Re: - 30/04/2023 - tưởng niệm 48 năm người Việt mất miền Nam Tự Do
Đã gửi: Thứ sáu 21/04/23 16:58
bởi Bạch Vân
Tàn lụn ước mơ
Hằng năm, cứ mỗi lần lật tờ lịch đến Tháng Tư là lòng tôi lại dâng lên nỗi bồi hồi tiếc nhớ. Tuy thời gian trôi qua gần nửa thế kỷ, nhưng những ngày đau thương đen tối ấy vẫn còn hằn trong ký ức tôi vết sẹo đậm sâu. Tôi nhớ rõ ràng các diễn biến như thể mới xảy ra hôm qua hôm kia vậy.
Khi miền Nam bị rơi vào tay cộng sản thì mọi sinh hoạt, nếp sống gia đình tôi bị thay đổi, xáo trộn hoàn toàn. Trường học đóng cửa. Chị ba, tôi và em gái thứ năm đang học ở Saigon thu dọn đồ đạc sách vở về quê, tôi buồn rầu nuối tiếc sự học dở dang, biết là sẽ không bao giờ còn được trở lại giảng đường nữa. Chị hai mất việc thư ký văn thư (Ty Thông tin nơi ba tôi và chị làm việc bị xoá sổ vĩnh viễn). Ba còn được về nhà ngày 01 và 02 Tháng Năm, để má chuẩn bị túi đồ gồm vài bộ quần áo, bàn chải đánh răng, khăn tắm, ít tiền mặt… cho ba mang theo mà theo lời dụ dỗ của Uỷ ban Quân quản cách mạng lâm thời chi đó–tôi chỉ nhớ lờ mờ cái tên, cũng chẳng buồn nhớ chi cho mệt óc– kêu gọi các quân nhân công chức trình diện để “học tập” vài hôm ở tại tỉnh nhà. Cái vài-hôm đó biến thành sáu năm khổ sai nơi vùng U Minh Thượng muỗi bu từng đàn, đỉa vắt nổi lều bều dưới kinh rạch.
Hai chữ “phải như” cứ đeo bám dai dẳng trong tôi nhiều năm sau vẫn chưa nguôi.
Phải như chị em tôi rời Saigon về nhà kịp trước 30 Tháng Tư…
Phải như ông bà ngoại chịu rời quê hương…
Phải như chúng tôi đừng bịn rịn nắm níu tình cảm, chỉ muốn sống cùng sống, chết cùng chết bên nhau…
Phải như tôi có can đảm rời gia đình một mình…
Lúc ấy chiến hạm Mỹ vẫn còn bỏ neo gần các đảo chờ đợi những người chạy nạn xuống đò nhỏ ra khơi, việc ra đi quá dễ dàng kia mà.
Má tôi cất những bộ quần áo bằng tơ lụa đa số màu trắng thanh lịch má mặc hàng ngày vào tủ- trắng tinh, trắng sữa, trắng kem, trắng phơn phớt hồng- thay vào chiếc áo bà ba trắng, cái quần satin đen hiếm hoi cất dưới đáy tủ. Mấy ngày đầu má tôi phải cấp tốc may thêm hai bộ bà ba quần đen để thay đổi, vì xưa nay mỗi khi ra đường má đều mặc áo dài tha thướt trang trọng.
Tương lai vô định. Hằng đêm má tôi cứ trằn trọc. Chỉ một thời gian ngắn nhiều người gặp lại đều thất thần nhận thấy má già cả chục tuổi. Không héo tàn sao được. Chồng tù khổ sai nơi rừng thiêng nước độc không biết ngày nào được thả. Tôi nhớ hoài câu ba má thường khuyên bảo chị em tôi:
—Gia tài ba má để lại cho các con không phải là tiền bạc, mà là cố gắng lo cho các con học hành, để mai sau các con gom góp kiến thức đó mà tự lập nuôi sống bản thân. Ngày nào các con thành đạt nên người, coi như các con đã trả ơn cho ba má vậy.
Thế mà giờ đây cánh cửa học đường đã đóng với chị em tôi. Ngoại trừ cậu em trai 16 tuổi đang học lớp 10, cô em út 9 tuổi còn được tiếp tục đến trường (nhưng em trai tôi chỉ học thêm vài tháng rồi cũng nghỉ vì quá chán ngán với những buổi ngồi nghe giảng chính trị và chửi bới miệt thị gia đình “nguỵ quân, nguỵ quyền” mà ba tôi là một trong các thành phần họ đem ra chửi bới ấy). Hỏi lòng người mẹ nào mà không thương xót đớn đau khi nghĩ về tương lai đen tối của các con gái tuổi mười tám đôi mươi, trái mộng đời vừa ươm chưa kịp lớn đã héo non.
Rồi làm gì để sống đây? Với đàn con sáu đứa, ngoại trừ chị hai có việc làm, còn lại năm chị em tôi đều trong tuổi ăn học chưa bao giờ lao động nhọc nhằn.
Gia đình tôi thuộc gia đình “tam đại đồng đường” mười người gồm ông bà ngoại, ba má, và sáu chị em chung dưới hai mái nhà liền kề thông nhau bằng cánh cửa lớn từ nhà ông bà ngoại qua nhà ba má tôi: Một căn nhà sàn nơi ngoại thờ cúng, ngủ nghỉ, một căn nhà thường cho ba má chị em tôi. Những bữa ăn trưa, chiều quây quần chung một mâm đặt trên chiếc bàn tròn rất hoà thuận gắn bó.
Ba tôi tuy giữ chức vụ trọng yếu trong Ty Thông tin tỉnh nhưng đồng lương công chức khiêm nhường nếu không nhờ có lúa gạo của ngoại làm ruộng nuôi ăn cả nhà, và má giỏi may vá, ngày ngày vẫn lãnh hàng của láng giềng về thì làm sao nuôi ba chị em tôi ăn học ở Saigon cho kham. Chưa kể chị hai học hết đệ nhị nghỉ học làm thư ký cùng Ty với ba. Chị độc thân còn sống chung nên tiền lương lãnh về bao nhiêu đều đưa hết cho má phụ lo cho đàn em. Bây giờ hai đầu lương của ba và chị hai đều bị cắt, láng giềng lo sợ ngày mai bất định nên tạm ngưng may quần áo mới. May là trong nhà chúng tôi vẫn còn gạo dự trữ cho cả năm không hết nên không lo thiếu đói. Rau muống rau ngổ, bông súng mọc tràn lan ngoài kênh rạch, đồng ruộng. Vài loại cá rô, sặt, lóc, trê… cũng thế. Miếng ăn tạm thời còn cầm cự được thời gian nữa.
Cuộc sống gia đình lâm vào cảnh bần hàn, dốt nát. Ba chúng tôi nay là người tù khổ sai không hẹn ngày về. Hai năm trước, tôi đã đọc tác phẩm đoạt giải Nobel: Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovitch của văn sĩ Nga Alexandre Solzhenitsyn, cũng vì quyển sách này mà ông phải sống đời lưu vong hai mươi năm ở châu Âu và Mỹ cho đến 1994 Liên Sô sụp đổ thì ông trở về cố quốc và qua đời tại đó. Tưởng câu chuyện chỉ xảy ra ở một đất nước xa xăm, đâu ngờ hai năm sau nó lập lại chính xác trên quê hương mình, chính ba tôi trở thành một Ivan Denisovitch.
Tôi hoang mang tuyệt vọng đến tiêu cực. Đối với tôi việc học là mục đích tối thượng, nay đành chấm dứt tức tưởi. Thế là tôi nung nấu ý định chờ đúng ngày sinh nhật mình vào giữa Tháng Sáu, sẽ quyên sinh. Thà chết còn hơn sống dưới chế độ CS độc ác.
Gần ba mươi năm trước, ông nội tôi đã bị chúng xử chết treo vì “tội” sở hữu nhiều đất ruộng, đã vậy còn dám lén đem lúa bán ra thành mà không giữ lại theo lệnh chúng.
Ngày qua ngày. Tháng Sáu đến, bản năng sinh tồn trỗi dậy mạnh mẽ, rốt cuộc tôi đã không thực hiện hành động tự huỷ hoại cuộc đời, tiếp tục đồng cam cộng khổ với ông bà ngoại, ba má, chị em cho tới 17 năm sau mới được hít thở không khí thanh bình tự do nơi trời Thuỵ Sĩ.
Nỗi đau tiếp nối nỗi đau, chưa chấm dứt. Không lâu sau lại tới phong trào “đốt văn hoá phẩm đồi truỵ phản động”!
Đây mới thực sự là cú giáng chí mạng đối với những người đam mê sách vở văn chương, trong số đó có tôi.
Ngày xưa Tần Thuỷ Hoàng bên Tàu khi lên ngôi, muốn tiêu diệt những trí thức không cùng chính kiến đã ra lệnh đốt hết sách vở và chôn học trò. Bây giờ họ không chôn sống học trò, nhưng có khác gì nhau, bởi họ đã cướp đi bao hoài bão cao đẹp, bóp chết bao ước vọng, tương lai của hàng triệu học sinh trên dãy giang sơn hiền hoà no ấm yêu tự do thanh bình.
Thế là chúng tôi lôi hết những gì được in bằng giấy đầy ắp trong các tủ chất thành từng đống: Từ những quyển tập của chị em tôi từ lớp vỡ lòng vẫn lưu giữ, những quyển truyện có từ thời ba má còn trẻ, truyện chính trị, tôn giáo, lịch sử, văn học cổ điển Tây phương, Đông phương, sách nghiên cứu, khoa học cho đến những tạp chí tuần san, nguyệt san, nhật báo, tiểu thuyết, truyện thiếu nhi Mai Bê Bi, Tuổi Ngọc, những băng dĩa, bản nhạc tình giá trị…
Bình thường chúng tôi nấu ăn bằng réchaud dầu. Giờ không đủ dầu nên chuyển qua nấu bằng mạt cưa, bằng các lá dừa, tàu dừa chặt nhỏ phơi khô xen lẫn với củi tràm. Nay có thêm đống sách báo, tôi dùng ba viên gạch làm bếp dã chiến, nấu cơm cho cả nhà, phải vài tuần mới hết đống giấy.
Vừa liền tay xé mỗi lần vài tờ sách cuộn tròn đút vào bếp vừa nhìn ngọn lửa cháy xém từng trang chữ mà lòng quặn đau, tiếc hận. Kéo vạt áo lên chùi nước mắt hoà cùng khói cay khiến nhạt nhoà mọi vật, thầm nghĩ: Tôi đốt tương lai mình lụi tàn theo đống lửa nầy đây.
Nhưng chúng tôi vẫn tìm cách lưu giữ được vài chục quyển sách quí hiếm bằng cách bọc plastic bên ngoài, rồi cho vào trong hai cái thùng đạn đại liên mà thời quân chủng Bộ binh còn đến làng tôi đóng căn cứ tạm để đi hành quân nơi khác, các chú mang về vài cái đưa ngoại tôi làm vật đựng đồ đạc.
Ông ngoại tôi gốc dân Cao Lãnh, nơi mỗi năm thường bị lụt vài tháng nên mọi nhà đều cất kiểu nhà sàn để tránh nước ngập. Ông cưới bà ngoại, lập nghiệp bên vợ nhưng lúc cất nhà năm 1940 vẫn cất theo kiểu ngoài ấy. Sàn cao cả thước, toàn thể tường sàn nhà đều bằng gỗ quí. Bà ngoại thương đàn cháu thơ ngây nên chịu khó chui xuống gầm nhà, hì hụt cặm cụi đào cái hố nhỏ sâu vừa đủ hai thùng đại liên đựng sách. Xong lấp đất lại cho bằng phẳng nên không ai có thể lần ra dấu vết.
Năm 1977, lấy cớ đánh đuổi tư sản lẫn phản động- nhà tôi bị liệt vào thành phần phản động, theo chủ trương của mỗi địa phương phải tìm cho ra ít nhất một gia đình tiêu biểu-. Chúng bắt mấy má con đi tù, đuổi ông bà ngoại và em gái út 11 tuổi ra ngoài cái chòi hoang chiếm hai căn nhà, rồi giao cho cơ quan gì đó làm trụ sở. Má con tôi ở tù đủ ba tháng thì được thả về, tiếp tục sống trong chòi hoang với ngoại. Một tên con trai- vốn có quen với chị em tôi từ trước, thỉnh thoảng ghé thăm làm như thông cảm cho hoàn cảnh chúng tôi lắm. Vì tin tưởng nên trong lúc trò chuyện chúng tôi vô tình hớ hênh kể lại việc chôn giấu sách. Thế là hắn lân la qua làm quen với các người đang chiếm ngự nhà, phóng đại rằng chúng tôi có chôn giấu vàng bạc dưới sàn nhà, đề nghị cùng nhau đào lên chia nhau xài.
Có lẽ họ cũng thử tìm, nhưng diện tích dưới sàn nhà quá rộng, mà đất nơi chôn sách đã phẳng lì giống nhau làm sao tìm cho thấy?
Nhiều năm sau, tình cờ gặp một người đã từng cư ngụ ở trong nhà chúng tôi kể lại vụ việc trên. Lòng dạ con người thật khó đoán. Mà lúc ấy giả như họ có tìm thấy, cũng chỉ toàn sách là sách, chứ làm gì có thỏi vàng nào.
Sau hơn chục năm gởi hàng trăm lá đơn đòi nhà thì chúng cũng trả lại, tất nhiên chỉ còn cái vỏ trống hoác, nhưng ít ra ông bà ngoại cũng còn được trở về chết trên căn nhà mà hai người xây dựng lên bằng mồ hôi khổ nhọc.
Lúc ấy mắt bà ngoại đã mờ, nằm một chỗ không tự đi đứng được, má và chị em tôi thay phiên tắm rửa đút cơm cho ngoại. Chị em tôi không quên hai thùng sách, chui vào sàn nhà tìm đúng chỗ chôn giấu. Đất chỗ ấy đã dẽ cứng, mất hơn nửa ngày trời mới bứng hai thùng lên. Mở nắp lôi các quyển sách ra, bồi hồi thấy màu giấy ẩm ướt đã vàng phai màu thời gian, thật xúc động làm sao!
Tôi ngạc nhiên phát giác trong số người quen biết, không ít kẻ “ăn cơm Quốc gia thờ ma cộng sản”, cháy nhà mới thò mặt chuột. Không ngờ trước đây tôi đã từng giao thiệp với họ mà đâu biết họ hoạt động ngầm cho phe bên kia. Thật khó tưởng tượng được.
–Một người bạn học với tôi thời trung học ở một trường quận, trong lớp không gì nổi bật, học lực trung bình nên không ai chú ý. Sau 30 Tháng Tư mới biết khoảng năm 1970 anh ta chính là người nhân lúc trời còn tối đã rải truyền đơn trước cửa trường chúng tôi, khi chưa có học sinh nào đến lớp. Thế mà may cho anh ta, chính quyền không tìm ra tung tích thủ phạm. Sau ngày 30 Tháng Tư, chính anh ta hé lộ câu chuyện nầy. Anh ta giữ chức thẩm phán tỉnh cho đến ngày về hưu.
-Anh bạn học trên chị ba tôi một lớp, vào cuối năm 1974 tốt nghiệp khoá Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Thời ấy học trò tỉnh chúng tôi sau khi tốt nghiệp tú tài đôi nếu muốn vào đại học phải lên Saigon hoặc Cần Thơ. Có lẽ qua bạn bè nên anh biết được nơi chị em tôi trọ học, đã tìm đến thăm, ngỏ ý mời chị tôi đến dự lễ mãn khoá huấn luyện ở quân trường. Đồng hương xa nhà gặp nhau, tuy ở trường chị tôi chỉ quen mặt chứ không thân, nhưng anh nói ở đây anh không quen biết ai, xin chị tôi đến tham dự cho anh đỡ lẻ loi. Nể lời chị tôi có đến dự lễ. Sau đó anh lại mời chị đi ăn bữa ăn chia tay vì anh đã biết tin nhận đơn vị ở một tỉnh miền Trung nơi chiến sự xảy ra ác liệt.
Trong bữa ăn anh không nói gì nhiều, chỉ kể một vài kỷ niệm lúc còn học ở trường trung học tỉnh. Nhìn gương mặt hiền lành chân chất đầu đội mũ gắn huy hiệu trong bộ quân phục sinh viên sĩ quan với cầu vai thắt dây trông khá oai nghiêm, giờ còn an lành ngồi đây trong không gian thanh bình của Saigon hoa lệ, không biết điều gì sẽ chờ đợi anh những ngày sắp tới mà thấy xót xa cho những người trai thời loạn.
Vang giữa chiến trường xa
Giặc đang gieo tang tóc
Từng đoàn trai ra đi
Đã thề chẳng về nhà…
(Hận Tha La, Thơ Vũ Anh Khanh, nhạc Dzũng Chinh)
Thời gian ngắn sau 30 Tháng Tư, bỗng thấy anh xuất hiện ở phố tỉnh trong bộ đồ đen, đội mũ tai bèo, chân mang dép râu… chị tôi sững sờ không nén được, kêu lên:
—Ủa? Sao lại như thế? Tôi tưởng là anh bị vô trại cải tạo kia mà?
Anh lúng túng giải thích rằng sau lần gặp chị tôi, đáng lẽ anh phải ra Trung để nhận đơn vị thì anh lui về quê trốn vô bưng luôn cho đến giờ.
Thật chua xót cho chế độ VNCH đã uổng công đào tạo giáo dục văn lẫn võ song toàn một người trai từ thơ ấu cho đến trưởng thành mong người ấy gánh vác sứ mệnh sơn hà, dè đâu…
Ít ra anh cũng không huênh hoang những lời đao to búa lớn. Chúng tôi không bao giờ còn gặp lại anh nữa.
–Chị là sinh viên năm thứ 3 Khoa học, Bắc 54, dáng dấp nho nhỏ, tóc dài, nước da bánh mật, má lúm đồng tiền, hai chiếc răng khểnh duyên dáng. Lúc nào gặp cũng thấy chị mặc áo dài trắng quần đen như cô nữ sinh trung học. Lanh lợi, vui tính. Người yêu của anh bạn khá thân học chung lớp đệ nhất với tôi, sau anh ta cũng vào khoa Văn như tôi. Tuy chị lớn hơn chàng kia 5 tuổi, nhưng họ rất khắng khít hồn nhiên không mặc cảm tuổi tác. Thế rồi sau 30 Tháng Tư tôi có dịp trở về Saigon gặp bạn, thì không thấy hai người chung đôi. Hỏi ra mới hay chị làm nội tuyến luồn vào tầng lớp sinh viên từ lâu mà không ai biết, bởi chị là dân Bắc 54 di cư vào Nam. Cái vỏ bọc khiến người ta không đề phòng hay nghi ngờ chút nào.
– Anh thuộc lớp đàn anh đã ra trường, kỹ sư Bách khoa, quê quán Củ Chi. Anh nói ba anh mất sớm chỉ còn một mẹ một con. Mẹ tần tảo nuôi anh ăn học thành tài. Mất miền Nam, ba anh từ đâu trở về, anh nghiễm nhiên là thành phần ưu tú của chế độ mới. Thế là tình thân chúng tôi tan rã.
Còn nhiều nữa những thí dụ tương tự. Có những người hôm qua còn xem nhau như bạn, bây giờ đụng mặt họ giả vờ xa lạ.
Chưa kể những kẻ cơ hội mà người đời mỉa mai gọi là những tên “ba mươi tháng tư” ở làng tôi không phải là ít. Nhưng số người mượn gió trở cờ ấy không nghênh ngang được lâu.
Đến khi họ nhận thức câu “vắt chanh bỏ vỏ” thì cuộc đời họ đã tàn tạ. Chẳng qua cộng sản lợi dụng hạng người trên như công cụ, xong việc thì thẳng tay loại bỏ không thương tiếc: Đa số vào tù vì một cái cớ nào đó, may mắn thì bị cho về vườn đuổi gà, đã vậy còn bị sự khinh rẻ chê cười của mọi người chung quanh.
Re: - 30/04/2023 - tưởng niệm 48 năm người Việt mất miền Nam Tự Do
Đã gửi: Thứ sáu 21/04/23 17:05
bởi Bạch Vân
Re: - 30/04/2023 - tưởng niệm 48 năm người Việt mất miền Nam Tự Do
Đã gửi: Thứ sáu 21/04/23 18:01
bởi Bạch Vân
TPB VNCH - TƯỞNG NIỆM 48 NĂM QUỐC HẬN – 30/4/2023
Tháng Tư Đen lại trở về... lần thứ 48 !
Ba chữ TPB thật ngắn ngủi... nhưng khi đọc được những chữ viết tắt : M2M, CCP, CTT... từ 2 trang về TPB do người bạn bên Nhảy Dù gửi cho theo yêu cầu... tôi thật ngỡ ngàng...
Thật không thể ngờ:
“Cuộc chiến Việt Nam, chấm dứt ngày 30 tháng Tư 1975, để lại 20.000 thương binh Việt Nam Cộng Hòa với mức độ thương tật nặng nhẹ khác nhau, trong đó số bị tàn phế, cụt tay, cụt chân, bị mù mắt, bị mất sức lao động là từ 3.000 đến 5.000 người.” theo nguồn đọc được từ Internet.
Còn con số TPB VNCH sau 30-4-1975... thật sự là bao nhiêu?
Có ai biết không?
Với 884 hình ảnh TPB rõ nét tìm được, tôi chia thành từng nhóm theo thương tật và xin được chia sẻ những hình ảnh này với người Việt Quốc Gia gần xa... trong Tháng Tư Đen năm nay 2023...
Hình ảnh: THƯƠNG PHẾ BINH VNCH
TƯỞNG NIỆM 48 NĂM QUỐC HẬN
30/4/1975---30/4/2023
Nhạc phẩm::NHỚ NGƯỜI THƯƠNG BINH (1947)
Nhạc sĩ: Phạm Duy
Tiếng hát: 1. Như Mai 2. Duy Khánh
Video 30/4/2023:
• TPB VNCH - TƯƠNG...
K/T Mời cùng xem, cùng nghe và chia sẻ...
th
thienthuntth - YouTube
Re: - 30/04/2023 - tưởng niệm 48 năm người Việt mất miền Nam Tự Do
Đã gửi: Thứ sáu 21/04/23 18:20
bởi Bạch Vân
Đi tìm nhân vật trong bức ảnh lịch sử
Người lính VNCH Võ Phùng Dương và bức ảnh lịch sử
Những ai đã từng nhìn qua những hình ảnh về cuộc chiến tranh Việt Nam, chắc cũng có lúc đã bắt gặp hình ảnh một người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đang bị thương tật, bị đuổi ra nơi chữa trị của mình là Tổng Y Viện Việt Nam Cộng Hòa vào chiều ngày 30-4.
Tấm hình nhỏ không có lời chú giải nhưng chỉ với ánh mắt của người thanh niên đau đớn, mệt mỏi đang chống nạng bước đi, đã là sự ám ảnh không lời đến tận cùng. Trong bộ quân phục có vẻ mặc vào vội vã, anh lính VNCH đó bước đi và lọt vào khung hình, trở thành một dữ liệu giằng xé im lặng, như một vết thương không bao giờ lành về một câu chuyện có thật: Những người thương bệnh binh VNCH bị chĩa súng, đuổi ra đường, ngay sau khi quân bộ đội Bắc Việt tràn vào Sài Gòn.
Nhiều năm trôi qua, người ta vẫn tự hỏi, người lính ấy còn sống không, giờ này người đàn ông ấy ra sao? Như mọi tấm ảnh trắng đen khác của những ngày tháng 4-1975 làm nhức nhối người xem – kể cả thế hệ chưa bao giờ trải qua ngày tháng đó – câu hỏi đó chất chứa với muôn vàn điều u uẩn trong lòng.
Với đôi chút thông tin vặt, chút hình ảnh và luôn dò hỏi… thật bất ngờ là đúng vào Tháng Tư, của 46 năm sau, sự có mặt của người lính ấy bỗng bất ngờ hiện ra trong cuộc tìm kiếm nhiều ngày của chúng tôi – những người miền Nam thế hệ hôm nay. Thật kỳ diệu: Ông vẫn còn sống, hiện ở Chơn Thành, Bình Phước.
Người lính ấy, hạ sĩ nhất Võ Phùng Dương, Số quân: 74/145 811, KBC: 3506, Tiểu Đoàn 52, Liên Đoàn 3, Biệt Động Quân, vẫn im lặng tồn tại non nửa thế kỷ qua nhiều biến động của cuộc đời. Thật khó nói đó là những điều đắng cay số phận hay kiên cường cao quý của ông: Khi gặp, ông vẫn giữ được nụ cười bình dị, hiền lành và kiểu trò chuyện chơn chất khi tiếp chúng tôi tại ngôi nhà nhỏ của mình.
Đi tìm một ánh mắt câm lặngSuốt đoạn đường dài từ Sài Gòn tìm đến nhà của ông Dương, chúng tôi chia nhau nhìn lại tấm ảnh về người lính trẻ (lúc ấy, ông chỉ mới 22 tuổi) khi bị đuổi ra khỏi giường bệnh và cố lết đi về nhà ở Quận 4, Sài Gòn, trong một buổi chiều nghiệt ngã của đời mình. Không ai trong chúng tôi tin được, người sắp gặp mặt, đó lại là một chứng nhân của sự kiện, lại là một nhân vật nổi tiếng từ bức ảnh luôn được chia sẻ trên các trang mạng, bản tin quốc tế, đặc biệt vào mỗi Tháng Tư.
Con đường dẫn vào nhà ông Dương im vắng đến lạ, nắng gắt oi bức đuổi theo mọi nơi. Đến con chó của nhà gần đó, nằm trong bóng râm cũng mệt mỏi nhìn chúng tôi mà không buồn sủa. Nhiều năm trước đó, khu vực này xác xơ, khốn khó và được gọi là vùng kinh tế mới.
Ông Dương có lối nói chuyện thuần chất nông thôn miền Nam, dễ làm người đối diện gần gũi, tạo nên sự cảm mến tức thì. Ngồi với nhau chỉ vài giờ đồng hồ, mà tưởng chừng như ai nấy đã thân thiết lâu rồi. Mỗi khi cao hứng lúc kể chuyện quá khứ, ông bật cười lớn, và nhất là khi kể về ngày tháng cũ, có lúc ông phấn chấn, lớn giọng mô tả không chút e ngại.
“Người chụp tấm hình đó, là bạn của chú, cũng bị đuổi từ Tổng Y Viện ra, ảnh tên Lài. Sẵn tay đang cầm cái máy Kodak, ảnh kêu tên chú rồi chụp luôn. Không ngờ tấm hình đó sống dai vậy”, ông Dương cười buồn, và nói rằng giờ cũng không biết Lài ở đâu, còn sống hay đã chết với những ngày tháng cam go không thua gì như cuộc chiến, sau cái Tháng Tư đó.
Buổi chiều ngày 30-4-1975, khi mọi người đang nằm trên giường bệnh, khắp nơi cứ mỗi lúc tràn về những toán thương binh mới, nằm chật cả lối đi, chen chúc nhau ở mỗi phòng. Dù là ngày cuối cùng của cuộc chiến, đã có lệnh đầu hàng từ trưa, nhưng có vẻ giao tranh vẫn không dứt hẳn. Có những người được đưa vào với vết thương mới, tuôn máu không ngớt. Bất ngờ, tràn vào khắp ngõ trong Tổng Y Viện là những nhóm lính quân phục miền Bắc, súng AK chĩa lăm lăm, đằng đằng sát khí, lên giọng quát.
“Họ nói sao khi đuổi mọi người, kể cả những người vừa mới mổ xong, phải ra khỏi bệnh viện?”, ông Dương cười, suýt bật thành tiếng chửi thề, “Họ nói giọng Bắc, kêu đ*t mẹ chúng mày cút ra hết”. Theo lời ông kể, người ta hình dung rằng đây là một chủ trương có tính toán chứ không phải là ngẫu hứng từ viên chỉ huy cực đoan nào đó.
Bởi theo lệnh phát đi và nòng súng hướng dẫn, những người thương bệnh binh VNCH đó phải nhanh chóng tựa vào nhau đi ra bằng ngõ sau và những ngõ phụ, chứ không phải là cổng chính, Mục đích rất rõ là không muốn tạo sự chú ý với dân chúng, hay để cho giới phóng viên nước ngoài còn trụ lại Sài Gòn có thể ghi hình được.
Ông Dương lúc đó, chỉ còn một chân, cố chống nạng đi. Vết thương đó, ông nhận vào tháng 2 năm 1975, trong một trận tử thủ ở ngay Bình Phước. Xe tăng bộ đội Bắc Việt tràn vào với biển người nhưng vẫn bị 3 tiểu đoàn đã tơi tả của phía ông chận lại. Lúc đó, quân VNCH chỉ còn lại những thành phần tử thủ, nhiều người đã bỏ đi, súng đạn không còn nhiều. 3 tiểu đoàn mà ông Dương có mặt, quyết cầm cự mặt trận trong lòng đô thị chỉ còn hơn khoảng 500 người. Trong khi đó, ráo riết tiến công để dứt điểm, tin cho biết 3 sư đoàn của Bắc Việt áp sát với đủ các loại hỏa lực yểm trợ.
“Bây giờ kể lại, mới thấy ngày đó những lính trẻ tụi tôi đánh dữ dằn ra sao. Riêng phía Biệt Động Quân tụi tui thì được huấn luyện chiến đấu trong lòng đô thị, trong khi đó, quân Bắc Việt sau khi ra khỏi rừng thì mất lợi thế do không biết địa hình, nên dù mạnh hơn, nhưng nhiều đợt xông lên đều bị chúng tôi đánh chặn, bắn cháy cả loạt xe tăng đi đầu”, ông Dương cười ha hả, nói. Ngay vào lúc giằng co không phân thắng bại ấy, thì đột nhiên có lệnh rút quân. Thế trận vỡ ngay từ lúc đó. “Chính vì khi chuyển thế rút quân, tui mới bị đạn 12.7 bắn ngay chân, nát mọi thứ”.
Ông Dương được chuyển về Tổng Y Viện, và cắt chân ngay vì sợ hoại tử, cũng như không thể cứu chữa gì được. Từng ngày, ông cảm nhận được sự sụp đổ của Sài Gòn đến khi thấy thêm thương bệnh binh nhập vào, mà các nơi đánh chặn thì mỗi lúc càng gần Sài Gòn hơn.
Ông Dương đi lính từ năm 1971, và tham gia nhiều trận ở An Lộc, Long Bình… những năm tháng đó khi cùng đồng đội chia lửa ở mọi trận tuyến, dù thế nào đi nữa, ông đã có một phía chọn lựa của mình rõ ràng, không hề nao núng, đó là một nước VNCH tự do của mình, nơi đó, có anh em, có cha mẹ, ngôi nhà… mà ông phải bảo vệ.
“Vì sao có những người đã bỏ chạy, nhưng sao chú và những người lính khác vẫn tiếp tục trụ lại?”, ông Dương không thể giải thích hết bằng ngôn từ đơn giản của mình, ông thoáng suy nghĩ và tả rằng, “Là nghĩ tới cái chết. Mình thua thì mình cũng sẽ bị bắn chết, thôi thì chiến đấu để chết ngay ở mặt trận, phải tốt hơn là bị quỳ rồi bị chĩa súng bắn, đúng không?”.
Dĩ nhiên, ông Dương tóm tắt vậy. Nghe cũng không có gì là quá đặc biệt, nhưng đằng sau đó, đó chính là trùng trùng khí chất của hàng hàng những quân nhân VNCH trong cuộc chiến: Nghĩa vụ, tổ quốc và danh dự nằm trong máu và trái tim, sâu và chân thành đến mức không thể hoa mỹ ngôn từ. Sâu đến mức đã có người mỉm cười tuẫn tiết khi thất trận, mạnh mẽ đến mức có người đã dõng dạc kết tội kẻ kết liễu mình bằng tuyên ngôn của nền tự do bị tước đoạt.
Và rồi vào buổi trưa ngày 30/4 đang nằm trong Tổng Y Viện, đột nhiên mọi người nghe tin đầu hàng từ Tổng thống Dương Văn Minh. Ông Dương và nhiều người nữa, kêu “trời ơi” và chết lặng.
Đằng sau lời đầu hàng đó, là một đại diễn biến khác, dù không hình dung rõ được, nhưng những người lính đó biết chắc rằng sẽ không thể có bình yên như những bài hát và lời yêu gọi tình anh em trên đài phát thanh của đạo quân vừa tiến vào Sài Gòn. “ĐM, gì đầu hàng, kỳ vậy?”, ông Dương kể mình la lên như vậy ở phòng bệnh. Có người cũng thảng thốt như ông.
Re: - 30/04/2023 - tưởng niệm 48 năm người Việt mất miền Nam Tự Do
Đã gửi: Thứ sáu 21/04/23 18:27
bởi Bạch Vân
Anh về thủ đô Y Vân - Vịnh Nghi . Bạch Vân
Anh về Thủ Ðô chúng tôi chờ mong
Với vạn niềm tin với muôn tình thương
Ðiểm tô phố phường người trai áo xanh
Phố hoa pha màu lá rừng
Anh về Thủ Ðô ấm êm lòng tôi
Ðứng lại gần nhau nói câu chuyện vui
Chuyện hai chúng minh gặp nhau chốn đây
Lúc quân dân cùng nắm tay
Ôi nầy anh !
Áo xanh chiến trường bạc mầu
Mến anh mến từ thuở nào
Người trai tranh đấu
Ôi nầy anh !
Ðã mang đến tình mặn mà
Ðón anh những lời thật thà
Lòng dân mong chờ
Anh về Thủ Ðô biết bao là vui
Ðã để lại đây mến thương đầy vơi
Người dân nước Việt ghi ơn các anh
Ðã hy sinh vì giống nòi
Anh về Thủ Ðô nước Nam tự do
Chút quà mừng anh chiến binh đường xa
Là muôn tấm lòng yêu thương đón anh
Ðón anh trai hùng bước qua !
Anh về ………….bước qua !
Anh về Thủ Ðô vui mừng đây đó
Muôn lòng dân đang đón chờ !
Re: - 30/04/2023 - tưởng niệm 48 năm người Việt mất miền Nam Tự Do
Đã gửi: Thứ sáu 21/04/23 19:20
bởi Bạch Vân
Những Người Lính Cũ
Hai người phụ nữ chở nhau trên chiếc xe gắn máy đi vào thành nội Huế, dưới cơn mưa đầu tháng 11.Nước ngập ngang xe, người chở xe là một Ma xơ trẻ, quay đầu lại nói với người ngồi phía sau:
– Cô à, mình xuống dắt xe đi bộ, kẻo nước vô trong máy xe, tắt máy bây giờ thì khổ lắm.
Cả hai xuống xe, trời tối, mưa trên đầu, nước lụt ngang bắp chân, hai người đàn bà vừa đi vừa tìm số nhà. Ma xơ, người địa phương, còn trẻ lắm, và tôi đến (hay về) từ một nơi bên kia địa cầu. Ma xơ chắc đã quen với mưa lũ, và đường phố nên đi nhanh hơn trong khi tôi vừa lạnh vừa dò dẫm trong nước, bước hụt vào một cái ổ gà hay vấp vào vỉa hè, chao đi xuýt ngã mấy lần. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm được số nhà muốn tìm. Có người đàn bà đang tát nước ra ngoài lối đi. Tôi hỏi bà:
– Thưa có phải nhà của ông Hồng (*) không ạ?
– Dạ phải, mời bà vào.
Bà mở cổng, chúng tôi vào một lối đi dài, bên phải là mặt chính của nhà, bên trái có năm ba bụi cây cao thấp, trời tối quá không nhìn rõ những chiếc lá, bóng tối làm bụi cây trông như những cái dù to mầu đen. Bà chủ nhà như được báo trước sẽ có khách, mời khách đi thẳng vào cuối nhà, chỉ tay lên chiếc gác lửng:
-Em tôi ở trên đó, bà cứ leo lên.
Bà nói xong đi ra, tiếp tục cúi xuống tát nước từ trong nhà ra ngoài đường. Ma xơ ở bên ngoài trông xe, tôi đứng tần ngần nhìn chiếc cầu thang, rồi rụt rè leo lên những bực gỗ nhỏ. Một người đàn ông đang ngồi trên đó đón tôi bằng khuôn mặt rạng rỡ:
– Em có nhận được phôn từ hai hôm nay ở Sài Gòn, nói là sẽ có người ở bên đó đến thăm (Anh dùng chữ bên đó để chỉ người ở nước ngoài về).
Tôi xin lỗi đến trễ một hôm, tôi đã lỡ chuyến máy bay Sài Gòn-Huế hôm trước vì phi trường Phú Bài ngập nước, máy bay không hạ cánh được và chúng tôi mới đến chiều nay. Sau khi lấy phòng ở khách sạn tôi đã may mắn nhờ ngay được một Ma xơ còn trẻ, nhanh nhẹn tìm nhà hộ, nếu không thì chắc sáng mai mới tới được.
Tôi ngồi xuống sàn gác đối diện với anh, hai chân tôi vướng víu vì dài quá và ống quần bị ướt sũng. Trước mặt tôi là người đàn ông trung niên, khỏe mạnh, tươi tỉnh, cụt cả hai chân sát đến thân, ngồi giữa những đồ dùng cá nhân của anh, tôi không nhìn kỹ và nhớ anh có những gì chung quanh, hình như có mấy cuốn sổ lớn nhỏ, cái bình thủy, bình trà, cái radio, quần áo, chăn gối và cái điện thoại cầm tay. Thế giới của anh thu gọn trên gian gác khoảng ba thước vuông. Người lính Thủy Quân Lục Chiến này, không may mắn bị thương tháng 1 năm 1975. Vì mất cả hai chân nên anh không “được” đi cải tạo, vì không được đi cải tạo nên anh không vào được danh sách H.O. Tôi hỏi thăm gia cảnh, được biết anh ở đây với gia đình người chị, anh bị thương khi còn trẻ quá chưa có cơ hội lập gia đình. Anh cho tôi một danh sách của những người bạn cùng hoàn cảnh như anh, so với danh sách tôi nhận được ở Sài Gòn thì có một vài tên khác nhau. Anh nói, phải cẩn thận vì có thể họ không phải là những người Thương Phế Binh thật. Tôi nói, không sao cả miễn là những người này cần được giúp đỡ. Tôi chia tay anh, hẹn trưa ngày mai sẽ gặp mặt mọi người. Anh cầm điện thoại, mở sổ, liên lạc ngay với các bạn, giọng anh dồn dập, gọi từng người:
-Trưa mai, 1 giờ nghe, đến nhận quà, có người bên đó qua thăm.
Tôi và Ma xơ lội nước về khách sạn. Tin tức khí tượng cho biết cơn lũ vẫn tiếp tục dâng. Lũ năm nay là lũ ngâm, có nghĩa là hết cơn nọ, tiếp cơn kia, nên nước không rút kịp, cứ giữ hoài một mực ở những nơi trũng và ở sông Hương. Nước sông Hương đục ngầu vì pha đất bùn. Cả thành phố Huế gầy gò, run rẩy trong mưa lũ, tôi đi ngủ thấy mình bồng bềnh trong câu hát Quê hương em nghèo lắm ai ơi! Mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn. Trời hành, Trời làm cơn lụt mỗi năm….
Cả đêm trời mưa, đến sáng đổ xuống một cơn mưa lớn, nước trôi phăng phăng trên đường Đống Đa, trước cửa khách sạn. Tôi mặc áo dài, trùm áo mưa, bối rối lội nước đi lễ ở nhà thờ Dòng Thánh Tâm trên đường Phan Đình Phùng, đi trong nước và gió, tưởng như sắp bị cuốn xuống con nước sông Hương đã dâng mấp mé mặt đường. Nhưng may quá, đến trưa mưa tạnh, nước rút bớt ở một vài con phố. Tôi nhờ Ma xơ chở lại căn nhà hôm qua.
Đến nơi tôi thấy ở gian trước, đã có năm bẩy người đàn ông đang ngồi chung quanh chiếc bàn nhỏ chờ tôi tới. Mới thoáng nhìn tất cả mọi người, tôi biết ngay là họ phải có thân nhân chở tới chứ không thể tự di chuyển được. Thấy tôi đến họ bối rối không biết mời tôi ngồi đâu, tôi đề nghị ngồi cả xuống sàn nhà cho rộng, tôi bỏ giầy vào ngồi chung với họ. Ngồi trước mặt họ, tôi thấy có điều gì không ổn, hình như đối với những người đang quây quần nơi này, tôi là người dị tật. Tôi dư hai cái chân. Tôi lúng túng không biết để hai cái chân thừa này vào đâu. Bẩy người bạn này, không ai có chân cả, có người lại mất thêm một cánh tay, có một người mù. Chúng tôi nói chuyện với nhau.Tôi hỏi han từng người.Các anh cho biết, phần đông bị thương ở Mùa Hè Đỏ Lửa (1972,)có người bị thương ngay đầu năm 1975, lúc đó đang nằm ở Quân Y Viện bị đuổi ra đường. Tôi ngập ngừng hỏi:
-Làm sao mà các anh sống còn cho đến bây giờ, nhất là trong thời gian những năm ngay sau ngày 30 tháng 4.
Các anh cười (đặc biệt lúc nào họ cũng có nụ cười trên miệng)
-Khổ lắm chị ơi! Nhưng chúng em nhất định sống, người thì nương vào vợ con, người thì nương vào cha mẹ, anh chị. Thế rồi chúng em cũng qua được hết. Vài năm mới đây, các anh em ở Saigon nhận được quà của các anh chị bên đó gửi về trước, rồi đến chúng em ở Huế. Mỗi lần lễ tết chúng em có quà cũng có bữa tiệc nhậu nhẹt với nhau, vui lắm, nhưng vẫn phải giữ gìn, kín đáo.
Anh cụt một tay, đưa mẩu tay cụt gần đến khuỷu ra khoe với tôi.
-Em không có hai chân, cụt một tay em vẫn làm thợ lò rèn được, em cuốn dây thép ngay vào chỗ này, để cái phần thép dư ra trên cái đe, tay còn lại em cầm búa đập cho dẹp ra. Cũng kiếm được hai chén cơm một ngày.
Tôi không nói được câu nào, nhìn xuống phần quắt queo của cái tay gẫy, tưởng tượng ra sợi thép to bản quấn nghiến vào đó, ngậm ngùi, thán phục.
Đang nói chuyện thì có một anh đi xe lăn đến, anh bị liệt từ lưng trở xuống. Anh không xuống xe, anh ngồi yên trước cửa nhà. Cũng không thấy ai có ý đỡ anh xuống đất ngồi. Anh nói ít, nét mặt buồn buồn, những người bạn khác cho biết. Anh phải nhờ giúp đỡ hoàn toàn về lên, xuống xe,làm vệ sinh, vì anh không thể nào tự đứng lên trên hai chân được. Tụi em tuy cụt cả hai chân, nhưng lê trên hai mông và khỏe hơn anh, nên tự túc vệ sinh cá nhân được.
Tôi ngồi ngắm họ, tám người đàn ông này, vào năm 1975 họ còn trẻ lắm (Ngưới lớn tuổi nhất sinh năm 1939, người trẻ nhất sinh 1954) họ mất cả hai chân, có anh còn mất thêm một cánh tay, có anh vừa không chân vừa mù. Làm sao mà họ sống còn được với cơn lốc hậu chiến! Ngay cả người lính còn đủ mắt, mũi, chân tay đã điêu đứng lắm rồi!
Vậy mà sau bao nhiêu khổ nhục họ vẫn tìm đến nhau, dựa lưng vào nhau để tồn tại.
Đây là những câu thơ họ viết cho nhau đọc:
Tháng tư gẫy súng hao gầy
Vòng tay khói thuốc tháng ngày hư hao
(Hồng Trần)
Cũng đôi lần đi qua đường cũ
Núi rừng xưa loang lỗ chừ đã xanh cây
Rừng xanh lá còn đời tôi héo úa
Cũng đôi lần đi qua thành phố cũ
Vết chiến tranh chừ đã tân trang
Phố vươn mình thay da đổi thịt
Riêng đời tôi cứ mãi cơ hàn
(Nguyễn Nghệ)
Tôi thương cảm và kính phục họ, trong hòan cảnh khốn cùng nhất, bằng cách nào đó, họ vẫn đứng vững (không cần chân) và duy trì được tinh thần đồng đội, thái độ bất khuất của những người lính.
Tôi tặng mỗi người một phong bì, một phần thuốc bổ. Khi tôi trao vào tay từng người món quà nhỏ đó lòng tôi thật rưng rưng, nước mắt ứa ra ( mặc dù tôi cố cầm lòng)
Tôi không biết mình muốn nói lời gì để cảm ơn những người lính này? Họ là dấu tích, là niềm tự cao của một thời hòa bình bên này; hay là huy chương, là tinh thần anh dũng của một thời chiến tranh bên kia. Người Việt Nam đứng ở hai bên vĩ tuyến 17, xác định bên này, bên kia theo tiêu chuẩn nào?
Tôi trao đổi địa chỉ với những người bạn mới này, xin số phôn liên lạc và danh sách của những anh em ở Quảng Trị. Khi ra về, tôi hứa sẽ không quên họ (?)
Sáng hôm sau trời vẫn còn mưa tầm tã, tôi liên lạc, hẹn gặp được với anh Sự ở Quảng Trị và thuê xe đi La Vang, Quảng Trị. Trên đường từ Huế ra La Vang nước sông dâng cao, có chỗ mấp mé mặt đường, có chỗ ngập tràn tóe nước trên bánh xe chạy. Nhà cửa ruộng vườn hai bên ở thụt xuống nên nước ngập cao cả thước, thỉnh thoảng có một chiếc thuyền chở mấy đứa nhỏ từ trong nhà lên mặt đường, chúng ướt như mấy con thỏ nhỏ vừa bị tuột lông, trông thương quá! Giữa vùng nước bát ngát tôi đọc được trên một tấm bảng dài, sơn đỏ, kẻ chữ vàng :”Việt Nam Dân Chủ Ấm No Quang Vinh Hạnh Phúc” Tấm bảng đứng ngơ ngáo như một kịch sĩ ra trình diễn không đúng lúc.
Trận Mùa Hè Đỏ Lửa, ngôi giáo đường La Vang bị tàn phá nặng nề, tượng Đức Mẹ thương tích đến xót xa. Tôi đứng trước tượng, bức tượng nhợt nhạt trong mưa, những thương tích còn y nguyên, đôi mắt Mẹ buồn bã cúi nhìn. Tôi biết Đức Mẹ đã hiểu lòng tôi, tôi không cầu nguyện gì riêng cho mình cả, tôi đã dư đến hai cái chân, làm sao dám xin thêm một thứ gì nữa.
(Thánh đường La Vang- Quảng Trị Hè 1972)
Tôi cũng ngạc nhiên là mình không bị cảm lần này. Lại đi trong mưa, trong gió, ghé vào Quảng Trị. Vùng đất Quảng Trị nơi người dân Việt có cuộc sống hẩm hiu nhất, vừa nghèo, Chó ăn đá gà ăn muối, vừa hứng chịu những trận đánh khốc liệt. Nơi mỗi tấc đất đều thấm máu người trong thời chiến tranh huynh đệ.
Anh Sự hẹn tôi ở khúc đường, cách cầu Thạch Hãn 200 thước, anh đứng trong mưa, trùm chiếc áo mưa đỏ cho dễ nhận. Khi xe dừng lại anh cho biết đã hẹn những anh khác đang đến. Trời vẫn đổ mưa, không vào nhà anh Sự ở sâu trong ngõ được, tụ tập ngay ở quán cà phê bên đường, quán này cũng lại vừa là một cái chợ nhỏ, có người mặc chiếc áo mưa vàng, trên lưng in chữ CATP ghé vào. Anh Sự hơi lộ vẻ lo lắng trên mặt, chữ đó có nghĩa Công An Thành Phố, nhưng ông công an này chỉ ghé vào mua một trái mướp nhỏ trong khi đang công tác, rồi đi.
Lần lượt những chiếc xe ôm thả tám người vào quán. Tôi theo họ vào, họ không mất hai chân như các anh ở Huế, nhưng mỗi người có một bàn chân gỗ thò ra dưới ống quần nhầu nhĩ. Họ trông thảm hại, thiếu thốn quá! Chắc lúc khô ráo đã thảm hại rồi, mưa ướt còn làm tăng thêm nỗi nghèo khổ. Họ không được lạc quan như các anh ở Huế, có anh mang theo cả Chứng Minh Thư có số quân của ngày tháng cũ. Tôi thấy đau lòng quá. Tôi cũng chẳng nói gì với họ được lâu, vì còn phải quay lại Huế, trời thì mưa, lạnh, chỗ đứng trong quán chật hẹp, người ra vào mua bán, và hình như họ cũng không dám tụ họp lâu. Trông họ bồn chồn quá! Tôi ghi tên họ xuống (chỉ lấy tên, không lấy họ) Có hai thanh niên trẻ đi nhận quà cho cha mình. Tôi có địa chỉ và điện thoại của anh Sự rồi. Tôi hứa với lòng là sẽ gọi một vài người bạn rất thân ở ngoài nước giúp những người bạn trong nước này có cái quần, cái áo ấm hơn trong những ngày mưa lụt, có miếng thịt miếng cá to hơn trong ngày lễ tết.
Khi quay xe ra về, tôi nói anh tài xế cho tôi ngừng lại ít phút ở cầu Thạch Hãn. Nơi đây Mùa Hè Đỏ Lửa đã là mồ chôn của bao nhiêu người lính của cả hai miền Bắc Nam.
Một tượng đài được dựng ngay bên cầu Thạch Hãn có mô hình những giọt máu đỏ đang chẩy xuống. Tôi hy vọng khi treo những giọt máu này lên tượng đài, ai đó đã hiểu là những giọt máu này không phân biệt Bắc Nam, và chắc chắn một điều, nước dòng sông Thạch Hãn đã hòa máu, nước mắt của dân, quân cả hai miền.
Anh tài xế nói, vụ đánh mùa hè 1972, nơi đây không còn gì sót lại. Không nhà, không chó, không mèo, không người, một vùng đất chết. Tôi nhớ đến câu thơ của Giuseppe Ungarette (Thi sĩ Ý 1888-1970) viết về một ngôi làng bị tàn phá trong chiến tranh. Những bức tường bị cào nát, người thân chết hết. Không còn gì cả ngoài thánh giá trong tim But in my heart/No cross is missing/ My heart is the most tortured village Trái tim tôi là một ngôi làng bị tra tấn nặng nhất.
Tôi trở về Mỹ mang theo hình ảnh và địa chỉ của những người lính cũ. Trái tim tôi có phải là một ngôi làng đang được chúc phúc hay không?
Trần Mộng Tú
Huế-Quảng Trị- Tháng 11/2007
(*)
Người lính cụt 2 chân tên Hồng trong truyên này là Trần Trọng Hồng TQLC, cùng khoá 4/71 với hắn, Ở Thủ Đức Hồng ở 353. Ngày mãn khóa Tổng thống Nguyễn văn Thiệu đặt tên cho khóa là khóa An Lộc, có lẽ đây là khóa duy nhất của trường Bộ Binh Thủ Đức không có 10 ngày phép mãn khóa, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến được đơn vị đón tại vũ đình trường và sáng sớm ngày hôm sau có mặt tại chiến trường Quảng Trị, và cũng ngay tại phi trường, một quả đạn pháo đã lấy đi sinh mạng của chuẩn úy Phạm lê Phong, 4/71 đầu tiên đền nợ nước .
Hắn là 1 trong 180 biệt động quân được đưa về trại Đào bá Phước và ngày hôm sau bước vào An Lộc. Chiến trường đã nuốt vài trăm người bạn An Lộc của hắn và rất nhiều đồng môn để lại một phần thân thể trong chiến trận.
Mỗi năm khóa 4/71 của hắn cũng tổ chức cây mùa xuân quyên góp giúp đỡ những đồng môn xấu số còn sót lại bên nhà.
Re: - 30/04/2023 - tưởng niệm 48 năm người Việt mất miền Nam Tự Do
Đã gửi: Thứ bảy 22/04/23 19:57
bởi Bạch Vân
Re: - 30/04/2023 - tưởng niệm 48 năm người Việt mất miền Nam Tự Do
Đã gửi: Thứ bảy 22/04/23 20:01
bởi Bạch Vân
Nỗi đau ngày mất nước
Thưa bác,
Nhiều năm qua bác nhắc đi nhắc lại về chuyện Ba Mươi tháng Tư. Bác nói rằng mỗi người đều có một ngày Ba Mươi tháng Tư cho riêng mình. Bác vẫn hỏi một câu. Lúc ấy quý vị đang ở đâu? Thưa bác, ngày Ba Mươi tháng Tư năm 75 cháu đi nhận xác chồng ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Xin kể đầu đuôi như sau:
Người yêu của cháu, chồng sắp cưới của cháu là Nguyễn Đông Thành, Trung Úy Biệt Động Quân Đơn vị đóng tại Chân Thành vào thời kỳ 1975. Từ lúc ra trường Thủ Đức, anh làm Trung Đội Trưởng Tác Chiến cho đến khi lên đến Trung Úy Đại Đội Trưởng đã bị thương 4 lần. Một lần bị thương nặng phải nằm nhà thương hai tháng. Còn các lần khác chỉ bị thương nhẹ.
Cháu gặp anh trong một lần nữ sinh đi ủy lạo chiến sĩ tại Tổng Y Viện Cộng Hòa rồi quen nhau. Sau đó chúng cháu đôi khi lại còn cầu cho bị thương nhẹ để có dịp gặp nhau ở Sài Gòn. Một lần anh chỉ bị trẹo chân vì nhảy trực thăng mà được nghỉ đến gần một tháng.
Đó là lần bị thương hạnh phúc nhất của chúng cháu. Gia đình hai bên đã có dịp gặp nhau sau khi chúng cháu về thưa với cha mẹ. Đầu năm 75 đã làm đám hỏi. Chờ đến đầu tháng 5-1975 là làm đám cưới. Cháu có ông cậu làm Trung Tá ở Sài Gòn quen biết nhiều nên hy vọng sẽ giúp cho anh Đông Thành đổi về đơn vị hậu cứ hay về Bộ Quốc Phòng.
Tết 75, hai đứa chúng cháu đến mừng tuổi cậu và xin cậu chạy giúp. Chạy đây là nói hộ chứ không phải tiền bạc gì hết. Cậu cháu coi tướng anh Thành và rất hài lòng để mừng cho cháu gái. Cậu khen vị hôn phu của cháu tuy còn trẻ nhưng rất đẹp trai và tướng mạo đàng hoàng. Anh mới có 22 tuổi, còn cháu 19 tuổi vào năm 1975. Cháu cũng khá cao mà anh Thành còn cao hơn cháu cả đầu người. Anh chơi thể thao cả xà ngang và xà dọc nên người rất tài tử. Bạn học trường Gia Long đứa nào cũng thích Trung Úy Đông Thành của cháu.
Tuy nhiên, khi hỏi chuyện về đơn vị của Thành thì ông cậu của cháu hơi ngần ngại. Cậu nói rằng năm trước có xin cho con một anh bạn đóng đồn được đổi về tỉnh. Chỉ một tuần sau anh Thiếu Úy lên thay thế bị tử trận. Bà mẹ anh này đi thưa Giám Sát Viện về tội ăn tiền đổi người, để đưa con bà vào chỗ chết. Vì vậy cậu cháu nói để chờ một thời gian, đơn vị rút từ Chân Thành về hậu cứ rồi sẽ xin đổi sau.
Người yêu của cháu cũng rất tự ái nên không hề nói gì thêm, cứ bấm tay cháu gạt đi không muốn đề cập đến việc xin thuyên chuyển nữa. Từ biệt ông cậu xong, hai đứa ra về. Cháu giận anh ấy hết sức, nhiều lúc chỉ muốn cho ra trận chết đi cho rồi.
Đàn ông mới hơn hai mươi tuổi mà đã muốn làm anh hùng. Gia đình anh ấy con một, xin hoãn dịch cũng còn được chứ ai lại đi Biệt Động Quân. Quanh năm hành quân, đôi khi ở đơn vị còn có lệnh phải cạo trọc đầu cho thêm dữ dội. Nhưng nói gì thì nói, anh Đông Thành dù để tóc dài hay tóc ngắn thì trông vẫn đẹp như tài tử Pháp Alain Delon. Cháu rất hãnh diện đi với anh ở đường Nguyễn Huệ. Nhưng hai đứa đâu có được dịp đi chơi với nhau nhiều lần. Qua tháng 3-1975, có tin địch uy hiếp Chân Thành, gia đình hai bên và riêng cháu lo lắng ngày đêm. Rồi tin từ Bộ Chỉ Huy là đơn vị Biệt Động Quân ở Chân Thành có lệnh rút. Quân đội cho lệnh bỏ Chân Thành.
Chưa bao giờ cháu lại vui mừng khi được tin quân ta rút như vậy. Là một học sinh chưa được 20 tuổi, cháu chỉ mong người yêu sớm trở về bình yên. Quân đội muốn bỏ đâu thì bỏ. Muốn rút đâu thì rút. Nhưng đau khổ chưa, đúng như cháu đã lo ngày lo đêm. Đơn vị cho người đưa tin về nhà để đi nhận xác Đông Thành vào ngày 25 tháng 4-1975. Người lính ở đơn vị nói rằng anh ấy đã chiến đấu anh dũng ra sao, hy sinh như thế nào, chẳng còn lòng dạ nào mà nghe chuyện. Sao bao nhiêu người còn sống ở Sài Gòn không ra mà anh dũng hy sinh.
Trời đất công bình ở chỗ nào. Đi lính có ba năm mà bị thương đến 4 lần, rồi mới chết. Đông Thành của cháu hiền lành như thế, có làm hại ai đâu mà phải chết oan uổng như vậy. Sau khi được tin cháu cứ như điên dại rồi đi theo gia đình lên Nghĩa Trang Quân Đội nhận xác người yêu. Dù chưa cưới nhưng cháu đã khai là chồng. Mấy ông đòi hôn thú vì tưởng cháu muốn xin tiền chồng chết. Xin tiền tử tuất với 12 tháng lương. Cháu quyết liệt nhận xác chồng dù chẳng có hôn thú.
Đất nước có còn đâu mà lãnh tiền. Anh Đông Thành nằm như ngủ. Đạn vào ngực, vào tim, vào bụng nhưng mặt anh vẫn nguyên lành. Anh nằm đó vẫn đẹp như thiên thần. Anh về bằng trực thăng trên băng ca đúng như trong bài ca, đúng như trong tiểu thuyết. Bên cạnh xác anh có nhiều đồng bạn cũng chết nhưng vì để lâu nên bốc mùi hôi thối.
Nhiều gia đình cũng đến nhận xác. Đàn bà trẻ con khóc la ầm ỹ. Cháu cũng hòa theo tiếng khóc nức nở. Gia đình chôn xác anh ngày 27 tháng 4-1975, buổi chiều thì ra về nhưng cháu ở lại. Cháu trốn vào khu Nghĩa Dũng Đài nhưng người nhà lại tưởng bạn cháu chở về Sài Gòn. Suốt những ngày cuối tháng 4 đau khổ cháu tha hồ khóc. Trên Nghĩa Trang Biên Hòa toàn là gia đình tử sĩ nên cũng không ai chú ý. Có gia đình đem theo Radio nên mở ra nghe tin tức chiến sự. Rồi dân di tản ở bốn phương trời kéo nhau về tạm trú. Họ dựng lều ngay bên cạnh các phần mộ.
Khu lính chết đã lâu thì có mộ bia và tấm Ciment bên trên. Khu mới chết thì chỉ đắp đất. Có cả trăm cả ngàn ngôi mộ. Những ngày đầu thì có nhiều xác chở về bằng trực thăng. Về sau xác chở về toàn bằng xe nhà binh. Sau cùng thì đủ các thứ xe chở xác về Đơn Vị Chung Sự.
Nơi để xác có máy lạnh nhưng không có điện nên trở mùi hôi thối. Nhiều xác chở đến để ngay dưới đất, trời nắng bốc mùi làm cho các gia đình ở gần phải dở lều di chuyển đi nơi khác. Ông sĩ quan trách nhiệm chôn cất nóng nẩy gắt gỏng và anh em chôn cất làm việc rất vất vả. Ai cũng có mùi rượu và dầu Nhị Thiên Đường đầy người.
Đến ngày 30 tháng 4, khi có lệnh đầu hàng thì không còn ai trách nhiệm. Lúc đó đã xuất hiện người của cộng sản ra gom dân gom lính chạy loạn bắt phải đào hố chôn tập thể. Một anh Công Binh của ta lấy xe đào các hố thật lớn, rồi đưa tất cả các xác lính Việt Nam Cộng Hòa chôn tập thể. Có gia đình cố dành lại xác người thân tự đào lỗ chôn riêng. Cháu thấy một gia đình chỉ có người vợ trẻ với mấy đứa con tám chín tuổi ạch đụi bới đất chôn chồng.
Cháu tìm cuốc đến giúp một tay và thấy mình đã bớt điên. Thấy cảnh hai đứa nhỏ cùng mẹ móc đất chôn bố, cháu thấy cuộc chiến tranh vô nghĩa biết chừng nào. Và sự đau khổ của mình cũng chẳng phải là duy nhất. Đứa con gái chừng 10 tuổi và đứa em trai 6 tuổi vừa khóc vừa móc đất giúp mẹ. Cháu sẽ không bao giờ quên được hình ảnh này.
Sau đó qua ngày 2 tháng 5-1975, cháu quá giang xe của người ta về lại Sài Gòn. Năm 1980, cháu lập gia đình với một anh Thủ Đức còn trẻ có 2 năm cải tạo. Chúng cháu vượt biên rồi vào Mỹ. Chồng cháu rất hiểu biết nên tôn trọng mối tình đầu của cháu với Đông Thành.
Từ mùa Xuân 1993, chúng cháu cứ vài năm lại về Sài Gòn và lần nào cũng lên Nghĩa Trang Biên Hòa Cháu có theo dõi chương trình tảo mộ chui của các bác. Lần nào cũng khấn vái cho anh Đông Thành phù hộ công việc của hội. Cháu có thuê người làm cho anh Thành tấm Ciment đúng kích thước như các ngôi mộ khác chứ không muốn xây cho thật lớn. Anh Thành đã muốn được chết như các chiến hữu thì phải để anh nằm giống như các bạn của anh.
Cháu vừa thương mà vừa giận anh biết chừng nào. Người yêu của cháu là mối tình đầu, anh chính là hình ảnh của chiến tranh Việt Nam. Cháu vừa ghét lại vừa thương. Đã 30 năm qua rồi mà tình cảm vẫn không thay đổi. Bác đã hỏi rằng, ngày Ba Mươi tháng Tư cháu ở đâu? Vâng, 30 tháng 4-1975, cháu đi chôn chồng ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Vậy thì phần bác, Ba Mươi tháng Tư, bác ở đâu?