:
Anh vượt thoát khỏi gông cùm nghiệt ngã
Tìm tự do nơi đất Chúa vĩnh hằng,
Ðêm hiện về sáng lồng lộng ánh trăng
Anh ngạo nghễ giữa bầu trời xanh ngát
Trước họng súng thù cất cao tiếng hát
Ðể máu trào chuyển mạch vạn con tim.
Tiễn người đi cơn uất nghẹn im lìm
Trong bóng tối khóc thầm thương tiếc bạn
Anh chí cả ôm vầng dương chiếu rạng
Ta nhỏ nhoi như hạt bụi giữa đời
Người đi vào trang hùng sử, Lộc ơi!
Về phần Trương Văn Huệ, sau khi thoát thân vào rừng, công an truy lùng khắp mọi nơi và tiếp tục phục kích các khu rẫy sắn nhưng chẳng có một kết quả nào.
Các anh đã vượt thoát vĩnh viễn khỏi miền đất tù ngục nầy.
Tự Do hay là chết?
Các anh đã chọn cái chết để được Tự Do. Chúng tôi ở lại tiếp tục bị đày đọa với tháng ngày bất tận khổ đau, nhưng gương bất khuất của các anh là ngọn lửa luôn luôn sưởi ấm trong lòng chúng tôi.
Hãy ngừng tay, hỡi những ai có mưu đồ tiếp sức cho Cộng Sản Việt Nam. Ðừng vì quyền lợi riêng tư mà xúi giục tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại đem tài năng về nước phục vụ cho một chính quyền bá đạo đang kéo đất nước vào bóng tối mịt mùng.
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
(*) dựa theo lời tường thuật của Trần Xuân Lộc trong bản thẩm cung.
https://hon-viet.co.uk/HaoNhienNguyenTa ... tThoat.htm