Bóng dáng Đà Lạt trong thơ Nhất Tuấn

Trả lời
Ngoc Han
Bài viết: 1577
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Bóng dáng Đà Lạt trong thơ Nhất Tuấn

Bài viết bởi Ngoc Han »

  • Bóng dáng Đà Lạt trong thơ Nhất Tuấn
    _______________________________________________
    Ngô tằng Giao




    Hình ảnh
    Trên vai nhà thơ là hai hoa mai trắng: Trung Tá.
    Nhà thơ NHẤT TUẤN tên thật là PHẠM HẬU. Sinh trưởng tại Nam Định. Quê ngoại quê nội ở Ninh Bình. Di cư vào Nam năm 1954. Gia nhập trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, năm 1955, Khóa XII. Rồi từ 1966 từng làm Quản Đốc Đài Phát Thanh, Giám đốc Nha Nghiên Cứu Kế Hoạch Bộ Thông Tin, Giám Đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh và Tổng Giám Đốc VN Thông Tấn Xã v.v…

    Nhà thơ được biết đến nhiều qua những tập thơ “Truyện Chúng Mình” (xuất bản trong khoảng từ 1959-1964) và những tập truyện “Đời Lính” (xuất bản 1965). Trên 50 bài thơ trong “Truyện Chúng Mình” đã được phổ nhạc bởi nhiều nhạc sĩ trong khoảng từ 1959-2008.

    Từng sống ở Đà Lạt nên thành phố đầy sương mù và mưa bay này vẫn luôn mãi tiềm ẩn ở một góc nào đó trong trái tim nhà thơ. Có lẽ cũng vì thế mà trong những vần thơ “Truyện Chúng Mình” NHẤT TUẤN đã ghi lại một số những dòng hồi tưởng với hình ảnh Đà Lạt mà một phần đời của mình
    còn gửi lại nơi chốn ấy. Và có lẽ để tưởng vọng về Đà Lạt mà trong chuỗi ngày sống ly hương, khi mái tóc đổi màu, nhà thơ đã chọn một thành phố cũng đầy mưa rơi giữa miền đồi núi chập chùng với ngàn thông xanh hoài ngàn năm ở vùng trời tây bắc Hoa Kỳ để định cư, đó là Seattle (Washington State).

    Trong thơ NHẤT TUẤN, thoạt tiên tình yêu thấp thoáng trong bài “Truyện Chúng Mình”, chỉ gợi lên nỗi nhớ mong của người ở Đà Lạt vì bị xa cách với người ở Sài Gòn:
    • “Còn nhớ những thư người trước gửi
      Sàigòn - Đàlạt mới năm nào
      Từng chiều thứ bảy anh mong đợi
      Màu chữ xanh, yêu đến ngọt ngào
      Hồn có nguyên trinh màu trắng cũ
      Môi hồng vẫn thắm thuở ban đầu
      Không dưng lòng rộn niềm ao-ước
      Nhưng biết ai còn nhớ đến nhau.”

    Trong đời lính, khi phải rời xa Đà Lạt, từ nơi tiền đồn biên giới nhà thơ gửi lòng nhung nhớ về thành phố này nhân mùa Giáng sinh khi viết bài “Niềm Tin”, cũng đầy mong nhớ:
    • “Lại một Noël nữa
      Mấy mùa Giáng sinh rồi
      Anh ở đồn biên giới
      Thương về một khung trời.
      Chắc Đàlạt vui lắm
      Mimosa… nở vàng
      Anh đào khoe sắc thắm
      Hương ngào ngạt không gian
      Mấy mùa Giáng sinh trước
      Chỗ hẹn anh chờ hoài
      Lần này không về được
      Hồi hộp đợi tin ai.”

    Một ngôi giáo đường nhỏ bé của Đà Lạt cũng lưu lại kỷ niệm một mùa Giáng Sinh với hoa anh đào khoe sắc thắm trong lòng NHẤT TUẤN. Nhà thơ viết bài “Nhà Thờ Đường Cô Giang”:
    • “Thêm xuân nữa lại về
      Giữa một trời tuyết lạnh
      Nhiều đêm dài xa quê
      Tìm hoài trong ảo ảnh
      Những kỷ niệm thần tiên
      Bây giờ anh vẫn nhớ
      Nhà thờ đường Cô Giang
      Chúa nhật… mình đến đó
      Đàlạt vào Giáng Sinh
      Anh Đào reo mở hội
      Tan lễ em và anh
      Đường hoa về chung lối
      Họ thấy… em hôn anh
      Vội làm dấu Thánh Giá
      Mấy sơ và… sư huynh…
      Muốn là thiên thần cả!!
      Em hỏi:
      -Họ có yêu ?
      Anh đáp:
      -Khi khấn hứa
      Họ xin yêu rất nhiều
      Yêu hết con cái Chúa
      Anh cố giữ niềm tin
      Của tuổi trẻ mơ mộng
      Nơi quê hương ngàn trùng
      Xin em đừng tuyệt vọng
      Vì sẽ có một ngày…
      Giáo đường xưa… lại đến
      Quỳ dưới trời tuyết bay
      Thiết tha anh cầu nguyện.”

    Sau khi tình yêu nơi giáo đường xuất hiện, trong hồi tưởng nhà thơ chỉ mong “thấy” được người yêu nơi bài “Cầu nguyện” (chứ không mong “lấy” như bản nhạc đã đổi lời) với hai câu cuối thật buồn bã:
    • “Con quỳ lạy chúa trên trời
      Để cho con thấy được người con yêu
      Đời con đau khổ đã nhiều
      Kể từ thơ dại đủ điều đắng cay
      Số nghèo hai chục năm nay
      Xây bao nhiêu mộng trắng tay vẫn nghèo
      Mối tình đầu trót bọt bèo
      Vì người ta thích chạy theo bạc tiền
      Âm thầm trong mối tình điên
      Cầm bằng Chúa định nhân duyên bẽ bàng
      Bây giờ con đã gặp nàng
      Không giàu, không đẹp, không màng lợi danh.
      Chúng con hai mái đầu xanh
      Chấp tay khấn nguyện trung thành với nhau.
      Thề rằng sóng gió biển dâu,
      Đã yêu… trước cũng như sau… giữ lời
      Người ta lại bỏ con rồi,
      Con quỳ lạy Chúa trên trời thương con.”

    Giáng sinh thường là thời điểm kỳ diệu nhất trong suốt cả năm với tiếng chuông ngân nga trong đêm vắng, với ánh nến lung linh huyền ảo và thánh ca trầm bổng gợi lên những cảm xúc thanh thoát, êm đềm và thánh thiện. Bên giáo đường hoa mimosa Đà Lạt khoe sắc vàng tươi thắm, nhưng trong lòng nhà thơ lại chỉ nổi lên kỷ niệm buồn bã với bài “Mimosa Thôi Nở”:
    • “Noël xưa anh nhớ
      Khi hãy còn yêu nhau
      Nhà thờ nơi cuối phố
      Thấp thoáng sau ngàn dâu
      Anh chờ em đi lễ
      Chung dâng lời nguyện cầu
      Mimosa bừng nở
      Đẹp như tình ban đầu
      Đàlạt mờ trăng lạnh
      Đường về ta bước mau.
      Rồi anh hỏi khẽ em
      Đã xin gì với Chúa
      Trong đêm lễ Noël
      Em lắc đầu chả nhớ
      Nhưng hồng lên đôi má
      Nắm tay anh đợi chờ
      Trông em sao xinh quá
      Và ngoan như nàng thơ
      Mới bốn mùa thu qua
      Mimosa vẫn nở
      Sao mối tình đôi ta
      Ai làm cho dang dở
      Đêm nay Noël đây
      Chuông nhà thờ khắc khoải
      Gió đồi lang thang bay
      Mưa buồn giăng ngõ tối
      Anh quỳ bên tượng Chúa
      Cúi đầu chắp hai tay
      Lạy Chúa con chờ đợi
      Người ngày xưa về đây
      Nhưng em không về nữa
      Đường khuya mưa bay bay
      Mimosa thôi nở
      Trong hồn anh đêm nay.”


    Trong bài thơ “Truyện Cây Hoa Mimosa” (1964), lại cũng vẫn thoáng vẻ giận hờn, trách móc:
    • “Một đi vĩnh biệt cao nguyên
      Mimosa trả… cho miền núi non
      Làm gì có chuyện sắt son
      Thì thôi đừng dại mỏi mòn mắt trông”

    Đà Lạt là thành phố với núi đồi và rừng thông. Núi vươn cao cùng thông xanh reo suốt bốn mùa như cùng hát vang lên khúc tình ca gửi vào năm tháng mà nếu vắng bóng thời thành phố sẽ như một cơ thể mất linh hồn. Hình ảnh ngọn núi cao Lap Be Bắc (Lapbe Nord) và cảnh Đà Lạt về đêm đã được nhà thơ NHẤT TUẤN nhắc tới trong bài “Đêm Cuối Cùng Đàlạt”, cũng kể lại một chuyện tình dang dở:
    • “Rồi kỷ niệm về dần trong trí nhớ
      Đêm cuối cùng hai đứa đi ciné
      Những con đường Đàlạt lúc vào khuya
      Hoa lả tả rơi vàng đôi mái tóc
      Gió buốt từ "Lap Be Nord" xa tắp
      Anh vội vàng cởi áo khoác cho em
      Tiếng thở dài chen tiếng bước đi êm
      Mình yên lặng dìu nhau cho đến sáng.
      Và anh nhớ em hát bài Hoài Cảm
      Giọng ngân buồn, môi gọi cố nhân ơi
      Đêm hôm qua trong tiệc cưới đông người
      Lời hát cũ làm anh xao xuyến mãi.
      Ôi ngày xưa sao giờ không trở lại?
      Để em là riêng của một mình anh
      Để anh nghe hoài giọng hát thanh thanh
      Nhưng câu chuyện chúng mình không kết cuộc
      Vì hai đứa… tại vì… ai biết được?!
      Nên giờ này anh phải sống xa em
      Rồi tình cờ nghe giọng hát quen quen
      Bài Hoài Cảm, đêm cuối cùng Đàlạt!”
      Trước từng cùng “người xưa dịu hiền”
      kề vai nhau tình tự ngồi bên hồ Than Thở.
      Nay sao lại đã xa nhau, chỉ còn lại lời thở


    than tiếc nhớ dĩ vãng kỷ niệm trong “Bài Hát Đồi Sim”:
    • “Đàlạt đầy sương khói
      Một mình anh lặng yên
      Nghe hồn mình nức nở
      Nghe buồn len trong tim
      Nếu mình đừng gặp nhau
      Trên núi đồi Đàlạt
      Vì tình yêu ban đầu
      Đã tan theo sóng nhạc
      Người xưa… người xưa đâu?
      Để… lòng anh tan nát
      Đời bãi bể nương dâu
      Cũng buồn như tiếng hát.”

    Cũng vẫn hồ Than Thở Đà Lạt thuở nào là nơi đôi lứa vui chơi với hoa “bất tử” từng là sứ giả của tình yêu. Nhưng nay sao chỉ còn là một kỷ niệm buồn đến “tàn nhẫn” trong bài thơ “Cánh Immortel Cuối Cùng” (1964):
    • “Hôm xưa đi chơi hồ Than Thở
      Em ngắt bên đường một đóa hoa
      Rồi chạy đến anh cười hớn hở
      Đây hoa bất tử như tình ta
      Hoa ấy màu vàng chen sắc máu
      (Màu vàng tâm sự kẻ yêu nhau
      Là âu yếm với tình đôn hậu)
      Êm đẹp bao nhiêu giấc mộng đầu
      Quả thực cũng như tên bất tử
      Bông hoa nho nhỏ của người thơ
      Anh đem về để trong phòng ngủ
      Tươi mãi không tàn, có lạ chưa
      Từ dạo sân nhà em đỏ pháo
      Em cùng người ấy sống yên bình
      Đêm đêm úp mặt vào tay bảo
      Nào có ra chi... truyện chúng mình
      Trái với tên hoa là bất tử
      Hoa dần héo rũ sắc tàn phai
      Cánh rơi tan nát như tâm sự
      Như tiếng lòng anh khẽ thở dài
      Rồi đến chiều nay cánh cuối cùng
      Trời dâng lệ xuống khóc rưng-rưng
      Hoa ơi đừng giống tình ta nhé
      Ta vẫn cầu mong được thủy-chung
      Anh quên màu đỏ trong hoa đó
      Màu đỏ là màu của biệt-ly
      Và của bao nhiêu sầu hận tủi
      Giờ đây còn biết nói năng chi
      Cánh hoa bất tử rơi lần chót
      Tàn nhẫn như người rũ áo đi.”

    Mưa Đà Lạt giăng mắc trên thành phố cũng khiến cho nhà thơ ngậm ngùi nhớ lại biết bao hình ảnh cũ chất chồng, đầy ngang trái và nát tan. Trong cảnh Xuân về với cái Tết tha hương, NHẤT TUẤN viết bài “Mưa trong kỷ niệm”:
    • “Chiều mưa đó tưởng không còn gặp lại
      Lần cuối cùng hai đứa lặng nhìn nhau
      Có bao giờ em hiểu được anh đâu
      Tình ngang trái và những lời gian dối
      Trong tay nhau nhiều lần anh tự hỏi
      - Ái Khanh ơi ! Em còn nhớ chăng em
      Bình minh hồng... và những buổi chiều êm
      Truyện Chúng Mình... với bao nhiêu kỷ niệm
      Hoa không đợi mà tình cờ bướm đến
      Mình yêu như chưa từng có bao giờ
      Em về rồi anh ở lại bơ vơ
      Và bỗng thấy muốn giận hờn mãi mãi
      Chiều mưa đó tưởng không còn gặp lại
      Nào ngờ đâu trên thành phố Cao Nguyên
      Đang âm thầm đếm bước dưới trời đêm
      Anh bỗng thấy dáng người xưa thấp thoáng
      Mái tóc đó bồng bềnh che vầng trán
      Nét môi cười và cặp mắt nai tơ
      Anh tưởng mình như đang sống trong mơ
      Và thầm hỏi hay chỉ là hư ảnh
      Ai thoạt gặp đã vội vàng lẩn tránh
      Trong mưa bay anh thờ thẫn ra về
      Mimosa tràn ngập lối anh đi
      Hoa hay chính mình đang tan nát...?
      Tết tha hương... nhớ mùa xuân Đàlạt
      Lòng bâng khuâng nhớ người cũ năm nào
      Tình tưởng phai theo ngàn cánh anh đào
      Bỗng giây phút lại thắm hồng nỗi nhớ
      Tiếng mưa như giọng ai... hoài nức nở
      Lần cuối cùng... rồi mãi mãi...
      Và mãi mãi... chia xa...
      Cho hồn anh nổi bão táp phong ba
      Thương từng hạt mưa buồn trong kỷ niệm.”

    Một ngày nào đó khi hồi tưởng về thành phố cao nguyên với tình yêu đẹp đẽ tràn đầy mộng ước lúc mình còn là sinh viên võ bị, NHẤT TUẤN viết bài “Nhớ Về Đàlạt” (1964). Thời gian trôi qua. Cảnh vẫn còn đó. Người xưa đã cách xa. Để rồi lại cũng vẫn đầy hình ảnh của buồn bã, của dang dở chia ly vào giai đoạn cuối của khúc nhạc tình:
    • “Nhớ tám năm về trước
      Khi còn là sinh viên
      Học trong trường Võ bị
      Nơi núi rừng cao nguyên
      Dạo ấy em mười tám
      Xinh đẹp hơn tiên nga
      Tóc mây bồng vương trán
      Môi cười tươi như hoa
      Còn nhớ không ngày xưa
      Đàlạt buồn trăng mờ
      Gió vàng trên nước biếc
      Chim chiều bay bơ vơ
      Chúng mình sát vai nhau
      Tay đan tay chậm bước
      Cùng đếm từng vì sao
      Rồi xây bao mộng-ước
      Rừng ái ân vẫn đó
      Hồ Than thở còn đây
      Thông im buồn đợi gió
      Mây đồi xa còn bay
      Cũng vẫn một khung trời
      Còn nguyên hình ảnh cũ
      Em bây giờ xa rồi
      Tìm đâu người viễn xứ
      Tình nào không dang dở
      Màu nào mà không phai
      Cho nên anh không nỡ
      Làm thơ để trách ai
      Riêng chiều nay nhớ lại
      Truyện chúng mình ngày xưa
      Nhìn khung trời Đàlạt
      Mà tưởng mình đang mơ.”

    Trong cuộc sống tại ngước ngoài, với tiêu đề “Truyện chúng mình hải ngoại” NHẤT TUẤN viết: “Thôi trang đời đã khép”:
    • “Và những chiều Đà Lạt
      Một mình trên đồi thông
      Mưa nhạt nhoà trong mắt
      Gửi sầu... vào mênh mông”

    Bài “Ảo ảnh”:
    • “Xin giữ mãi kỷ niệm buồn Đà Lạt
      Giữa đồi thông rừng cỏ non xanh ngắt
      Nhớ điên cuồng trong một phút bâng khuâng”

    Bài “Lại một xuân buồn” (1985):
    • “Nhớ Bích Câu Đà lạt thoáng mưa bay
      Hồ Than Thở cùng lòng ai hòa nhịp
      Rừng Ái Ân với ngàn thông xanh biếc
      Thác Gougah, cây gọi gió than van
      Đồi 15 đâu đó cụm mai vàng
      Giáng Sinh tới Anh đào khoe sắc thắm
      Mimosa sương long lanh đọng nắng
      Chiều Lâm Viên, bản Thượng khói dâng cao
      Những kỷ niệm xưa thân ái biết bao…
      Ghi lại thuở bên nhau nơi Trường Mẹ!”




    Mới chỉ trích dẫn một số ít vần thơ trong “Truyện Chúng Mình” của NHẤT TUẤN người đọc đã thấy bóng dáng thành phố sương mù Đà Lạt chập chờn ẩn hiện. Bóng dáng Đà Lạt một trời thương nhớ quả thật rất thích hợp để được chọn làm bối cảnh cho những truyện tình. Tình yêu nam nữ đã có từ vạn kiếp và luôn là một đề tài bất diệt trong vườn hoa văn học nghệ thuật của bất cứ quốc gia nào. Riêng trong lãnh vực thi ca thì từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, tình yêu luôn gợi hứng cho các nhà thơ. Hình như tình yêu không có tuổi tác, chừng nào trái tim con người còn đập thì con người còn yêu. Hơn nữa một số văn sĩ, thi sĩ đã từng nói rằng: “Thơ trữ tình có thể coi như tổng hợp, như tuyệt đỉnh của thơ, mà chính thơ là tuyệt đỉnh của tiếng nói loài người!” Họ còn mạnh miệng nói thêm nữa: “Thi ca sẽ là tôn giáo cuối cùng trên mặt địa cầu này khi mà tất cả nhân loại không còn giữ lại được cho họ một niềm tin nào ở nơi tôn giáo mà chúng ta đang có”.

    Thật ra nhà thơ không phải là kẻ vì phạm tội mà bị “phát vãng” từ thiên cung xuống dưới trần như có người thường nói. Nhà thơ cũng chỉ là một con người bình thường và đối tượng của thơ, chất liệu tạo ra thơ chính là cuộc sống trên cõi nhân gian mà thôi. Cũng vẫn có yêu có ghét, có vui có buồn, có quên có nhớ, có xum họp và có chia ly… Có lẽ phải quan niệm rằng:
    • “Thơ là một lối sống, một lối nhận thức, một lối dùng ngôn ngữ, âm điệu để diễn tả tâm tư tình cảm riêng. Cái nền của thơ là cảm xúc, một cảm xúc thành thật. Thơ không phải là một cách độc thoại mà phải là một cách truyền đạt kinh nghiệm cho tha nhân. Thơ cần có sự thông cảm và thưởng thức của người đọc.”


    Người yêu thơ có lẽ phải nhận ra rằng NHẤT TUẤN, với những vần thơ lai láng trữ tình trong “Truyện Chúng Mình” không phải chỉ là truyện riêng tư “thì thầm bên gối” giữa hai người nữa mà đã hóa thành “truyện chúng mình” của bao nhiêu là đôi tình nhân thanh niên nam nữ khác. Nhà thơ đã viết xuống hộ những trang nhật ký về tình yêu của những người trẻ tuổi. Khi thì đằm thắm thiết tha. Nhiều lúc lại dang dở não sầu, phải cần đến thời gian như là một loại linh dược để dần dần hàn gắn các vết thương lòng trong quá khứ. Có thể coi đây là tâm sự chung của một thế hệ thanh niên thời đó, đồng một lứa tuổi với tác giả.

    Nhưng có một điều quan trọng cần phải nói thêm là sau những tháng ngày quằn quại với “Truyện Chúng Mình”, NHẤT TUẤN đã vươn khỏi những hình ảnh buồn chán thương đau, những nhớ nhung rất thế nhân thường tình của thời trai trẻ đó. Nhà thơ đã chuyển hướng về một chân trời thi
    ca với tầm cao của những hình ảnh đẹp đẽ hơn như những lời tâm sự chân thành của nhà thơ NHẤT TUẤN mấy chục năm sau khi viết những “Truyện Chúng Mình”:
    • “Ngày còn là cậu học trò Trung Học
      Trong tình yêu bé nhỏ, cá nhân
      Tôi đã từng than thở biết bao lần
      Và làm thơ
      Trách những ngườì mau phụ bạc...
      ...
      Giờ đây, theo đời sống quân đội lớn lên
      Sau những tháng năm tranh đấu
      Tôi bỗng thấy rằng
      Mình chỉ toàn là thương hờ nhớ hão
      Tôi bỗng thấy rằng
      Còn rất nhiều tâm sự khác để làm thơ...”


    Hình ảnh




    Ngô Tằng Giao - (VIRGINIA, Mùa Thu Vàng 2010)
    nguồn: cothommagazine.com
Trả lời

Quay về “ký ức thương yêu”