Trên Vòm Trời Lửa Đạn

Trả lời
Ngoc Han
Bài viết: 1601
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Trên Vòm Trời Lửa Đạn

Bài viết bởi Ngoc Han »

Mời anh chị em Người Nam đọc truyện đời phi công thời chiến

Ngày Chim Vỡ Tổ
"Một trường hợp hoa tiêu bị “vertigo” đã xãy ra cho một phi hành đoàn Thần Tượng. Đây có thể nói là một giai thoại hay cũng là một bi hài kịch. Anh em trong phi đoàn khi được nghe kể lại đã cười ra nước mắt!

Trong một phi vụ trở về Nha Trang từ phi trường Pleiku, Trung úy Hòa “test” (test pilot) trưởng phi cơ đã bay cùng với Trung úy Tân “kiến” là hoa tiêu phó. Ngồi thùng - danh từ của trực thăng ám chỉ những hoa tiêu ngồi phía sau khoang tàu- có khoảng ba bốn hoa tiêu của phi đoàn cùng mấy người mê vô xạ thủ trở về căn cứ gốc sau hai tuần biệt phái tại Pleiku.
Khi bay trong đêm tối trời, hay là bị vô mây, phi công không còn thấy mặt đất cũng như đường chân trời và phải dựa hoàn toàn vào những đồng hồ phi kế để điều khiển con tàu.
“Vertigo” là một danh từ quen thuộc đối với nhân viên phi hành, dùng để chỉ người phi công bị lâm vào tình trạng bị ảo giác (hallucination) mất khả năng định hướng (disorientation) và không còn điều khiển con tàu chính xác được nữa.
Một vài trường hợp đã xảy ra khi bay trong đêm tối không trăng sao, trên những vùng xa xôi hẻo lánh, những ánh đèn le lói từ những thôn xóm có khi làm những phi công đang lâm vào tình trạng bị “vertigo” đã tưởng là ánh sao trời và cuối cùng đã đâm tàu xuống đất. Đa số tai nạn xảy ra vì “vertigo” thường đưa đến tử vong.
Đường về Nha Trang từ Pleiku vào mùa mưa hay bị sương mù che phủ, trần mây thấp.
Mấy năm trước đây, một chiếc máy bay của phi đoàn Thần Tượng đã đâm sầm vào triền núi vào một buổi chiều mù sương trên đường trở về căn cứ Nha Trang.
Không một ai trên tàu sống sót...

Ngày hôm đó cho dù thời tiết rất xấu, Trung Úy Hòa ngồi ghế trưởng phi cơ đã quyết định cất cánh bay về Nha Trang.
Sau hơn ba mươi phút bay, khi tàu vừa qua khỏi Cheo reo, Phú Bổn thì thời tiết càng tệ hại.
Bầu không khí mù mịt, nặng chĩu hơi sương.
Trong phòng lái, Trung Úy Hòa nhìn ra ngoài trời, trong lòng bấn loạn.
Chiếc trực thăng đơn độc tiếp tục lầm lủi lướt trên mặt rừng cây, bay xuyên qua những cụm mây treo lơ lững trong không khí.
Trần mây xám xịt mỗi lúc mỗi hạ thấp dần trên mặt rừng âm u.
Thấy thời tiết quá bi đát, Trung Úy Hòa quyết định quay trở về Pleiku trước khi quá trễ.
Đột nhiên, giữa trần mây xám trước mặt tàu một khoảng trống nhỏ vừa hé mở, để lộ bầu trời trong xanh.
Như tìm được lối thoát, không một giây suy nghĩ, Trung Úy Hòa kéo cần lái.
Chiếc trực thăng ngóc đầu vươn lên cao độ chui qua lỗ trống.
Chưa lên tới nửa tần mây, bầu trời xanh đột nhiên biến mất.
Mây trắng bủa vây chiếc trực thăng chậm chạp.
Từ phòng lái nhìn ra chỉ thấy toàn một màu mây trắng đục.
Bên ghế co-pilot, Tân “kiến” tái xanh mặt, còn Trung Úy Hòa thì thất thần, tay cầm cần lái mắt mở lớn nhìn vào dãy đồng hồ trước mặt.
Ba đồng hồ quan trọng nhất trong trường hợp bay vào mây là đồng hồ vận tốc, đồng hồ cao độ và đồng hồ vị thế (gyroscope dùng để chỉ vị thế của con tàu đối với đường chân trời).
Sau vài phút trong mây mù, Trung Úy Hòa mất bình tỉnh, tay chân bắt đầu quờ quạng thấy rõ.
Ngồi ngay sau hai ghế bay là Trung Úy Vinh và Trung Úy Học, hai hoa tiêu người Huế, có giọng nói đặc kẹo, đang chen nhau chồm về phía trước. Đột nhiên Trung Úy Học chỉ vào cái đồng hồ trước mặt, la lớn:

-”Ê!..ê…ê…, coi chừng! “

Bốn cặp mắt đổ dồn vào cái đồng hồ vận tốc đang chỉ gần như”zero” knots! Chiếc trực thăng hầu như đang đứng lại giữa không trung.
Trung Úy Tân “kiến” là người có phản ứng đầu tiên, vội thò tay nắm cần lái (cyclic) đẩy về phía trước. Kim đồng hồ vận tốc tăng dần…
Trong vài phút sau, chiếc trực thăng đột ngột rung mạnh.
Đồng hồ chỉ vận tốc con tàu đang bay 120 knots và đang gia tăng tốc độ (vận tốc tối đa của UH-1 là 120 knots).

-”Trời!…trời!…trời!… kẹo…kẹo…kẹo”.
Ngồi sau, Trung Úy Vinh “huế” vừa chồm người lên trên cockpit, miệng vừa la làng, vừa vói tay chụp cần lái trước mặt Trung Úy Hòa kéo về phía sau.

-”Đậy…, đậy…!”
Tới phiên Trung Úy Học hốt hoảng chồm người đẩy cần lái về phía trước.

-”Kẹo!…kẹo…, kẹo!
” Vinh “huế” lắp bắp: “
Đ. mạ chết tui rồi!…trời đất ơi là trời đất!…sao mà con “vặng” số thế này!
Kẹo.., kẹo…!
Trời ơi là trời!…”
Tiếng la ai oán của Trung Úy Vinh “huế” càng làm gia tăng thêm vẽ kinh hoàng trong lòng những “chiến sĩ của không gian“.

-”Trại!…trại…, trại.”
Tới phiên Trung Úy Học.
Anh nhào tới phía trước chụp cần lái trước mặt Tân “kiến” bẻ qua bên trái.
Trên đồng hồ vị thế chỉ con tàu đang nghiêng hẳn về phía bên phải.

Bốn anh hoa tiêu cùng lái con tàu một lúc!

Hết “đậy, đậy rồi tới kẹo kẹo!”
Hết “trại, trại rồi phại, phại!”
Chiếc trực thăng bồng bềnh, ngả nghiêng, gục ngặc như chiếc lá vàng đang trôi nổi trên con thác lũ hơn mười phút đồng hồ.
Phía sau sàn tàu, mọi người nhốn nháo, nhìn tứ phía bốn bề.
Một anh mê vô đang lầm bầm đọc kinh.
Kế đó là Trung Úy Phạm Mẫn đang lết người ra ngồi sát cửa, sẵn sàng để nhảy ra khỏi tàu.
Làn da ngâm đen “mặn mà” của anh bắt đầu đổi sang màu xám xịt!
Không có một ngôn ngữ nào đủ để diễn tả sự kinh hoàng khủng khiếp đang ngự trị trên chiếc trực thăng “khốn khổ” này.

Hơn mười phút vật lộn với tử thần trôi qua như bất tận…
Hình như Thần chết đã chán chê đùa dỡn tánh mạng của gần mười anh nhân viên phi hành, bỏ lửng trò chơi ngang xương!
Bầu trời bỗng dưng trong sáng!
Mây mù biến mất như một phép lạ.
Tất cả mọi người há hốc nhìn ra ngoài. Ngay trước mặt chiếc trực thăng sừng sững vách núi đá dựng đứng.
Chiếc trực thăng đang ở trong một vị thế bay ngang như một con cua… suýt bị rang muối!

Dãy núi Mẹ Bồng Con nằm giữa Tuy Hòa và Nha Trang đang chạy dài trước mặt.
Hai viên phi công run rẩy lết về Nha Trang.
Tất cả mọi người trên tàu còn bàng hoàng chưa tỉnh cơn ác mộng, không ai còn sức mở miệng nói một lời nào.
Gần hai mươi phút bay sau, những nhịp đập cuồng loạn trong trái tim tất cả những người trai trẻ đã chậm lại, phi trường Nha Trang hiện ra dưới một bầu trời hanh nắng.
Tại bãi đáp, Trung Úy Hòa “test” đã mất hơn hai phút đồng hồ để đặt hai cái càng của chiếc máy bay trực thăng xuống mặt đất cao…
không quá một sải tay!

Nhớ lại câu chuyện “vertigo” do Phạm Mẫn kể lại với một lối diễn tả khôi hài hóa độc đáo, tôi bật cười thành tiếng.

Trích: Trên Vòm Trời Lửa Đạn
Tác giả Vĩnh Hiếu
Last edited by Ngoc Han on Chủ nhật 28/08/16 00:40, edited 2 time in total.
Hình đại diện
NTL
Bài viết: 1387
Ngày tham gia: Chủ nhật 17/05/15 14:20

Re: Trên Vòm Trời Lửa Đạn

Bài viết bởi NTL »

*

Chuyện ni bi hài hết nước nói heng, vừa hôi hộp vừa tức cười. Cũng may là... happy ending.
Ôn H ló ra cho tui hỏi cái. Vậy thì... cái bầu trời trong vắt nớ có phải là... mặt nước hôn, nước biển hổng chừng, để mấy ông tướng nọ đâm xuống mà hổng kịp dòm cao độ ?

Chuyện vertigo tạo ảo ành hallucination đã làm truyền nhơn của dòng họ John Kennedy, John-john junior - tự lái phi cơ cùng vợ đi đám cưới con cousin nó (con gái Robert Kennedy) - đâm thẳng chiếc máy bay xuống bờ biển Cape Cod.
Hồi đầu người ta tưởng máy bay của nó hết xăng hay trục trặc máy móc chi đó, chừng vốt được lên, đám chuyên viên cơ khí dòm lung tung, thấy bình xăng còn hơn nửa, động cơ máy móc tốt nguyên con, rồi kết luận rằng... tai nạn xảy ra vì phi công thiếu kinh nghiệm.

Chuyện đời ấy mà (nắng ra nghe nè nắng) may rủi hổng tường. Thằng nhỏ tuy học hành hổng xuất sắc, nhưng đẹp trai cao ráo, con nhà tông, tiền bạc danh vọng đầy đủ. Lúc nó lấy vợ, đám tiểu thư đài các trưởng giả lăn ra đất khóc hù hụ. Rồi ai cũng biểu con nọ tốt số.
Rồi xảy ra tai nạn định mệnh nọ, không chỉ vợ nó chết theo nó, mà con cả cô em sanh đôi của vọ cũng tháp tùng theo để... đi vào chỗ chết, mà hai cô ấy lại là con độc nhứt trong gia đình.

Đám ma chôn cất đã được mô tả là một sự lạm dụng đúng nghĩa của đám tài phiệt con ông cháu cha : Tro của nạn nhơn được chú nó là thương nghị sĩ Ted Kennedy nhờ tàu tuần của hải quân mang ra khơi, rồi được Caroline Kennedy rải xuống biển.
Ma chay chôn cất xong thì xảy ra tranh chấp kế thừa, giữa Caroline Kennedy và bố mẹ vợ của "hoàng tử". Không rõ kết thúc ra sao, bị tui không theo dõi.

Dòng họ Kennedy danh giá 2-3 thế hệ, nay hẳn cáo chung, để chỉ còn là... tiếng vang quá khứ. Tới nay không còn, chưa thấy có, tên tuổi Kennedy nào sáng giá, có khả năng vực được dòng họ trở lại chánh trường.
Thương hải biến vi tang điền, bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương - sổ nho đậng hù nắng, và mấy o kia (Nghi, mi, CS, plat, Trân, phi, còn quên ai không vậy cà...) cho sợ chơi chuyện "háng rộng"

*
Make the long story... short !
Ngoc Han
Bài viết: 1601
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: Trên Vòm Trời Lửa Đạn

Bài viết bởi Ngoc Han »

Chị Lucy và nhà Nam
Cái bầu trời trong vắt là mây xanh (với điều kiện không bị ảo giác) nếu chun vô trần mây thấp, hoặc sương mù thì ráng mở mắt coi đồng hồ phi kế, vì lúc này rất dễ bị, có thể nhìn trời thấy đúng nhưng thực ra là ngược, đâm tàu xuống sông, hoặc mặt đất. Riêng trường hợp con trai của TT Kennedy đáng lẽ phi cơ cất cánh khoảng 6,30 chiều (vì J.J Junior chỉ có bằng lái với mắt thường không rành về bay đêm), xui cái ông thầy hôm đó vắng mặt, nên J tự quyết định một mình, cái xui thứ hai là vợ và em bà con bị kẹt xe tới trể nên phi cơ cất cánh lúc 8.37' tối. Khi bay ra đảo ông không có bản đồ bay, không hỏi tin khí tượng về thời tiết, và sai lầm lớn là không mở radio để liên lạc, vì thế khoảng sau 30 phút thì gặp sương mù dày đặc, chính lúc này có thể ông bị "ảo giác " đâm xuống biển? Radar mất tín hiệu lúc này. Theo sự điều tra thì họ kết luận ông bị "desorientation spatiale " bởi phi công.
Số mạng đau thương cho giòng họ Kennedy.
Last edited by Ngoc Han on Chủ nhật 28/08/16 23:49, edited 3 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21170
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Trên Vòm Trời Lửa Đạn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Ngoc Han đã viết:...
Nhớ lại câu chuyện “vertigo” do Phạm Mẫn kể lại với một lối diễn tả khôi hài hóa độc đáo, tôi bật cười thành tiếng.
...
... :focl: :rotfl: :trshnkrchf: ...

... truyện này mà thiếu giọng Trung thì cũng như cá kho thiếu nước mắm ...

:allright3:

          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5507
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Trên Vòm Trời Lửa Đạn

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           



    Cám ơn anh Ngọc Hân giới thiệu, tác giả viết duyên dáng khôi hài :flwrhrts:
    BV lần theo kiếm được tác phẩm này tại đây :http://www.quehuongngaymai.com



    NTL đã viết:*

    .....

    Dòng họ Kennedy danh giá 2-3 thế hệ, nay hẳn cáo chung, để chỉ còn là... tiếng vang quá khứ. Tới nay không còn, chưa thấy có, tên tuổi Kennedy nào sáng giá, có khả năng vực được dòng họ trở lại chánh trường.
    "Thương hải biến vi tang điền, bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương" - sổ nho đậng hù nắng, và mấy o kia (Nghi, mi, CS, plat, Trân, phi, còn quên ai không vậy cà...) cho sợ chơi chuyện "háng rộng"

    *
              


    Cảnh đời luôn thay đổi biển xanh biến thành nương dâu, không gì bền vững đời người cũng thế thay đổi mau chóng như đám mây, hình chó thoáng qua rồi tan biến mất :flwrhrts:


              
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: Trên Vòm Trời Lửa Đạn

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Nghi đọc thấy tên thiếu uý Hoà, phi đoàn trực thăng, thì giật mình, tưởng chuyện kể về phi hành đoàn của ông chú, ai dè đem hỏi....Thiên Phong thì nghe bảo, chú là Song Chuỳ chớ hổng phải Thần Tượng :)
:giggles:
Last edited by Vịnh Nghi on Chủ nhật 28/08/16 09:41, edited 1 time in total.
Carpe diem
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21170
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Trên Vòm Trời Lửa Đạn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          





[/audio]
Vertigo
trích từ "Trên vòm trời lửa đạn" của Vĩnh Hiếu

với giọng cười HV
:rotfl:


:flwrhrts:
          
Last edited by Hoàng Vân on Chủ nhật 28/08/16 14:23, edited 1 time in total.
Ngoc Han
Bài viết: 1601
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: Trên Vòm Trời Lửa Đạn

Bài viết bởi Ngoc Han »

Hihi cám ơn anh Hoàng Vân và Bạch Vân, tác giả VH viết lại hồi ký đọc vưà ngậm ngùi vưà tiếu lâm, tội nghiệp lúc di tản gần cuối tháng 3-75, NT Vĩnh Hiếu lấy tiền túi mua bánh mì, chở trên trực thăng võ trang thả xuống cho dân di tản.
Vịnh Nghi
Song Chuỳ là phi đoàn 213 ở Đà Nẳng, còn Thần Tượng PĐ 215 ở Nha Trang.
Mời nhà Nam đọc tiếp "Truyện Tình Khoai Lang"

Chuyện Tình Khoai Lang
Nguyễn Khắp Nơi - Nguyen Everywhere.
Tình yêu là gì?
Ai cũng hiểu, ai cũng biết. Thế nhưng không có một định nghĩa nào được cho là đúng khi giải thích về tình yêu cả. Lý do là, mỗi người hiểu tình yêu theo một nghĩa khác nhau.
Tình yêu, ai cũng có một lần nghe qua, ai cũng đã có ít ra một lần yêu (thử hay thật cũng được), thế nhưng, khi nào thì được phép yêu? Khi nào thì nên... chấm dứt? Không ai dám trả lời cả! Người lính chiến quanh năm với bưng biền, tròn ba tuổi lính, chưa hề có bạn tâm tình, cũng không thể kết luận rằng anh ta không biết gì về tình yêu. Ngay cả ông lão đầu tóc còn vài cọng không đủ làm thuốc, răng cỏ theo nhau rụng xuống cầu hết trơn rồi, cũng không dám nói là mình có đủ kinh nghiệm về tình yêu. Tôi cũng như bạn vậy, cũng đã nghe nói về tình yêu, cũng đã làm thử một lần. Chỉ có một điều đặc biệt là tôi đã đuợc nghe kể lại một chuyện tình thời hậu chiến. Chuyện tình này có thật, rất là cảm động, đã được nhiều anh em biết tới. Theo đúng như những kết luận về chuyện tình thời cổ tích, hai vai chính tới nay vẫn còn sống, vẫn thương yêu nhau, gia đình thật là đầm ấm.
Chuyện tình yêu này thật là đẹp, thật là đáng ghi nhớ, hay hơn tất cả những chuyện tình yêu trên thế giới. Love Story của Mỹ cũng thua xa! Một câu chuyện tình yêu kéo dài cả ba năm trời, trong đó hai vai chính, một nam một nữ không hề quen biết nhau, không hề tiếp xúc với nhau, nhưng kết cục lại lấy được nhau thật là ngọt ngào. Câu chuyện tình yêu này đã được đặt tên là... Chuyện Tình Khoai Lang, theo lời kể của một chịến hữu Nhẩy Dù của tôi, như sau:
***
Ngày đó, vào khoảng năm 1977, tôi đang bị bọn VC bắt đi tù vì tội có ông Tổng Thống đầu hàng. Cả bọn tôi, đa số là các Sĩ Quan trẻ (cấp bậc từ Thiếu Úy tới Đại Úy) được tập trung ở trại Suối Máu, sau đổi qua Trảng Bom (Biên Hòa). Bọn VC độc ác bắt chúng tôi làm việc cật lực nhưng không cho ăn uống tử tế, thuốc men hoàn toàn không có . Ai sống được thì sống, ai về chầu ông bà ông vải thì cứ việc đi. Phương cách giết người này thật là độc ác, giết nguời mà không cần gươm súng. Mỗi ngày đi lao động bên ngoài, anh em cố gắng kiếm được thêm cái gì thì ráng mà kiếm để sống cho qua ngày. Có người lượm được cái trứng chim, bắt được con thằn lằn, rắn mối...cũng đã cho rằng mình có số sung sướng lắm rồi. Dân làng thì ở ngoài xa, thỉnh thoảng mới gặp một vài người. Bọn VC quái ác không cho dân tiếp xúc với anh em chúng tôi và cũng cấm tuyệt anh em chúng tôi không được lân la tới khu dân chúng. Đói, đói lắm, đói thê thảm, đói lả người ra! Nhưng anh em còn trẻ, sức chịu đựng cao, tinh thần càng cao hơn, nên ráng sống đợi một ngày mai tươi sáng.
Bọn VC khoe với chúng tôi: " Đảng ta đã . . . Đại Thắng Lợi"
Thì chúng tôi lại vui mừng nhìn nhau, nói trong ý nghĩ: "Anh em ta . . . Đợi Thắng Lại!"

Ruộng mía, khoai lang, khoai mì của đồng bào ở chung quanh rất nhiều, nhưng chúng tôi không đụng tới, vì đó là của dân, mồ hôi nước mắt của họ. Họ cũng đói như chúng tôi vậy, đâu thể nào lấy của dân được. Ngày xưa, chúng tôi bảo vệ họ, ngày nay không làm gì được nữa nhưng không vì đói mà mất tư cách. Đồng bào biết chúng tôi đang bị đầy đọa, họ cũng thương cảm lắm, họ cũng đã tìm đủ mọi cách mà giúp đỡ chúng tôi. Bọn VC cũng biết như vậy, cho nên mỗi lần phải đưa chúng tôi di chuyển ngang khu dân cư, bọn chúng đi kè kè sát bên, không cho ai tiếp xúc với ai. Muốn mua thêm ít đường, ít muối cũng khó lòng mà làm được!
Thế nhưng trời cao còn có mắt mà, không sao! Miễn được thấy dân là lòng người lính thấy ấm lại rồi! Buổi sáng hôm đó, chúng tôi đang trên đường đi lao động. Từ xa, chúng tôi đã thấy khu dân cư ở đằng trước, và thấy bóng dáng những trẻ em, những cô gái đang tung lúa, thẩy khoai lang ra trước nhà để phơi. Khi tới gần khoảng chừng chục thước, chúng tôi thấy một bóng dáng phụ nữ cầm thúng thẩy khoai lang ra ngoài đường đi, chỗ chúng tôi đang bước thấp bước cao. Chúng tôi tuyệt đối không đụng tới tài sản của dân, dù là mấy củ khoai lang nhỏ bé, nên vẫn cứ thế mà bước đều. Mấy hôm sau, khi đi ngang qua xóm nhà này, chúng tôi lại thấy bóng dáng người phụ nữ này. Cô cũng dáng điệu như cũ, cầm thúng khoai lang thẩy ra đường đi. Lần này cô nói bâng quơ:
- Má à, mấy đám khoai lang hư này, mình đâu có bán cho ai được! Thôi, dục bỏ, nha Má!
Cô vừa nói vừa thẩy khoai lang ra chỗ chúng tôi.
Cô đứng ở xa nói tới, chúng tôi cũng không đi gần nên chỉ nghe cô nói như vậy thôi. Nói là cô gái thì cũng là nói vậy thôi, chứ không thấy rõ hình dáng, nói chi tới mặt mày.
Mấy hôm sau nữa, chúng tôi lại có dịp đi lao động ngang qua khu dân cư này. Chúng tôi lại thấy cô gái hôm trước. Cô vẫn đứng xa xa, nhưng lần này cô cố tình cầm khoai lang thẩy vào chúng tôi rồi bỏ đi, dáng vẻ rất là bình thường.
Tối về khu trại, chúng tôi bàn tán về cô gái, về những củ khoai lang mà cô thẩy ra ngoài. Chúng tôi cùng đồng ý là thái độ của cô rất lạ: Không có ai phơi khoai lang ở chỗ đường đi đó, mà cũng không có ai dục khoai lang trên đường đi như vậy cả.
Một người bạn - tên Phúc - đã nói với tôi:
- Tao nghĩ rằng cô gái này muốn cho mình những củ khoai lang đó. Chứ nếu cô muốn dục đi, thì thiếu gì chỗ dục. Hơn nữa, khoai lang dù là hư, không cho người ăn được thì để cho heo ăn, dễ gì mà dục bỏ!
Lần sau nữa, khi đi ngang khu nhà dân đó, chúng tôi lại thấy cô. Lần này chúng tôi không thấy cô thẩy khoai lang ra nữa, mà đứng yên ở phía xa xa chỉ trỏ chỗ này, chỗ kia, ý như muốn chỉ cho chúng tôi những củ khoai lang mà cô đã thẩy ra trước đó.
Tối về, chúng tôi lại có dịp bàn tán. Phúc nói với tôi:
- Tao có nhìn thấy mấy củ khoai lang ngay trên đường mình đi. Tao thấy khoai lang kỳ này cũ rồi, không tươi như bữa trước nữa. Tao nghĩ rằng, cô thẩy ra cho tụi mình lượm, nhưng không ai lấy, nên cô lại thâu lại để dành, bữa nay thẩy ra nữa. Chắc chắn là cô cho tụi mình đó, tụi mày đồng ý không?
Tất cả cùng có ý nghĩ đó! Chắc là cô còn có lòng thương những người lính sa cơ đói khổ, mà tặng những củ khoai lang ăn lót lòng. Củ khoai lang nhỏ nhoi không đáng là bao, nhưng tấm lòng của cô thật đáng quý! Chẳng có ai ở không mà chờ anh em chúng tôi đi gần tới mới thẩy khoai lang ra. Cũng chẳng có ai có nhiều khoai lang để mà thẩy chơi như vậy. Chắc chắn là khi chúng tôi đi khỏi, cô lại thâu lại những củ khoai đó mà để dành thẩy lại cho chúng tôi vào ngày hôm sau. Anh em chúng tôi cùng đồng ý là kỳ tới, nếu có đi ngang khu nhà dân, nếu cô còn có lòng hảo tâm mà thẩy khoai lang ra, chúng tôi sẽ chia nhau lượm.
Dịp may đã tới, chúng tôi lại có dịp đi ngang khu nhà dân cũ, và lại thấy bóng dáng cô từ xa. Cô lại thẩy khoai lang ra rồi bỏ đi. Chúng tôi đã bàn với nhau trước rồi, nên chia ra làm nhiều toán nhỏ: Toán đi trước bao chung quanh đám quản giáo để chúng khỏi nhìn thấy phía sau, toán thì đi chậm chậm lượm thật lẹ những củ khoai lang bỏ vào giỏ xách thật nhanh. Lính mà! Chúng tôi thanh toán chiến trường khoai lang lẹ lắm, không thua gì những lúc thanh toán bọn quỷ đỏ trên chiến trường trước đây.
Buổi trưa hôm đó, chúng tôi lại chia ra nhiều toán để dắt bọn quản giáo đi ra xa, trên đầu gió, để đám còn lại lo nướng khoai. Đói lòng ăn được củ khoai lang. Ôi, sung sướng nào hơn!
Đám này ăn xong thì lại ra canh bọn VC để đám kia trở lại ăn những củ khoai lang tình nghĩa đó. Lần sau đi ngang khu nhà dân, đến phiên Phúc lo lượm những củ khoai lang của cô gái hảo tâm. Buổi trưa, Phúc nói nhỏ với tôi:
- Đúng như tao dự đoán, mày ạ! Kỳ này cô ta cho mình toàn là khoai mới, bự và ngon hơn khoai bữa trước nhiều lắm! Chắc cô đã núp đâu đó, thấy mình đã lượm hết khoai kỳ trước nên mới đưa khoai lang mới ra đó!
Nhờ những củ khoai lang đó mà anh em chúng tôi có thêm sức khỏe. Nhờ ở cảm tình mà người dân đã dành cho chúng tôi qua củ khoai lang mà chúng tôi thêm được sức mạnh để chịu đựng cực khổ, chờ đợi ngày mai trời lại sáng. Chúng tôi ăn những củ khoai lang đó của cô gái tốt bụng, nhưng chỉ nhìn thấy dáng của cô từ phía xa xa mà thôi, chứ chưa bao giờ được nhìn thấy mặt cô cả. Cũng chỉ duy nhất có một lần được nghe giọng nói của cô mà thôi.
Thời gian cứ thế trôi qua, chúng tôi vẫn sống, vẫn hiên ngang với đời.
Rồi ngày mai đã tới, ngày tôi và Phúc được bọn VC trả về nguyên quán. Chúng nói là chúng tôi đã... học tập tốt. Nhưng đối với chúng tôi, với riêng tôi và Phúc, chúng tôi vẫn vậy. Muôn đời chúng tôi vẫn là người lính VNCH và càng căm thù bọn Việt Cộng hơn bao giờ hết. Tôi được gia đình lo liệu sẵn, một thời gian ngắn sau khi về lại nhà, tôi đã may mắn vượt biên trót lọt và qua định cư ở Melbourne xứ Úc Đại Lợi.
Tôi cũng có nghe bạn bè nói, Phúc cũng đã vượt biên và hiện ở Sydney, cùng xứ Úc với tôi.
Một ngày đẹp trời vào năm 1990, vợ chồng tôi có dịp đi Sydney và đã ghé thăm Phúc.
Bạn bè ngày xưa gập nhau mừng mừng tủi tủi, nói chuyện huyên thuyên - Chuyện xưa còn đó, nhưng bạn bè nay đâu? Thằng nào còn sống? Thằng nào chết trong trại tù? Thằng nào vượt trại? Thằng nào vượt biên? Đi đâu?
Cuối cùng mới tới chuyện đời sống hiện tại.
Mày lấy vợ hồi nào? Lấy từ hồi ở VN hay qua đây mới lấy? Bao nhiêu đứa con rồi? Đứa lớn bao nhiêu? Đứa nhỏ mấy tuổi. Chúng tôi nói như chưa bao giờ được nói.
Phúc kể, đã lấy vợ từ hồi ở VN, hai vợ chồng cùng vượt biên qua đây. Vợ của Phúc chỉ cười cười khi nghe chồng giới thiệu là tôi ở cùng trại tù với anh từ năm 1977.
Một lúc sau, vợ Phúc bưng ra một đĩa mà Phúc nói rằng rất đặc biệt: Khoai lang Dương Ngọc!
- Ăn đi mày, ăn để nhớ lại cái thời bị tù đầy, bị bọn VC vo tròn bóp méo!
Tôi sáng mắt lên, vồ lấy củ khoai lang, ăn không kịp bóc. Tại sao lại phải bóc vỏ? Vỏ khoai cũng là khoai vậy! Tại sao lại vứt bỏ đi?
Bao nhiêu kỷ niệm xưa quay trở lại. Tôi cũng đã kể chuyện khoai lang cho vợ tôi nghe nên tất cả đều cùng nhau góp lại chuyện xưa. Tôi vừa ăn vừa ngậm ngùi:
- Không biết cô gái đã cho mình những củ khoai lang đó, bây giờ ra sao? Có ai biết cô đó là ai không? Cô ta còn ở đó hay đã trôi nổi đi phương trời biền biệt nào rồi?
Phúc trầm ngâm một lúc rồi trả lời tôi:
- Cô gái cứu sống mình bằng những củ khoai lang... đang ở trước mặt mày đó! Tao cưới cổ rồi!
Thật là không ngờ! Vợ chồng tôi ngạc nhiên tới há hốc miệng, rớt cả củ khoai lang ra ngoài:
- Mày... mày nói cái gì? Cô này đây... vợ mày đây... là... là cô gái cho tụi mình khoai lang ở Trảng Bom? Mày... nói chơi hay... nói dỡn vậy? Thiệt không? Làm sao mà mày kiếm ra cổ ? Mà... phải thiệt là cổ không? Làm sao mày biết là cổ mà dám nói là cổ ? Dám lấy cổ?
Vợ Phúc (Dung) mỉm cười giải thích cho chúng tôi:
- Em đâu có gueng, đâu có biết ảnh là ai đâu! Tự dưng ảnh tới kiếm em rồi... hỏi cứ (cưới) em đó chớ!
Phúc giải thích rõ ràng hơn:
- Khi còn ở trong trại tù, mình đã nói chuyện với nhau thật nhiều về cô gái đó, tao thầm cám ơn cô đã còn nghĩ đến những người lính VNCH đang mắc nạn. Tao đã nghĩ trong đầu rằng, nếu có dịp trở về, thế nào cũng đi tìm cô gái đó mà cảm ơn. Nếu cô ta còn độc thân, tao sẽ cưới cô ta làm vợ. Mặc dù chỉ với một hành động nhỏ nhoi tặng những củ khoai lang cho chúng ta, nhưng cô đã chứng minh được rằng, cô là người chống lại bọn VC, cô là người đã còn nhớ đến người lính VNCH xưa. "Miếng khi đói bằng gói khi no" mà! Mình đang sa cơ mà còn có người dám nghĩ tới mình, thì làm sao mà không cảm động cho được?
Đến khi được thả về, tao trở ra Phan Thiết ở với cha mẹ anh em một tuần, thì nói với ba má là tao kiếm đường làm ăn. Tao quay trở lại Biên Hòa, đi vào khu Trảng Bom, nói với Tổ Trưởng vùng đó là tao ở Biên Hòa, muốn về làm rẫy, mua đất trồng khoai lang. Ông này dẫn tao đi giới thiệu với những gia đình đang trồng khoai lang, có dư đất muốn bán. Nhà nào tao cũng vào làm quen để hỏi mua đất, hỏi kỹ thuật trồng khoai, nhưng mục đích chính là kiếm cho ra cô gái đó. Tao cũng như mày, như những anh em trong trại, đâu có ai biết mặt mũi cô ra làm sao? Ngay cả dáng người cũng không nhìn được, nên khó kiếm hết sức. Nhưng tao còn nhớ được giọng nói của cô ta khi nói: "Má à, khoai lang của mình hư hết rồi, không bán được đâu, dục đi nha Má!" Tao nhớ có nhiêu đó thôi. Rồi duyên số cũng giúp cho tao kiếm ra bả. Buổi chiều hôm đó, khi tao đã hết hy vọng kiểm cổ rồi, đang trên đường đi tới nhà Tổ Trưởng chào từ giã. Chợt tao đi ngang qua một căn nhà ở cuối xóm, thấy một cô gái đang gom khoai lang bỏ vô thúng. Tao ngừng lại hỏi bâng quơ:
- Cô lựa khoai lang đem bán hả?
Cô này không quay lại, vừa tiếp tục lựa khoai, vừa trả lời:
- Tui lựa khoai lang dư đặng mai đem thẩy cho mấy người lính "học tập cải tạo".
Tao thấy coi bộ trúng mối rồi, bèn hỏi tới:
- Khoai lang trồng cực khổ mới có. Bộ cô có bà con đang học tập trong đó hay sao mà lại cho họ khoai lang?
- Tui đâu có gueng ai ở trỏng đâu! Bị tui thấy họ tội nghiệp thì tui giúp đở chúc ít dzậy mà! Hồi xưa, mấy người này đi lính để giữ cho làng xóm được yên, khỏi bị bọn VC phá đám giết hại người ta. Nay những người này bị bắt ở tù, mình phải nhớ ơn họ, phải giúp họ chớ! Hổng giúp được nhiều thì có mấy củ khoai lang cũng giúp họ chút đỉnh dzậy mà!
Mới nghe bả nói là tao nhớ lại liền. Đúng y là giọng nói "Má à, đám khoai lang này hư rồi . . ." mà tao nhớ không bao giờ quên. Tao lại còn kỹ càng hỏi cho ra lẽ tại sao bả lại giúp mấy đám tù cải tạo như mình? Nghe bả trả lời ngon lành như vậy là tao chịu quá đi, nhất định giá nào cũng phải làm quen, nếu được, sẽ cưới bả làm vợ. Lính mà! Dễ lắm! Giản dị lắm: "Hễ ai thương lính là lính thương lại liền".
Tao lại đang trong tình trạng độc thân... "Tròn năm năm lính, chưa hề có bạn tâm tình". Tới luôn! Tao đi tới đi lui nhiều lần làm quen với bả, với gia đình bả, nói là xin học làm rẫy. Khi biết rõ gia đình bả, và biết bả còn đang độc thân, chưa có đám nào, tao mới trở về Phan Thiết kể lại chuyện của bả cho ông bà già tao nghe và nói ý định muốn cưới cô gái quê, nhưng có lòng thương lính đó. Ba má tao đồng ý tao muốn lấy ai thì lấy, miễn là hai vợ chồng hạp với nhau là được rồi. Nhưng mà cô đó có lấy tao hay không thì lại là chuyện khác nữa. Tao trở lại nhà Dung phụ làm rẫy tiếp. Trong một bữa nghỉ trưa ở ngoài ruộng, chỉ có một mình tao với bả, tao mới nói rõ tao là ai? Đã cảm cái tấm lòng của bả và muốn được cưới bả làm vợ. Bả rất ngạc nhiên mà nói với tao, y như bả vừa mới nói với mày vậy:
- Tui đâu có gueng biếc gì anh đâu? Tui cho mấy anh khoai lang là cho nguyên đám đó chớ đâu phải cho một mình anh! Bị tui nhớ hồi xưa mấy anh đã đi lính giữ làng xóm tụi tui, chứ tui đâu có biết anh ở trỏng đâu? Mà anh . . . cứ (cưới) tui làm chi?
Làm chi thì tao không biết làm chi, nhưng tao nói tao cảm tấm lòng của bả mà cưới bả, vậy thôi. Tao nói:
- Ít ra thì anh với em cũng còn giống nhau ở một điểm là "THƯƠNG LÍNH".
Nói ba điều bẩy chuyện một hồi, bả cũng không biết nói sao nữa, kêu tao muốn gì thì về nói chuyện với ba má cổ, chứ cổ... hổng biết. Vậy là chịu rồi! Tao mừng quá, cả hai đưa nhau về gập ông già bà già của bả, tao lại kể rõ lai lịch của tao ra và xin đưa cha mẹ tới xin cưới Dung. Hai ông bà ngạc nhiên hết sức, cuối cùng nói là:
- Nếu vậy đúng là duyên số rồi. Con Dung nhà tui nó đâu có gueng biếc gì ông đâu. Nó xin tui ít phai lang, nói là để cho mấy ông bị tù cải tạo, tội nghiệp mấy ổng quá. Ai dè có ông ở trỏng, ông thương nó, ông được dzìa rồi thì ráng lội bộ đi cùng khắp chốn kiếm cho ra nó đặng xin 'cứ' nó! Đó là do Ông Tơ Bà Nguyệt cột đó, chứ hổng có ai bầy ra được đâu!
Tụi tao định ngày, đưa cha mẹ tao tới làm đám hỏi, xong rồi mới mời ổng bả và Dung về nhà tao chơi. Tới Phan Thiết, thấy nhà cửa của ba má tao thì ổng bả và Dung hoảng hồn, vì nhà tao hồi đó cha mẹ cũng còn nhà cửa, cơ sở làm ăn khá lắm! Dung đã nghéo tao ra sân mà nói:
- Nhà anh giào như zậy, mà anh cứ tui là gái guê làm chi? Thôi, thả tui zìa Trảng Bom tui làm rẫy sướng hơn!
Tao phải nói khó với bả:
- Mấy thứ đó là của cha mẹ anh, chứ anh... "Trên Răng Dưới . . . Dế ", đâu có cái gì nữa đâu! Có cái mạng cùi cũng nhờ em cho mấy củ khoai lang mới còn sống tới ngày nay. Mà em đừng có lo, mình còn đủ chân đủ tay, mình tự làm mà nuôi thân, chịu không?"
- Anh nói dzậy thì tui chịu!
Chịu hay không chịu thì cũng trễ rồi! Lính đã nói là Lính làm:
- Em có ý kiến nhiêu đó là đủ rồi, mọi thứ còn lại để anh lo. Đừng có lộn xộn gì hết nữa!
Rồi tụi tao làm đám cưới. Cưới xong, tao lo đường vượt biên. Ông bà già vợ thẩy một mớ khoai lang lên tàu, vậy là tụi tao dông. May mắn cho tụi tao, trời yên bể lặng. Sau bốn ngày lênh đênh trên biển, tàu tụi tao cặp được tới Bidong. Tao chọn đi Úc cho nó lẹ và an toàn. Khoảng hai tháng sau tụi tao tới Sydney, gởi điện tín cấp tốc về cho ông bà già tao hay. Hai ổng bả mừng quá, lập tức mướn xe chạy tới Trảng Bom cho ba má Dung hay. Ba Má Dung cũng mừng quá, xá trời xá đất cám ơn lia chia. Ba của Dung cười lớn:
- Dzậy là thằng rể tui khỏi sợ bị Diệc cộng bắt cải tạo nữa rồi ha!
Má của Dung hỏi thêm:
- Ở bển có đất cho tụi nó trồng khoai lang hông dzậy, anh chị sui?
Tụi tao ở bên đây thì cũng giống như tụi bay vậy, ra sức làm mà lo cho gia đình, con cái, lo cho cha mẹ bên Việt Nam. Tụi tao có hai con rồi. Bây giờ bả hết dám hỏi:
- Anh "cứi" tui làm chi, nữa rồi.
Tụi tao lo làm nuôi con ná thở, đâu còn thì giờ mà hỏi nữa! Hỏi nữa tao để..... đẻ nữa!
* (Để tôn trọng đời sống cá nhân, tên nhân vật chính đã được đổi khác).
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: Trên Vòm Trời Lửa Đạn

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Hoàng Vân đã viết:


[/audio]
Vertigo
trích từ "Trên vòm trời lửa đạn" của Vĩnh Hiếu

với giọng cười HV
:rotfl:
Cười nghe ngon lành ghê hỉ :lol:
Carpe diem
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 21170
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Trên Vòm Trời Lửa Đạn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

.. bảo đảm là tác giả cũng vừa viết vừa cười .. ra nước mắt ..
... :rotfl: ...

          
Trả lời

Quay về “của người”