Đạo Đức Kinh - Khảo Luận
____________________________
I. Tiểu sử Lão Tử
C. .. theo Lão Tử Biến Hóa Kinh [35]
老 子 變 化 經
1. Những từ có trước đất trời,
Vui trong thái thủy tuyệt vời ngao du.
2. Thung dung từ thủa thái sơ,
Khi còn chưa có bến bờ đục trong.
4. Tịch nhiên tiêu sái, (5.) vô song,
Trước trời, trước đất thung dung vui hòa.
Hai bề ẩn, hiện lại qua,
6. Ẩn là Thái nhất, hiện ra là người.
Đục trong biến chuyển dòng đời,
Thần ngài mới mượn hình hài thế nhân.
7. Mượn lòng Lý mẫu giáng trần,
Bảy hai năm chẵn gửi thân mẹ lành.
8. Mượn nơi đất Sở giáng sinh,
Môi dày, miệng rộng, thiên đình nở nang.
Có văn tam ngũ rõ ràng,
Hai vừng nhật nguyệt ẩn tàng quang hoa;
9. Mũi hai sống, lỗ tai ba,
10. Chân hai chữ ngũ, tay hoa số mười.
Thiên nhiên vô dục tính trời,
Vô vi ấy chính nết người ở ăn.
Giúp trời lại giúp thánh quân.
11. Tam hoàng âu cũng nhờ ân hộ trì.
Đời người ẩn ước ly kỳ,
Biến thiên ảo hóa huyền vi khôn lường.
12. Gặp khi vận nước nhiễu nhương,
Hôn quân vô đạo tìm đường ẩn thân,
Giã từ nước Sở, lánh trần,
Cưỡi con bạch lộc băng chừng Côn Lôn,
Dặm Tần mù mịt nguồn cơn,
13. Người xưa vết cũ, nay còn thấy đâu.
Tinh hoa trời đất gồm thâu.
14. Đạo trời đạo đất gót đầu chốt then.
Sinh cơ chủ chốt diệu huyền,
15. Muôn thần, vạn thánh mọi miền, quản cai.
Âm dương mặc sức phân phôi,
Là hồn, là phách muôn loài thụ sinh.
16. Hư vô chưởng quản mặc tình,
Biến thiên huyền hóa siêu linh tuyệt vời.
Bao trùm khắp tám phương trời,
Đất thời lo chở, trời thời lo treo.
17. Ruổi rong nhật nguyệt khinh phiêu,
Tinh huy vận chuyển muôn chiều chẳng ngơi.
Chư thần Lục Giáp nương hơi,
Càn khôn cũng mặc ý người ruổi rong.
18. Tứ thời chuyển biến thong dong,
Hai chiều nóng lạnh mặc lòng xở xoay.
Tiêu phù cầm gọn nơi tay,
Chữ vàng, thẻ ngọc sẵn bày từ khi.
20. Lão quân sáng tối tùy nghi
Tồn vong, đại tiểu, cao đê tung hoành.
21. Khuất thân, tiến thoái mặc tình,
22. Không gì thoát khỏi uy linh của người.
Đi vào nước lửa như chơi,
Dầu lâm họa hoạn, pha phôi nhẽ nào.
23. Gặp cơn bức bách chẳng sao,
Vương thương, vết tích tơ hào chẳng khi.
Trường sinh chẳng có hạn kỳ,
24. Tiêu thân, diệt thể, quyền uy vô ngần.
Sánh đôi mà vẫn đơn thân,
Cô đơn mà vẫn chẳng phần lẻ loi.
Ngài luôn gần gũi con người.
25. Không ai có thể sánh tài vô vi,
Chẳng ai mà chẳng phải tùy,
Người người đều dõi bước đi của ngài.
Hành vi Lão tử để đời,
26. Lời ngài giảng dạy, mấy người tinh thông.
27. Ngài sinh ngoài cõi cửu trùng,
Những điều biến hóa mung lung khôn lường.
Biết ta chín kiếp nhân lương,
28. Đời ta mà biết lối đường ta hay.
29. [Không dịch] [52]
Ta là chín vị sau đây.
30-38
Họ Lý 李 Tên Lão Đam 老聃 Tự Nguyên Dương 元陽
Họ Lý 李 Tên Trung 中 Tự Bá Dương 伯 陽
Họ Lý 李 Tên Thạch 石 Tự Bá Quang 伯 光
Họ Lý 李 Tên Thạch 石 Tự Tử Quang 子 光
Họ Lý 李 Tên Trạch 宅 Tự Tử Văn 子 文
Họ Lý 李 Tên Nguyên 元 Tự Tử Trường 子 長
Họ Lý 李 Tên Nguyện 願 Tự Tử Thủy 子 始
Họ Lý 李 Tên Đức 德 Tự Tử Sinh 子 生
Họ Lý 李 Tên Đức 德 Tự Bá Văn 伯 文
39. Ngài sinh cùng với Hư vô,
Tùy thời ly hợp trầm phù tiến lui.
Khi lui, nguyên thể tài bồi,
40. Đến khi tiến bước, dạy đời, dạy vua.
41. Thời Phục Hi, tên Ôn Sủng tử,[53]
42. Thời Thần Nông, lấy chữ Xuân Thành;[54]
43. Thời Chúc Dung, gọi Quảng Thành,[55]
44. Đến đời Chuyên Húc, Xích Tinh là người. [56]
45. Thời Đế Cốc, tên ngài Chân tử,[57]
46. Thiên Lão khi cộng sự Hiên Viên;[58]
47. Thời Nghiêu, tên gọi Mạo Thiềng,[59]
48. Thời Thuấn, Quách Thúc là tên của ngài. [60]
50. Thời Hạ Võ, tên thời Lý Nhĩ,[61]
51. Thời Ân Thang, đích thị Tư Cung. [62]
52. Đời Văn, ngài thủ thư tàng,[63]
53. Đến đời vua Võ, tên mang Vệ Thành. [64]
54. Đời Thành vương, tên Thành gọi lại,[65]
55. Nguyên Khang 5, lại tái giáng trần;[66]
Trong lòng mẹ bảy hai năm,
56. Ra đời mới gọi tên bằng Lý Đam.
Ngài cũng có Bá Dương là tự.
Và từng là quản thủ thư tàng;
Bảy trăm tuế nguyệt chứa chan,
57. Băng chừng Sở quốc, lai hoàn cố hương.
Lại gặp khi Bình vương ngoan cố.
Đạo đức trời tới độ suy vi.
58. Ngài liền bỏ Sở ra đi,
Băng chừng tây tiến lâm ly dặm trường.
59. Đến Hàm Cốc, gặp quan Doãn Hỉ,
Đạo đức kinh ngài ký thác cho;
60. Thời Tần, Kiển Thúc cũng là,[67]
61. Tên ngài Phù Khánh [68] thời Hồ nhiễu nhương.
62. Thời nhà Hán, Vương Phương Bình gọi,[69]
(Mỗi khi cần, ngài mỗi hiện ra;)
63. Năm đầu niên hiệu Dương Gia,[70]
Thành đô núi Tước hiện ra đường hoàng.
64. Năm đầu niên hiệu Kiến Khang,
Đỉnh non Bạch Lộc, rỡ ràng quang hoa. [71]
65. Năm đầu niên hiệu Thái Sơ,
Nơi đền Bạch Lộc hiện ra với đời. [72]
66. Kiến Hòa vào khoảng năm 2,
Lão quân lại hiện cửa ngoài Thành đô. [73]
69. Năm đầu Vĩnh Thọ hiện ra,
Đầu non Bạch Lộc xưng là Bộc Nhân. [74]
Những là lẳng lặng trầm ngâm,
Dẫu ai gạn hỏi cũng không trả lời.
70. Đời sau lập miếu thờ ngài,
Xưng ngài Thiên Phó, tên ngài hiển linh. [75]
71. Ngài rằng:
Ta vui trong cảnh Thái thanh,
Quang hoa xử sự, tinh thành trị dân.
72. Nhiệm huyền biến hóa tấm thân,
Lấy tuần lâm tử, làm tuần phục sinh.
Chu du bốn biển phiêu khinh,
Tứ thời bát tiết Huỳnh đình vào ra.
Dòng đời khinh khoát vượt qua,
73. Tam hoàng mỗi bước ta đà theo chân.
Tam thai ta đội làm khăn,
Áo ta đã được dệt bằng Hư vô.
Phàm phu sao biết được ta,
74. Tử sinh, phản phục, biết là bao phen.
Dân ta đông đảo muôn miền,
Phàm phu ngoài mặt, mà tiên đáy lòng.
75. Quang huy thu liễm vào trong,
Tinh thần sung mãn bởi không hao gầy.
Ai về ta tưởng đêm ngày,
76. Ta luôn phù trợ phút giây chẳng rời.
Ai mà mơ đến ta hoài,
Hiển linh, ta sẽ vì người hiện ra.
Cơ đồ nhà Hán phôi pha,
77. Xót vì, ta lại sinh ra ở đời.
Phàm phu nhảy nhót dể duôi,
Nhưng mà trí giả nghe lời bảo ban.
Đất trời nghiêng ngửa nguy nàn,
78. Ta bèn chuyển hóa mà toan cứu đời.
Nay ta lựa chọn hiền tài,
79. Người hay người phải, ta thời nhận ra.
Những ai mà muốn tìm ta,
80. Sách ta hãy đọc cho qua vạn lần,
Tội khiên phải biết tự tân,
Làm người tri kỷ, tri thân mới là.
Ta đây chẳng ở đâu xa,
Thần người cùng với Thần ta khác nào.
81. Cha con tưởng nhớ gần sao,
Bằng không nhớ tưởng, xa bao dặm đường.
Chớ nên biếng nhác buông tuồng,
82. Biếng lười, thần có cũng nhường như không.
Theo ta mau mắn mới mong,
Mới mong ta tháo gỡ tung buộc ràng.
Trắng, xanh ngoài mặt ngỡ ngàng,
83. Vàng, đen ẩn áo tiềm tàng bên trong.
Sinh ta, màu đỏ ấy công,
Ta sinh từ Nhất, từ trong điểm vàng.
84. Rượu nồng người chớ có ham,
Để ta đem đạo, chỉ đàng nẻo cho.
Tu thân người phải nên lo,
Tâm thần an tĩnh, lòng hồ như vơi!
85. Vô vi, vô dục thảnh thơi,
Lầm than, hoạn nạn có đời nào đâu !
Cốc thần khăng khít trước sau,
Con đường giải thoát cơ mầu là đây.
86. Lìa ta, suy tưởng dông dài,
Tâm thần lạc lõng, càng ngày càng mê.
Cương nhu cân nhắc mọi bề,
Hai chiều thành bại, đi về do ta.
Tả biên sinh khí mới là,
87. Hữu biên tử khí, giữa là Hoàng trung.
Giữa là Hoàng khí mung lung,
Nguyên dương nghi ngút muôn trùng cửu tiêu.
88. Khuyên chư đồng tử sớm chiều,
Tiềm tâm tu luyện, để theo Đạo mầu.
89. Ta đà căn dặn từ lâu,
Kim tinh lệch lạc thì cầu tới ta.
Mau mau rong ruổi mới là,
90. Gặp ta Nam Nhạc, sẽ qua nguy nàn.
Chớ đừng bịn rịn tơ vương,
Xuân ngày Quí tỵ nên thương thả tù.
91. Đâu đâu dân cũng âu lo,
Bệnh tình chất ngất, ngã cơ đầy đường.
Ta nay hoán cải mối giường,
92. Cơ đồ nhà Hán tan hoang từ rày.
Dân ta đã biết, đã hay,
Tránh điều vạ gió, tai bay sá nào.
93. Những người thành khẩn thanh cao,
Việc ta thông tỏ tơ hào khó chi.
94. Ý ta hiền thánh minh tri,
Phàm phu nào biết vân vi gót đầu.
95. Bao lần giáng thế trước sau,
Theo dòng lịch sử cơ mầu biến thiên.
Hiểu ta hỏi mấy thánh hiền,
Chê ta, vô số phàm hèn bấy nay.