B ờ n ư ớ c c ũ
__________________________________________________________________________________
Nhìn em nhé bên bờ kia gió thổi
Lá xanh vườn theo cỏ mượt ngân nga
Tơ vi vút một đời thương nhớ tuổi
Của trăng rằm xuống dọ dẫm bên hoa
Khung cảnh ấy nằm sâu trong đáy mắt
Có lệ buồn khóc với lệ hoà vui
Để tràn ngập hương mùa lên ngan ngát
Rồi tan đi trong hố thẳm chôn vùi
Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ
Ngó bên kia vườn biếc lá hoa lừng
Ô vạn vật vẫn chờ nguồn nước lũ
Tự ngàn năm tuôn dạo tự khe rừng
Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ
Mộng xanh ngần giậy nối mộng em xưa
Ngó non nước giữa sớm chiều tư lự
Đón mơ màng về thổi gió lưa thưa
(bến đò Ngàn-Xuân cũ)
Bùi Giáng
Bờ nước cũ
Bờ trần gian
-
B ờ t r ầ n g i a n
__________________________________________________________________________________
Đường cong có cỏ mọc ven bờ
Cây đứng trong vườn lá chuối tơ
Chó sủa sớm chiều đi qua ngõ
Gà con mất mẹ chạy bâng quơ
Cá ở ngoài khe có ít nhiều
Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
Em về có hỏi răng ri rứa
Nhắm mắt đưa chân có bận liều
Bữa hôm nay
Bữa hôm nay
__________________________________________________________________________________
Bởi vì em ạ.
Hôm mùng ba mùng bốn theo nhau
đẩy lùi mồng một mồng hai của hôm nay
Nguyên Đán.
Ta đi về phố thị tìm em.
Trang xanh đời em giữ.
Một buổi chiều.
Em hẹn giữ miên man.
Một buổi mai.
Em hẹn giữ muôn vàn.
Một buổi tối.
Không làm sao quên được.
Em là gái của đời em quốc sắc.
Ngó hồng nhan em một kiếp mong manh.
Ồ hôm xưa ta ngó để không đành.
Vì em đã
Em đã ngó về bốn bên em ạ.
Đường sương bay lận đận bước u buồn
chân ngón giẫm lên nhau.
Gai nằm ở dưới.
Bữa hôm nay
Bởi vì em ạ bữa hôm nay.
Biết sao chứ nói nữa
em biết rằng em rõ lắm
em biết rằng trời hôm nọ hôm nay.
Cũng như hôm qua không nói gì nữa cả.
Vì bữa đó nghe đời đi thao thức
buồn nhân gian cõi lòng con dạ rất ngu ngơ.
Bữa hôm nay còn dám hẹn đến bao giờ
Bởi vì em ạ em ơi
ồ em nhìn đi em nhé.
Cười đi em
ngọn đèn răng ngọc nở như trời xa đã mất.
Trong một giờ toan tính giữ
mất rồi em
Nước mắt hoa môi
khắng khít chùm bông.
Chiều dại gió hoang
về phương hướng mông lung.
Em mang đi trong mớ tóc phập phồng.
Đời đem tạt ít nhiều.
Em... em...
Hoa mật đó buổi xưa mùa xuân tụ
ở giường giếng ngọt triền miên
Lau lách cỏ bờ cát bãi cồn hoang
bến cô liêu trời cô tịch
đi về trong xương khớp lệ vàng
bên dưới lỗ chân lông.
Nắm tay nhau em ạ bước về đâu em chỉ dẫn
nếu bước lạc đường từ bữa đó hôm nay.
Trang xanh em giở suốt mấy đêm chầy
nghe động vỡ một mùa xa băng tuyết.
Một mùa xa nụ cười em gieo bất tuyệt
ở bốn bề cây lá gió hôm nay.
Em nghiêng tai ta nói nhỏ chuyện này
Mưa nguồn (1962)
Bữa trước
B ữ a t r ư ớ c
__________________________________________________________________________________
Chợt hay tin đã lỡ làng
Chân trời bên ấy mây vàng ra sao
Rừng xanh núi đỏ nghiêng đầu
Ngàn năm vĩnh biệt hội nào thiếu em
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng nước im vô chừng
Ngọn triều hư ảo mông lung
Màu tơ tóc lệch tấm thân xương rờn
Tài hoa tức tưởi khôn hàn
Nắm dư vang đẩy lên ngàn bóng sương
Cành thu chớm hẹn trái hường
Cỏ gai chợt lấp con đường đầu khe
Sớm hôm đi đứng phố ngồi hè
Gió tây thổi lạnh lùng nghe trong mình
Cõi bờ thương nhớ rộng thênh
Về trong thiên hạ người quên em rồi.
nguồn: thivien.net
Chào Nguyên Xuân
Chào Nguyên Xuân
__________________________________________________________________________________
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau
Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu
Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
Mưa nguồn (1962)
Chỗ này
-
C h ỗ n à y
__________________________________________________________________________________
Người đứng đó ngày về tôi có thấy
Hai bàn chân trên cỏ lá ngàn xuân
Phong cảnh đã bốn bề cùng tôi nói
Linh hồn người là thiếu nữ thanh tân
Rồi tôi lớn đi vào đời chân bước
Cỏ mùa xuân bị giẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu? xưa chính đã chỗ này
Người không ở vì chờ mong đã mỏi
Người đã đi cùng tuổi trẻ tôi đi
Chợt có lúc trên đường tôi đứng lại
Ngó ngu ngơ... xưa chính đã chỗ này
Bùi Giáng
Mưa nguồn
Re: Bùi Giáng
Phượng
Mùa lá ngó lên
Màu trời của lá
Mây trời ngó xuống
Mùa nước mưa nguồn
Cồn cát tương lai
Bãi trăng quá khứ
Triều biển xô dài
Áo lồng mặc thử
Nước mắt do lai
Miệng cười do thái
Người đã nghiêng vai
Và thân ngây dại
Nước mắt trong hoa
Khóc người cổ lạp
Em sẽ mang hoa
Về sông sóng đáp
Những người ngồi đó
Chờ đợi rất lâu
Và trong khi đó
Nước đổ dưới cầu
Em bước qua mau
Như màu hoa cũ
Nắng hạ kia đâu
Gọi hồn tu hú
Trời sẽ bỏ đi
Đất sẽ bỏ đi
Nước sẽ bỏ đi
Nghĩa là nghĩa là
(Nguồn: Mưa Nguồn và Lá Hoa Cồn, NXB An Tiêm tái bản, Saigon 1973. Trong tập thơ có hai bài trùng tên nhau. Đặt thêm số theo thứ tự sắp xếp của tập.)
Mùa lá ngó lên
Màu trời của lá
Mây trời ngó xuống
Mùa nước mưa nguồn
Cồn cát tương lai
Bãi trăng quá khứ
Triều biển xô dài
Áo lồng mặc thử
Nước mắt do lai
Miệng cười do thái
Người đã nghiêng vai
Và thân ngây dại
Nước mắt trong hoa
Khóc người cổ lạp
Em sẽ mang hoa
Về sông sóng đáp
Những người ngồi đó
Chờ đợi rất lâu
Và trong khi đó
Nước đổ dưới cầu
Em bước qua mau
Như màu hoa cũ
Nắng hạ kia đâu
Gọi hồn tu hú
Trời sẽ bỏ đi
Đất sẽ bỏ đi
Nước sẽ bỏ đi
Nghĩa là nghĩa là
(Nguồn: Mưa Nguồn và Lá Hoa Cồn, NXB An Tiêm tái bản, Saigon 1973. Trong tập thơ có hai bài trùng tên nhau. Đặt thêm số theo thứ tự sắp xếp của tập.)
Re: Bùi Giáng
Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào. Thơ Bùi Giáng
Với bài thơ này, ai dám nói Bùi Giáng là người điên?
Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào,
Đánh cho chết mẹ đồng bào miền Nam.
Đánh cho khoai sắn thành vàng,
Đánh cho dép lốp phải mang thế giầy.
Đánh cho Bắc đoạ Nam đày,
Đánh cho thù hận giờ này chưa tan.
Đánh cho cả nước Việt Nam,
Áo ôm khố rách xếp hàng xin cho.
Đánh cho hết muốn tự do,
Hết mơ dân chủ hết lo quyền người.
Đánh cho dở khóc dở cười,
Hai miền thống nhất kiếp người ngựa trâu.
Đánh cho hai nước Việt Tàu,
Không còn biên giới cùng nhau đại đồng.
Đánh cho dòng giống Tiên rồng,
Osin, nô lệ, lao công xứ người.
Đánh cho chín chục triệu người,
Thành dân vô sản thành người lưu vong.
Đánh cho non nước Lạc Hồng,
Tiến lên thời đại mang gông mang cùm.
Đánh cho cả nước chết chùm,
Đánh cho con cháu khốn cùng mai sau.
Đánh cho Bác Đảng Nga Tàu,
Triệu dân nô lệ ngàn năm căm hờn !
Bùi Giáng
Với bài thơ này, ai dám nói Bùi Giáng là người điên?
Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào,
Đánh cho chết mẹ đồng bào miền Nam.
Đánh cho khoai sắn thành vàng,
Đánh cho dép lốp phải mang thế giầy.
Đánh cho Bắc đoạ Nam đày,
Đánh cho thù hận giờ này chưa tan.
Đánh cho cả nước Việt Nam,
Áo ôm khố rách xếp hàng xin cho.
Đánh cho hết muốn tự do,
Hết mơ dân chủ hết lo quyền người.
Đánh cho dở khóc dở cười,
Hai miền thống nhất kiếp người ngựa trâu.
Đánh cho hai nước Việt Tàu,
Không còn biên giới cùng nhau đại đồng.
Đánh cho dòng giống Tiên rồng,
Osin, nô lệ, lao công xứ người.
Đánh cho chín chục triệu người,
Thành dân vô sản thành người lưu vong.
Đánh cho non nước Lạc Hồng,
Tiến lên thời đại mang gông mang cùm.
Đánh cho cả nước chết chùm,
Đánh cho con cháu khốn cùng mai sau.
Đánh cho Bác Đảng Nga Tàu,
Triệu dân nô lệ ngàn năm căm hờn !
Bùi Giáng
Re: Bùi Giáng
Bùi Giáng Một Bài Thơ Lạc Vận. Tuỳ bút Nguyễn Đình Toàn
Bùi Giáng đã được nói đến nhiều. Mỗi người đọc ông nói đến ông theo một cách. Người ta nói đến thơ ông, nói đến tư tưởng của ông, nói đến cách thế ông sống, tùy theo cách nhìn của mình.
Người ta nhìn thấy ở ông, rõ hơn, kiến thức của ông, tư tưởng của ông, như một hội tụ lớn của tư tưởng Đông Tây.
Người ta cũng nói đến ông như một người điên.
Nếu ai có dịp nhìn thấy ông mang trên mình đủ các thứ: nồi, niêu, xoong, chảo, vành bánh xe đạp, đầu đội mũ sắt, tay cầm một chiếc gậy, đứng giữa đường, thổi còi, vung tay chỉ lối cho xe cộ, thì coi ông là một người điên cũng không gì quá đáng.
Nhưng cũng người điên ấy, vai mang một tấm biển, đi rong qua các phố, trên tấm biển có những dòng chữ viết tay:
Hoan hô đồng chí Phạm Tuân
Khi không anh bỗng nhảy tưng lên trời
Thì nhiều người lại cho rằng đó là một người điên giả vờ. Một sự việc quan trọng như thế, một người Việt “đi dép lốp mà bay vào vũ trụ” như thế, mà nói tới một cách giễu cợt vậy sao?
Ông bị bắt giam.
Nhưng rồi sau đó người ta cũng thả ông ra, vì… ông điên! Và có lẽ vì điên nên ông không biết sợ, ông nói toáng lên những điều có người nghe rồi cười, có người không muốn nghe, cả những điều người ta không dám lập lại dù là để báo cáo đi nữa!
Người ta nhìn thấy ông, mặc bộ quần áo rằn ri của quân đội cũ, đứng trước cửa trường Đại Học Vạn Hạnh, nhìn các đám sinh viên nam nữ qua lại, mủm mỉm cười, bảo: “Lịch sử bức bách tụi bay quá!”
Có rất nhiều giai thoại liên quan tới Bùi Giáng, liên quan tới những cơn điên của ông.
Cũng vô lý như làn kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Lá cũng mất như một lần đã lỡ
Trời đất xanh như tuổi ngọc đã xanh
Trời còn đó giữa tháng ngày lỡ dở
Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình
Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa
Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng
Hồn hoa cỏ Phượng Thành Hy Lạp úa
Nghe một lần vĩnh viễn gặp hư vô
Đọc một lần, đọc hai lần những câu thơ ấy của Bùi Giáng, ai có thể cả quyết ông nói tới điều gì?
Cái mất, cái còn, cái cổ xưa, cái cận đại, Hồn nguyên tiêu/ Phượng Thành Hy Lạp úa/ Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa / điển tích và những câu nói cửa miệng xen lẫn, bờ trùng ngộ là gì mà cả một phen này phen nữa?
Đọc liền một bài thơ của Bùi Giáng, đọc một hơi mươi mười lăm câu thơ của ông, người ta có cảm tưởng ông đùa rỡn với một điều gì đó hết sức nghiêm trọng. Nhưng đã nghiêm trọng sao lại đùa? Đọc một hai câu thơ của ông thôi, có khi chúng ta lạnh mình, tựa hồ bị thổi tạt bởi cơn gió rét không biết tự phương nào lại.
Đất hoa khóc vĩnh biệt trời
Ngàn cây cố quận đổi lời sương thâu
Đất khóc, trời khóc hay người khóc? Nhưng khóc cái gì mới được chứ? Đất trời có vĩnh biệt đã vĩnh biệt lâu rồi, không còn gì để khóc. Ngàn cây cố quận đổi lời sương thâu. Hãy tưởng tượng một sớm hay một chiều nào đó, ta trở về quê cũ, ngẩng mặt trông những hàng cây, gió thổi lùa sương từ cành này qua cành khác. Cành nói với lá. Lá nói với hư vô, nói với ta, hay chỉ vì gió lay nên cành động? Cố hương. Cố quận. Cố nhân tình. Mờ mờ, ảo ảo…
Cảnh cũng là người và người cũng là cảnh, lẫn lộn trong sương mù.
Ta cười cợt, ta nghiêm chỉnh, ta nhớ quên, ta làm bộ hay ta biết rõ, tất cả đều diễn ra cùng một lúc với cái chết. Cái chết như sương mù bôi xóa.
Nhưng nghĩ như thế cũng có thể là nghĩ sai về thơ Bùi Giáng.
Hãy nghe ông nói về thơ ông:
“Muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác”.
Ông còn bảo rằng:
“Kẻ nào tự xét mình từ trong tinh thể mà ra chẳng có chi là phiêu bồng tí chút thì chả nên cưỡng cầu tự ép uổng ghé vào thi ca thâm xứ mà chi”.
Như thế, Bùi Giáng vừa làm thơ vừa muốn đóng cửa thơ.
Nguyễn Vy Khanh, trong một bài viết về thơ Bùi Giáng cũng cho rằng “người ta đã viết nhiều về hành trạng Bùi Giáng hơn là thơ của ông”.
Những hành trạng sống của ông cũng là thơ ông.
Thơ ông làm để tặng chuồn chuồn châu chấu tại sao chúng ta lại lấy đọc rồi trách ông tư tưởng rời rạc, không có hệ thống?
Trữ tình chăng?
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con.
Hiện thực chăng?
Bây giờ em để quần đâu
Cỏ trên mình mẩy em buồn ra sao?
Cười cợt chăng?
Que diêm que lửa que lời
Cõi trăm năm cũng một đời ba que.
Hai câu thơ vừa rồi rút trong bài “que diêm” Bùi Giáng viết sau năm 1975.
Thơ Bùi Giáng như vậy.
Ông không khóc nhưng hình như thơ ông có nước mắt. Ông cười cợt khi nói lời nghiêm trang. Ông nói với chính mình nhiều hơn với người khác.
Về cái chết của mình ông để sẵn trong tập Mưa Nguồn cách ngày ông qua đời mười năm mấy câu này:
Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian này mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu
BÙI GIÁNG LÀ AI?
Một trung niên thi sĩ như ông vẫn tự gọi?
Một nhà thơ lớn của Việt Nam?
Hay giản dị: Ông chỉ là một gã điên?
Rất nhiều người, trong đó có cả những nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học của chúng ta, đã thử trả lời câu hỏi ấy, nhưng hình như vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Mỗi người nhìn ông một khác.
Người ta viết, nói về Bùi Giáng như một cách tự giải đáp những thắc mắc của mình về Bùi Giáng nhiều hơn là thơ của ông.
Và khi nói về thơ của ông dường như người ta lại nói về các giai thoại quanh ông, những điều bàn tán về ông nhiều hơn.
Nhưng nếu người ta đã có lần đọc Bùi Giáng, yêu những bài thơ, những bài phiếm luận của ông liên quan tới thi ca, triết học, tôn giáo, chuyện tào lao dính tới Brigitte Bardot, Kim Cương hay Mẹ Phùng Khánh của ông, thì người ta sẽ vô cùng thích thú vì thấy tất cả những điều đàm luận kia chẳng khác những tấm gương phản chiếu nhiều khuôn mặt của Bùi Giáng: cười cợt, đau đớn, nghiêm chỉnh, điên rồ…
Người khen ông nhiều lắm: Huy Tưởng, Mai Thảo, Huỳnh Hữu Ủy, Cung Tích Biền… người ta không tiếc lời ca ngợi Bùi Giáng.
Nhưng cũng không thiếu những người nghĩ khác.
Chẳng hạn như Thụy Khê.
Thụy Khê viết:
“Trong gần nửa thế kỷ làm thơ. Bùi Giáng để lại hàng ngàn bài thơ, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn sáo về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng. Những dạ thưa, tồn sinh, trùng lai, phố thị của Bùi Giáng, tà huy của Nguyễn Gia Thiều, mù sa, trăm năm của Nguyễn Du ban đầu làm xao xuyến người đọc… Nhưng vì lập lại nhiều lần, chúng bị phá giá.”
Còn Trần Hữu Thục trong một bài nhận định của mình đã viết rằng:
“Nói cho rõ ràng ra, thơ của Bùi Giáng dở. Trừ một số câu thơ hay, chưa hẳn là rất hay, còn lại hầu hết thơ ông đều dở. Tôi có cảm tưởng rất nhiều câu thơ của ông làm chẳng khác gì những câu thơ ngay ngô của mình khi mới bắt đầu tập tễnh làm thơ hồi còn học trò.”
Xin trích mấy câu thơ lục bát của Bùi Giáng:
Giật mình lúc chợt nghĩ ra
Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi
Có những câu ta thật sự không hiểu ông định nói gì:
Một hôm gầu guộc gầm ghì
Hai hôm gần gũi cũng vì ba hôm
Xen vào đấy là những câu có thể làm chúng ta sởn người khi đọc:
Đất hoa khóc vĩnh biệt trời
Ngàn cây cố quận đổi lời sương thâu
Hoặc chỉ một câu thôi đủ làm chúng ta ngẩn ngơ:
Còn hai con mắt khóc người một con.
BÙI GIÁNG ĐIÊN THẬT CHĂNG?
Người ta kể lại rằng, một cán bộ nhà văn khi gặp Bùi Giáng đã nói, họ đánh giá cao những tác phẩm của ông, nhưng muốn rằng Bùi Giáng phải thay đổi cách suy nghĩ, phải tỏ ra tiến bộ mới có thể làm việc trở lại được, hiểu theo nghĩa mới được “phép” viết lách trở lại. Bùi Giáng đã đứng dậy chỉ vào mặt người này hỏi lại:
-Thế nào là tiến bộ? Trời đất có bắt núi non tiến bộ không? Nếu núi non tiến bộ mãi mày đi đâu mà ở?
Đó có phải là lời nói của một người điên chăng?
Đây là một giai thoại bịa đặt hay có thật?
Trở lại với thơ Bùi Giáng.
Hình như ông không làm thơ theo quan niệm, theo cái cách người ta thường nghĩ.
Ông rũ bỏ thơ ra khỏi mình như những bụi bặm, như một oan nghiệp.
Mai Thảo mất trước Bùi Giáng.
Trước khi chết Mai Thảo có để lại bốn câu thơ:
Và ở Sài Gòn vẫn còn Bùi Giáng
Tối tối về chùa, đêm làm thơ
Ngày ca múa, khóc cười giữa chợ
Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi
Hai người có gặp lại nhau chăng?
Nếu có, họ sẽ nói gì với nhau nhỉ?
Bùi Giáng đã nói về mình thế này:
Miệng anh còn đủ lưỡi môi
Mà răng rụng hết lấy gì nhe ra
Mím môi ôm mặt khóc òa
Hôn em một chút cho đỡ già nua thôi.
Tóm lại khó có một bức chân dung Bùi Giáng. Chỉ có một hình ảnh từa tựa. Ông là một bài thơ lạc vận và đôi khi thừa chữ.
Nguyễn Đình Toàn
Bùi Giáng đã được nói đến nhiều. Mỗi người đọc ông nói đến ông theo một cách. Người ta nói đến thơ ông, nói đến tư tưởng của ông, nói đến cách thế ông sống, tùy theo cách nhìn của mình.
Người ta nhìn thấy ở ông, rõ hơn, kiến thức của ông, tư tưởng của ông, như một hội tụ lớn của tư tưởng Đông Tây.
Người ta cũng nói đến ông như một người điên.
Nếu ai có dịp nhìn thấy ông mang trên mình đủ các thứ: nồi, niêu, xoong, chảo, vành bánh xe đạp, đầu đội mũ sắt, tay cầm một chiếc gậy, đứng giữa đường, thổi còi, vung tay chỉ lối cho xe cộ, thì coi ông là một người điên cũng không gì quá đáng.
Nhưng cũng người điên ấy, vai mang một tấm biển, đi rong qua các phố, trên tấm biển có những dòng chữ viết tay:
Hoan hô đồng chí Phạm Tuân
Khi không anh bỗng nhảy tưng lên trời
Thì nhiều người lại cho rằng đó là một người điên giả vờ. Một sự việc quan trọng như thế, một người Việt “đi dép lốp mà bay vào vũ trụ” như thế, mà nói tới một cách giễu cợt vậy sao?
Ông bị bắt giam.
Nhưng rồi sau đó người ta cũng thả ông ra, vì… ông điên! Và có lẽ vì điên nên ông không biết sợ, ông nói toáng lên những điều có người nghe rồi cười, có người không muốn nghe, cả những điều người ta không dám lập lại dù là để báo cáo đi nữa!
Người ta nhìn thấy ông, mặc bộ quần áo rằn ri của quân đội cũ, đứng trước cửa trường Đại Học Vạn Hạnh, nhìn các đám sinh viên nam nữ qua lại, mủm mỉm cười, bảo: “Lịch sử bức bách tụi bay quá!”
Có rất nhiều giai thoại liên quan tới Bùi Giáng, liên quan tới những cơn điên của ông.
Cũng vô lý như làn kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Lá cũng mất như một lần đã lỡ
Trời đất xanh như tuổi ngọc đã xanh
Trời còn đó giữa tháng ngày lỡ dở
Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình
Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa
Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng
Hồn hoa cỏ Phượng Thành Hy Lạp úa
Nghe một lần vĩnh viễn gặp hư vô
Đọc một lần, đọc hai lần những câu thơ ấy của Bùi Giáng, ai có thể cả quyết ông nói tới điều gì?
Cái mất, cái còn, cái cổ xưa, cái cận đại, Hồn nguyên tiêu/ Phượng Thành Hy Lạp úa/ Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa / điển tích và những câu nói cửa miệng xen lẫn, bờ trùng ngộ là gì mà cả một phen này phen nữa?
Đọc liền một bài thơ của Bùi Giáng, đọc một hơi mươi mười lăm câu thơ của ông, người ta có cảm tưởng ông đùa rỡn với một điều gì đó hết sức nghiêm trọng. Nhưng đã nghiêm trọng sao lại đùa? Đọc một hai câu thơ của ông thôi, có khi chúng ta lạnh mình, tựa hồ bị thổi tạt bởi cơn gió rét không biết tự phương nào lại.
Đất hoa khóc vĩnh biệt trời
Ngàn cây cố quận đổi lời sương thâu
Đất khóc, trời khóc hay người khóc? Nhưng khóc cái gì mới được chứ? Đất trời có vĩnh biệt đã vĩnh biệt lâu rồi, không còn gì để khóc. Ngàn cây cố quận đổi lời sương thâu. Hãy tưởng tượng một sớm hay một chiều nào đó, ta trở về quê cũ, ngẩng mặt trông những hàng cây, gió thổi lùa sương từ cành này qua cành khác. Cành nói với lá. Lá nói với hư vô, nói với ta, hay chỉ vì gió lay nên cành động? Cố hương. Cố quận. Cố nhân tình. Mờ mờ, ảo ảo…
Cảnh cũng là người và người cũng là cảnh, lẫn lộn trong sương mù.
Ta cười cợt, ta nghiêm chỉnh, ta nhớ quên, ta làm bộ hay ta biết rõ, tất cả đều diễn ra cùng một lúc với cái chết. Cái chết như sương mù bôi xóa.
Nhưng nghĩ như thế cũng có thể là nghĩ sai về thơ Bùi Giáng.
Hãy nghe ông nói về thơ ông:
“Muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác”.
Ông còn bảo rằng:
“Kẻ nào tự xét mình từ trong tinh thể mà ra chẳng có chi là phiêu bồng tí chút thì chả nên cưỡng cầu tự ép uổng ghé vào thi ca thâm xứ mà chi”.
Như thế, Bùi Giáng vừa làm thơ vừa muốn đóng cửa thơ.
Nguyễn Vy Khanh, trong một bài viết về thơ Bùi Giáng cũng cho rằng “người ta đã viết nhiều về hành trạng Bùi Giáng hơn là thơ của ông”.
Những hành trạng sống của ông cũng là thơ ông.
Thơ ông làm để tặng chuồn chuồn châu chấu tại sao chúng ta lại lấy đọc rồi trách ông tư tưởng rời rạc, không có hệ thống?
Trữ tình chăng?
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con.
Hiện thực chăng?
Bây giờ em để quần đâu
Cỏ trên mình mẩy em buồn ra sao?
Cười cợt chăng?
Que diêm que lửa que lời
Cõi trăm năm cũng một đời ba que.
Hai câu thơ vừa rồi rút trong bài “que diêm” Bùi Giáng viết sau năm 1975.
Thơ Bùi Giáng như vậy.
Ông không khóc nhưng hình như thơ ông có nước mắt. Ông cười cợt khi nói lời nghiêm trang. Ông nói với chính mình nhiều hơn với người khác.
Về cái chết của mình ông để sẵn trong tập Mưa Nguồn cách ngày ông qua đời mười năm mấy câu này:
Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian này mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu
BÙI GIÁNG LÀ AI?
Một trung niên thi sĩ như ông vẫn tự gọi?
Một nhà thơ lớn của Việt Nam?
Hay giản dị: Ông chỉ là một gã điên?
Rất nhiều người, trong đó có cả những nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học của chúng ta, đã thử trả lời câu hỏi ấy, nhưng hình như vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Mỗi người nhìn ông một khác.
Người ta viết, nói về Bùi Giáng như một cách tự giải đáp những thắc mắc của mình về Bùi Giáng nhiều hơn là thơ của ông.
Và khi nói về thơ của ông dường như người ta lại nói về các giai thoại quanh ông, những điều bàn tán về ông nhiều hơn.
Nhưng nếu người ta đã có lần đọc Bùi Giáng, yêu những bài thơ, những bài phiếm luận của ông liên quan tới thi ca, triết học, tôn giáo, chuyện tào lao dính tới Brigitte Bardot, Kim Cương hay Mẹ Phùng Khánh của ông, thì người ta sẽ vô cùng thích thú vì thấy tất cả những điều đàm luận kia chẳng khác những tấm gương phản chiếu nhiều khuôn mặt của Bùi Giáng: cười cợt, đau đớn, nghiêm chỉnh, điên rồ…
Người khen ông nhiều lắm: Huy Tưởng, Mai Thảo, Huỳnh Hữu Ủy, Cung Tích Biền… người ta không tiếc lời ca ngợi Bùi Giáng.
Nhưng cũng không thiếu những người nghĩ khác.
Chẳng hạn như Thụy Khê.
Thụy Khê viết:
“Trong gần nửa thế kỷ làm thơ. Bùi Giáng để lại hàng ngàn bài thơ, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn sáo về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng. Những dạ thưa, tồn sinh, trùng lai, phố thị của Bùi Giáng, tà huy của Nguyễn Gia Thiều, mù sa, trăm năm của Nguyễn Du ban đầu làm xao xuyến người đọc… Nhưng vì lập lại nhiều lần, chúng bị phá giá.”
Còn Trần Hữu Thục trong một bài nhận định của mình đã viết rằng:
“Nói cho rõ ràng ra, thơ của Bùi Giáng dở. Trừ một số câu thơ hay, chưa hẳn là rất hay, còn lại hầu hết thơ ông đều dở. Tôi có cảm tưởng rất nhiều câu thơ của ông làm chẳng khác gì những câu thơ ngay ngô của mình khi mới bắt đầu tập tễnh làm thơ hồi còn học trò.”
Xin trích mấy câu thơ lục bát của Bùi Giáng:
Giật mình lúc chợt nghĩ ra
Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi
Có những câu ta thật sự không hiểu ông định nói gì:
Một hôm gầu guộc gầm ghì
Hai hôm gần gũi cũng vì ba hôm
Xen vào đấy là những câu có thể làm chúng ta sởn người khi đọc:
Đất hoa khóc vĩnh biệt trời
Ngàn cây cố quận đổi lời sương thâu
Hoặc chỉ một câu thôi đủ làm chúng ta ngẩn ngơ:
Còn hai con mắt khóc người một con.
BÙI GIÁNG ĐIÊN THẬT CHĂNG?
Người ta kể lại rằng, một cán bộ nhà văn khi gặp Bùi Giáng đã nói, họ đánh giá cao những tác phẩm của ông, nhưng muốn rằng Bùi Giáng phải thay đổi cách suy nghĩ, phải tỏ ra tiến bộ mới có thể làm việc trở lại được, hiểu theo nghĩa mới được “phép” viết lách trở lại. Bùi Giáng đã đứng dậy chỉ vào mặt người này hỏi lại:
-Thế nào là tiến bộ? Trời đất có bắt núi non tiến bộ không? Nếu núi non tiến bộ mãi mày đi đâu mà ở?
Đó có phải là lời nói của một người điên chăng?
Đây là một giai thoại bịa đặt hay có thật?
Trở lại với thơ Bùi Giáng.
Hình như ông không làm thơ theo quan niệm, theo cái cách người ta thường nghĩ.
Ông rũ bỏ thơ ra khỏi mình như những bụi bặm, như một oan nghiệp.
Mai Thảo mất trước Bùi Giáng.
Trước khi chết Mai Thảo có để lại bốn câu thơ:
Và ở Sài Gòn vẫn còn Bùi Giáng
Tối tối về chùa, đêm làm thơ
Ngày ca múa, khóc cười giữa chợ
Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi
Hai người có gặp lại nhau chăng?
Nếu có, họ sẽ nói gì với nhau nhỉ?
Bùi Giáng đã nói về mình thế này:
Miệng anh còn đủ lưỡi môi
Mà răng rụng hết lấy gì nhe ra
Mím môi ôm mặt khóc òa
Hôn em một chút cho đỡ già nua thôi.
Tóm lại khó có một bức chân dung Bùi Giáng. Chỉ có một hình ảnh từa tựa. Ông là một bài thơ lạc vận và đôi khi thừa chữ.
Nguyễn Đình Toàn