- 30/04/2021 - tưởng niệm 46 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Niềm Đau của Mẹ có con vượt biên mất tích

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          





Niềm Đau của Mẹ
có con vượt biên mất tích

__________________
Nguyễn Minh Thanh

(Trân trọng niềm đau của Mẹ VN)




Đêm đen đặc bốn bề quạnh quẽ
Mẹ con mình thỏ thẻ bên nhau
Tiễn con dạ Mẹ héo xào
Con đi, Mẹ ở... nghẹn ngào lòng con!!
Kể từ đó, nước non trắc trở
Mẹ nhớ con biết thuở nào vơi
Ngẩng lên há miệng kêu trời
Trời cao vấp với ...có đời nào nghe
Cúi xuống đất quanh hè gọi khẽ
Đất câm câm chẳng hé một lời
Đất dầy trời rộng chơi vơi ...
Đau nầy đằng đẵng muôn đời không phai ...!!!


Vàng mấy chỉ trao tay dặn nhỏ:
- Giấu trong lưng phòng có gian manh
- Cha con lao lý rừng xanh
Đây còn chút đỉnh để dành mẹ thăm
Dùng dằng mãi không cằm lại nói:
- Mẹ cất đi no đói thất thường
Các em còn phải lo lường
Phần con đã đủ Mẹ đừng bận tâm
Mẹ ốm yếu cần chăm sức khỏe
Rồi hãy xem phương kế làm ăn
Cho con kính gởi lời thăm
Chúc Cha qua nổi nhọc nhằn lưu ly
Giờ đã tới, con đi nghe Mẹ
Đến Mã Lai con sẽ nhắn tin...”


Nói xong, lặng lẽ băng mình
Biến vào bóng tối mông mênh âm thầm
Ôi ! Trời hỡi tơ tằm dằng dặc ...
Ngó theo con ruột thắt gan bào
Biển Đông sóng giậy xôn xao
Xốn xang dạ Mẹ cồn cào buồng tim
Lòng tha thiết im im khấn nguyện
Cho con yêu vượt biển trọn lành
Nào hay số phận mong manh
Bao nhiêu mơ ước tan tành khói sương ...!!!


Buồn thơ thẩn Mẹ thường trông biển
Nhớ lại thời... cái chuyến con đi
Vơi vơi ... trời nước thấy gì
Biển xanh mịt mịt tà huy mờ mờ
Thương con trẻ tuổi thơ non dại
Mới mười lăm đã phải bôn ba
Con ơi hận nước thù nhà
Chỉ vì quốc nạn hóa ra đoạn trường ...!!!


Mười năm hỡi còn vương bóng trẻ
Ở tận đâu cho Mẹ rõ tin
Hay là con đã trầm mình
Biển sâu thăm thẳm ngậm hình bóng con
Hay thịt nát xương mòn hải đảo
Gió mây nương mộng báo Mẹ tường
Trời ơi! Thương quá là thương
Rứt ra núm ruột nghe dường xé gan ...!!


Thôi, con hãy ngủ an con nhé
Nơi quê nghèo mặc Mẹ héo hon !!
Con ơi nước chảy đá mòn
Còn đây lòng Mẹ xót con đời đời ...!!!
Âm - thầm Mẹ gọi con ơi ...!!!
Âm - thầm Mẹ gọi Quyên ơi ...!!!
Âm - thầm Mẹ gọi Nam ơi ...!!!



Nguyễn Minh Thanh



          

https://vietbao.com/a307687/nua-phut-ma ... i-thang-tu
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

46 mùa bluebonnets

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • 46 mùa bluebonnets
    ___________________________
    Điệp Mỹ Linh


              

              


    Vào khoảng tháng Tư, dọc theo xa lộ của tiểu bang Texas, hoa Bluebonnet nở rộ, màu xanh thẫm, pha một tý tim tím. Nhìn từ xa lộ, sẽ không thể thấy những viền trắng ly ty trên đài hoa mà chỉ thấy toàn màu xanh tím, trông đẹp và buồn. Màu Bluebonnet buồn hiu hắt này gợi trong tôi hình ảnh những rừng sim tím xa tít tắp nơi giãi đất hình chữ “S” thân thương mà lúc nào hồn tôi cũng quyến luyến!

    Giải đất hình chữ “S” rất nghèo nàn và khốn khổ; vì ông Hồ Chí Minh đã du nhập chủ nghĩa cộng sản và khởi động hai cuộc chiến tranh tàn khốc/dai dẳng để người Việt giết người Việt!

    Trên giải đất nhuộm đầy máu và nước mắt đó tôi đã được sinh ra, lớn lên, được yêu thương/được nuông chiều và cũng được Cha Mẹ dạy bảo để hiểu thế nào là hạnh phúc/thế nào là khổ nạn và đọa đày; vì vậy tôi rất trân quý và biết ơn sự hy sinh của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã bảo vệ miền Nam Việt Nam “của tôi”.

    Từ khi chạy theo Người Lính VNCH để thoát khỏi hỏa tiễn 120 do cộng sản Việt Nam (csVN) “nả” dồn dập vào Saigon, chưa một lần tôi nghĩ rằng tôi sẽ mất Quê Hương. Nhưng thực tế và lý trí cho tôi biết rằng tôi đã mất Bà vào ngày 30 tháng Tư năm 1975.

    Ngày gần cuối tháng Tư, 1975, khi ba tiếng nổ rền vang một góc trời, tôi vội vàng mở radio theo dõi tin tức. Dinh Độc Lập bị Trung Úy phản tặc Phạm Thành Trung hướng dẫn phi công csVN lấy phi cơ của VNCH từ Phan-Rang bay vào dội bom! Lệnh thiết quân luật được ban hành.

              

              

    Tôi vội chụp điện thoại gọi Minh – Bố của các con tôi. Minh không có mặt tại văn phòng.

    Tôi chạy lên sân thượng nhìn ra đường. Từng đoàn xích lô máy/xe lam đầy người, lũ lượt chạy về Sở Hàng Hà, Thị Nghè. Tôi lấy ống dòm để nhìn xa hơn. Từng đoàn Quân Cảnh, Cảnh Sát đang giăng kẽm gai khắp mọi nẽo đường.

    Tôi chạy xuống bếp rồi chạy ra/chạy vào phòng khách mà không biết phải làm thế nào để đón bốn đứa con của tôi đang ở nội trú! Quanh tôi chỉ có bà giúp việc, cũng đang hoang mang/sợ hãi, nhìn tôi. Tôi quyết định đi bộ.

    Vào đến sân trường Régina Pacis, tôi mệt lã, mồ hôi nhễ nhại. Quanh tôi nhiều người cũng thất thần/hoang mang/sợ hãi như tôi. Vừa thấy tôi, Sơ Claudine cho người dẫn hai đứa con gái của tôi đến và bảo tôi ký vào sổ.

    Rời trường Régina Pacis, nắm tay hai đứa bé, tôi cố sải những bước dài, lòng tràn ngập lo âu. Đến ngã tư Tú Xương và Hồng Thập Tự, ba Mẹ con tôi bị chặn lại bằng tiếng quát tháo:

    - Đi đâu? Đi về đi. Thiết quân luật, không biết sao?

    Tôi phải trình đủ giấy tờ và van lơn họ mới nhích hàng kẽm gai cho ba Mẹ con tôi đi qua.

    Chúng tôi ghé trường Notre Dame des Missions đón hai đứa con trai. Quang cảnh ở đây cũng chẳng khác gì ở trường Régina Pacis. Năm Mẹ con tôi nắm tay nhau, vừa đi vừa chạy.

    Về đến nhà, tôi lại điện thoại cho Minh, nhưng vẫn không gặp. Tôi bồn chồn, đứng ngồi không yên. Cha Mẹ và cả đại gia đình của tôi còn kẹt ngoài Trung. Nay thân đàn bà với bốn con thơ, một đứa lại hen suyễn rũ người, trong túi chỉ còn khoảng hơn hai ngàn đồng, ngân hàng lại đóng cửa, tôi không biết phải toan tính gì! Tôi gọi các con tôi lại, chỉ cho con tôi nơi trốn pháo kích, rồi dặn:

    -Từ bây giờ, nếu ai hỏi các con Ba làm nghề gì, các con phải nói Ba là thợ may, nghe chưa?

    Con gái lớn của tôi vùng vằng:

    -Sao kỳ vậy? Ba đâu phải thợ may. Con biết chớ bộ. Ba là…

    Đưa tay bịt miệng cháu lại, tôi năn nỉ:

    -Con thương Măng, nghe lời Măng. Các con phải nói Ba là thợ may thì các con và Măng mới không bị họ giết!

    -Họ là ai mà ác quá vậy, Măng?

    -Việt cộng, tên khác là cộng sản Việt Nam!

    -Măng dạy tụi con không được nói láo; bây giờ Măng biểu tụi con nói Ba là thợ may. Ba biết may hồi nào?

    -Bây giờ Măng muốn các con nói Ba là thợ may; các con có chịu nói hay không?

    Các cháu tiu nghỉu, im lặng.








    Chiều 29 tháng 4, tôi hỏi Minh:

    -Có nên vào cư xá Hải Quân tạm trú hay không, anh?

    -Vô cư xá, gần Bộ Tư Lệnh, càng dễ “lãnh” pháo kích nữa! Đừng lo. Nếu có di tản chiến thuật, mấy “thằng” bạn của anh sẽ điện thoại cho anh. “Tụi nó” hứa rồi.

    Hoàng hôn kéo về vừa đủ bóng tối cho đoàn quân khát máu tiến nhanh về Thủ Đô miền Nam. Chính lúc đó, nhiều gia đình quanh xóm kéo đến trước cổng nhà tôi. Vì Minh vẫn còn mặc quân phục, tôi không cho Minh ra cổng. Tôi ra cổng xem họ cần gì. Nhìn những đôi mắt thất thần của họ, tôi hơi yên lòng, hỏi:

    -Các ông bà cần gì ạ?

    -Cô Hai ơi! Nhà của cô ba tầng, kiên cố quá, xin cho chúng tôi vào trốn pháo kích.

    Là một phụ nữ dễ tin người và rất nhẹ dạ, nghe hai tiếng “cô Hai” – mà anh tài xế của Minh và bà giúp việc thường gọi tôi – tôi nghĩ có lẽ những người này cũng không xa lạ gì. Tôi mở cổng. Nhóm người tràn vào nhà, ngồi trên nền gạch hoa tại phòng khách, phòng ăn và nhà bếp.

    Tôi lên lầu hai, bắt gặp ánh mắt giận dữ của Minh:

    -Em khùng hả? Em cho họ vào như vậy nhỡ có gì làm sao mình đi? Nhỡ có nội tuyến thì sao?

    -Tội nghiệp họ mà! Mình ở hiền, gặp lành anh à! Họ xin vào trốn pháo kích mà mình không cho, nhỡ Việt cộng pháo kích, họ chết thì mình nghĩ sao?

    Minh im lặng. Tôi tiếp:

    -Ô, anh gọi anh Thanh chưa?

    -Rồi! Nó và vợ con đang trên đường tới.

    Sau khi gia đình anh Thanh đến, tôi đưa gia đình anh lên tầng hai, ngồi chung với gia đình tôi. Minh và anh Thanh bàn định kế hoạch, thủ sẵn đạn và một M16. Tôi ngồi riêng một góc, đầu óc quay cuồng. Bàn giùn. Đi hay ở lại? Ở lại có gặp được Cha Mẹ và các em của tôi không? Ở lại Minh có bị gì không? Đi thì đi đâu?

    Khoảng 9 giờ tối, ngoài đường vắng tênh. Tiếng súng lớn nghe xa xa. Tiếng súng nhỏ nổ dòn, mỗi lúc một gần. Minh chạy lên sân thượng để nhìn sang Hải Quân Công Xưởng, vùng Tân Cảng và xa lộ để phỏng đoán tình hình. Thấy hướng cầu xa lộ và Tân Cảng có nhiều đốm sáng xẹt qua/xẹt lại, Minh chạy xuống, chụp ống điện thoại rồi chán nản vứt xuống; vì điện thoại bị cắt. Minh trở lên sân thượng, mở máy truyền tin. Không ai đáp lời Minh cả. Minh trở xuống, giọng bực tức nói với anh Thanh:

    -Chắc “cha con tụi nó” đi hết rồi! “Moa” nghe chúng nó điều động tàu bè mà không đứa nào đáp lời “moa” trên máy truyền tin cả.

    Im lặng. Một chốc sau, Minh tiếp:

    - Để “moi” lên sân thượng, dùng ống dòm nhìn qua Hải Quân Công Xưởng xem còn chiếc nào không.

    Tôi chỉ im lặng, thở dài. Không lâu lắm, Minh trở xuống, giọng bực tức:

    -Chắc “cha con nó” đi hết rồi! “Moi” thấy còn 2 chiếc mà hai chiếc “đại kỳ” (đang sửa chữa) thì làm “chó” gì được! Thôi, đi ngủ, sáng mai tính.

    Tôi hốt hoảng:

    -Súng nổ gần quá mà anh bảo để mai tính? Mai thì chỉ mình anh đi được thôi; còn mẹ con em không thể nào chạy nổi đâu!

    Anh Thanh cũng thúc Minh nên đi ngay.

    Chúng tôi kéo nhau xuống tầng dưới. Khi đi ngang kệ sách, tôi chần chừ, nhìn cuốn album gia đình rồi nhìn cây đàn Accordéon. Tôi vừa đưa tay có ý muốn xách cây đàn thì Minh nạt:

    -Không đem cây đàn! Bốn đứa nhỏ lo còn chưa xong…

    Thấy những người xin trốn pháo kích im lặng nhìn chúng tôi, Minh không nói tiếp. Tôi quẹt nước mắt, vừa bước đi vừa ngoái nhìn lại cây đàn Accordéon.

    Vừa đi về phía cổng Sở Hàng Hà, tôi vừa khóc. Tôi không hiểu tại sao tôi không tiếc ngôi nhà lầu ba tầng mà tôi lại chỉ tiếc cây đàn Accordéon! Cây đàn Accordéon này là do Ba tôi – sau khi tôi lên trung học – đã đưa tôi vào tiệm đàn Mỹ Tín, trên đường Hai Bà Trưng, Saigon, đặt mua từ Ý Đại Lợi và Cụ cũng đặt mua cuốn sách dạy đàn Accordéon từ Pháp, bằng tiếng Pháp. Khi tiệm đàn Mỹ Tín cho biết cây đàn đã về, Ba tôi lại đưa tôi vào Saigon, đến tiệm đàn Mỹ Tín, nhận cây đàn và cuốn sách, rồi về lại Nha Trang dạy tôi đàn. Tình Cha thương con vô bờ đến như thế mà nay tôi đành đoạn ra đi, bỏ lại Cha Mẹ! Ngay cả kỷ vật của Cha mà tôi cũng không thể mang theo! Chính điều này ray rứt hồn tôi rất nhiều!

    Chúng tôi đi bộ vào sở Hàng Hà. Minh nhờ một giang đỉnh đưa chúng tôi sang Dương Vận Hạm Đà Nẵng, HQ501. Có tiếng loa xua đuổi và xác nhận HQ501 không đi.

              

              

    Minh lại nhờ chiếc giang đỉnh đưa chúng tôi sang LST cuối cùng còn tại bến – Dương Vận Hạm Thi Nại, HQ502. Lại tiếng loa không cho giang đỉnh cặp vào. Minh bắt loa gọi đích danh Hạm Trưởng Tánh và xưng tên thì bên HQ502 im lặng. Minh nhờ thủy thủ từ HQ 502 quăng giây xuống. Giang đỉnh cặp vào.

    Từng tháp tùng nhiều cuộc hành quân hỗn hợp – có đụng độ lớn – nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy sợ hãi như hôm đó! Khoảng cách từ giang đỉnh lên đến sàn chiến hạm quá xa. Nước chảy xiết và xoáy sâu. Từ chiến đỉnh, từng người một, phải đu vào sợi giây do thủy thủ từ HQ 502 thòng xuống; và cũng chính những thủy thủ hảo tâm này kéo chúng tôi lên HQ 502.

    Chúng tôi theo Minh tìm chỗ ngồi. Không còn một chỗ trống. Chúng tôi kéo nhau lên gần đài chỉ huy và ngồi ngay khoảng không gian nho nhỏ nối tiếp giữa đài chỉ huy và sàn tàu.

              

              





    12 giờ đêm 29-1975, HQ502 được chặt giây, tách bến.

    Khi HQ502 giang hành ngang Câu Lạc Bộ nổi, cầu A, cầu B rồi Bộ Tư Lệnh Hải Quân, tôi cảm thấy buồn quá đỗi! Nỗi buồn rưng rức trong hồn tôi lúc này không khác mấy so với niềm xót xa ngày nào trên kinh Vĩnh Thế, khi đoàn chiến đỉnh kéo nhau đi, bỏ lại phía xa chiếc Command 01 bị chìm, vì người nhái Việt cộng gài mìn!

    Khi HQ 502 đến gần Nhà Bè, tôi thấy nhiều bồn xăng phát nổ vì trúng đạn pháo kích của csVN. Quanh tôi, từng khối lửa lóe sáng, từng cột khói đen cuồn cuộn, từng loạt đạn pháo kích nổ giòn như nỗi vui mừng hớn hở của đoàn csVN khát máu đang kéo về dày xéo phần còn lại của Mẹ Việt Nam!

    Sương xuống thật nhiều. Gió lộng từng cơn. Tôi không biết tôi đang nghĩ gì? Đang làm gì? Đang đi đâu? Có thật csVN đang tiến vào Saigon hay không? Tôi tự hỏi, năm Mậu Thân, 1968, csVN tấn công tòa đại sứ Mỹ – ngay trước dinh Độc Lập – mà mình vẫn chống trả, chiếm lại được Tòa Đại Sứ Mỹ. Bây giờ csVN chỉ tới ngã tư Bảy Hiền, tại sao mình lại bỏ đi? Những lần tháp tùng hành quân, chưa bao giờ tôi thấy đơn vị do Minh chỉ huy phải rời bỏ vùng hành quân khi chưa chiếm được mục tiêu!

    Tôi hỏi Minh:

    -Tại sao mình phải di tản, anh?

    -Ở lại, đạn đâu nữa mà đánh! Xăng đâu còn cho phi cơ yểm trợ! Dầu đâu còn cho tàu chạy! “Thằng Mỹ” khốn nạn, gây ra cảnh này!

    Tôi gục mặt vào lòng bàn tay, khóc! Bất ngờ tôi nghe tiếng Minh:

    -Tánh ơi! Cho mấy chiếc PBR – khinh tốc đỉnh – của Đại Tá Xuân cặp vào. Vớt ông ấy đi!

    Hạm trưởng Tánh hỏi:

    -Xuân nào? Sao anh biết?”

    -Đại Tá Trịnh Quang Xuân, Tư Lệnh Vùng III Sông Ngòi. Nghe giọng ông ấy trong máy truyền tin “moi” biết mà.

    Nhìn hai bên bờ, trong cảnh tranh tối tranh sáng, tôi thấy nhiều ghe và giang đỉnh trôi dật dờ.

    Không bao lâu, chúng tôi đến Vũng Tàu khi ánh nắng mai đang reo vui trên triền sóng. Quanh tôi, mọi người trông rất rũ rượi, mệt mỏi, có lẽ đêm hôm qua không ai có thể ngủ được; vì tất cả đã trải qua một đêm kinh hoàng!

    Bất ngờ một câu nói chát chúa làm mọi người giật mình:

    -Mẹ! Dương Văn Minh đầu hàng rồi!

    Mọi người chia ra từng nhóm quanh những người có radio. Tiếng tướng Minh lập đi lập lại lè nhè làm tôi khó chịu. Tôi vẫn không tin những gì tôi đã nghe. Quanh tôi, vài giọng bực tức vang lên:

    -Tắt mẹ nó mấy cái radio đi!

    -Đập bể cái radio cho “lão” câm “mõm” lại đi!

    Thế là hết! Tôi cảm thấy như hụt hẫng/như chơi vơi/như đang rơi vào khoảng không!

    Trong trạng thái vừa ngầy ngật vì say sóng, vừa bấn loạn về tâm thần vì tin tướng Minh đầu hàng csVN, tôi chợt thấy một chiếc L19 lượn nhiều vòng quanh HQ502. Mọi người nhốn nháo/lo âu; vì ngại phi công csVN lấy phi cơ của VNCH bay theo, bắn vào người di tản.

    Bất ngờ một anh Không Quân nhảy ra. Mọi người reo mừng.

    Trong khi anh Không Quân “ngoi ngóp” trên triền sóng, người nhái Nguyễn Văn Kiệt mang phao và đôi chân nhái, cầm theo một phao nữa rồi nhảy xuống biển, vớt anh Không Quân.

    Chiếc L19 lượn thêm nhiều vòng nữa, rồi anh phi công nhảy ra. Thân người của anh phi công vừa chạm mặt nước thì bị “tưng” lên rồi…chìm khuất! Mọi người ngơ ngác trong vài giây rồi hướng mắt về chiếc phi cơ không người lái. Chiếc phi cơ quay vài vòng rất hẹp rồi chúi mũi xuống mặt biển, nổ tung!

    Phía trước HQ502 là những chấm nhỏ ly ty của đoàn tàu; phía sau là “rừng” ghe thuyền ồ ạt. Nhiều giang tốc đỉnh – PBR – kè sát hai bên HQ502; và trên không, vài chiếc trực thăng xin bãi đáp.

    Tôi đã đọc và xem phim về cuộc di cư của người Bắc vào Nam năm 1954. Tôi cũng đã nghe Ba tôi kể lại cuộc triệt thoái của quân đội viễn chinh Pháp. Nhưng chưa bao giờ tôi nghe/thấy/đọc về cuộc rút quân nào mang tính chất bi hùng nhưng thảm khốc như những cuộc di tản của đồng bào tôi vào mùa xuân đẫm máu/chia lìa, 1975! Không ai còn khóc được nữa! Trái tim đã tê điếng và khối óc đã dại khờ!

    Đêm về thật nhanh. HQ502 tiến một cách ngập ngừng; cuối cùng phải nhờ một chiến hạm khác kéo đi.

    Sáng hôm sau, Minh đến dặn tôi:

    -Sắp cặp vào tàu Mỹ để nhận nhiên liệu và thực phẩm, em phải giữ bốn đứa nhỏ tại đây, không cho các con ùa đến xin thức ăn. Đừng để Mỹ nó khinh!

    Khi chiến hạm Mỹ cặp sát vào HQ502, đúng như Minh tiên đoán, nhiều người chen lấn nhau, cố chụp giật từng trái cam/trái táo do thủy thủ Mỹ thảy sang. Thấy những nụ cười nham nhở trên những vành môi đang nhai ngồm ngoàm miếng táo/miếng cam, tôi cảm thấy tức giận, nhưng không biết giận ai!

    Những ngày kế tiếp cũng vẫn nước uống hạn chế, thức ăn dè xẻn. Vấn đề vệ sinh phải sắp hàng. Đàn ông/đàn bà dùng chung một nhà cầu “dã chiến”, lộ thiên!

    Một đêm thật khuya, tôi nhìn xuống sàn chiến hạm và thấy mọi người nằm ngổn ngang. Tất cả đều im lặng như không còn sự sống. Tiếng máy tàu vi vu trong gió, âm hưởng thật buồn. Tự dưng tôi nhớ tiếng máy của đoàn chiến đỉnh, thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong, trong những đêm khuya giang hành trên những dòng sông đầy mìn bẫy của Việt cộng để tiếp cứu các đồn Nghĩa Quân, thuộc vùng U-Minh/Chương Thiện. Không biết bao nhiêu lần tôi thấy giang đỉnh chìm, mang vào lòng sông nhuộm máu nhiều thân trai không toàn vẹn!

    Ngày đó, chiến đỉnh chìm vì bị Việt cộng đặt thủy lôi. Bây giờ HQ402 chìm do Hải Quân Hoa Kỳ bắn – vì HQ402 bất khiển dụng! Và tôi thấy trên vài chiến hạm của Hải Quân Hoa Kỳ, người ta xô trực thăng xuống biển! Tôi hoang mang quá độ! Nếu cố gắng suy nghĩ, có lẽ tôi sẽ điên!

    Bất ngờ, tôi thấy Minh từ đài chỉ huy chạy xuống, giọng bực tức:

    -Mẹ nó! Nó đưa một thằng thiếu úy bàn giao hạm trưởng. Thằng thiếu úy chả thèm chào hạm trưởng, chỉ chìa tay bắt thôi. Tức bỏ mẹ!

    Sau đó, không biết lệnh từ đâu, tất cả sĩ quan/hạ sĩ quan/binh sĩ phải gỡ cấp bậc, cắt cầu vai! Mọi quân nhân đều âm thầm thi hành.

    Minh ngồi trầm ngâm nơi góc cầu thang. Tôi đến gần, thấy Minh đang cầm cái nón lưỡi trai, bên trong là cặp “ga-lông” có 3 gạch vàng, một vòng tròn cũng màu vàng và hai cầu vai. Minh ngồi lặng yên, mắt đăm đăm nhìn vào cái nón lưỡi trai. Tôi không thấy ánh mắt của Minh; nhưng tôi biết Minh đang nghĩ gì! Tự dưng nước mắt của tôi lăn dài!

    Khi đưa tay quẹt nước mắt, tôi tưởng như tôi đang khóc khi chờ trực thăng tải thương vào những lúc Minh và thuộc cấp của Minh bị thương trên những dòng sông oan nghiệt; hoặc khi tôi thấy thân người không toàn vẹn – trong quân phục Bộ Binh – của những quân nhân đã hy sinh trong rừng tràm hoặc rừng dừa nước mịt mùng, được khiêng ra chiến đỉnh, đem về hậu cứ để thông báo cho gia đình!

    Tôi cứ đứng lặng cho nước mắt tuôn rơi/cho tâm hồn chùng xuống để cùng gánh chịu nỗi đau của thế hệ hôm nay!

    Bất chợt Minh ngẩng lên. Thấy tôi, Minh cố nén xúc động, trao tôi cái nón lưỡi trai – có cặp “ga-lông” bên trong – giọng hơi nghèn nghẹn, bảo:

    -Cất đi!

    Chưa bớt xúc động, tôi lại nghe từ đài chỉ huy:

    -Tất cả sẵn sàng làm lễ hạ Quốc Kỳ, treo cờ Mỹ lên!

    Không biết ai bắt đầu bài Quốc Ca nhưng mọi người cùng ca. Ca thật lớn cho vơi nỗi nghẹn ngào! Nước mắt đầm đìa khóc cho nỗi nhục chung!

    Khi lá cờ được xếp lại, tôi liên tưởng đến những hàng cờ thẳng tắp, phủ ngay ngắn trên những dãy quan tài ở Nghĩa Trang Quân Đội! Và tôi tưởng như tôi thấy lại hình ảnh của những thiếu phụ – gồm cả vợ cố Thiếu úy Biệt Động Quân Hồ Trung, em ruột của Minh – đã vật vã khổ đau, úp mặt vào lá cờ như cố giữ lấy sự thiêng liêng khôn cùng!

    Qua màn lệ mờ, tôi thấy quân cảng Subic Bay sừng sững với nhiều chiến hạm và hàng không mẫu hạm. Nhìn ra xa, chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ còn lãng vãng. Không xa lắm là mấy chiến hạm của một quân chủng vừa mất bến Mẹ!

    Hoàng hôn xuống chầm chậm. Cảnh sắc hùng vĩ/bi thương như trong phim xi-nê chiến tranh. Có khác chăng, đây là một phim sống thực của một soạn giả vô nhân và một đạo diễn không tình người!






    Bốn mươi sáu năm đã qua, cảnh sắc hùng vĩ/bi thương năm xưa tưởng đã nhạt nhòa trong hồn tôi; nhưng, không ngờ, mỗi lần thấy màu xanh tím của rừng hoa Bluebonnets là mỗi lần hồn tôi nhói đau vì những kỷ niệm xưa lại hiện về! Bốn mươi sáu năm tuy dài, nhưng mối tình cảm thiêng liêng trong lòng tôi vẫn ngập tràn để dâng đầy mi, nghẹn tiếng nấc mỗi khi nghe bài Tiếng Gọi Thanh Niên; nghe tiếng Accordéon hoặc khi đưa tay tuyên thệ trung thành với giải đất đã nhận tôi là người tị nạn chính trị.

    Vâng, tôi là công dân Mỹ họ Nguyễn. Tôi xin thề trung thành với vùng đất giàu sang này. Nhưng, vào một ngày đầy uất hận – 30 tháng Tư năm 1975 – tôi đã để lại trái tim của tôi nơi Quê Mẹ đau thương, bên kia trời Châu Á!




    Điệp Mỹ Linh
    https://www.diepmylinh.com/


    https://hoangsaparacels.blogspot.com/20 ... -linh.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Việt Cộng, Việt Cộng

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • Việt Cộng, Việt Cộng
    ___________________________
    Lê Dinh





    Hai tiếng này, tôi không hiểu sao, cho đến ngày nay, nó trở thành hai tiếng xấu xa, kinh tởm nhất trong số những danh từ để ám chỉ những hạng người mà ai ai cũng oán ghét, hận thù và muốn xa lánh. Nhưng hai tiếng Việt Cộng nguyên thủy đâu có gì là xấu xa, nó chỉ là một danh từ ghép thường thôi, như rừng núi, biển khơi, đồng áng… nhưng theo thời gian biến đổi, nó trở thành một danh từ ghê tởm và rùng rợn lúc nào chúng ta không hay.

    Nếu ai chỉ một tên nào đó mà nói “Mày là thằng Việt Cộng” thì có nghĩa người đó là một người xấu xa nhất trong xã hội hiện nay. Chẳng thà chửi cha người ta, người ta không giận bằng chửi “Mày là thằng Việt Cộng”. Như vậy đủ biết hai chữ Việt Cộng bị người đời thù ghét như thế nào rồi. Mà nghĩ cũng đúng thôi.




    Nhớ lúc tôi còn nhỏ, năm tôi 11 tuổi, còn học ở trường Tiểu Học Vĩnh Lợi, cách làng Vĩnh Hựu của tôi chừng ba cây số. Mỗi sáng thứ hai đầu tuần, mẹ tôi phải đưa tôi đến trường và tôi lưu trú tại nhà dì tôi cho đến cuối tuần mới trở về Vĩnh Hựu. Một buổi sáng thứ hai đầu tuần, cũng như mọi khi, mẹ tôi xếp đâu 2 chục trứng gà vào một cái giỏ để khi đưa tôi đến trường xong là mẹ tôi ra chợ bán 2 chục trứng gà đó, lấy tiền mua các thức ăn khô khác. Hai mẹ con đang đi, độ còn nửa đường là tới làng Vĩnh Lợi, thình lình trong một bụi cây rậm rạp, có một người mặc đồ đen, tay cầm khẩu súng ngắn sáng loáng, nhảy ra chận mẹ con tôi lại, quát to:
    • Đứng lại!
    Anh ta đưa họng súng ngay truớc trán mẹ tôi, rồi đưa sang qua tôi, quơ qua quơ lại trên đầu tôi, hỏi mẹ con tôi có phải đem trứng ra chợ để bán cho Tây không? (lúc đó, ở tại chợ Vĩnh Lợi, ngay phía bên kia đầu cầu sắt, có một cái đồn của người Pháp đóng tại đó). Mẹ tôi run run nói:
    • – Dạ thưa ông, đâu phải, tôi đem trứng này ra chợ bán để lấy tiền mua thức ăn.
      – Chứ không phải mẹ con bà đem lương thực cung cấp cho Tây sao?
      – Dạ thưa ông, đâu có phải như vậy.
      – Thôi lần này tôi tha cho mẹ con bà đó, nhưng giỏ trứng thì bị ủy ban tịch thu. Nhớ lần sau, còn gặp mẹ con bà đem trứng ra chợ như vậy nữa là tôi sẽ bắn bỏ.
      – Dạ mẹ con tôi đội ơn ông.

    Thật hú hồn hú vía. Lần đầu tiên trong đời, tôi mới nhìn thấy khẩu súng lục. Sao nó uy dũng, hiên ngang, trông rất dễ sợ. Và cũng lần đầu tiên trong đời tôi mới biết đó là những kẻ gọi là Việt Minh, những người mặc đồ đen, đầu quấn khăn rằn, rồi sau này trở thành Việt Cộng và hai chữ Việt Cộng đã ám ảnh tôi từ suốt thời bé thơ cho đến khi khôn lớn.

    Nếu không có lần bị đón đường, bị đe dọa bắn bỏ hôm đó, tôi đã trở thành một tên Việt Minh từ thời trẻ dại này rồi. Tôi còn nhớ rất rõ, ở tuổi 11, 12, tôi say mê những bài hát êm đềm, như:
    • “Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
      Bên đèo lắng suối reo, ngàn thông reo
      Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
      Bên đèo đoàn quân réo, đạn bay vèo…”

    Hay hùng dũng, như:
    • “Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến…”

    Hoặc:
    • “Đoàn giải phóng quân một lòng ra đi
      Nào có sá chi đâu ngày trở về…”

    Và còn nữa:
    • “Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng
      Kiếm nguồn tươi sáng…”

    Hay là những bài thơ mà giờ đây hơn 60 năm qua, tôi vẫn còn nguyên trong trí nhớ:
    • “Tôi muốn tôi là một cứu thương
      Cạnh theo chiến sĩ đến sa trường
      Nằm lăn trên lá hay rơm ủ
      Băng trắng đầu mình những vết thương”

    Thật là lãng mạn, thật là dễ thương. Làm sao mà tôi không bị quyến rũ bởi nét nhạc, lời thơ như vậy được. Cho nên tôi có ý nghĩ là mình sẽ phải theo mấy anh lớn để được vào bưng, được nghe tiếng suối reo, ngàn thông reo, được nằm lăn trên lá hay rơm ủ, được nữ y tá săn sóc vết thương… Rồi một ngày nọ, tôi được theo đoàn biểu tình đi bộ từ làng Vĩnh Hựu của tôi lên tới tỉnh Gò Công, cách xa làng tôi 14 cây số, để gọi là… ủng hộ Việt Minh. Thức dậy từ 3 giờ khuya, chuẩn bị cơm vắt muối mè, tập hợp lại rồi tháp tùng đoàn người, đi theo nhịp trống quân hành “rập rập thùng, rập rập thùng”… lội bộ suốt 14 cây số, nhờ vừa đi vừa hát
    • “Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng”
    , cho nên thằng con nít 11 tuổi như tôi, khi đến nơi, nào có thấy chút mệt mỏi gì đâu? Nhưng sau lần gặp gã Việt Minh với khẩu súng giết người đó, tôi đã bừng tỉnh giấc mơ bỏ học, trốn cha mẹ để ra bưng biền.

    Việt Cộng! Chỉ hai tiếng thôi, nhưng sao thiên hạ hoảng hốt, kinh hoàng khi nghe đến nó.
    • Năm 1954, gần một triệu đồng bào miền Bắc, cũng vì hai tiếng này mà phải bỏ hết của cải, quê hương, làng xóm, mồ mả ông bà để chạy vào miền Nam xa lắc xa lơ, trốn khỏi bè lũ Việt Cộng.
    • Năm 1975 cũng vậy, vì hai tiếng này mà hơn hai triệu người dân miền Nam phải liều chết, bằng đủ mọi cách để lánh xa loài quỷ dữ.
    • Ở thôn quê miền Nam, khi nghe mấy tiếng “Việt Cộng về” hay “Mấy ổng về” là bà con gồng gánh, già trẻ, bé lớn chạy trối chết về phía thành phố để trốn khỏi bọn Việt Cộng. Rồi nào Việt Cộng pháo kích vào thành phố, vào quận lỵ giết hại dân lành, giết hại trẻ thơ nơi trường học. Việt Cộng đào lộ, đấp mô, đặt mìn, phá cầu…
    • Còn Việt Cộng ngày nay thì ngoài tham nhũng còn tội bán nước, buôn dân, bàn tay chúng phạm trăm ngàn thứ tội ác. Việt Cộng ngày nay bán rừng, bán biển, bán giang sơn cha ông cho Tàu, Việt Cộng ngày nay độc ác, tàn nhẫn với dân chúng, nhưng co ro, cúm rúm trước thằng Tàu như sợ ông nội, ông cố của chúng, bắt dân bỏ tù nếu dân đứng lên yêu nước chống lại lũ Hán xâm lăng.

    Rồi tôi miên man suy gẫm, không biết những tên như Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng nghĩ sao – nhưng không biết những tên này có biết suy nghĩ không – chúng có thấy rằng sao mình đi đến đâu, thiên hạ bỏ chạy hết vậy? Mình giành được phân nửa xứ sở miền Bắc, đáng lẽ dân chúng phải ở lại với mình để kiến thiết xứ sở chứ, sao gần cả triệu người lại bỏ chạy vào Nam. Rồi mình cướp được luôn phân nửa miền Nam còn lại, thiên hạ lại ùn ùn bỏ chạy nữa, cả hơn hai triệu người xa lánh mình. Tại sao và tại sao? Chúng không tự đặt câu hỏi đó với chính chúng sao? Mình đi đến đâu thì người ta chạy trối chết khỏi nơi đó. Mình là thứ gì vậy? Nhìn hình ảnh cuộc di cư năm 1954, trên những chiếc tàu há mồm, nhìn những gương mặt hớt hơ hớt hãi, mất hồn, chạy đôn chạy đáo để rời khỏi Sài Gòn tháng Tư năm 1975, rồi nhìn những cảnh liều chết vượt biển lên đến cao điểm, từ năm 1975- 1980, nếu chúng là người, chúng phải suy nghĩ chứ? Mình cũng là người như họ, đầu, mắt tay chân cũng đầy đủ như họ, tại sao họ sợ mình mà chạy hết như thế? Mình có phải là quỷ dữ hay ác thú gì đâu?

    Nhưng tôi nghĩ, Việt Cộng còn đáng sợ hơn là quỷ dữ nữa. Nhìn lại, từ cái thời bé thơ, thuở mà mẹ con tôi đem hai chục trứng gà ra chợ bán để có tiền mua thức ăn cho gia đình, đến ngày nay, đã hơn 60 năm trôi qua, tôi vẫn cảm thấy rùng mình, ghê sợ.
    • Từ những việc bắt người cho mò tôm, thả xác trôi sông thuở đó,
      cho đến những vụ lường gạt, gian dối cướp giật của Việt Cộng ngày nay,
    nhìn sự dã man tàn ác của Việt Cộng đối với người dân cùng chung máu mủ … thật không thể nào tưởng tượng nổi. Quỷ chỉ nhát, chỉ hù người ta thôi, chứ không hại người ta, mà nếu quỷ có hại thì chỉ hại một người thôi. Còn
    • Việt Cộng hại cả một dân tộc, tiệu diệt tất cả, đất đai, sông biển, núi rừng không còn,
    nhưng đó là nói về mặt những gì còn nhìn thấy được. Còn về mặt không nhìn thấy được thì là
    • Việt Cộng tàn phá cả đạo đức, dung dưỡng tội ác, giết chết sự trong trắng trong lòng trẻ thơ, đưa nhiều thế hệ con em chúng ta vào vòng tối ám, dạy chúng dối trá, dạy chúng tội ác…

    Nhưng như vậy cũng chưa đủ. Những nguời đã quá sợ chúng mà bỏ xứ ra đi, để xứ cho chúng ở cũng chưa được yên thân. Chúng còn cho tay chân bộ hạ, núp bóng dưới danh nghĩa này, danh nghĩa nọ, chạy theo ra ngoại quốc để quyết hành hạ những người tị nạn Cộng Sản này cho đủ… 36 kiểu của chúng. Thật trời không dung, đất không tha. Ngày xưa, chúng đã chiếm được phân nửa nước Việt Nam, tưởng đâu rằng chúng cùng miền Nam thi đua làm cho dân giàu nước mạnh, nhưng như chúng ta đã biết, Việt Cộng cho đến 1975, còn chưa thấy cái thang máy “biết tàng hình” là gì, chưa được nhìn chiếc đồng hồ “12 trụ, 2 cửa sổ, không người lái” là gì, không hiểu cái bồn cầu “để rửa rau” hay để làm gì, trong khi miền Nam lúc đó đã là một trong những quốc gia tân tiến ở Đông Nam Á châu. Rồi lòng tham vô đáy, thực hành Chủ Nghĩa Cộng Sản toàn cầu của chúng, chúng cướp luôn miền Nam. Thiên hạ lại bỏ chạy, chúng rượt theo ra đến ngoại quốc để áp dụng… 36 kiểu lên đầu lên cổ người đã sợ chúng mà bỏ chạy 36 năm trước.

    Nếu tôi có làm anh muôn vàn bực tức, xin anh cứ chửi tôi là thằng mất dạy, thằng láu cá, thằng bỉ ổi, thằng đê tiện, thằng vô học, thằng… thằng gì cũng được, hay bảo tôi là thằng không cha không mẹ, hay là thằng do… con gì sanh ra cũng được nốt, nhưng xin đừng bảo tôi là Việt Cộng. Mày là thằng “Việt Cộng”, hai tiếng này nặng lắm, anh biết không? Nói như thế là anh chửi tôi đấy, mà chửi tôi thật nặng, đó là tiếng chửi ghê gớm nhất, đáng sợ nhất trong những tiếng chửi đương thời. Vì hai tiếng này đồng nghĩa với
    • ác nhân, hung đảng,
      ác quỷ, ác tinh,
      man di, mọi rợ,
      lưu manh, gian xảo,
      côn đồ, thảo khấu…,
      loại quỷ quái tinh ma, nghĩa là bọn trời đánh thánh đâm, trời tru đất diệt.






    Nhạc sĩ Lê Dinh


    https://www.tvvn.org/viet-cong-viet-cong-le-dinh/
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Những vành khăn tang đầu tiên, khóc cho ngày Quốc Hận 30/4 tại hải ngoại

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • Những vành khăn tang đầu tiên,
    khóc cho ngày Quốc Hận 30/4 tại hải ngoại

    ___________________________
    Hàn Giang Trần Lệ Tuyền



              

              


    Gọi những vành khăn tang đầu tiên, khóc cho ngày Quốc Hận 30/4, tại hải ngoại, dù những vành khăn tang ấy, đã xuất hiện cùng với lá Cờ vàng ba Sọc Đỏ trong cuộc tuần hành của các sinh viên tại kinh đô ánh sáng Paris; bởi vì vào thời điểm đó, dẫu rằng ở nhiều quốc gia trên thế giới đều có những sinh viên đang theo học ở các trường đại học, nhưng những sinh viên này đã không có những hành động để biểu lộ những tấm lòng đối với các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa cũng như đồng bào; nhưng trên hết, là đối với nước Việt Nam Cộng Hòa đang bị đảng cộng sản Hà Nội, là đảng cầm quyền của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã bất chấp Hiệp định Paris, 1973, về Việt Nam, xua quân cưỡng chiếm đất nước Việt Nam Cộng Hòa trước sự dửng dưng, quay mặt làm ngơ của cả thế giới; đặc biệt là những nước đã từng đặt bút để ký vào Hiệp định này.

    Ba mươi bảy năm dài đã trôi qua rồi, nhưng chẳng hiểu tại sao giờ đây vẫn còn một số người vẫn mộng du, hoang tưởng, để rồi vẫn cứ tin và nghĩ đến chuyện cầu xin các ông tổng thống của các cường quốc để mong các "ngài" sẽ giúp người dân Việt về những điều mình mong ước.

    Chúng ta, những người Việt Nam có tâm thành với đất nước, chắc đã thấy những hình ảnh của nạn nhân đã bị công an Việt Nam cộng sản hành hạ, đánh đập cho đến chết với những xác thân đầy những thương tích bằng dao đâm, điện giật, dùi cui, gậy gộc... đến kinh hoàng, mà chẳng hề có một cường quốc nào thèm ngó tới. Ngay cả những hình ảnh của những ngọn lửa bùng lên trên thân xác của những người trẻ tuổi ở Tây Tạng, họ đã tự đốt cháy thân mình để đòi độc lập, tự do cho Tây Tạng, và mỗi ngày những cuộc tự thiêu thật sự đều tăng lên. Đó là những cuộc đấu tranh, và sự đòi hỏi vô cùng chính đáng của người dân Tây Tạng, nhưng có ông tổng thống nào thèm nói tới hay không? Phải nói thật nhiều như thế, để hiểu rằng sinh mạng của người Tây Tạng không bao giờ được các cường quốc xem trọng bằng quyền lợi của họ.

    Ngày xưa, khi Đức Đạt Lai Lạt Ma phải băng mình chạy trốn khỏi nước, để tỵ nạn, thì các cường quốc cũng đã làm ngơ, bỏ mặc cho Tây Tạng rơi vào tay của Tầu cộng. NHƯNG, trong lúc Trời sầu đất thảm ấy, chỉ có duy nhất một người đã lên tiếng ủng hộ người dân Tây Tạng; đó là cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, song chẳng những về mặt tinnh thần, mà còn đem hết số tiền 10.000 đô la, của Giải thưởng Leadership Magasaysay để gửi giúp cho Đức Đạt Lai Lạt Ma, là vị lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng.


    Phải nói,
    để hiểu hết về lòng "nhân đạo" của các cường quốc. Để thấy, ngày xưa, khi Thượng tọa Thích Quảng Đức bị đồng đạo đem ra đốt chết, thì các cường quốc, đặc biệt là "đồng minh Hoa Kỳ" đã hết lòng thổi cuộc đốt người này lên tới "thượng đỉnh" để giết chết nền đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, và còn chi ra những đồng tiền máu cho bọn đâm thuê chém mướn, và chúng đã vì những đồng tiền này, mà mất hết lương tri, trở thành những tên đồ tể, giết chết cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm là vị Tổng Tư Lênh đầu tiên của quân đội Việt Nam Cộng Hòa; và đó, là phát súng đầu tiên đã báo hiệu cho sự sụp đổ hoàn toàn, đi đến mất nước Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30/4/1975, cho đến hôm nay đã là ba mươi bảy năm, và không ai có thể biết chắc sẽ còn bao lâu nữa?!


    Phải nói,
    để biết rằng, suốt 37 năm qua, tại sao những cuộc đấu tranh, những cái chết vô cùng đau đớn của đồng bào Việt Nam tại quốc nội, nhưng các cường quốc vẫn cứ nhắm mắt làm ngơ như không hề hay biết, hoặc chỉ nói qua cho có, cho lấy lệ, trong khi chế độ cộng sản đã cai trị đất nước tới 37 năm, còn cả hai nền Đệ nhất và Đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa thì chưa đầy hai mươi năm ?!


    Phải nói,
    để chúng ta tự hỏi rằng, có phải vì chúng ta, những người Việt Nam yêu nước chân chính, đã không thể kết hợp lại với nhau thành một đại khối dân tộc vững mạnh, để cùng nói lên tiếng nói chung, cùng đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Dân Tộc lên hàng tối thượng, hầu có những hành động thực tiễn cho đại cuộc cứu dân, cứu nước ra khỏi bàn tay hung tàn của Tầu cộng đang chiếm cứ trên đất nước Việt Nam.


    Phải nói,
    để hiểu rằng, nước Việt Nam Cộng Hòa dù đã bị một số người cố tình lãng quên, nhưng không hề bị biến mất khi lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn còn phất phới tung bay ở khắp năm châu bốn bể, những nơi nào có người Việt Nam tỵ nạn cộng sản, ở nơi ấy đều có lá Cờ Vàng, mà không một quốc gia nào trên thế giới ngăn cấm người Việt tỵ nạn cộng sản treo cờ Vàng, cũng như không hề cấm cộng đồng người Việt biểu tình vào ngày Quốc Hận 30/4 với những rừng cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Đó là những điều đã chứng tỏ cho mọi người thấy rằng, không một quốc gia nào trên thế giới có thể đơn phương xé bỏ Hiệp định Paris, 1973, về Việt Nam.


    Và phải nói,
    để biết rằng những quốc gia đã ký vào Hiệp định Paris, 1973, về Việt Nam, theo như những điều khoản đã quy định không phủ nhận tất cả những điều khoản đã ghi trong bản Hiệp định Genève, 20/7/1954; đồng thời cũng chưa hề lên tiếng phủ nhận hiệp định này. Chính vì thế, cho nên trước Công pháp Quốc Tế, nước Việt Nam Cộng Hòa, gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn không hề bị khai tử. Và vì những lẽ đó, cho nên tất cả những người Việt Nam yêu nước chân chính cần phải ngồi lại với nhau, để tìm cho ra những kế sách, để đòi lại đất nước Việt Nam Cộng Hòa, để có đủ tư cách pháp lý trước Công pháp Quốc tế, hầu đòi lại cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.






    Pháp quốc, 15/4/2012
    Hàn Giang Trần Lệ Tuyền


    https://hon-viet.co.uk/HanGiangTranLeTu ... iNgoai.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Những vần thơ Tưởng Niệm ngày Quốc Hận 30/4/1975

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • Những vần thơ
    Tưởng Niệm ngày Quốc Hận
    30/4/1975

    ___________________________
    Nam Dao




              
    Ngày Quốc Hận năm nay như năm trước,
    Vẫn là ngày Quốc Hận của năm sau!
    Nếu mọi người còn chung một niềm đau,
    Còn quay quắt ôm nỗi sầu vong quốc.

    Vĩnh Liêm (Quốc Hận 2003)

              

    Bốn câu thơ trên của nhà thơ Vĩnh Liêm sáng tác vào dịp tưởng niệm 28 năm Quốc Hận (30/4/2003), không phải chỉ là tâm sự của riêng cá nhân tác giả mà nó phản ảnh tâm tư của người dân miền Nam nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói chung. Niềm đau chung nỗi sầu vong quốc đã được ghi lại bằng những vần thơ, câu văn hay dòng nhạc. Đối với nhà thơ Lê Chân, tác giả của “Bài thơ Tháng Tư Đen”, 30/4 là ngày đoạn trường, ngày phủ màu tang trắng trên quê hương dân tộc:
              
    Anh ơi ! Tháng Tư đen
    Ngày ba mươi đoạn trường !
    Anh nuốt hờn tủi nhục,
    Em suối lệ trào tuôn.
    Anh ơi ! Tháng Tư đen
    Tháng Tư cơn Quốc nạn
    Trời đất cùng kinh hoàng,
    Tháng tư phủ mầu tang.
    “Tháng Tư đen không chỉ là buông súng,
    Ngày toàn dân phải trả gía”hòa bình” .
    Bằng tủi nhục bằng ngàn năm tăm tối,
    Bằng đọa đày cả thế hệ tương lai .”
    Tháng Tư ôi ! Nhục hình
    Ngập trời cảnh điêu linh.
    Khóc thương bao Anh Hùng,
    Vì Tổ Quốc hy sinh.

              

    Hay nỗi đau uất hận của nhà thơ Dương Thượng Trúc được gói ghém trong bài thơ Tháng Tư Tổ Quốc Phủ Màu Tang
              
    Tháng tư Tổ Quốc phủ màu tang.
    Dân tộc đau thương oán hận tràn.
    Tủi phận nam nhi đời lữ thứ.
    Hướng về quê mẹ lệ chứa chan…

              

    Không phải chỉ riêng có Dương Thượng Trúc tác giả của bốn câu thơ trên mang nỗi sầu biệt xứ mà còn có Vĩnh Liêm và rất nhiều nhà thơ khác cũng đã nói lên dùm tâm trạng của hơn ba triệu thuyền nhân tỵ nạn CSVN nơi xứ người :
              
    Vẫn là chuyện tháng Tư buồn thảm ấy,
    Thế mà sao tôi vẫn nhớ thân thương!
    Vì tháng Tư nên tôi phải ly hương,
    Nơi đất khách ôm nỗi sầu biệt xứ.

    Chuyện bi thảm của Miền Nam bức tử,
    Là chuyện buồn của lịch sử sang trang.
    Là niềm đau uất hận đã dâng tràn,
    Là ly cách muôn đời dòng sữa Mẹ.

    Vĩnh Liêm (Vẫn chuyện tháng tư)

              

    Chuyện buồn của lịch sử sang trang cũng đã được nữ sĩ Ngô Minh Hằng ghi chép lại khá đầy đủ qua bài thơ “Hỡi ai thương nhớ quê hương”:
              
    Hỡi ai thương nhớ quê hương
    Xin nghe tôi kể chuyện buồn tháng Tư
    Tháng Tư, trời đất mây mù
    Lệnh hàng, buông súng, thiên thu còn buồn!
    Nghẹn ngào, nhục tủi, đau thương
    Oan khiên máu đỏ ngập đường lui quân
    Thân người đổ xuống theo thân
    Không làn đất phủ, không lần tiễn đưa !
    Xác người bón gốc rừng thưa
    Nước tôi có một Tháng Tư kinh hoàng !
    Tháng Tư nghe lệnh đầu hàng
    Bao người thương lá cờ vàng, quyên sinh!
    Nước nguy, vị nước, quên mình
    Mất thành, anh dũng cùng thành, chết theo!
    Tháng Tư khói lửa ngặt nghèo
    Vô danh quốc sử bao nhiêu anh hùng!
    Tháng Tư vợ trẻ khóc chồng
    Mẹ già chan chứa giọt hồng khóc con
    Tháng Tư đại bác nổ giòn
    Trẻ thơ chết thảm dưới cơn đạn thù
    Tháng Tư rộng cửa lao tù
    Nước tôi từ đấy đau nhừ nỗi đau
    Núi rừng người nối chân nhau
    Kiếp tù lạ nhất địa cầu, thảm chưa !
    Trong tù, tù chết như mơ
    Ngoài tù, dân chết bên bờ biển đông
    Biển xanh pha đỏ máu hồng
    Rừng xanh lệ đỏ từng dòng mồ hôi !
    Tháng Tư ai biến nước tôi
    Thành lò hỏa ngục thiêu người tang thương!

              

    Đất nước VN đã được thống nhất 36 năm. Thời gian cũng khá đủ dài để xây dựng lại quê hương sau chinh chiến điêu linh và đem lại cơm no áo ấm hạnh phúc cho muôn dân. Nhưng điều gì đã khiến cho hơn ba triệu người Việt tỵ nạn CS ở hải ngoại ưu tư trăn trở phải chọn lựa ôm mối sầu biệt xứ cách ly muôn đời dòng sữa Mẹ VN. Bài thơ ‘Quốc hận 30 tháng 4 cuả Sao Linh được Đỗ Quân phổ nhạc cũng là một trong những câu trả lời cho câu hỏi tại sao những người mang căn cước tỵ nạn chính trị CSVN vẫn chưa trở về quê cha đất tổ:
              
    Anh hỏi em sao không về thăm mẹ
    Ngày lìa đời mẹ nhắm mắt không yên
    Vắng bóng em nên mẹ chết ưu phiền
    Vầng tang trắng thiếu đứa con gái út
    Em hỏi anh vì sao em bỏ nước?
    Tại vì sao mẫu tử phải chia lìa
    Tại vì sao chồng vợ phải phân chia
    Ngàn người chết biển đông trong rừng thẳm
    Em hỏi anh hơn ba mươi năm lẻ
    Quê hương mình dân chúng vẫn điêu linh
    Độc lập tự do sao dân không cơm áo
    Hiếp đáp người, đàn áp bắt dân oan
    Nào Biển Đông Nam Quan, Bản Giốc
    Sao cắt dâng Tàu cuí mặt khom lưng
    Cô gái thanh xuân nước mắt rưng rưng
    Vì manh aó bán thân lìa cha mẹ
    Trẻ thất học lang thang trên đường phố
    Kiếm mưu sinh trong đống rác vĩa hè
    Nguời dân oan mất nhà và mất đất
    Nguời nông dân cày ruộng thiếu cơm ăn
    Tuy xa quê nhưng lòng luôn khắc khoải
    Vui sướng gì khi đất nước lầm than
    30 tháng 4 anh ơi còn nhớ
    Ngày đau buồn cả nước quấn khăn tang
    Ba mươi tháng tư Việt Nam ngày Quốc hận
    Ngày kinh hoàng rúng động cả năm châu
    Giặc cộng xâm lăng bao nguời dân đã chết
    Vì tự do ta làm thân viễn xứ
    Em sẽ về khi quê hương bừng sáng
    Ngày tự do dân chủ sẽ không xa
    Tuổi trẻ Việt Nam kiên gan bất khuất
    Sẽ dựng lại một mùa xuân nhiệm mầu

              

    Nỗi lòng đồng bào hải ngoại nghĩ về Ngày Quốc Hận 30/4 đau xót như thế ấy. Thế còn đồng bào quốc nội nghĩ gì về ngày 30/4. Bài thơ dưới đây của một công dân mới 2 tuổi đời vào năm 1975 nay đã nghĩ gì trong mùa tưởng niệm 36 năm quốc hận 30/4
              
    Tháng tư con hai tuổi
    Ba bồng con đứng nép bên đường
    Xích xe tăng rào rạo nghênh ngang
    Con bật khóc ngực ba đau nhói

    Tháng tư với mặt trời mọc ngược
    Đêm thành ngày trắng bỗng thành đen
    Gió không thổi người đi như chạy
    Hầm hố nào thành luỹ tan hoang

    Giờ cũng tháng tư
    Con gần bốn mươi tuổi
    Xích xe tăng vẫn nghiến mặt đường
    Nghe rào rạo trong đêm tăm tối
    Đường tự do nối mọi trái tim

    Bị chặt khúc đào lên lấp xuống
    Đường dân chủ vun vút dùi cui
    Nòng súng nhắm vào từng khuôn ngực
    Chúng muốn ta đi bằng đầu gối
    Rụng hết tay chân biến thành lươn
    Chúng muốn biến ta thành đinh ốc
    Trong cỗ xe bọc thép tối om
    Chúng muốn ta sống đời thực vật
    Không biết đau la hét nói cười
    Chỉ mở mắt nằm như cá chết
    Trong nhà mồ lạnh lẽo trống không

    Tháng tư trở lại làm cai ngục
    Thay xích xiềng ổ khoá xà lim
    Thay óc não buồng tim lá phổi
    Thay con người thành lũ cừu non
    Tháng tư đen tháng tư quỷ ám
    Cả một bầy vượn cáo nhố nhăng
    Kìa lũ sói đến từ phương bắc
    Hú trên ngàn rớt rụng vầng trăng
    Tháng tư đó làm đời con ngạt thở
    Ba mươi sáu lần ba mươi sáu sợi dây
    Mỗi lần đến lại siết thêm một chút
    Ba già rồi ai cởi trói cho con!

    Khuất Đẩu (Tháng tư đen)

              

    Ngoài những vần thơ uất hận, những câu thơ châm biếm miả mai cuả ngòi bút Bút Trẻ trong bài thơ “Tháng tư đen” là những cái bạt tai ô nhục ngàn đời không rửa sạch dành cho những kẻ bán nước buôn dân:
              
    Tháng tư đen như mực… Tầu
    vấy lên cả nước… một mầu tang chung

    Tháng tư đen như mặt… Hồ
    Dân Ta ngồi…rửa nỗi nhơ ngàn đời

    Tháng tư đen như…Bô Xi ( xít )
    bưng Bô cho Hán tặc…Xi đầy nhà

    Tháng tư đen như…đảng tà
    đỉnh cao ngu tối, chuyên… “chà đồ Nhôm”

    Tháng tư đen, xã hội đen
    bạo quyền…cướp trắng , dân hèn… trắng tay

              

    Dẫu rằng đất nước đang chìm trong đen tối trước nạn Hán hóa, nhưng 4000 năm lịch sử hào hùng của tổ tiên đã đem lại cho ngòi Bút Trẻ niềm tin:
              
    Tháng tư đen , Đuốc Tiền Nhân
    Bất Tuân Dân Sự!… toàn dân lên đường
    Tháng tư đen, Sử vẫn Xanh
    Anh Hùng Hào Kiệt !… quyết giành Giang Sơn

              

    Riêng đối với nhà thơ Lê Chân dù mang tâm trạng u uẩn khóc đời lưu vong:
              
    Ba mươi sáu năm qua,
    Tháng Tư đau từng giờ .
    Tháng Tư trong hơi thở,
    Tháng Tư gợi hồn thơ .
    Vần thơ ôm uất hận,
    Ta khóc đời lưu vong .
    Anh hùng há thua được,
    Khí tiết còn Non Sông .

              

    Tiết khí còn non sông còn, nhà thơ Lê Chân đã biến những đau thương thành xúc tác lên đường vang lời thề rửa nhục giang sơn.
              
    Hãy biến những đau thương,
    Thành hành động kiên cường .
    Hãy cất cao tiếng nói,
    Vì tương lai xuống đường .

    Tổ quốc Việt Nam ta
    Hãy trả lại cho ta !
    Vạn tấm lòng tha thiết,
    Thề cứu lấy Quốc gia .

    Anh ơi ! Tháng Tư đen
    Hãy ngẩng cao cuộc đời .
    Lịch sử đang gọi mời ,
    Lịch sử chính tay người .

    Hãy viết lên anh ơi,
    Hoa Lài trang sử mới .
    Hãy thét lên anh ơi ,
    Hoa Lài réo hồn tôi .

    Anh ơi ! Nước non dơ
    Ta lấy gì rửa sạch ?
    Cơn cuồng phong cách mạng ,
    Ta rửa nhục giang san .

    Máu Trung Tá Long đã thấm xuống lòng đất

    Anh ơi ! Ngày tang chung
    Thúc giục hồn Anh hùng
    Anh Hùng nơi lòng đất
    Khí phách còn Núi Sông
    (bài thơ tháng tư đen)

              

    Và dĩ nhiên lịch sử VN sẽ lật sang trang mới huy hoàng và tươi sáng vì ngọn lửa Diên Hồng đang bùng cháy trong lòng dân tộc VN
              
    Đây quê hương bao năm dài tăm tối
    Tủi nhục ơi ! Tang tóc đến ngất trời
    Dậy ! Dậy ! Đi cách mạng khắp nơi nơi
    Hoa Lài kia là chân lý cuộc đời

    Giờ thái thú tham tàn đang thống trị,
    Cam tâm cúi đầu bán nước cầu vinh .
    Chúng hèn với giặc, ác với dân mình,
    Hào kiệt ơi ! Sao anh nỡ làm thinh ?

    Hỡi những trái tim thao thức Việt Nam,
    Hỡi những trái tim khắc sâu lời nguyền .
    Hỡi những trái tim kêu gào khẩn thiết,
    Hỡi những trái tim chưa lần ngủ yên .

    Không ! Ta không van xin bạo quyền .
    Không ! Ta vươn vai phá tan xích xiềng

    Không ! Ta biến mình thành ánh đuốc
    Không ! Ta thề cứu lấy Non Sông

    Lê Chân (Hào kiệt đâu ??)

              

    Lịch sử hào hùng của giòng giống tiên rồng rồi cũng sẽ được lập lại. Sẽ có một ngày màu tang quốc Hận 30/4 sẽ đi vào dĩ vãng khi mặt trời tự do dân chủ và tình người chan hoà khắp nẻo đường đất nước Việt Nam. Ngày ấy tất phải đến. Không một bạo lực nào có thể cản ngăn được bánh xe lịch sử đang chuyển mình theo khát vọng của toàn dân.





    Nam Dao
    (Adelaide _ 30/4/2011)


    https://thanhthuy.me/2020/05/22/nhung-v ... 30-4-1975/
Ngoc Han
Bài viết: 1577
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: - 30/04/2021 - tưởng niệm 46 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Ngoc Han »

Đau Đáu 30 Tháng Tư

Vá cờ không khâu được lòng tôi
Những tháng Tư chết đứng lâu rồi
Khói hương bay chiêu hồn Tử Sĩ
Đời tha phương tóc đã phai phôi

Ngày đưa tang Việt Nam Cộng Hoà
Sài Gòn biến thành bãi tha ma
Chôn sống văn minh vào rừng rú
Vượn cổ sơ chiếm hết cửa nhà

Ba Mươi Quốc Hận tháng Tư đen
Người khôn bị đọa bởi quân hèn
Cả nước thiếu ăn nghèo kiệt xác
Mất cả rồi di sản tiền nhân

Liều thân ra biển hay xuyên rừng
Được Tự Do dù mất quê hương
Tìm nguồn sống trong muôn nỗi chết
Tái tạo đời từ đôi tay không!

Hận phường bán nước để cầu vinh
Hiếp dân sợ giặc rất vô tình
Văn hoá suy đồi toàn duy lợi
Tinh thần dân tộc chỉ vì mình

Trả lại cho dân tên Sài Gòn
Tự Do Dân Chủ tấm lòng son
Biển Đông cột mốc Nam Quan Ải
Nam Quốc Sơn Hà của Tiên Long.

Phạm Tương Như
26/04/2021
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: tạp ghi sau 40 năm (kỳ 16)

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • tạp ghi sau 40 năm
              
    (kỳ 16)

    ___________________________
    phi ngọc hùng _ 2015





    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    "Lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở cầu Thị Nghè". Tôi biết rõ những người lính ấy. Lính văn nghệ cơ hữu của cục tâm lý chiến chỉ có bổn phận canh gác giữ an ninh cho cục ngày và đêm. Họ đã học 9 tuần quân sự ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Vòng đai an ninh của cục bé nhỏ. Đã có lực lượng bảo vệ an ninh của cục an ninh quân đội lo giùm. Vậy bên đây cầu Thị Nghè, kế sát "cục", là nơi lính văn nghệ canh gác ban đêm để bảo vệ tòa soạn nhật báo Tiền Tuyến, văn phòng của các quan văn nghệ... Nói ra hơi buồn, lính văn nghệ gác cầu, chỉ nhằm bảo vệ cho các quan tâm lý chiến chơi xì-phé, mạt chược những đêm trực.

    Truyện kể về những người lính văn nghệ gác cầu Thị Nghè sáng 30-4-1975 như sau:

    Xe tăng lính bộ đội ông Hồ vào thành phố Sài Gòn để vào dinh Độc Lập bằng hai ngả. Ngả thứ nhất: Từ ngã tư xa lộ Hàng Xanh, T54 của của chúng chia đôi. Có 10 chiếc thôi. 5 chiếc rẽ phải vào Hàng Xanh, qua đường Bạch Đằng, qua đường Chi Lăng, Võ Tánh, Phú Nhuận, bọc lên đường Công Lý. 5 chiếc rẽ trái vào Thị Nghè, qua cầu, qua đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, qua đường Thống Nhất. Chiếc thứ nhất bị lính văn nghệ chặn đánh ở bên kia cầu.

    Với súng M16, những người lính văn nghệ nhắm T54 mà khạc đạn. Đạn chạm vỏ sắt xe tăng văng ra. Lúc ấy, 10 giờ 45 phút, sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh 15 phút. Mỗi người lính có một băng đạn, lính văn nghệ bắn vào 5 chiếc xe tăng không quá một phút là hết đạn. Lính văn nghệ đã gây cảm hứng cho đám thanh niên Thị Nghè. Họ chạy vào ngõ mang ra một can xăng và cả chục cái chai không với một mớ giẻ rách. Nhiệt tình nổi lửa, nhiệt tình của tuổi trẻ Thị Nghè bốc phừng phừng. Bất chấp cái chết, thanh niên Thi Nghè phụ sức với lính văn nghệ bằng những chai xăng châm lửa ném tới tấp vào T54 của kẻ thù. Lửa cháy xích T-54. Lửa cháy trên pháo tháp T-54. Lửa Thị Nghè của Sài Gòn. đánh như chơi, đánh như nghịch đùa của tuổi trẻ và lính văn nghệ già. Chiếc T54 dẫn đầu ngừng lại. Lính bộ đội ông Hồ trong pháo tháp nghe vỏ chai đụng vào thành sắt nghe lộp cộp bèn mở nắt thò đầu ra xem. Một thanh niên Thị Nghè nhẩy lên xe tăng thảy vào pháo tháp một "chai bom xăng". Lửa bùng lên. Chiếc T54 bốc cháy. Bốn chiếc sau dừng lại, ngơ ngác. Kẻ thù hung hãn khạc đạn.

    Bị trúng đạn, anh thanh niên Thị Nghè trên pháo tháp bung người lên...

    Anh bung người lên rơi xuống đường...nằm chết như mơ.
    (...)




    Cuộc chiến đấu bi hùng của Thiếu sinh quân Vũng Tàu

              

              

    Trong đêm 29 và gần trọn ngày 30-4-75, bọn bộ đội xâm nhập thị xã. Vũng Tàu coi như bỏ ngỏ. Ngoại trừ một cứ điểm duy nhất còn chống cự do các em thiếu sinh quân tuổi 12 đến 17 tự lập phòng tuyến tử thủ. Cứ điểm đó là trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu.

    Chiều tối bọn bộ đội tung hai tiểu đoàn xung kích bao vây cứ điểm cuối cùng này. Chúng bắt loa kêu gọi các em đầu hàng. Tiếng loa vừa dứt, bọn bộ đội nhận ngay một tràng đại liên thay cho câu trả lời, gọn gàng và cương quyết của gần 700 tay súng. Chúng lui ra xa tránh đạn, bắc loa ra lệnh các em phải đầu hàng đúng 9 giờ 30 sáng hôm sau, ngày 30 tháng Tư. Mặc địch kêu gọi và đe doạ, Các em vẫn kiên trì tử thủ, khiêng chướng ngại vật làm tuyến phòng ngự, tiếp tế đạn dược, nước uống và lương khô, cứu thương. Anh lớn chỉ các em nhỏ những bài học quân sự và kỹ thuật tác chiến trong thành phố đã được giảng dậy ở quân trường.

    Đúng 9 giờ 30 sáng ngày 30-4. Bọn bộ đội ra lệnh gọi đầu hàng lần chót. Nhưng các em thiếu sinh quân vẫn kiên quyết kháng cự, trả lời chúng bằng những loạt đạn dữ dội hơn. Chúng khai hoả, mở cuộc tấn công ào ạt mong giải quyết chiến trường nhanh chóng. Nhưng chúng phải lập tức dội ngược lại, vì hoả lực từ bên trong bắn ra vô cùng mãnh liệt. Các em chưa bao giờ được bắn, nay đã bắn với tất cả những gì đang có trong tay. Các em có đầy đủ vũ khí cá nhân và vũ khí cộng đồng. Ngoài ra còn có lợi điểm là các công sự trong trường, vừa đánh vừa di chuyển, ẩn núp. Lại có những quân nhân giã ngũ bên ngoài kích động, tìm cách lẻn vào tăng cường tay súng, nhập cuộc cùng các thiếu sinh quân chiến đấu ngay trong sân trường.

    Đây là trận đánh thực sự đầu tiên và cũng là trận đánh cuối cùng của các em thiếu sinh quân đã chiến đấu không nao núng dù có nhiều em ngã gục. Những em đã chết trong giờ phút cuối cùng của miền Nam, khi tóc còn xanh, mộng đời chưa trọn. Đồng bào chứng kiến cảnh bi thương này đã oà lên khóc. Có những bà mẹ kêu gào, lăn xả vào cản ngăn họng súng bọn bộ đội để che chở cho các ở bên trong. Tiếng nổ, tiếng hò hét, tiếng kêu khóc, tiếng loa uy hiếp của bọn bộ đội đã tạo nên một không khí chiến trường lạ lùng chưa từng thấy. Các em thiếu sinh quân chiến đấu với tất cả nhiệt tình và sinh lực của tuổi trẻ hăng say....

    (Đào Vũ Anh Hùng)




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    Tôi nhớ lại xe tăng Hồng quân Xô Viết kéo vào thủ đô Budapest của Hungary. Người dân thành phố Hungary đã dùng "chai bom xăng" ném vào xe tăng Hồng quân. Hồng quân Xô Viết cũng hung hãn khạc đạn. Từ đó "chai bom xăng" trong chiến sử có tên: "bom Cocktail". Tôi cũng nhớ đã xem một phim, hình như tên phim là El Alamein do Frederick Stafford thủ vai đại úy quân đội Ý, diễn tả một trận đánh tuyệt vọng giữa đám quân đồn trú ở sa mạc Phi Châu với đạo quân xe tăng của tướng Montgomery lừng danh Anh Quốc. Tăng của tướng Montgomery đã phơi xác lớp lớp. Và rồi, kẻ chiến thắng đã nghiêng mình kính cẩn chào tinh thần chiến đấu quả cảm tới phút chót của kẻ chiến bại là quân đội Ý. Người cộng sản, chắc chắn, thiếu sự hào sảng đó.

    Và, tôi còn thấy thiếu cả những trang sách viết về những thanh niên Thị Nghè, những người lính văn nghệ đã chết hay vẫn sống đã hạ 1 chiếc T54 bên kia cầu Thị Nghè buổi trưa ngày 30-4-1975. Tôi cố tìm ở hồi ký dầy cộm của các quan văn nghệ báo Tiền Tuyến. Chẳng thấy gì.

    (...)




    TQLC...ra khơi

    Ngày 4-4-1975, về đến Vũng Tàu SĐ/TQLC đang trong tình trạng tái bổ sung quân số, sau cuộc lui binh từ Đà Nẵng về đây. Lạng Sơn tư lệnh kiêm nhiệm thêm chức quân trấn trưởng thị xã Vũng Tàu nên ông rất bận rộn vì dân số tăng gấp bốn lần vì dân từ miền Trung chạy vào lánh nạn, khi tư lệnh bận bịu một thì chúng tôi phải tất bật gấp đôi cho đến ngày...

    Ngày 28-4-75, 7 giờ sáng, Đại Dương (Đại úy Nguyển Quang Đan K21/VB) tập họp anh em chúng tôi lại nói sơ qua tình hình rất bi đát hiện tại và anh có nói nếu tụi cán búa chiếm được miền Nam thì tư lệnh nhất quyết không đầu hàng, có hai trường hợp xử trí:
    1. Là tử thủ (nếu có thể)
    2. Là ra khơi (vì...biển ngay trước mặt)

    Chưa biết phải đi đâu? Tất cả anh em chúng tôi đứng im lặng, mỗi người có ý nghĩ riêng tư trong đầu, Đại Dương tiếp:
    - Nếu tư lệnh...ra khơi, ai muốn đi theo tư lệnh đứng sang một bên, ai chọn ở lại về với gia đình tư lệnh sẽ cho trực thăng chở về căn cứ Sóng Thần. Trong số đi theo tư lệnh có Tiểu Cần tôi (vì tư lệnh..."cần" tôi?), đến bây giờ sau 35 năm tôi vẩn chưa có câu trả lời tại sao đi theo tư lệnh mà bỏ mẹ già đơn chiếc ở quê nhà để có dịp..."xa quê hương nhớ mẹ hiền...".

    Cuộc họp bỏ túi xong tôi được lệnh mang máy PRC25 theo trực thăng đưa những anh em chọn ở lại bay về căn cứ Sóng Thần. Nhìn những gương mặt thân thương với nhiều năm tháng chiến đấu bên nhau lòng dạ tôi cảm thấy nao nao buồn...Những Tr/sĩ Nam, phụ trách ẩm thực cho tư lệnh, H/sĩ Guông người gốc Miên, Tr/sĩ Trương cao 1,90 m, Tr/sĩ Hoài tây lai đẹp trai, Tr/sĩ Mến gốc người Hoa hiền như cục đất thó...

    Lần chia tay mãi đến bây giờ...40 năm sau chưa một lần gặp lại.

    (Tháng 3 buồn thiu, tháng 4 gãy súng - MX Tiểu Cần)




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    11 giờ 40 phút...

    Tôi rủ Côn ra đường. Vỉa hè nhà tôi, vỉa hè bên kia phố đã ngổn ngang mũ sắt, mũ vải, giầy vớ, ba lô, súng đạn. Vợ tôi và ba đứa con cũng mở cổng ra đường. Khi nhìn quân trang, quân dụng, võ khí của quân đội ta xép lớp trên vỉa hè, vợ tôi òa lên khóc, con tôi khóc theo. Những tiếng khóc, những giọt nước mắt muộn màng. Tại sao người ta chỉ biết khóc vào hoàng hôn?

    Cảnh tượng bây giờ đã thay đổi chút chút. Tôi thấy có nhiều người đeo băng vải đỏ ở cánh tay phải. A, những người này tôi đều biết. Họ ở dưới chợ xóm Lách. Họ đã là nhân dân tự vệ chọc chó, hái trộm khế nhà tôi. Họ là ông thợ may hiền lành, bà chạp phô dễ tính. Họ đeo băng đỏ chờ đợi hoan hô cách mạng, hoan hô quân giải phóng. Họ thuộc "Sư đoàn 304 tân lập*.

    11 giờ 45 phút,..

    Nó ngang qua nhà tôi. Năm chiếc. T54 treo hoa ny-lông phía trước. Nóc xe đầy nhóc lính "Sư đoàn 304 tân lập* phất lia lịa cờ đỏ sao vàng và cờ trên đỏ, dưới xanh, giữa sao vàng. Bên hông xe đeo tòng teng lồng gà, lồng vịt. Hẳn là tăng đã dừng lại để nhận quà của "nhân dân" và để lính 304 leo lên... giải phóng Sài Gòn. Gà và vịt cũng hãnh diện tham dự chiến dịch Hồ Chí Minh! Xe tăng đi qua một lát thì mô-lô-tô-va và GMC Trung quốc tiến vào. Lính bộ đội ông Hồ đội nón cối. Quân giải phóng đội mũ tai bèo. Tất cả đứng trên xe vẫy tay rối rít. Tuyệt nhiên, "nhân dân" không hoan hô. Không còn cách mạng "diễu binh" nữa, "nhân dân" tản mạn về nhà mình. Tôi bảo vợ con vào nhà, đóng cổng, khóa kỹ rồi rủ Đặng Xuân Côn đi bộ lên Sài Gòn.

    Đi bộ lên Sài Gòn, tôi lại nhớ đến phim The Longest Day, xe tăng Mỹ vào Bá Linh. Anh Mỹ GI tài xế xe tăng tới nhà một người vợ lính Đức vừa tử trận mà anh tìm thấy địa chỉ trong túi quần của xác chết. Anh để những thỏi kẹo "sô-cô-la" lên bàn. Vợ người lính Đức lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ. Ngoài kia là những đống gạch vụn của nhà cửa đổ nát vì bom đạn. Cạnh một đống rác có con chó đang lè lưỡi đi tìm thức ăn. Ngày hôm sau anh GI cũng lái xe tăng, trên pháo tháp buộc cái chuồng đầy nhóc những gà là gà. Anh GI xách cái chuồng gà bước ba bậc tam cấp lên cửa. Cửa mở. Hai người ôm hôn nhau...

    (...)




    Vượt biên kể chuyện súng đạn

    Là lính đi tù cải tạo. Hắn đi đạp xích lô, hắn không biết hắn là ai. Hắn chỉ thực là lính sau khi hắn vượt biên. Ở đất tạm dung, cuối tuần nào cũng thế, ngồi trong phòng ăn, với ly bia trên tay, giữa đám bạn bè mới, hắn say sưa kể về cuộc đời lính chiến của hắn. Hắn kể say sưa và đầy tự tin: hắn biết chắc chắn trong những trận đánh ấy hắn không bao giờ thua trận.

    Bạn bè hắn cũng thích thú. Họ nâng ly, cổ võ: "Dzô... Dzô...".

    (Website Tiền Vệ - Truyện cực ngắn hay Truyện chớp)




    Cuộc chiến đấu bi hùng của Thiếu sinh quân Vũng Tàu

    Cuộc chống cự kéo dài đến 3 giờ chiều. Cho đến khi kho đạn dược đã cạn và kho lương thực bị bốc cháy, các em thiếu sinh quân mới bằng lòng cho bọn bộ đội thương thảo. Các em chấp

    nhận một giờ ngưng bắn, sau đó sẽ buông súng và mở cổng...Và các em đã dùng một giờ ngưng bắn để thu dọn chiến trường, săn sóc đồng đội bị thương, gói liệm thi hài những đồng đội đã gục ngã, và chuẩn bị làm lễ hạ kỳ.

              

              

    Có chừng hơn một trung đội em thiếu sinh quân đã tập họp trước sân cờ, đứng trang nghiêm và nhìn lên lá quốc kỳ bay phất phới trên nền mây âm u. Hai thiếu sinh quân lớp 12 là Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Chung bước tới, đứng nghiêm trước kỳ đài theo lễ nghi quân cách, dơ tay chào. Họ từ từ nắm từng nấc giây, cho lá cờ hạ xuống thật chậm như cố kéo dài giây phút thiêng liêng này, nước mắt đầm đìa.

    Tất cả các em thiếu sinh quân từ trong các tầng lầu, từ các hố cá nhân, các giao thông hào, sau những gốc cây, bờ tường, sau những mái nhà..., không ai bảo ai, đồng loạt đứng dậy đồng thanh cất tiếng hát bài quốc ca. Gần 700 giọng hát hùng tráng cát lên, vang khắp sân trường. Bọn bộ đội nghe, ngơ ngác không phản ứng. Tiếng hát phủ tràn trên tuyến địch vang ra tận cổng sân trường, ra ngoài đường phố. Người dân Vũng Tàu đã đều nghe và xúc động. Tiếng hát bay ra biển khơi, bay lên trời cao, âm thanh lồng lộng theo gió chiều, đất trời cùng ngẩn ngơ rớm lệ theo tiếng hát. Đồng bào cùng thổn thức thương tủi và thổn thức hát theo.

    Thời gian như ngưng đọng lại trong giờ khắc bi thảm, xúc động cùng lẫm liệt đó. Cho đến bây giờ, 22 năm sau, nhiều người dân Vũng Tàu vẫn nghe văng vẳng trong sâu kín tiếng hát bi thương hùng tráng của các em thiếu sinh quân hát bài quốc ca trong ngày cuối cùng của tháng tư đen, ngày oan khiên định mệnh cho dân tộc Việt.

    (Đào Vũ Anh Hùng)

    Tác giả tên thật: Đào Bá Hùng, với bút hiệu Đào Vũ Anh Hùng, cộng tác với báo Sóng Thần, Sống, Đời. Tác giả là thiếu tá Không quân, viết báo Tiền Tuyến, Lý Tưởng Không quân, v...v...




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    2 giờ 30...

    Chúng tôi vào trung tâm thành phố. Dân chúng đang bu kín công viên dựng hai thủy quân lục chiến họng súng chĩa vào Hạ viện. Chúng tôi lách đám đông. Dưới chân tượng đài, xác một người cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra còn đỏ tươi. Người sĩ quan cảnh sát đeo lon trung tá. Nắp túi ngực in chữ Long. Phóng viên truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này.

    Lúc tôi đến là 2 giờ 30. Dân chúng đứng mặc niệm trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người không khóc thì mắt đỏ hoe, chớp nhanh. Tất cả im lặng.

    - Tôi chứng kiến từ phút đầu.
    - Ông nói sao?
    - Tôi nhìn rõ ông ta rút súng bắn vào thái dương mình.
    - Thật chứ?
    - Phải.

    Tôi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện. Và tôi được nghe "Huyền sử một người mang tên Long" do một trong hai người kể. Truyện như vầy:

    10 giờ 30, Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng. Trung tá Long từ nơi nào đến, chẳng ai rõ. Ông xuất hiện ở công viên trước Hạ viện hồi 12 giờ. Ngồi trên ghế đá, ông trầm ngâm hút thuốc. Rồi ông ta đưa tay ôm lấy đầu, cúi thấp. Bất chợt, ông đứng dậy, chậm rãi bước gần chân tượng đài. Trung tá Long đứng thẳng. ngẩng mặt. Thản nhiên, ông rút khẩu súng lục, kê họng súng vào thái dương mình bóp cò.

    - Đó, diễn tiến cái chết của ông ta như vậy đó.
    - Ông có mặt ở đây trước lúc ông ấy xuất hiện?
    - Phải.

    Tôi đã nhìn kỹ. Lịch sử của chúng ta đã có những vị anh hùng chỉ có tên mà không có họ. Như Đô đốc Tuyết, Đô đốc Long... Hôm nay, chúng ta có thêm Trung tá Long.

    Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Người bên kia Bên Hải đã viết cả pho sách dày cộm để nguyền rủa một xác chết. Người bên kia cũng đã viết cả pho sách dầy cộm để suy tôn một xác sống! Người ta ồn ào. Người ta vo ve. Lịch sử đã hóa thành huyền sử.

    (...)




    LĐ81 Biệt cách nhảy dù

    12 giờ trưa ngày 28-4-1975, Đại tá Phan Văn Huấn Liên đoàn 81 BCND được lệnh Trung tướng Nguyễn Văn Toàn gọi về bộ tư lệnh QĐ3 họp khẩn. Trong phòng họp trung tướng Toàn nói: Ngày mai chúng ta rút khỏi Biên Hòa về phòng thủ Thủ Đức, Liên Đoàn 81 BCND là lực lượng đi sau cùng có nhiệm vụ phá hủy chiếc cầu trên xa lộ Đại Hàn gần phi trường Biên Hòa.

    Sáng 29-4, đơn vị di chuyển qua cầu xa lộ Đại Hàn, rút khỏi thành phố Biên Hòa đúng theo lệnh tướng Toàn đã nói. Đúng 8 giờ sáng Liên đoàn 81 BCND qua khỏi cầu Mới và Biệt đội 812 cùng toán công binh của đại úy Hoàng tăng phái cho Liên đoàn 81 là đơn vị sau cùng qua cầu và đã hoàn tất nhiệm vụ dùng chất nổ phá chiếc cầu đó. Đơn vị vừa qua khỏi cầu thì nghe lệnh ông Vũ Văn Mẫu, yêu cầu người Mỹ rút ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ.

    Sài Gòn chỉ còn 2 điểm kháng cự ở ngã tư Bảy Hiền và lăng Cha Cả. Chẳng bao lâu sau đó, tiếng súng cả hai nơi không còn nổ nữa, anh em rời vũ khí và chia tay nhau mỗi người mỗi ngả!

    Sáng 30-4, Liên đoàn 81 BCND từ rừng Cò Mi men theo đường rừng di chuyển dần về hướng Thủ Đức để hy vọng gặp được đơn vị bạn nhưng hoàn toàn tuyệt vọng. Trên đường di chuyển LĐ81 BCND chỉ thỉnh thoảng bắt gặp các quân trang quân dụng của các đơn vị bạn bỏ lại! Khi đến gần núi Châu Thới, đơn vị dừng quân và tung các toán thám sát ra các xa lộ Lái Thiêu-Đại Hàn quan sát tình hình. Các toán thám sát báo về bộ chỉ huy LĐ81 BCND quân xa của Bắc quân đang chạy công khai trên các trục lộ mà không gặp một sự kháng cự nào của đơn vị trách nhiệm trong vùng. Tất cả các nơi như là đều đã rã ngũ hết rồi!

    (...)




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    4 giờ thiếu 10 phút...

    Một nhánh cỏ đuôi chồn, tên lính "Sư đoàn 304 tân lập", leo lên tượng đài thủy quân lục chiến. Nó buộc hai sợi giây cáp vào cổ pho tượng. Nó siết chặt, kỹ lưỡng. Rồi khoá lại bằng ống khoá. Nó dùng cái búa bổ mạnh trên đầu pho tượng cao nhất. Ống kính điện ảnh của cộng sản thu kỹ cảnh này, cảnh mà họ đã dàn cảnh. Phóng viên truyền hình Pháp, Mỹ, Đức, Nhật... quay không tiếc phim. Phía dưới, những cỏ đuôi chồn, búa to búa nhỏ, búa dài, búa ngắn đã chuẩn bị từ trước để đập phá tượng đài. Xác Trung tá Long đã được kéo lết ra xa. Vũng máu của ông chưa kịp khô. Khi tên cỏ đuôi chồn ở trên tụt xuống, đám cỏ đuôi chồn ở dưới xúm nhau lại đập nát chân hai pho tượng. Cộng sản thuyết minh là "nhân dân Sài Gòn đã biểu lộ lòng căm thù Mỹ-Ngụy cao độ". Rồi tất cả cỏ đuôi chồn kéo hai sợi giây cáp, Pho tượng thủy quân lục chiến từ từ ngã xuống. Truyền hình Pháp diễn giải: "Biểu tượng của miền Nam sụp đổ."

    Vỗ vai tôi, Côn nói:

    - Đi chỗ khác, Long.

    Tôi hỏi:

    - Đi đâu?

    Tôi không biết có người lính thủy quân lục chiến nào chứng kiến cảnh tượng này. Tôi cũng không biết ông tướng Lê Nguyên Khang, ông tướng Bùi Thế Lân đã xem những thước phim giật đổ tượng đài thủy quân lục chiến này chưa? Lúc này, đứng ngắm pho tượng ngã gục, tôi cứ tưởng những nhát búa bổ xuống đầu pho tượng là những nhát búa bổ xuống đầu mình.

    Lảng chuyện, Côn hỏi tôi:

    - Trong dinh Độc Lập có gì lạ?

    Tôi dịu giọng:

    - Có gì lạ?...

    (...)




    LĐ81 Biệt cách nhảy dù

    Đại tá Phan Văn Huấn yêu cầu các cấp chỉ huy tập họp anh em xung quanh một ngôi mộ có gò mả khá cao. Đứng trên gò mả đại tá Huấn bùi ngùi nói trước hàng quân: Chúng ta sinh trưởng ở miền Nam, chúng ta có bổn phận phải bảo vệ miền Nam, bây giờ chúng ta thua rồi, chúng ta phải cay đắng tuân lệnh Tổng thống Dương Văn Minh, giao nạp vũ khí cho họ. Thưa anh em, chúng ta là một đơn vị ưu tú của Quân lực VNCH, qua bao nhiêu năm chiến đấu bên nhau, trong giờ phút lịch sử này, chúng ta phải chứng tỏ là một đơn vị có kỷ luật, vậy yêu cầu anh em theo tôi tiến ra xa lộ Đại Hàn, các biệt đội sắp hàng tư và di chuyển về hướng Sài Gòn để tiếp xúc với đơn vị họ mà bàn giao vũ khí rồi anh em chúng ta giải tán và chia tay nhau. Xin anh em nhớ rằng, anh em không có tội gì cả, vì anh em phải tuân hành theo lệnh của tôi, tôi sẵn sàng nhận tội và tôi sẽ đi đầu, nếu họ có bắn thì họ sẽ bắn tôi trước.

    Trên xa lộ Đại Hàn gần lăng Chú Hỏa, quân nhân của Liên đoàn 81 BCND sắp hàng tiến về hướng Sài Gòn. Hai bộ chỉ huy chiến thuật và bộ chỉ huy Liên Đoàn 81 quân số gần 2.000, đội hình hàng tư dài hơn cây số. Đoàn quân yên lặng di chuyển trên xa lộ, không khí thật ngột ngạt khó thở, những người lính súng đạn còn trên tay nhưng cái lệnh đầu hàng đã làm cay lòng cay mắt. Những hình ảnh nhạt nhoà của những người dân đứng trước mái nhà tranh nhìn đoàn quân não nề tiến bước. Khi LĐ81/BCND đang di chuyển trên xa lộ Đại Hàn, xe lính chính quy Bắc Việt cũng di chuyển ngược xuôi bên đội hình Liên đoàn 81 BCND, cán binh Bắc quân trên xe nhìn Liên đoàn 81 BCND với nét mặt tò mò và ngạc nhiên khi thấy lính của LĐ81/BCND trên tay vẫn còn mang vũ khí. Liên Đoàn 81 BCND di chuyển khá xa thì có 2 xe từ hướng Sài Gòn chạy đến, trên xe có đặt máy quay phim. Họ quay phim từ đầu đội hình cho đến cuối và ngược lại từ cuối lên đầu đội hình, Khi Liên Đoàn 81 BCND dừng lại cho anh em nghỉ ngơi thì đơn vị cán binh Bắc quân đến tiếp xúc, lính Liên đoàn 81 BCND để vũ khí tại chỗ và giải tán..

    (Đặc san GĐ81/BCND)




    Nhật ký Sài Gòn ngày dài nhất

    6 giờ 30...

    Chúng tôi có mặt ở ngã tư Hiền Vương-Công Lý. Quân trang, quân dụng, xếp đống ngổn ngang trên vỉa hè. Súng đạn sẵn sàng, thừa mứa. Nhiều thanh niên biết xử dụng M16 lượm súng bắn chỉ thiên vung vít. Thành phố rền vang tiếng đạn nổ chỉ thiên...Chúng tôi thản nhiên đi. Lúc này, vẫn còn nhiều người lính trên đường về nhà mình. Tôi nhận ra những kẻ chiến bại bất đắc dĩ, họ mình trần, chân đất. Làm sao tôi biết chia xẻ những uất nghẹn của người lính đường chiều 30-4? Những trang sách nào soi tỏ uất nghẹn này? Bầy hạc gỗ của vua Vệ, bọn ý gẫy bút cùn của những "danh sĩ" thì làm nổi trò trống gì? Cho nên, chúng ta có cả trăm trang Khi đồng Minh tháo chạy, gần một nghìn trang Hồ sơ dinh Độc Lập. Nhưng vẫn còn thiếu một trang viết về người lính buông súng, lột bỏ quân phục chạy về nhà mình tức tưởi, phẫn nộ và lo âu.

    7 giờ...

    Bóng tối trùm thành phố. Đèn đường chưa lên. Đạn vẫn nhằm ông trời mà bắn. Tôi đi trong cái âm u của Sài Gòn lịm chết. Hình tưởng một nghĩa địa hoang vắng? Sài Gòn ở đó.

    Bộ đội miền Bắc và quân giải phóng miền Nam xuất hiện trên các vỉa hè. Mạnh phe nào phe ấy nhặt nhạnh "chiến lợi phẩm". Bộ đội miền Bắc chọn quân trang hơn võ khí. Họ liệng "chiến lợi phẩm" lên xe mô-lô-tô-va. Quân giải phóng chọn vũ khí. Họ thu lượm vội vàng chất lên xe ba bánh. Tôi thấy dọc phố Công Lý, cờ mới treo nhiều. Quả thực, tôi không nhận ra mầu cờ nữa.

    Vì mắt tôi mờ. Vì bóng tối.

    12 giờ đêm...

    24 giờ rồi. Tôi đã qua một ngày dài nhất trong đời tôi, một ngày mà nhiều đời người không có. Văn hào Walter Scott viết: "Không ai đủ giầu để mua lại dĩ vãng đích thực của mình" ở đâu đó,. Và đó, bất hạnh trong hạnh phúc. Tôi đầy đủ ngày dài nhất ở Sài Gòn.

    Và, cũng đó, hạnh phúc trong bất hạnh.

    (Duyên Anh Vũ Mộng Long)




    Hai ngày cuối với Hải quân

    Căn cứ Hải quân Tuyên Nhơn, nằm ở bờ nam kinh Đồng Tiến. Trước mặt là bờ kinh, làm bãi ủi cho các chiến đĩnh. Ngoài hàng rào là la liệt những ổ mìn do đội tác chiến diện tử thiết trí. Ở từ hàng rào này chạy suốt về hướng bắc là một rừng cây đước âm u, nơi xuất phát của các cánh quân Bắc Việt từ biên giới Miên tiến về, với chằng chịt những con lạch nhỏ. Sát ngang hàng rào, phía tay trái là sân đáp trực thăng. Nơi đồn trú của Liên đoàn đặc nhiệm 214-1, gồm Giang đoàn 43 ngăn chận và Giang đoàn 64 tuần thám. Đây là cái gai khó nuốt của địch, là trở ngại chết người trên con đường huyết mạch của địch.

    Lúc ấy, Sài Gòn đang ở vào giai đoạn chót của cuộc chiến. Nhưng cả Vùng 4 vẫn còn yên. Căn cứ Tuyên Nhơn vẫn bình thản đợi chờ một cuộc thư hùng khác. Nhưng không, tất cả vẫn thật là êm ả dù áp lực của địch mỗi lúc mỗi khép lại dần, mỗi lúc mỗi thấy khốc liệt. Ánh mắt của dân trên các con đường qua lại, như có điều gì lo âu, e ngại. Các mặt trận khác mỗi lúc mỗi ác. Tới tối ngày 29-4-1975, tư lệnh phó lực lượng trung ương, Hải quân Đại tá Vũ Xuân An gọi cho Hải quân Thiếu tá Lê Anh Tuấn: Bằng mọi cách phải đưa đơn vị rời Tuyên Nhơn. Cùng lúc này, đại tá An cho Tuấn hay là "quân đội mình đã rã ngũ". Tuấn liên lạc lại với Hải quân Thiếu tá Phạm Văn Tạo, chỉ huy phó liên đoàn đặc nhiệm có mặt tại Bộ tư lệnh Sư đoàn 9 BB, để được

    xác nhận: Bộ tư lệnh hải quân Sài Gòn và hạm đội đã ra đi. Trước hoàn cảnh này, Tuấn, với tư cách sĩ quan thâm niên hiện diện tại căn cứ chiến lược Tuyên Nhơn đã họp các sĩ quan và các thuyền trưởng lại, và tuyên bố: Nhân danh tư lệnh hải quân, tôi tuyên bố giải nhiệm các đơn vị trong vùng trách nhiệm... mình phải ra khỏi đây, về Bến Lức hoặc xuôi ra biển. Để có thời giờ thu xếp cuộc lui quân, đơn vị vẫn sinh hoạt điều hòa, các vọng canh vẫn cẩn mật.

    (Hải quân Thiếu tá Lê Anh Tuấn - Phan Lạc Tiếp)




    Hai ngày cuối với Không quân

    Sáng ngày 29-4-1975, vẫn còn vài chiếc Tinh Long AC119K, cùng với hai khu trục A1 Skyraider, đã không ngừng lên xuống, nã đạn pháo, thả hỏa châu, soi sáng giúp quân bạn đang chiến đấu dưới đất suốt đêm qua cho đến khi chíếc Tinh Long của Trung úy Trang Văn Thành bị hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 chém đứt cánh máy bay và bốc cháy trên bầu trời.

    KQ Thái Ngùng ghi lại sự kiện như sau (*** Quân sử KQ trang 320-321):

    Khoảng 7 giờ sáng, trên không phận phi trường Tân Sơn Nhất, có một chiếc phi cơ bay lượn rất thấp, tôi ươc lượng không quá 5 ngàn bộ. Đứng ở tầng trên của dãy nhà cư xá độc thân nhìn về hương phi đạo, không bị một vật gì cao cản trở tầm mắt, tôi đã nhận dạng được đó là chiếc AC119K của phi đoàn tôi.

              

              

    Chiếc phi cơ từ hướng Hóc Môn bay dọc theo phi đạo hướng về phia Tổng y viện Cộng Hòa rồi lại vòng lại. Từ trên phi cơ những khẩu đại liên 6 nòng và cây đại bác 20 ly khạc những làn đạn đỏ rực, liên tục băn vào đầu địch quân đang tấn công vào vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất...Máy bay bay vẩn vòng đi vòng lại trên không. Đạn từ trong phi cơ bắn ra, được trả lại bằng hỏa tiễn tầm nhiệt địa không SA7 từ dưới đất bắn lên...Phi cơ trúng hỏa tiễn:

    Con tàu phát hỏa, chao đảo cố gắng gượng lấy lại thăng bằng nhưng rổi nổ tung và gãy làm đôi. Tôi thấy có một người nhảy dù ra, nhưng không biết vì lý do gì lại rơi thật nhanh. Đầu thân và một phần đuôi (C119 có hai đuôi) cùng rơi nhanh, riêng một phần đuôi còn lại vì nhẹ hơn nên lơ lửng, lượn qua lượn lại rơi xuống như một chiếc lá cuối mùa...

    Phi hành đoàn Tinh Long 7 gồm Trung úy Trang Văn Thành và điều hành viên 8 người hy sinh, Riêng xạ thủ khẩu đại liên 6 nòng nhảy dù được, tuy sông sót nhưng bị thương nặng. Phi cơ bị rơi trong vòng rào của phi trường Tân Sơn Nhất. Hài cốt của phi hành đoàn đã được bốc và cải táng năm 2010 do sự tìm kiếm và yểm trợ tài chánh của các thân hữu KQVN.

    (Trần Lý)

    - : Sau trận Mùa hè đỏ lửa 1972, ta phát hiện Bắc quân được trang bị hỏa tiễn tầm nhiệt SA7. Không quân VNCH chỉ dẫn đối phó bằng cách mỗi khi phát hiện bị hỏa tiễn rượt thì trên máy bay thả ra một trái chiếu sáng với nhiệt độ 2.500 độ C, hỏa tiễn bị đánh lừa bởi nhiệt độ của trái sáng. Tuy nhiên vấn đề là phi công luôn luôn phát hiện hỏa tiễn chậm và thả trái sáng muộn cho nên cũng như không. Vì vậy mới có chuyện phi cơ bay tít trên trời cao rồi bất thần nhào xuống thả đại với xác xuất một trúng hai trật, chấm dứt thời đại phi cơ làm chủ chiến trường.




    Hai ngày cuối với Hải quân

    Sáng hôm sau 30-4-1975 căn cứ Tuyên Nhơn vẫn như thường. Quốc kỳ VNCH vẫn phất phới trên cột cờ giữa sân đơn vị. Tất cả quân nhân các cấp toàn căn cứ và thân nhân kể cả đàn bà và trẻ nhỏ độ 250 người, các chiến đỉnh còn hoạt động được của cả 2 Giang đoàn 64 Tuần thám và Giang đoàn 43 ngăn chận là 23 chiếc. Mọi sửa soạn để ra đi rất bình tĩnh, chu đáo.

    Vì thế, lúc gần trưa 30-4, khi Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố: Tôi yêu cầu anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó thì Tuấn theo chỉ thị nói trên, cho tất cả các

    chiến đĩnh của căn cứ đều cắm một mảnh vải trắng trên cần ăng ten. Mọi người xuống tàu vào lúc 5 giờ chiều. Đoàn tàu đi rất chậm. Chiếc HQ 7773 do trung sĩ vận chuyển Nguyễn Văn Lực đi sau cùng. Chỉ độ nửa giờ đoàn tàu đã ra tới ngă ba kinh Đồng Tiến và sông Vàm Cỏ Tây.

    Theo anh Lực nói lại: "Tàu tiến thận trọng, lệnh ra là không được khai hỏa, nhưng phải sẵn sàng. Mà, lạ lùng, trước đây ở miệt này, khi đi tuần chỉ thấy bờ sông tối om. Sao mà hôm nay ở hai bên bờ, căn cứ Tuyên Nhơn, đèn đóm ở đâu mà trùng điệp như sao xa". Vẫn theo lời anh Lực kể: Ông Tuấn dặn rất kỹ cố rời căn cứ, nếu không đến Bến Lức được thì ra biển. Trên các

    chiến đĩnh đồ ăn đem đủ cho 2 đến 3 tuần. Bỗng trên hệ thống âm thoại chỉ huy, có tiếng nói của Bắc quân xen vào rất rành rẽ: Các anh hãy buông súng xuống, lần lượt từng chiếc một ủi bãi vào bờ bên trái. Đoàn tàu khựng lại một chút và được lệnh cứ tiến. Tiếng nói của địch rạ hạn: Các anh hãy nghe lệnh của quân đội giải phóng, buông súng và ủi bãi, từng chiếc một. Đoàn tàu cứ đi. Rồi một trái đạn bùng lên, xanh lè ở phía trước đoàn tàu, và tôi nghe trên máy, (lời anh Lực), số 1 của 43 đã chết. Đoàn tàu như không còn linh hồn nữa, chùng lại.

              

              

    Tàu tôi, chiếc 7773, đi sau chót, sát bờ bên phải, thấy xe tăng Băc quân đen ngòm lội ở phía sau tàu, đang hướng đại bác vào tàu mình. Thế là đoàn tàu lần lượt ghé mũi vào bờ bên trái con sông Vàm Cỏ Tây, dưới ánh đèn pin ra lệnh của địch.

    Lúc ấy, lúc ông Tuấn tự tử chết bằng súng Colt, vào khoảng 12 giờ đêm ngày 30-4-1975. Ông Tuấn tự tử ý ông không muốn đầu hàng địch, mà dù có hàng địch dễ gì chúng tha mạng cho ông. Xác ông Tuấn, theo anh em kể lại, vẫn lời anh Lực, được cuốn trong cuốn drap trắng, và tẩm liệm đêm hôm ấy, vào khoảng 3, 4 giờ sáng. Người ở gần ông Tuấn, lo lắng cho ông là anh Uy, trung sĩ vận chuyển Uy.

    (Hải quân Thiếu tá Lê Anh Tuấn - Phan Lạc Tiếp)

    - : Hải quân Thiếu tá Lê Anh Tuấn là em của Thiếu tướng tư lệnh TQLC Lê Nguyên Khang.




    Một cơn gió bụi

    Sau này, gia đình Hải quân Thiếu tá Lê Anh Tuấn đã từ Mỹ về đến bờ sông Vàm Cỏ Tây tìm mộ thiếu tá Tuấn, thấy ngôi mộ đã được dân chúng tự động xây cất rất to, đẹp. Đào lên giấy tờ bọc plastic vẫn còn nguyên. Hài cốt thiếu tá Tuấn đã được hỏa thiêu và đem qua Mỹ. Gia đình hải quân đã làm lễ tiếp đón và truy điệu rất trang nghiêm. Nhiều bạn bè, đại diện các đoàn thể đến nghiêng mình trước di hài và di ảnh của một kẻ anh hùng đã chết không hàng giặc.




    Tôi bay phi vụ hành quân cuối cùng...

    Tôi kể: ngày 30-4-1975, tôi đã dùng rocket chống biển người để diệt địch quân, có người thắc mắc, nhất là đồng nghiệp bay "Bà già" như tôi, họ muốn chính tôi phải kể lại vì sao L19 có thể mang hỏa tiễn chống biển người và diệt địch như gunship được. Tôi xin trả lời: "Khi ta không còn biết sợ, thì việc gì cũng liều mà làm được hết". Hôm nay, ngày 30-4, tôi xin viết lại phi vụ hành quân cuối cùng của 40 năm trước.

    Tôi xin vào chuyện...


    ***
    Phi đoàn 116, thuộc Không đoàn 74 Chiến thuật, Sư đoàn 4 KQ, đồn trú tại phi trường Trà Nóc. Hôm ấy, sáng 30-4-1975, mới 5 giờ 30, điện thoại nhà tôi reo inh ỏi, gọi đi bay sớm là chuyện thường tình ở tiểu khu này, tôi nghĩ ngay: "Đêm qua chắc mất đồn hay có nơi nào bị tấn công, pháo kích gì đây nên cần đi bay sớm". Tôi bắt điện thoại, đầu dây không phải là tiếng của thiếu tá Lợi (Trưởng phòng 2 T.K B.L, người thường đi bay hành quân với tôi) như mọi hôm mà là tiếng của Nguyễn Ngọc Trung, bạn cùng học khóa bay với tôi ở Trung tâm huấn luyện Nha-Trang, tiếng của Trung đen hối hả "Ê! Combat (nickname của tôi) lên cứu tụi tao mau, VC tấn công tràn ngập phi trường rồi, mày lên chậm tụi tao chết hết, lên liền nghe, chiều nhớ mua mồi về, tao mua bia nhậu nghe, đêm qua tao đại thắng" (xập xám). Tôi nghe tiếng súng liên thanh nổ vang trong đầu máy liên hợp bên kia đầu dây của Trung, tôi vội đáp: "Yên chí, tao lên liền".

    Tôi phải gọi vào Phòng 2 tìm anh Lợi, tôi nói với anh: "Tôi phải đi ngay để giải tỏa phi trường Sóc Trăng, cứu phi hành đoàn trên ấy, tụi nó ngủ ngoài phi trường, nếu VC vào, sẽ giết hết tụi nó". Anh Lợi đáp: "Ông ra đứng ngoài đường chờ tôi, tôi lại đón ông ngay, tôi sẽ đi bay với ông". Tôi dặn anh: "Anh đừng báo cho ông già biết nghe (ông già là ông tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng, chúng tôi thường gọi là Papa) khi nào tôi cất cánh xong, anh gọi máy báo trung tâm hành quân sau". Tôi vừa đi ra tới đường, xe jeep của anh cũng vừa tới. Ra đến phi trường, trời chưa sáng hẳn, tôi leo lên check xăng, thì không hiểu sao Mã Tính (phi cơ trưởng đang biệt phái Bạc Liêu với chúng tôi) hay tin tôi đi bay, Tính cũng đi Honda ôm ra tới, Tính cùng mấy lính cận vệ của anh Lợi chạy lại mở conex lấy rocket nổ định lắp lên dàn phóng như thường lệ (từ sau Hiệp định Paris, pháo binh giới hạn một ngày mỗi khẩu chỉ được phép bắn 2 quả, phi tuần khu trục xin để yểm trợ cho tiểu khu thì không bao giờ có, Mỹ đã cắt viện trợ hết rồi, mỗi lần đi bay, tôi thường bảo Tính trang bị 8 trái rocket nổ cho tôi, mặc dù an phi tuyệt đối cấm, L19 chỉ được mang rocket khói để bắn đánh dấu mục tiêu cho khu trục oanh kích thôi, không bao giờ được mang rocket nổ.

    Tại phi trường Bạc Liêu, rocket nổ của gunship Mỹ bỏ lại, tất cả đã được tháo ra khỏi thùng, dựng đầy trong 4 conex, đây là loại rocket nổ rất mạnh, trên đầu nổ có một cái chụp màu trắng ngà, tôi cũng ít khi thấy gunship VN bắn loại nầy. Tôi gọi Tính: “Đừng lấy rocket đó, chờ anh một chút”. Tôi nghĩ ngay đến 6 thùng rocket của đại tá Điệp, không biết ông đem từ đâu về cất trong conex, ông kêu tôi lại chỉ cho tôi và dặn dò: "Bồ đừng xài cái nầy của tôi nghe, nó là hỏa tiễn chống biển người đó, tôi sẽ gắn dàn phóng rocket trên xe, tụi nó có tràn ngập vào là tôi xịt trực xạ tụi nó". Hôm nay địch đã tràn ngập phi trường Sóc Trăng, tôi phải diệt địch và cứu quân bạn, bây giờ tôi không liều mà xử dụng thì đợi đến bao giờ?.

    Mấy ngày nay, nghe tin tức đài BBC thật thê thảm, quân ta cứ rút lui. Đêm qua trời nóng quá, ngủ không được, tôi lên nằm trên sân thượng, nhìn những ánh đèn phi cơ lũ lượt bay về hướng Côn-Sơn hoặc bay tít trên cao về hướng tây. Lúc ấy tôi vẫn còn suy nghĩ rất nông cạn: "Mỹ đã bỏ Kampuchia, không lẽ Mỹ bỏ luôn cả miền Nam Việt Nam sao?". Tôi bảo Tính khui một thùng rocket mà đại tá Điệp gọi là "Hoả tiễn chống biển người" thử xem, thùng này dẹp và dài hơn thùng rocket thường, khui ra tôi thấy mỗi thùng chỉ đựng 2 quả, tôi lấy 2 quả đó, và bảo Tính khui thêm ba thùng nữa đem lại, tôi và Tính gắn 8 quả rocket ấy vào dàn phóng.

    Trời đã tờ mờ sáng, tôi cất cánh vội vã lúc 5 giờ 50. Tôi đã dặn Trung trực sẵn tầng số FM của máy PRC 25 chờ tôi, cất cánh xong vừa lấy cao độ vừa gọi Trung. Vừa nghe tiếng tôi, Trung nói ngay: "Chúng nó nấp vào các ụ phi cơ phía bên kia, chúng đã chiếm tới đài kiểm báo rồi". Tôi tính toán rất nhanh, VC ở trong các ụ phi cơ phía đông nam phi trường, tôi bay thật thấp, cao độ 500 bộ, lấy trục tấn công từ đông sang tây, tôi bay đến gần, thấy chúng nó quá đông, nấp dài theo ụ phi cơ, đưa lưng về hướng tôi đang bay tới, làm bia cho hỏa tiễn chống biển người. Tôi bật công tắc 2 quả: số 1 và số 8, chúi mũi phi cơ xuống thấp nữa, thật gần, nhắm thật chính xác, hồi hộp lẩy cò, hai quả rocket phóng ra, 2 tiếng nổ lớn, hỏa tiễn nổ tung thêm lần nữa, tỏa ra đám khói nhỏ màu hồng nhạt, tôi thấy những thây người nhảy dựng tung lên. Tôi bắn trúng là vì tôi liều mạng xuống thật thấp, với lại chiếc phi cơ số đuôi 288 này là con tàu tôi thích nhất, bắn rocket rất dễ trúng mục tiêu, nên lần nầy tôi bắn thật chính xác. Tôi đoán chúng đã biết hướng bay của tôi, bây giờ những tên còn sống chắc đã chạy qua hướng đông dựa lưng vào vách ụ, chong súng chờ tôi bay vào tấn công từ đông sang tây như lần trước, thì tôi không bắn được chúng, và sẽ bị chúng từ sau bắn tới phi cơ tôi.

    Tôi bay vào Sóc Trăng, quyết định đổi trục đánh từ tây sang đông, tôi vào trục đánh, từ xa, xuống thật thấp tiến lại để địch không thấy tôi bay tới. Tôi bật công tắc 2 quả: số 2 và số 7, gần đến mục tiêu, tôi kéo nhẹ cho mũi phi cơ nhô lên, tôi thấy đúng như tôi nghĩ, bọn chúng lưng dựa vào vách ụ, hằng trăm mũi súng đang chĩa về phía tôi, bây giờ tôi đang trực diện chúng, chúng quá bất ngờ vì tôi đổi hướng bay, chúng chưa kịp phản ứng thì tôi đã lẩy cò, hai quả nổ tung, phóng hàng ngàn mũi tên thép chụp xuống chúng như một trận mưa rào, lần nầy không còn chịu đựng nỗi, chúng bỏ phòng tuyến tốc chạy ào về hướng đầu phi đạo phía nam, quân ta rượt theo bắn giết, đến cuối phi đạo chúng phải lội vượt qua một cái hào khá lớn, mục tiêu quá tốt, lần này tôi chỉ phóng từng quả một vào đám quân đang bơi thục mạng bên dưới.

    Sáng sớm, khi vừa cất cánh, tôi đã gọi Trung tâm hành quân không trợ 4 (ASOC 4) xin phi tuần, giờ nầy vẫn chưa cho biết có phi tuần hay không? Địch đã tổn thất nặng nề, đang rút lui chạy đen đầu ngoài đám ruộng khô phía nam phi trường, bây giờ có gunship hoặc pháo binh thì hay quá, tôi gọi lại ASOC 4, có tiếng trả lời: "Sơn Ca 23, bạn hãy chờ?". Tôi gào thét gọi pháo binh để bắn theo truy kích, anh tiểu đòan trưởng nói: "Sơn Ca, anh đừng gọi nữa, bọn họ đã bỏ đi hết rồi, bây giờ chỉ còn anh trên đó và tôi dưới này thôi, khi nào có ghé Sóc Trăng, gọi tôi "Đống Đa, Ủng Hộ, Đống Đa”, tôi ra nhậu với mấy anh một bữa cho đã điếu".

    Tôi không còn hỏa tiễn để bắn, tôi bay đuổi theo địch để anh Lợi ngồi ghế sau bắn M79 xuống, còn tôi điều chỉnh mấy khẩu súng cối cơ hữu của tiểu đoàn bắn theo tới tấp. Phi vụ hành quân yểm trợ quân bạn hôm nay hy hữu vô cùng, phi cơ quan sát của chúng tôi không bao giờ trang bị vũ khí, vũ khí của chúng tôi là gọi pháo binh bắn, hay hướng dẫn oanh tạc cơ thả bom, bây giờ khản cổ xin oanh tạc cơ mà chẳng thấy ai trả lời, còn pháo binh thì đã "lên đường hết rồi". Tôi không ngờ đây là phi vụ hành quân cuối cùng trong đời binh nghiệp của tôi, sau này tôi mới biết: "Tôi đã bay phi vụ hành quân cuối cùng của Không lực VNCH".

    Lúc ấy, nhìn đồng hồ tôi đã bay hơn 4 tiếng rồi, tôi gọi Trung: "Tao về đáp đổ xăng, lắp rocket lên bắn tiếp, tụi mày đừng cất cánh vội, tụi nó còn chém vè xung quanh phi trường nhiều lắm". Trên đường bay về, tôi tiếp tục điều chỉnh súng cối bắn, thì VC vào tầng số FM của tôi đang liên lạc với quân bạn, gọi tôi: "Sơn Ca, Dương văn Minh đã tuyên bố đầu hàng rồi, sao anh còn bắn chúng tôi hoài vậy?". Anh Lợi hét lên: "Mày đừng nói láo, Dương văn Minh đầu hàng thì tao...". Chúng nó chẳng thèm trả lời, mà đưa ống liên hợp của máy FM vào gần máy thu thanh, để cho chúng tôi nghe được lệnh kêu gọi buông súng tại chỗ của ông Dương văn Minh.

    Tôi bàng hoàng tưởng như trong giấc chiêm bao.


    ***
    Tôi về Bạc Liêu đổ đầy xăng, lắp 4 hỏa tiễn chống biển người còn lại và 4 rocket đầu nổ mạnh vào dàn phóng, tôi chạy về nhà. Tôi vừa bước vào nhà thì Thiếu tá Giang Kim Hà (sĩ quan liên lạc KQ tại tiểu khu Bạc Liêu) cũng vừa đến tìm tôi, anh nóí: "Trên Vĩnh Long, tướng Hoàng Văn Lạc của SĐ 9 chưa chịu đầu hàng, mình lên thử xem". Tôi quyết định sẽ bay lên Vĩnh Long để "cứu bồ" SĐ 9.

    Vừa cất cánh xong, tôi gọi Trung ở tần số FM, không thấy Trung trả lời, tôi vào tần số Paddy, gọi xem có bạn nào trên tần số không? Có vài bạn PĐ116 và PĐ122 liên lạc với tôi, tôi báo cho họ biết SĐ9 còn tiếp tục chiến đấu, tôi sẽ lên đáp tại Vĩnh Long.

    Trên đường bay lên Vĩnh Long, tôi đã bắn hết 8 quả rocket vào những mục tiêu nào thì chỉ có duy nhất thiếu tá Hà biết. Tôi đáp xuống Vĩnh Long, lần lượt 6 chiếc khác theo tôi đáp xuống, có một bạn nào đó của PĐ122 báo cho tôi biết, phi đoàn 116 của anh Lý Hữu Hiệp từ Sóc Trăng bay lên, đại úy Trung ngồi ghế sau đã bị VC bắn chết trên phi cơ. Tôi chụp vai anh ta hỏi: "Trung chết thật sao, ông có thấy xác Trung không?"

    Anh ta đáp: "Tôi không thấy, nhưng Lý Hữu Hiệp nói anh ta vừa cất cánh ở Sóc Trăng, thì VC ngoài quốc lộ bắn anh bằng đại liên, anh nghe phi cơ bị trúng đạn, khi đã lên cao, anh gọi Trung, không nghe Trung trả lời, anh quay lại nhìn thấy đầu Trung đã nghẻo sang một bên, Trung đã chết ngay trên phi cơ, Hiệp kể lập cập cho chúng tôi nghe mà mặt mày xanh dờn, còn khiếp đảm lắm"! Trung chết vào giờ thứ 25 của cuộc chiến bỏ lại người vợ trẻ và đứa con thơ...

    Chiều hôm ấy, tướng Hoàng Văn Lạc của SĐ 9 cũng phải ra lệnh buông súng. Vị tiểu đoàn trưởng “Đống Đa, Ủng Hộ, Đống Đa” sau này tôi được biết là Đại úy Võ Văn Đốt , tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 486 của tiểu khu Sóc Trăng. Anh bị phe chiến thắng mang anh từ trại cải tạo về Sóc Trăng, xử tử anh để trả thù trận đánh sau cùng ấy.

    Tiểu đoàn phó TĐ 486 tiểu khu Sóc Trăng là Đại-Úy Tiết, đang sinh sống tại Santa Ana, vô tình gặp lại anh Lợi và tôi trong một tiệc cưới. Anh kể lại cho chúng tôi nghe tầm sát hại của hỏa tiễn chống biển nguời, khi rocket tôi bắn ra, anh ở dưới đất nghe như một trận mưa rào thật lớn, từ trên chụp xuống hàng ngàn mũi tên thép, dài độ 6, 7 phân, sau đuôi có 4 cánh nhỏ, có thể xuyên cả áo giáp, địch ngã ra chết như rạ.

    Còn tôi ở lại phi trường Vĩnh Long, sáng hôm sau, VC vào tiếp thu phi trường, chúng đưa tôi vào khám lớn Vĩnh Long. Cuộc đời tù tội của tôi cũng bắt đầu từ 1-5-1975...

    (Sơn Ca 23 Lê Văn Sùng)

    : - Sơn Ca 23 là danh hiệu truyền tin của Đại úy Lê Văn Sùng. Chuyện kể trên của tác giả sau này được đăng trên nhiều Đặc san KQ,




    Thất thủ Ninh Bình: 33 năm nhìn lại...

    Ngày 20-4-1975 thành phố Ninh Bình bị bỏ ngỏ. Sau tám ngày chống cự mãnh liệt với bốn sư đoàn miền Nam của Đại tướng Ngô Quang Trưởng, Sư đoàn 320 (1) Bắc Việt đã phải triệt thoái về để bảo vệ Hà Nội. Nam Định đã bị các lực luợng Mặt trận (Giải phóng miền Bắc) từ "Bùi Chu đất thép" và "Phát Diệm quê hương đồng khởi" cô lập trong khi Hải Dương bị sư đoàn thuỷ quân lục chiến đe doạ dồn dập tại ngoại vi sau khi làm chủ Hải Phòng. Tình thế không còn lật ngược được nữa, Trung Quốc quyết định hé cửa khẩu Đồng Đăng và Lạng Sơn cho dân chúng và các đơn vị quân đội nhân dân đang đổ xô về phía biên giới, trong khi Tổng bí thư Lê Duẩn đã an toạ tại Bình Nhưỡng cùng với lãnh tụ Khmer láng giềng, ông Pol Pot.

              

    Tăng T54 bị bắn hạ tại Ninh Bình bởi Sư đoàn 18 BB miền Nam
    trên đường tiến đến Hà Nội vào ngày 11-4-1975 (Đỗ Kh)

              

    (1) Chính xác hơn là...Sư đoàn 308.

    - : Sau khi Bộ chính trị và Quân ủy nhất trí giải phóng miền Nam năm 75, tướng Giáp đi Ninh Bình, ông quyết định đưa vào Nam Quân đoàn 1, quân đoàn cuối cùng của miền Bắc.

    Khi ấy Quần đoàn 1 đang giúp dân đắp đê ở Ninh Bình theo kế hoạch nghi binh, nhận lệnh báo động, nhanh chóng theo trục Quốc lộ 1 hành quân vào Nam. Chỉ để lại Sư đoàn 308 ở khu vực Hà Tây làm nhiệm vụ dự bị và bảo vệ Hà Nội. (Huy Đức - Quyền bính) (...trích lục lại)




    Lịch sử nhìn từ âm bản

    Hàng năm cứ vào tháng Tư, lúc cơn gió Hạ Lào khắc nghiệt xoáy về thành phố, những đám mây màu da cam lại bắt đầu phát sáng trên không, ký ức của tôi lại bừng sống dậy với những hình ảnh của một cuộc chiến không thể nào tàn.

    "30-4-1975 là ngày miền Nam tiếp thu miền Bắc. Xe tăng Việt Nam Cộng Hòa đi từ năm cửa ô tiến vào đường Thanh Niên. Dân chúng đứng hai bên đường cầm cờ vàng ba sọc đỏ vẫy chào. Gió lùa lên từ hai phía hồ Tây và hồ Trúc Bạch phe phẩy những giải khăn tang trắng cột trước nòng đại bác. Những người lính thuộc nhiều binh chủng mặc dù đang bị thương, nhưng họ vẫn đứng nghiêm trong tư thế trình diện nhân dân Hà Nội. Xe tăng đi ngang Văn Miếu, vòng quanh chùa Một Cột rồi chuyển hướng tiến về phía quảng trường Ba Đình. Buổi trưa, tiếng xích sắt chiến xa nghiến rát bỏng trên mặt đường tráng nhựa.

    Cả thế giới bàng hoàng chứng kiến lịch sử trên những màn ảnh TV đen trắng. Ngày tàn của cuộc chiến. cộng sản đã quy hàng. Nước Mỹ ngạc nhiên đến câm lặng và Kissinger buột mồm chửi "Fuck!". Tiếng chửi đã được đài BBC thu lại, được cả tỷ lỗ tai loài người thu lại. Sau này ông ta đã viết khá nhiều cuốn sách để bôi xóa nó đi".

    (Đặng Thơ Thơ)





    Thất thủ Ninh Bình: 33 năm nhìn lại...

    Sáng 30-4, tân Chủ tịch nước mới vừa nhậm chức được hai ngày, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngồi trong dinh Chủ tịch đợi các chiến xa M48 của địch tiến vào thủ đô. Lời "thầm hẹn" của nhạc sĩ Phạm Đình Chương trở thành sự thật:

    Hôm nao chiều mưa phơn phớt lạnh
    Hiến cả đời trai với sa trường
    Bao nhiêu chàng trai tay siết mạnh
    Thầm hẹn ngày về quê Bắc ơi!
    (Anh đi chiến dịch)

    (...)




    Lịch sử nhìn từ âm bản

    Ký ức của một người bị bắn vào đầu sẽ có nhiều sai lệch. Những gì tôi nhớ được đến ngày hôm nay, là do tôi cất giữ ở trong đầu. Nếu họ đập đầu tôi lúc đó, họ sẽ nhìn thấy...

    "Xe tăng tiến từ từ đến quảng trường Ba Đình trong tiếng hô hào vang dội, rồi quay về phía lăng Hồ Chí Minh. Nhưng xe tăng không ủi xập tường, không phá hủy lăng ông Hồ như người ta tưởng. Quân đội miền Nam giữ đúng tư cách, họ giải giới vũ khí trong tinh thần nhân bản. Xe tăng ngừng giữa những hàng cây. Gió tháng tư hiu hiu ngọt mùi hoa sữa. Những ủy viên trung ương đảng cộng sản đang đứng dưới cột cờ. Họ đã bỏ quần áo đại cán thay trang phục thường dân. Họ gỡ lá cờ đỏ sao vàng xuống. Những người lính miền Nam đứng theo đội hình, lặng lẽ làm nhân chứng: Như quân đội miền Bắc chiến thắng đứng ở thế nghiêm chào kẻ bái trận là quân đội miên Nam trong cuộc Nội chiến Nam-Bắc Hoa Kỳ. Cuộc hạ kỳ nào cũng làm chúng ta bùi ngùi, dù lá cờ thuộc về phe nghịch. Đây là lúc gấp lại quá khứ để mở ra tương lai, như thể quá khứ chỉ là một mảnh vải hình chữ nhật, một mảnh vải che vừa vặn chiếc quan tài.

    Đầu những người lính miền Nam vẫn còn quấn băng che lỗ đạn bắn vào màng tang hôm trước. Dáng họ lảo đảo. Có thể thấy máu vẫn còn chảy dưới mớ tóc bệt trán, bên dưới thái dương..."

    (...)




    Thất thủ Ninh Bình: 33 năm nhìn lại...

    Trên cầu Chương Dương vào lúc trưa, Đại uý Cao Xuân Huy tác giả về sau của cuốn hồi ký Tháng Tư không gãy súng thuật lại cuộc đổ bộ Vinh của sư đoàn thuỷ quân lục chiến ngồi trên thiết vận xa M113 đi đầu, thấy một chiếc xích lô thong thả từ thành phố đi ra. Trước cảnh lạ lùng này, anh nhảy xuống hỏi thanh niên ngồi trên xích lô: “Anh đi đâu?” - “Đi đâu, đi đâu bây giờ? Xong rồi... Xong hết rồi...". Hành khách này trả lời. Nhưng anh không biết, người thanh niên trên xích lô trưa hôm đó sau lại là nhà thơ Đồng Đức Bốn, có hai câu cảm thán:

    Xong rồi chẳng biết đi đâu
    Xích lô Bà Triệu qua cầu Chương Dương

    11 giờ 30 ngày 30-4-1975, Lữ đoàn 3 Kỵ binh, lực lượng xung kích Quân đoàn 3 miền Nam đã ủi sập hàng rào sắt ngoài cổng dinh Chủ tịch và treo cờ vàng ba sọc đỏ trên nóc dinh. Chạy ngang Cột Cờ (vì đi lạc mất một lúc trong khi tìm Bắc bộ phủ), Đại uý Cao Xuân Huy thấy xác một thượng tá công an tự sát nằm ngay ngắn với khẩu Makarov bên cạnh, ông ta nằm ngay ngắn dưới chân tượng Lê-nin đứng vẩn vơ, lạc lõng trước công viên Bắc bộ phủ.

    (...)




    Lịch sử nhìn từ âm bản

    Ký ức tôi rất nhạy với mùi máu. Máu vẫn còn rỉ trong đất dù những xác chết đã ngưng thở. Chín cái xác người vẫn còn nằm đó, Đại tá Đặng Sĩ Vinh và vợ con, mỗi người một viên đạn ghim giữa sọ. Những lá cờ vàng ba sọc đỏ đang che phủ thi thể và họ trở thành biểu tượng bình lặng nhất của cuộc chiến. Nhưng mùi máu vẫn đi xuyên qua vải, xộc lên mũi, lạnh óc. Mà máu đâu chỉ là máu thôi? Máu còn là nước rửa tội. Có những tội lỗi chỉ rửa sạch được bằng máu. Sự phản bội chẳng hạn. Cho nên cần nhiều máu để lau chùi sự phản bội của một tập thể, của những hiệp ước, của trước và sau chiến tranh, của một vị tướng ngang tàng đến đứa con cầu tự. Sự phản bội không thuộc riêng ai, nó như thuộc tính của con người.

    "Vậy là cuộc giải giới đã hoàn thành trong tình huynh đệ. Họ đã bắt tay nhau. Người chiến thắng đã đưa tay ra trước. Tấm hình người bộ đội và lính biệt động (1) đứng cạnh nhau đã xuất hiện trên trang nhất của các nhật báo toàn cầu. Báo Times còn tiết lộ họ chính là anh em ruột" (nguồn tin lấy từ tờ Chính Luận – Sài Gòn).




    Bên bờ chiến sử

              

              

    Phóng viên Chu Chí Thành (TTXVN) tháng 4-1973 chụp tại cổ thành Quảng Trị 2 người lính hai bên chiến tuyến khoác tay nhau (trong dịp ngưng bắn?). Nhưng ông quên ghi tên tuổi và đơn vị. 40 mươi năm sau, từ tấm ảnh chụp người lính miền Nam vô danh được "huyền thoại" là thuộc Tiểu đoàn 5, Lữ đoàn 258 TQLC (1). Còn người lính miền Bắc đã..."sinh Bắc tử Nam" sau 75. Thêm một "huyền thoại" khác nữa: 2 người lính hai bên chiến tuyến là...hai anh em ruột.
    (...)




    Thất thủ Ninh Bình: 33 năm nhìn lại...

    Ở ngõ Hàng Hành, người ta thấy một người đàn ông trung niên mang quân phục miền Nam đứng vơ vẩn một lúc lâu (cạnh căn nhà giờ là càfé Nhân) rồi ngồi sụp xuống vỉa hè ôm mặt khóc. Vài người đánh bạo rụt rè ra hỏi chuyện "giặc nguỵ" này thì ông nức nở thật sự chứ không phải chỉ vì bị hành làm cay mắt.

    Đó là nhạc sĩ Anh Bằng và thay vì trả lời ông run run cất giọng:
    Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
    Bao nhiêu mộng đẹp yêu thương thành khói tan trong mây chiều
    (Nỗi lòng người đi)

    Cố nhân của nhạc sĩ "Ai đứng trông ai ven Hồ, khua nước trong như ngày xưa", hàng xóm cho biết là giờ nay là nữ cứu thương trên chiến trường và đã mịt mờ tăm tích nhưng nội chiến tương tàn Nam Bắc vừa mới kết thúc và Việt Nam hoà bình, thống nhất và độc lập sau 20 năm.

    (...)




    Lịch sử nhìn từ âm bản

    Trong buổi lễ bàn giao ở trụ sở Trung ương đảng Hà Nội, người chiến thắng đã nói:

    "Trong chiến tranh, chúng ta dù theo đuổi những lý tưởng khác nhau, đều đã hành xử như những người lính can trường. Nỗ lực này cần phải được ghi nhận từ mọi phía. Con cháu chúng ta khi học lịch sử Việt Nam sẽ không khen người thắng không chê kẻ bại, nhưng sẽ ghi nhận sự can trường hay hèn nhát của những người tham chiến (1).

    Các anh yên tâm. Chúng tôi sẽ không bắt giam những người cách mạng. Bộ đội không phải đi học tập cải tạo, không phải lao động khổ sai. Ngay cả đảng viên cũng vậy. Chúng tôi sẽ không đấu tố tổng bí thư, không chôn sống bộ chính trị. Những nhà tù sẽ phải phá đi. Ba mươi năm qua chúng ta đã chơi một trò chơi điên rồ, và cám ơn trời Phật, trò chơi đã chấm dứt."

    (...)

    (1) Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trong hồi ký Can trường trong chiến bại.




    Thất thủ Ninh Bình: 33 năm nhìn lại...

    Nếu đây là chuyện xảy ra hơn 30 năm về trước và cho là như vậy, thì để tiếp tục chuyện này cho đến 2007, cần có một số câu hỏi phải trả lời.

    Việt Nam Cộng Hoà trong những năm sau đó (và đến giờ này) có áp dụng chính sách lý lịch và phân biệt hay không, chẳng những đối với những người trách nhiệm và ít nhiều hệ luỵ với chế độ miền Bắc hay đảng cộng sản, mà đối với cả con cả cháu của họ?

    Đối với những người trách nhiệm nói trên, chậm chân không sang Trung Quốc, Bắc Triều Tiên kịp (hay tị nạn Cuba), có lùa 30.000 từ cấp chuẩn uý trở lên vào các trại học tập dân chủ tư sản và gắng cải tạo họ thành doanh gia mẫu mực của kinh tế thị trường?

    Ngoài hơn 100.000 người vào những ngày cuối sang lánh nạn ở các nước xã hội chủ nghĩa, có hơn triệu người phải chôn dầu, đóng thuyền từ Bãi Cháy, Quảng Ninh vượt biên tìm đường sống ở Liên Xô, Hung, Ba Lan, Tiệp hay không?

    (...)




    Lịch sử nhìn từ âm bản

    Ký ức tôi vẫn chơi trò nhìn từ âm bản, nhìn bóng tối thành ánh sáng, nhìn trắng thành đen, nhìn cỏ xanh thấy ra máu đỏ. Tôi đang xoay chiều lịch sử trong thế giới của riêng mình, lịch sử của những người đã chết.

    Dưới chân tượng người lính thủy quân lục chiến, những giọt máu cuối cùng của Nguyễn Văn Long đang trút xuống để viết lên lịch sử. Máu tuôn ồng ộc trên những bậc thang. Máu rút qua khe cỏ thấm giữa lòng đá, máu trở về đất và nằm mãi nơi đó. Pho tượng lính đã bị kéo xập. Gạch vụn đổ lên xác người trung tá. Mỗi người có cách viết lịch sử riêng của họ. Người ta đã bôi xóa nhiều thứ khỏi thực tại nhưng vẫn còn ký ức là vùng bất khả xâm phạm.

    Bạn tôi Hồ Ngọc Cẩn đang đứng giữa phiên tòa công cộng. Anh đã dùng đến viên đạn cuối cùng. Đến phiên những người công an chỉa súng và bạn tôi trở thành tên phản động, thành tay sai đế quốc, thành kẻ phản bội nhân dân. Bản án của họ vội vã, lấp liếm, trá ngụy. Họ xử tử ngay giữa chợ. Hồ Ngọc Cẩn nói: Cho tôi mặc quân phục miền Nam, cho tôi chào lá quốc kỳ lần chót, rồi hãy bắn tôi.

    Trong ba điều ước, người cộng sản chỉ cho anh điều cuối.

    "Những anh hùng liệt sĩ hai miền đang gượng dậy từ cuộc mất máu. Lê Anh Tuấn (1) không nhặt khẩu Colt45 văng giữa lòng thuyền. Lê Văn Hưng nhét súng lục dưới nệm và bỏ quên ở đó. Lê Nguyên Vỹ bước tới tương lai, khẩu súng để lại dưới cột cờ của tổng hành dinh doanh trại. Vũ khí không còn hữu dụng nữa. Họ cùng Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai đang chỉ huy đoàn xe tăng đi ngược đường Trường Sơn, theo Quốc lộ 1 băng qua những vùng chiến thuật. Khắp nơi mặt đất nở hoa huệ trắng. Chỉ có mùi huệ tinh khiết mới át nổi mùi tử khí còn tươi roi rói."

    (...)

    (1) Thiếu tá Lê Anh Tuấn sau lệnh bỏ súng của ông Dương Văn Minh vẫn hiên ngang chỉ huy đoàn chiến đỉnh về Bến Lức. Khi bị chận đêm 30-4-1975, thiếu tá Tuấn tự sát bằng Colt45 không chịu đầu hàng (theo Hồ Văn Kỳ Thoại). Tướng Lê Văn Hưng trước khi tự vẫn đã dấu súng dưới nệm, vì sợ vợ ông tìm thấy súng sẽ tự vận theo (theo lời kể của bà Phạm Thị Kim Hoàng, vợ tướng Hưng). (Nguồn: Đặng Thơ Thơ)




    Thất thủ Ninh Bình: 33 năm nhìn lại...

    Hà Nội có phải đổi tên hay không? Và đổi tên gì, tên ai?
    (...)




    Lịch sử nhìn từ âm bản

    " Ra đến Bắc, đoàn xe tăng biến thành xe tải đi khắp thành phố làng mạc. Những chiếc xe tải mang gạo, mang nhu yếu phẩm, mang thuốc men, mang sách vở từ trong Nam ra phân phát cho dân miền Bắc. Dân chúng ùa ra đường ăn mừng hòa bình.

    Những người con bộ đội đã trở về. Lưu Quang Vũ ngồi viết những bài thơ khác, trên sân khấu của anh là những vở kịch khác và một định mệnh khác ngoài đời. Dương Thu Hương (1) nếu có khóc cũng sẽ là những giọt nước mắt khác, trên những vỉa hè khác, cho những thân phận khác. Truyền hình trên thế giới nhận định: “Đây mới là đổi đời thật sự. Người miền Bắc ăn mừng sự phá sản của chế độ tem phiếu và hộ khẩu. Họ ăn mừng ngày tàn của chế độ cộng sản. Từ nay trở đi, chuyện đấu tranh giai cấp chỉ là một khái niệm gớm ghiếc. Những từ ngữ ghê rợn như tịch thu nhà, đánh tư sản, kiểm kê, kinh tế mới... chỉ là những giải nghĩa lỗi thời trong tự điển. Cơn ác mộng của miền Bắc ba mươi năm kháng chiến chống Mỹ đã qua đi."

    (...)

    (1) - Việt Tide: Bà từng viết rằng, ngày 30-4-1975, khi các phụ nữ khác trong đoàn quân của bà trầm trồ trước sự phát triển vật chất của miền Nam thì bà ngồi khóc trên lề đường Sài Gòn.

    Bà có thể nhắc lại tâm trạng của bà lúc đó?

    - Dương Thu Hương: (thở dài) Khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cà mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí.

    Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do, tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè.

    Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử.

    (Đinh Quang Anh Thái phỏng vấn bà Dương Thu Hương tại Paris)




    Thất thủ Ninh Bình: 33 năm nhìn lại...

    Chuyện đổi tiền bắt buộc phải xảy ra, nhưng sẽ xảy ra như thế nào? Có chiến dịch kiểm kê tài sản, tịch thu văn hoá phẩm, đốt sách không? Lực lượng Xung kích Quân đoàn 3 miền Nam ngày nay có làm chủ toàn thể khu vực Gia Lâm, tịch thu nhà cửa của quân nhân chế độ cũ ở Phố Lính để rầm rộ kinh doanh? Vợ con của thành phần chế độ cũ này có phải đẩy đi kinh tế mới, đào đắp thuỷ lợi không?

    Nói chung và nói rộng, vào ngày hôm nay, 2007, thì về mặt dân chủ chính trị, tự do xã hội, quyền lợi lao động, về mặt giáo dục, y tế công cộng, về mặt công bằng, về cách biệt giàu

    nghèo, về mặt tội ác, tiêu cực xã hội...đất nước đang ở vị trí nào?




    Lịch sử nhìn từ âm bản

    Buổi chiều trên dốc Thiên Thu, những vong linh ở nghĩa trang Quân Đội bay chập chờn trên đỉnh núi Châu Thới, những vong linh nhìn về trời và hát vu vơ: Chiều lên trên đồi cao, hát trên những xác người, tôi đã thấy...tôi đã thấy...trên cuộc đời, những hiện thực này không phủ nhận nhau. Những hiện thực của âm và dương không triệt tiêu nhau. Chúng cùng tồn tại.


    "Ủy ban quân quản miền Nam quyết định lưu giữ tất cả những di tích văn hóa lịch sử dựng lên từ thời cộng sản. Họ cũng quyết định không đốt sách, dù là sách tuyên truyền, dù là nghệ thuật minh họa. Tượng Lê-nin đứng gác ở công viên Hà Nội cũng để nguyên. Những bài ca từ thời hồng và chuyên cũng vậy. Âm nhạc sẽ đi qua cánh đồng thời gian không biên giới. Tiến quân ca vẫn cứ là niềm tự hào của nhiều thế hệ từng tham gia kháng chiến".

    (...)




    Thất thủ Ninh Bình: 33 năm nhìn lại...

    Việt Nam Cộng Hoà (thống nhất), sau nhiều lần bầu cử tự do và đa nguyên, tưởng đã được quân đội để yên, lại vừa có mấy cha nội nào đó đảo chánh. Thủ tướng là người giàu nhất nước vừa mới phải ra đi sau khi bán công ty viễn thông do ông thành lập (FPT) với giá 1,2 tỉ USD cho Singapore. Đĩ thì đầy đường, rất là vui mắt, nhưng về mặt phát triển kinh tế, chẳng ai lo hay phải ngồi bàn ra cãi vào là chẳng bao giờ hay bao nhiêu năm nữa mới đuổi kịp một quốc gia bên cạnh như là Thái Lan.

    (Đỗ Kh)




    Lịch sử nhìn từ âm bản

    Ký ức tôi rất dễ bị tổn thương với những bài ca. Những lời ca vẫn làm tôi phải khóc như một đứa bé thơ: Này công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi, đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống...Bài ca này anh em chúng tôi sẽ hát trước giờ cố thủ, trước khi kề súng sát màng tang.

    "Hai tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng đã thành công trong việc cố thủ Cần Thơ, đã giữ được quân khu 4 và bảo toàn tỉnh Chương Thiện. Đoàn xe khởi hành đúng ngày 30 tháng Tư. Theo hoạch định, họ sẽ đến Hà Nội kịp thời để dự đám tang tập thể trên phố Khâm Thiên vì bom đạn. Cả trăm cỗ quan tài đặt tạm trên nền hố bom, gạch vỡ. Nến chảy leo lét giữa những căn hộ không mái không tường. Sáu giờ chiều là lúc cửa âm mở, là lúc những vong linh nhập vào làn khói đang bốc lên uể oải để hiện nguyên hình dạng. Khói hương lẩn khuất đọng giữa lối đi trên phố, không tan.

    Đám tang xong, hai tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng và tướng Ngô Quang Trưởng cùng những người lính miền Nam quay về Huế thăm nấm mồ tập thể từ sau cuộc thảm sát Mậu Thân 1968. Đoàn xe của họ sẽ lại băng ngang vĩ tuyến 17, nhiều lần như vậy...

    Ranh giới ấy bây giờ chỉ còn là một đường nứt đã phai mờ.

    (Đặng Thơ Thơ)

    Tác giả sinh năm 1962, sang Hoa Kỳ năm 1992, là cháu ngoại của nhà văn Hoàng Đạo trong nhóm Tự lực văn đoàn. Hiện đang chủ trương tạp chí Da Màu.




    Lý do miền Nam Việt Nam thất trận

    (tiếp nối với Ai đã gây ra biến cố 30-4-1975)
    - Hoa Kỳ đã chuyển chiến trường từ Á Châu sang Trung Đông.
    - Tại Trung Đông, vì nhu cầu dầu lửa trở nên cấp thiết trên thế giới. Khủng hoảng dầu hỏa vào thập niên 1970 buộc chính phủ Mỹ phải thay đổi chiến lược.
    - Tại Á Châu, vì Hoa Kỳ bắt tay được với Trung Cộng, làm rạn nứt khối Cộng sản đưa đến sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu sau này.

    ("VietNam – A History" - Stanley Karnow)




    Bắt đầu của một kết thúc

    Vào khoảng tháng 1-1974, bộ Tổng tham mưu được phía Hoa Kỳ thông báo viện trợ quân sự trong tài khoá 74-75 bị cắt giảm 300 triệu mỹ kim. Tổng Cục tiếp vận (tướng Đồng Văn Khuyên) phụ trách việc cung cấp quân trang, quân dụng, xe cộ, vũ khí và đạn dược cho toàn thể quân lực VNCH đã nghiên cứu một kế hoạch để đối phó với tình hình mới: Chỉ có thể thỏa mãn một quân đội với số quân ít hơn; và số quân đó chỉ có khả năng phòng thủ một lãnh thổ tương xứng của VNCH mà thôi. Kế hoạch này rất hợp lý trên thực tế. Nhưng tổng thống Thiệu, với tư cách tổng tư lệnh quân Lực VNCH, đã đề ra đường lối "Bốn Không" (một trong những cái không đó là không cắt đất cho cộng sản).

    Thấy kế hoạch của tổng cục tiếp vận trái với quốc sách trên nên tác giả (tướng Cao Văn Viên) không chỉ thị trình lên tổng thống một cách chính thức. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, tham mưu trưởng liên quân kiêm tổng cục trưởng tổng cục tiếp vận, được phép trình miệng kế hoạch trên cho tổng thống. Theo lời tướng Khuyên trình lại, sau khi nghe thuyết trình, tổng thống Thiệu không có chỉ thị gì thêm, và cũng không có chỉ thị nào trực tiếp cho tác giả. Vì những lý do trên, kế hoạch bị bỏ qua một bên.

    (Những ngày cuối của VNCH, nguyên tác "The Final Collapse" của cựu Đại tướng Cao Văn Viên – Dịch giả: Nguyễn Kỳ Phong)




    Ai đã gây ra biến cố 30-4-1975

    Câu hỏi này đã được bàn cãi từ nhiều năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý. Điển hình là trong cuộc hội thảo "Việt Nam, 35 năm nhìn lại" (Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference) tại Washington D.C. quy tụ gần 200 nhân vật nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã... cũng không đưa ra được câu trả lời cho câu hỏi: Ai đã gây ra biến cố 30.04.1975?

    Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra biến cố 30-4-1975. Giáo sư Huy cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết đó là những Mỹ gốc Do Thái. Vì họ nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào hành pháp, lập pháp cũng như tư pháp. Trong các bộ quan trọng nhất như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số người Do Thái và nhiều bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong thượng viện và hạ viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực họ rất lớn và đã khiến cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn bênh vực quyền lợi của Do Thái.

    Tham dự Hòa đàm Paris, giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng (đi đêm) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.

    (Phạm Trần Hoàng Việt)




    Bắt đầu của một kết thúc

    Sau cuộc tấn công của Bắc Việt vào tháng 4-1972 (Mùa hè đỏ lửa), quân đội VNCH tái chiếm các phần đất đang nằm trong tay địch. Ở Quân Khu I, hành quân Lam Sơn 72 được khai diễn. Đến tháng 9-1972, quân ta đã chiếm lại thành phố Quảng Trị và phần lớn lãnh thổ của tỉnh. Một hành lang phòng thủ được thiếp lập song song với sông Thạch Hãn, chạy dài ra bờ biển.

    Ở Quân Khu II, nhiều cuộc hành quân được tổ chức nhằm giải tỏa áp lực địch ở Kontum, Pleiku, giải tỏa các quốc lộ 19, 21, và đoạn đường Pleiku-Kontum trên Quốc lộ 14. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Quân đoàn II được bổ sung thêm hai liên đoàn Biệt động quân, có cấp số tương đương hai trung đoàn để tổ chức lại từ Quân khu IV. (quân khu và quân đoàn giống nhau trong ý nghĩa quân sự; Quân đoàn II phụ trách an ninh cho Quân khu II, v...v...)

    Ở Quân khu III, lực lượng thành công giải tỏa An Lộc và vùng phụ cận. Trong khi đó, ở Quân khu IV nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của quân đội VNCH. Tình hình quân sự trong nửa năm còn lại của năm 1972, nói một cách tổng quát, ta và địch ngang nhau trên chiến trường. Trong khi đó kế hoạch rút quân của Hoa Kỳ đang tiếp tục diễn ra.

    (...)




    http://chimviet.free.fr/lichsu/phingoch ... Ky16_a.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: tạp ghi sau 40 năm (kỳ 17)

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • tạp ghi sau 40 năm
              
    (kỳ 17)

    ___________________________
    phi ngọc hùng _ 2015





    Ai đã gây ra biến cố 30-4-1975

    Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái.

    Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy Sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội cho họ dựng lại đất nước vào ngày 14.-5-1948 sau gần 2.000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó tổng thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này. Hoa Kỳ hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ. Từ đó mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái nữa. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.

    Tướng độc nhãn Moshe Dayan, bộ trưởng quốc phòng của Do Thái, đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (25 tới 27 tháng 7 năm 1966). Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được, lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến. Tiếc thay sau này vẫn còn có những bình luận gia ca ngợi những phân tích và đề nghị của Moshe Dayan mà

    không hiểu đó chính là một trong những người đã góp phần "khai tử" miền Nam!

    (...)




    Bắt đầu của một kết thúc

    Trong hai năm 1973 và 1974, Bắc Việt không chiếm được một tỉnh hay phần đất nào của VNCH. Có lúc họ nghĩ đến chuyện đánh Tây Ninh hay Kontum, nhưng phòng thủ của hai tỉnh đó nằm ngoài khả năng quân sự của họ. Không còn mục tiêu nào, Bắc Việt chuyển hướng về Phước Long, một tỉnh lỵ nằm cực bắc của Vùng 3.

    Tháng 10-1974, qua tình báo, phản gián, hồi chánh viên và tù binh, bộ Tổng tham mưu biết được kế hoạch Bắc Việt chuẩn bị đánh chiếm Phước Long. Tin tức được bộ Tổng tham mưu chuyển đến bộ tư lệnh Quân đoàn III, và bộ chỉ huy tiểu khu Phước Long.

    Một buổi họp khẩn cấp được triệu tập tại dinh Độc Lập. Tổng thống Thiệu chủ toạ như thường lệ, với sự tham dự của Phó tổng thống Trần Văn Hương, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Phụ tá an ninh quốc phòng Đặng Văn Quang, Tư lệnh không quân Trần Văn Minh, Tư lệnh Quân đoàn III Dư Quốc Đống, Trung tướng Đồng Văn Khuyên, và tác giả (Cao Văn Viên). Đề tài của buổi họp là có nên tăng viện cho Phước Long hay không.

    Bộ Tổng tham mưu không còn quân tổng trừ bị: Hai sư đoàn Dù và TQLC đang được xử dụng cho Vùng 1 và tình hình không cho phép hai đơn vị rời khỏi mặt trận. Tình hình chiến sự ở hai Vùng 2 và 4 cũng không cho phép giảm thiểu quân số nếu muốn cán cân quân sự được quân bình và an ninh được bảo đảm. Riêng tại Vùng 3, hai sư đoàn cơ hữu của quân đoàn là Sư đoàn 18 và 25 BB được dùng án ngữ khu vực Tây Ninh, cản áp lực của Công trường (sư đoàn) 5 và 9 Bắc Việt đang hướng về Sài Gòn.

    (...)

    : - Theo William E. Le Gro trong Vietnam from Cease-Fire to Capitulation, trang 133, Phước Long là căn cứ của nhiều bộ chỉ huy chiến thuật, tiếp liệu của Bắc Việt ở đồn điền Bù Đốp-Bố Đức chỉ cách phi trường Sông Bé 45 cây số. Phước Long là đoạn cuối của bốn đường xâm nhập bắc nam tụ về.

    : - Lực lượng đánh vào mặt trận Phước Long là Quân đoàn 4, (Thiếu tướng Hoàng Cầm, tư lệnh). Các trung đoàn tham dự là 3 Trung đoàn 141, 209, 165 của Sư đoàn 7, ba trung đoàn 201, 271, 16, và hai trung đoàn cao xạ. (Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập II, Quyển 2).




    Ai đã gây ra biến cố 30-4-1975

    Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự vào trong guồng máy cầm quyền Hoa Kỳ. Đáng kể là Bộ trưởng quốc phòng James Schlesinger, cố vấn đặc trách nội vụ John Ehrlichmann. Với những chức vụ then chốt này, họ đã thúc đẩy Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam hóa chiến tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam. Năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Cộng tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.

    Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho John Ehrlichman như sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chính phủ miền Nam) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự, Kissinger đã trấn an Nixon: "Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì...chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt Nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng". Bởi vậy biến cố 30-4-1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.

    Chỉ sau Hiệp định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6-10-1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều (sau đó Tướng độc nhãn Moshe Dayan phải từ chức bộ trưởng quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận). Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.

    Bởi vậy mới xảy ra biến cố 30-4-1975.

    (...)




    Bắt đầu của một kết thúc

    Trong khi đó Bắc Việt chuẩn bị tấn công Pleiku: Tụ quân đông hơn và che giấu kế hoạch chuyển quân về Ban Mê Thuột qua nhiều cách: Sư đoàn 316 bị cấm liên lạc qua máy truyền tin trong suốt thời gian chuyển quân. Sư đoàn 320 đánh lừa đối phương bằng cách để ban truyền tin sư đoàn ở lại Đức Cơ. Sư đoàn F-10 tránh đụng độ với các toán thám sát để bảo toàn mục tiêu di chuyển.

    Khi tấn công Ban Mê Thuột vào rạng sáng 10-3, lực lượng chính quy địch dồn mọi nỗ lực đánh vào bộ chỉ huy tiểu khu, và bộ chỉ huy tiền phương Sư đoàn 23. Bị tấn công mãnh liệt ngay từ phút đầu, bộ chỉ huy tiểu khu không còn kiểm soát và điều khiển được các lực lượng dưới quyền. Cảnh sát, địa phương quân chiến đấu một cách rời rạc và hỗn loạn. Tình trạng của bộ tư lệnh Sư đoàn 23 cũng tương tự: bị áp lực mạnh và dồn dập từ phút đầu. Phòng tuyến tử thủ của bộ tư lệnh nằm trong tình trạng hiểm nghèo khi xe tăng địch bắn trực xạ từ ngoài vòng rào. Không quân bỏ bom yểm trợ nhưng một trái bom rớt vào phòng truyền tin, cắt đứt mọi liên lạc với mặt trận và quân khu.

    Sự phản công và kế hoạch giải vây của quân ta đã không được thực hiện hữu hiệu ngay từ phút đầu. Hai Trung đoàn 44 và 45 thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh được thả xuống Phước An, dùng nơi đó làm bàn đạp tiến về Ban Mê Thuột. Nhưng Phước An vào thời điểm đó là một trung tâm tạm cư của tất cả ai chạy thoát từ Ban Mê Thuột. Ở đây, nhiều binh sĩ gặp lại gia đình đã bỏ đơn vị và một số binh sĩ khác đã tự động rời hàng ngũ đi tìm thân nhân mất tích. Một đạo quân đi giải vây không thể hoạt động hữu hiệu trong tình trạng như vậy. Bốn ngày sau, sư đoàn F10 chiếm được Phước An và hy vọng giải vây Ban Mê Thuột tan vỡ.

    (...)

    ; - Theo đại tá Lê Khắc Lý, tham mưu trưởng quân đoàn, chỉ có năm ngàn quân trong số 20 ngàn quân nhân trong các đơn vị yểm trợ, tiếp liệu về được Tuy Hòa. Chỉ có 900 trong số năm liên đoàn BĐQ về trình diện ở Nha Trang.




    Ai đã gây ra biến cố 30-4-1975

    Động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam được che dấu không đưa ra dư luận nổi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí nằm trong tay thế lực Do Thái. Điển hình, vẫn còn có những học giả (Tiến sĩ Stephen Randolph trong "Việt Nam, 35 năm nhìn lại" (Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference tại Washington D.C.) cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam vì đang câu con cá to hơn "has bigger fish to fry". Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam hóa chiến tranh.

    Về phía miền Bắc, họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng..."Đồng Minh tháo chạy". Thực tế, nếu không có thế lực Do Thái qua Kissinger thì chưa chắc gì miền Bắc sớm thắng trận. Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi tổng thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo cương quyết của ông chắc chắn miền Nam sẽ không thể dể dàng sụp đỗ như đã xảy ra trong ngày 30-4-1975.

    (...)




    Bắt đầu của một kết thúc

    Hai ngày sau lần gặp lịch sử để bàn thảo về chiến lược tái phối trí ở dinh Độc Lập, tổng thống Thiệu tỏ ý muốn gặp Tư lệnh quân đoàn II Phạm Văn Phú tại bộ tư lệnh quân đoàn ở Pleiku. Thời gian này, Ban Mê Thuột đã hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của địch. Pleiku đang bị áp lực mạnh; pháo của địch bắn dọa dẫm vào thành phố từng hồi. Pleiku quá nguy hiểm để họp, tướng Phú đề nghị một địa điểm khác, Cam Ranh được chọn cho cuộc họp vào ngày 14-3-1975. Địa điểm được chọn phù hợp với ý nghĩa lịch sử vì là một tòa nhà do quân đội Hoa Kỳ xây năm 1966, dùng làm nơi tạm nghỉ ngơi cho chuyến viếng thăm Việt Nam của tổng thống Johnson. Cả ba nhân vật nhóm họp với tổng thống Thiệu ba ngày trước cũng đi theo trong buổi họp ở Cam Ranh: thủ tướng Khiêm, trung tướng Quang, và tác giả (tướng Cao Văn Viên).

    Như thông lệ của buổi họp về quân sự, vị tư lệnh quân đoàn mở đầu buổi họp với tường trình về tình hình: Tất cả các thông lộ của Vùng 2 như Quốc lộ 14, 19, 21 đều bị địch quân cắt đứt. Con đường quan trọng nhất là quốc lộ 19, nối liền Pleiku và Qui Nhơn, bị Sư đoàn 3 Bắc quân chận ở Bình Khê. Sau khi tướng Phú chấm dứt tường trình của ông, tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu duy nhất: Tướng Phú có thể nào chiếm lại được Ban Mê Thuột không?. Sau đó tổng thống Thiệu hỏi tướng Phú dùng đường nào để đem quân trở lại Ban Mê Thuột. Tướng Phú không có chọn lựa nào khác hơn là đường 7B đã bị bỏ phế từ lâu.

    Cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên là một thất bại chiến lược. 75 phần trăm lực lượng của Quân đoàn II bị hao tổn chỉ trong 10 ngày. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột cũng thất bại vì quân đoàn không còn quân. Bắc quân chiếm được Kontum và Pleiku không tốn một viên đạn.

    (...)

    : - Khi trở lại Saigon tác giả gọi Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, phụ tá tổng tham mưu trưởng về hành quân, nói cho biết nội dung buổi họp. Tác giả ra lệnh cho tướng Thọ theo dõi cuộc rút quân tái phối trí: giúp tướng Phú khi cần nhưng trong vòng kín đáo.
    Vì đây là quân lệnh tối mật của tổng thống ra lệnh cho tư lệnh chiến trường, bộ Tổng tham mưu không có thẩm quyền ra lệnh cho các đơn vị liên hệ trong cuộc rút quân.

    : - Đây là lệnh trực tiếp của tổng thống Thiệu ra lệnh trực tiếp cho tướng Phú tái chiếm Ban Mê Thuột. Do đó không có lý do gì bộ Tổng tham mưu gọi tướng Phú để thảo luận việc rút lui. Tư lệnh quân đoàn và bộ tham mưu phải có khả năng làm việc đó. Vì vậy tướng Phú chỉ xin bộ Tổng tham mưu cung cấp phương tiện qua sông (cầu trên sông Ba đã bị phá hủy từ lâu).

    : - Theo đại tá Nguyễn Thu Lương, tư lệnh Lữ đoàn 2 Dù, sau khi Ban Mê Thuột mất, đơn vị ông được lệnh chuẩn bị chiếm lại thành phố, rồi giữ mục tiêu trong 10 ngày, chờ quân của Vùng 2 lên tiếp viện. Nhưng vì một lý do nào đó, lệnh trên bị hủy bỏ.




    Ai đã gây ra biến cố 30-4-1975

    Năm 1954: Từ nhiều ngày trước Hiệp định Genève, "Chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp". Hội nghị trung ương đảng lần thứ 6 nhóm họp từ ngày 15 đến ngày 18-7-1954. Hồ Chí Minh báo cáo chính trị về tình hình mới và nhiệm vụ mới với chủ trương "Đế Quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hòa bình ở Đông Dương" từ đó hội nghị đưa ra phương châm: "Chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp..." tr. 7.

    Năm 1955: Những người cầm quyền Trung Quốc khuyên ta "trường kỳ mai phục". Đặng Tiểu Bình, Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 7, 55: "Dùng lực lượng vũ trang để thống nhất đất nước sẽ có hai khả năng: một là thắng và một khả năng nữa là mất cả miền Bắc".

    Năm 1956: Phải đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Mỹ Diệm bằng con đường cách mạng. Nghị quyết của bộ chính trị:... lần này đã đặt vấn đề "đấu tranh vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa", tr.28-29.

    Mao Trạch Đông, tháng 11, 56: “Việc chia cắt nước Việt Nam không thể giải quyết trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ...Nếu mười năm chưa được thì phải trăm năm."

    Năm 1957: Xứ ủy Nam Bộ lập 37 đại đội vũ trang và đơn vị 250 cấp tiểu đoàn.
    Tháng 10, "Chấp hành Nghị quyết tháng 6/56, Nghị quyết tháng 12/56 của Xứ ủy Nam Bộ lập 37 đại đội vũ trang và đơn vị 250, cấp tiểu đoàn ở miền đông Nam Bộ.

    Năm 1959: thành lập các Đoàn 559 xâm nhập miền Nam bằng đường bộ. Ngày 5-1959: Quân ủy trung ương ra nghị quyết thành lập Đoàn 559 còn gọi là Bộ đội Trường Sơn tiếp tế người, vũ

    khí vô Nam bằng đường bộ, sau là đường mòn HCM.

    (...)




    Bắt đầu của một kết thúc

    Đối đầu với năm sư đoàn và nhiều trung đoàn độc lập của Bắc Việt (1), Quân đoàn I chỉ có ba sư đoàn bộ binh, sư đoàn TQLC, bốn liên đoàn BĐQ và một thiết đoàn kỵ binh. Bắc Việt còn vài sư đoàn tổng trừ bị vẫn còn nằm ở miền Bắc. Như vậy, họ vẫn thượng phong về quân số. Vì nằm sát ranh giới, Vùng 1 có thể bị tấn công bất cứ lúc nào.

    Ngày 13-3-1975 tại dinh Đôc Lập. Tổng thống Thiệu chủ tọa buổi họp có mặt của thủ tướng Khiêm, tác giả, tướng Đặng Văn Quang. Sau khi tướng Trưởng chấm dứt tường trình về tình hình Vùng 1, đến lượt tổng thống Thiệu phân tích những khó khăn VNCH đối đầu về vấn đề quân viện. Trong hoàn cảnh như vậy, ông cho biết nếu phải bỏ một số rừng núi cho họ để giữ lại lãnh địa mầu mỡ, thì chúng ta cũng chấp nhận (2). Vùng đất mà ông nói đến là Đà Nẵng.

    Ngày 19-3 dinh Độc Lập gọi tướng Trưởng về Saigon họp thêm lần nữa. Tướng Trưởng trình bày hai kế hoạch triệt thoái. Kế hoạch Một: xử dụng Quốc lộ 1 làm trục chính và cùng lúc rút quân từ Huế và Chu Lai về Đà Nẵng. Kế Hoạch Hai: giả định Bắc quân cắt đứt Quốc lộ 1. Các lực lượng ta sẽ rút vào ba cứ điểm Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng. Tuy nhiên Huế và Chu Lai chỉ là hai nơi tập trung quân. Đà Nẵng sẽ là điểm phòng thủ chính.

    Để kết thúc tướng Trưởng cho tổng thống Thiệu biết "chúng ta chỉ có một chọn lựa. Và chúng ta phải thi hành ngay trước khi quá trể.". Tổng thống Thiệu nằm trong tình trạng khó xử vì ông là người nghĩ ra kế hoạch triệt thoái và ra lệnh tướng Phú thi hành kế hoạch. Cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên thất bại. Chúng ta có thể hiểu được thái độ của tổng thống Thiệu khi phải trả lời trực tiếp cho tư lệnh chiến trường. Ông không nhắc gì đến chuyện di tản, vấn đề triệt thoái và tái bố trí quân đã không được đề cập đến.

    (...)

    (1) Chín trung đoàn độc lập của Bắc Việt là trung đoàn 4, 5, 6, 27, 31, 48, 51, 271, và 271. Ngoài ra còn có ba trung đoàn đặc công 5, 45, 126, ba trung đoàn thiết giáp 202, 203, 573, mười hai trung đoàn phòng không và tám trung đoàn pháo binh.

    (2) Quyết định của tổng thống Thiệu rất hợp lý trong tình thế đang xảy ra. Nếu phải chỉ trích quyết định đó, chúng ta chỉ có thể hỏi là tại sao tổng thống Thiệu phải chờ lâu như vậy để áp dụng kế hoạch tái phối trí. Chỉ hai năm sau ngày ngưng bắn, tình trạng quân sự phía VNCH xuống dốc một cách thê thảm.(Nguyễn Kỳ Phong)

    : -Buổi họp ở Cam Ranh ngày 14-3 xảy ra sau khi Ban Mê Thuột mất, và tại Cam Ranh TT Thiệu ra lệnh tái phối trí lực lượng của Quân đoàn II để chiếm lại Ban Mê Thuột.




    Ai đã gây ra biến cố 30-4-1975

    Năm 1960: Thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam

    Cũng 1960, tháng 5, những người cầm quyền Trung Quốc (Mao Trạch Đông): “Không nên nói đấu tranh quân sự hay đấu tranh chính trị là chính. Đấu tranh chính trị hay đấu tranh quân sự không phải là cướp chính quyền ngay mà cuộc đấu tranh trường kỳ...Dù Diệm có đổ cũng không thể thống nhất ngay được vì đế quốc Mỹ không chịu để như vậy đâu...".

    Và:
    "Miền Bắc có thể ủng hộ chính trị cho miền Nam, giúp miền Nam đẻ ra các chính sách nhưng chủ yếu là bồi dưỡng tinh thần tự lực cánh sinh cho anh em miền Nam. Khi chắc ăn, miền Bắc có thể giúp quân sự cho miền Nam, nghĩa là khi chắc chắn không xảy ra chuyện gì, có thể cung cấp một số vũ trang mà không cho ai biết. Nhưng nói chung là không giúp", tr. 72-73.

    Kết luận: Những ghi chú kể trên cho ta thấy cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam là xuất phát từ Hà Nội, ngay từ trước khi Hiệp định Genève được chính họ chấp nhận, chứ không phải mãi sau này khi quân đội Mỹ vào Việt Nam mới bắt đầu.

    Vì Hội nghị trung ương lần thứ 6 nhóm họp từ ngày 15 đến ngày 18-7-1954 về chuyện này.

    Xin lưu ý: ngày 18-7 tức 2 ngày trước ngày Hiệp định đình chiến Genève được các bên chấp nhận lúc này người Mỹ chưa vào và người Pháp đang tìm cách rút khỏi Việt Nam.

    (Chiến tranh phát xuất từ đâu và từ bao giờ? - Phạm Cao Dương)

    : - Những dữ kiện trên do sử gia Phạm Cao Dương trích từ tập tài liệu nhan đề: "Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, những sự kiện quân sự", do nhà xuất bản Quân đội nhân dân, ban tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, ấn hành ở Hà Nội năm 1980.




    Bắt đầu của một kết thúc

    Đêm 19 tháng 3 Quảng Trị mất vào tay địch. Các lực lượng của ta rút về bên này bờ sông Mỹ Chánh. Tại đây quân ta lập một phòng tuyến mới. Sáng ngày 20, tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy của sư đoàn TQLC đóng cách tuyến phòng thủ Mỹ Chánh khoảng bảy cây số. Tại đây ông họp tất cả các cấp chỉ huy để bàn kế hoạch phòng thủ Huế như tổng thống Thiệu đã ra lệnh phải giữ bằng mọi giá.

    Buổi chiều, vừa trở về Đà Nẵng, tướng Trưởng nhận một quân lệnh mật của dinh Độc Lập gửi khẩn cấp qua bộ Tổng Tham mưu. Trái ngược với những lời hứa của tổng thống Thiệu đọc trong lời hiệu triệu vào lúc trưa là giữ Huế cho đến cùng, ông ra lệnh tướng Trưởng, nếu tình hình bắt buộc, chỉ cần bảo vệ Đà Nẵng mà thôi. Cũng trong quân lệnh tổng thống Thiệu ra lệnh sư đoàn nhảy dù phải về Saigon lập tức. Sư đoàn nhảy dù rời Đà Nẵng ngay đêm đó.

    Kế hoạch di tản lực lượng khỏi Huế bắt đầu bằng cách cho Sư đoàn 1 BB rút ra cửa Tư Hiền. Từ đó, hải quân và công binh sẽ bắt một đoạn cầu để quân di tản đi ngược vào đất liền, rồi dùng đường bộ về Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC sẽ triệt thoái bằng tàu hải quân.

    Sáng ngày 26, biển có sóng to làm đình trệ cuộc vận chuyển và cầu nối giữa Tư Hiền và đường bộ vẫn chưa hoàn tất. Đến trưa, thủy triều dâng lên quá cao để có thể vượt biển. Đến lúc đó Bắc quân đã đoán được ý định triệt thoái của quân ta, và bắt đầu nã pháo vào Tư Hiền và các địa điểm tập trung quân để di tản. Hỗn loạn xảy ra; quân kỷ không còn kiềm giữ được. Vừa đến thành phố, nhiều binh sĩ tản hàng để đi tìm thân nhân của họ đang thất lạc.

    (...)

    : -Trước cuộc họp, thủ tướng Khiêm có nói chuyện riêng với tướng Trưởng về tình hình quân sự. Thủ tướng Khiêm giật mình khi nghe những gì tướng Trưởng trình bày. Ông không ngờ tình hình thay đổi nhanh như vậy.

    : -Cuộc triệt thoái chỉ đem về Đà Nẵng 1 phần 3 tổng số quân qủa Quân đoàn I.




    Chuyện thời hậu chiến

    Nhà có hai chị em. Năm 1954, chị ở lại với gia đình ngoài Bắc, em theo chồng vào Nam.

    Chiến tranh. Thằng con người chị trúng nghĩa vụ quân sự đi bộ đội. Và đi B vào Nam chiến đấu. Thằng con người em dù trốn chui, trốn lủi, cuối cùng số phận cũng bắt phải cầm lấy khẩu súng, và là người lính của phía bên kia. Cả hai đều tử trận vào ngày 30-4-1975!

    Đất nước thống nhất. Hai chị em (lúc này đã là hai bà lão) đều sống trong cảnh cô đơn. Em đón chị vào Nam ở, để chị em sớm tối có nhau.

    Từ đó, hàng năm, cứ đến ngày 30 tháng Tư, người em lại vắng nhà...

    (Website Tiền Vệ - Truyện cực ngắn hay Truyện chớp)




    Bắt đầu của một kết thúc

    Trưa hôm đó Phòng 2 bộ Tổng tham mưu báo cho Quân đoàn I biết cộng quân có thể tấn công Đà Nẵng trong đêm. Tướng Trưởng gọi cho tổng thống Thiệu xin di tản bằng đường biển. Nhưng trong cuộc điện đàm, tổng thống Thiệu không cho tướng Trưởng lệnh rõ ràng. Tổng thống Thiệu không nói thẳng là ông muốn tướng Trưởng rút quân hay nằm lại tử thủ. Sau cuộc điện đàm, mọi liên lạc giữa Saigon và Quân đoàn I bị cắt đứt vì pháo kích của địch. Tướng Trưởng lập tức ra lệnh triệt thoái quân khỏi Đà Nẵng khi thấy tình hình không còn hy vọng. Tướng Trưởng họp với Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh hải quân Vùng 1, và các chỉ huy trưởng để hẹn địa điểm rút quân.

    Rạng sáng ngày 29, sương mù bao phủ dọc theo bờ biển, ngoài khơi tàu hải quân có mặt ở điểm hẹn. Nhưng thủy triều thấp nên tàu không đi vào gần bờ được. Binh lính phải lội ra để lên tàu. Cuộc di tản không gặp trở ngại cho đến khi cộng quân thấy được quân ta đang rút lui và bắn vào điểm tụ quân trên bờ biển và vào tàu đang đậu ngoài khơi. Lính chết vì đạn và chìm ngoài biển rất nhiều.

    ***

    Những Ngày cuối của VNCH được soạn thảo trong năm 1976-1978. Trong thời gian đó những tài liệu về cuộc chiến Việt Nam chưa được giải mật nhiều, sách của đại tướng Viên bị giới hạn chỉ có thể đề cập một cách tổng quát. Sau đó rất nhiều sách biên khảo, hồi ký ra đời, làm sáng tỏ thêm những bí mật của lịch sử và cuộc chiến Việt Nam hơn sách của tướng Viên. Ở điểm đó chúng ta thông cảm được cho tác giả Cao Văn Viên: có nhiều sự kiện không được đề cập đến trong sách vì không có tài liệu hay nhân chứng. Như chuyện Quân đoàn I bị thất thủ một cách nhanh chóng, và cuộc rút quân ở Quân đoàn II trở nên rối loạn là trách nhiệm hoàn toàn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, theo những gì cựu Phó thủ tướng Nguyễn Lưu Viên kể lại.

    Một số tài liệu khác cho thấy sự rối loạn của các lệnh hành quân gởi ra mặt trận từ dinh Độc Lập làm cho cuộc sụp đổ của QLVNCH sụp đổ nhanh hơn.

    (Những ngày cuối của VNCH, nguyên tác "The Final Collapse" của cựu Đại tướng Cao Văn Viên – Dịch giả: Nguyễn Kỳ Phong)

    : -Huế bỏ ngỏ ngày 25-3. Đà Nẵng di tản tối 29. Tam Kỳ mất ngày 24. Chu Lai di tản ngày 26.

    : -Đoàn tàu di tản được 6.000 TQLC, 3.000 lính Sư đoàn 3, và nhiều đơn vị khác.




    30-4-1975, ký ức một người Hà Nội

    Trưa ngày 30-4-1975, tôi đang ngồi trong căng-tin của nhà máy Việt Trì thì tai nghe những tiếng la hét ầm ĩ từ phòng thông tin của nhà máy: "Thắng rồi...Ta thắng rồi...Dương Văn Minh đầu hàng rồi". Tôi bỏ dở cốc nước chè chạy vội ra xem chuyện gì. Một công nhân cho biết tin vừa nhận được qua đài Tiếng nói Việt Nam là quân ta đã chiếm được dinh Độc Lập, bắt Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng. Những ngày trước đây, kể từ sau trận đánh vào Buôn Mê Thuột, nhà máy đã làm một áp phích lớn vẽ bản đồ của 44 tỉnh miền Nam và dựng nó gần cổng ra vào. Trên tấm áp phích đó, cứ mỗi khi được tin quân ta giải phóng thêm tỉnh nào thì lập tức tỉnh đó được vẽ một lá cờ đỏ sao vàng ngay. Tôi đã thấy càng lúc càng nhiều lá cờ đỏ xuất hiện trên tấm áp phích chỉ trong một thời gian ngắn đến nỗi phải hoài nghi, dù không nói ra mặt. Bây giờ, điều nghi ngờ đó đã thật rồi. Thôi từ nay là hết chiến tranh và những thanh niên miền Bắc sẽ không còn phải xuôi Nam chiến đấu trong chiến trường B nữa. Và điều quan trọng tôi sẽ gặp lại người cha ruột đã xa cách gia đình tới 21 năm rồi. Tôi phóng nhanh xe đạp về nhà báo tin cho mẹ tôi biết ngay tin vui này.

    Về đến nhà, dắt xe vào trong, chưa kịp khoe tin thì mẹ tôi đã nói: Sao nay con về sớm vậy? Bộ đội vào tới Sài Gòn rồi con biết chưa?. Mẹ tôi ngồi ở bàn sát cửa sổ như đang suy nghĩ điều gì. Tôi cởi áo đi ra giếng nước sau nhà múc nước tắm sau đó quay trở vào mà vẫn thấy mẹ tôi ngồi yên tại chỗ. Tôi bước lại bên bà, hỏi: U sao vậy? Và tôi tiếp: U cảm hay sao nói cho con

    biết với. Nhưng bà nhìn tôi, miệng cười mỉm, trả lời: Không con. Mẹ khoẻ mà... có điều mẹ đang nghĩ về thầy con thôi. Không biết thầy con bây giờ trong đó đang như thể nào?

    Nghe thế, tôi đi mở cái tủ gỗ gụ cũ, lục lọi rồi lấy ra tấm ảnh đen trắng chụp chân dung cha tôi đã cũ, ố vàng. Trong ảnh, một người đàn ông mặc bộ đồ trận rằn ri, ánh mắt nghiêm nghị, đứng cạnh lề đường một khu nào đó trong thành phố Sài Gòn của miền Nam. Tấm ảnh này là tấm duy nhất, gia đình nhận được từ cha tôi, khi hai miền Nam-Bắc còn liên lạc được bằng thư từ.

    (Viết để nhớ lại ngày 30-4-1975 - Phạm Thắng Vũ)




    Góp nhặt...ghi chép...

              

              

    Về con số tử vong của hai miền Nam Bắc có quá nhiều sai biệt qua những nguồn khác nhau. Năm 2015, một nhà báo người Đức tên Uwe Siemon Netto với 53 năm kinh nghiệm phóng viên. Ông viết một quyển sách có tựa đê: A reporter’s love for the abandoned soldier of Viet Nam.

    Phần dẫn nhập ông viết: Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, mọi người sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 ngày "30-4-1975". Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này. Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách kinh điển của nhà báo, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam quá nhiều đau thương....

    (...) Sau trận Xuân Lộc, tôi về nước nên không có mặt lúc Sài Gòn thất thủ, sau khi toàn bộ các đơn vị quân lực VNCH đã chiến đấu một cách mãnh liệt và quả cảm, mặc dù họ biết rằng họ không thể thắng hay sống sót sau trận đánh cuối cùng này. (...)

    (...) Về con số tử vong, ông đưa ra rất nhiều tác giả mọi giới, nhưng theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc...(...)

    (...) Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đáng lý họ phải thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927). (...)

    (Uwe Siemon-Netto)

    Uwe Siemon-Netto sinh năm 1936 tại Leipzig, Germany. M.A. thần học hệ Lutheran tại Chicago. Ph.D. thần học và xã hội học về tôn giáo tại đại học Boston.




    30-4-1975, ký ức một người Hà Nội

    Cha tôi, một chiến binh trong lực lượng Dù thuộc quân đội Liên Hiệp Pháp. Những ngày cuối cuộc chiến năm 1954, đơn vị ông được máy bay thả xuống tiếp sức cho căn cứ Điện Biên Phủ đang bị vây hãm để không lâu sau đó, căn cứ này lọt vào tay bộ đội Việt Minh. May mắn thoát chết, bị bắt làm tù binh rồi ông được trả tự do và theo đơn vị quay về Hà Nội. Những ngày cuối của Hiệp định Geneva, ông đã cho người về quê Sơn Tây đón mẹ con tôi lên để cùng ông vào miền Nam nhưng chuyện không thành, ông phải theo đơn vị vào Sài Gòn trước. Thực ra thì chuyến đi ra Hà Nội khi đó, đoàn người làng có hai mẹ con tôi đã bị cán bộ Việt Minh lừa đưa vào tạm trú trong khu rừng vắng. Khi đoàn người được phép ra khỏi rừng thì thời hạn di cư đã qua, gia đình bị chia cắt từ đó lúc tôi mới được gần một tuổi.

    Lúc đó, tôi cũng không hiểu tại sao? Có khi về hỏi mẹ thì bà chỉ nói: Thôi con, họ không cho thì về nhà với mẹ. Rồi những năm chiến tranh lan ra miền Bắc. Máy bay Mỹ ném bom nhiều nơi và ngay ở cả Hà Nội nữa. Những đợt bom chùm tuốt từ trên mây rải xuống đã phá huỷ nhiều khu phố lớn. Cảnh người chết mất xác trong các đống gạch vụn cùng lửa khói cháy nghi ngút khiến ai cũng sợ. Đành phải kéo nhau đi sơ tán về quê nội ở tỉnh Sơn Tây cũ. Trong làng có nhiều đứa thiếu niên trạc tuổi tôi và tôi rất muốn làm bạn chơi với chúng nhưng chúng không thích tôi ra mặt. Trẻ em đã vậy mà người lớn cũng nói xấu, dèm sau lưng mẹ tôi mỗi khi họ gặp mặt nhau trên đường hoặc trong phiên chợ. Tôi đành kết bạn với mẹ thôi, không ai khác.

    (...)




    Giã từ vũ khí

    - Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ (1933-1975), tư lệnh Sư đoàn 5 BB. Sau khi nghe kêu gọi buông súng của ông Minh. Vào lúc 12 giờ 30 trưa ngày 30-4, ông dùng khẩu Beretta 6.35 bắn từ phía dưới cằm lên đầu tự sát tại trailer (phòng lưu động của quân đội) dùng làm phòng ngủ riêng cho tư lệnh tại bộ tư lệnh ở Lai Khê (Bến Cát, Bình Dương).

    Thi thể ông được an táng trong rừng cao su gần doanh trại bộ tư lệnh. Ngày 2-5-1975 được thân nhân bốc đem về cải táng ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. Năm 1987, nghĩa trang Hạnh Thông Tây có lệnh giải toả. Hài cốt ông được thân mẫu (đã ngoài 80 tuổi) cùng với người em là Lê Nguyên Quốc từ miền Bắc vào, đến nghĩa trang Hạnh Thông Tây bốc mộ và hỏa thiêu, đem về thờ ở nhà từ đường họ Lê Nguyên tại nguyên quán số nhà 151 đường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây. Sau đó, tái cải táng xây lăng mộ tại nghĩa trang của gia tộc ở đây.

    - Chuẩn tướng Trần Văn Hai (1927-1975), tư lệnh Sư đoàn 7 BB. Trước sự kiện 30-4 khoảng hơn mười ngày, ông Thiệu cho máy bay riêng xuống rước chuẩn tướng Hai di tản nhưng ông từ chối.Chiều ngày 30-4 sau khi cho binh sĩ rời quân ngũ theo lệnh của ông Minh, nửa đêm về sáng ngày 1-5-1975, ông đã dùng thuốc Optalidon(uống nguyên ống 20 viên) tự vẫn trong phòng làm việc tại căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Thi thể ông được thân mẫu và bào đệ đem về mai táng tại nghĩa trang chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn ngày 2-5-1975.

    Buổi chiều trong ngày, trước khi uống thuốc tự vẫn, ông trao cho sĩ quan tuỳ viên số tiền 70.000 đồng nhờ đưa cho người mẹ già của mình. Đây cũng là tháng lương cuối cùng của một người lính suốt đời liêm chính.

    - Chuẩn tướng Lê Văn Hưng (1933-1975), tư lệnh phó Quân đoàn IV tự sát tại tư dinh ở trại Lê Lợi, Cần Thơ 8 giơ 45 tối ngày 30-4.

    - Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam (1927-1975), tư lệnh Quân đoàn IV tự sát bằng súng Colt trong trailer ở bộ chỉ huy quân đoàn, trước bàn thờ Phật khoảng 7 giờ 30 sáng ngày 1-5.

    - :Trước đó, Thiếu tướng Phạm Văn Phú tự sát tại Sài Gòn trưa ngày 29-4.




    30-4-1975, ký ức một người Hà Nội

    Hai tháng sau cái ngày chiến thắng, mẹ tôi về lại Hà Nội để dò hỏi tung tích cha tôi. Trong họ hàng bên nội, có người vào miền Nam công tác và qua đó đã tìm được các thân nhân theo các địa chỉ cũ năm xưa. Khi quay trở lại miền Bắc, người bà con này gặp bà và cho biết các tin tức về cha tôi. Theo đó, ông là một sĩ quan quân đội cao cấp của chính quyền miền Nam và đã phải bị học tập cải tạo. Quay về nhà mẹ tôi cho biết tin và khi kể chuyện, không hiểu vì nghĩ đến việc học tập cải tạo rồi liên tưởng những cảnh tù tội của cha tôi năm xưa lúc bị bắt làm tù binh hay vì cám cảnh thân phận mà mẹ tôi khóc nhiều. Tôi dỗ mẹ đừng khóc rồi tôi cũng khóc theo mẹ.

    Mẹ tôi rất muốn đi vào miền Nam ngay để biết thêm các tin tức về thầy tôi nhưng khi đó giao thông hai miền còn khó khăn lắm, vẫn còn hạn chế chỉ ưu tiên cho những cán bộ đi công tác. Đường xuyên Việt nhiều nơi phải sửa chữa và đường sắt nhiều vùng đã mất hẳn từ lâu. Chiến tranh bao năm trời đâu phải một sớm một chiều thông đường ngay được. Tôi vẫn tiếp tục đi làm, cũng không hề nghĩ là có ngày mình đặt chân vào miền Nam và thành phố Sài Gòn.

    Tin về miền Nam đói nghèo, lạc hậu do chính miệng những bộ đội miền Bắc từ chiến trường miền Nam trở về kể lại trong các tháng trước đã làm con số người xung phong chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ai cũng sợ khổ, sợ phải xa gia đình để đến công tác trong vùng đất đói nghèo đến nỗi cả bát ăn cơm cũng không có mà ăn. Kết quả, nhà máy phải họp và xét hoàn cảnh từng người một để chỉ định bắt buộc. Tên tôi đã được họ chọn, đành phải chuẩn bị hành lý để theo đoàn vào Nam dù tôi không muốn.

    (...)




    Tàn cuộc binh đao

    - Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng, tư lệnh lực lượng đặc biêt, chỉ huy trưởng trung tâm huấn luyện Quang Trung chết trong tù ở trại khổ sai Nam Hà ngày 6-3-1984.

    9 ngày sau...

    - Chuẩn tướng Bùi Văn Nhu, tư lệnh phó tổng nha cảnh sát quốc gia bị đưa đi tập trung khổ sai và chết tại trại tù Nam Hà, ngày 15-3-1984.




    30-4-1975, ký ức một người Hà Nội

    Đường sắt vẫn chưa sửa xong, chúng tôi 18 người ngồi ngồi chung với hành lý trong chiếc xe tải molotova cũ kỹ của đoàn xe vào miền Nam. Trên xe tuy mệt nhưng có cái thú ngồi ngắm cảnh hai bên dọc đường. Chúng tôi qua nhiều vùng, địa danh trước giờ chỉ nghe tên trên báo. Hố bom, cầu sập, đường bị bóc từng tảng nhựa, các khu dân cư, chợ... xuất hiện đây đó dọc theo các đoạn đường xe qua. Ở các vùng xa thủ đô, người dân lam lũ, nghèo khổ, thiếu thốn lộ rõ trên ánh mắt, quần áo và khung cảnh sống. Miền Bắc quê hương xã hội chủ nghĩa còn như vậy thì miền Nam chắc chắn phải nghèo, thiếu thốn ghê gớm lắm. Tất cả cũng do chiến tranh,do đế quốc Mỹ reo rắc mà ra...,Một người đi chung trên xe nói vậy.

    Xe vừa vào địa giới miền Nam, chúng tôi đã bấm tay nhau nhìn khung cảnh mới. Nhà cửa của người dân cùng các công trình đô thị như cầu, đường gần các trục lộ giao thông trông đẹp và văn minh hơn hẳn miền Bắc nhiều. Ngay từ lúc còn ngồi trên xe nhìn cảnh vật dọc theo đường và khu phố dẫn vào Sài Gòn, tôi đã thấy vượt trội nhiều lần so với thủ đô Hà Nội. Một vẻ bề ngoài sáng sủa, văn minh lộ ra từ cách phục sức, sinh hoạt của người dân miền Nam.

    Giờ đây đi bộ trên các con đường trong khu trung tâm thành phố mới thấy bản thân tôi, một người dân miền Bắc quá sức lạc hậu, nghèo nàn... từ bộ cánh (quần áo) trên người. Bên vệ đường và trong các cửa hiệu sang trọng, đầy ắp hàng hoá thật đẹp và mới lạ lần đầu chúng tôi được thấy. khác hẳn với cảnh chen chúc để chờ được tới lượt mua số hàng ít ỏi, như cảnh thường thấy ở các khu phố ngoài miền Bắc trong thời bao cấp. Phố xá thì thôi, những tòa nhà to đẹp thấp thoáng sau dòng xe gắn máy chạy hối hả trên đường. Khung cảnh y như ở nước ngoài, một người trong đoàn chúng tôi nói nhỏ cho nhau cùng nghe.

    Tôi bối rối ngắm nhìn các cô gái miền Nam, nói chính xác là cô gái Sài Gòn đang dạo bước trên đường. Họ đẹp quá sức, như tiên... từ dáng điệu, mái tóc, y phục mặc trên người và nhất là khuôn mặt của họ lộ rõ vẻ sung túc đài các so với những nữ cán bộ trẻ trong đoàn chúng tôi.

    (...)




    Bên bờ tử sinh

    Có tiếng súng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8 giờ 45 tối ngày 30-4-1975. Ngày kết liễu cuộc đời của nhà tôi. Chú Giêng chạy vào phụ chú Nghĩa (sĩ quan tuỳ viên) đỡ lưng và chân, máu đỏ nhuộm thắm áo trận. Tôi đỡ đầu nhà tôi. Tôi đưa tay vuốt mắt cho nhà tôi.

    (...) 9 giờ 30, chuông điện thoại reo vang. Tôi áp chặt ống điện thoại. Mím môi, nhìn xác nhà tôi rồi nhìn sang Nghĩa, tôi hỏi: Đại Tá Cẩn đòi gặp thiếu tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?.

    Nghĩa lúng túng: Cô nói thiếu tướng tự sát rồi - Không thể nói như vậy được. Đại tá Cẩn đang cự chiến với Việt cộng. (...). Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra,

    (...) 11 giờ đêm ngày 30-4-1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam: Alô, chị Hưng!. Giọng tướng Nam buồn bã: Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng.

    (Phạm Thị Kim Hoàng)

    Bà Phạm Thị Kim Hoàng là quả phụ của cố Thiếu tướng Lê Văn Hưng.




    30-4-1975, ký ức một người Hà Nội

    Một ngày, tôi đi rảo qua nhiều con phố Sài Gòn rồi thấy mỏi chân, tôi lấy hết sức can đảm bước vào một hàng nước thật đẹp gần một giao lộ lớn, có tên là Cafe Minirex. Chọn một bàn sát khung cửa kính trong suốt có thể nhìn rõ người đi bên ngoài, tôi quan sát chung quanh. Bàn ghế, các bình hoa, quầy thu ngân, khách cùng vách tường trang trí cảnh một rừng cây thật đẹp... thật không khác một tiệm ở nước ngoài trong phim ảnh. Chợt một người hầu bàn bước đến, gật đầu chào tôi rồi hỏi: Thưa ông, ông dùng chi?

    Người hầu bàn này quá lịch sự khi tiếp xúc với khách hàng thật khác hẳn với cung cách của mậu dịch viên các tiệm ăn miền Bắc. Tôi lại nghĩ, hay ông ta biết tôi là cán bộ chế độ mới qua quần áo mặc trên người nên xưng hô như vậy? Tôi gọi nước uống và ngầm để ý xem sao. Nhưng không, bất cứ có khách nào vào quán, người hầu bàn này cũng một cách tiếp đón như vậy. Rất tự nhiên, lịch sự mà không khúm núm hoặc hách dịch như ở Hà Nội.

    Một thay đổi đã đến trong lòng tôi mà tôi biết điều này cũng sẽ đến với bất kỳ người nào từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa khi đặt chân vào miền Nam ở thời kỳ đó. Sài Gòn hay nói rộng ra cả miền Nam không lạc hậu, nghèo nàn, đói khổ, đầy rẫy cảnh người bóc lột người như bao lâu nay người dân miền Bắc được (hay bị) báo chí, đài phát thanh Hà Nội...mô tả về chế độ Ngụy quyền tay sai đế quốc Mỹ. Đây là mô hình của một xã hội văn minh và người nào được sống trong xã hội này quả thật may mắn hơn sống ở xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc.

    Tiếc thay! Một xã hội như vậy lại vừa bị cướp mất đi.

    (Viết để nhớ lại ngày 30-4-1975 - Phạm Thắng Vũ)




    Bên bờ tử sinh

    Không kể những người đã tháo chạy, không kể những người còn kẹt lại trong gọng kìm lịch sử oan nghiệt. Còn có những người cất lên tiếng nói cuối cùng: Đó là những cái chết.

    Người chết cuối cùng vẫn là người có lý lẽ của họ. Tự sát bao giờ cũng cần được hiểu là một sự hy sinh cuối cùng (Ultimate sacrifice) đáng được trân trọng. Không có cái chết vô ích mà chỉ có những cái sống vô ích. Đó là số phận những người đã tự chọn cái chết: Tự sát.

    Những cái chết đó giá trị bằng bằng vạn tiếng nói.

    (Nguyễn Văn Lục)





    30 tháng 4 ngồi trên đỉnh đèo Trường Sơn

    Talawas: Anh tình nguyện đi B? Cầm súng?

    Nhật Tuấn: Năm 1973 vào B.Cơ quan cử đi thôi. Hồi đó anh em gọi đùa lính miền Nam là "lính bà Định", lính miền Bắc là "lính xã hội", còn những người làm công tác kĩ thuật như tôi được biệt phái sang Tiểu đoàn 976, trinh sát công binh được gọi là"lính gia công", hoạt động chủ yếu trên các tuyến vận chuyển thuộc tỉnh Quảng Đà (cũ). Từ 8-1964, sau khi Mĩ ném bom miền Bắc, công việc chính của tôi là khảo sát thiết kế giao thông các tuyến đường khu 4 cũ, đường tràn, đường tránh, đường giả, đường nghi trang...đại loại thế. cũng được nhận quân trang quân dụng nhưng không có quân hàm nên không phải là sĩ quan quân đội.

    Tôi có cầm súng nhưng chỉ để bắn...heo rừng.

    (Phạm Thị Hoài phỏng vấn Nhật Tuấn)




    Bên bờ tử sinh

    Lúc này khoảng 11 giờ đêm 30-4-1975, cứ khoảng 15 phút tôi vào trailer một lần, thấy tư lệnh nằm nghỉ nhưng giày trận vẫn còn mang. Lần khác, tư lệnh ngồi dậy đi về hướng tôi và hỏi:

    - Sao em không đi ngủ đi! khuya rồi.
    - Trình thiếu tướng, nếu họ vào dinh tụi em đánh không thiếu tướng? Tôi hỏi.
    - Thôi đừng đánh nhau, họ vào để tôi ra nói chuyện.

    Khoảng sau 1 giờ sáng, anh lính hơ hải chạy vào gặp tôi:
    - Tụi nó tự động mở cửa vào dinh.
    Tôi vội vã vào trailer để gặp tư lệnh, tôi thấy tư lệnh nằm nghỉ. Tôi trình:
    - Trình thiếu tướng, bọn họ đang vào dinh.
    - Bảo họ chờ tôi ra nói chuyện.

    Trong suốt đêm 30-4, tư lệnh và tôi hầu như không ngủ, khoảng 3 giờ sáng, tôi vào phòng lần nữa, thấy tư lệnh đang nằm yên không biết ngủ hay thức. Tôi cũng quá mệt ra phòng làm việc ngả lưng trên sofa một chút. Trong lúc nửa tỉnh nửa mê bổng nghe tiếng chuông "boong, boong, boong", tôi bật mình ngồi dậy, nhìn đồng hồ thấy hơn 6 giờ. Qua đến bàn Phật, tôi thấy 3 cây nhang đã đốt và cắm sẵn trên lư hương khói bay nghi ngút. Tư lệnh đang nghiêng mình xá Phật. Tôi ra ngoài một lát, trở lại từ ngoài nhìn, tư lệnh ngồi trên ghế sofa, mắt đăm chiêu nhìn lên bàn thờ. Tư lệnh đứng dậy đến bàn thờ lấy ba cây nhang đốt, xá ba xá cắm vào lư hương, gõ ba tiếng chuông "boong, boong, boong" xong xá 3 xá tiếp, xong tư lệnh về ngồi nơi cũ, hai tay để trên thành gỗ sofa nhịp nhịp như không có chuyện gì sắp xảy ra.

    Tôi đẩy nhẹ cánh cửa bước ra sân hướng về phòng trung úy Việt. Vừa đi khỏi cột cờ một chút nghe tiếng nổ "đùng" phát ra từ hướng bàn thờ Phật. Tôi chạy nhanh vào thấy cảnh tượng hãi hùng chưa bao giờ gặp. Tư lệnh ngả ngửa hơi lệch về phía sau sofa, đầu hơi nghiêng về bên trái, khẩu Colt45 vẫn còn trong tay, đầu đạn xuyên qua màng tang phải qua trái, ngước mắt nhìn lên trần nhà. Tư lệnh chưa chết, nhưng nói không được, giật run rẩy người, miệng há hốc, từ trong cổ họng nấc lên tiếng "khọc, khọc, khọc" từng chập và từ từ nhỏ dần.

    Trong lúc bối rối tôi đâu có tâm trí đi xem đồng hồ, khoảng 7 giờ 30 ngày 1-5-1975.

    (Lê Ngọc Danh)

    Lê Ngọc Danh, sĩ quan tùy viên của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.




    30 tháng 4 ngồi trên đỉnh đèo Trường Sơn

    Talawas: Sau chiến tranh, anh người gốc Hà Nội vào Sài Gòn và ở lại đó cho đến nay. Là người của phía chiến thắng giữa những người chiến bại. Sống với cảm giác ấy có dễ không?

    Nhật Tuấn: Tháng 6-1975, trên đường phố Đà Nẵng tôi thấy một cô gái nhìn theo một xe tải chở đầy ti vi, tủ lạnh chạy ra Bắc với ánh mắt ác cảm, tôi nghĩ cũng còn may cô ta không được thấy những đoàn xe bịt vải bạt chạy trên đường Trường Sơn cũng ra Bắc.

              

              

    Nhưng đó là chuyện buồn khó tránh khỏi sau chiến tranh, còn nhiều chuyện vui khác, những cuộc trùng phùng chẳng hạn. Tháng 10-1975 tôi vào Sài Gòn gặp ông anh ruột là nhà văn Nhật Tiến, đang là giáo viên trường trung học Hưng Đạo. Ông ấy kể, công đoàn trường vừa chia mỗi người được 10 điếu thuốc Tam Đảo, ông không nhận và hỏi sao không để nguyên bao, sao lại xé ra? Rồi ông ấy khóc vì sự "xúc phạm con người".

    Tôi bảo: Thôi ông ra nước ngoài đi, người như ông không sống ở đây được đâu!

    Tôi không có cảm giác mình là "phe chiến thắng" mà chỉ là dân "ngụ cư", dân "Bắc Kì 75". "Những người chiến thắng" chính là những những nhà văn tập kết như Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng ...và cả những người Cách mạng 30 tháng Tư như các nhà văn nhà thơ Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đỗ Trung Quân, mà tác phẩm của họ chiếm lĩnh đầy các trang báo ở Sài Gòn.

    (...)




    A Farewell to Arms

    Trong chiến tranh, anh thắng hay thua, sống hay chết - và sự khác biệt chỉ là một chớp mắt.
    In war, you win or lose, live or die - and the difference is just an eyelash.
    (Douglas MacArthur)

    - :Tựa đề A Farewell to Arms (Giã từ vũ khí) của Ernest Hemingway.

              

    The abandoned soldier of Viet Nam
    (Trận địa Xuân Lộc - Uwe Siemon-Netto)

              




    30 tháng 4 ngồi trên đỉnh đèo Trường Sơn

    Talawas: Anh tìm thấy bài học gì còn lại sau chiến tranh, dù chiến thắng hay chiến bại.
    Nhật Tuấn: Đó chính là những cái mỗi người được trải qua để chứng kiến. Tôi nhớ tết năm 1974, tại một đỉnh đèo trên Trường Sơn, tôi thấy một anh lính lái xe trong đơn vị, quăng xuống cái bi đông nước rồi nhảy xuống đường, chửi đổng:

    - "Mẹ kiếp, thằng miền Bắc cứ ở ngoài Bắc, thằng miền Nam cứ ở trong Nam, đánh nhau làm chó gì cho bố mày khổ thế này?".

    Lúc đó chúng tôi cười ồ cả lên, vậy nhưng sau đó tất cả lại ai về việc nấy và tôi thấy ở đơn vị tôi tuyệt đối không ai muốn làm "B quay" cả. Đó là một sự thật "trong mắt tôi", và tất nhiên còn những sự thực khác về ý thức trách nhiệm, tinh thần hy sinh rất sẵn ở những người lính cả hai bên chiến tuyến.Đó là sự cảm thông, bởi lẽ chiến tranh là cả một quá trình lịch sử.

    Cha ông chúng ta đã từng "mang gươm đi mở nước" (1), bởi vậy với tôi, chiến tranh là một cái gì đó giống như là "thiên mệnh" trong "gọng kìm của lịch sử" (chữ này tôi mượn), mỗi con người bình thường hình như đều trở nên bé nhỏ trước bàn tế của thần chết.

    (...)

    (1)
    Từ độ mang gươm đi mở cõi
    Trời nam thương nhớ đất Thăng Long
    (Huỳnh Văn Nghệ)




    Từ

    Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện. Ngày30-4-1975, mặc dù ông Dương Văn Minh kêu gọi buông súng, ông vẫn tiếp tục chiến đấu với lực lượng địch quân vào tiếp quản. Ông cuối cùng cũng bị bắt và bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14-8-1975.

    Xem báo Paris Match của đầu thập niên 80 sẽ thấy hình ảnh ngày xử bắn và bài viết có viết:

    (...) Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể Đại tá Hồ Ngọc Cẩn về và phủ lá cờ Việt Nam Cộng Hòa lên thi hài ông. (...)

              

              




    30 tháng 4 ngồi trên đỉnh đèo Trường Sơn

    Talawas: Hiện tại của chúng ta hôm nay có xứng đáng với lí tưởng của những người đã cống hiến một phần của đời mình cho cuộc chiến tranh ấy không?

    Nhật Tuấn: Tôi chỉ xin nói về những người gần gũi, những đồng đội của tôi, họ chẳng lí tưởng gì hết. Tôi còn nhớ một tối giữa Trường Sơn, chúng tôi ngồi lại hỏi nhau: Mai mốt được về nhà, việc đầu tiên chúng mày sẽ làm cái gì?. Thằng thì "lôi ngay vợ vào buồng trong, khỏi rửa ráy", thằng thì "mang ngay khăn voan, ví nháy, đã gom được chật ba lô để phân phát cho mọi người"..., còn tôi: Tao sẽ chạy ngay ra phố Lí Quốc Sư ăn một bát phở chín dừ.

    Bây giờ, hầu hết họ đã nằm xuống, người bị bom bi ở cầu Cà Tang (Quảng Bình), người chết sốt rét ở sông A Vương, tôi có làm gì đi chăng nữa cũng chẳng có ý nghĩa gì với họ...

    (...)




    Tạm biệt

    Khi tôi tuyên thệ trên vũ đình trường West Point. Tôi vẫn còn nhớ một bài hát quen thuộc trong doanh trại của thời ấy:
    "Người lính già không bao giờ chết, họ chỉ tàn phai với năm tháng".
    Chào tạm biệt.

    Since I took the oath on the plain at West Point, I still remember the refrain of one of the most popular barrack ballads of that day: "Old soldiers never die, they just fade aways".
    Goodbye!.

    (Douglas MacArthur)




    30 tháng 4 ngồi trên đỉnh đèo Trường Sơn

    Talawas: Thưa anh Nhật Tuấn, ngày 30-4-1975 anh đang ở đâu?
    Nhật Tuấn: Tôi đang ở cuối đường 14 cũ và đầu đường Trường Sơn mới, tức sông A Vương, tỉnh Quảng Đà (cũ).

    Lúc đó tôi nghe BBC kể về một bức tranh vẽ đăng trên báo Mĩ, vẽ ngôi mộ có bia khắc dòng chữ "VNCH" (Việt Nam Cộng Hoà) và: Nơi đây yên nghỉ một quốc gia vừa chết trong tức tưởi.

    Khi nghe đài Sài Gòn đọc tuyên bố buông súng, giao lại chính quyền của ông Dương Văn Minh, rồi có tiếng người đọc: Đây là tiếng nói của Quân giải phóng khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn.

    Và tôi nghĩ: Chiến tranh đã kết thúc.

    (Phạm Thị Hoài phỏng vấn Nhật Tuấn)




    Kết

    Vì là bài văn sử đi tìm thời gian đã mất với cảm tính, cầm bút loay hoay với chữ nghĩa, người viết đứng bên lề cuộc chiến không thể tránh khỏi những cảm hoài với những người cầm súng của một thời một thuở đã giã từ vũ khí hiện đang nằm ở đâu đó...đằng sau những trận chiến.



              

    Lính Cộng Hoà
    Trần Văn Nam
    Sinh: 22-9-1942
    Tử: 30-4-1975

              




              
    ghi chép 15-6-2015
    hoàn tất 3-5-2016

              



    Bạt
    (với...thì, mà, là)

    Như lời "Tựa" đã bộc bạch ở trang đầu mà các cụ ta xưa đã dạy là ngôn bất tuyệt ý bất tuyệt thì ngộ chữ tôi hiểu chữ tác đánh chữ tộ, chữ ngộ đánh chữ quá là không có gì...quá đáng với sai hay đúng hoặc thừa với thiếu trong Tạp ghi sau 40 năm này. Vì cái sai, cái thừa của hôm nay, với nhân sinh bách tuế vi kỳ có thể là cái đúng, cái thiếu của...100 năm sau.

    Chợt nhớ ra năm thỉnh mười thoảng sách của thiên hạ sự có phần lời "Bạt" ở trang cuối. Thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào nhưng rất ngay tình thưa với bạn đọc, ngộ chữ tôi chả hiểu bạt là lý sự gì. Bèn tra tự điển: "Phần chưa viết rõ ở lời tựa. Bạt là phần viết ở cuối sách để giải bày thêm một số ý tưởng có liên quan đến nội dung của tác phẩm mà chưa viết".

    Qua nội dung của tác phẩm..., tâm viên ý mã ngộ chữ tôi với tâm trạng của một kẻ táo bón kinh niên chữ nghĩa cũng muốn giải bày những điều chưa viết là:

    Là ngộ chữ tôi mới trích ra có một phần rất nhỏ. Cho nên chữ nghĩa chỉ phản ảnh được cái nền của một câu chuyện. Và chuyện là lăn theo vòng xích sắt của chiếc xe tăng đã hoen rỉ, lăn theo bánh xe lịch sử với những chữ "Nếu".
    • Nếu công binh lập xong cầu sông Ba trong một, hai ngày thì...
    • Nếu hải quân hoàn tất những cầu phao nổi ponto hay kế hoạch Alfa gì đó ở biển Thụy An thì...
    • Nếu ta biết tại Xuân Lộc, Quân đoàn 4 Bắc quân mà pháo chỉ còn hai trái, tăng đã hết xăng thì...
    • Nếu ta đã biết Bắc Việt chỉ còn vỏn vẹn một sư đoàn tổng trừ bị (Sư đoàn 308) ở Hà Nội...

    (thì...mới có "Thất thủ Ninh Bình: 33 năm nhìn lại..." và "Lịch sử nhìn từ âm bản" ở trên).


    Trở lại cụ tướng hải quân đã viết dùm ngộ chữ tôi qua Can trường trong chiến bại với ai đó:

    (...) Ông tường thuật ngắn gọn, mạch lạc, loại bỏ được cảm tính của chính ông đối với các sự kiện, theo lối ghi nhận của ông. Ông để cho người đọc tự tìm lấy kết luận của họ. (...)

    Nhẽ này có nhà phê bình chữ nghiã đã lực đực rồi. Nhà phê bình thở ra chữ để...giải thích:

    (...) Rất tiếc, không ít người đem thói quen diễn giảng vào bài viết. Trong bài viết của họ, mỗi câu văn phải cõng trên lưng nó năm bảy câu giải thích. Chuyện mới, giải thích đã đành. Ngay cả những chuyện xưa như trái đất cũng vẫn giải thích. Lặp lại những kiến thức sơ đẳng và cũ rích, cách viết như thế là một sự xúc phạm đến sự hiểu biết của người đọc. Theo tôi, nhà văn phải viết trong giả thiết là người đọc của mình là những người cực kỳ thông minh và uyên bác: Hắn không cần phải viết những gì độc giả có thể đã biết rồi. Với những người đọc thông minh và uyên bác ấy, hắn phải viết những điều thông minh và uyên bác tương xứng, nghĩa là, ít nhất phải thông minh và uyên bác hơn chính bản thân hắn. Thay vì giải thích làm nhàm và lảm nhảm, cách viết như thế là một sự coi thường bạn đọc (...).

    Quay quả lại với "cụ tướng" già Old soldiers never die, they just fade aways cảm khái:

    "Dù thắng hay bại, trong cuộc một cuộc chiến, tất cả những người cầm súng hai bên đều làm nhiệm vụ của mình theo lý tưởng khác nhau. Sau cuộc chiến, những chiến binh dù hy sinh cho một lý tưởng nào đó, khi chết trong bộ quân phục đều là những người hùng thì khi đã nằm xuống phải được sự kính nể của những thế hệ sau. Hai trăm năm nữa, con cháu chúng ta khi học lịch sử sẽ không khen người thắng, không chê kẻ bại, nhưng sẽ ghi nhận sự can trường hay hèn mạt của những người tham chiến. Vì thế, những thế hệ mai sau sẽ không quên những những người cầm súng trên chiến trường của cả hai bên".

    Với cả hai bên, kẻ thắng, kẻ bại nói gì nằm ở khúc sau. Bởi bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng, vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí, hay nói chữ theo người xưa thì:

    Sau một ván cờ
    Tất cả các con cờ,
    Vua, tướng, sĩ, tốt,
    Đều vào nằm trong hộp

    Tiếp nữa với chữ là nghĩa qua cuộc Nội chiến Nam-Bắc Hoa Kỳ chấm dứt ngày 2-4-1865 và trước khi bị ám sát hai ngày, Tổng thống Abraham Lincoln đã nói: "Người ta có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng không ai từ bỏ được lịch sử. Trước sau gì, lịch sử của những bậc anh hùng của cả hai bên sẽ phải được dựng lại ở chính nơi mà những người anh hùng đã ngã xuống".

    150 năm sau...với ngày 30-4-1975 để có thêm bài học chiến tranh với hành xử của người chiến thắng phải biết tôn trọng kẻ chiến bại.



    ***
    Rằng vậy là co cỏm xong, ngộ chữ tôi về lại sông Ba với Where The Domino Fell:

    (...) Đại pháo của Bắc quân đã cắt đoàn người và xe di tản thành nhiều khúc...và hơn 100 nghìn dân và 15 nghìn quân miền Nam trong cuộc rút lui này (...). Những nhà báo ngoại quốc từ trên UH1 nhìn xuống cho hay: (...) Đoàn xe di tản (quân xa, xe dân sự, xe gắn máy) giống như một giòng sông, và mỗi khi khi có đạn đại bác rơi xuống "giòng sông" thì họ thấy, nước văng lên (giống như khi ta ném đá xuống nước) - (đó là xác người tung lên theo đất bay bay). Những nhà báo này đã gọi liên tỉnh lộ 7 là con đường của máu và nước mắt. Vì chưa bao giờ có một cuộc lui binh mà tổn thất về quân và dân lại khủng khiếp như vậy. (...)

    Cái đầu đất ngộ chữ tôi được thể tha mộ địa tới ông bạn hiện đang ở thành phố mà cả hai đang...tạm dung. Ông bạn là thiếu tá thủy quân lục chiến thuộc thể loại hồ trường dục phá thành sầu dụng tửu binh. Năm 74, ông được lệnh dẫn binh lính tới trấn ở cửa rừng. Ông đợi bại quân của Công truờng 7 rút về biên giới Việt-Miên để ngắm từ lỗ chiếu môn qua đỉnh đầu ruồi bắn mấy anh nón cối như...bắn bia ở xạ trường quân trường Thủ Đức. Cứ theo ông bạn thì:

    (...) Qua ống nhòm, dưới những lùm cây, một đám bại quân đông như ruồi, quần áo lếch thếch, máu me đầy người, đứa chống gậy, đứa đi cà nhắc, thằng này dìu thằng kia, rên la khóc lóc. Áng chừng gần năm chục thước, sát hơn một chút nữa, lố nhố những người là người. Tụi nó trẻ măng, thằng băng đầu, thằng băng tay, vừa cõng vừa cáng...Ngay lúc ấy, không hiểu tại sao tao liên tưởng đến cảnh rút quân của Hồng Quân trong phim Chiến tranh và hòa bình rõ mồn một từng nét, ngay trước mắt tao. Đám Bắc quân, hàng một lê lết qua mặt tao...Tao nghe được cả những tiếng chân dẫm trên lá xào xạc...như con nai vàng đạp trên lá vàng khô...(...)

    Mồi điếu thuốc, thở ra khói, mắt lãng đãng nhìn...mặt ngộ chữ tôi.

    (...) Ấy đấy, thế là từ cái đầu ruồi tao nhắm y chóc ngay giữa trán thằng nón cối. Bây giờ chỉ cần nín thở, nhè nhẹ bóp một cái tách thật ngọt là rồi. Là...tử sĩ. Thế nhưng giữa cái lúc chết người này, đầu tao dở chứng bật ra câu thơ của thằng lính địa phương quân ở xứ nước mắm Phan Thiết: Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo - Xem cuộc chiến như tai trời ách nước - Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước - Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi... (...)

    Thế là ông bạn hồ trường tha tào đám nón cối từ Trường Sơn vác xác tới đây. Chuyện có hậu là...hậu sự thằng hồ trường gặp thằng...tử sĩ ở quán nhậu tại Sài Gòn và kết bạn đời với nhau.

    Để rồi móc nối như cái móc xích của chiếc xe tăng với ông nón cối khác chỉ bắn...heo rừng:

    (...) Tôi nhớ tết năm 1974, molotova chạy trên Trường Sơn vừa ngừng, tôi thấy một anh lính lái xe trong đơn vị, quăng xuống cái bi đông nước rồi nhảy xuống đường, vừa đái vừa chửi đổng:

    - Mẹ kiếp, thằng miền Bắc cứ ở ngoài Bắc, thằng miền Nam cứ ở trong Nam, đánh nhau làm chó gì cho bố mày khổ thế này?.

    Tôi còn nhớ một tối giữa Trường Sơn, chúng tôi ngồi lại hỏi nhau: "Mai mốt được về nhà, việc đầu tiên chúng mày sẽ làm cái gì?". Thằng thì "lôi ngay vợ vào buồng trong, khỏi rửa ráy", còn tôi, "tao sẽ chạy ngay ra phố Lí Quốc Sư ăn một bát phở chín dừ".

    Bây giờ, hầu hết họ đã nằm xuống, người bị bom bi ở cầu Cà Tang (Quảng Bình), người chết

    sốt rét ở sông A Vương, tôi có làm gì đi chăng nữa cũng chẳng có ý nghĩa gì với họ. (...)

    Tum húm với kẻ thắng nói gì? Ông "chỉ bắn heo rừng" nói rằng:

    (...) Đó là một sự thật "trong mắt tôi", và tất nhiên còn những sự thực khác về ý thức rất sẵn ở những người lính cả hai bên chiến tuyến. Đó là sự cảm thông, bởi lẽ chiến tranh là cả một quá trình lịch sử. Cha ông chúng ta đã từng "mang gươm đi mở nước", bởi vậy với tôi, chiến tranh là một cái gì đó giống như là "thiên mệnh" trong "gọng kìm của lịch sử" (chữ này tôi mượn), mỗi con người bình thường hình như đều trở nên bé nhỏ trước bàn tế của thần chết. (...)

    Với bên bờ chiến sử, kẻ bại nói năng như thể như thế này đây:

    () Có thể nói những ai đã từng trực tiếp tham dự vào chiến tranh sẽ không bao giờ thoát khỏi cuộc chiến tranh ấy. Những người lính từng "giã từ vũ khí" gần bốn mươi năm về trước vẫn tiếp tục sống trong tâm thế lính tráng cho đến tận bây giờ. Người ta tiếp tục đánh nhau trong ký ức. Ðiều này phần nào giải thích tại sao người ta cứ viết về chiến tranh mãi. Kẻ thắng viết, đã đành. Kẻ thua cũng viết, thậm chí, còn viết nhiều và viết hăng hơn những kẻ chiến thắng nữa. (...)

    Đang hung hăng vậy lại ngại ngùng bạn đọc nào đấy khó tính như ngự sử văn đàn kheo khảy ngộ chữ tôi chỉ ngôn giả bất tri. Nói cho ngay ngộ chữ tôi có..."nói" gì đâu với chữ nghĩa dày đặc như ruồi bu qua những trang giấy trên, trăm sự ở cụ Bùi Giáng mà ra. Cụ đã ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ, tạm hiểu là ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai nên cụ đã búi bấn...

    • sử lịch sai trang
      chạy quàng
      là lịch sử...

    Là thế đấy, thưa bạn đọc! Nay xin thưa.




              

              
    Thạch trúc gia trang
    Lập đông, Bính Thân 2016

    Ngộ Không Phi Ngọc Hùng






    http://chimviet.free.fr/lichsu/phingoch ... Ky17_a.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Ngày giỗ của Nghiêm

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          





Ngày giỗ của Nghiêm
__________________
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích






Mầy ở lại dưới mộ sầu đất Mẹ
Tao bên nầy trời tuyết phủ quê xa!
Sóng cuộn trùng dương đôi mắt lệ nhòa
Theo dòng chảy bạch lạp buồn hiu hắt
Khói quyện hương trầm hồn Nghiêm phảng phất
Trong mắt ngời sống dậy tuổi ngày xanh
Ánh mắt còn vương dấu bước quân hành
Của một thuở thét gào trời chiến tuyến!


Mầy nằm xuống bên chân rừng miên viễn
Mưa nắng mây trời thoáng chốc vụt qua
Nấm mộ cô đơn bên gốc thông già
Thân cằn cỗi trụi cành, xơ xác lá!
Mầy nằm đó, chưa chịu mình gục ngã
Tử thủ đợi chờ quân viện sáng mai.


Mộ bia kia, hố tác chiến lâu dài
Vắng bóng giặc thù lâu ngày qua lại
Mầy nguyền rủa bằng tiếng chim cú mỏi
Và trút hờn theo lá đổ trời thu.
Lá vàng rơi phủ ngập kín nấm mồ
Như quốc kỳ ủ hồn thiêng sông núi!


Mầy nằm xuống. Tao mười năm hận tủi
Trong chốn ngục hình nếm đủ đòn thù.
Chú Lập, thằng Bình cùng bạn Hùng, Thu,
Ðã gởi xác nơi lao tù Việt Bắc
Ðứa vợ bỏ cả đàn con lưu lạc
Quê ngoại bơ vơ, đất nội tiêu điều
Ðứa bị lùa kinh tế mới đìu hiu
Cơn sốt vàng da nối tay thần chết
Ðứa vượt biển cả gia đình mất hết
Lớp sóng dập vùi nào biết tiếc thương!


Tao ở bên nầy cách một đại dương
Trên xứ sở đã quay lưng ruồng bỏ
Mặc miền Nam chịu đòn thù man rợ
Một nhà tù vĩ đại đói cơm rau
Tao nhập dòng “trâu nước đục” đến sau
Vẫn thẳng lưng đi vào cuộc đời mới
Chẳng một tiếng cậy nhờ
Chẳng một giờ chờ đợi
Rữa chén nhà hàng, bỏ báo tuần san
Ngày đến trường, đêm chùi dọn restroom
Ai nhạo báng, tao ngẫn đầu ngạo nghễ.


Bốn sáu năm rồi, hôm nay ngày lễ
Lễ giỗ của mày, ngày đất nước tang thương
Trước bàn thờ tao đốt vài nén hương
Thương tiếc mầy lẫn lòng đau tổ quốc.


Tao có mẹ già không về thăm được
Mộ người anh bỏ xác trên rừng.
Lũ cháu bây giờ tản lạc nuôi thân
Ðà Lạt, Sài Gòn, Cát Tiên, Ðồng Tháp.


Tao hãnh diện đứa con mầy Thằng Lạp
Chửa lên mười đã cùng Mẹ vượt biên
Giữa biển khơi hải tặc đánh ghe chìm
Trời giữ lại, con trai mầy sống sót
Giờ nó đã nên người danh thành đạt
Vẫn dặn lòng nuôi chí nhớ lời cha
Trên áng thờ hai câu đối thiết tha
Như gai răn mình của Việt Vương Câu Tiển:
“Cha nằm xuống ôm mối hờn quốc biến,
Con lớn lên nào quên cảnh gia vong”.
Bao triệu con tim thao thức chờ mong
Ngày đoàn tụ triệu tâm hồn khấp khởi


Tao sẽ về với mầy trong ngày mới
Trải chiếc poncho cúng chén rượu mừng
Nhớ thuở nào vùng máu lửa, dửng dưng...
Cả bọn vây quanh bình đông rượu trắng.
Tao sẽ cố, tất nhiên không chắc chắn
Hái bụm ớt rừng trên đỉnh Ðịnh Cương. (*)
Nhớ lấy vị cay trong trận đánh thư hùng
Dăm đứa lên lon, mươi thằng xóa sổ!
Tưới rượu mộ bia rửa sầu vạn cổ,
Chiến sĩ hề “da ngựa bọc thây!”
Tao thay mầy uống cạn chén rượu nầy!




(*) Núi Định Cương thuộc tỉnh QN



Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích



          

https://hon-viet.co.uk/HaoNhienNguyenTa ... ghiem2.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu - Trước Tượng Đài Chiến Tranh Việt Nam tại Canberra

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          

          

          
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”