Nỗi Đau Thăng Long

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Nỗi Đau Thăng Long

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Nỗi Đau Thăng Long
    __________________________
    Phạm Thảo Nguyên - 20 tháng 3 năm 2016






    Năm 1813, Nguyễn Du được vua Gia Long thăng Cần Chánh điện học sĩ, làm Chánh sứ đi Trung Hoa triều cống. Được qua Bắc Thành (tên mới của Thăng Long), nhìn núi Tản sông Lô hùng vĩ, thi hào vui mừng hào hứng bộc lộ trong hai câu đầu bài thơ Thăng Long:

    Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồng
    Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long


    Núi Tản sông Lô mãi mãi đồng
    Bạc đầu còn được thấyThăng Long!


    Ôi Thăng Long! Ôi Thăng Long thành xưa!
    Người Thăng Long nào mà chẳng muốn nhìn lại thành xưa, những nơi đẹp đẽ của quá khứ, may ra còn vương lại chút gì chăng? Từ 1793, dưới triều Tây Sơn, thi hào rời Thăng Long, lúc ấy Thăng Long của chàng thanh niên sinh ra và lớn lên tại đây còn nguyên vẹn:

    • … Này đường về phố cũ. Này đường về ô xưa
      Nét xưa ngàn năm mờ phai khi tàn mơ
      (Thăng Long Hành Khúc, Văn Cao)

    Văn Cao, người thời nay không sinh trưởng tại đây còn nhớ Thăng Long như thế, nữa là người thời xưa, nữa là Chiêu Bẩy Nguyễn Du!

    Nhưng lập tức trong hai câu thực của bài thơ Thăng Long, Nguyễn Du đã mở tung sự thật: Thăng Long yêu quý đã bị phá tan, đã biến đổi tàn khốc rồi! (Hiện nay nhiều nhà khảo cổ đã có kết luận rằng tất cả những dấu tích cuả Thăng Long xưa từ thời nhà Lý đã bị xoá sạch, từ đàn Nam Giao đến các cung điện thành quách…Thêm lệnh cấm nói tới Tây Sơn, ngay cả nói tới các chúa Trịnh, cùng mài cái tấm bia cũ đi…nên con dân Lạc Việt thời nay không còn nhớ biết gì hết! Quên hết dĩ vãng!). Dưới đây là hai hình ảnh ngay trước mắt:

    Thiên niên cự thất thành quan đạo
    Nhất phiến tân thành một cố cung!


    Ngàn năm dinh thự thành đường cái
    Một giải thành xây mất cố cung!


    Dinh thự ngàn năm (nhà ta xưa ở đó), bây giờ đã bị phá đi xây đường cái đè lên cho xe cộ người vật đi lại suốt ngày đêm rồi. Còn cung điện vua cũ? Bị đập nát, vùi đi, dựng một bức thành mới lên trên rồi! Mà ai phá? Chính vua nhà Nguyễn chứ ai! Việc này là do lệnh Gia Long (1806), không phải do chiến tranh. Lệnh trong thời bình từ một triều đình người Việt, phá tan cả một nền văn hoá dài ngàn năm, do bao nhiêu tổ tiên triều trước xây dựng nên trên đất nước này.

    Hơn nữa, theo phong thuỷ, phá thành cũ xây đường cái lên, dựng thành mới đè lên cố cung của vua chúa cũ, là cách yểm đất để vùi dập tất cả tương lai. (Anh Nguyễn Khản, em Nguyễn Ức chuyên về kiến trúc, Nguyễn Du không thể không biết về phong thuỷ). Chắc chắn Nguyễn Du hiểu rõ khi viết ba chữ một cố cung. “Một” nghĩa là vùi lấp, là chìm mất, là chết, là hết, là không còn, là “mai một”.

    (Thế mà đi sứ về Nguyễn Du không sợ, dám cho phát hành tập Bắc Hành!).

    Điểm cuối cùng của chuyến ghé Long Thành là đêm tiệc chiêu đãi sứ đoàn của đương kim tuyên phủ Bắc Thành Nguyễn Huỳnh Đức.

    Sau hai mươi năm xa vắng, Nguyễn Du dưới mũ áo quan chánh sứ khâm sai đại thần, bước vào dự đêm đại tiệc chiêu đãi chính ông, người Thăng Long cũ trở về:
    • “Kế văn, cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi“
      (Bất chợt nghe thấy vút lên một tiếng đàn trong trẻo, khác hẳn các khúc nhạc đương thời)
      (Tiểu Dẫn của Nguyễn Du, Đào Duy Anh dịch, Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, 1988 sđd).


    Ôi, Khúc đàn xưa xuất hiện! Vừa lọt tai, lắng tiếng, lòng người đã tràn ngập nhớ thương! Ôi, có lẽ nào! Khúc đàn xưa đang rung lên trong không gian, đang nức nở đánh thức tâm tư sâu thẳm của người nghe, kêu gọi tới nơi tận cùng của ý tứ, của những niềm riêng đã từ lâu im ắng… Người nghệ sĩ Nguyễn Du thưởng thức âm nhạc bằng cả tâm hồn mình, đã nhận rõ từng uẩn khúc: Diễm ảo mà kỳ lạ thay: Âm thanh du dương thánh thót kia ẩn dấu giọt lệ tủi hờn. Lập tức trong sâu thẳm lòng ông, tiếng đàn ngày cũ nổi lên cùng tiếng đàn đêm nay ẩn hiện chập trùng: Quá khứ, hiện tại trộn lẫn vào nhau không phân biệt, mang mang đưa người vào cơn mơ siêu thực trong Long Thành hư ảo. Trong lòng ông hình bóng Nàng Cầm của những ngày xưa cũ hiện về. Bài Long Thành Cầm Giả Ca diễn tả:

    Cựu khúc thanh thanh ám lệ thuỳ
    Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
    Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự
    Giám hồ tịch trung tằng kiến chi…


    Khúc xưa thánh thót ẩn lệ rơi
    Tai nghe lắng tiếng dạ bồi hồi
    Bỗng nhiên nhớ lại chuyện hai mươi năm về trước
    Hồ Giám đêm hát từng thấy rồi


    (Tuy lúc này thi hào còn lầm tưởng rằng người tấu đàn ngồi cuối chiếu đêm nay là người mình chưa từng biết, có hình hài Sắc tàn mi úa không trang điểm.)

    Thật bất ngờ, quá khứ không đợi mà về, trùng trùng không dứt, tung lên dạt xuống, dày vò kẻ tha hương vừa trở lại. Tất cả quá khứ hiện tại, hiện tại quá khứ suốt hơn hai mươi năm biến động bỗng như trộn lẫn vào nhau, cùng biểu hiện trong lòng thi sĩ: Quá khứ thời Tây Sơn khi ông lần đầu được nghe khúc đàn do Nàng Cầm tấu, và quá khứ của quá khứ vì khúc đàn đó chính là khúc Cung Phụng của Đại Nội triều Lê xưa. Từ thành quách cơ nghiệp oai hùng của triều đại Tây Sơn, tướng tá hào hoa… thoắt chốc, tan tành hết, tiêu tan hết chỉ còn một nàng đào nương tàn tạ ngồi kia đang tấu khúc đàn xưa làm nhân chứng:

    Thành quách suy di nhân sự cải
    Kỷ xứ tang điền biến thương hải
    Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
    Ca vũ không di nhất nhân tại


    Thành quách tàn đi, người thay đổi
    Bao nhiêu ruộng dâu thành biển khơi
    Cơ nghiệp Tây Sơn tan tành hết
    Đào nương còn đó, một nàng thôi.


    Người nghệ sĩ trong ông rung động theo tiếng đàn, chơi vơi giữa bây giờ và ngày ấy. Sự tinh tế đã lên đến tuyệt đỉnh của cả người tấu nhạc lẫn người nghe. Bởi vì, hình như lúc ấy trong toà thành mới xây, có hai người tri kỷ đang trùng phùng trong từng tiếng đàn thánh thót tràn ngập xúc động tự ngày xưa.

    Đêm hát qua đi, tiếng đàn vẫn lẩn khuất đâu đây trong không gian, và trong hồn người lữ khách mới trở về. Khiến quan chánh sứ phải tìm người dò hỏi:
    • “tức kỳ nhân dã“
      (thì ra người ấy, Tiểu Dẫn, Nguyễn Du).
    Niềm thương xót dâng trào, mắt thơ đầm đìa những lệ. Kiệt tác văn chương Long Thành Cầm Giả Ca được thi hào viết ra trên đường đi sứ tiếp theo. Bút pháp tuyệt vời của Nguyễn Du như nhẩy múa, như chao đảo. Tiếng thơ vang lên như cơn say:
    Thuấn tức bách niên năng kỷ thì
    Thương tâm vãng sự lệ triêm y


    Trăm năm thoáng chốc đáng bao nhỉ
    Đau lòng ướt áo lệ trào mi


    Hai câu kết là:

    Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
    Khả liên đối diện bất tương tri.


    Đôi mắt trừng trừng không tưởng
    Thương ôi, đối mặt chẳng biết gì!


    Đúng là trong buổi tiệc Nguyễn Du đã không nhận ra Nàng Cầm, và đúng là Nguyễn Du không biết rằng: Nàng Cầm đã nhận ra Nguyễn Du!

    Đêm nay, cô được giáo phường gọi tới đàn giúp vui tiệc chiêu đãi khâm sai đại thần cùng sứ đoàn. Cả thành ai cũng biết, cũng xì xào vì quan chánh sứ là người Thăng Long cũ, con em quan tham tụng, tể tướng thời vua Lê chúa Trịnh xưa, tên là Nguyễn Du! Ôi chàng trẻ tuổi Nguyễn Du xưa, nếu không phải người tình thời niên thiếu, thì cũng là người bạn tri âm của Nàng Cầm thuở ấy. Cuộc đời một đào nương được mấy tri âm? Làm sao mà quên được? Phải chăng nàng vẫn trông ngóng đợi chở người đó từ bấy đến nay?

    Nhưng Nàng Cầm tài giỏi xinh đẹp khả ái ngày xưa, một “Hoạt tố Tràng an vô giá bảo“, báu vật vô giá của kinh thành Thăng Long cũ, trong đêm tiệc chiêu đãi quan chánh sứ tại Long Thành, đã xuất hiện rất khác lạ dưới mắt khách quan của Nguyễn Du như sau:

    ...Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
    Nhan xấu thần khô hình lược tiểu
    Lang tạ tàn mi bất sức trang


    ... Cuối chiếu có nàng tóc pha bạc
    Võ vàng nhỏ bé mặt ủ ê
    Sắc tàn mi úa không trang điểm...


    Vẻ khác lạ đó được tả kỹ càng, tỉ mỉ hơn nữa trong bài Tiểu Dẫn:
    • “Thị kỳ nhân nhan xấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại bôi sắc, đa bạch bổ, mặc toạ tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kỳ trang đãi bất kham giả bất phục tri vị thuỳ hà“
      (Người gầy gò, vẻ tiều tuỵ, mặt đen, xấu như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc thếch thêm nhiều mảnh vá trắng, ngồi im ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình dáng thật khó coi.
      (Đào Duy Anh dịch, sđd)),

    khiến cho Nguyễn Du trông thấy mà hoàn toàn không nhận ra người cũ.

    Việc này thật lạ thường, trên đời, xưa cũng như nay, không một đào nương ca sĩ nào khi đi biểu diễn tại các nơi quan khách cấp nhà nước, mà không làm đẹp, không ăn mặc lộng lẫy chải chuốt, mà trái lại, dám phục sức lem luốc như thế. Nhất là những mảnh vải trắng vá đụp (!) trên xống áo hiện ra lồ lộ như đập vào mắt mọi người. Chúng tôi nghĩ rằng giáo phường phải được biết trước. Họ đã đồng ý cho phép, hay đồng loã che chở cho Nàng Cầm phục sức như vậy. Nếu không, cô đã không thể đi tới được buổi tiệc, hay bị đuổi ra khỏi dinh ngay từ đầu.

    Thêm nữa, thật ra Nàng Cầm chưa hề già! Thi sĩ gập cô lần đầu sau khi Tây Sơn đại phá trận Đống Đa, chiếm Thăng Long, Nguyễn Nể đi sứ Tầu về, vào năm 1790. Lúc đó cô mới được “tam thất chính phương niên“ (Ba lần bẩy, tức 21 tuổi). Tới 1813, tức 23 năm sau, cô 44 tuổi, tuổi chín tới của một người đàn bà. Cô là đào nương có tuyệt kỹ chơi đàn Nguyệt, nổi tiếng không ai bì kịp. Giáo phường vẫn biết trọng tài nghệ của cô. Cô vẫn được mời đi tấu nhạc. Nếu không được vinh quang như ngày xưa kia, thì cũng không đến nỗi ba đào lênh đênh. Không có lý do gì làm cô tiều tuỵ nhanh như thế! Ai cũng biết người đàn bà Á Đông thường trẻ lâu hơn tuổi. Vì vậy, phải chăng cô cố ý hoá trang, cố ý ăn mặc tang thương như đang để tang Thăng Long? Phải chăng vì cô muốn Nguyễn Du biết tới nỗi đau Thăng Long, của người Thăng Long? của thành Thăng Long? Hành động của cô như muốn gửi đi một thông điệp. Có thể như sau:

    • “Hỡi chàng thi sĩ ngày xưa nghèo khổ, sống đời giang hồ trốn tránh ngoài bãi sông, được anh ruột làm quan cho Tây Sơn bao bọc che chở. Hôm nay vinh hiển trở về. Nghe tiếng đàn xưa của ta, có nhớ thời xưa, người xưa chăng tá?

      Ngày xưa anh luân lạc phù Lê, bây giờ anh phù ai? Phù cái triều đình đã đập phá tan tành thành Thăng Long của chúng ta đấy ư? Anh có biết dân chúng Thăng Long khổ như thế nào không?“


    Đồng thời, cô là một nghệ sĩ bậc nhất, một người đàn bà nhan sắc, có cá tính rất mạnh (Tiểu Dẫn). Từ khi biết khách chính đêm tiệc là Nguyễn Du, cô muốn đựơc gập, được thấy lại chàng thi sĩ của ngày xưa. Cô hiểu đây là một đặc ân tuyệt diệu, một cơ hội đẹp nhất mà cuộc đời dành lại cho cô: Được đàn cho Nguyễn Du, người tri âm cũ nghe một lần cuối trong đời. Cho nên, cô mang hết tuyệt kỹ, hết lòng mình gửi vào khúc Cung Phụng để tặng người, và cũng để người hiểu nỗi đau Thăng Long, một lần cuối này thôi.

    Cho nên, tiếng đàn mới “nức nở” nhường ấy, mới “ẩn lệ rơi” nhường ấy.

    Vì thế, người nghệ sĩ Nguyễn Du, dù chưa nhận ra cô, mới nghe tiếng đàn, đã hiểu thâm sâu hồn người tấu nhạc, đã lập tức cảm thấy lòng đầy bi thương (tâm trung bi),với hình ảnh lồng lộng diễm ảo của Nàng Cầm trong quá khứ:

    Giám hồ tịch trung tằng kiến chi…
    Hồ Giám đêm hát từng thấy rồi


    Và thi hào đã tiếc nuối tột cùng khi hiểu được người đánh đàn là ai:

    …Nam hà quy lai đầu tận bạch
    Quái để giai nhân nhan sắc suy
    Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
    Khà liên đối diện bất tương tri.


    Nam hà trở lại ta trắng tóc
    Lạ gì người đẹp sắc phai đi
    Đôi mắt trừng trừng không tưởng nổi
    Thương ôi! Đối mặt chẳng biết gì!


    Đêm hát kết thúc, Nàng Cầm lặng lẽ theo giáo phường ra về. Cô đã thực hiện được điều cô không bao giờ dám mơ ước trong suốt hai mươi năm trời vắng bóng “người ấy” ở Thăng Long. Còn Nguyễn Du, sau khi biết người tấu nhạc chính là Nàng Cầm, đã “cảm thương vô hạn” cô bạn cũ (Tiểu Dẫn).

    Thi hào viết bài thơ Long Thành Cầm Giả Ca, để lại cho hậu thế chúng ta những câu thơ thần sầu, xúc động nhất tập Bắc Hành, kỳ lạ nhất của văn chương Việt Nam. Khi sứ đoàn về nước, Nguyễn Du đã cho phát hành khắp nơi tập thơ Bắc Hành (theo Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện (21)). Như vậy, Nàng Cầm chắc đã được đọc bài thơ này, đã cảm được sự an ủi vô cùng từ người bạn tri âm ngày xưa cũ. Và nhất là hành động có chủ ý chứng tỏ nỗi đau của Nàng, của người Thăng Long, của thành Thăng Long đã được Nguyễn Du thấy, hiểu, viết ra, kể lại cho người đọc cả nước, và cho hậu thế chúng ta được biết.

    Sau đó ít năm, Nguyễn Hành khổ hơn chú Du nhiều khi trở về Bắc Thành không còn gập một người quen. Ngỡ ngàng cay đắng thấy mình chỉ là một thằng rách rưới không ai biết đến ngay tại nơi quê hương kinh đô cũ. Nơi đã hoàn toàn thay đổi, không còn tới một vật xưa, trong bài thơ Bắc Thành Lữ Hoài, Tha Thẩn Bắc Thành sau đây:

    Ngã diệc vi hà giả?
    Tịch liêu lai thử thành
    Nhãn trung vô cố vật
    Tâm thượng hữu dư tình


    Ta là thằng nào đây?
    Lủi thủi tới thành này
    Chẳng thấy một vật cũ
    Lòng nặng tình quắt quay…


    Với hai câu kết:

    Tích niên quý công tử,
    Kim dã lão thư sinh.


    Năm xưa quý công tử.
    Lão đồ già, ngày nay.




    Phạm Thảo Nguyên
    nguồn: diendantheky.net
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Nỗi Đau Thăng Long

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Long thành cầm giả ca
    龍城琴者歌
    _______________
    Nguyễn Du




    Long thành giai nhân
    Bất ký danh tự
    Ðộc thiện huyền cầm
    Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
    Học đắc tiên triều cung trung "Cung phụng" khúc
    Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
    Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến
    Giám Hồ hồ biên dạ khai yến
    Thử thời tam thất chánh phương niên
    Xuân phong yểm ánh đào hoa diện
    Ðà nhan hám thái tối nghi nhân
    Lịch loạn ngũ thanh tuỳ thủ biến
    Hoãn như luơng phong độ tùng lâm
    Thanh như chích hạc minh tại âm
    Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch
    Ai như Trang Tích bịnh trung vi Việt ngâm
    Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện
    Tận thị Trung Hoà Ðại Nội âm
    Tây Sơn chư thần mãn toạ tận khuynh đảo
    Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu
    Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
    Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
    Hào hoa ý khí lăng công hầu
    Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo
    Tính tương tam thập lục cung xuân
    Hoán thủ Trường An vô giá bảo
    Thử tịch hồi đầu nhị thập niên
    Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên
    Chỉ xích Long Thành bất phục kiên (kiến)
    Hà huống thành trung ca vũ diên
    Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu
    Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu
    Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
    Nhan xú thần khô hình lược tiểu
    Lang tạ tàn my bất sức trang
    Thuỳ tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu
    Cựu khúc tân thanh ám lệ thuỳ
    Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
    Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự
    Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi
    Thành quách suy di nhân sự cải
    Kỷ độ tang điền biến thương hải
    Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong
    Ca vũ không lưu nhất nhân tại
    Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì
    Thương tâm vãng sự lệ triêm y
    Nam Hà quy lai đầu tận bạch
    Quái để giai nhân nhan sắc suy
    Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
    Khả liên đối diện bất tương tri.




    Dịch nghĩa

    Người đẹp Long Thành
    Họ tên không được biết
    Riêng thạo đàn huyền cầm
    Dân trong thành gọi nàng là cô Cầm
    Gảy khúc "Cung phụng" từ triều vua xưa
    Một khúc đàn hay tuyệt từ trời đưa xuống thế gian.
    Nhớ hồi trẻ tôi đã gặp nàng một lần
    Bên hồ Giám trong một đêm yến tiệc
    Tuổi cô cỡ hai mươi mốt
    Áo hồng ánh lên khuôn mặt đẹp như hoa
    Rượu đậm thêm nét mặt ngây thơ khả ái
    Ngón tay lướt năm cung réo rắt
    Tiếng khoan như gió thổi qua rừng thông
    Thanh trong như đôi hạc kêu nơi xa xôi
    Mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc
    Sầu bi như Trang Tích lúc đau ốm ngâm rên tiếng Việt
    Người nghe nàng say sưa không biết mệt
    Trong khúc nhạc đại nội Trung Hoà.
    Quan tướng nhà Tây say rượu nghiêng ngả
    Lo vui chơi suốt đêm không nghỉ
    Bên phải bên trái tranh nhau cho thưởng
    Tiền bạc coi thường có nghĩa chi.
    Vẻ hào hoa hơn bậc vương hầu
    Giới trẻ nơi Ngũ Lăng không đáng kể
    Dường như ba mươi sáu cung xuân
    Nay Tràng An đã hun đúc được một báu vật vô giá.
    Trong đầu nhớ lại đã hai mươi năm
    Tây sơn thua bại, tôi vào Nam
    Long Thành gần mà cũng chẳng được thấy
    Còn nói chi đến chuyện múa hát trong thành.
    Nay Tuyên phủ sứ bày cuộc vui đãi tôi
    Ca kỹ trẻ xinh cả một đám
    Chỉ có một kẽ tóc hoa râm ngồi cuối phòng
    Mặt xấu, sắc khô, người hơi nhỏ
    Mày phờ phạc không điểm phấn tô son
    Sao mà đoán được người này là đệ nhất danh ca một thời.
    Điệu nhạc xưa làm ta thầm nhỏ lệ
    Lắng tai nghe lòng càng đau xót
    Tự nhiên nhớ lại hai mươi năm trước
    Bên hồ Giám trong dạ tiệc ta đã thấy nàng
    Thành quách đã chuyển, người cũng đổi thay
    Nương dâu trở thành biển cả đã nhiều
    Cơ nghiệp Tây sơn cũng đà tiêu tán
    Sót lại đây còn người múa ca.
    Thấm thoắt trăm năm có là bao
    Cảm thương chuyện cũ dùng áo thấm nước mắt
    Ta từ Nam trở lại, đầu bạc trắng
    Trách làm sao được sắc đẹp cũng suy tàn.
    Hai mắt trừng lên tưởng nhớ chuyện xưa
    Thương cho đối mặt mà chẳng nhìn nhận ra nhau.







    ________________________
    Tiểu dẫn của tác giả:


    • Long Thành Cầm giả, bất tri tính thị. Văn kì ấu niên tòng học bát Nguyễn cầm ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kì nhân lưu lạc thị triền, hiệp kĩ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai ngự tiền cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kĩ.

      Dư thiếu thời, thám huynh để kinh, lữ túc Giám hồ điếm. Kì bàng Tây Sơn chư thần đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kì nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường. Phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất toạ tận điên đảo. Sác thưởng dĩ đại bạch, Triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch uỷ tích mãn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân khoát kiểm, ngạch đột diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thuý tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hỉ lãng hước, nhãn hoắc hoắc, khuông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận tuý, ẩu thổ lang tạ, ngoạ địa thượng, đồng bối phi chi bất tuất dã.

      Hậu sổ tải, Dư tòng gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh Long Thành. Chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kì nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc toạ tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kì trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thuỳ hà. Duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, chất chi nhạc nhân, tức kì nhân dã.

      Ta hồ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kì khả lượng da. Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.




      Người gảy đàn đất Long Thành không rõ họ tên là gì. Nghe nói thuở nhỏ, nàng học đàn Nguyễn (đàn nguyệt ca do Nguyễn Hàm, người đời Tấn ở Trung Quốc chế ra) trong đội nữ nhạc ở cung vua Lê. Quân Tây Sơn kéo ra, các đội nhạc cũ người chết, kẻ bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ ôm đàn hát rong. Những bài nàng gãy đều là những khúc cung phụng gãy cho vua nghe, người ngoài không hề được biết, cho nên tài nghệ của nàng nổi tiếng hay nhất một thời.

      Hồi còn trẻ (1792-1793?), tôi đến kinh đô thăm anh tôi (Nguyễn Nễ), ở trọ gần Giám hồ (hồ Gương). Cạnh đó các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con hát đẹp có đến vài chục người. Nàng nỗi tiếng nhờ ngón đàn Nguyễn. Nàng hát cũng hay và khéo nói khôi hài, mọi người say mê, đua nhau ban thưởng từng chén rượu lớn, nàng uống hết ngay, tiền thưởng nhiều vô kể, tiền và lụa chồng đầy mặt đất. Lúc ấy tôi nấp trong bóng tối, không thấy rõ lắm. Sau được gặp ở nhà anh tôi. Nàng người thấp, má bầu, trán giô, mặt gẫy, không đẹp lắm, nhưng mước da trắng trẻo, thân hình đẫy đà, khéo trang điểm, lông mày thanh, má đánh phấn, áo màu hồng, quần lụa cánh chả, có vẻ phong nhã. Nàng hay uống rượu, hay nói pha trò, con mắt long lanh, không coi ai ra gì. Khi ở nhà anh tôi mỗi lần uống rượu thì nàng uống say đến nỗi nôn bừa bãi, nằm lăn ra đất, các bạn có chê trách cũng không lấy làm điều.

      Sau đó vài năm, tôi rời nhà về Nam (Thái Bình), mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay (1813) tôi lại phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, đi qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ, có gọi tất cả vài chục nữ nhạc, tôi đều không biết mặt biết tên. Chị em thay nhau múa hát. Rồi nghe một khúc đàn Nguyễn trong trẻo nổi lên, khác hẳn những khúc thường nghe, tôi lấy làm lạ, nhìn người gảy đàn thì thấy một chị gầy gò, vẻ tiều tuỵ, sắc mặt đen sạm, xấu như quỷ, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi im lặng ở cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dáng thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như đã quen biết, nên động lòng thương. Tiệc xong, hỏi thì chính là người trước kia đã gặp.

      Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế! Tôi bồi hồi, không yên, ngửng lên cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay. Người ta trong cõi trăm năm, những sự vinh nhục buồn vui thật không lường được. Sau khi từ biệt trên đường đi, cảm thương vô hạn nên làm bài ca sau, để ghi lại mối cảm hứng.


    nguồn: thivien.net
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Nỗi Đau Thăng Long

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Thăng Long kỳ 1
    昇龍其一
    _______________
    Nguyễn Du




    Tản lĩnh Lô giang tuế tuế đồng,
    Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long.
    Thiên niên cự thất thành quan đạo,
    Nhất phiến tân thành một cố cung.
    Tương thức mỹ nhân khan bão tử,
    Ðồng du hiệp thiếu tẫn thành ông.
    Quan tâm nhất dạ khổ vô thuỵ,
    Ðoản địch thanh thanh minh nguyệt trung.




    Dịch nghĩa

    Núi Tản sông Lô bao nhiêu năm vẫn thế
    Đầu đã bạc rồi mà lại thấy Thăng Long
    Những ngôi nhà đồ sộ ngày xưa nay đã thành đường cái quan.
    Dãi thành mới làm mất cung điện xưa
    Các mỹ nhân ngày trước giờ đã có con bồng
    Các bạn hào hiệp thuở xưa giờ đã thành ông
    Suốt đêm nghĩ ngơi, thao thức không ngủ
    Văng vẳng nghe tiếng sáo trong ánh trăng




    nguồn: thivien.net
Trả lời

Quay về “ký ức thương yêu”