Mùa Trăm Hoa Cũ Và Những Chàng Nhân Văn Giai Phẩm

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Mùa Trăm Hoa Cũ Và Những Chàng Nhân Văn Giai Phẩm

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Mùa Trăm Hoa Cũ
    Và Những Chàng Nhân Văn Giai Phẩm







    Bạn bè thỉnh thoảng gặp nhau bên ly cà phê tách trà. Sau chuyện trò về gia đình, con cái, việc làm, họ vẫn thường chung cuộc với chút chén văn chương và những nghĩ suy có bấn bíu lòng. Gần đây, trong một cuộc tranh luận, thuật dụng chữ nghĩa của Hoàng Cầm và Trịnh Công Sơn đã được nhóm bằng hữu mang ra bàn cãi so sánh. Có lẽ sự ẩn dụ hai mang của ngôn từ và điệp ngữ lửng lơ trong thơ trong nhạc đã giúp họ trong sáng tác, thành danh, và sự an thân. Dù sao thì đàn bò vào thành phố băng qua lối mòn phản chiến ngoại ô hay chiếc lá diêu bông bên kia sông và người chị buổi thiếu thời từ cuối một làng quê nào đó đã giúp họ sống-còn mà đi qua vườn ổỉ xanh thơm, hay bận bịu phân bua về một mùa thu Hà Nội đỏ lá bàng, xanh cốm mới.

    Thật sự, tôi đã không còn nghĩ nhiều về những điều trên mà mãi bận lòng nhớ về những người tuổi trẻ trung thực nhiệt thành, hiên ngang bước chân qua cổng trước của khu vườn Nhân Văn Giai-Phẩm để rồi chịu cheo leo suốt cả quãng đời dài. Tôi nghĩ nhiều về những người tuổi trẻ biết ghét biết yêủ, viết văn làm thơ thời trăm hoa đua nở. Tôi muốn được một lần về thăm lại những người giữ vườn tuổi giữa thanh niên đã một thời dùng máu lệ mình tưới thắm một mùa trăm-hoa cũ. Những Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, Trần Lê Văn, Bùi Quang Ðoài, Tạ Hữu Thiện với bao nỗi ngậm ngùi.

    Năm 1956, giữa những ngày Cộng Sản Hà Nội còn đang hăng máu với cuộc Cải Cách Ruộng Ðất ? hoàn toàn thắng lợỉ thì những sự kiện sửng sốt, không ngờ, dồn dập xảy đến trong hàng ngũ Cộng Sản quốc tế và chế độ miền Bắc.

    Giới văn thi sĩ trí thức ở miền Bắc trước kia đã chân thành hợp tác với Cộng Sản trong công cuộc kháng chiến dân tộc chống thực dân Pháp nay thấy mình bị lợi dụng, bạc đãi, khinh miệt và cuối cùng là áp bức, khủng bố tới mức độ không thể chịu đựng nổi. Giai Phẩm 1956 ra đời có những bài viết nêu lên thối nát của chế độ. Trong bài Cái chổi quét rác rưởỉ, Phùng Quán nói rằng chế độ miền Bắc đầy rác rưởi dơ bẩn và một nhà văn như anh sẽ tình nguyện làm cái chổi quét cho sạch rác rưởi đó. Bài viết như một tuyên ngôn khởi đầu cho cuộc khởi nghĩa văn học.

    Trong bài Ông Bình Vôỉ, Lê Ðạt đã ám chỉ công kích bọn cán bộ lãnh đạo:

    • Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
      Y như một cái bình vôi
      Càng sống càng tồi
      Càng sống càng bé lại
      Hữu Loan thì uất ức:
      Một điều đau xót
      Trong chế độ chúng ta
      Trong chế độ ?Dân chủ Cọng hòả
      Những thằng nịnh hót còn thênh thang đất sống…


    Trong Giai Phẩm Mùa Xuân, thơ Trần Dần tả sự khổ cực, thiếu thốn, thất nghiệp của vợ chồng tác giả. Họ đi giữa Hà Nội, không thấy phố không thấy nhà mà chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ. Cụ Chương Dân Phan Khôi, một sĩ phu Văn Thân đất Quảng Nam, người nho sĩ tiết tháo cuối cùng đại diện cho cả hệ thống Nho Giáo từ hơn hai nghìn năm trước, đơn thương độc mã đối đầu với ý thức hệ Marxism và chế độ Cọng Sản với một ý chí đấu tranh tới cùng:

    • Nắng chiều tuy có đẹp,
      Tiếc tài gần chạng vạng.
      Mặc dù gần chạng vạng
      Nắng được thì cứ nắng (1956)


    Trong Giai Phẩm Mùa Thu tập I ra đời ngày 29 tháng 8 năm 1956, bài viết Phê bình Lãnh đạo Văn nghệ của cụ Phan Khôi như quả bom chấn động cả Hà nội đã gây nên cuộc chiến tranh văn học giữa trí thức miền Bắc với Ðảng. Từ tháng Tám 1956, Hà Nội như một khu vườn với hàng trăm loài hoa đua nở. Cụ Phan Khôi cùng Nguyễn Hữu Ðang, Trần Duy xuất bản báo Nhân Văn. Giới sinh viên thì cho ra đời tờ Ðất Mới do Bùi Quang Ðoài làm chủ bút. Các báo phát hành từ trước như tuần báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính, tờ Thời Mới, cũng hưởng ứng phong trào cho đăng những loạt bài đả kích Ðảng. Về phía báo Ðảng thì có những tờ Cứu Quốc, Nhân Dân, Học Tập, báo Văn (sau khi báo Nhân Văn bị đóng cửa). Ðối đầu những văn thi sĩ trẻ viết văn làm thơ đấu tranh chống Ðảng là những Con ngựa già của Chúa Trịnh (truyện Phùng Cung), những tay cặp-rằng văn nghệ chạy theo Tố Hữu như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Ðình Thi… hay tiêu biểu cho một nhóm nhỏ văn nhân xu thời, xoay xở, lúc nịnh lúc chưởi như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, cốt sao được ăn trên ngồi trước.

    2. Trong khu vườn trăm-hoa đã vụt trỗi lên nhóm nhà văn trẻ tuổi. Họ tiêu biểu cho lớp thanh niên lớn lên trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống thù chung. Họ đã hi sinh, chịu đựng gian khổ, tranh đấu giành lại độc lập cho đất nước để rồi cay đắng hiểu ra rằng tự do, dân chủ, bình đẳng, ấm no, là lớp bánh vẽ xa vời mà chế độ Cộng Sản chỉ hẹn hò mà không thực sự mang lại. Họ trở thành tầng lớp quần chúng văn nghệ phải chịu cảnh đời cơ cực bất công trong cuộc sống kinh tế, đồng thời bị áp bức kìm hãm khủng bố trong sáng tác. Văn thơ của họ là tiếng nói của con người thiên nhiên khác xa với lớp lối biện chứng vô sản hiện thực thiếu lương tri. Thơ đã thành tiếng gọi của Tự Do. Ngoài những đóng góp của Minh Hoàng (Vũ Tuyên Hoàng), Trần Lê Văn (cháu nhà thơ Trần Tế Xương), kịch tác gia Hoàng Tích Linh, thơ văn của Trần Dần, Phùng Quán, Tạ Hữu Thiện, Bùi Quang Ðoài, Phùng Cung, là tiếng gọi sang sảng sấm truyền, đã chân thành nói lên được nghĩ suy tự đáy lòng mình cho dù ai cầm dao dọa giết. Phùng Quán, sinh năm 1932, người trẻ tuổi nhất trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Là một nhà văn chân thật trọn đờỉ, ông làm thơ để quét sạch những rác rưởi trong xã hội. Thơ ông là lời tuyên thệ trung thành với tâm hồn của mình, suốt một đời người. Năm 1956 ông chống tham ô lãng phí:

    • …Tôi không nói quá
      Về Nam Ðịnh mà xem
      Ðài xem lễ, họ cao hứng dựng lên
      Nửa chừng thiếu tiền bỏ dở

      Mười một triệu đồng dầm mưa dãi gió
      Mồ hôi máu đỏ mốc rêu.
      Những con chó sói quan liêu
      Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng!…


    Năm 1957 ông nhớ lời mẹ dặn làm người chân thật:

    • …Yêu ai cứ bảo là yêu
      Ghét ai cứ bảo là ghét
      Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
      Cũng không nói yêu thành ghét.
      Dù ai cầm dao dọa giết
      Cũng không nói ghét thành yêu.
      Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời
      Ðường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
      Sét nổ trên đầu không xô ngã tôi
      Bút giấy tôi ai cướp giật đi
      Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá?


    Phần tư thế kỷ sau, thơ Phùng Quán vẫn đam mê chơn chất: Có nơi nào trên trái đất này Mật độ đắng cay như ở đây? Chín người mười cuộc đời rạn vỡ Bị ruồng bỏ và bị lưu đày… Có nơi nào trên trái đất này Mật độ đam mê như ở đây? Yêu đến phải vào nhà thương điên Thơ đến phải bị còng tay… Có nơi nào trên trái đất này Mật độ yêu thương như ở đây. Mỗi tấc đất có một người quỳ gối Dâng trái tim và nước mắt Cho nỗi đau của cả loài người…

    Trần Dần sinh năm 1924 tại Nam Ðịnh. Vào những năm cuối trung học, chịu ảnh hưởng Baudelaire và Verlaine, ông bắt đầu sáng tác thơ theo thể lối tượng trưng, vận dụng âm điệu để diễn tả những rung động của tâm hồn. Chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, ông vào bộ đội tham gia kháng chiến. Năm 1951, ông về Hà Nội nhận công tác viết báo cho cục Quân Huấn và phụ trách giảng dạy về văn nghệ nhân dân trong những lớp đào tạo cán bộ văn công. Bị phê bình giảng dạy sai đường lối của Ðảng, ông xin ra công tác ở mặt trận Ðiện Biên Phủ. Xúc cảm trước sức chiến đấu của bộ đội và cái chết thê thảm của bạn đồng hành Tô Ngọc Vân, Trần Dần sáng tác Người người lớp lớp. Nhờ tập sách này ông được Ðảng cho đi Trung Quốc để viết lời dẫn bằng tiếng Việt cho cuốn phim Chiến thắng Ðiện Biên Phủ. Trần Dần rất bất mãn vì bị cán bộ chính trị dốt nát về văn chương đã dùng quyền lực sửa chữa từng chữ từng câu của ông. Về đến Việt Nam, ông cùng một số văn nghệ sĩ đảng viên khác như Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Ðỗ Nhuận, viết kiến nghị yêu cầu hạn chế sự can thiệp của cán bộ chính trị vào lãnh vực văn nghệ. Trong thời gian này, Trần Dần tự tiện lấy vợ. Người yêu của ông là một thiếu nữ tiểu tư sản, theo đạo Thiên Chúa. Nàng sống bơ vơ một mình ở phố Sinh Từ vì bố mẹ họ hàng đã di cư vào Nam. Vì bị Ðảng cấm đoán, Trần Dần tự ý xin ra khỏi Ðảng, cùng vợ sống trong cơ cực để được yêu thương nhau. Không lâu sau đó, Tố Hữu, ủy viên trung ương Ðảng phụ trách lãnh đạo văn nghệ, ra lệnh bắt Trần Dần mang nhốt trên một nhà giam ở Việt Bắc vì ông đã công khai phê bình đả kích cuốn Thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tin Trần Dần bị bắt gây dư luận bất mãn trong giới trí thức kháng chiến. Ðảng bèn phải đưa Trần Dần về mạn xuôi, bắt đi theo chiến dịch Cải Cách Ruộng Ðất và cho vợ ông một chân may vá ở mậu dịch Hà nội. Năm 1956, nhóm văn nghệ sĩ kháng chiến nổi lên đấu tranh chống Ðảng bằng cách cho xuất bản tập Giai Phẩm Mùa Xuân. Hoàng Cầm đến xin vợ Trần Dần bản thảo bài thơ Nhất định thắng ông viết năm 1954 để in trong Giai Phẩm. Số báo này vừa in xong thì bị tịch thu ngay. Ðảng gọi Trần Dần về Hà Nội, mang ra ? đấủ giữa một hội nghị có đông đủ các văn nghệ sĩ, quy Trần Dần tội phản động chống Ðảng. Bị giam cầm trong nhà pha Hỏa Lò ở Hà Nội, Trần Dần quá uất ức dùng dao cạo cứa cổ nhưng không chết. Vết sẹo như là một dấu hiệu của sự áp bức văn nghệ dưới chế độ Cộng Sản. Tháng Tám năm 1956, Việt Cộng tuân theo chỉ thị của Ðệ Tam Quốc Tế, phát động phong trào sửa sai. Giai Phẩm Mùa Thu và báo Nhân Văn, đấu tranh mạnh mẽ hơn, cụ Phan Khôi và Hoàng Cầm trong bài viết Con người Trần Dần lên tiếng phản đối việc khủng bố Trần Dần và vụ tịch thu tờ Giai Phẩm Mùa Xuân. Bị công kích quá mạnh, Ðảng phải thả Trần Dần về. Nhóm Giai Phẩm tái bản tờ Giai Phẩm Mùa Xuân trong đó có bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần. Bài thơ dài hơn năm trăm câu, bắt đầu bằng tiếng thở dài.

    • Tôi ở phố Sinh Từ:
      Hai người Một gian nhà chật
      Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui?…


    Bài thơ nói lên sự đói rét và nỗi u buồn trong lòng dân miền Bắc sau ngày đất nước chia đôi. …

    • Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
      Ðất hôm nay tấm tả mưa phùn
      Bỗng nhói ngang lưng máu rỏ xuống bùn
      Lưng tôi có tên nào chém trộm?
      A ! Cái lưỡi dao cùn!
      Không đứt được? mà đau!
      Chúng định chém tôi làm hai mảnh
      Ôi cả nước! Nếu mà lưng tôi lạnh
      Hãy nhìn xem: có phải vết dao?
      Không đứt được mà đau!
      Lưng Tổ Quốc hôm nay rướm máu…


    Cuối năm 1957, Trần Dần gửi đăng bài thơ “Hãy đi mãi” trên báo Văn nói lên ý chí cương quyết đấu tranh đòi tự do đến cùng. Hãy đi mãi! Dù khi cần thiết người ta cần đói khát vượt bình xa.

    • … Nếu tôi bị gió sương đầu độc,
      một hôm nào ngã xuống giữa đường đi
      tôi sẽ ngã như người lính trận
      hai bàn tay chết cứng vẫn ôm cờ…


    Tạ Hữu Thiện là một sinh viên viết văn làm thơ theo phái hiện thực xã hội. Lớn lên với tấm lòng đơn giản nhiệt thành anh thắp sáng thơ mình đi tìm tình yêu, đi tìm tâm hồn biết ghét biết yêu giản đơn hòa hợp như anh. Giữa xã hội miền Bắc khô cạn tình người và lối giáo dục cộng sản lọc lừa, lời thơ anh trở thành tiếng gọi đắng cay, tiếng lòng tự hỏi về một phương trời khác nơi anh sẽ tìm ra người yêu trong mộng một đời?

    • Trong các bạn có chăng người yêu dấu
      Mà bấy lâu tôi vẫn gắng công tìm?
      Ðó chính là người tôi chửa gặp
      Mới là người tôi ấp ủ trong tim.
      Trên tất cả thành phần lý lịch
      Trên cao sang, trên sắc đẹp diễm kiều.
      Em, trọn cuộc đời tôi kiếm gặp
      Chỉ là người biết ghét biết yêu.


    Bùi Quang Ðoài là sinh viên Văn Khoa sau ngày Cọng Sản tiếp thu Hà Nội. Anh làm chủ bút tờ báo vắn số Ðất Mới, cơ quan tranh đấu chống Ðảng của sinh viên. Truyện ngắn “Lịch sử một câu chuyện tình” của Bùi Quang Ðoài đăng trong số báo đầu tiên và cũng là cuối cùng là nguyên nhân anh bị đuổi khỏi trường và đưa đi kiểm thảo, học tập. Trong truyện ngắn này có câu văn lãng mạng:

    • Em hãy đếm những vì sao trên trời
      được bao nhiêu thì anh yêu em còn hơn thế nữa


    sau này đã được nhiều người trích dẫn trong thơ truyện của mình.

    • Ðường trăng mà không sáng!
      Bóng mây đã che mờ hẳn trăng đêm.
      Ánh đèn trong những gian phòng khu học xá
      chiếu hắt ra như những vì sao thứ tự?


    Ðoạn văn trau chuốt mang hơi hưởng Tự Lực Văn Ðoàn là dòng khơi từ cho truyện ngắn tả lại không khí sinh hoạt trong khu Học xá ở Hà Nội dưới sự kiểm soát của Ðảng. Truyện kể lại một vụ cán bộ Ðảng dùng uy quyền chính trị chiếm đoạt tình yêu của một nữ sinh Hà Nội thuộc thành phần gia đình tiểu tư sản. Phùng Cung đồng chia cảnh ngộ với các văn thi sĩ trẻ khác trong nhóm Nhân văn Giai Phẩm đã phải sống-trong-cảnh-chết rất nhiều năm. Sau ngày “Con ngựa già của Chúa Trịnh”, ông đã phải sống trong tận cùng nỗi thấm đau phẩm giá con người của bần cùng, sợ hãi, di lụy, kinh hoàng. Ðăng trên báo Nhân Văn số 4, truyện ngắn “Con ngựa già của Chúa Trịnh” có ngụ ý đả kích văn thi sĩ thành danh trước kia như Xuân Diệu, Hoài Thanh, Cù Huy Cận, chỉ vì ham được vinh thân thăng tiến trong hệ thống Ðảng mà cam tâm tôi đòi cho chế độ. Ðời sống tôi mọi đã làm thất thoát khả năng văn nghệ cũng như tâm hồn và lương tri của người cầm viết. Truyện viết về con Kim Bông là một quý mã. Thuở ấy chúa Trịnh đang cần tuyển mộ một đoàn kỵ binh để bình định đất nước. Kim Bông được chủ là Lão Nông thuận cho rời

    Phương Lộ, một thôn làng hẻo lánh phía Nam chân núi Tản, về chốn kinh thành mà theo Trịnh Chúa Công xông pha chiến trận. Kim Bông phi như gió, giả lại đàng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long. Trong ngày hội đua tuyển mã, con Kim Bông đã làm kinh hồn táng đởm hàng nghìn ngựa tốt từ các nơi đem về. ?Chỉ trong chớp mắt, con Kim Bông đã vượt lên hàng đầu, vừa hí, vượt lên, chân trước khoăm lại như móc sắt, đuôi bay như giải phướn, tưởng như chân nó không hề chạm đất?. Sau cuộc đua, con Kim Bông được tặng danh hiệu Bạch long Thiên lý mã và chọn làm mẫu mực để luyện tập cho cả đoàn ngựa chiến của triều đình. Từ đó nó cùng bầy ngựa chiến xông pha chiến trận, trải nhiều trận vào sinh ra tử?. Cho đến một ngày con Thiên lý được Chúa Trịnh chọn cho làm mã lệnh và được vào ở trong phủ Chúa. Trong mã đài, ngày ngày chỉ ăn và tắm hoặc đứng yên cho mã phu cắt tỉa từng sợi mao, vuốt ve từng chiếc lông đuôi. Con Thiên lý dần rồi quen với gấm điều kim tuyến trên lưng và xa giá sơn son thếp vàng nó kéo đến đâu cũng vang rền lời tiền hô hậu ủng. Những lúc như vậy, nó cảm thấy mình quan trọng hẳn lên và đẹp rực rỡ như phượng hoàng. Có lần được lệnh kéo chúa Trịnh đi duyệt một đoàn quân kỵ mã, con Thiên lý nhìn hàng quân kỵ oai dũng, chợt nhớ thuở tung hoành xưa, nó ngẩng đầu cất cao tiếng hí. Bầy ngựa chiến òa lên cười chế nhạo. Thôi bác ạ! Ðừng khoe tài nữa, chúng em đây ngại bác không rời được khỏi cái xe của Chúa! Rời ra thì thóc kia trộn mật ai ăn? Con Thiên lý uất lên, muốn thoát khỏi xe xông thẳng ra ngoài để tỉ sức, nhưng trên xe lại giật cương? nên đành phải cắm đầu đi, lòng vẫn còn tin mình còn đủ sức phi lên hàng đầu. Một ngày kia, Chúa Trịnh vì phải thân chinh đi dẹp loạn nên truyền đem mã lệnh ra đua trường ôn dượt trước khi ra trận. Viên tướng kỵ binh cúi đầu tâu. Muôn tâu Chúa công, hiện nay trong triều đình thiếu gì ngựa chiến có dư sức vượt hàng nghìn dặm, và đã từng dự trên dưới một trăm trận. Xin Chúa công để tiểu tướng được chọn dâng một con chiến mã có sức khỏe vào bậc nhất. Còn như con mã lệnh, cứ nên để nó kéo xe; vì từ khi đem nó vào phủ Chúa, nó ăn thì nhiều lại không hề luyện tập, tài nó ắt không được như trước. Vẫn còn tin ở tài con mã lệnh, Chúa bèn hạ lệnh cho mang con Thiên Lý ra tỉ sức cùng các chiến mã khác để tiện bề kén chọn. Con Thiên lý được dịp rời phủ Chúa ra đua trường. Hai cái lá đa đã được cất đi. Nó bàng hoàng nhìn giời, nhìn đất, mắt nó hoa hoa, đầu nó choáng váng. Cảnh vật như quay chong chóng, cây như mọc ngược, núi như đổ xuống. Vừa gặp đồng loại một cái, nó cố dóng hai tai bóp bụng lại lấy hơi hí một tiếng để dương oai. Nhưng tiếng hí của nó vừa hé ra thì cụt lủn như có vật gì nút lấy mõm. Các đồng loại của nó cũng nhe răng ra cười rồi cùng cất tiếng hí làm cho nó càng uất. Không chờ tiếng trống lệnh, nó đã lồng lên, tức thì các đồng loại của nó cũng bỏ vạch rượt theo. Tiếng trống liên hồi, con Thiên lý càng cắm đầu cắm cổ chạy. Nó đã tưởng mình thắng cuộc, nó đắc chí ngoảy đầu lại thì bọn ngựa chiến đã tới sát đàng sau. Chỉ trong chớp mắt nó bị tụt lại. Không chịu, nó càng lồng lên. Bổng nó thấy nhói một cái ở trong ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh, nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. Nó gắng mở to hai mắt, rên lên một tiếng như nói rằng: Tiếng tăm lừng lẫy như ta chỉ có thể chết ở chiến trường. Nhưng, than ôi! Bãi cỏ này cũng là bãi chiến trường, chết thế này cũng là chết vì giang sơn, vì Chúa! Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngóc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như cố để giữ lấy cái thế cao đầu phong vĩ ? Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua từ sau mùa trăm hoa Nhân Văn Giai Phẩm 1956.

    Những con người tuổi trẻ muốn làm nhà văn chân thật trọn đời đã hiện thực giấc mơ được làm người-tự-do trong tư tưởng. Họ chắt chiu lấy giấc mơ mình như niềm hạnh phúc lẫn bi thương đã hiện hữu cùng với sự lựa chọn được làm người-chân-thật. Họ đã trả đắt giá cho sự lựa chọn cao quí của mình để làm người biết ghét biết yêủ nhiều khi trong giam cầm, đói khát, hãi hùng. Sau nhiều năm quá trễ, tập đoàn Cọng Sản qua những tay cặp-rằng văn nghệ miền Bắc có làm vài bản tự kiểm, xét lạỉ nửa vời, kẻ cả, và xem ra thỏa mãn với hành vi sửa saỉ tiến bộ của mình. Thực tế thì hai mươi năm sau ngày đấu tố ruộng đất, cuộc đấu tố văn học lại tái diễn vào những năm sau 1975, như Tần Thủy Hoàng đã thẳng tay đốt sách chôn học trò hằng ngàn năm trước ở Trung Hoa. Và hiện nay, bề bộn từng đống báo lề phải, công an mạng, tường lửa, luật an ninh mạng? Những năm hòa bình ngắn ngủi ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Ðệ Nhất Cọng Hòa vừa giúp manh nha những hoạt động văn học có kích thước thì ngọn lửa chiến tranh dấy động bởi Cọng Sản miền Bắc dưới chiêu bài giải phóng đã đốt cháy tất cả vốn liếng vừa gom. Chúng ta hiểu tại sao những nguồn tư tưởng triết học vĩ đại của Trung Hoa rực sáng tiên phong suốt thời Ðông Chu Liệt Quốc chỉ để rồi trì trệ thụ động suốt hai ngàn năm sau đó. Chúng ta hiểu tại sao, đã gần thế kỷ qua và có thể còn lâu trong tương lai, Việt Nam vẫn chờ đợi một nhà thơ lớn, một nhà văn lớn, một tác phẩm lớn.

    (Viết theo tài liệu từ Ðặc san “Trăm Hoa Ðua Nở trên đất Bắc”, Tủ Sách Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa Sài Gòn, 1959)

    Phan thái Yên



    Nguồn:http://tandaiviet.org




              
Trả lời

Quay về “câu chuyện văn chương”