Phạm Tăng

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Phạm Tăng

Bài viết bởi Hoàng Vân »

    •           


      Người ở trong mây



      Phạm Tăng, Tranh Tết 1973, con trâu
      [nguồn: sách Tưởng Niệm Như Phong sắp xuất bản; tư liệu Phạm Lê Hương]



      Anh đã đi, xa chúng ta mãi mãi. Như anh muốn, anh đã là người ở trong mây, trong vũ trụ vô chung vô thủy.


      Phạm Tăng
      (1925-2017)



      Một hôm, nhân có chuyện làm việc với nhà nghiên cứu văn học Thụy Khuê, tôi thấy trong phòng khách có mấy bức tranh sơn dầu. Ánh điện không đủ sáng, tôi phải lại gần mới xem được. thì thấy một bức ký tên Phạm Tăng. Tôi hỏi chị:

      – Tác giả bức tranh này còn sống hay mất rồi hở chị?
      – Sao anh lại hỏi thế?
      – Đã quá lâu tôi không nghe ai nói tới Phạm Tăng. Ở tuổi tôi khi người nào bặt tin thì mình dễ nghĩ vậy lắm.
      – Anh quen anh ấy sao?

      Thụy Khuê mở to mắt nhìn tôi. Chị ngạc nhiên là phải – tôi là người đến từ miền Bắc, Phạm Tăng là một hoạ sĩ miền Nam.

      – Vâng – tôi nói – Chị cũng biết Phạm Tăng?
      – Chúng tôi là bạn mà. Anh Tăng còn sống, anh ạ.
      – Hiện anh Tăng ở đâu?
      – Ở đây, ngay Paris.

      Một niềm vui vỡ òa trong tôi. Tôi nắm tay Thụy Khuê, tôi vật nài:

      – Chuyện chúng mình định bàn hôm nay để lại bữa khác đi, chị Thụy Khuê nhé? Mình còn nhiều thời gian mà. Hãy dẫn tôi tới gặp anh ấy. Ngay bây giờ.

      Thụy Khuê chiều tôi, chị nhanh chóng mặc đồ đưa tôi đi.

      Phạm Tăng nhận ra tôi ngay, mới lạ. Con mắt và trí nhớ hình của hoạ sĩ quả có khác người.

      Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Anh mừng ra mặt, lại còn gọi đúng tên tôi nữa.

      Tôi nhận ra anh không khó – diện mạo người đã trưởng thành ít thay đổi. Khi chúng tôi quen nhau, tôi là đứa trẻ, anh là thanh niên. Giờ đây anh thanh mảnh hơn, nói khác đi là gầy hơn. Nhưng vẫn gương mặt ấy, vẫn những đường nét ấy, vầng trán nay dường như cao thêm vì không còn mái tóc xanh và dày xõa xuống mắt. Giọng nói cũng khác – cao hơn, nhẹ hơn.

      Những hình ảnh một thời rất xa vụt hiện về: những con đường làng Yên Mô trù phú với tiếng bật bông vẳng ra qua những hàng rào, cầu Bút, núi Voi, núi Bảng, Quảng Công…

      Đó là năm 1948. Tôi là học sinh một trường Nam Định tản cư về Ninh Bình, ngày ngày vác bàn tự tạo đến một ngôi đình thay cho phòng học. Nhà Phạm Tăng ở gần nhà tôi. Chúng tôi ít khi gặp nhau vì phần lớn thời gian anh ở Nam Định, nơi có hai tờ báo in li tô bằng tiếng Việt và tiếng Pháp là tờ Công Dân và tờ l’Étincelle. Trong công việc làm báo này anh có một người bạn gắn bó với anh suốt đời là anh Hữu Ngọc.

      Khi nào Phạm Tăng về nhà là y như rằng tôi có mặt, bao giờ cũng cặp kè với Hà Chính Hành, bạn lớn ở lớp trên. Hà Chính Hành là người thuộc nhiều thơ, thuộc đến nỗi có thể đọc ngược truyện Kiều. Vào thời gian ấy chúng tôi rất yêu thơ, từ những áng văn bất hủ của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm đến Lỡ Bước Sang Ngang của Nguyễn Bính. Đến với Phạm Tăng, chúng tôi ngồi đực, ngắm không biết chán những bức tranh của anh treo la liệt trên tường. Phạm Tăng là hoạ sĩ đầu tiên và duy nhất mà tôi được biết. Nghe tôi nhắc đến những cái tên những bức “Người du kích”, “Mùa gặt”, “Quê hương”… , Phạm Tăng nhìn tôi chăm chú rồi lắc đầu:

      – Tài thật, chịu cậu đấy, làm sao mà cậu có thể nhớ được chứ?
      – Chúng là những bức tranh đầu tiên tôi thấy, tranh thật – tôi tìm câu trả lời, với một chút ngắc ngứ – Trước đó tôi chỉ biết có tranh minh hoạ trên báo.
      – Mình quên hết rồi – Phạm Tăng thờ ơ nói – Chúng là tranh của một thời ấu trĩ, những bản sao thực tại, tự nhiên chủ nghĩa…

      Chị Thụy Khuê ngồi, tay chống cằm, lặng nghe những mẩu chuyện không đầu không đuôi, nhảy từ đề tài này qua đề tài khác về một quá khứ xa xôi, cả về thời gian, cả về địa lý. Rồi sực nhớ thiên chức phụ nữ, chị vội vã vào bếp đun nước pha trà. Chúng tôi vừa nói chuyện vừa trân trân nhìn nhau, như không tin vào lần gặp gỡ bất ngờ. Từ trong bếp vẳng ra tiếng nước reo trong ấm.

      Từ năm 1948 tới năm 1996 là gần nửa thế kỷ – một quãng dài trong đời người.

      Phạm Tăng vào thành, tôi đi bộ đội. Tin anh vào thành, tôi có nghe. Đất nước chia hai, như hai thế giới. Tôi không nhớ tới anh nữa trong sự bưng bít thông tin về miền đất bên kia sông Bến Hải, trừ tin chính trị. Nhắc lại thời gian ở Yên Mô, mắt Phạm Tăng mờ đi. Tôi cũng vậy. Với tôi, nó là một đoạn đời không thể quên, khi lần đầu tiên cậu học trò mới lớn biết xúc động trước vẻ đẹp của những người con gái. Chế Lan Viên nói thật hay: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn…”

      Từ đó, chúng tôi không xa nhau nữa.

      Phạm Tăng thường gọi điện thoại cho tôi, nhất là khi lâu không gặp. Những cuộc gọi dài và rất dài, bất kể vào giờ nào, có khi giữa đêm khuya. Trong thành phố này tôi là người duy nhất biết anh từ những năm xa xưa, và qua anh biết bạn bè anh. Anh gọi cho tôi khi những bóng mờ trong ký ức chợt về. Nỗi nhớ quê hương không chịu ngủ yên trong anh. Kèm theo nỗi nhớ này là một sự giằng xé trong sâu thẳm tâm hồn. Anh nhớ lắm một thời trai trong những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Với anh, nó là thời gian tuyệt đẹp.

      – Anh em mình hồi ấy sao mà trong sáng, phải không? Mình không thể nào quên một kỷ niệm với Lưu Quyên. Cậu nhớ anh ấy chứ?
      – Lưu Quyên làm kinh tài.
      – Còn nhớ ông Giang chủ tịch Liên khu 3 không?
      – Nhớ chứ. Chúng tôi bị tù cùng nhau trong một vụ án vớ vẩn. Tôi nhìn thấy ông cầm cái bát sắt tráng men sứt sẹo có cái đuôi cá khô nhô lên trên phần cơm tù ở Hỏa Lò. Tôi ngồi bên ông lúc ông hấp hối trong gian nhà dột nát ở chùa Liên Phái vào một đêm mưa…
      – Mình có nghe chuyện xảy ra với ông Giang. Một con người chân thật, mộc mạc, tốt bụng. Có quá nhiều cái mình không ngờ có thể xảy ra đã xảy ra…

      Tôi nghe tiếng thở dài ở đầu dây bên kia.

      – Anh kể chuyện anh Lưu Quyên đi.
      – Một đêm vợ chồng Lưu Quyên bị chủ thuyền đuổi khỏi con đò dọc, khi chị ấy đột ngột trở dạ – anh kể, bồi hồi – Dân sông nước mê tín lắm, cậu thừa biết. Chị ấy chỉ được nằm lại nếu trả cho người lái đò một khoản tiền bằng giá con đò. Lưu Quyên mang theo mình cả một cặp đầy ắp tiền, nhưng lại không chịu bỏ ra. Đã tính bảo cho thuyền cập bến, đưa vợ lên bờ…
      – Rồi sao?
      – Mình đi cùng vợ chồng Lưu Quyên, không nhớ đi việc gì. Mình lại đang sẵn tiền – chả là ông Đặng Kim Giang vừa gửi cho một món, coi như tiền thưởng làm báo, vẽ tranh địch vận. Mình bảo: “Để tớ trả”. Lưu Quyên không chịu, nói mãi mới bằng lòng. Thế đấy, vợ sắp đẻ, cứ lấy của công ra trả cái đã, có sao đâu. Nhưng không, một đồng của công Lưu Quyên nhất định không nhả ra. Có thể gọi những con người như thế là gì? Những con người lý tưởng, chỉ có trong một thời lý tưởng.

      Tôi bắt gặp ở nhiều người nỗi nhớ khôn nguôi về thời gian đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, không chỉ ở Phạm Tăng. Nhà thơ Hà Thượng Nhân, từng làm giám đốc Đài phát thanh Quốc gia của Việt Nam Cộng hoà, bị đi tù cộng sản từ năm 1975 tới năm 1983 cũng có một tâm trạng y như vậy. Anh là một người chống cộng kiên định, bè bạn gọi anh là Hà Chưởng Môn, người đứng đầu cả về thơ lẫn lập trường trong cộng đồng Việt ở San Jose. Thế mà trong tâm sự với tôi, anh vẫn bùi ngùi nhắc đến những kỷ niệm với bè bạn trong kháng chiến. Với tướng Nguyễn Sơn, anh đặc biệt kính trọng và yêu mến, ví ông như Từ Hải trong truyện Kiều.

      Mới thấy chính quyền cộng sản đã phí phạm những người con ưu tú của đất nước đến thế nào.



      Hoạ sĩ Phạm Tăng (giữa) và bạn. Nguồn: Facebook Canh Quan



      Tôi không hỏi vì sao Phạm Tăng bỏ kháng chiến vào thành. Anh cũng tránh, không nói. Nó là nỗi đau đã thành sẹo. Dù anh vẫn nhận được tin tức trong nước, vẫn biết những chuyện không hay xảy ra với người này người kia trong số bạn bè ở lại, những kỷ niệm về một thời với anh là đẹp mãi mãi đóng cứng trong trí nhớ. Anh không chịu, không muốn nghĩ, lại càng không muốn chứng minh rằng sự bỏ đi của mình là một lựa chọn đúng.

      Tôi thường đến ngồi với anh cả buổi, có khi gần hết ngày, trong căn hộ nhỏ ở Quảng trường Các Quyền Tự do (Place des Libertés) thuộc tỉnh lỵ Bonneuil-sur-Marne. Cái quảng trường nhỏ bé này luôn có hoa – hoa trong bồn cỏ, hoa trên các cột điện. Gọi là tỉnh lỵ, chứ Bonneuil-sur-Marne chỉ là một bidonvile của Paris, tỉnh ngoại ô, từ trung tâm đến đấy có thể dùng Metro và bus của thành phố.

      – Ở đây mình thừa tự do – anh cười chua chát – Lại càng thương những người không có nó.

      Câu chuyện nào rồi cũng dẫn tới quê hương xa xôi.

      – Tại sao anh bỏ Sài Gòn để sang châu Âu? Cái gì khiến anh bỏ nó để tới nơi anh chưa từng đến, nơi anh không hề biết, ném mình vào mung lung? Con đường phiêu lãng vô định ấy rồi dẫn anh tới đâu? Nó cho anh những gì?

      Nhà thơ Du Tử Lê dồn dập hỏi. Gặp Phạm Tăng là một tình cờ hi hữu, anh hỏi suốt, hết câu này đến câu khác. Mặc dầu có thời cùng sống ở Sài Gòn, Du Tử Lê chưa từng giáp mặt người mà anh gọi là “Con phượng hoàng Việt Nam trên bầu trời nghệ thuật Tây phương”. Trong chuyến đi Paris cuối năm 2015, anh nằng nặc bắt tôi phải đưa đi gặp Phạm Tăng ngay lập tức.

      – Tại sao ư? Lý do thì nhiều – Phạm Tăng không trả lời thẳng vào câu hỏi – Chúng ta lớn lên với tranh Tết Đông Hồ, với Đám Cưới Chuột, với Hái Dừa, Đánh Ghen, với Cá, với Gà, với Lợn… Người Pháp đưa đến cho chúng ta kỷ hà học, sơn dầu, thuốc nước. Tôi rất muốn đến tận nơi đã sản sinh ra những bậc thầy của hội hoạ Tây phương, ngoài hội hoạ Pháp mà mình đã biết, để xem từ xa xưa những bậc thầy hội hoạ ở đấy đã đưa lên khung vải cái nhìn thấy bằng đường nét, bằng màu sắc theo những cách nào… Lại đúng vào lúc có một học bổng đại học hội hoạ do Ý cấp. Thế là đi.
      – Anh từng ở trong tâm bão gây nên bởi bức vẽ không ký tên trên bìa nhật báo Tự Do số Xuân 1959 với bầy chuột đục khoét trái dưa hấu. Nó đã trở thành một scandal chính trị như một ám chỉ về nạn tham nhũng dính dáng tới gia đình cố tổng thống Ngô Đình Diệm… Sự thật là thế nào?
      – Tôi đã có lần lên tiếng rồi – Phạm Tăng vắn tắt, anh không thích câu hỏi – Người khác là tác giả, không phải tôi.

      Du Tử Lê có một bài viết rất dài đăng nhiều kỳ trên nhật báo Người Việt ghi lại cuộc trò chuyện rất dài và rất lan man với Phạm Tăng trong một ngày mưa. Những dòng nước theo nhau, đuổi nhau chảy trên kính cửa, một bối cảnh thích hợp cho sự gợi nhớ quá khứ.

      Du Tử Lê nhích lại gần Phạm Tăng hơn nữa, chằm chằm nhìn anh, nuốt từng lời. Trong cuộc gặp gỡ không định trước, anh hối hả đưa ra cả một đống câu hỏi, không khác gì một phóng viên đang hành nghề. Đến nỗi anh không thấy nhiều lúc Phạm Tăng vờ không nghe anh hỏi gì.

      Phạm Tăng rõ ràng không muốn nhắc tới quá khứ nghề nghiệp. Anh đã rũ bỏ nó như một tấm áo rách. Thôi thì mặc, những người nghiên cứu hội hoạ Việt Nam sau này muốn viết gì về Phạm Tăng thì viết – những cuộc triển lãm gây nhiều tiếng vang, những lời ca ngợi, những bằng khen được tặng. Anh không tự hào về những cái với người khác là những huân chương xếp hàng trên ngực. Anh không thích nói về những cái mà người ta gọi là thành tựu. Chọn cuộc đời ẩn sĩ, anh tránh mọi quấy rầy.

      Câu chuyện với Du Tử Lê diễn ra bên dưới bức tranh khổ lớn choán cả bức tường. Đó là bức “Vũ trụ”, được UNESCO tặng huy chương vàng hội hoạ năm 1967.

      Để sống, Phạm Tăng đã bán dần tất cả những gì anh vẽ, chỉ giữ lại một bức này. Anh bảo nó chứa đựng mọi suy ngẫm của anh về nhân sinh, là triết lý về cuộc đời, về cái ngã và vô ngã trong một vũ trụ vô cùng, bất tận, vô sinh, vô tử, được biểu hiện trong vô vàn tế bào nguyên sinh , những khoanh tròn đồng tâm với những màu đổi nhau, khi ẩn khi hiện, biến hoá khôn cùng trong một toàn cục bao la – một ngân hà này trùm lên một ngân hà khác, cứ thế trườn đi mãi, vượt ra ngoài khung vải.

      Phạm Tăng kể:

      – Mình không tiếc đã bỏ Sài Gòn để đi tới vùng đất mới. Ở Sài Gòn mình sống sung túc, có thể gọi là thừa mứa. Đến Roma mình phải ở nhờ một tu viện nghèo của một dòng tu khổ hạnh. Tiền học bổng chỉ đủ để ăn mì với cà chua hoặc pizza chay. Không, không phải mình đến với hội hoạ phương Tây để học cách vẽ của họ đâu. Mình đến để tìm hiểu cái nhìn của họ bằng con mắt hội hoạ trong chiều dài nhiều thế kỷ, tại sao họ vẽ, vẽ cái gì, vẽ thế nào? Cứ thế sống dặt dẹo mấy năm cho đến khi hiểu ra rằng con đường tìm kiếm còn dài, mình còn cần đến một thứ vô duyên là tiền. Đành phải bán vài bức tranh vẽ theo phong cách Á đông bán cho khách chuộng lạ. Những bức tranh ấy sẽ chẳng ai biết đó là của Phạm Tăng – dưới mỗi bức mình ký một cái tên, toàn là tên bịa đặt.

      Người ta kể về anh:

      – Số ông này sướng. Ở Sài Gòn lấy một cô con nhà giàu, ăn chơi bán giời không văn tự, bà vợ chết cũng vì tay phá gia chi tử này đấy. Sau, sang Ý, tốt nghiệp học viện mỹ thuật Roma, vớ được một tiểu thư đài các con một quý tộc kiêm điền chủ đảo Sisilia, nông dân ở đấy mỗi khi gặp cậu chủ còn phải khuỵu chân xin được hôn tay, khiếp chưa? Được mỗi cô con gái duy nhất thì hoàn toàn Ý, chẳng có tí Việt nào.

      Thiên hạ thường nhìn người ở bề ngoài. Họ nói điều họ không biết, lại nghĩ rằng mình biết. Họ không biết Phạm Tăng đã từ bỏ cuộc sống sa hoa anh có, kiếm được nhiều ngàn dollars mỗi tháng, thời ấy là số tiền rất lớn.

      Tôi không hỏi Phạm Tăng về những người đàn bà trong đời anh. Tự anh kể cho tôi nghe về mối tình với người vợ đầu đã mất khi anh chưa ra nước ngoài. Anh nâng niu cuốn album nhỏ xíu, xộc xệch, rách nát, trong đó có những tấm ảnh bạc màu chụp người con gái trẻ có đôi mắt ướt tình tứ. Cuốn album lưu lạc nhiều năm, được một người yêu hội hoạ tìm thấy, gửi sang cho anh. Có thể viết một truyện ngắn về cuốn album ấy, nếu nó rơi vào tay một Maupassant. . Nhìn anh lần giở những hình ảnh của một thời đã mất, tôi hiểu đó là mối tình duy nhất của anh. Với những người đàn bà khác trong đời, anh không nhắc tới. Chúng thuộc về ký ức, không phải cái để kể.

      Phạm Tăng đi vào hội hoạ như đi vào một cuộc chơi. Ở Sài Gòn, cũng vào một năm rất xa, anh viết trong tạp chí Bách Khoa:

      • Múa bút vườn hoang, vẽ láo chơi
        Xôn xao sỏi đá nói lên lời!
        Đỏ xanh xáo trộn hồn cây cỏ
        Nhẹ gót vào tranh, chiếc lá rơi!


      Nhưng rồi anh hiểu ra: nghệ thuật không phải cái để đùa nghịch. Nó là nơi con người gửi gắm tâm hồn, bộc bạch tâm tư. Nó là cái cầu nối liền nghệ sĩ với cuộc đời, là sự giao hoà với nhân quần mà mỗi con người là một hạt cát trong sa mạc nhân loại.

      Vì lẽ đó, anh quẳng lại vinh hoa đã có để đi tìm cội nguồn hội hoạ, để hiểu những suy tư của những kiếp người đã trao thân gửi phận cho nghệ thuật.

      – Anh không phải Phạm Tăng, mà là bản sao của Đường Tăng. Đường Tăng lặn lội đi Tây Trúc thỉnh kinh – tôi nói đùa – Còn anh thì lang thang trời Tây tìm cái gì? Và rốt cuộc, anh đã tìm được gì?

      – Vừa nhiều, vừa ít – Phạm Tăng nói, mắt xa xăm – Cậu thấy tranh tượng của David Michelangelo, Leonardo da Vinci thế nào? Tuyệt vời, phải không? Cơ thể người được thể hiện chính xác đến nỗi thoạt nhìn cứ như là ảnh chụp, rõ từng chi tiết. Nhìn kỹ đi, sẽ thấy khác – máy ảnh tốt đến mấy cũng không thể đạt tới Cái Đẹp mà những bậc thầy ấy tạo ra. Đó là sự tôn vinh Cái Đẹp của cơ thể con người. Nghĩ thêm nữa đi, rồi sẽ thấy đó còn là sự tôn vinh Thượng đế. Chỉ có Thượng đế mới tạo ra một hình hài toàn mỹ đến thế. Nghệ thuật là sự hoà trộn của tất cả những gì ta có thể nói ra, và những gì không thể nói ra, không đủ lời để nói, mà chỉ có thể cảm nhận…

      Những câu chuyện của chúng tôi diễn ra dưới bức tranh “Vũ Trụ” của anh. Tôi đã ngắm nó không biết bao nhiêu lần. Tôi không hiểu những vần vụ sắc màu, những đường nét hư ảo trên đó là sự biểu hiện suy tư về vũ trụ khôn cùng, là triết lý cuộc đời anh gửi gắm vào. Nhưng tôi không nói ra rằng tôi không hiểu, tôi sợ anh buồn. Ý tưởng thể hiện triết học dưới dạng hình họa tôi chỉ biết có một: đó là biểu tượng âm dương chứa hai khối đen trắng uốn lượn giao nhau trong chuyển động không ngừng, với hai hình tròn nhỏ ngược màu nằm trong hai khối ấy biểu hiện sự bất toàn, trong dương có âm có dương, trong dương có âm.

      Phạm Tăng hiểu vì sao tôi im lặng.

      – Cái bi kịch trong mình là sự bất lực – một hôm, Phạm Tăng buồn rầu thổ lộ – Mình bất lực trong sự diễn tả cái mình muốn diễn tả.
      – Bi kịch ấy không phải chỉ anh có – tôi an ủi – Nó hiện hữu ở bất cứ nơi nào có mưu toan đưa cái ý, cái tâm vô hình ra ngoài bằng phương tiện hữu hình.

      Nhà thơ Du Tử Lê có cảm nhận khác tôi. Anh đến gần rồi lùi xa, cầm kính lúp soi vào từng khối màu xoắn xuýt nhau, đan xen nhau, hoà trộn vào nhau, bay lượn bên nhau, rồi ngẩn người ngồi xuống một ghế xa, ngắm tiếp. Nhà thơ có thể có cảm nhận cái vô hình qua cái hữu hình khác tôi. Nó là sự đồng cảm khó giải thích giữa nhà thơ và hoạ sĩ, giữa hai miền suy tưởng. Chúng có thể có mối tương giao mà tôi không biết.

      Gần Phạm Tăng nhiều, nhưng tôi không dám chắc mình đã hiểu anh. Mỗi khi nghĩ tới anh tôi lại mường tượng ra con người câm lặng đắm chìm trong những suy nghĩ không bao giờ dứt, kể cả khi anh cầm lại cây cọ để đưa chúng lên khung vải. Những lúc ấy anh sẽ quên bất cứ người đối thoại nào – anh độc thoại. Những lúc ấy nếu có đến với anh tôi cũng là người thừa.

      Điều tôi biết chắc: Phạm Tăng là người đi tìm cái anh muốn hiểu. Anh khác những người tưởng mọi sự đời đều là cái đã biết, như thể họ sống lần thứ hai trên trái đất. Tôi yêu những người đi tìm.

      Có vẻ như anh đã tìm thấy cho mình ý nghĩa của cả nghệ thuật, cả đời sống để thể hiện trong bức tranh mà anh giữ lại sau khi đã cho đi, đã bán đi tất cả.

      Nhưng cái anh tìm thấy mới chỉ cho riêng anh thôi, chưa phải cho tôi, cho mọi người.

      Giờ đây, tôi không còn cơ hội nào trò chuyện với anh nữa, để hiểu anh thêm nữa. Anh đã đi, xa chúng ta mãi mãi. Như anh muốn, anh đã là người ở trong mây, trong vũ trụ vô chung vô thủy.

      Vũ thư Hiên


      Nguồn:http://www.dcvonline.net



                
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Phạm Tăng

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           



    Thiên Thai - tranh Phạm Tăng


    Hai nhà phê bình nghệ thuật Bỉ viết về
    họa sĩ Phạm Tăng



    • Tháng 12/2008 hoạ sĩ Phạm Tăng nhờ tôi dịch hai bài viết của hai nhà phê bình nghệ thuật Bỉ, viết về ông, nhân dịp ông triển lãm tranh ở Bruxelles năm 1968. Sau đó, tôi không biết ông có đưa in hai bài này ở đâu chưa, hay chỉ giữ làm tài liệu cho mình và người thân. Khi tìm lại hồ sơ của ông sau khi ông mất ngày 9/1/2017, tôi thấy lại hai bài viết này và hôm nay, xin gửi đến độc giả để tưởng niệm hoạ sĩ Phạm Tăng và bởi, ngoài những nhận định giá trị của Paul de Swaef và Alain Germoz về nghệ thuật hội họa của Phạm Tăng, còn có những lời của chính hoạ sĩ nói về quan niệm giao hoà Đông Tây trong hội hoạ của mình.
      Thụy Khuê
      (30/07/2018)



    _______________________________________


    Tác phẩm tuyệt vời của Phạm Tăng
    Dưới những đổ vỡ của con người và xã hội tân tiến
    là sự tìm kiếm một "ánh sáng nội tâm"

    Paul de Swaef



    Tác phẩm của Phạm Tăng thật lạ lùng quyến rũ. Hội họa ư? Ta chỉ thấy những mảng khảm, cẩn, màu sắc và hình thái vô cùng khác biệt toát ra từ một phép luyện đan mê ảo của đất trời như những viên đá quý hoặc những tia phún thạch từ hoả sơn phun ra. Những sắc diện lấp lánh tia vân tựa như vô vàn dòng điện giao thoa này, khi đông đặc, đã đóng cứng cái trận đồ của những lực nguyên thuỷ như ta thường thấy trong rễ cây, trong nham thạch, trong vũ điệu của lửa.

    Dấu ấn phi thường của cuộc đời, sự thạch hoá kỳ ảo của màu sắc, hài hoà cả đến những tế bào li ti, khiến sức quyến rũ của khối toàn bích này làm ta chóng mặt, tạo ra một thứ kinh hoàng không xác định nổi. Nói mãi cũng nhàm, chỉ cần nhìn những tựa đề : «Động mạch xanh», «Nẩy mầm», «Chẩy trong pha lê», «Hiển vi»... cũng đủ cho ta cái cảm giác sâu đậm về những bí mật của thiên nhiên.

    Từ Hà Nội đến Sài Gòn, sang La Mã

    Phạm Tăng gốc Hà Nội. Sau khi đã tích cực tham gia cuộc kháng Pháp dài, cuối cùng ông bỏ những người bạn cộng sản. Một nghệ sĩ làm sao có thể chấp nhận cái cứng rắn giáo điều và hậu quả khốc liệt của nó...

    Nhưng ở Sàigòn, cũng không dễ dàng gì. Là nhà báo và vẽ hý họa chính trị dưới chế độ Ngô Đình Diệm, Phạm Tăng đã phải lìa xứ để trả giá cho sự tự do của mình. Từ hơn mười năm nay, ông sống ở La Mã, lập gia đình và có con. Tại đây, đã đâm chồi nẩy hạt tác phẩm của ông, thoát khỏi những thời thượng, những trường phái, làm khuynh đảo tất cả. Phạm Tăng tận dụng những kỹ thuật cổ truyền của quê hương: Sơn mài và đồ sứ góp phần sáng tạo tinh tế cái vũ trụ đến từ sâu thẳm trong tận cùng bản thể.

    «Nghệ sĩ trước hết là nghệ nhân», Phạm Tăng vừa nói vừa bước mạnh trên những bức "toan" lạ lùng, cứng như đá.

    Kinh nghiệm đạo Phật

    Nếu phải gắn Phạm Tăng với một dòng tư tưởng, ông chọn Thiền trong Phật học, nhưng không chấp nhận nhãn hiệu bề ngoài. Ông cho rằng "Ở Tây phương, người ta thường quan niệm sai lầm rằng đạo Phật là một tôn giáo, thật ra đạo Phật chỉ là con đường tìm cách sống. Đức Phật nói: ta cũng không biết rõ hơn ngươi rằng ta từ đâu tới, tại sao ta lại ở đây. Đời là cuộc sang sông đầy sóng gió, chúng ta đang ở trên đò, phải tập cách chèo. Khi một người bị trúng tên, điều quan trọng không phải là hỏi ai ném, tại sao, mà là làm sao cho vết thương chóng lành. Chúng ta cũng phải tìm cách chữa lành những vết thương làm ta đớn đau, như thế.

    "Đó là tư tưởng nền móng của đạo Phật. Những biến thể khác cũng chỉ là những cách làm lành vết thương khác nhau. Chủ nghiã Mac-xít cũng có thể là một phương pháp. Không ai giữ độc quyền trong việc tìm kiếm con đường minh triết".

    Từ khước mất mình

    Phạm Tăng nói tiếp: "Thiền là sự gặp gỡ giữa Phật và Lão. Giải pháp của đạo Lão khá thần bí. Đại khái là phải đạt tới cái lẽ "vạn vật huyền đồng". Nghệ sĩ Nhật Bản, Trung Hoa theo đạo Lão, thường tìm cách hoà đồng với với tất cả. Dù vẽ chim, vẽ núi, thì họ cũng đã là chim, là núi, như đã là chính họ. Cá thể chỉ là ngoại diện. Điều đó giải thích tại sao cái có cũng lại là cái không. Vì vậy, điểm quan trọng nhất trong nền hội hoạ này là cái không. Đạo Lão loại tất cả những lý thuyết chính trị. Lão chủ trương vô trị tuyệt đối theo đúng nguyên tắc: khi ta đã mở tất cả các cửa ra thì làm gì còn có kẻ cắp".

    «Ý hướng lớn lao của họa sĩ là làm sao hoà mình với tạo vật, đạt tới niềm thanh lãng. Nhưng tôi thấy con đường này yếm thế, tiêu cực. Bởi nó dẫn đến cõi không, nó triệt tiêu ta. Tôi từ chối cái thống khoái trong sự mất mình. Khi vẽ đàn chim, sông hồ, đồi núi, ta cũng chỉ diễn tả cái sâu lắng trong tận cùng bản thể. Riêng tôi, dưới những đổ vỡ của con người và xã hội tân tiến, là cái nhân bên trong mà tôi muốn đạt, muốn tái tạo. Biết là mình chẳng biết gì, nhưng tôi vẫn cố gắng tìm hiểu, để chứng minh, trong hồng tâm của bản ngã vẫn có một thứ ánh sáng khuyếch tán, có khả năng cung cấp cho sự hiện hữu của mình một thứ cơ năng, và với tôi đó mới chính là liều thuốc công hiệu chữa những khổ đau và cô đơn của con người. Tôi tìm cách giao thoa những động tác của thiên nhiên mà không tự hoá mình với nó từ bên ngoài. Tôi không vẽ, tôi tạo. Hơn nữa, ở phương Đông nơi tôi sinh trưởng, không có khái niệm nghệ sĩ tạo hình, đã vẽ là kiêm cả cầm, kỳ, thi, họa.

    "Anh bảo điều đáng chú ý trước tiên trong tranh tôi là nó đẹp. Nhưng tôi lại tin rằng không có lời giá trị nào mà không trau truốt. Mỗi lời mỗi câu của Phật, của Chúa là những lời châu ngọc. Nếu không châu ngọc thì người đời không nghe theo, không truyền tụng. Mọi quyến rũ đều phải trải qua cái đẹp. Nguyên khởi, bức tranh tự nó không thanh tĩnh, không sầu thảm. Nó hiện hữu, thế thôi. Như con bướm. Phải khám phá nó và quên kẻ đã tạo ra nó".


    Có thể nghe Phạm Tăng nói trong nhiều giờ mà không chán. Nhưng lối tiếp cận kỳ thú với họa sĩ qua ngôn từ này vẫn chẳng giải thích được cái phép lạ hiển nhiên kỳ diệu mà mỗi tác phẩm của ông đem lại cho ta. Có thể chính ông cũng chẳng biết gì về cái tài năng thiên bẩm của mình, tại sao nó lại như thế. Cũng có thể bởi vì nghệ thuật là để diễn tả cái không thể diễn tả được.

    Trái lại, điều rõ ràng là chúng ta đang đứng trước một trong những sáng tạo quan trọng nhất của thời này.

    Paul de Swaef
    (T.K dịch)

    Báo Le Peuple, ngày 3/7/ 1968 (?)
    năm đề không rõ.






    Một nghệ sĩ Việt giữa Bắc và Nam

    Alain Germoz



    Làm sao một nghệ sĩ Việt Nam có thể sống và sáng tác xa vùng đất mẹ?

    Sự đối chọi giữa bạo lực chiến tranh và tế vi nghệ thuật có đủ để trả lời câu hỏi không?

    Không đơn giản như thế.

    Từ mười năm nay, họa sĩ Phạm Tăng sống ở La Mã. Tại đây, ông đã kiện toàn cái học của mình -sau khi đã theo nghành hội họa và kiến trúc ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội- Tại đây, ông vẽ và cũng từ đây, ông nổi tiếng ra nước ngoài. Hôm nay, ở Bruxelles, ông triển lãm lần đầu tiên tại Bỉ.

    Thử thách thành công

    Quan niệm, kỹ thuật và tinh thần Đông phương, nhưng tác phẩm của Phạm Tăng lại rất Tây phương ở tính hiện đại, ông đã thành công trong cuộc thử thách lạ lùng, giao hoà hai nền văn minh - hai độ mẫn cảm khác nhau. Ở chỗ mà người ta có thể trật đường và bị nghiền nát vì trọng lượng của cái không thể hàn gắn được, Phạm Tăng vượt qua dễ dàng đến độ làm ta sửng sốt. Và cũng chính vì thế ông đã trao một bài học khiêm tốn và mẫn cảm đến những người, ở phương Tây, thường nhắm vào cái bạo lực, cái thô thiển, cái vũ bão, bởi họ không còn tin vào hiệu lực của tế vi trong nghệ thuật. Thái độ tuyệt vọng ấy không xứng đáng với nền văn minh mà họ phải phản ánh, phải biểu trưng những nét tinh hoa. Khuynh hướng dẫn dắt người xem đóng góp tích cực vào tác phẩm của mình đã khiến họ dùng đến những xảo thuật như tạo ra các tác phẩm có chuyển động, có ánh sáng, có tiếng động, (sao không thêm cả mùi vị nữa?) hoặc các cách trình diễn được gọi là môi sinh, môi trường, như một thứ không gian tiêu khiển. Mà cũng chỉ có thể tiêu khiển được với điều kiện là nó hay, nó đẹp. Rất tiếc là trong nhiều trường hợp, người ta chỉ thấy sự đồng loã giữa con buôn và kẻ đầu cơ, chỉ thấy sự chối bỏ hoặc đặt lại khái niệm nghệ thuật. Tôi nói điều này ra chẳng vì hậu ý mà cũng chẳng vì thiên kiến. Dĩ nhiên là với kỹ thuật mới, chất liệu mới -nhất thiết phải- tạo ra những hình thái diễn đạt mới nằm ngoài những gì vẫn được gọi là hội họa và điêu khắc. Nhưng điều đó không có nghiã là hội họa và điêu khắc không còn dành cho chúng ta nhiều kinh ngạc nữa. Nghệ thuật chẳng có ích gì khi tự biến thành quốc tế trong cái nghiã san bằng, làm mất đi những tinh chất nguyên thủy. Hội họa của Phạm Tăng là một ví dụ. Nó không chối từ nguồn cội Đông phương.

    Là bướm


    Làm sao xây dựng một tác phẩm ? Trước hết tác phẩm là kết quả của sự kiên nhẫn lâu dài. Chậm rãi, tỷ mỉ, Phạm Tăng tạo một cấu trúc uyên bác tế vi với vô vàn mảnh nhỏ tích tạo thành một toàn cảnh gần như trừu tượng. Nhưng tất cả không chỉ giới hạn trong cái mà ta nhìn thấy. Nếu Phạm Tăng tìm cách giao cảm với vạn vật thì ông cũng không quên tìm cách giao cảm với người xem.

    «Tôi muốn người xem và hoạ sĩ là một.

    Đó là lý do của những bức tranh không đóng khung.

    Tôi muốn người xem cảm thấy mình tự do. Khi không còn khung nữa, bức tranh trở thành một diện tích vô hạn. Người ta có thể vào bằng bất cứ cách nào, tự do di chuyển, góp phần trực tiếp sáng tạo một thế giới mới. Khó mường tượng một họa sĩ Tây phương vẽ ngựa. Nhưng tôi, tôi muốn người xem kề gần tranh tôi như một cánh bướm nhỏ ghé vào tâm hồn đoá hoa, hòn sỏi... »


    Phạm Tăng nói với chúng tôi như thế. Và tác phẩm của ông ở đó thu hút, hớp hồn chúng tôi. Rồi họa sĩ biến mất. Người xem là bướm, thơ thẩn tìm đường, xà xuống, dính vào những mảng nhỏ của một thế giới không biết là thảo mộc, khoáng chất, hay vi phân. Trên hành trình này, sự đóng góp của người xem trở thành mặc tưởng. Nhưng Phạm Tăng cũng không coi thường những cách cảm thụ trực tiếp.

    Ý nghiã của vô cùng

    Một bài trí lớn với chín bức trải hình thập tự trên nền đất. Cấu trúc có tính cách biến thể, nghiã là có thể đặt bức này cạnh bức kia theo bất cứ kiểu nào, các cạnh cũng đều ăn khít với nhau tạo thành một tổ hợp mới mà tính hài hoà không hề bị gián đoạn. Có thể nói đó là cách cấu trúc puzzle đẩy tới cùng. Tất nhiên phải hỏi: có bao nhiêu cách kết hợp như thế? Và Phạm Tăng đã tính trước: có 791.807.325.218.802.395.424.183.359.603.200.000.000 cách.

    Tôi không kiểm lại.

    Như vậy, ý nghiã của vô cùng có thể xẩy ra trong hội họa. Ở đây, nó làm cho ta chóng mặt vì những con số và vì tính cách tự do tuyệt đối của người biến đổi.

    Lạ kỳ thay sự khác biệt giữa ngôn ngữ của một họa sĩ và những nhà chính trị. Nhưng làm sao có thể quên được những kẻ này trong khi số phận nước Việt từ nhiều năm nay nằm trong những cuộc thanh toán đẫm máu?

    Cá mắc cạn

    Có thể Phạm Tăng đoán được câu hỏi. Ít ra, ông đã dự đoán.

    «Tôi nghĩ công việc lâu dài và cần thiết là xây dựng lại tinh thần dân tộc».

    Ông nói thêm:

    «Tôi không thích chém giết».

    Nhưng Phạm Tăng đã trải qua chiến tranh. Ông đã tranh đấu trong 8 năm. Chống Nhật rồi chống Pháp. Xuất thân từ miền Bắc, ông đã chiến đấu bằng lý tưởng của tuổi trẻ. Sau bẩy năm, ông nhận thấy có những đổi thay trong hàng ngũ cộng sản. Sự chống lại đế quốc ngoại lai ban đầu được chêm vào một sự kiện mới: tình trạng đấu tranh giai cấp và ma lực thế quyền. Đấu tranh giai cấp đối với người Việt, chẳng có nghiã gì. Chỉ là việc áp dụng lý thuyết Mác-xít. Đáng buồn là những kẻ đã góp phần vào cuộc chiến chống đế quốc -Phật có, Khổng có, Chúa có, tất cả toàn dân đều đã góp phần vào- lại bị những người cộng sản coi là kẻ thù và phản động. Lòng nhân nhượng của người Việt nhường chỗ cho sự không khoan nhượng của cộng sản, ở miền Bắc và của đế quyền, ở trong Nam. Phạm Tăng, tham gia nghề báo trong 5 năm, thấy chính quyền không chấp nhận phê phán lẫn phản biện. Tự do ngôn luận bị đe dọa. Ông rời xứ.

    «Tôi có cảm tưởng như mình là con cá mắc cạn. Nhưng thà mắc cạn còn hơn là bị cuốn theo bên này hay bên kia.»

    Không khoan nhượng

    Trung dung và cao nhã luôn luôn là vị trí của một người có văn hoá.

    «Những nghệ sĩ, nhà văn, nhà tư tưởng đều làm cách mạng. Nhưng khi cách mạng thành công -tiến trình này ai cũng biết- gọng kìm khép lại bóp nghẹt những tiếng nói độc lập. Sự tranh giành quyền lực khiến những người cầm quyền thanh toán bạn đồng hành cũ bằng cách ép vào tội phản quốc».

    Tình hình Việt Nam có hơi khác những gì ta nhìn thấy từ xa. Tối thiểu là hai triệu người bị loại bởi cả hai phiá, Bắc cũng như Nam. Ai quan tâm đến?

    Những kẻ thương thuyết hoà bình -nếu thành công- có thể đem lại an lạc cho một dân tộc bị những ý thức hệ tàn phá với vô vàn thảm kịch.

    Công lý

    Theo Phạm Tăng, phải chờ hai, ba mươi năm nữa mới có thể tìm lại sự yên bình. Ông, có bạn cả Nam lẫn Bắc, cho rằng cần phải có công lý. Công lý không phải là một thực thể luôn được chia sẻ đồng đều trong thế giới loài người. Nhưng có những việc quá rõ ràng. Phạm Tăng không tránh né khi nghe nói đến những kẻ đầy túi vì theo Mỹ. Đó là những kẻ phản quốc phải xử lý.

    Ta thấy ngay rằng, bên này hay bên kia, đều có những kẻ phản quốc, phản động. Còn biết bao nhiêu trường hợp mà lương tâm phải giải quyết trước khi tìm lại niềm vui và sự êm dịu để sống - trong nhân nhượng. Để chính những người Việt Nam có thể thưởng thức được những giá trị tinh thần của một nghệ sĩ như Phạm Tăng.

    Alain Germoz
    (TK dịch)

    Vie/Spectacle, Bruxelles,
    ngày 4/12/1968






    Vũ Trụ - tranh Phạm Thăng



    Lời từ tạ hoạ sĩ Phạm Tăng



    Anh Phạm Tăng,

    Trong gần một thế kỷ, ngoài gia đình, anh đã sống với: hội họa, thi ca và cô đơn.

    Sự cô đơn ở anh, cũng là yếu tố xây dựng và xác định nghệ thuật của anh, mang ba lớp áo: Nỗi cô đơn của người nghệ sĩ, mà Nguyễn Tuân gọi là « pháp trường trắng », là nỗi cô đơn của nhà văn trước trang giấy trắng mà chữ không đến, của họa sĩ, trước giá vẽ, mà đường nét mầu sắc không hiển hiện. Đó là sự cô đơn siêu hình của bất lực, mà nghệ sĩ nào cũng trải qua. Lớp cô đơn thứ nhì, ở anh, là sự cô đơn của người lưu vong trên đất khách, không tìm thấy ở đâu một chỗ trọ cho tâm hồn. Và lớp áo thứ ba, là sự cô đơn của con người trước cuộc sống và cái chết: ta, cô đơn khi gia đình đoàn tụ, cô đơn giữa chợ, giữa lễ hội tưng bừng, bởi ta sinh ra một mình và ta chết cũng một mình, không một người thân nào có thể chia sẻ. Ở anh, ở tác phẩm của anh là sự hội tụ của ba niềm cô đơn tuyệt đối đó.

    Rồi con đường anh đi, những mốc cuộc đời anh, vô tình hay hữu ý, đều gắn bó với những mốc lịch sử của đất nước.

    Năm 1954, đất nước chia đôi. Ở tuổi 30, anh vào Nam để «xây dựng cuộc đời mới», nhưng bi kịch cá nhân đầu tiên đã xẩy đến: Tâm, người yêu, người vợ trẻ bé bỏng, ra đi trong hoàn cảnh cực kỳ bi đát, anh phải trực diện lần đầu với cái chết, cái chết của người thân yêu nhất, cái chết của tình yêu, cái chết mà anh cho rằng mình có trách nhiệm. Nhưng anh đã gạt bi kịch sang một bên, anh lăn lộn làm báo. Đây là thời kỳ hoạt kê, biếm họa, tranh anh nhạo báng những trịch thượng, những xâm phạm tự do của một chế độ. Anh đã thành danh trong sự nổi loạn của người nghệ sĩ, chống lại tất cả những cấm đoán dù dưới hình thức nào. Những tiếng cười của anh thời đó, thực ra chỉ che nỗi đau bên trong của một niềm tiếc thương, sầu nhớ, hối hận khôn nguôi.

    Năm 1959, ở tuổi 34, anh sang Ý học thêm hội hoạ. Bắt đầu thời kỳ 15 năm mà anh goị là 15 năm lưu lạc của cô Kiều. Qua những năm trau dồi nghệ thuật, anh đã có những bằng cấp của viện Mỹ thuật Ý, anh đã đoạt những giải thưởng cao quý về hội họa; nhưng tất cả mọi nghệ sĩ chân chính đều biết bằng cấp và giải thưởng không bao giờ làm nên một họa sĩ tài năng.

    Tất cả phát xuất từ chính người nghệ sĩ, ở anh, ngoài tài năng, là nội lực và suy tư.

    Ở trường ốc Ý, anh đã nắm bắt được kỹ năng của nghệ thuật trừu tượng, và từ đây, anh như cánh diều, bay bổng trên nền trời nghệ thuật với tất cả hành trang phải có của một nghệ sĩ thực thụ. Anh đã rời nghệ thuật hữu hình mà anh học từ trước, để tiến vào hội hoạ trừu tượng, vùng đất vô thể, vùng tự do mà anh có thể tung bay nòi bút, theo tư tưởng, theo cám xúc của riêng mình. Từ đây, anh một mình một cõi, anh đã tạo ra thế giới Phạm Tăng và thế giới này là xác thịt và tâm hồn anh. Chính thời gian này (1959-1975) anh sáng tác nhiều nhất, anh đã bôn ba mang tranh đi triển lãm khắp nơi, từ Ý, sang Hoà Lan, Bỉ, sang cả Brésil, Los Angeles... anh đã đọc được những bài báo của giới chuyên môn khâm phục tài năng của anh. Nhưng 15 năm này cũng là quãng đời cô đơn nhất của anh: anh vẽ một mình những bức tranh ngoại khổ, anh chất từng mảng tranh lên xe hơi đem đi triển lãm, một mình, đi ngày đêm trong gió mưa, băng giá của một Âu châu, không chú ý đến tài năng của một người da vàng nhược tiểu, và người Việt không rành hội họa, không xem tranh, không tham dự. Người Việt thường chỉ chú ý đến việc anh đoạt giải này giải nọ, họ ca tụng những giải thưởng anh đoạt ở trời Tây như một vinh hạnh, nhưng không thiết tha tìm hiểu nghệ thuật của anh. Đó là niềm đau thứ nhì trong nỗi cô đơn của anh.

    - 1975, là ngõ quặt thứ hai của đời anh: Anh chuyển từ đất Ý sang đất Pháp, tất nhiên vì hoàn cảnh riêng tư, nhưng cũng chính từ hoàn cảnh riêng tư này, lại thoát ra sự lựa chọn cuộc sống của con người: Bi kịch đất nước đã dồn bao nhiêu con thuyền di tản dạt ra biển Thái bình, và có lẽ anh muốn chấm dứt quãng đời 15 năm lưu lạc, để tiến đến một quãng đời bình yên hơn, gần gụi đồng bào anh, vừa bỏ nước ra đi, anh chọn đất Pháp. Có lẽ anh tin rằng đất Pháp sẽ là nơi đất lành chim đậu chăng? Nhưng sự thực không diễn ra như thế: có lẽ anh không ngờ đất Pháp lại nhắc nhở cho anh quá nhiều kỷ niệm đau thương trong quá khứ, thời niên thiếu, anh đã thấy những đán áp đẫm máu của thực dân Pháp trong những vụ càn quét ở Yên Mô, Ninh Bình, quê hương anh. Quá khứ hiện về, đậm nét. Anh sống hàng ngày những ám ảnh ấy, như một cơn ác mộng, một niềm hoang tưởng. Vậy anh có thể sáng tác được chăng? Sáng tác gì ? Cho ai xem? Những câu hỏi khó đáp. Chưa kể còn phải chịu cảnh bon chen của một hoạ sỹ, khi phải «bán mình» cầu cạnh thế giới buôn tranh. Anh đã quyết định đoạn tuyệt, ngừng vẽ, và cũng từ đó, anh không dây dưa với người Pháp, không xin nhập tịch, không nhận trợ cấp y tế và bất cứ trợ cấp nào, anh về ẩn dật: «Xoá từ nay chữ Phạm Tăng; Cái danh vô nghiã làm thằng không tên».

    Nhưng không vẽ, không có nghĩa là dứt bỏ nghệ thuật. Anh trở về với thơ. Nói « trở về» bởi vì có lẽ chưa bao giờ anh «dứt» thơ.

    Không biết anh bắt đầu làm thơ từ bao giờ, nhưng rõ ràng là từ khi Tâm mất, anh mới có những câu thơ tuyệt vời, anh đã đục được vào bí mật của cái chết, anh biết rõ âm dương nối kết như thế nào. Anh tìm được đường đi lối về giữa sống và chết. Trong suốt thời kỳ sung mãn của hội hoạ, anh nuôi sống cảm hứng bằng tình yêu và cái chết, như thể tất cả những gì diễn trong hội họa, phát xuất từ Tâm thơ và tất cả những gì trong thơ phát xuất từ hội họa. Đối với anh thơ và họa không còn biên giới nữa, cũng như cõi tử, sinh, không hai, mà một.

    Anh để lại hai kiệt tác hội hoạ : một bức anh đặt tên là Vũ trụ. Anh vẽ càn khôn với hằng hà tinh thể đi từ vi mô đến vĩ mô. Anh vẽ anh, bởi anh với vũ trụ là một: «Vũ trụ và tôi một bất phân».

    Bức tranh thứ nhì anh không đặt tên, mỗi nguời xem, mỗi lần xem, có thể đặt cho nó một tên: sáng, nó là vũ trụ thiên thần, chiều, nó là vũ trụ mây mưa, trong mơ, nó là vũ trụ hằng nga khỏa thân trên cung Quảng...

    Anh Phạm Tăng, hôm nay tiễn anh, em đặt tên nó là Thiên thai.

    Chúc anh thuận gió bay về vũ trụ thiên thai mà anh đã sáng tạo và để lại cho đời.


    Thụy Khuê
    Paris, 18/1/2017


    Nguồn:https://hopluu.net



              
Trả lời

Quay về “chứng nhân Việt”