Dịch Kinh Đại Toàn

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
          
Dịch Kinh Đại Toàn
易經大全

____________

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
& Huyền Linh Yến Lê







          


____________________

  1. Tập I - Dịch Kinh Yếu Chỉ
    - Hướng đi của Thánh Nhân

  2. Tập II - Thượng kinh
    - Đạo người Quân Tử - Cách giải quyết những khó khăn trong đời sống áp dụng vào thời đại
  3. Tập III - Hạ kinh
    - Đạo người Quân Tử - Cách giải quyết những khó khăn trong đời sống áp dụng vào thời đại
  4. Hệ Từ Thượng
  5. Hệ Từ Hạ
  6. Thuyết Quái
  7. Tự Quái
  8. Tạp Quái
  9. Phụ Lục

          



          
Last edited by Hoàng Vân on Thứ sáu 02/09/16 20:43, edited 9 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
          
Dịch Kinh Yếu Chỉ
易經要旨

____________

Hướng đi của Thánh nhân
____________

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
& Huyền Linh Yến Lê







          
DỊCH KINH ĐẠI TOÀN
  • DỊCH KINH YẾU CHỈ
    • Lời nói đầu





  • Lời nói đầu
    ______________________





    Có nhiều bè bạn thấy chúng tôi cho xuất bản bộ Dịch Kinh Đại Toàn, khoảng 1500 trang, hỏi chúng tôi tại sao trên thị trường đã có nhiều bộ Kinh Dịch, còn ra thêm, và như vậy nó có những đặc điểm gì?

    Tôi thấy đó là một câu hỏi hữu lý, nên tôi sẽ trình bầy cùng quí vị tại sao tôi viết bộ Dịch Kinh Đại Toàn này.

    Tôi bắt đầu soạn thảo bộ Dịch Kinh này vào khoảng năm 1966. Tôi định bỏ ra 15 năm để hoàn tất nó, nhưng may thay sau hơn 7 năm miệt mài nghiên cứu, thì đã hoàn thành được. Khi ấy, tôi đi mua, hoặc đi mượn tất cả những sách Dịch bằng Hán Văn, Anh văn, Pháp văn và Việt văn hiện có lúc bấy giờ. Đọc qua những tác phẩm của cụ Từ Thanh, Phan Bội Châu, Nguyễn Mạnh Bảo, Ngô Tất Tố, Nguyễn Duy Tinh, v.v... tôi thấy lời văn thật là khó hiểu.

    • Về Hán Văn, tôi may mắn có bộ Tuân Bổ Ngự Án Dịch Kinh Đại Toàn, xuất bản ngày 18 tháng 3 năm Khang Hi 54 tức 1715, do các vị khoa bảng xưa cho tôi. Quyển này mỗi quẻ đều có lời bình của Trình Tử, Chu Hi, Khang Hi và chư tử chứ không phải là tư tưởng của riêng ai.

      Về Anh văn, tôi có những bộ như của James Legge, Wilhelm / Baynes, R. G. H Siu, v.v... Tôi thấy những bộ trên không có gì đặc sắc.

      Về La Ngữ, tôi có đọc bộ của P. Regis, Yiking, antiquissimus Sinarum liber.

      Về Pháp văn, tôi có De Harlez, Le Yiking, texte primitif rétabli, trad. et commentaires.
      Philastre, P. L. F. Le Yiking ou Livre de Changements de la dynastie des Tscheou traduit pour la première fois du Chinois en Francais.

      Tôi cũng đã đọc Bộ Dịch của cụ Nguyễn Hiến Lê, xuất bản gần đây ở hải ngoại. Sách trình bầy sáng sủa. Tiếc rằng cụ đã bỏ đi Thập Dực, và như cụ nói, Cụ đã hoàn thành bộ sách này trong vòng có 2 năm, và chỉ soạn lại bộ Dịch của cụ Phan bội Châu mà thôi.


    Tất cả đều không có gì làm tôi phải say sưa, bái phục. Gần đây, có vô số sách Dịch bằng Anh văn, nhưng toàn thiên về bói toán. Theo tôi, Kinh Dịch không phải sách bói toán, vì Phục Hi, Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử, Trình Tử, Chu Hi không hề bói toán. Tôi không bói toán. Trong Hệ Từ Thượng chỉ bàn qua về phép bói Dịch bằng cỏ Thi, và trong Ngũ Hành bàn qua về luật Tương sinh, Tương khắc, để quí vị nào thích bói toán, địa lý nghiên cứu thêm, chứ không biết gì về cách bói gieo tiền theo Dã Hạc, và Bốc Dịch chính tông, hay cách bói Mai Hoa Dịch số của Thiệu Khang Tiết. Nhiều người đi vào Dịch, cũng là muốn học bói toán. Họ có biết đâu rằng bói toán là một năng khiếu do Trời ban. Muốn bói hay, phải có giác quan thứ sáu, (quí vị nào thích nghiên cứu về bói toán, thì xin đọc phần Ngũ Hành, nơi quyển I, và nơi quyển III Hệ từ Thượng Chương 9).

    Nay, bên Trung Quốc cho in ra nhiều sách Dịch, như bộ Chu Dịch Đại Tự Điển, dày 1546 trang, hay bộ Bạch Thư Chu Dịch, một bộ Dịch đã được khai quật lên từ một ngôi mộ nhà Hán, ở Mã Vương Đôi, Trường Sa, tháng 12, năm 1973. Bộ này viết trên lụa trắng, vì thế gọi là Bạch Thư, và đã được Trương Lập Văn nghiên cứu và dịch ra Bạch thoại.
    Có người khuyên tôi mua, nhưng tôi không bao giờ đi vào con đường Sách uẩn, Hành quái, không bao giờ đi vào con đường quái dị để cầu danh, nên tôi đã không mua.

    Tôi quen nhiều vị khoa bảng, và ngỏ ý xin thụ giáo các Cụ về Dịch Lý. Nhưng cụ nào cũng nói không biết gì về Dịch Lý, vì không học Dịch khi đi thi, và các Cụ đề nghị vào tủ sách các Cụ thấy cái gì hay thì cụ biếu, chứ đừng hỏi về Dịch.
    • Cụ Phó Bảng Nguyễn Hà Hoàng (Điện Bàn - Quảng Nam), cho tôi một phần bộ Tuân bổ Ngự Án.
      Cụ cử Lương Trọng Hối (Quế Sơn - Quảng Nam) cho tôi bộ Kinh Dịch của Lai Trí Đức.


    Nên, tôi đi vào Kinh Dịch, qua Đạo Nho, bằng đường lối riêng tư của tôi, như tôi sẽ trình bầy sau đây.
    Tôi vào đạo Khổng từ năm 1956, qua sách vở hiện có, chứ không hề nhờ cậy vào ai. Và tôi đã học nơi Khổng Giáo nhiều điều hay ho, mới lạ. Đặc biệt là biết được con người vừa có Thiên Tâm, vừa có Nhân Tâm. Thiên Tâm thời muôn đời công chính, quang minh, chính đại, thuần túy, chí thiện. Còn Nhân Tâm thời đầy tư tà, nhân dục.
    Thiên Tâm đó khốn thay, lại ẩn ước nên ít người thấy được. Thiên Tâm là Thiên Lý, Nhân Tâm là Nhân Dục, nên xưa mới nói Nhân dục thắng, Thiên Lý vong hay Nhân dục tận, tắc Thiên Lý hiện, v.v... Thiên Tâm giúp ta trở thành Thần thánh, Nhân tâm giúp ta trở thành con người thực sự. Thành thử tôi mới dịch được câu Kinh Thư, mà xưa nay chưa ai dịch cho đúng ý nghĩa của nó. Đó là:

    Nhân tâm duy nguy
    人 心 惟 危
    Đạo tâm duy vi
    道 心 惟 微
    Duy tinh duy nhất
    惟 精 惟 一
    Doãn chấp quyết trung
    允 執 厥 中

    Dịch:
    Lòng của Trời siêu vi, huyền ảo,
    Lòng con người điên đảo, ngả nghiêng.
    Tinh ròng chuyên nhất ngày đêm,
    Ra công, ra sức giữ nguyên lòng Trời.


    Tôi thấy Khổng Giáo cho rằng con người có 3 thứ Đạo.
    • Thiên đạo dạy con người làm thần minh,
    • Nhân đạo dạy con người làm Hiền nhân quân tử,
    • Vật đạo dạy con người kiếm ăn sinh sống.

    Sở dĩ có 3 thứ đạo, vì con người có 3 phần:
    • Thần để làm Thần.
      Sau này, Thần còn được gọi là Đạo Tâm, Thiên Tâm, hay nói theo Phật gia, là Chân Tâm, hay Đại Ngã.
      Thần liên lạc với ngoại giới bằng Tuệ giác (Intuition), bằng Huệ hay bằng Đại trí.
    • Hồn để làm người.
      Hồn đầy thất tình, lục dục, nên cần phải kìm hãm, phải tu sửa. Hồn con người chính là Tiểu Ngã.
      Nó liên lạc với ngoại giới bằng Trí (Intelligence) hay Tiểu trí.
    • Xác để làm ăn, sinh sống.
      Xác liên lạc với ngoại giới bằng ngũ quan (les cinq sens).


    Hồn và Xác trước sau sẽ biến thiên, tiêu diệt, vì chúng nằm trong vòng Sinh, Lão, Bệnh, Tử.
    Chỉ có Thần là bất biến, bất tử, bất sinh, vì Thần mình và Thần Trời đất là một.

    Tôi thấy Đức Khổng, khuyên con là Bá Ngư nên đọc Kinh Thi, nên tôi đã cùng một cự nho mà tôi quen ở Đà Nẵng, dịch toàn bộ Kinh Thi, xem trong đó ẩn dấu điều gì bí mật. Sau khi dịch xong Quốc Phong, sang tới Đại Nhã, tôi mới khám phá ra được một chuyện mà xưa nay không ai biết. Đó là Chân Đạo Nội Tâm, hay Đạo Thần Linh mà ta có thể tìm ra trong lòng ta. Ngày nay, người ta gọi là Đạo Huyền đồng (Mysticism), hay Phối Thiên, hay Thiên Nhân tương dữ, Thiên Nhân nhất quán. Xưa, Nghiêu, Thuấn, Thành Thang, Văn Vương, Võ Vương v.v... đã đi được vào đạo cao siêu này.

    Chân Đạo Nội Tâm dạy rằng: Trời chẳng xa người, và Hiền Thánh là những người đã sống phối kết với Trời ngay từ khi còn ở trần gian này. Từ khi biết được điều này, tôi mới tìm xem trong hoàn võ này, có những ai biết được cái đạo cao siêu này, vì thế tôi đã tìm đọc các kỳ thư, bí điển của mọi đạo giáo lớn, nhỏ trên Thế Giới, và mới tìm ra được lẽ Nhất Quán, Thù Đồ Đồng Qui của các đạo giáo, nhất là thấy được rằng Tam Giáo, Nho, Thích, Lão là đồng nguyên. Từ đó, tôi không còn đóng khung vào 1 đạo giáo nào cố định, và đã đi vào khoa tôn giáo đối chiếu, tìm hiểu và so sánh mọi đạo giáo. Sau đó, tôi lại nhận thấy rằng Trời ở trong tâm khảm mình, Chân, Thiện, Mỹ là ở trong mình. Nên biến thiên, tiến hóa, hay Hằng Cửu cũng nằm gọn trong mình. Đi tìm tòi nơi xa vời, nghe tuyên truyền, dụ dỗ, nhất nhất đều là mê vọng.

    Nói thế, có nghĩa là Kinh Dịch đã tiềm ẩn trong lòng mình, vì Thái Cực là chốt Dịch, đã nằm sẵn trong mình, và mọi sự biến thiên, tiến hóa của Kinh Dịch cũng đều do nơi ta. Xưa nay thiên hạ có gì hay, có gì tốt, đều do Thái Cực trong ta đã xui nên. Trong ta có 2 phần: Thiên bẩm (inné), và Thủ đắc (Acquis).

    Cho nên, khi tôi viết Kinh Dịch, đã đi từ lòng sâu con người là Vô Cực, Thái Cực, đi dần ra Hà Đồ, Lạc Thư, Âm Dương, Tứ Tượng, Ngũ Hành, Tượng, Từ, Hào, Quải, Vạn Hữu, Vạn Tượng, và các hoàn cảnh dở hay mà con người có thể gặp. Thế là đi từ Tĩnh lãng nội tâm ra tới ồn ào ngoại cảnh. Muốn cho Kinh Dịch trở nên cao siêu, trang trọng tôi đã dịch Kinh Dịch hoàn toàn bằng thơ, mong rằng:

    Lời lời ngọc nhả, châu phun,
    Lưu cho hậu thế muôn vàn dài lâu.




    Lời thơ ta rút đáy lòng muôn thuở,
    Cho giáng trần,cho khoác áo văn chương.


    Tôi đã muốn:

    Rẽ sóng thời gian tìm nghĩa lý,
    Khơi lòng Trời đất lấy tinh hoa...


    Như vậy, học Dịch là để biết các lớp lang biến hóa, chuyển dịch của vũ trụ và của lòng mình; nhân đó sẽ suy ra được chiều hướng tiến, thoái, và sẽ trở về được với Bản Thể duy nhất, tiềm ẩn nơi đáy lòng mình.

    Khi viết bộ Dịch này, tôi đã khám phá ra được nhiều điều mới mẻ:

    • 1). Dịch
      • trình bầy học thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể,
      • với các hệ luận của nó, như Nhất thể tán vạn thù, vạn thù qui nhất thể hay Đồng qui nhi thù đồ.
      Hiện nay nhân loại còn tưởng rằng muôn loài có muôn bản thể khác nhau. Tuy nhiên, Khoa Học đã giúp ta thay đổi tầm nhìn, lối nghĩ dần dần.
                
    • 2). Và tôi nhìn thấy
      • Thái Cực trong mọi người chúng ta.
      • Đó là Lương tâm, là Thiên Nhãn trong ta.
      Lương tâm trong ta, thời muôn đời bất biến. Còn Nhân tâm trong ta thời luôn luôn biến thiên. Chúng ta dần dần phải trút bỏ cái gì Biến Thiên để đi vào Bất Biến, tức là bỏ Tiểu Ngã để trở về Đại Ngã.
                
    • 3). Dịch có Tiên Thiên & Hậu Thiên.
      • Tiên Thiên là cái gì Hoàn Thiện, Lý tưởng.
        Hậu Thiên là cái gì bất toàn, là thực tại, là những gì ta trông thấy, nhìn thấy trong cuộc đời chúng ta.
      • Phục Hi vẽ ra 8 quẻ và 64 quẻ Tiên Thiên.
        Văn vương vẽ và viết ra 8, và 64 quẻ Hậu Thiên.
      • Hà đồ là Tiên Thiên,
        Lạc thư là Hậu Thiên.

      Dịch có mục đích khuyên ta đi từ Hậu Thiên trở về Tiên Thiên.
                
    • 4). Phục Hi vẽ 8 và 64 quẻ Tiên Thiên, cho thấy rằng Dịch
      • chỉ có Âm và Dương.
      • Âm phải đi trước, Dương phải đi sau, mới trọn đạo Trời.

      Đi được hết con đường ấy, là hoàn thành được Thiên Tính của mình.
                
    • 5). Nghiên cứu sâu xa hơn, tôi thấy
      • 64 quẻ Tiên Thiên chia làm 2 nửa rõ rệt:
      • Nửa phải là 32 quẻ Âm,
        từ quẻ 1 Âm đến quẻ 6 Âm: 1 Âm là Cấu, 2 Âm là Độn, 3 Âm là Bĩ, 4 Âm là Quan, 5 Âm là Bác, 6 Âm là Khôn.
      • Còn nửa trái, cũng có 32 quẻ Dương,
        từ quẻ 1 Dương, đến quẻ 6 Dương : quẻ 1 Dương là Phục, 2 Dương là Lâm, 3 Dương là Thái, 4 Dương là Đại Tráng, 5 Dương là Quải, 6 Dương là Kiền.

      Nửa Âm là nửa đời đầu con người (50 năm đầu của cuộc đời ), khi ấy con người phải dấn thân vào cuộc đời, phải đua tranh với đời, phải xây dựng giang sơn, tổ quốc.
      Nửa Dương là nửa đời sau con người (50 năm sau của con người), khi tóc đã hoa dâm, khi ấy con người phải biết quẳng gánh lo, quay về lo tu tỉnh nội tâm, mong sao có thể trở thành Thánh Hiền, Tiên, Phật.

      Thiệu Khang Tiết cho rằng: Con người phải đi nửa chiều Âm trước, cốt là đi vào vật chất, khám phá và tìm hiểu vật chất, và phải đi nửa chiều Dương sau, để tìm hiểu căn cốt về tâm hồn mình. Có như vậy, cuộc đời mới thực đẹp đẽ.
      Có điều lạ là
      • 32 quẻ Âm đều nằm về hướng Tây,
        còn 32 quẻ Dương laị nằm về hướng Đông,

      y như Dịch muốn nói rằng Văn minh vật chất phải nhường cho Âu Mỹ lãnh đạo, còn Văn minh tinh thần phải nhường cho Á Châu chỉ huy.
                
    • 6).
      • Vòng Dịch Tiên Thiên (8 và 64 quẻ) xếp theo nhẽ
        • Âm trưởng, Dương tiêu ở nửa bên phải (hình con cá đen)
          Dương trưởng, Âm tiêu ở nửa bên trái (hình con cá trắng).
      • Còn Dịch Hậu Thiên của Văn vương thì xếp theo cách lộn lạo, đảo điên.
        Ý nói, trên đời vấn đề gì cũng có xuôi, có ngược, cần nghiên cứu mọi mặt cho thấu đáo, như vậy mới tránh được lỗi lầm, tránh được rủi, gặp được may.

                
    • 7). Tôi đã sửa một lỗi của Dịch.
      Dịch xếp Tứ Tượng như sau: Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm, Thái Dương. Tôi thấy không ổn. Vì con trai nhỏ (Thiếu Dương), lớn lên không thành được con gái lớn (Thái Âm), và con gái nhỏ (Thiếu Âm ) không thể thành con trai lớn (Thái Dương). Nên cái mà Dịch gọi là Thiếu Dương, tôi gọi là Thiếu Âm, cái mà Dịch gọi là Thiếu Âm tôi gọi là Thiếu Dương, và ta sẽ có: Thiếu Âm, Thái Âm, Thiếu Dương, Thái Dương; đúng với lẽ Âm trưởng, Dương tiêu và Dương trưởng, Âm tiêu của Trời đất.
                
    • 8). Tôi đã tìm ra được
      • Dịch biến thiên và xoay quanh 1 Tâm điểm.
      • Tâm điểm ấy chính là Thái Cực, và được tượng trưng bằng con số như 5, 10, 15.
      • Ở nơi con người thì Tâm điểm ấy là Thiên Tâm, Chân Tâm, Cốc Thần, Thái Cực, Lương tâm con người, ở ngay giữa đầu não con người, nơi mà ta gọi là Nê Hoàn Cung, Huyền Quan Nhất Khiếu hay Huyền Tẫn Chi Môn.
      • Tâm điểm thời bất biến, Vạn Tượng bên ngoài thời biến thiên.

      Con người phải tiến từ Vạn Tượng về với Thái Cực. Khi vào tới Thái Cực thì Nho Gia gọi là đạt đạo Trung Dung, Phật gia gọi là đạt tới Kim Cương, Viên Giác, Lão gia gọi là đã luyện xong Kim Đơn. Á Châu còn gọi chung là Qui Nguyên, Phản Bản.
                
    • 9). Tôi càng ngày càng thấy Dịch dạy ta phải luôn luôn tiến hóa.
      Tiến hóa chính là biến Dịch. Vì thế Trình Tử mới nói: Tùy thời biến Dịch, dĩ tòng Đạo.

      Mà tiến hóa là gì?
      Là đi từ thô thiển tới tinh vi, từ Phàm phu tới Sĩ phu, Quân tử, Hiền Thánh.

      Chúng ta nên phân biệt Tiến Hóa (évolution) với Thích ứng ngoại cảnh (adaptation).
      Trong Kinh Dịch, ta thường thấy nhắc đến Quân tử và Tiểu nhân.
      • Quân tử có thể là những người biết tiến hóa,
      • Tiểu nhân là những người chỉ biết thích ứng với hoàn cảnh.

      Đạo Lão cho rằng
      • Quân tử là những người tuân theo được những khuôn mẫu truyền thống; Hiền nhân là những người thoát ra được vòng cương tỏa của cuộc đời;
      • còn Tiểu nhân là những người sống theo thất tình, lục dục, chỉ biết lo sống và hưởng thụ. Họ tiến lên nấc thang xã hội bằng sức mạnh, bằng mưu mô, bằng bất công và bạo lực, chỉ biết nghĩ đến mình mà quên người.

                
    • 10). Xưa nay, các nhà bình giải Kinh Dịch, chưa ai phân biệt quẻ Kép khác quẻ Đơn cái gì?
      Tôi nhận định như sau:
      • Quẻ Đơn tượng trưng cho Vạn Hữu,
      • quẻ Kép tượng trưng cho Mọi hoàn cảnh mà vạn hữu và nhân quần gây nên trong khi giao tiếp với nhau.

      Thượng Kinh & Hạ Kinh viết lại 64 quẻ, tức là đưa ra 64 hoàn cảnh tượng trưng, để dạy cho con người phương pháp sử xự cho khéo léo, tùy theo mỗi hoàn cảnh mình gặp.
                
    • 11). Ngoài ra, tôi còn dùng Tâm Điểm và 6 vòng tròn đồng tâm để giải Dịch:
      • Tâm điểm là Thái Cực,
      • 6 vòng tròn đồng tâm bên ngoài là 64 quẻ Dịch,
      • mỗi Hào nằm trên một vòng tròn.
        Nay nếu ta đem xoay chuyển, vận động các vòng tròn đồng tâm nói trên, thì Tâm điểm sẽ đứng yên một chỗ, còn các vòng tròn bên ngoài sẽ xoay chuyển và chịu định luật thăng giáng, biến thiên.

      Ngoài ra chúng còn chịu định luật ly tâm và hướng tâm. Nếu vậy, muôn vật trong vũ trụ, tức là những gì đã có hình tướng, đều sẽ phải chịu những định luật biến thiên, thăng trầm, ly tâm (Force centrifuge), hướng tâm vậy(Force centripète). Ly tâm là Tán, là hướng ngoại (Extroversion); Hướng tâm là Tụ, là hướng nội (Introversion).
                
    • 12). Sau cùng, tôi suy thêm
      • nếu Dịch là Biến, nếu Dịch là một khoa Triết Học, chuyên khảo về Bản Thể bất biến và các Hiện Tượng biến thiên,
      • thì Dịch phải được coi là một Khoa học phổ quát,
      • và muốn khảo Dịch cho có kết quả,
      • không nên gò bó mình vào những lời bình giải của Nho Gia, mà còn phải:
        • * Khảo các Đạo giáo
          * Các Triết gia Âu, Á.
          * Các phát minh khoa học.
          * Các Học thuyết Triết Học, Khoa Học cổ kim nữa.

      Từ thế kỷ 17, Leibniz nhà toán học Đức (1616 - 1716) cũng đã dày công nghiên cứu Dịch, vẽ lại 64 quẻ Dịch theo công thức của khoa Nhị nguyên toán pháp (Arithmetique binaire ou arithmetique dyadique)

      Sang tới thế kỷ 19, tinh thần Kinh Dịch đã thâm nhập sâu xa vào Triết Học, Khoa Học Âu Châu, với thuyết tiến hóa của Lamarck, Darwin, với biện chứng pháp (tức Dịch Lý) của Hégel, và Marx, với thuyết tương đối của Einstein cũng như những quan điểm mới mẻ nhất về tương quan giữa năng lực và vật chất của những nhà Bác Học Âu Mỹ, với quan niệm của Werner Heisenberg: dưới mọi hình thái biến thiên của vũ trụ chỉ có một bản thể duy nhất.
      • * Năm 1950, hai nhà bác học Francis Crick và James Watson đã tìm ra được cơ cấu DNA cho muôn loài muôn vật.
                  
      • * Năm 1963, người ta tìm ra được mật mã di truyền học (Genetic code).
        Năm 1961, khi làm quyển Trung Dung, nơi trang 267, tôi đã chứng minh rằng 64 mã số (codons) trong khoa di truyền hoàn toàn giống thứ tự 64 quẻ Dịch Phục Hi. Nhưng tôi chưa hề công bố, nên cũng như không.
        Năm 1974, ông Harley Bialy tuyên bố cơ cấu DNA hoàn toàn giống 64 quẻ Dịch.
        Ngày nay, nhiều nhà Bác Học cũng đồng ý như vậy.
                  
      • * Ông Gunther Stent trong quyển The Coming of the Golden Age (1969), ông Martin Schonberger trong quyển The I Ching and the Genetic Code (1979), Ông Johnson F. Yan (Nghiêm Tôn Hiến) trong quyển DNA and the I Ching (1991) v.v... đang triệt để khai thác các vấn đề trên.
                  
      • * Chúng ta cũng ta cũng nên biết rằng, năm 1957 hai nhà Bác Học trẻ tuổi người Trung Hoa, Yáng Zhèn Níng (Dương Chấn Ninh),và Li Zhèng Dào (Lý Chính Đạo), đã tuyên bố nhờ đọc Kinh Dịch mà đã phát minh và chứng nghiệm rằng trong thế giới điện tử, phía phải và phía trái không có cùng đặc tính như nhau. Công trình này đã được giải thưởng Nobel (1957) về vật lý và đã làm chấn động giới khoa học chẳng kém gì thuyết tương đối của Einstein.

      Mong rằng các nhà bác học tương lai sẽ còn có nhiều người đi vào con đường này.


    Tôi sẽ in bộ sách này thành 3 Tập:

    • - Tập đầu,
      khoảng 500 trang, bàn về Dịch Lý, Vô Cực, Thái Cực, Hà Đồ, Lạc Thư, Âm Dương, Tứ Tượng, Ngũ Hành.

      Tập đầu bàn về Thiên đạo, về Cốt Dịch
      (quí vị nào muốn khảo cứu, Học Dịch để muốn tìm ra cái gì mới, nên đọc kỹ quyển này).
      Từ xưa nay, các Học giả chưa ai chịu bàn về các vấn đề trên cho tường tận, và đi vào Dịch là đi ngay vào quẻ, vào Hào, như vậy Dịch sẽ mất đi phần Thái Cực, mà chỉ bắt đầu bằng phần Âm Dương, y như là con rồng mất đầu, chỉ biết có Âm Dương biến thiên, mà không biết có Hằng Cửu là Thái Cực. Tập đầu dạy cách làm Thánh Hiền, và cho ta nhiều kiến thức, nếu ta muốn tiến thêm.
                
    • - Tập 2
      là Thượng Kinh (khoảng gần 400 trang)
      nơi đầu có phần Dịch Kinh giản lược, giảng sơ để người coi sau này khi vào các quẻ sẽ hiểu dễ dàng hơn,
      sau đó là giải 30 quẻ Dịch đầu tiên.
                
    • - Tập 3
      là Hạ Kinh (khoảng trên 600 trang, gồm Hạ Kinh, Hệ Từ, Thuyết Quái, Tự Quái, Tạp Quái.).

    Hai quyển sau bàn về Đạo quân tử, đạo làm người và dạy giải quyết mọi hoàn cảnh khó khăn xảy ra trong cuộc đời.

    Trong khi soạn thảo bộ Dịch này, tôi đã dùng nó để dạy ở nhiều nơi như: Đại Học Minh Đức, cho một số sinh viên Văn Khoa, Thông Thiên và Cao Đài tại trường Nhân Vị, Cơ Quan Phổ thông giáo lý Cao Đài, và chùa Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Mỗi khóa giảng chừng 4 năm. Học viên có người 80, 90 tuổi, có người chưa tới 30 tuổi.

    Bộ Dịch này, tôi đã viết xong vào khoảng năm 1973. Hồi đó đã nhiều cơ quan muốn xuất bản nó như Khai Trí, Cao Đài, Đại Học Minh Đức, nhưng lúc đó đất nước chưa biết ra sao, nên tôi đành chờ.

    Đến kỳ lễ Sinh Nhật năm 1995, nhà tôi sau khi đọc ít quẻ, thấy nó rất có ích cho thế hệ sau, nên nhà tôi quyết tâm cho xuất bản bộ này. Mới đầu thuê người đánh máy, nhưng sau muốn cho hoàn hảo chu toàn hơn, hơn nữa lại muốn phổ biến trong giới Sinh viên, với ước mong các em sẽ tìm được cái gì mới mẻ để phát minh, ngõ hầu mang lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc sau này, nên nhà tôi đã tự học đánh computer, tự đánh lấy, và soạn phần ÁP DỤNG VÀO THỜI ĐẠI, để các em thấy Học Dịch là nên áp dụng vào đời sống, vào mọi sự, một cách biến hóa, và để nhắc nhở các em rằng Dịch có từ thời Thượng Cổ, mà cho tới ngày nay vẫn dùng được trong Khoa Học, thì đừng nên bao giờ bỏ quên nó, vì học nó rất có lợi cho Tinh Thần lẫn Vật Chất.

    Đặc biệt 2 quyển sau này, phần cuối tất cả các quẻ, đều có mục ÁP DỤNG CHO THỜI ĐẠI, nó rất có lợi ích cho chúng ta hiện nay, khi phải đương đầu với bao nỗi khó khăn trong cuộc sống hiện tại, mà từ xưa tới nay từ Á sang Âu chưa có vị nào làm ra, nên độc giả luôn cho là đọc Dịch và hiểu Dịch quá khó. Tôi đề nghị như sau:
    • * Quý vị nào đã hiểu Hán Văn, đọc từ đầu quẻ.
    • * Quý vị nào đã đọc các sách Dịch, mà không hiểu ý nghĩa của nó lắm, thì nên đọc phần Bình giảng, hoặc phần Áp dụng vào Thời đại trước.
    • * Các em sinh viên, hoặc các vị mà trình độ văn hóa trung bình, nên đọc phần Áp dụng vào Thời đại trước, vì phần này nhà tôi soạn, đã dùng những lối văn rất thông dụng, dễ hiểu, để cho chúng ta với lứa tuổi 18 trở lên, sức học đọc, viết, và nói được thông thạo tiếng Việt là có thể hiểu được một cách dễ dàng.


    Quý vị đừng ngại bộ Dịch quá dài, không có thì giờ đọc, thực ra nó có 64 quẻ = 64 đoạn khác sau + 9 Chương của Tập I, và những đoạn, những Chương này không liên lạc gì với nhau, nên đọc sau, trước gì cũng được. Quý vị đọc nó như đọc báo, dần dần nó sẽ thấm nhập. Hơn nữa, với phần Áp Dụng vào Thời đại, và những điển tích trong phần Bình Giảng, sẽ làm quí vị thích thú, và lúc đó lại ước phải chi nó dài hơn..., đó là lý do tại sao nhà tôi lại say mê, tiếp tay với tôi, để cho nó ra đời giữa lúc khó khăn này.

    Nhà tôi đã sửa sang lại bộ Dịch của tôi, cho nó được chững chàng hơn, và đã làm phần áp dụng vào Thời đại cho mỗi quẻ, nên đã ký tên chung làm Kinh Dịch với tôi. Tôi không bao giờ ngờ được về già, nhà tôi đã đi được với tôi vào Thiên Đạo. Đó là một phần thưởng lớn cho tôi, khi già yếu, tàn tật. Còn phần chữ Hán, thì nhà tôi khuyên tôi nên đảm nhiệm. Mới đầu tôi không chịu, vì thấy quá sức tôi. Nhà tôi phải khuyến khích mãi, tôi mới chịu. Nay thì mọi chuyện đã êm đẹp. Tôi bị Stroke từ 7 năm nay, tay phải bị bại không cử động được, nhưng đánh mổ cò bằng tay trái vẫn được.

    Tôi nghĩ bộ Dịch này rất có ích cho thế hệ mai sau, và chắc chắn sẽ được ơn trên thu xếp cho đâu vào đấy.




    Bác sĩ Nhân tử Nguyễn văn Thọ
    Nguyên giảng sư Triết Học Trung Hoa (Đại học Văn Khoa Saigon)
    Nguyên giáo sư Triết Trung Hoa (Đại Học Minh Đức Saigon)

    và bà Nguyễn văn Thọ
    tức Huyền Linh, Lê thị Yến
    chuyết đề.


    Westminster, thứ năm ngày 17 tháng 10 năm 1996


    <== trước ==                    == sau ==>
    -- về Mục Lục --

              
Last edited by Hoàng Vân on Thứ sáu 26/08/16 09:50, edited 5 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
          
Dịch Kinh Yếu Chỉ
Hướng đi của Thánh nhân
____________

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
& Huyền Linh Yến Lê




          
DỊCH KINH ĐẠI TOÀN







  • Chương 1. Dẫn Nhập
    ____________________


    Học Dịch có thể chia ra làm hai đường lối:

    1. Một là học gốc Dịch
      tức là chuyên khảo về Vô Cực, Thái Cực, tìm hiểu về nguồn gốc của vũ trụ và con người.
                
    2. Hai là học ngọn Dịch
      tức là khảo sát về lẽ Âm Dương tiêu trưởng của trời đất, tuần tiết thịnh suy của hoàn võ, tức là học về các Hào, Quải, học về Tượng, Từ, Số.


    Học Dịch theo lối thứ nhất sẽ giúp ta tìm lại được căn nguyên của tâm hồn và biết đường tu luyện để tiến tới Chân, Thiện, Mỹ, Phản bản, Hoàn nguyên.
    Học Dịch theo lối thứ hai có thể giúp ta tiên tri, tiên đoán phần nào vận hội, khí thế của lịch sử nhân loại, cũng như những động cơ biến hóa trong hoàn võ..

    Chúng ta nên nhớ Dịch là do Trời truyền!
    Phục Hi, Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử đều là những người đã được Thượng Đế mặc khải, đều có những khối óc siêu việt. Các Ngài đã dày công suy tư, khảo sát, ghi chú, sáng tác mới lưu truyền cho chúng ta được gia tài Dịch học quí báu ấy. Đi vào khoa Dịch học, ta phải cố gắng đạt cho được vi ý cổ nhân, tìm cho ra cội rễ cuộc đời, gốc gác vũ trụ, những định luật chi phối mọi sự biến thiên của đất trời, cũng như viễn đích, cùng lý của quần sinh, và nhân loại. Chúng ta sẽ dùng những họa bản Dịch để làm những bản đồ chỉ đường, dẫn lối cho tâm thần ta băng qua các lớp lang biến ảo bên ngoài của vũ trụ để đi vào căn nguyên bất biến, tâm điểm hằng cửu của trần hoàn. Từ đó ta sẽ đi ngược lại, để tìm cho ra dần dần các căn cơ, then chốt cũng như những nhịp điệu, tiết tấu của mọi biến thiên.[1]

    Sự khảo cứu này sẽ đòi hỏi chúng ta nhiều công phu, bắt buộc ta phải tiềm tâm suy cứu đêm ngày, nhưng cũng rạt rào lý thú. Sự học hởi của chúng ta sẽ không phải là một sự cóp nhặt máy móc, mà là cả một công trình sáng tạo hồi hộp. Sự tìm tòi học hỏi này cũng có thể giúp chúng ta gạn đục, khơi trong cõi lòng để hòa hài cùng Tạo Hóa,[2] để gặp gỡ lại các Thánh Hiền muôn nơi, muôn thủa.

    Thực vậy, nhìn vào các đồ bản Dịch ta sẽ lĩnh hội được sự kiện vô cùng quan trọng này là Tạo Hóa hay Thái Cực ẩn áo ngay trong lòng sâu Vạn Hữu. Tạo Hóa và Vạn Hữu hợp lại thành một đại thể, y như một cây vĩ đại có muôn cành lá, hoa quả xum xuê.[3] Thái Cực, Tạo Hóa là căn cốt; Vạn Hữu là những hiện tượng biến thiên chuyển dịch bên ngoài.

    Suy ra:
    • nếu ta biết vượt qua những lớp lang, biến ảo của hoàn cảnh, xác thân và tâm hồn, ta sẽ tìm về được với Tạo Hóa, với Thái Cực ẩn áo nơi đáy lòng ta.

    Thế tức là:
    • từ ngọn suy ra gốc, từ biến thiên suy ra hằng cửu, từ các tầng lớp biến thiên bên ngoài suy ra tâm điểm bất biến bên trong.
    Như vậy học Dịch là để biết các lớp lang biến hóa, chuyển dịch của vũ trụ và của lòng mình; nhân đó, sẽ suy ra được chiều hướng tiến thoái và trở về được cùng bản thể duy nhất, tiềm ẩn nơi đáy lòng mình. Xưa nay đã có biết bao người nhờ học Dịch mà trở về được với căn nguyên của mình, với Trời, với Thái Cực.
    • Ngụy bá Dương chân nhân đời nhà Hán, tác giả bộ Chu Dịch Tham Đồng Khế, một bộ sách căn bản cho đạo Thần Tiên, đã đề tựa sách như sau:
      • Đạo Thần Tiên luyện đơn, tu Đạo thực hết sức giản dị:
        chẳng qua là kết hợp với Thái Cực (Tạo Hóa) mà thôi[4]

      Ông giải thích:
      • Tham là tham dự cùng Thái Cực.
        Đồng là hòa đồng cùng Thái Cực.
        Khế là khế hợp với Thái Cực. [5]
    • Thái Uyên, nho gia thời Tống cho rằng:
      • Người quân tử học Dịch để tiến tới thần minh[6]
    • Tác giả quyển Thái Cực quyền bổng đồ huyết cho rằng:
      • Dịch là một phương pháp, một con đường lớn lao, trọng đại giúp ta trở về với Trời, với Thượng Đế.[7]
    • Văn đạo Tử gần đây cũng chủ trương rằng học Dịch cốt là
      • để tìm cho ra căn cốt tinh hoa của mình, tìm cho ra định mệnh sang cả của mình, tìm cho ra nhẽ phản bản hoàn nguyên, chứ không phải vụ chuyện bói toán, sấm vĩ.[8]


    Người xưa chê những người học Dịch một cách thiển cận, bỏ căn bản, để đi tìm chi mạt, ngọn ngành như sau:

    • Chư Nhu đàm Dịch mạn phân phân
      Chỉ kiến phiền chi bất kiến căn
      Quan tượng đồ lao suy hỗ thể,
      Ngoạn từ diệc thị sính không ngôn,
      Tu tri nhất bản sinh song cán,
      Thủy tín thiên nhi dữ vạn tôn.
      Khiết khẩn Bao Hi vi nhân ý
      Du du kim cổ hướng thùy luân. [9]

      Tạm dịch:
      Chư Nho bàn Dịch nói lông bông,
      Ngành ngọn tinh tường, gốc chẳng thông
      Xem Tượng, tốn công suy quẻ Hỗ
      Ngoạn Từ, phí sức sính lời không
      Có hay một gốc hai cành chẽ
      Mới thấy nghìn con, vạn cháu đông,
      Nối gót Phục Hi ai đó tá,
      Ngàn sau tri kỷ, dạ vời trông.


    Cổ nhân xưa tìm ra được bí quyết của Hóa Công, tạo ra được Hà Đồ, Lạc Thư, Hồng Phạm, sáng tác ra được Dịch Tượng, Dịch Quái,
    • không phải vì thấy Thần qui, Long mã,
    • mà chính vì đã biết quan sát hiện tượng đất trời, tiềm tâm suy cứu, để đi sâu vào đáy lòng vũ trụ, vào tới Thiên địa chi tâm, Hoàng cực chi cực, để rồi từ đó, có cái nhìn bao quát cả nội giới lẫn ngoại giới.


    Cho nên điều kiện căn bản để học Dịch cho có kết quả là:
    • - Khảo sát kinh văn.
      - Quan sát nội giới, ngoại giới.
      - Tiềm tâm suy cứu. [10]

    Có như vậy mới tìm ra được vi ý cổ nhân, tìm ra được nhẽ biến hằng của trời đất cũng như của bản thân, tìm ra được bản nguyên vũ trụ tiềm ẩn ngay trong lòng mình, tìm ra lẽ nhất quán ngay trong người mình. [11]

    Khi con người tìm ra được căn nguyên của tâm hồn, sẽ không còn quan niệm theo đường lối qua phân gián cách. Khi đã nhận thức được bản nguyên duy nhất ẩn tàng dưới các lớp lang phiến diện của vũ trụ, tâm hồn sẽ khai thông được nguồn mạch ánh sáng, sẽ thông tuệ, sẽ trực giác, và sẽ nhìn thấy rõ hướng đi của tâm thần.
    • Dần dà nhờ sự trung thành theo rõi ánh Hào quang ẩn ước chỉ đường, nhờ sự bền bỉ trên hướng đi đã được chỉ vạch, lướt thắng mọi gian lao, mọi cạm bẫy, mọi trở ngại gây nên bởi tà ma, vật dục; thức thần, kiêu ý, tâm hồn càng ngày càng thấy căn tâm bừng sáng, hạo khí gia tăng.
      Dần dà tâm hồn sẽ nhận ra Chân Thể tiềm ẩn đáy lòng khỏi mất công tìm tòi, mò mẫm như xưa. Lúc ấy tâm hồn sẽ phát huy, phóng phát được ánh Thiên Chân ra bên ngoài, soi sáng cho thế nhân biết đường lối Qui nguyên, Phản bản. [12]


    Muốn học Dịch cho có kết quả, cần phải tìm cho ra lẽ biến hằng ngay trong lòng mình, tìm ra được bản nguyên của vũ trụ, được lẽ nhất quán ngay trong lòng mình. Khi tìm ra được căn nguyên, sẽ thông tuệ, sẽ nhận thức và sẽ tìm ra được Thiên Chân. Nhận ra được Thiên Chân, là vào được tâm điểm của vòng Dịch. Lúc ấy sẽ biết được những định luật chi phối sự biến Dịch, lý do và mục đích của sự biến Dịch.

    • Chu Tử nói:
      • Cái vi diệu của Tạo Hóa, chỉ có những người đi sâu vào nguyên lý mới có thể biết được [13]
    • Hoàng miễn Trai viết:
      • Trí tri là phương tiện để vào đạo, mà trí tri đâu có dễ; cần phải nhận thức được thực thể của vũ trụ; lúc ấy đầu đuôi cơ sự mới hiển lộ ra; bằng không thì chỉ là giảng thuyết văn tự, ngày một lao sao, làm cho bản thể vỡ vụn, mà căn nguyên cũng chẳng biết là chi. [14]

      Ông viết thêm:
      • Lòng nguyên vẹn, không bị xuyến xao, chia xẻ mới có thể thấy được cái bao la của Đạo thể, có học nhiều biết rộng, mới rõ được cái tế vi của Đạo thể.
        Trên phương diện bản thể, bản tính, thì vạn vật in nhau, nhưng trên phương diện biến Dịch thì mọi sự, mọi vật đều có một vẻ mặt khác lạ. Cho nên tồn tâm sẽ hàm súc được Lý vạn vật; bác học sẽ hiểu rõ Lý vạn vật [15]


    Nếu ta học Dịch với mục đích là tìm chân lý, tìm nguyên thể, thì chẳng những ta tìm ra được bản ý của các hiền triết Á đông, mà còn tìm ra được bình sinh chi chí của các hiền triết Âu Châu.
    • Thực vậy, Héraclite nghiên cứu sự biến Dịch chính là để tìm cho ra Đạo thể (Logos), cho ra Chân lý đại đồng phổ quát. [16]
    • Salomon Ibn Gebirol cũng khuyên mọi người hãy vươn lên cho tới bản thể, để thực hiện định mệnh mình và để được hạnh phúc, khoái lạc tuyệt vời. [17]




    ___________
    CHÚ THÍCH

    • [1] L’homme qui étudie le Livre des Changements connaîtra la raison d’être du bonheur et du malheur, de la décadence et de l’élévation, et la voie rationelle (Tao) selon laquelle il convient d’avancer ou de reculer, de laquelle il résulte le salut ou la perte.
      -- Yi king, tome I, page 11, en note.
      -- La voie rationnelle, page 67, note 2)

                
    • [2] Duy tích thánh hiền hoài huyền bão chân.
      唯 昔 聖 賢 懷 玄 抱 真 .
      -- Chu Dịch Tham Đồng Khế.
                
    • [3] Xem các họa bản Dịch của Phục Hi.
                
    • [4] Chu Dịch Tham Đồng Khế - trang 1.
                
    • [5] Ib. 1.
                
    • [6] Quân tử học Dịch nhi chí ư thần dã.
      君 子 學 易 而 至 於 神 也.
      -- Trùng Biên Tống Nguyên Học Án, quyển III, trang 678.
                
    • [7] Dịch chi vi thư giáo nhân hồi Thiên chi đại Kinh đại pháp dã.
      易 之 為 書 教 人 回 天 之 大 經 大 法 也.
      -- Trần thị, Thái cực quyền bổng đồ thuyết - trang 52.
                
    • [8] ... Lại Thiên tâm nhân ái cố sử long mã phụ Đồ xuất ư Hà, thần qui tải Thư xuất ư Lạc, sở dĩ chiêu thị thánh nhân tỉ đạo tư dân phản bản qui căn dĩ chí ư Đạo nhĩ. Tiên Thánh nhân chi nhi hoạch quái, dĩ minh Âm Dương vận hành chi đạo. Hậu Thánh xiển chi nhi thành Dịch, dĩ cùng tính mệnh phản hoàn chi lý. Thiển kiến giả bất sát, hoặc cánh mục vi bốc phệ sấm vĩ chi thuật, vụ ngoại nhi thất nội, xả bản nhi trục mạt, khuy đắc nhất đoan dĩ tự hảo, nhi bất kiến đạo chi đại toàn.
      賴 天 心 仁 愛 故 使 龍 馬 負 圖 出 於 河, 神 龜 載 書 出 於 洛, 所 以 昭 示 聖 人 俾 導 斯 民 返 本 歸 根 以 至 於 道 耳. 先 聖 因 之 而 劃 卦, 以 明 陰 陽 運 行 之 道. 後 聖 闡 之 而 成 易, 以 窮 性 命 返 還 之 理. 淺 見 者 不 察, 或 竟 目 為 卜 筮 讖 緯 之 術, 務 外 而 失 內, 舍 本 而 逐 末, 窺 得 一 端 以 自 好, 而 不 見 道 之 大 全.
      -- Văn Đạo tử giảng đạo tinh hoa lục, quyển I, trang 9.
                
    • [9] Dịch Kinh Đại Toàn, trang 35b.
                
    • [10] Tử viết: Ngô thường chung nhật bất thực, chung dạ bất tẩm dĩ tư.
      子 曰: 吾 常 終 日 不 食, 終 夜 不 寢 以 思.
      -- Luận Ngữ - Vệ Linh Công, XV câu 30.
                
    • [11] La conscience pénètre dans le plan du Centre métaphysique.
      -- M. Sénard - Le Zodiaque - page 33.
                
    • [12] Lorsque l’identité humaine découvre l’origine de sa conscience, elle cesse de concevoir par catégorie et dualisme. Lorsqu’elle prend conscience de l’Unité sous-jacente de l’univers, elle s’ouvre à la lumière de l’intuition qui la féconde; elle naît ainsi à la lumière de l’Intelligence claire et saisit la direction que doit suivre sa volonté. Puis par la fidélité constante au rayon entrevu, persistant dans cette même direction malgré les pièges et les obstacles de l’esprit des ténèbres, matérialisme, sensorialité, rationalisme, orgueil, elle sent croître en elle la lumière et avec elle la force. Peu à peu elle voit, reconnaît, concoit la divinité qu’elle cherchait d’abord obscurément tandis qu’elle la portait en elle, et peut alors la manifester dans le monde sensible. La servante de Dieu est devenue la Mère du Verbe, le lien et l’interprète entre l’Inconscient et le Supraconscient, entre la Terre et le Ciel, entre l’ Esprit et son Pôle réceptif, la substance, et la Vierge ouvre ainsi à l’homme la Voie du retour à L’Essence.
      -- Sénard, Le Zodiaque, pages 196, et 197.
                
    • [13] Tạo Hóa vi diệu, duy thâm ư lý giả năng thức chi.
      造 化 微 妙, 惟 深 於 理 者 能 識 之.
      --Trùng biên Tống Nguyên học án, quyển 3, trang 673.
                
    • [14] Trí tri nãi nhập đạo chi phương, nhi trí tri phi dị sự. Yếu tu mặc nhận thực thể phương kiến đoan đích. Bất nhiên, tắc chỉ thị giảng thuyết văn tự, chung nhật huyên hoa nhi chân thể đoạn, nguyên bất tằng thức.
      致 知 乃 入 道 之 方, 而 致 知 非 易 事. 要 須 默 認 實 體 方 見 端 的. 不 然, 則 只 是 講 說 文 字, 終 日 喧 嘩 而 真 體 段, 元 不 曾 識.
      -- Trùng biên Tống Nguyên học án III, trang 693.
                
    • [15] Tôn đức tính, sở dĩ tồn tâm nhi cực hồ Đạo thể chi đại, đạo vấn học sở dĩ trí tri, nhi tận hồ Đạo thể chi tế. Tự tính quan chi, vạn vật chỉ thị nhất dạng. Tự đạo quan chi, tắc vật các thị nhất dạng, cố đãn tồn thử tâm nhi vạn vật chi lý vô bất hoàn cụ, duy kỳ các thị nhất dạng, cố tu cùng lý trí tri, nhi vạn sự, vạn vật chi lý phương thủy quán thông.
      尊 德 性, 所 以 存 心 而 極 乎 道 體 之 大, 道 問 學 所 以 致 知 而 盡 乎 道 體 之 細. 自 性 觀 之, 萬 物 只 是 一 樣. 自 道 觀 之, 則 物 各 是 一 樣, 故 但 存 此 心 而 萬 物 之 理 無 不 完 具, 惟 其 各 是 一 樣, 故 須 窮 理 致 知, 而 萬 事 萬 物 之 理 方 始 貫 通.
      -- Trùng biên Tống Nguyên học án quyển III -- trang 692.
                
    • [16] Le vrai c’est l’universel, la totalité des fragments du monde, l’intelligence de l’universel, la méditation de l’invisible, la saisie totale de la totalité.
      (Kostas Alexos - Héraclite et la philosophie p. 64)

      ...Le Logos est la Raison une, universelle, unificatrice (Vernunft)
      Héraclite et la philosophie - page 58-59.
                
    • [17] Si tu t’élèves jusqu’à la matière universelle et que tu t’abrites sous son ombre, tu y verras tout ce qu’il y a de merveilleux. Il faut donc que tu fasses pour cela les plus grands efforts, car c’est là le but auquel l’âme humaine est destinée et là est la plus grande jouissance et la plus grande félicité.
      -- M. Sénard, Le Zodiaque - page 323.



    <== trước ==                    == sau ==>
    -- về Mục Lục --

              
Last edited by Hoàng Vân on Thứ sáu 26/08/16 10:38, edited 3 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
          
Dịch Kinh Yếu Chỉ
Hướng đi của Thánh nhân
____________

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
& Huyền Linh Yến Lê




          
DỊCH KINH ĐẠI TOÀN







  • Chương 2. Đại chỉ của Kinh Dịch
    ____________________




    Đề tài cũng như phạm vi, mục đích của Dịch Kinh thực là bao la vĩ đại.
    Thực vậy, Dịch Kinh muốn bao quát cả Vạn Tượng, Vạn vật, Vũ trụ, quán thâu tất cả các định luật của trời đất, vì thế Hệ Từ thượng đã viết
    Dịch dữ thiên địa chuẩn.


    Sở dĩ Kinh Dịch trở nên khó hiểu, chính là vì ta muốn hiểu từng chi tiết vụn vặt của sách. Cho nên muốn có ít nhiều ý niệm đơn giản, nhưng chính xác về Dịch, ta phải xét Dịch một cách tổng quát, đại cương về ít nhiều phạm vi như Triết học, Luân lý, và Đạo giáo.



    TIẾT I.
    DỊCH KINH VỚI TRIẾT HỌC


    • A. DỊCH KINH VỚI KHOA SIÊU HÌNH HỌC
      • a/. - Quan niệm nhất thể vạn thù

        Về phương diện triết học, Dịch đã khảo sát vũ trụ, về cả hai phương diện Biến với Hằng.
        • Dịch bàn về Thái Cực
          tức là bàn về Bản thể hằng cửu, siêu không gian, thời gian.
        • Dịch bàn về Hào, Quải
          là bàn về Vạn vật, Vạn Hữu, bàn về Hiện tượng (phénomènes), bàn về các hình thức biến hóa trong trời đất, bàn về sự di động biến thiên trong thế giới.

        Chu Hy viết:
        • Thái Cực là Đạo, thuộc Hình nhi thượng.
          (tức là Thái Cực là Bản Thể, là Tuyệt đối siêu xuất hình tướng.)
        • Âm Dương là khí dụng, thuộc hình nhi hạ
          (tức là thuộc hữu vi, hữu tướng).

        Cho nên, đứng về phương diện biến thiên, hiện tượng mà xét, thì ta thấy động tĩnh không đồng thời, Âm Dương không đồng dấu vết, nhưng nguyên lý về Âm Dương, động tĩnh đều đã hàm ngụ đầy đủ bên trong [1]

        Tiên Nho cho rằng:
        • Khi bản thể còn tịch nhiên chưa hiển dương, chưa biến hóa thì gọi là Tiên Thiên. [2]
        • Khi đã phát lộ thành hình tượng thì gọi là Hậu Thiên.[3]

        Theo luận cứ này, thì
        • Thái Cực thuộc Tiên Thiên.
          Vạn Tượng, hay Âm Dương, Hào, Quải thuộc Hậu Thiên.

        Tiên Thiên vô hình tướng,
        Hậu Thiên hữu hình, hữu tướng [4]

        • 1.- Thái Cực (Vô Cực), hay Lý là Bản thể muôn vật,
          Tuyệt đối, siêu thời gian, không gian, tiềm tồn
          (Substance, Forme, Essence, Noumène, Ousia. Phùng hữu Lan dùng chữ Subsist.)
                    
        • 2.- Âm Dương nhị khí, Hào, Quải tượng trưng cho Vạn Vật, Vạn Tượng
          thuộc Hình nhi hạ, là phần khí dụng, là Hiện tượng biến thiên, lệ thuộc không gian, thời gian.
          (Accident, contigent, phénomène, existence, matière. Phùng hữu Lan dùng chữ Exist) [5]

        Nói cách khác, Dịch cho rằng dưới mọi hình thức biến thiên của vũ trụ, còn có một bản thể bất biến. Đó là Vô Cực, hay Thái Cực. Vạn Vật biến thiên bên ngoài chẳng qua là những hình thái biến thiên của bản thể ấy. [6]

        Từ một bản thể, vạn vật càng ngày càng sinh hóa, càng ngày càng phân tán, càng ngày càng trở nên phiền toái, phức tạp, sinh ra muôn ngàn lưu phái, muôn ngàn chi diệp, tung tỏa ra cùng khắp đất trời.
        Tuy nhiên muôn muôn ngàn ngàn hình thức thù tạp bên ngoài ấy vẫn cùng chung một gốc gác mà thôi. Các đồ bản của Dịch, hoặc viên đồ, hoặc hoành đồ cũng đều gợi cho ta ý niệm ấy. [7]

        Để mô tả quan niệm Một bản thể duy nhất sinh Vạn Tượng, Vạn Hữu,
        Dịch dùng hai phương pháp:
        • 1). Từ ngữ
          2). Biểu tượng.

        Về từ ngữ, Dịch chỉ nói vắn tắt như sau:
        • Dịch hữu Thái Cực, thị sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ Tượng v.v..
          (Hệ từ thượng chương XI).

        Khoa Luyện đơn cổ Ai Cập cũng có quan niệm tương tự.
        Ai Cập xưa cũng chủ trương:
        • Thoạt kỳ thủy, có một nguyên chất bất diệt làm căn bản cho vạn vật.
          Nguyên chất ấy sinh ra hai chất gọi là Diêm (Soufre), và Cống (Mercure).
          Diêm, Cống sinh Tứ Tượng là Địa, Thủy, Hỏa, Khí [8]


        Dịch ghi quan điểm trên bằng biểu tượng sau:



        Khoa chiêm tinh học và Luyện đơn Âu Châu ghi quan điểm trên như sau



        Cả hai đồ bản trên cũng vẫn chỉ là: Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng...

        Từ hơn một thế kỷ nay quan niệm nhất thể vạn thù của Đông phương đã lan tràn vào lãnh vực Triết học, Khoa học Âu Châu.

        • Thuyết tiến hóa của Lamarck, Darwin căn cứ trên nguyên lý nhất thể, vạn thù, để biện minh rằng Vạn Hữu đã tiến tới ngày này nhờ sự biến hóa từ một sinh cơ, sinh vật đầu tiên. [9]
                    
        • Weissmann chủ trương vạn sự đã tiềm ẩn trong cái trứng nguyên thủy. [10]
                    
        • Georges Lemaûtre chủ trương vũ trụ đã xuất sinh từ một hồn khối nguyên thủy mà ông mệnh danh là nguyên tử nguyên thủy. [11]
                    
        • Werner Heisenberg, một nhà Vật Lý học trứ danh chủ trương trong quyển La Nature dans la Physique contemporaine đại khái như sau:

          Vũ trụ vạn vật tuy có 92 nguyên tố khác nhau, nhưng rút cục chỉ có ba là:
          • Dương điện tử (positron)
            Âm điện tử (électron)
            Trung hòa tử (neutron)

          Nhưng Dương điện tử, Âm điện tử, Trung hòa tử chung qui vẫn chỉ là một Nguyên khí.
          Cho nên vũ trụ thật ra chỉ có một Nguyên khí, Nguyên chất nhưng có thể ở trong nhiều trạng thái khác nhau. [12]]

        b/.- Quan niệm vạn vật tuần hoàn chung nhi phục thủy của Dịch Kinh

        Nếu Dịch chỉ chủ trương có một chiều biến hóa từ Thái Cực đến Vạn Hữu, từ nhất đến vạn, từ giản đến phiền thôi, thì chẳng có gì là cao đẹp, vì đó chỉ mới là chiều sa đọa, phá tán, tử vong của trời đất, chưa nói lên được chiều hòa hợp, đoàn tụ, siêu thăng, sinh tồn của vạn vật, chưa nói lên được nỗ lực của Vạn Hữu luôn luôn muốn vươn lên để trở về với Thái Cực.

        Nhưng thực ra, Dịch không quan niệm biến hóa một chiều, và cho rằng khi vũ trụ đã biến hóa, đã phân tán đến cực độ, sẽ xoay chiều, đổi hướng, bước dần lên những nấc thang tinh thần để cuối cùng lại phục hồi Nguyên bản.

        Nói cách khác, vũ trụ biến thiên không phải là theo một đường thẳng vô cùng tận, nhưng theo hai chiều Âm Dương, vật chất, tinh thần vãng lai, phản phúc để cuối cùng lại trở về Nguyên bản. Quan niệm trọng đại này đều được các tiên hiền cả Nho lẫn Lão công nhận.

        • Văn đạo tử viết:
          • Mới đầu từ trong thuận hành mà sinh,
            cuối cùng lại trở lại để về ẩn tàng tại Trung điểm, Trung Hoàng Thái Cực, tìm ra được bản lai diện mục của mình. [13]
        • Lưu nhất Minh viết trong quyển Tu chân biện nạn hậu biên tu chứng như sau:
                    
          • Dịch nói:
            Nguyên thủy phản chung, thế là biết lẽ tử sinh.
                      
            Mạnh Tử nói:
            Bậc trí giả để ý suy cứu căn do, còn Thánh nhân để ý tìm cho ra cùng đích cuộc đời.
            Cho nên đạo cả của Thánh Hiền có đầu có đuôi, có gốc có ngọn. Biết được đầu, hay được cuối, khảo được gốc, cùng được ngọn, mới có thể thông suốt tòng đầu tuyệt vĩ, quán triệt, đại giác, đại ngộ...
            Giả sử còn có điều mịt mờ, thì ắt hành động sẽ mò mẫm, biết đã không đúng, thì làm sẽ ngắc ngứ không thông. Học giả phải cùng kỳ lý, rồi mới có thể đem ra mà thi hành áp dụng. Biết đến kỳ cùng, làm tới hoàn mỹ, đó là hai phương diện cần yếu, không thể nào không có được.
            Mà lý ấy chẳng qua là Đạo của trời đất, của Tạo hóa. Đạo của Tạo hóa có thể, có dụng, có đầu có đuôi, là môi trường cho Âm Dương đắp đổi, vận hành đổi thay, tiêu trưởng, biến hóa ở bên trong, nhưng mà chốt then quan hệ nhất, tâm điểm của tất cả mọi biến thiên, vẫn là Chân Nguyên nhất khí, vẫn là Thái Cực hư vô, vô hình, vô tượng... Hiểu được điều này, lập tức sẽ lên tới bậc Thánh Hiền, không hiểu nổi điều này, sẽ phải trầm luân muôn kiếp.
            Cùng lý tức là hiểu biết thấu đáo căn bản này vậy... [14]
        • Trương Tải viết:
          • Thái Hư không thể không có khí.
            Khí không thể không tụ thành vạn vật.
            Vạn vật không thể không tán để trở thành Thái Hư...
            Sự tuần hoàn, xuất nhập bắt buộc phải như vậy. [15]
        • Nguyễn Án Trường, tác giả tập Tạo hóa thông cho rằng:
          • Thái Cực là một vậy.
            Vạn vật bắt đầu từ một, và kết thúc ở một.
            Trang Tử gọi thế là xuất cơ, nhập cơ... [16]


        Nhìn vào hoành đồ của Dịch ta thấy ý niệm Thái Cực xuất sinh vạn vật được phát biểu bằng phương thức:

        Thái Cực sinh Lưỡng Nghi;
        Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng;
        Tứ Tượng sinh Bát Quái;
        Bát Quái sinh Lục Thập Tứ Quái...

        Muốn suy ra chiều phản hoàn của vạn vật ta chỉ cần đọc ngược từ 64 quẻ trở về dần cho tới Thái Cực.

        • Nguyễn Án Trường viết:
          • Dịch nói nguyên thủy phản chung.
            Thế tức là nói rằng từ những Quải thể vô cùng phức tạp quay trở về 64 quẻ, từ 64 trở về 8; 8 trở về 4; 4 trở về 2, 2 trở về 1;
            thế tức là thuần Kiền vậy, thế tức là Chân Như bản thể vậy. [17]

          Nguyễn Án Trường cho rằng
          • vạn vật trở về thuần Kiền tưởng cũng chưa được đúng vì như vậy vẫn còn nằm trong vòng hình Tượng, Hào, Quải.
            Phải trở về Kiền Sơ, tức là phải trở về Thái Cực vô hình tượng mới đúng.
        • Minh Đạo Thiên viết:
          • Xem Kiền từ thủa chửa thành hình,
            Một nét thành rồi, vạn vật sinh [18]

        Như vậy, cuộc biến Dịch tuần hoàn trong vũ trụ thực là giản dị. Ta có thể theo dõi sự diễn biến ấy từ đầu đến đuôi được. Tất cả chỉ là một nguồn sinh lực diễn biến dần dà từ Trung tâm ra tới các tầng lớp bên ngoài, rồi lại chuyển hóa xoay mình băng qua các tầng lớp biến thiên từ ngoài vào trong, cho tới trung tâm nguyên thủy, tạo thành một vòng sinh hóa có giới hạn, có tiết tấu, mạch lạc, có nguyên ủy, thủy chung. Vòng đại tuần hoàn của vũ trụ chẳng qua cũng như tình non nước, mà Tản Đà đã ngâm vịnh bằng những lời thơ đẹp đẽ như sau:

        Dù cho sông cạn đá mòn,
        Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa,
        Non cao đã biết hay chưa?
        Nước đi ra bể, lại mưa về nguồn.
        Nước non hội ngộ còn luôn,
        Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
        Nuớc kia dù hãy còn đi,
        Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui.
        Nghìn năm giao ước kết đôi,
        Non non, nước nước, chưa nguôi lời thề.

        (Tản Đà)


        Dịch ghi chú định luật tuần hoàn phản phúc, nhất biến vạn, vạn qui nhất bằng đồ bản Dịch Tiên
        Thiên 8 quẻ, hay 64 quẻ.



        Tu chân bất tử phương có lời rằng:
        Trước xuống
        sau lên

        định một vòng.

        Ý muốn nói
        • vòng tuần hoàn của trời đất phải là Âm trước, Dương sau,
          nghĩa là mới đầu tinh thần phải nhập thể, phải lồng vào vật chất mới giúp cho tinh thần siêu thăng dễ dàng được. [19]


        Chiêm tinh học Âu Châu mô tả quan niệm trên bằng những lời lẽ sau:

        • Nguyên động lực tự phối ngẫu
          để biến từ thế tiềm phục đến thế hiểu hiện;
          từ nhất đến vạn, từ vô tướng đến hữu hình;
          từ tinh thần đến vật chất, từ thế giới vô sắc tướng đến thế giới hình tướng, từ khinh thanh đến trọng trọc.
          Trên đoạn đường thoái hóa này, thần khí càng ngày càng ẩn áo sau nhiều bức màn hiện tượng dày đặc cho đến vật chất. [20]

          Khi đã đến điểm thấp nhất của chu kỳ,
          thần khí hay Đạo lại lộn ngược lại, băng qua nhiều lớp lang hình thể càng ngày càng khinh thanh, tiến dần về các giới vô hình, vô tướng, để trở về trạng thái duy nhất bản nguyên.

          Đó là ý nghĩa vũ trụ của vòng Hoàng Đạo.[21]


        c/. - Hai áp dụng quan trọng của Dịch lý nói trên.
        1. Vạn vật khác nhau về hình tướng, giống nhau về bản thể.
          Như ta đã thấy vũ trụ là do một Nguyên thể phát sinh. Đã cùng một nguồn gốc phát sinh ắt phải giống nhau về bản thể. Đã biến hóa nhanh chậm khác nhau, ắt phải khác nhau về hình thức, về địa vị, về công việc, về giòng giống, về thời gian, không gian, về trạng thái tâm thần.

          • Nho gia nói: Nhất Thể vạn thù
            Đạo gia nói: Nhất Bản vạn thù [22]
            Dương Hùng nói: Đồng Bản ly mạt [23]

          Theo quan niệm này thì con người và vũ trụ đều họp lại thành một Đại thể, đều cùng chung một bản thể, một Thái Cực, và vì vậy có ảnh hưởng mật thiết với nhau. Mặt trời, mặt trăng, tinh tú biến động, cũng làm cho đời sống con người biến động, đổi thay. [24]
                    
        2. Lịch sử con người cũng diễn biến theo hai chiều thuận nghịch để cuối cùng lại phục hồi Nguyên thể.
          Áp dụng Dịch lý tuần hoàn vào lịch sử con người, ta thấy rằng, nếu con người từ Nguyên thể phát sinh ắt sẽ phải biến thiên tiến hóa qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm, vãng lai, phản phúc để cuối cùng có thể phục hồi Nguyên bản.
          Sự biến Dịch trong trời đất và của nhân quần nhờ vậy sẽ có một ý nghĩa vô cùng cao đẹp, là biến hóa để phát triển; phát triển để cải thiện, cải thiện để đạt tới Hoàn Thiện, trở về Nguyên Thủy Hoàn Thiện.

          • Dịch viết:
            • Càn đạo biến hóa các chính Tính Mệnh bảo hợp Thái hòa.
              Đạo Trời biến hóa để thực hiện Thiên Tính, Thiên Mệnh, rốt ráo là để hợp nhất với Thái Hòa [25]
          • Tính mệnh Pháp quyết Minh chỉ cho rằng:
            • Vạn Hữu rồi ra cũng đi đến sự hiệp hòa, đồng qui nhất thể.[26]
          • Lão Tử cũng viết:
            • Muôn loài sinh hóa đa đoan,
              Rồi ra sẽ phải lai hoàn Bản nguyên[27]
          • Huỳnh Đình Kinh giải cho rằng:
            • Nhất bản phân tán ra thành muôn ngàn thù tạp, thù tạp rồi ra cũng quay về một gốc. Như vậy cả hình lẫn thần đều được phỉ nguyền và con người sẽ hợp nhất với Đạo thể, Chân thể. Dầu biến hóa mấy rồi cũng trở về Trung điểm, về Thái Nhất, về Thần.[28]
          • Hegel cho rằng
            • vũ trụ chỉ là sự phát triển của ý thức.
              Ý thức thì hằng cửu, nhưng nhân loại muốn tiến tới Ý thức hằng cửu phải phát triển, phải biến thiên, tức là phải có một lịch trình, lịch sử.[29]


          Như vậy Dịch
          • không quan niệm vũ trụ một cách cá nhân, cá tính, vụn vặt
            mà quên đại thể, toàn thể,[30]
            cũng như không quan niệm vũ trụ một cách toàn thể, đại thể
            mà quên cá nhân, cá tính.[31]

          Trái lại Dịch bao quát cả hai phương diện
          • toàn thể và chi tiết,
            tĩnh và động.
          • Toàn thể là Thái Cực,
            chi tiết là Vạn Vật, là Hào Quải:
          • Tĩnh là những nấc thang giá trị tinh thần và vật chất,
            Động là sự tiến triển biến hóa qua các nấc thang giá trị.

          Toàn thể và chi tiết, vũ trụ, xã hội cá nhân hỗ tương ảnh hưởng để đạt tới Thái hòa. [32]



      B. DỊCH KINH VỚI KHOA LUẬN LÝ HỌC


      • 1.- Dịch Kinh với khoa luận lý học hình thức Âu Châu

        Dịch Kinh chủ trương Vạn Tượng biến thiên, vô thường, vô định,
        lại chủ trương mọi sự đều tương đối, Âm biến Dương, Dương biến Âm,
        cho nên dĩ nhiên Dịch Kinh trái ngược với khoa Luận Lý học hình thức Âu Châu.

        Luận Lý học hình thức (Logique formelle)
        vì chủ Tĩnh nên lấy nguyên lý đồng nhất, nguyên lý triệt tam (Principe d’identité et Principe du tiers-exclus) làm căn bản.
        • Theo những nguyên lý trên thì A=A, B=B
          A không thể vừa là A, vừa là B.

        Đó là một lối lý luận không đếm xỉa đến thực tại, đến thời gian, đến sức biến hóa của vạn vật.

        Dịch Kinh trái lại chủ trương: với thời gian
        • A biến thành B,
          B biến thành A,
          phản phúc, tuần hoàn vô cùng tận.

        Nhìn vào đồ bản Phân cung quái tượng thứ tự ở đầu sách Chu Dịch bản nghĩa, ta thấy quẻ nào biến hóa đến nửa chừng cũng biến thành quẻ đối lập, mãi tới chung cuộc mới phục hồi được nguyên bản.

        Ví dụ ta lấy quẻ Kiền (Càn), ta thấy nó biến hóa qua 8 giai đoạn như sau:

        • I
          1/ Kiền 2/ Cấu 3/ Độn


          Kiền khí bị tiêu hao dần

          II
          4/ Bĩ 5/ Quan 6/ Bác


          Một sự biến thiên điên đảo lớn xảy ra:
          1/ Nội quái ở I biến thành ngoại quái ở II
          2/ Ở II, ta thấy nội Quái thuần có Khôn


          III
          7/ Tấn


          Giai đoạn phục hồi bắt đầu

          IV
          8/ Đại hữu


          Ở IV ta lại thấy Nội Quái là Kiền. Như vậy Kiền phục hồi nguyên thể.


        Nhìn vào đồ bản Phục Hi lục thập tứ quái phương vị, ta cũng thấy:
        Kiền biến hóa dần thành Khôn,
        Khôn lại biến hóa dần thành Kiền.



        Luận lý học hình thức Âu Châu phân chia Vạn Hữu thành những thực thể đối lập nhau, và chủ trương đã chống đối thời không thể hòa hiệp được.
        Ngược lại Dịch Kinh chủ trương mọi sự đối lập đều là tương đối, nhất thời, đều có thể hóa giải, trong cái xung khắc, vẫn có những yếu tố hiệp hòa.

        Dịch Kinh chủ trương mọi sự trong vũ trụ đều sống động, uyển chuyển, biến thiên, liên tục. Những sự cứng cỏi, ù lì, bất động, gián đoạn là do trí não con người tạo ra. Muốn phô diển sự biến thiên uyển chuyển ấy, Dịch đã chủ trương
        Quẻ biến hóa,
        Hào biến hóa,
        Dương biến hóa,
        Âm biến hóa,

        không có gì là cố định trên vòng Dịch cả. Ngay đến thứ tự của 64 quẻ trong bộ Kinh Dịch cũng được xếp theo định luật Biến thiên điên đảo.




        Ta thấy quẻ nào cũng có quẻ đối nhau hay là ngược nhau, từng đôi một.
        Dịch Kinh chủ trương Âm Dương, trời đất, nam nữ tuy rằng khí chất, tính tình, hình thù ngược nhau nhưng thực ra đều góp phần vào trong một đại cuộc, một viễn đích.

        • Dịch viết:
          • Trời đất nghịch nhau nhưng cùng chung một việc,
            trai gái nghịch nhau, nhưng thông cảm nhau bằng ý chí,
            vạn vật nghịch nhau nhưng đều góp phần công lao vào đại cuộc.
            Biết tùy thời sử dụng cả hai lực lượng chống đối mới là cao siêu vậy!

            (Thiên địa Khuê nhi kỳ sự đồng dã.
            Nam nữ Khuê nhi kỳ chí thông dã.
            Vạn vật Khuê nhi kỳ sự loại dã.
            Khuê chi thời dụng đại hỹ tai.

            Khuê, Thoán truyện)

        Tóm lại,
        • nếu ta hiểu Dịch lý,
          và có một tầm mắt siêu không gian, thời gian,
          đồng thời bao quát không gian, thời gian,
        ta sẽ thấy:
        • - Lý tưởng (Idéal) là thực tại (Réel)
          - Tiềm ẩn (Potentiel) là thể hiện (Actuel)
          - Tương khắc (Contraires) là tương thừa (Complémentaires).

        Nói thế, nghĩa là với thời gian ta sẽ thấy lý tưởng trở thành thực tại, uớc mơ trở thành thực tế, cái gì tiềm ẩn sẽ được hiệp hòa...

        Một lối nhìn, lối nghĩ chơ vơ không có không gian, thời gian,
        cũng y như con người không có xác thân, tuổi tác,
        một dân nước không có hoàn cảnh, lịch sử,

        là một sự kiện vô nghĩa lý, không thể hiểu được.

                  


        2.- Ít nhiều định luật quan trọng của Dịch

        Những định luật quan trọng của Dịch là:

        1. Định luật
          biến Dịch tuần hoàn, biến Dịch có chu kỳ, chung nhi phục thủy, vô cùng vô tận,
          với những định luật phụ thuộc
          như vãng lai, tụ tán, phản phúc.
                    
        2. Định luật
          Âm Dương tương thôi, Dương biến Âm, Âm biến Dương.


        Vì có sự biến chuyển Dịch nói trên, gần đây đã được các triết gia Âu Châu đề cập tới dưới hình thức này, hay hình thức nọ.

        • Đã có ít nhiều nhà thiên văn học, triết gia bắt đầu nói đến sự biến Dịch tuần hoàn (loi de l’éternel retour) trong số có NietzscheJean Charles Pichon.

          Định luật Âm dương tương thôi nhi sinh biến hóa
          đã trở thành biện chứng pháp của chủ nghĩa Karl Marx, vì biện chứng pháp lấy sự mâu thuẩn, chống đối làm động cơ đẩy và sinh xuất mọi biến thiên.

          Định luật Âm biến Dương, Dương biến Âm
          đã được xác định bằng phương trình của Einstein: E = MC2
          (trong đó E là năng lượng, M là khối lượng vật chất, C2 là tốc độ ánh sáng lên bình phương)





    TIẾT II.
    DỊCH KINH VỚI LUÂN LÝ

    Về phương diện luân lý, Dịch chủ trương
    • cái hay, cái dở trong vũ trụ đều tương đối,
      đều phát sinh từ Thái Cực
      và đều có thể giúp con người
      thực hiện sứ mạng của mình.

    Hệ từ viết: Cát hung sinh đại nghiệp, là vì vậy.
    Quan niệm của Dịch nói trên cũng y thức như quan niệm của sách Ecclésiastique vì sách này cũng chủ trương:
    • Hay dở, sống chết, giàu nghèo,
      tất cả đều phát xuất từ Thượng đế. [33]

    Dịch dạy phải
    • Ức Âm, tiến Dương
      Nhàn tà tồn thành [34]
      tức là ngăn âm mà phò dương,
      bỏ điều xấu, giữ điều tốt, làm lành lánh dữ, khử nhân dục, tồn Thiên lý [35],
      và nhất là phải bắt chước Trời mà hành sự.

    Dịch viết:
    • Trời hoạt động mạnh mẽ,
      nên người quân tử cũng phải gắng gỏi không ngừng [36]

    Đọc Dịch ta thấy rất nhiều bài học luân lý. Xin đan cử ít nhiều ví dụ:

    • - Bậc quân tử tiến trên đường nhân nẻo đức
      (Quân tử tiến đức, tu nghiệp - Văn Ngôn Truyện)

      - Quân tử kính cẩn, giữ lòng cho ngay chính
      (Quân tử kính dĩ trực nội - Văn Ngôn Truyện)

      - Bậc quân tử khiêm cung, ở dưới thấp để nuôi đức mình
      (Khiêm khiêm quân tử ti dĩ tự mục dã - Quẻ Khiêm)

      - Người quân tử, không lễ nghĩa không theo
      (Quân tử dĩ phi lễ phất lý - Quẻ Đại tráng)

      - Người quân tử sợ hãi và tu tỉnh
      (Quân tử dĩ khủng cụ tu tỉnh - Quẻ Chấn)

      - Người quân tử quay về tu đức
      (Quân tử dĩ phản thân tu đức)

      - Người quân tử chấn áp điều xấu, khuyến khích điều tốt theo đúng mỹ ý của Trời
      (Quân tử dĩ át ác dương thiện, thuận Thiên hưu Mệnh - Quẻ Đại Hữu)

      - Người quân tử muốn giáo hóa dân mãi mãi, muốn bao dung che chở nhân dân khắp mọi nơi
      (Quân tử dĩ giáo tư vô cùng, Dung bảo dân vô cương - Quẻ Lâm)

      - Người quân tử ghi nhớ lời trước, nết xưa để hàm dưỡng đức độ mình
      (Quân tử dĩ chí tiền ngôn vãng hạnh, dĩ súc kỳ đức - Quẻ Đại súc)

      - Người quân tử nói năng cẩn thận, ăn uống chừng mực
      (Quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực - Quẻ Di)

      - Người quân tử tha lỗi, xá tội
      (Quân tử dĩ xá quá hựu tội - Quẻ Giải)

      - Người quân tử luôn đi trên đường nhân, nẻo đức và ra công dạy dỗ nguời khác
      (Quân tử dĩ thường đức hạnh, tập giáo sự - Quẻ Khảm)


    Đọc các lời khuyên của Dịch, ta liên tưởng đến câu của Tăng Tử trong Luận ngữ:

    • - Phu tử chi đạo Trung thứ nhi dĩ hĩ
      - Đạo của đức Khổng là Trung thứ mà thôi.

      Trung là tận thiện mình, Thứ là yêu người như mình. Dịch cũng không dạy gì khác.

    Tiêu Tuần gọi Dịch là một quyển sách dạy người sáng sửa những lỗi lầm.
    Thực là chí lý vậy.

              





    TIẾT III.
    DỊCH VỚI ĐẠO GIÁO

    Về phương diện đạo giáo Dịch không chủ trương những hình thức phụng thờ bên ngoài, nhưng dạy con người:
    1. Phải bắt chước Trời mà hành sự [37]
    2. Phải tẩy rửa tâm hồn cho trong sạch, và phải tiến sâu về phía tâm linh. [38]
    3. Phải tìm cho ra nguyên lý bất Dịch của cuộc đời,
      thực hiện được Thiên Mệnh,
      hợp nhất với Thái hòa, với Trời, với Đạo. [39]
    4. 4.- Tóm lại, Dịch dạy ta phải biết chuyển hóa nội tâm để trở nên Siêu nhân, Thần nhân. [40]

    Đạo của Dịch đòi hỏi sự minh triết,
    • có hiểu biết đâu là Nguyên bản,
      thì mới có thể trở về Nguyên bản được.

      Người xưa gọi thế là minh thiện, phục sơ [41]


    Dịch đã vạch cho biết Thái Cực là căn bản của vạn vật, cũng như của con người và cho biết sự chia ly, phân tán, đa đoan, phiền tạp chỉ làm cho ta xa rời Đạo thể; như vậy tức là đã mặc nhiên chỉ vẽ cho con người biết bổn phận mình là phải tìm về căn bản, hợp nhất với căn bản, bằng cách tổng hợp mọi qua phân, xóa bỏ mọi phiền tạp, sống đơn sơ, thanh thản.

    Nương theo ý Dịch, Ngộ Chân Trực Chỉ đã có thơ:

    • Tứ tượng hội thời Huyền thể tựu,
      Ngũ hành toàn xứ Tử kim minh,
      Thoát thai, nhập khẩu thân thông thánh,
      Vô hạn long thần tận thất kinh [42]

    Căn bản của vạn vật, cũng như của con người chẳng có ở đâu xa: căn bản ấy ở ngay giữa lòng biến thiên, cũng như ở giữa lòng con người.[43] Cho nên, nếu con người muốn khế hợp với Thiên chân, với Thái Cực, chỉ cần hồi quang phản chiếu, đi sâu vào chiều hướng tâm linh, định thần, phát huệ [44]

    Tất cả những nguyên tác ấy đã được các Đạo gia, Đơn gia áp dụng vào công cuộc tu thân. Đối với Thánh Hiền Trung Hoa thì:
    • 1.- Tìm ra Đạo, ra Lý, ra Nhất mới là vấn đề trọng đại[45]
      2.- Các hình thức, các hoạt động, các thành tích bên ngoài chỉ là tùy thuộc.[46]
      3.- Thực hiện được đạo lý mới là quan hệ, mới là mục phiêu của cuộc đời. Thế là đắc Đạo, đắc Nhất[47]
    • Tính mệnh Pháp Quyết minh chỉ cho rằng:
      • Tam giáo cũng đều qui về Nhất. [48]

      Các Đạo gia luôn luôn ao ước:
      • - Trở về được với Nguyên bản, đạt được tới Đạo thể[49]
        - Kết hợp với Đạo với Trời[50]

      Phùng hữu Lan viết:
      • Chân nhân quay về nguồn gốc sinh ra mình tức là Thái Nhất;
        như thế là trở nên đồng thể với trời đất, vạn vật. [51]

      Đạo gia cho rằng:
      • Âm dương có hợp nhất mới thành được Dịch, được Thái Cực.
        Âm + Dương = Dịch
        Âm + Dương = Thái Cực[52]

      Cũng một lẽ tâm hồn hay thần khí có hợp nhất thì Đạo thể hay Thái Cực mới sinh. Đó là nguyên tắc căn bản của khoa luyện đơn, cầu trường sinh bất lão của Trung hoa.
      • - Thần + tâm = Đạo (Thái Cực)
        - Thần + khí = Đạo (Thái Cực)
        - Khảm + Ly = Đơn
        - Duyên + Cống = Đơn[53]

      Huỳnh Đình Nội Cảnh có câu:
      • Nhất chí bất cửu thăng Hư Vô...

      và giải rằng:
      • ]Nhất tức là Hư Vô (Vô Cực, Thái Cực).
        Học Đạo cần phải chuyên nhất, hợp nhất với Thần Linh, như vậy có thể thành Thần Tiên vậy.

      Trang Tử nói:
      • Người nào biết Một, muôn việc đều xong [54]





    TIẾT IV.
    DỊCH VỚI NHỮNG NGUYÊN TẮC KHẢ DĨ ĐEM LẠI MỘT CUỘC SỐNG LÝ TƯỞNG

    Dịch với những Hào, Quải, với những lời Thoán, lời Tượng, chỉ có mục đích dạy ta ăn ở cho hợp Đạo Trời đất, hợp thời, hợp cảnh, hợp với thế thái, nhân tình.

    Dịch
    • chẳng những dạy ta nguyên lý và cùng đích của cuộc đời là Thiên mệnh, để thần thánh hóa bản thân,
      Dịch lại còn dạy ta cách tùy thời biến Dịch để theo Đạo, biến Dịch để cuối cùng hợp nhất được với Đạo.[55]

    Tóm lại, Dịch cho ta những nguyên tắc để sống một đời sống Lý tưởng,
    • ngoài thì hòa nhân, thuận thế, hợp cảnh, hợp thời,
      trong thì phản thân, tu tỉnh[56] dữ Đạo hợp Chân,

    tưởng không còn gì đẹp đẽ hơn. Chúng ta chỉ đan cử ít nhiều thí dụ:

    Dịch có Hào, Quải y như đời sống con người có nhiều hoàn cảnh khác nhau.
    Gặp mỗi hoàn cảnh, ở mỗi địa vị, làm mỗi công việc, đều phải có một thái độ khác nhau, một lối xử sự, thi hành khác nhau cho xứng thời, xứng vị, xứng sự v.v...

    • Gặp hiểm nguy đừng thất vọng, âu lo, hãy vững dạ tìm cách băng qua, y như dòng nước kẹt trong khe hẹp mà vẫn an nhiên, trôi chảy. Suy rộng ra, dẫu Thiên Chân, Thiên Tính của ta còn kẹt giữa những nhân dục, nhân tính, ta đừng có mất tin tưởng, phải vững dạ phấn đấu rồi ra sẽ thoát vòng (Khảm)[57]

      Muốn theo Đạo Trời, muốn thực hiện Thiên Tính, Thiên Mệnh, phải dùng hết nghị lực, cố gắng tiến tới không ngừng, như Trời chuyển vận không hề ngơi nghỉ ( Kiền)[58]

      Khi Thiên Tâm, Đạo Tâm vừa phát hiện, phải biết ấp ủ, chắt chiu, đừng vội đem dùng, để đến nỗi nó phải hư hao phát tán (Kiền, Sơ Hào)[59]

      Ở đời cái gì cũng có duyên do, trước nhỏ sau to, trước yếu sau mạnh, như thoạt thấy sương giá phải đề phòng ngay chuyện nước sẽ đông. Suy ra, mình có thể ngăn chặn được trụy lạc, loạn ly, nếu biết ngăn chặn, từ khi chúng còn mầm mộng, trứng nước (Khôn, Sơ Hào)[60]

      Sống giữa biến thiên, gió giông, sấm chớp của cuộc đời, cần phải tìm ra những giá trị hằng cửu, mà làm nơi dừng chân, dừng bước (Hằng)[61]

      Sống ở đời, phải có chỗ bám víu, dựa nương. Mặt trời mặt trăng nương tựa vào trời; cây cối, nương tựa vào đất; người quân tử phải nương tựa, bám víu vào sự công chính (Ly) [62].

      Lẽ Dịch là hết đầy thời vơi, hết thịnh thời suy. Trời đất, quỉ thần và nhân loại đều ghét sự cường thịnh sung mãn, và phù trợ, chúc phúc cho sự khiêm cung, cho nên người quân tử phải khiêm cung, mới làm nên đại nghiệp.[63]


    Nếu chúng ta đọc Dịch như vậy, Dịch sẽ trở thành pho sách đầy sự khôn ngoan, minh triết và đạo lý sâu xa.
    • Đọc Dịch để biết lẽ Dịch.
      Biết lẽ Dịch thì không còn sợ biến thiên,
      có biến thiên mới có thể tiến hóa và đạt Đạo, hợp nhất với Đạo.[64]

    Phải chăng đó là Đạo chung của Thánh Hiền thiên cổ.

    • Cát Tiên Ông viết:
      • Thiên hạ vô nhị đạo,
        Thù đồ nhi đồng qui.
        Thánh nhân vô lưỡng tâm,
        Bách lự nhi nhất trí [65]

        Tạm dịch:
        Đạo trong thiên hạ há pha phôi,
        Đường nẻo khác nhau, đích chẳng hai,
        Thánh Hiền sau trước lòng không khác.
        Lo lắng trăm dường, mối một thôi.
    • Phù Hựu Đế Quân viết:
      • Thiện căn thâm xứ, tính căn tuyền,
        Vạn pháp đồng qui, nhiệm tự nhiên,
        Tính bản đồng nguyên, tâm các cụ,
        Nhu tông hà chí dị Huyền, Thiền [66]

        Tạm dịch:
        Thiện căn, bản tính giữ chu tuyền,
        Vạn Hữu quay về gốc tự nhiên.
        Tính vốn một nguồn, tâm vẹn có,
        Nhu gia nào khác với Huyền, Thiền. [67]


    Để tổng kết lại, ta thấy rằng Dịch là một cuốn sách quí báu:

    • 1.- Dịch dạy ta nguyên ủy, thủy chung của vũ trụ và của con người, cho ta thấy nguồn gốc và định mệnh cao sang của mình[68]

      2.- Dịch giúp ta đi sâu vào lòng vật chất, vũ trụ và lòng người để tìm ra căn bản, tinh hoa, cũng như những cơ cấu, những định luật chi phối mọi sự biến thiên tiến hóa[69]

      3.- Dịch cho ta thấy 2 chiều hai mặt của vũ trụ, thấy nhẽ động tĩnh, biến hằng, và nghiên cứu những định luật, những then chốt chi phối cuộc biến thiên của vũ trụ.

      4.- Dịch cho ta thấy vòng tuần hoàn của vũ trụ, và như vậy cho ta hi vọng lớn lao là trước sau cũng có thể trở về phối hợp với Thượng Đế.

      5.- Dịch muốn giúp ta có một đời sống lý tưởng, tùy thời, tùy thế, thích nghi với hoàn cảnh, biết những nguyên tắc để tu thân, để có thể tinh nghĩa nhập thần tìm ra căn bản, nguồn gốc của mình, sống một đời sống siêu nhiên, phối hợp với Trời, với Đạo.

      6.- Như vậy là Dịch muốn cho ta phát triển, biến hóa về mọi mặt, để toàn thân ta như cây đàn muôn điệu, phát sinh ra những âm thanh tuyệt diệu, có đủ nhanh chậm, bổng trầm theo đúng nhịp điệu, tiết tấu của đất trời.

      Nói cách khác
      Dịch muốn ta có đời sống hoàn toàn về mọi mặt,
      minh triết, khinh phiêu và hạnh phúc.

              





    __________
    CHÚ THÍCH

    • [1] Phùng Hữu Lan, Trung quốc triết học sử, trang 901.
                
    • [2] Văn Đạo tử, Giảng đạo tinh hoa lục, quyển 3, trang 39.
                
    • [3] Hình nãi Đạo chi biến hóa. Đạo gia vị chi Hậu Thiên. Hậu Thiên giả, hình sắc ký trứ, tích tượng ký chiêu.
      形 乃 道 之 變 化. 道 家 謂 之 後 天. 後 天 者, 形 色 既 著 跡 像 既 昭.
      — Ib. trang 39.
                
    • [4] Tiên Thiên biểu lý, Hậu Thiên biểu sự.
      先 天 表 理 後 天 表 事.
      Cf. Nguyễn Ấn Trường, Tạo hóa thông, trang 59.
                
    • [5] Dĩ hiện tại triết học trung chi thuật ngữ ngôn chi, tắc sở vị hình nhi thượng giả siêu thời không nhi tiềm tồn (subsist) giả dã. Sở vị hình nhi hạ giả, tại thời không nhi tồn tại (Exist) giả dã. Siêu thời không giả, vô hình tượng khả kiến, cố sở vị Thái cực.
      以 現 在 哲 學 中 之 術 語 言 之, 則 所 謂 形 而 上 者 超 時 空 而 潛 存 者 也. 所 謂 形 而 下 者, 在 時 空 而 存 在. 超 時 空 者, 無 形 象 可 見, 故 所 謂 太 極.
      — Phùng Hữu Lan, Trung Quốc Triết Học Sử - trang 896 và 903.
                
    • [6] Căn bản nguyên do trung. Cứu kỳ căn bản, thật do ư trung, hiện hồ ngoại giả, bản hồ nội, chiêu hồ dụng giả, do hồ bản dã.
      根 本 原 由 中. 究 其 根 本, 實 由 於 中, 現 乎 外 者, 本 乎 內, 昭 乎 用 者, 由 乎 本 也.
      — Đại Đỗng Chân Kinh, quyển hạ - trang 11b.
                
    • [7] Đại Đỗng Chân Kinh, quyển trung - trang 5b.
                
    • [8] Abbé Th. Moreux, L’Alchimie moderne, p. 20.
                
    • [9] Lecomte du Noüy, L’Avenir de l’Esprit, page 106.
      — C’est le Leptothrix . Ib. 86.

                
    • [10] L’Avenir de l’Esprit - page 168.
                
    • [11] Pierre Rousseau, Histoire de la Science - page 769.
                
    • [12] Ib. 54.
                
    • [13] Văn Đạo Tử Giảng Đạo Tinh Hoa Lục - trang 101.
                
    • [14] Dịch viết:
      Nguyên thủy phản chung, cố tri tử sinh chi thuyết.
      Mạnh Tử viết:
      Thủy điều lý giả, trí chi sự. Chung điều lý giả thánh chi sự. Cái thánh hÛền đại đạo, hữu thủy, hữu chung, hữu bản, hữu mạt. Tri kỳ thủy, minh kỳ chung, cứu kỳ bản, cùng kỳ mạt, phương năng tòng đầu chí vĩ, đại triệt đại ngộ, hữu vãng, hữu lai, thảng nhất sự bất minh, tức nhất sự hữu mê; tri chi bất chân, tức hành chi bất thông. Học giả tất tu cùng kỳ lý, nhi hậu khả dĩ hành kỳ lý. Trí tri lực hành, khuy nhất bất khả. Kỳ lý vi hà lý? Tức thiên địa Tạo hóa chi đạo dã. Tạo hóa chi đạo, hữu thể, hữu dụng, hữu thủy, hữu chung, kỳ gian Âm Dương điệt vận, tiêu trưởng hỗ canh, biến hóa vô đoan, nhiên kỳ tối yếu xứ, tổng tại nhất khí. Nhất khí tổng bất ngoại hồ Hư Vô. Giá cá khu nữu tử, phi sắc, phi không, phi hữu, phi vô... thuận chi tắc sinh nhân, sinh vật, nghịch chi tắc thành tiên, thành phật. Tính mệnh ư thử ký, sinh tử ư thử xuất. Ngộ chi giả, lập tễ thánh vị, mê chi giả vạn kiếp trầm luân. Cùng lý giả tức cùng thử lý dã.
      — Tu Chân biện nạn hậu biên tham chứng, trang 27.
                
    • [15] Thái Hư bất năng vô khí, khí bất năng bất tụ nhi vi vạn vật. Vạn vật bất năng bất tán nhi vi Thái Hư. Tuần thị xuất nhập, thị giai bất đắc dĩ nhi nhiên dã.
      太 虛 不 能 無 氣, 氣 不 能 不 聚 而 爲 萬 物. 萬 物 不 能 不 散 而 爲 太 虛. 循 是 出 入 是 皆 不 得 已 而 然 也.
      — Chính Mông Thái Hòa Thiên (Dịch học thảo luận tập, trang 117)
                
    • [16] Thái cực tức nhất dã. Vạn vật thủy vu Nhất nhi chung vu Nhất. Tức Trang Chu xuất cơ nhập cơ chi nghĩa.
      太 極 即 一 也. 萬 物 始 于 一 而 終 于 一. 即 莊 周 出 機 入 機 之 義.
      — Tạo hóa thông, trang 52.
                
    • [17] Tạo hóa thông — trang 55.
                
    • [18] Càn sơ giả, chỉ Càn Quải vị hoạch chi sơ, phi vị Càn chi sơ Hào. Minh đạo thiên vân; Quan Càn vị hoạch thị hà hình, nhất hoạch tài thành vạn tượng sinh. Nhiên tắc Càn sơ giả, khởi phi Thái cực Âm dương vị phán chi tượng hồ.
      — Tôn bất Nhị nữ đơn thi chú trang 25b.
                
    • [19] Hậu thăng tiền giáng định nhất chu.
      後 升 前 降 定 一 周.
      — Tu chân bất tử phương, trang 113.
                
    • [20] M. Sénard, Le Zodiaque , trang 7.
                
    • [21] M. Sénard, Le Zodiaque , trang 7.
                
    • [22] Nhất bản nhi vạn thù, thử tắc vạn thù nhi qui nhất bản.
      一 本 而 萬 殊, 此 則 萬 殊 而 歸 一 本.
      — Đại đỗng thượng - trang 5a.
                
    • [23] Thị vi đồng bản ly mạt, thiên địa chi kinh.
      是 為 同 本 離 末, 天 地 之 經.
      — (Dương Hùng) Cf. Phùng hữu Lan, Trung quốc triết học sử - trang 581.
                
    • [24] Cyrille Wilzzkowski - L’Homme et le Zodiaque —pages 17-18.
                
    • [25] Dịch, Càn Quải.
      Cố vân đắc Nhất, như thử tắc tu tính dưỡng thần chi đạo, giai hợp ư Thái hòa hỹ.
      故 云 得 一, 如 此 則 修 性 養 神 之 道, 皆 合 於 太和 矣.
      LãoTử - thuyết ngũ trù Kinh chú - trang 1.
                
    • [26] Hòa hợp qui tịnh nhất xứ, cưỡng đồ viết
      和 合 歸 並 一 處 強 圖 曰
      Tính mệnh Pháp quyết Minh chỉ — quyển 7 - trang 3.
                
    • [27] Phù vật vân vân. Các qui kỳ căn.
      夫 物 芸 芸, 各 復 歸 其 根.
      Lão Tử, Đạo đức Kinh XVI.
                
    • [28] Huỳnh Đình Kinh giải - trang 1.
                
    • [29] Jean Wahl - Traité de métaphysique page 36.
                
    • [30] Lucien Goldmann - La communauté humaine et l’Univers chez Kant, page 28.
                
    • [31] Ib. page 30.
                
    • [32] Lucien Goldmann - La communauté humaine et l’Univers chez Kant, page 31
                
    • [33] Bien et mal, vie et mort, pauvreté et richesse, tout vient du Seigneur (L’Ecclésiastique 11,14)
                
    • [34] Văn Ngôn Càn nhị viết: Nhàn tà tồn kỳ thành.
      文 言 乾 二 曰: 閑 邪 存 其 誠.
                
    • [35] Văn Ngôn Khôn nhị viết: Quân tử kính dĩ trực nội.
      文 言 坤 二 曰: 君 子 敬 以 直 內.
                
    • [36] Dịch Càn Quải
                
    • [37] Dịch Càn Quải
                
    • [38] Thánh nhân dĩ thử tẩy tâm, thoái tàng ư mật.
      聖 人 以 此 洗 心, 退 藏 於 密 .
      — Dịch, Hệ từ thượng XI
                
    • [39] Càn đạo biến hóa, các chính Tính Mệnh, bảo hợp Thái Hòa.
      乾 道 變 化, 各 正 性 命, 保 合 大 和 .
      — Dịch Càn Quải.
                
    • [40] Dịch Kinh Lai Chú đồ giải - Quyển I, trang 65.
                
    • [41] Cf. Chu Dịch Xiển Chân, tựa.
                
    • [42] Ngộ Chân trực chỉ quyển 3 - trang 11.
                
    • [43] Đại đỗng chân kinh quyển thượng - trang 4b
      Sao Kiểu quyển hạ tựa - trang 1.

                
    • [44] Luyện tâm chi đạo, bất ly phản quan nguyên quyết bản căn.
      煉 心 之 道, 不 離 反 觀 原 厥 本 根.
      Huyền tông chính chỉ - trang 2b.
                
    • [45] Huyền tông chính chỉ- trang 2b.
                
    • [46] Nhất Lý khả quán vạn tượng. Vạn Tượng bản hồ nhất Lý. Tu Đạo chi sĩ tại minh kỳ Lý, nhược nệ văn chấp Tượng, tắc khứ đạo viễn hỹ.
      一 理 可 貫 萬 象. 萬 象 本 乎 一 理. 修 道 之 士 在 明 其 理, 若 泥 文 執 象, 則 去 道 遠 矣.
      Văn Đạo Tử giảng đạo tinh hoa lục - trang 53.
                
    • [47] Tử Dương Ông viết:
      Khuyến quân cùng thủ sinh thân xứ,
      勸 君 窮 取 生 身 處
      Phản bản hoàn nguyên thị dược vương
      反 本 還 元 是 藥 王
      Hựu vân:
      又 云
      Cùng thủ sinh thân thụ khí sơ,
      窮 取 生 身 受 氣 初
      Mạc quái thiên cơ câu tiết tận.
      莫 怪 天 機 俱 洩 盡
      Kim Đơn yếu quyết 1b.
                
    • [48] Tính Mệnh Pháp Quyết quyển 7 - trang 3.
                
    • [49] Phản bản qui chân
      反 本 歸 真.
      — Huyền Tông chính chỉ hậu ký, trg 1a
      Dữ Đạo vi nhất
      與 道 為 一.
      — Ib 1a
                
    • [50] Dĩ nhân hợp Thiên. Thiên tâm ký hợp, Đạo lực diệc toàn.
      以 人 合 天. 天 心 既 合, 道 力 亦 全.
      Ib 1a
                
    • [51] Chân nhân phản kỳ sở sinh, vị thủy phân ư Thái Nhất tức năng dữ thiên địa vạn vật vi nhất thể giả dã.
      真 人 反 其 所 生, 未 始 分 於 太 一 即 能 與 天 地 萬 物 為 一 體 者 也.
      — Phùng hữu Lan Trung Quốc Triết học sử, trang 481.
                
    • [52] Âm dương hợp bão nhi thành Thái Cực.
      陰 陽 合 抱 而 成 太 極 .
      — Đại đỗng Chân Kinh - Quyển thượng - trang 4.
                
    • [53] Phát minh vị sinh chi tiền bản lai diện mục, trúc cơ luyện kỷ, hàm dưỡng căn nguyên, phối hợp Khảm Ly, nhi thành đại dược.
      發 明 未 生 之 前 本 來 面 目, 築 基 煉 己, 涵 養 根 源, 配 合 坎 離 而 成 大 藥.
      — Thái Thượng Huỳnh Đình ngoại cảnh ngọc kinh, thượng quyển, trang 21 (Chú)
                
    • [54] Nhất chí bất cửu thăng Hư Vô.
      一 至 不 久 升 虛 無
      Nhất giả, Vô chi xưng dã.
      一 者 無 之 稱 也
      Học đạo chuyên nhất dữ Linh đồng thể, thần tiên khả trí dã.
      學 道 專 一 與 靈 同 體 神 仙 可 致 也
      Trang tử vân Nhân năng tri Nhất, vạn sự tất.
      莊 子 云 人 能 知 一 萬 事 畢 .
      Thượng Thanh, Huỳnh Đình nội cảnh kinh, trang 13b.
                
    • [55] Dịch biến Dịch dã, tùy thời biến Dịch dĩ tòng Đạo dã.
      易 變 易 也 隨 時 變 易 以 從 道 也.
      — Chu Dịch Đại Toàn - 4a
                
    • [56] Thánh nhân tác Dịch... dĩ giáo nhân phản thân tu tỉnh.
      聖 人 作 易 ... 以 教 人 反 身 修 省.
      — Dịch Kinh Lai Chú đồ giải - quyển 3 - trang 4
                
    • [57] Cf. The I Ching (Wilhelm Baynes) (Quẻ Khảm) quyển III — trang 174.
                
    • [58] Tượng viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức
      象 曰: 天 行 健, 君 子 以 自 強 不 息
      (Kiền Quải, Tượng viết)
                
    • [59] Sơ cửu, tiềm long vật dụng.
      初 九 潜 龍 勿 用
      (Kiền Quải, Sơ Hào)
                
    • [60] Sơ lục, lý sương, kiên băng chí.
      Tượng viết:
      Lý sương kiên băng; Âm thủy ngưng dã, tuần trí kỳ đạo, chí kiên băng dã.
      初 六, 履 霜, 堅 氷 至.
      象 曰:
      履 霜 堅 氷; 陰 始 凝 也, 馴 致 其 道, 至 堅 氷 也.
      (Khôn, Sơ Lục)
                
    • [61] Tượng viết: Lôi phong hằng, Quân tử dĩ lập bất Dịch phương.
      象 曰: 雷 風 恒. 君 子 以 立 不 易 方
      (Hằng, Tượng viết)
                
    • [62] Tượng viết: Ly lệ dã, nhật nguyệt lệ hồ thiên, bách cốc thảo mộc lệ hồ thổ, trùng minh dĩ lệ hồ chính, nãi hóa thành thiên hạ.
      象 曰: 離 麗 也, 日 月 麗 乎 天, 百 穀 草 木 麗 乎 土, 重 明 以 麗 乎 正, 乃 化 成 天 下
      (Ly, Thoán viết)
                
    • [63] Khiêm hanh quân tử hữu chung...
      Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm, địa đạo biến doanh nhi lưu khiêm, quỉ thần hại doanh nhi phúc khiêm. Khiêm tôn nhi quang, ti nhi bất khả du, quân tử chi chung dã.
      謙 亨 君 子 有 終...
      天 道 虧 盈 而 益 謙﹐ 地 道 變 盈 而 流 謙. 鬼 神 害 盈 而 福 謙 ... 謙 尊 而 光, 卑 而 不 可 輸, 君 子 之 終 也
      (Khiêm, Thoán từ)
                
    • [64] Dịch, biến Dịch dã, tùy thời biến Dịch dĩ tòng Đạo dã
      易 變 易 也 隨 時 變 易 以 從 道 也.
      — Chu Dịch Đại Toàn, 4a
      Biến Dịch nhi hậu hợp Đạo.
      變 易 而 後 合 道 .
      — Ib 4a
                
    • [65] Tây Sơn quần tiên hội chân ký, trg 1a.
                
    • [66] Huyền tông chính chỉ - trang 10a.
                
    • [67] Huyền là Đạo Lão. Thiền là Đạo Phật.
      Ý nói cả 3 đạo Nho Thích Lão cũng đều chủ trương mọi tâm hồn đều cùng có chung một tính Trời, chỉ cần giữ vẹn tính Trời ấy, là hợp nhất được với Đạo. Hợp nhất với Đạo chính là mục đích của vũ trụ, vì vạn hữu rồi ra cũng quay về gốc về nguồn ấy cả.
                
    • [68] Exposé des théories relatives à la genèse des mondes et à leur transformation.
      — Louis Chochod- Hue la mystérieuse-p.183.
      C’est en cherchant à transfigurer le limité et à le rendre digne de l’immortalité... qu’un homme peut découvrir le sens profond de la vie et échappe à la stérilité spirituelle
      - L’homme et le Zodiaque, p.201.
                
    • [69] Pénétration plus intime et plus profonde de l’Essence des choses.
      — Ib 202
      - Approfondir sa connaissance du monde pour comprendre la loi intime qui le régit.
      — Ib. 202



    <== trước ==                    == sau ==>
    -- về Mục Lục --

              
Last edited by Hoàng Vân on Chủ nhật 28/08/16 21:53, edited 2 time in total.
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Hoàng Vân đã viết: Sau đó, tôi lại nhận thấy rằng Trời ở trong tâm khảm mình, Chân, Thiện, Mỹ là ở trong mình. Nên biến thiên, tiến hóa, hay Hằng Cửu cũng nằm gọn trong mình. Đi tìm tòi nơi xa vời, nghe tuyên truyền, dụ dỗ, nhất nhất đều là mê vọng.
:yes3:

Hoàng Vân đã viết: [*]10). Xưa nay, các nhà bình giải Kinh Dịch, chưa ai phân biệt quẻ Kép khác quẻ Đơn cái gì?
Tôi nhận định như sau:
  • Quẻ Đơn tượng trưng cho Vạn Hữu,
  • quẻ Kép tượng trưng cho Mọi hoàn cảnh mà vạn hữu và nhân quần gây nên trong khi giao tiếp với nhau.
Thượng Kinh & Hạ Kinh viết lại 64 quẻ, tức là đưa ra 64 hoàn cảnh tượng trưng, để dạy cho con người phương pháp sử xự cho khéo léo, tùy theo mỗi hoàn cảnh mình gặp.
Nói "Quẻ đơn tượng trưng cho Vạn Hữu", nghe phổ quát, bao la quá hà. Đơn giản (theo cách hiểu lờ mờ của Nghi), quẻ đơn tượng trưng cho căn nguyên, cốt, nguyên thuỷ của một việc (đang đề cập tới). Quẻ kép thì hoàn toàn đồng ý, nó tượng trưng cho 'vạn hữu' khi chịu tác động (giao tiếp) của nhân quần.

Vì vậy, nói đến Kinh Dịch là nói đến sự không ngừng biến hoá, mà mỗi tác động dù lớn dù nhỏ lên mỗi việc, tuỳ vào tâm linh cùng căn cơ lành hay dữ, nông hay sâu, của mỗi người, sẽ suy nghiệm ra mỗi kết quả khác nhau, phương pháp sử xự khác nhau, để đưa đến cuộc diện khác nhau. Bởi vậy, Nghi thấy (là Nghi thấy thôi nghe) luận bàn về Dịch, đừng tranh đúng sai hay hơn thua mà mệt, bởi tâm linh và căn cơ của mỗi người mỗi khác, nếu không khác thì 'level' cũng khác....

Nghi mạo muội lạm bàn, luôn dịp tham gia nghiên cứu học hỏi nhe anh Hoàng Vân.
:flower:[/font]
Carpe diem
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Vịnh Nghi đã viết:...
Vì vậy, nói đến Kinh Dịch là nói đến sự không ngừng biến hoá, mà mỗi tác động dù lớn dù nhỏ lên mỗi việc, tuỳ vào tâm linh cùng căn cơ lành hay dữ, nông hay sâu, của mỗi người, sẽ suy nghiệm ra mỗi kết quả khác nhau, phương pháp sử xự khác nhau, để đưa đến cuộc diện khác nhau. Bởi vậy, Nghi thấy (là Nghi thấy thôi nghe) luận bàn về Dịch, đừng tranh đúng sai hay hơn thua mà mệt, bởi tâm linh và căn cơ của mỗi người mỗi khác, nếu không khác thì 'level' cũng khác....

Nghi mạo muội lạm bàn, luôn dịp tham gia nghiên cứu học hỏi nhe anh Hoàng Vân.
:flower:
  • .. :allright: :flwrhrts: ..

    Nghi thấy cái gì thì cứ nói đi mà .. anh cám ơn .. :yes3: .. anh vừa đăng vừa học, nên kể như là chưa biết gì.

    anh mắc cười vì tác giả Nhân Tử Nguyễn văn Thọ, ngay trong phần nhập môn mà dùng từ "quẻ", "quải", "quái", "quẻ đơn", "quẻ kép", cứ làm như người đọc (và học) đã biết Dịch hay từng bói Dịch ... :giggles: ...



    ví dụ sau đây
    Hoàng Vân đã viết:....
    ...
    Nhìn vào đồ bản Phân cung quái tượng thứ tự ở đầu sách Chu Dịch bản nghĩa, ta thấy quẻ nào biến hóa đến nửa chừng cũng biến thành quẻ đối lập, mãi tới chung cuộc mới phục hồi được nguyên bản.

    Ví dụ ta lấy quẻ Kiền (Càn), ta thấy nó biến hóa qua 8 giai đoạn như sau:

    • I
      1/ Kiền 2/ Cấu 3/ Độn


      Kiền khí bị tiêu hao dần

      II
      4/ Bĩ 5/ Quan 6/ Bác


      Một sự biến thiên điên đảo lớn xảy ra:
      1/ Nội quái ở I biến thành ngoại quái ở II
      2/ Ở II, ta thấy nội Quái thuần có Khôn


      III
      7/ Tấn


      Giai đoạn phục hồi bắt đầu

      IV
      8/ Đại hữu


      Ở IV ta lại thấy Nội Quái là Kiền. Như vậy Kiền phục hồi nguyên thể.


    ....
    ....



    Ta thấy quẻ nào cũng có quẻ đối nhau hay là ngược nhau, từng đôi một.
    ...

    ...


    nói về 8 giai đoạn biến của Kiền,
    anh nhìn vậy, biết vậy
    (ok từ [(1,1,1,1,1,1) Kiền] qua [(1,1,1,1,0,1) Đại Hữu])
    nhưng không hiểu gì hết .. :lol: ...


    anh cố tìm hiểu tại sao NTNVT lại nói
    ta thấy quẻ nào biến hóa đến nửa chừng cũng biến thành quẻ đối lập, mãi tới chung cuộc mới phục hồi được nguyên bản.


    một hồi lâu thì mới hiểu "nội quái" là (n,n,n,-,-,-), "ngoại quái" là (-,-,-,n,n,n)
    và chàng muốn cho thấy là
    nội quái Kiền (1,1,1,-,-,-)
    biến thành Khôn (0,0,0,-,-,-) ở 4,5,6,7
    để trở về Kiền (1,1,1,-,-,-) ở 8

    ......

    rồi qua tới phần Nhu đối Tụng, Sư đối Tỉ
    chàng không nói đối là sao ??
    anh tưởng đơn giản là đối của (1,1,1,0,1,0) là (0,0,0,1,0,1) vì Càn đối với Khôn
    nhưng không phải như vậy mà là (0,1,0,1,1,1), là hoán vị của nội ngoại quái .. :o ..
    (hehe .. nếu là hoán vị thì .. đối của (1,1,1,1,1,1).. là (1,1,1,1,1,1) .. :tng: ..)


    :giggles:
    anh nghĩ là những người viết về Dịch, không viết sách "giáo khoa" toán được
    (những tay này đi thi sư phạm toán là rớt liền tù tì .. :rotfl: ..)
    và anh hy vọng sẽ có dịp giải lại 1 cách đơn giản hơn và mạch lạc hơn, khi đã hiểu đôi chút ..

    Nghi thấy có gì cần giải thêm hay bàn loạn thì cứ nhảy vô bất cứ lúc nào nhé .. anh rất là cám ơn .. :flwrhrts: ..




              
Last edited by Hoàng Vân on Thứ sáu 26/08/16 23:11, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Hoàng Vân đã viết: nói về 8 giai đoạn biến của Kiền,
anh nhìn vậy, biết vậy
(ok từ [(1,1,1,1,1,1) Kiền] qua [(1,1,1,1,0,1) Đại Hữu])
nhưng không hiểu gì hết .. :lol: ...


Tác giả giải thích hơi rắc rối & khó hiểu cho nên anh Hoàng Vân mới không hiểu á :lol: Và, Thuần Kiền (1,1,1,1,1,1) không biến thành Đại Hữu (Hoả Thiên Đại Hữu = 1,0,1,1,1,1) anh Hoàng Vân tui ơi :mrgreen:

Quẻ 1,1,1,1,0,1 như anh Hoàng Vân viết, là quẻ Đồng Nhân - Thiên Hoả Đồng Nhân. :tng:

Thật ra, Nghi hiểu đơn giản hơn xí thì như vầy nè....
Theo nguyên lý dương trưởng âm tiêu, âm trưởng dương tiêu, sự biến thiên của quẻ sẽ tuần tự như sau: (tiếc là Nghi không vẽ tượng hào trong quẻ được, nên sẽ dùng "1" là hào dương, "0" là hào âm hén)

Ví dụ quẻ:
Thuần Kiền = 1,1,1,1,1,1 => thay đổi lần 1 sẽ từ hào 1 (dương) ở nội quái thành âm, and so on...
Thiên Phong Cấu = 1,1,1,1,1,0
Thiên Sơn Độn = 1,1,1,1,0,0
Thiên Địa Bĩ = 1,1,1,0,0,0
Phong Địa Quán = 1,1,0,0,0,0
Sơn Địa Bác = 1,0,0,0,0,0
Thuần Khôn = 0,0,0,0,0,0

Đó là một vòng tuần hoàn âm dương suy thịnh, để rồi từ Thuần Khôn là cực âm, dương lại sinh....

Thuần Khôn = 0,0,0,0,0,0
Địa Lôi Phục = 0,0,0,0,0,1
Địa Trạch Lâm = 0,0,0,0,1,1
Địa Thiên Thái = 0,0,0,1,1,1
Lôi Thiên Đại Tráng = 0,0,1,1,1,1
Trạch Thiên Quải = 0,1,1,1,1,1,1
trở về Thuần Kiền = 1,1,1,1,1,1

Hoàng Vân đã viết:anh cố tìm hiểu tại sao NTNVT lại nói
ta thấy quẻ nào biến hóa đến nửa chừng cũng biến thành quẻ đối lập, mãi tới chung cuộc mới phục hồi được nguyên bản.
rồi qua tới phần Nhu đối Tụng, Sư đối Tỉ
chàng không nói đối là sao ??
anh tưởng đơn giản là đối của (1,1,1,0,1,0) là (0,0,0,1,0,1) vì Càn đối với Khôn
nhưng không phải như vậy mà là (0,1,0,1,1,1), là hoán vị của nội ngoại quái .. :o ..
(hehe .. nếu là hoán vị thì .. đối của (1,1,1,1,1,1).. là (1,1,1,1,1,1) .. :tng: ..)

Hổng phải là hoán vị mà chỉ là nguyên lý âm trưởng dương tiêu vice versa như trên kia thôi hà anh Hoàng Vân. Còn như tác giả giải thích,
ta thấy quẻ nào biến hóa đến nửa chừng cũng biến thành quẻ đối lập, mãi tới chung cuộc mới phục hồi được nguyên bản.

thì 'nửa chừng đối lập' ở đây, có lẽ tác giả muốn nói nội quái của quẻ chính, biến hoá đến nửa chừng (biến lần thứ 3) thì thành quẻ đối lập với nội quái của quẻ biến. Ví dụ:

Quẻ Nhu (Thuỷ Thiên Nhu), ngoại quái là Thuỷ (Khảm), nội là Thiên (Càn) = 0,1,0,1,1,1
biến lần 1 = Thuỷ Phong Tĩnh, ngoại là Thuỷ, nội là Phong (Tốn) = 0,1,0,1,1,0
biến lần 2 = Thuỷ Sơn Kiểm, ngoại là Thuỷ, nội là Sơn (Cấn) = 0,1,0,1,0,0
biến lần 3 = Thuỷ Địa Tỷ, ngoại là Thuỷ, nội là Địa (Khôn) = 0,1,0,0,0,0....Lúc này nội quái của quẻ biến đã 'đối lập' với nội quái quẻ chính.

Cái dụ "phục hồi được nguyên bản" thì....còn lâu :lol: vì phải qua chu kỳ biến hoá nữa để trở về nguyên bản (nếu Nghi hiểu không sai ý của tác giả)
Vài dòng lạm bàn gọi là múa rìu qua mắt thợ cho xôm.... :giggles:
Carpe diem
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • hihi .. nhờ Nghi mà anh có được vài quy tắc & định nghĩa căn bản để mà còn học & bàn dài dài .. :wink2: ..
    • hào là đơn vị của Dịch , Dương = Vạch liền = 1, Âm = Vạch gãy = 0
    • nếu dùng số, thì đếm từ trên xuống
      (thí dụ Nhu là (0,1,0,1,1,1) chứ không phải (1,1,1,0,1,0) như anh đã viết


      và như vậy, Tụng = (1,1,1,0,1,0), Sư = (0,0,0,0,1,0) .. vv ..

                
    • quái = 3 hào , nội quái = 3 hào dưới , ngoại quái = 3 hào trên

    . :flower:

              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Vịnh Nghi đã viết:...
Thật ra, Nghi hiểu đơn giản hơn xí thì như vầy nè....
Theo nguyên lý dương trưởng âm tiêu, âm trưởng dương tiêu, sự biến thiên của quẻ sẽ tuần tự như sau: (tiếc là Nghi không vẽ tượng hào trong quẻ được, nên sẽ dùng "1" là hào dương, "0" là hào âm hén)

Ví dụ quẻ:
Thuần Kiền = 1,1,1,1,1,1 => thay đổi lần 1 sẽ từ hào 1 (dương) ở nội quái thành âm, and so on...
Thiên Phong Cấu = 1,1,1,1,1,0
Thiên Sơn Độn = 1,1,1,1,0,0
Thiên Địa Bĩ = 1,1,1,0,0,0
Phong Địa Quán = 1,1,0,0,0,0
Sơn Địa Bác = 1,0,0,0,0,0
Thuần Khôn = 0,0,0,0,0,0

Đó là một vòng tuần hoàn âm dương suy thịnh, để rồi từ Thuần Khôn là cực âm, dương lại sinh....

Thuần Khôn = 0,0,0,0,0,0
Địa Lôi Phục = 0,0,0,0,0,1
Địa Trạch Lâm = 0,0,0,0,1,1
Địa Thiên Thái = 0,0,0,1,1,1
Lôi Thiên Đại Tráng = 0,0,1,1,1,1
Trạch Thiên Quải = 0,1,1,1,1,1,1
trở về Thuần Kiền = 1,1,1,1,1,1

...
  • Vòng Âm Dương suy thịnh từ Thuần Khôn về Thuần Khôn trong 12 bước thì Nghi đã trình bày đơn giản và dễ hiểu .. :allright3: ..

    Nghi có thể cho Thủy Thiên Nhu đi 1 vòng tuần hoàn được không ? cho anh thấy Âm trưởng Dương tiêu rồi Dương trưởng Âm tiêu như thế nào .. :dntknw: ..

    :flwrhrts:
              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • theo cách của Nghi, anh đi 12 bước như vầy từ Nhu về Nhu .. :D ..
    • 010111
      010110
      010100
      010000
      011000
      001000
      101000
      101001
      101011
      101111
      100111
      110111
      010111

    . :flower:

              
Trả lời

Quay về “Tổng hợp”