Chuyện người đàn bà khi cuộc chiến tàn

Trả lời
Hình đại diện
thiên thanh
Bài viết: 1352
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 11:49
Nơi ở: Phố Cổ

Chuyện người đàn bà khi cuộc chiến tàn

Bài viết bởi thiên thanh »

          
Hình ảnh


Chuyện người đàn bà khi cuộc chiến tàn


Chị Thương dồn ba đứa con vào một góc lều xong. Chị cầm một cái cán cuốc chống cái bạt cho căng. Nước mưa ào ào đổ hòa cùng tiếng gió rừng hú ghê rợn. Chị chống phía trái thì sập bên phải. Rút cục không chống nổi với mưa gió cái lều tạm dựng bị sụp hoàn toàn. Mấy đứa con áo quần tóc tai ướt đẩm như chuột lột. Một đứa con thứ hai tên cu Tèo lấy tay dụi nước mưa trên trán rồi khóc lóc hỏi mẹ :
- Mẹ ơi ! Tại sao mẹ lại bỏ hết nhà cửa mà tự nhiên tới ở chỗ này ?

Chưa kịp cắt nghĩa cho con nghe. Thằng anh của Tèo là cu Tới đang cởi cái áo ra vắt nước cho khô phân trần với em :
- Không phải tại mẹ tự nhiên ra cái khu Kinh tế mới này đâu. "Giải phóng" tịch thu nhà mình rồi đuổi đi đó em. Mai mốt lớn một xíu nữa rồi hiểu hoàn cảnh đau buồn của mẹ.

- Thế có phải mấy người mang súng cùng nhóm người mang khăn quàng đỏ vứt bỏ sách vở bàn học cuả em lại một chỗ rồi đốt hết không vậy ?

- Ừa. Tao nhớ không lầm là trước ngày lấy nhà rồi đưa mình lên đây tao thấy lố nhố người lạ mặt cộng mấy ông trên Phường với lại đội quân ô hợp lung tung phèng tới giật cướp tống khứ tất cả mẹ con nhà mình nữa đó.

Hai anh em đang trao đổi chuyện qua rồi mà cơ hồ như còn in đậm mãi trong đầu.Cơn gió rừng tạt mạnh làm thằng cu Út tên Cường run cầm cập. Nó mở cái rương đựng áo quần tìm một bộ đồ. Một vài con chuột lù lù chạy ra. Nó hoảng hốt la ơi ới. Chị Thương cũng vừa trở về khi đi tìm một người đàn ông ở dưới chân núi để nhờ dựng lại các cây cột. Thấy chuột mừng quá . Mẹ con chị Thương không ai bảo ai tự động cầm cây chạy đuổi bắt. Chuột lủi mau quá thế là lại được tiếp tục ăn bo bo gạo thúi với rau rừng.

Đêm xuống chậm. Bầu trời biến dần những đám mây đen. Cơn mưa tạm dứt. Người đàn ông giúp dựng lại cái lều xong rồi nhìn chằm chặp vào mặt chị Thương đoạn nói bâng quơ :
- Hết mưa cuối chân trời có ráng mây hồng, đỏ, tím đẹp thật. Cảnh đẹp người đẹp.

Chị Thương không nhịn được cười :
- Cảnh chết chóc thế này mà anh lại mơ mộng quá đổi.

- Tôi cũng muốn mớm một chút khôi hài với chị thôi mà. À mà quên hỏi chị anh đâu rồi ?

Chị Thương bậm môi nghiêm nét mặt nhìn xa xăm rồi trả lời nhát gừng :
- Chồng tôi thấy còn sức lực nên xung phong đi làm Thủy lợi đào kinh cũng ở trong Tỉnh này thôi.

- Chị có dấu diếm gì tôi không đấy. Phần đông những gia đình đi Kinh tế mới ra đây là vợ con bọn "Nguỵ quân, Nguỵ quyền ". Chúng nó được Cách mạng khoan hồng cho đi học tập cải tạo cả rồi. Chị Thương đổi sắc mặt :
- Xin lỗi anh là ai mà chạy theo a dua chửi những người Chiến sĩ bảo vệ miền đất Tự do dân chủ là “Ngụy”.

- Tôi nói cô biết cô lầm rồi. Tôi là Cán bộ trong ban cai quản cái khu Kinh tế mới này. Bây giờ cô còn mở miệng phản động.

- Tôi tưởng anh là người cùng hoàn cảnh bị đày ra chốn này như tôi. Thế thì tôi không dám tiếp chuyện với quan quyền đâu.

Người cán bộ mở lời mật ngọt:
- Thôi mà người đẹp. Cho mình đùa vui một tí xem nào.

- Xin lỗi. Anh đừng có trở giọng sàm sỡ. Yêu cầu anh có thái độ lịch sự tối thiểu đối với tôi.

- Được rồi ở đó mà hỗn hào. Nhớ mặt nghe sẽ biết tay mà.

Chị Thương bỉu môi trương mắt nhìn người Cán bộ bước chân đi.

Cả bốn mẹ con như nằm ngủ dưới trời. Chị Thương nhớ lại từng khúc phim thời buổi hai vợ chồng mới quen nhau tham gia sinh hoạt hướng đạo đi cắm trại tại vùng biển. Hồi đó vui chi lạ. Càng nghĩ chuyện cũ chị thiếp đi lúc nào không hay.

Ngoài kia tiếng gió xào xạc,tiếng côn trùng như khóc than ai oán trong cái đêm tỉnh mịch của rừng sâu.

***

Trong trại tù gọi là cải tạo. Anh Việt chồng chị Thương đếm trên ngón tay đi trình diện học tập 10 ngày mà thắm thoát bao nhiêu năm cùng tháng tận đi qua vẫn nằm trong rọ cũi sắt giữa núi đồi. Cứ mỗi lần tới ngày lễ thì anh nghe phong phanh hy vọng được thả. Hôm nay cả trại được ăn đặc biệt hơn mọi khi. Quản giáo ra lệnh là trong số 10 người chia một thau cơm trắng. Việt nằm trong cái tổ làm phận sự chia cơm. Chia cho 8 người xong đến lượt phần người thứ 9 bị người bạn nào đó vô tình đụng vào làm rớt xuống đất cát. Việt lấy phần cuả mình trao cho bạn đồng thời lấy chổi quét đi để tránh tình trạng người khác tiếc của bốc lên ăn vào làm đau bao tử mà chết. Chờ mọi người ăn xong Việt chuồn xuống nhà bếp đi lục lọi cơm cháy mà trước đó Việt biết có một số trại viên nấu bếp thường để dành phơi khô cho những lúc đi lao động thiếu ăn.

Việt giở cái chảo này lên, mở cái nắp soong kia ra tìm được miếng cơm cháy. Hếch lỗ mũi lên vì sung sướng. Quay mặt lui bị một bàn tay ông quản giáo chận trước mặt :
- À ra mầy. Có người báo cáo là mầy đổ cơm tao chưa trị tội mầy phản loạn nội quy. Giờ mầy lại vô nhà bếp định ăn cắp phá hoại gì nữa đây ?

Nói vừa dứt câu. Quản giáo xuống lệnh đánh kẻng cho toàn trại họp để phê bình kiểm thảo.

Năm người mang đòn gánh và cái mền ở ngoài khuôn viên trại nơi cái lều phong vương (bệnh sắp chết đưa vào đây) mới bước vào. Quản giáo quát tháo dọa nạt :
- Tụi bây khiêng chôn có 3 người mà đi cả buổi. Thôi ! khoan đem cất dụng cụ vào kho để đó để chôn cái thằng này nữa.

Tất cả trại viên sững sờ nhìn mặt nhau đoán mò. Thời gian gần đây ngày nào cũng có người chết vì sốt rét, chết vì đói, chết vì bị tra tấn hành hạ, chết vì những cái cùm nhục hình. Ai cũng lo lắng không biết lúc nào tới lượt mình. Chết ở chiến trường là chuyện chiến tranh. Còn chết sau cơn binh lửa đã tàn nơi cái nhà tù nhìn qua về máu đỏ da vàng một mẹ Việt Nam tức tưởi nhục nhã lắm. Cho nên mọi tù nhân cố lê lết nở nụ cười trước lưỡi hái tử thần để còn mong sum họp với gia đình.

Khi người trại viên cuối cùng lùa đàn heo ngoài vòng đai vào trại. Cũng là lúc trưởng trại tù lên tiếng :
- Hôm nay ta đã bắt gặp thằng Bác sĩ Quân y hèn hạ. Thằng Sĩ quan “Ngụy” vô nhà bếp ăn cắp. An ninh đem nó ra đây trình diện.

Việt bị trói hai tay ra phía sau. Việt đứng như bức tượng sống. Một gã bộ đội sấn tới đạp một cái vào hông rồi chế diễu:
- Tất cả chúng mầy thấy chưa. Cách mạng ta không có những hạng người này. Mầy có ý kiến gì tao cho mầy khai.

Việt khoan thai trả lời:
- Ngày nào các ông cũng bắt chúng tôi khai báo lý lịch. Các ông nói ai khai đúng làm tốt thì cho về sớm. Chúng tôi có người giữ đàn bò, có người giữ đàn heo, cho các ông làm thịt ăn riêng. Chúng tôi vào rừng lao động khổ sai chín chết một sống. Chúng tôi bệnh không có thuốc. Chúng tôi chết bạn bè không có ai dám khóc. Chúng tôi là người mà các ông xem như là súc vật. Chúng tôi là người Việt Nam mà các ông cứ chụp mũ phản động như là người nước ngoài xâm chiếm. Chuyện tôi nhường phần cơm cho bạn để rồi chính tôi phải ăn một miếng cơm cháy để sống có gì là tội. Một Bác sĩ hành nghề là để cứu mạng sống con người các ông còn đày vào đây cho chết. Các ông vì lợi ích xã hội ở chỗ nào mà trả thủ đành đoạn nhứ thế này đã chứ ! Bao nhiêu Kỹ sư, Chuyên viên, Giáo sư về Khoa học kỹ thuật, giáo dục các ông tống vào đây cho làm rẫy, phá rừng, giữ chó giữ gà để vợ con người ta không nơi nương tựa thế nào gọi là đạo đức.

- Câm mồm đi. Đồ quân ác ôn. An ninh đâu đem thằng này đi cùm cho đến chết.

***

Nơi cái khu Kinh tế mới giết người không gươm dao cũng chẳng khác gì trại tù giam cho kiệt sức mà chết. Phần thì đói không có ăn. Phần thì đi phá rừng chỉ thấy cây cối trồng trên cát sạn. Phần thì bệnh không có thuốc uống. Các con đứa thì bị phù thủng, đứa bị ghẻ lở từ mặt tới chân, đứa thì mỗi lần ỉa là cả chùm sán lãi theo ra. Chị Thương thì đêm hôm phập phùng lo sợ không biết cái băng trong ban quản trị bất lương hành hạ người già đàn bà con nít lao động trong hoàn cảnh nghiệt ngã rồi bệnh mà chết như nhiều người bà con ở đây đã bị. Người dân quá khổ thành thử không ai có đủ trí lực để quan tâm kẻ khác cùng hoạn nạn. Cán bộ thì ngang tàng phách lối coi nhẹ đời sống dân bị đày lên đây. Chị Thương nhớ rõ mồn một mãi cái cảnh một người bị rắn cắn cả một đội lao động cuốc đá bó tay. Cán bộ có thuốc trừ rắn cắn cũng không cho viện cớ là để dành quan chức. May thay có cô con gái nào đó biết cách chữa mẹo. Cô ta thọc tay vào chỗ kín rồi phết lên nơi phần rắn cắn cho kẻ bị nạn. Thế là nọc độc bị rút đi mà khỏi chết.

Thấy con cái càng ngày càng đói ăn không chịu nỗi bởi chúng nó quen sống cảnh sung túc. Chị Thương cùng nhiều người đồng cảnh ngộ vạch ra con đường thoát chạy khu ma vương ôn dịch này.

Thế rồi trốn về được phố đi tìm nhà người bạn học cũ xin tá túc. Việc đầu tiên là chị Thương nghĩ tới thôn quê miền Trung nơi mà ông bà nội sáp nhỏ sống ở đó. Có thể về ngoài ấy mà cũng có thể vá víu sống tạm bợ trong cái hẽm này đến đâu hay đó. Mấy đứa con chạy lăng xăng như kẻ lạc loài trong phố cũ. Thằng con lớn nhớ da diết bạn bè cô giáo mà không biết làm sao mà được trở lại lớp. Thằng con thứ hai thèm cầm quyển vở và cái vụ làm trò chơi. Chúng nó mất hết cả rồi. Thằng con út thấy mẹ ngồi rũ rượi bắt chí trên đầu. Nó buột miệng :
- Mẹ ơi ! Mẹ nói ba đi làm xa sao không gởi tiền về cho mẹ mua gạo muối cho chúng con ăn hở mẹ? Con nhớ ba con nhớ nhà. Mà mẹ đưa con về lại nhà đi.

Chị Thương nghĩ tới căn nhà tạo dựng bằng mồ hôi nước mắt khi không bị người thắng cuộc nhân danh Cách mạng “Giải phóng” mà mượn dài hạn đi rồi.Bàn cờ ra nông nỗi thế này cũng tại mình đời bắt làm kẻ thua cuộc. Chị giấu hết nước mắt tang thương trong lòng rồi vuốt tóc con vỗ về:
- Ba con đi làm lâu ngày mới có nhiều tiền đó con. Hôm nào mẹ con mình tha hồ mà ăn uống no đủ.

Chị Thương kêu hai đứa cu Tèo, cu Tới cùng ngồi bệt xuống đất nghe lời dặn dò:
- Con cu Tới lãnh phận sự lên ga tàu bán báo. Thằng cu Tèo lo chuyện theo mẹ đi lượm đồ ve chai phế thải.

Thằng cu Tèo méo miệng:
- Con không chịu đâu. Con thấy đường phố xe díp (Jeep) như ba chạy đón con đi học về hồi nào. Sao mẹ không cho con vô trường lại. Khi ở trên rừng chưa về đây mẹ hứa với con rồi mà.

Thằng cu Tới chen vào:
- Thôi em muốn đi học thì theo anh đi bán báo. Báo in đầy rừng chữ Xã hội Chủ nghĩa tha hồ mà ngồi đầu đường xó chợ đọc với học.

Chị Thương mớm lời dạy con:
- Nghề nào cũng được miễn là đừng làm nghề ăn cướp cả ngày lẫn đêm như bọn người lớn nhan nhản hàng ngày trước mặt.

***


Bữa nay bán báo không được bao nhiêu. Thằng cu Tới quay qua bạn cùng nghề tên Hiền:
- Mầy than van cái con khỉ gì. Bán không được thì cha mẹ mầy lo bao che cả gia đình. Mầy có lần nói với tao là con nhà Cách mạng mà.

- Thật ra ba tớ là Cách mạng 30 mà thôi.

- Hèn chi ăn sau đẻ muộn bỏ công đi phất cờ để cho đồng đài đạp nồi niêu soong chảo nó chở hết trương mắt ra ngó.

- Còn mầy là con Cách mạng tháng mấy mà cũng đi bán báo như tớ.

- Tao đấy à. Tao con ông 3 mai bị lột sạch kể cả bản thân vợ con. Người lớn trả thù tận cùng bằng số tao mới gặp mầy chốn này.

- Tớ biết ra rồi nhà nước muốn trai trẻ miền Nam như tụi mình tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên XHCN để xuống ngang hàng với miền Bắc.

- Thôi đừng nói chuyện heo, lợn, đậu phụng, lạc rang nữa. Tao hỏi kinh nghiệm của mầy về bán báo trên tàu lửa để tao học hỏi thêm.

Như gãi trúng chỗ ngứa. Hiền đằng hắng một cái rồi lên mặt dạy đời:
- Nhờ ngày 30 mà tớ bỏ học. Bây giờ mới thực sự làm thầy cho đồng bọn như mầy. Hãy nghe tớ vung chiêu mời khách trên tàu lửa đây nè.

- Ông ơi ông mua cho tôi tờ báo. Mua mở hàng đi. Báo quốc doanh viết ra bán chớ không có tặng. Ông mua để biết hôm qua mơ gặp người trong mộng. Ông mua để thằng tuổi trẻ bị đuổi học được có việc làm để sống. Ông thương cho kẻ ngã ngựa sa cơ thất thế có chén cơm độ nhật.

Thằng cu Tới cắt ngang:
- Mầy đọc sớ Táo quân trình thiên đường như thế này người ta không mua thì làm sao?

- Mầy cứ cầm tờ báo đi lui đi tới phất qua phất về trước mặt chọc người ta ghét rồi bỏ tiền ra mua cho mầy trốn khuất mắt đó mà.

- Ừ mầy nói có lý đó nghe. Khi nào tao có nghề gì mới tao dạy lại mầy chịu không?

- Gì cũng được nhưng đừng dạy nghề giết người anh em như nhổ cỏ không dùng gươm dao.

- Thế thì vào nghề còn đảng còn mình.

- Mầy phải chờ 10 đời lý lịch mới mặc được cái áo xanh áo vàng khủng bố dân lành chớ không phải dễ đâu nhá!

- Tai vách mặt rừng coi chừng bắt vô nhà đá đếm lịch đấy. Thôi tao về nhà ăn cơm kẻo sáng giờ cồn cào ruột non ruột già ra đây.

***

Một tháng trôi qua bốn mẹ con tảo tần bữa đói bữa no cũng nhờ người bạn học Gia Long chia cho chỗ ăn chỗ ngủ. Một lần chị Thương đếm những đồng bạc chắt chiu rồi chạnh nghĩ tới phụ trả điện nước. Chị nói với chị Hạnh chủ nhà:
- Bạn tốt với mình quá trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Bạn cho mình phụ chút về chuyện ăn ở.

- Bạn đề cập tới mình mới nói ra đây. Mình bị cái ông Tổ trưởng Dân phố,mấy tên bạn dân khu vực kêu lên gọi xuống đòi khai báo người lạ trong nhà. Mình sai đứa em ra trà nước cho họ không biết để yên tới lúc nào. Vả lại bạn thường về khuya nên mình cũng nói xạo với họ là mình chứa chấp người ăn mày ngủ qua đêm mà thôi. Xin lỗi bạn vì chỉ có cái xã hội trả thù trả oán thế này mình mới nói xấu bạn thân sau lưng để chúng mình sống còn.

- Mình nhớ mãi tinh thần giáo dục nhân bản từ học đường Gia Long. Mà xã hội đạo đức là đúng rồi từ lớp năm lớp tư (lớp 1,2) đã học môn Đức dục và Công dân giáo dục chứ có ai dạy tuổi ô mai hận thù chém giết nhau đâu.

Hai người đang ngồi trước nhà nói chuyện. Chị Hạnh thấy một người lối xóm lượn qua lượn lại phía trước. Hạnh đoán biết đây là loại người theo dõi sinh hoạt trong nhà chị. Chị ra hiệu cho chị Thương lẻn vào nhà. Rồi chị mở miệng chửi đổng:
- Đồ cái quân khốn kiếp. Phường vô lại ăn không ngồi rồi đi chỉ điểm hại Phường hại Khóm.

Chửi xong chị Hạnh vô nhà.

Tên Công an Khu vực cũng vừa tới đúng lúc. Hắn gõ cưả xét nhà. Thấy chị Hạnh hắn hỏi:
- Bà đưa hộ khẩu tôi xem.

- Anh vô ra cái hẽm này bao nhiêu lần anh biết nhà tôi quá mà.

- Tổ dân phố báo cáo nhà bà có người lạ tới ở mà không khai trình.

- Bạn học của tôi dân cùng Thành phố cả mà.

- Thế thì tôi mời bà bạn kia cho xem giấy tờ.

Chị Thương mở cái giỏ đan bằng lá dứa rồi cầm tờ giấy CMND chìa ra.

Tên CA nhìn xong đoạn hạch hỏi:
- Tại sao bà không ở cái địa chỉ này mà tới đây dự định hoạt động gì?

- Nhà tôi bị giặc cướp rồi.

- Rõ ràng giặc Mỹ nó ác độc dã man hơn cả quỷ quái.

- Không. Mỹ tới đây mang súng đạn cùng chúng tôi bảo vệ phần đất tự do. Khi họ về mang theo hai bàn tay trắng. Họ không chiếm lấy một thước đất nói chi tới làng mạc phố xá biển đảo. Nhà tôi bị “giải phóng” mượn dài hạn xài chơi.

Tên CA đấm tay vào tường giận dữ:
- Nhất định bà là CIA cài lại. Bà theo tôi về đồn để điều tra ra ngọn ra ngành.

Hai ngày sau chị Hạnh nhận giấy lên Bệnh viện nhận xác bạn. Theo hồ sơ bệnh lý Công an nói là bị đau nặng trước khi đưa đi cấp cứu. Khi những đứa con tới ôm xác mẹ. Đứa nhỏ nhất mang tên Cường rờ tay vào vú. Từng cục sưng đọng máu còn hiện lằn roi. Đứa con lớn tên Tới rờ tay lên đầu. Từng lỗ hổng lạ lắm trong chân tóc. Đứa con thứ nhì tên Tèo cuả chị Thương ôm chầm lên thân thể mẹ van lơn:
- Mẹ ơi ! bao giờ ba về nuôi nấng các con…

Ba anh em nhìn xác mẹ rồi nhìn thân phận mình nước mắt tuôn trào theo nhau đầm đìa xuống áo.

Trời về khuya. Bên kia con phố nóc nhà ai trăng thanh bình rọi xuống trên đống gạch hoang vu.


Lê Hải Lăng

          
Ngoc Han
Bài viết: 1585
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: Chuyện người đàn bà khi cuộc chiến tàn

Bài viết bởi Ngoc Han »

Hạnh phúc xót xa

Phạm tín An Ninh

Tôi vô cùng ngạc nhiên, khi nhận được một thiệp mời đám cưới gởi qua đường bưu điện, danh tánh nhà trai, nhà gái và cả cô dâu chú rể đều xa lạ. Gần nửa giờ ngồi “điểm danh” tất cả bà con, bè bạn xa gần, vợ chồng tôi và mấy đứa con cũng chẳng tìm ra “tông tích” họ là ai. Nghe bạn bè kể lại, một số không ít người Việt mình thích có nhiều thực khách tham dự tiệc cưới của con cháu. Khách càng đông càng chứng tỏ được thế giá của gia đình. Vì vậy có người chỉ gặp ai ở đâu đó một lần thoáng qua, cũng có thể trở thành “quan viên” hai họ. Hơn nữa, ở cái vương quốc nhỏ bé và hiền lành này, muốn tìm ai, cứ việc mở cuốn điện thoại niên giám hoặc vào guleside gõ cái tên là có ngay số phone và địa chỉ. Cũng có thể là do một ông bà khách nào đó được mời nhưng hồi báo không thể tham dự được nên vợ chồng tôi được chọn để “điền vào chỗ trống cho có đầy đủ ý nghĩa” chăng?

Địa điểm tổ chức tiệc cưới là một nhà hàng Tàu sang trọng nằm ngoại ô thành phố Oslo, không xa nơi tôi ở. Ngày đám cưới còn hơn một tháng, nhưng lại đúng vào ngày mà vợ chồng tôi phải sang London thăm vợ chồng cô con gái và mừng thôi nôi thằng cu cháu ngoại. Vé máy bay đã “búc” rồi. Vợ chồng cô con gái cũng đã lấy hè để đón chúng tôi. Nên dù có biết cha mẹ hay cô dâu chú rể có tên trong thiệp mời chăng nữa, chúng tôi cũng không thể tham dự được, huống hồ lại là một người nào đó không quen. Thấy tôi phân vân, bà xã cầm tấm thiệp màu hồng vất vào kệ sách, lắc đầu bảo “forget it!”

Sáng thứ Bảy, một tuần sau đó, khi đang sửa soạn hành lý, nghe điện thoại reo, tôi bốc máy lên nghe, nhưng không thể nhận ra người bên kia đầu dây. Một người đàn bà, tự giới thiệu tên Bích, rất lễ phép khi hỏi đúng cả tên lẫn họ của tôi.

- Vâng, đúng là tôi, nhưng chị có thể nói rõ hơn về chị không ạ, vì xin lỗi tôi không nhớ ra.

- Em là Bích Kiều đây, Lê Thị Bích Kiều, mà khi mới sang Na-uy, anh làm thông dịch giúp em đó. Tên em trong thiệp mời đám cưới là Yvonne Bich, chắc anh chị đã nhận được. Em đổi tên này sau khi có quốc tịch Na-uy.

Tôi giật mình nhớ ra ngay. Mặc dù trong thời gian làm thông dịch, giúp khá nhiều bà con người Việt mới đến định cư, có biết bao nhiêu cái tên làm sao nhớ hết. Hơn nữa cũng đã hơn 25 năm rồi còn gì. Nhưng đặc biệt, Lê Thị Bích Kiều thì tôi không thể nào quên. Sau khi thăm hỏi, Bích Kiều xin được đến thăm vợ chồng tôi vào lúc bốn giờ chiều. Cô bảo, gặp nhau sẽ có biết bao nhiêu điều muốn nói.

o O o

Thời gian còn ở trại tỵ nạn Bataan bên Phi Luật Tân, tôi may mắn được chọn làm phụ giảng cho các lớp học tiếng Nauy. Được thầy cô dạy kèm riêng, và nhờ phụ giúp mỗi ngày trong các lớp học cũng như làm thông dịch bất đắc dĩ cho những thuyền nhân mới đến đảo, nên tôi có một số vốn liếng tiếng Na-uy, một thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ với hầu hết người Việt nam lúc ấy. Và cũng nhờ cái vốn bì bõm này, khi sang định cư ở Na-uy, tôi được chọn làm thông dịch tạm thời cho Phòng Xã Hội và Sở Cảnh Sát thị xã, nơi gia đình tôi tạm cư. Thời gian này Na-uy nhận một số lượng khá đông thuyền nhân được tàu Na-uy vớt trên biển và một số trường hợp nhân đạo khác.

Nói là thông dịch chứ thực ra chỉ giúp bà con làm hồ sơ, khai lý lịch ở Sở Cảnh sát, xin trợ cấp ở Phòng Xã Hội, hoặc gặp bác sĩ, nha sĩ, hay vào bệnh viện khám và chữa bệnh. Cũng qua công việc này, tôi mới thấy rõ Na-uy là một quốc gia giàu lòng nhân đạo, mở rất rộng vòng tay, đối xử quá tốt với những người tỵ nạn mà họ cứu vớt, cưu mang. Công việc nhàn nhã mà lương bổng cũng khá, lại còn được cơ hội trau dồi ngôn ngữ mới, nên sau này, khi đã được chính thức nhận vào học và đi làm trong ngành ngân hàng bưu điện, tôi vẫn xin giữ cái “job” phụ này, nhưng chỉ làm thêm ngoài giờ hành chánh.

Tuy nhiên, bên cạnh những điều vui ấy, tôi cũng bị “tai nạn nghề nghiệp” không ít. Đặc biệt khi phải thông dịch cho những bà con mà tàu của họ bị bọn hải tặc tấn công. Nghe họ kể những cảnh nghiệt ngã, thương tâm trên biển, tôi vừa không nén được xúc động vừa ngại ngùng khi phải thông dịch lại bằng tiếng Na-uy. Hơn nữa lúc ấy tôi cũng chưa có đủ ngôn từ để diễn đạt những điều “tế nhị”.

Ngày ấy có một Viện Tâm Thần dành riêng cho người tỵ nạn, nằm trong Viện Đại Học Oslo, do bác sĩ Hauff, cũng là một giáo sư tâm lý học, điều hành. Ông là vị bác sĩ có lòng nhân hậu và rất tận tâm với nghề nghiệp. Những người tỵ nạn gặp điều không may, bị hải tặc đánh đập hãm hiếp, hay bị mất người thân trên đường vượt biển, đều được ông tận tình thăm nom, chăm sóc cũng như can thiệp Cơ quan Di Trú cho ưu tiên bảo lãnh gia đình và Sở Xã Hội cấp thêm nhiều phương tiện sinh hoạt, giải trí. Tôi sợ nhất là những lúc phải làm thông dịch để ông tâm tình, khuyên giải, an ủi nạn nhân, mà thời gian có khi kéo dài cả một vài ngày. Bởi vốn liếng tiếng Na-uy còn quá nghèo nàn, làm sao tôi có thể truyền đạt được những gì ông muốn nói. Có lần nghe ông dặn dò trước khi làm việc:

- Đây không phải một cuộc nói chuyện bình thường mà là một ca điều trị. Có điều, những bệnh nhân này chúng ta không chữa bằng thuốc mà chữa bằng ngôn ngữ.

Mà ngôn ngữ của tôi thuộc loại ăn đong, thì làm sao giúp ông chữa loại bệnh đặc biệt trầm kha này. Nhiều lần tôi xin từ chối, nhận mình không đủ khả năng, nhưng Phòng Xã Hội không tìm được người thông dịch khác, và bác sĩ Hauff cứ gật đầu bảo là ông tin tưởng ở tôi. Cuối cùng tôi phải yêu cầu ông nói thật chậm và dùng những từ ngữ tương đối đơn giản để tôi hiểu rõ, và nhất là không hiểu lầm, những gì ông nói.

o O o

Một hôm tôi được Văn Phòng Xã Hội cho biết, phải đi theo bà Kari Mette ra phi trường Fornebu đón một người tỵ nạn đặc biệt, được Na-uy nhận nhân đạo từ một trại tỵ nạn Thái Lan. Người này được đưa thẳng từ Thái Lan đến Na-uy, mà không qua trại tỵ nạn chuyển tiếp Bataan, như những người khác. Bà Kari Mette làm việc cho một nhà thờ công giáo, nhưng vì có nhiều khả năng và uy tín, nên được yêu cầu kiêm nhiệm đại diện cho Sở Tỵ Nạn trong khu vực thị xã.

Chúng tôi được vào tận cửa gate máy bay. Người mà chúng tôi đón hôm nay là một cô con gái trẻ, ngồi trên xe lăn, trên người choàng một tấm chăn mỏng, được một cô tiếp viên hàng không đẩy ra giao cho chúng tôi cùng túi hành lý nhỏ và một phong bì đựng hồ sơ có in huy hiệu Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ. Trông cô ta tiều tụy, xanh xao. Tôi giới thiệu và dịch vài lời chào mừng của bà Kari Mette. Khi đưa tay nhận bó hoa hồng từ bà Kari Mette, cô gật đầu, lí nhí hai tiếng cám ơn. Theo sau bà Kari Mette, tôi đẩy cô gái theo một lối đi riêng, không phải qua kiểm soát. Một chiếc xe tản thương và cô ý tá chờ sẵn bên ngoài. Khi phụ dìu cô gái lên nằm trên một băng ca trong xe, tôi mới biết là cô ta đang mang bầu. Theo yêu cầu của cô ý tá, tôi ngồi luôn trên xe tản thương, tháp tùng về bệnh viện. Bà Kari Mette lái xe chạy theo sau.

Ở phòng nhận bệnh, khi nghe bà Kari Mette nói chuyện với vị bác sĩ, tôi mới biết cô gái này có tên Lê thị Bích Kiều, 21 tuổi, bị hải tặc giam giữ ở một hoang đảo ngoài khơi Thái Lan gần một năm, trước khi được một lực lượng tuần cảnh phối họp với hải quân Thái cứu thoát. Cô ta đang mang thai hơn năm tháng, sức khỏe rất yếu. Việc ưu tiên phải làm là giúp cô sớm hồi phục sức khỏe và bảo vệ thai nhi.

Khi trả lời một số câu hỏi của bác sĩ, cô luôn nhìn tôi bằng đôi mắt thật buồn và ái ngại, Một vài câu hỏi cô ngại ngần không muốn trả lời. Tôi từ tốn bảo cô cứ yên tâm, nếu điều nào chưa muốn nói ra, cô không cần thiết phải trả lời, tôi sẽ liệu cách để nói lại với bác sĩ. Nhưng sau đó, tôi mới hiểu ra, người cô ngại chính là tôi chứ không phải ông bác sĩ. Mặc dù trước khi bắt đầu làm việc, tôi đã nói với cô là những người làm thông dịch như tôi đều phải ký giấy cam kết taushetsplikt (bổn phận bảo mật những điều tai nghe mắt thấy). Cô được y tá đưa vào phòng tắm rửa và thay áo quần bệnh viện. Khi trở ra, cô tươi tỉnh hơn, bây giờ nhìn kỹ tôi thấy cô có khuôn mặt khá xinh, dù đôi mắt thật buồn. Theo cô y tá đưa cô lên một phòng riêng ở tầng ba, tôi bảo y tá bật cao đầu chiếc giường và đỡ cô ngồi dậy theo yêu cầu của cô, dịch cho cô nghe những điều dặn dò của bác sĩ, hỏi cô thích ăn uống những gì để tôi nói lại với cô y tá, rồi chào cô ra về, sau khi chúc cô ăn ngon và tối nay có một giấc ngủ thật bình yên. Cô nhìn tôi, nói cám ơn rồi vội vàng cúi xuống. Thoáng qua đôi mắt, tôi biết cô băn khoăn lo lắng, khi phải ở lại một mình. Tôi ghi số điện thoại trên mảnh giấy nhỏ đưa cô y tá. Bảo là trường hợp bệnh nhân hay y tá cần điều gì, cứ gọi cho tôi.

Kể từ hôm ấy, ngoài bổn phận thông dịch tôi còn là người thân quen duy nhất của cô. Hôm nào cô ngỏ ý thèm các thức ăn Việt nam, tôi bảo bà xã tôi làm rồi mang đến cho cô, cùng mấy tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong, và tập truyện của ông Duyên Anh mà cô thích đọc.

Những người may mắn đến được bến bờ tự do
Sau một tuần lễ, sức khỏe của cô khá hơn, nhưng y tá cho biết tâm trí chưa ổn định, cô thường giật mình thức giấc rồi la hét, khóc lóc lúc nửa đêm. Cứ vài ngày, bác sĩ Hauff từ Viện Tâm Thần đến thăm, cho cô quà, an ủi và khuyên cô hãy đọc sách, xem TV, cần nghĩ tới đứa bé sắp chào đời, dù gì nó cũng là giọt máu của mình. Có điều gì cần, hoặc cảm thấy nặng nề trong lòng, cô cứ nói ra mỗi lần ông đến thăm.

Cô không phải đến Sở Cảnh Sát để làm hồ sơ di trú như những người tị nạn khác, mà do yêu cầu của Sở Tỵ Nạn, vị trưởng phòng Cảnh sát ngoại kiều đã đích thân đến bệnh viện để gặp cô sáng hôm sau. Qua làm việc, tôi được biết cô gái sinh ra và lớn lên ở Đà Lạt. Trước 75, mẹ cô là cô giáo và cha là một sĩ quan cấp tá, bị mất tích tại Đà Nẵng khi Vùng I vvvvc d1i tản. Vượt biên từ Rạch Giá cùng vị hôn phu. Anh là con trai lớn của một người bạn cùng khóa Võ Bị với cha cô. Chiếc thuyền nhỏ chở theo 47 người, ra khơi ba ngày thì gặp hai chiếc ghe đánh cá của Thái Lan chặn lại. Cả bọn gần 20 tên mang dao búa và cả súng nữa, xông lên thuyền uy hiếp. Anh tài công bị giết đầu tiên bằng búa đánh vào đầu, một vài thanh niên khỏe mạnh có ý chống cự, liền bị chém chết. Chúng chia nhau lục soát trên tàu và trên từng người để cướp vàng bạc, đồng hồ. Trước khi rời khỏi thuyền, chúng phá hỏng máy, và bắt theo khoảng mười cô gái. Khi hai tên trong bọn kéo Kiều đi, người vị hôn phu của Kiều xông đến định giật lại Kiều, bị chúng bắn bị thương rồi đạp xuống biển, trước tiếng la khóc thất thanh của Kiều cùng những cô gái khác.

Vừa mới lên tàu, bọn hải tặc luân phiên hãm hiếp những cô gái bị chúng bắt theo. Tiếng van xin la khóc quyện vào âm thanh của những ngọn sóng dường như cũng đang thét gào phẫn nộ. Chỉ duy nhất có Kiều được thoát, không bị hiếp, nhưng bị cột cả hai tay vào phía sau phòng lái, và phải chứng kiến hành động dã man, bỉ ổi của bọn dã thú, cùng những khuôn mặt sợ hải đau đớn uất hận tột cùng của những cô gái nạn nhân.

- Tại sao cô lại được tha, không bị chúng hiếp? Anh cảnh sát ngạc nhiên hỏi.

- Làm sao được tha. Có lẽ thấy tôi có chút nhan sắc, nên tên thuyền trưởng dành riêng tôi cho hắn. Khi ấy hắn đang lái tàu! Cô gái sụt sùi.

Tối hôm ấy, cô đã bị cướp đi đời con gái. Qua một ngày kinh hãi, biết mình không thể chống cự, cô đã nằm im phó thác cho số phận. Trong khi thân xác bị dày vò, cô nghĩ đến cảnh người yêu vừa bị giết tức tưởi trưa nay, cắn chặt lưỡi giữa hai hàm răng ứa máu.

Tay thuyền trưởng hải tặc không đánh đập hành hạ cô như những cô gái khác. Hắn săn sóc, mang cho cô một tô cháo cá nóng, nhỏ nhẹ dỗ dành cô ăn, nhưng cô không thể nào nuốt nổi, dù bụng đang đói. Nằm thiếp đi cả một ngày trong phòng lái, khi nghe tiếng ồn ào gọi nhau của bọn hải tặc, giật mình thức dậy, cô thấy tàu cặp vào một hòn đảo.

Sau khi ra lệnh cho đám thuộc hạ quăng neo, tay thuyền trưởng cõng cô trên lưng, lội vào bờ. Cô ngạc nhiên rùng mình khi không thấy các cô gái khác. Số phận họ ra sao? Cô bịt kín hai tai, nhưng tiếng van xin kêu khóc hãi hùng của ngày hôm qua như muốn vỡ tung đầu óc. Cô tưởng tượng họ bị hiếp cho đến chết, rồi quăng xác xuống biển. Thật thảm thương tội nghiệp. Nhưng dù sao họ cũng không phải sống cả một đời thừa thãi trong nỗi dày vò, mặc cảm và vô vọng như cô. Biển xanh sẽ ôm ấp vỗ về cả thân xác lẫn linh hồn họ. Là cánh hoa tả tơi duy nhất còn sót lại sau một ngày đêm dông bão, cô ví mình chẳng khác nào rác rưởi tắp vào một nơi hoang vắng. Cô tự hỏi, đó có phải là điều may mắn?

Anh cảnh sát ngồi bất động nghe cô kể, thỉnh thoảng ngước mặt lên trần nhà để giấu những giọt nước mắt. Tôi thầm tội nghiệp cho anh ta, một người sinh ra và lớn lên trên một vương quốc an bình, giàu có, hà cớ gì phải khóc cho nỗi đau thương, bất hạnh của dân tộc tôi. Chúng tôi dừng lại khi thấy cô gái sụt sùi. Tôi đứng dậy đi lấy mấy tờ giấy soft cho cô lau nước mắt và mời cô một ly nước saft.

- Rồi đời sống của cô trên đảo ra sao trước khi cô được cứu thoát? Anh cảnh sát hỏi.

- Tôi được đưa vào một cái hang đá khá lớn, có sẵn một số thức ăn, nước uống và cả áo quần cùng nhiều vật dụng mà có lẽ bọn họ cướp được từ những lần trước.

Đó là một đảo hoang. Một trong những “hậu trạm”. Cứ bốn, năm hôm, có khi cả tuần lễ, bọn hải tặc trở về đây nghỉ ngơi đôi ngày, chia chác “chiến lợi phẩm”, rồi lại ra đi. Tiếp tục những chuyến làm ăn khác, hoặc vào bờ lấy thêm nhiên liệu, lương thực. Tay thuyền trưởng cao lớn, tóc phủ tới lưng, cả ngày chỉ mặc một cái quần short ố vàng, phơi tấm thân trần đen đúa với đầy những hình xâm. Không biết vì nghĩ là cô không hiểu tiếng Thái hay là bản tính ít nói, cả ngày hắn lầm lì, chỉ thỉnh thoảng mỉm cười. Hắn luộc tôm cá tươi ép cô ăn và bắt cô uống rượu. Miệng hắn lúc nào cũng nồng nặc mùi rượu. Đôi mắt đỏ ngầu. Rượu giúp hắn trở thành con hổ đói cuồng bạo trên tấm thân liễu yếu của cô. Hắn lột hết áo quần cô, làm nhiều cách hầu tạo kích thích, nhưng cả thân xác và tâm hồn cô đã trở thành gỗ đá, lạnh lùng, không còn cảm giác. Chỉ biết nhắm mắt chịu đựng đau đớn, để cho hắn ta mặc tình hành hạ.

Bọn họ ra đi từ lúc trời chưa sáng. Khi cô thức dậy chung quanh vắng lặng, ngoài tiếng sóng biển rì rào. Cảm giác da thịt rã rời. Phải ngồi khá lâu mới đứng dậy được. Cô chui ra khỏi hang, trèo xuống hốc núi tìm đường ra biển. Hôm nay trời nắng, biển êm. Nhìn biển mênh mông, trong gió nghe như có tiếng gọi tên mình, cô giật mình nghĩ tới người yêu và những cô gái đồng hành bất hạnh. Cô xăn quần lội xuống, vốc một vốc nước rửa mặt. Nước biển làm rát khóe mắt, nhưng giúp cô tỉnh táo. Bỗng cô nghĩ đến cái chết. Chỉ cần lội ra xa để cho sóng cuốn đi là cô sẽ gặp lại người tình ở đâu đó dưới đáy đại dương và sóng biển có thể rửa bớt phần nào nhơ nhớp trên tấm thân, mà bao nhiêu lần, mẹ đã ôm cô dặn dò phải cố giữ gìn, trước lúc từ biệt ra đi. Chợt nhớ tới mẹ, nhớ các em, cô đứng bất động nghe lòng dạ bồi hồi.

Gió từ biển khơi thổi tới như muốn an ủi vỗ về, giúp cô tìm lại một chút yên ả. Cô bước lên đi dọc theo bờ biển. Tiếp tục nghĩ đến mẹ và hai đứa em nhỏ dại. Giờ này không biết họ ra sao. Có biết mình đang lưu lạc trên một hoang đảo xa lạ giữa trời biển mênh mông với tấm thân hoen ố ê chề. Hay là vẫn đang hy vọng đứa con gái, người chị của mình đã đến được một xứ thiên đường nào, để có thể cứu sống cả gia đình đang ở bước đường cùng. Bao nhiêu vốn liếng chắt chiu dành dụm được, kể cả chiếc nhẫn cưới và sợi dây chuyền vàng mà bà ngoại đã đeo lên cổ mẹ ngày vu quy, cũng chỉ đủ gom góp mua một cây vàng, và phải năn nỉ lắm mới được đóng trước một nửa cho chủ tàu, nửa còn lại khi nào đến nơi sẽ trả. Sau ngày cha cô vĩnh viễn không về, cùng nhiều đồng đội gởi xác thân ở một nơi vô danh nào đó, rồi cả miền Nam đang trù phú, hạnh phúc một thời, bỗng dưng trở nên đói nghèo, chia ly tan tác, cũng như những gia đình sĩ quan công chức khác, mẹ con cô đã trải qua bao tháng năm cùng cực. Cô đã phải bỏ học, phụ mẹ buôn tảo bán tần, mà cả nhà vẫn bữa đói bữa no. Nghĩ đến tương lai mịt mờ của mấy đứa con, mẹ bàn với cô, chỉ còn cách duy nhất, là cô phải ra đi. Bao lần tìm được mối, nhưng lo cho thân gái dặm trường, có biết bao điều bất trắc, cuối cùng bà rất vui mừng khi có người yêu của cô, cũng là con của một người bạn cùng khóa với chồng, cùng đi với con gái. Trước ngày đi, hai gia đình gặp nhau, tổ chức một lễ đính hôn rất vội vàng, đơn giản.

Cô bước đi những bước vô hồn trên những bọt sóng xô bờ, hình dung tới tuổi ấu thơ và cả một thời cùng gia đình sống trong hạnh phúc. Nhớ mấy năm cha cô được đổi về làm huấn luyện viên trường Võ Bị Đà Lạt, nơi ông đã gặp mẹ cô, khi còn là một sinh viên sĩ quan trai trẻ, từng đứng trên đỉnh Lâm Viên với hào khí ngút trời. Nơi ông cùng bè bạn đồng môn, đã quỳ xuống vũ đình trường trong ngày mãn khóa, giữa không khí uy linh, đưa tay thề quyết bảo vệ núi sông. Cô cũng nhớ tới đám bạn bè một thời nhỏ dại. Không biết những cánh chim non hồn nhiên ngày ấy, giờ tản mác trôi dạt về đâu sau cơn bão lửa. Cũng như cô, tất cả đã mất rồi, cả một bầu trời xanh bao la với bao nhiêu ước vọng thuở nào. Không bao giờ còn tìm lại được!

Đầu óc mơ hồ, tưởng mình đang đi tìm dấu vết tuổi thơ bên bờ hồ Xuân Hương thơ mộng. Khi nghiêng mình để tìm ngôi nhà Thủy Tạ, nơi lần đầu hò hẹn người yêu, cô bỗng giật mình nhận ra tảng đá trên hoang đảo, nơi cô bị giam lỏng từ mấy hôm nay. Giấc mơ xưa ngắn ngủi vỡ tan như bọt biển. Ngồi bệt xuống cát, thẫn thờ gọi mẹ, gọi em, và gọi tên người tình. Cô gọi đến khan cả cổ, để chỉ nghe tiếng mình dội lại từ đại dương mênh mông xa thẳm, không tìm thấy chân trời. Cô đã bật khóc.

o O o

Tôi định đưa tay bảo cô ngừng kể, để tôi kịp dịch lại cho anh cảnh sát, đang hồi hộp ngồi chờ, nhưng chợt thấy cô cũng đang khóc. Anh cảnh sát đứng lên nháy mắt, làm dấu cho tôi cùng bước ra ngoài để cho cô được tự nhiên. Khi trở vào, anh cảnh sát nhờ tôi hỏi, nếu cô muốn bảo lãnh cho mẹ và các em còn ở Việt Nam, anh sẽ trình lên Sở Ngoại Kiều, lập hồ sơ cho cô được ưu tiên. Có thể trong vòng từ sáu đến tám tháng, cô sẽ được đoàn tụ với gia đình. Suy nghĩ một chập, cô lắc đầu:

- Em chưa chuẩn bị được tâm lý, không muốn mẹ và các em sẽ đau buồn vì những gì em đã trải qua, và nhất là cái thai trong bụng, em vẫn còn đang giấu mẹ. Chờ sinh đẻ xong, em mới bình tĩnh mà quyết định được. Mặc dù em rất nhớ mẹ và các em.

Ngần ngừ một lúc cô ngõ ý muốn được Phòng Xã Hội cho mượn một số tiền để gởi về giúp gia đình, sau này đi làm cô sẽ trả. Anh cảnh sát gật đầu, hứa sẽ nói việc này với Phòng Xã Hội. Anh bắt tay cô, chúc sớm bình phục, gặp nhiều may mắn, và hẹn sẽ trở lại thăm cô để xin hỏi thêm cô ít điều bổ túc hồ sơ.

Hai hôm sau, qua điện thoại từ Phòng Xã Hội, tôi đến nhận số tiền 10.000 kroner (khoảng 1.200 USD), để giao lại cho cô và yêu cầu cô ký tên vào biên nhận. Tôi cũng mang đến biếu cô mấy trái xoài chua, lần trước cô bảo là cô rất thèm. Gặp lại tôi, cô tỏ ra mừng rỡ. Lần đầu tiên tôi thấy cô nhoẻn miệng cười. Cô bảo cô rất buồn và thấy cô đơn, vì không có tôi cô chẳng biết nói chuyện cùng ai. Cô ngạc nhiên và thoáng một chút xúc động khi tôi đưa cho cô số tiền của Phòng Xã Hội, và bảo đó là tiền cô được cấp, chứ không phải mượn. Tôi giải thích thêm về những trợ cấp khác dành cho người tỵ nạn lúc ban đầu và hằng tháng sau này, cũng như trợ cấp việc sinh đẻ và nuôi con. Tôi bảo cô yên tâm, đừng bận tâm gì về chuyện tiền bạc. Cô càng vui và tỏ ra thân thiện hơn khi nghe tôi bảo trước đây tôi cũng là lính, sau gần 8 năm tù trở về, vợ con cũng khốn cùng như gia đình cô. Tôi kể chuyện gia đình tôi vượt biên nhưng may mắn được tàu Na-uy vớt, mới đến Na-uy tám tháng, nhưng mọi việc tạm thời ổn định. Cô nhớ tới cha cô, đôi mắt sáng lên và say sưa kể cho tôi nghe những ngày cô theo cha ra đơn vị, hoặc cùng mẹ vào trường Võ Bị tham dự các buổi lễ ra trường. Khi tôi đứng dậy cáo từ, cô viết tên và địa chỉ của mẹ cô, nhờ tôi gởi hết số tiền còn nguyên Những người may mắn đến được bến bờ tự do trong bì thơ về cho mẹ. Trong mắt cô sáng lên niềm vui.

Một lần cô ngỏ ý muốn học tiếng Na-uy để giết thì giờ. Tôi bảo là ở Na-uy vừa mới có cuốn tự điển Nauy-Việt, tôi sẽ liên lạc Phòng Xã Hội để xin cho cô. Hai hôm sau, tôi mang cuốn tự điển đến, chỉ cho cô cách sử dụng, nói và viết vài câu đơn giản. Cô khá thông minh nên hiểu rất nhanh. Cô còn nhờ tôi viết cho cô vài câu tiếng Na-uy. Trong đó có một câu cô bảo là lời một bản nhạc nào đó mà cô rất thích: “Ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”.

o O o

Khi được biết là sẽ sinh con trai, cô vui lắm, nhưng ngay sau đó tôi thấy cô ngồi thẫn thờ, suy nghĩ mông lung. Gần tới ngày cô sinh, tôi xin phép cô cho bà xã tôi đến thăm, để hướng dẫn chỉ vẽ cho cô ít nhiều kinh nghiệm sinh đẻ mà vợ tôi đã trải qua. Hơn nữa, khi sinh đẻ, có một người đàn bà thân quen bên cạnh cũng an tâm. Biết cô ái ngại, nên tôi nói trước là vợ tôi hoàn toàn không biết gì về hoàn cảnh của cô, và tất nhiên tôi không hề tiết lộ điều gì. Tôi sẽ nói với vợ tôi là chồng cô còn ở trại tị nạn Thái Lan, sẽ được định cư sau. Ngần ngừ một lúc, cuối cùng cô gật đầu. Cuối tuần, vợ chồng tôi đến thăm. Vợ tôi mang đến cho cô một ít thức ăn Việt nam và mấy bộ áo quần con nít. Đàn bà dễ thông cảm với nhau, nhất là vợ tôi sinh mấy đứa con cũng không có mặt chồng, vì tôi bận tham dự hành quân, không về kịp. Tôi ra ngoài, để cho hai người đàn bà dễ nói chuyện sinh đẻ. Cô sinh vào ban đêm, lúc trời đã vào đông. Tuyết rơi kín cả khung trời. Vợ chồng tôi đến phòng sinh lúc cô đau bụng. Vợ tôi ở bên cạnh cô, còn tôi ngồi ngoài phòng đợi. May mắn là cô sinh rất nhanh. Khoảng hơn 30 phút, tôi đã nghe tiếng con nít khóc. Khi mọi việc đã xong, nghe tiếng vợ gọi, tôi bước vào chúc mừng cô. Thằng bé đang nằm trên ngực mẹ. Tôi thấy cô khóc. Không biết đó là những giọt nước mắt xót xa hay hạnh phúc.

Sau một tuần ở bệnh viện, mẹ con cô chuyển đến một khách sạn, được phòng xã hội mướn cho cô tạm trú một thời gian, vì chưa tìm được căn nhà thích hợp cho cô. Khách sạn khá sang trọng, nằm không xa bệnh viện, để tiện cho các y tá đến thăm và chăm sóc mẹ con cô.

Mấy ngày sau, tôi đến khách sạn cô ở. Không phải để thăm cô mà để làm thông dịch cho bác sĩ Hauff và nhân viên phòng xã hội. Họ mang đến cho con cô nhiều quà tặng. Ai cũng ngạc nhiên và thích thú khi thấy cô biết nói vài câu ngắn bằng tiếng Na-uy. Bác sĩ Hauff hỏi là cô có cần ông giúp điều gì nữa không, cô bập bẹ trả lời: “tôi sẽ nói với ông sau”. Tuy không đúng hẳn, nhưng mọi người đều hiểu được.

Ngày đầy tháng, vợ tôi nhớ và nhắc tôi đến thăm mẹ con cô. Chúng tôi ghé siêu thị chọn mua một món quà mừng thằng bé. Bấm chuông phòng, cửa không mở. Gõ nhẹ cũng không thấy lên tiếng. Tôi đến văn phòng khách sạn hỏi. Họ cho biết là cô vừa mới chuyển đi. Tôi gọi hỏi Phòng Xã Hội, họ cho biết là cô đã chuyển đi một thành phố rất xa, và theo yêu cầu của cô, họ không tiết lộ địa chỉ mới cho bất cứ một ai. Sau một thoáng ngạc nhiên, tôi chợt nhớ đến lời một bài ca nào đó mà cô đã nhờ tôi viết ra bằng tiếng Na-uy và chỉ cho cô đọc đi đọc lại nhiều lần: “ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”. Trên đường về, bà xã tôi thắc mắc tại sao cô lại chuyển đi sớm và không cho chúng tôi hay. Tôi lắc đầu, mặc dù tôi đã vừa mới hiểu ra.

Từ hôm ấy, tôi không bao giờ gặp lại cô. Vài lần nhớ tới cô, tôi định hỏi thăm qua một số người quen ở các thành phố khác, hoặc gọi cho Sở Tỵ Nạn. Nhưng rồi tôi quyết định không tìm, vì có lẽ cô không muốn gặp lại tôi, một người biết quá nhiều về cô.

o O o

Bích Kiều đến đúng giờ hẹn. Khi thấy chiếc taxi đỗ ngay

trước cổng nhà, vợ chồng tôi chạy ra đón. Tôi cũng nóng lòng muốn xem lại dung nhan của người con gái xinh đẹp nhưng găp phải điều bất hạnh của hai mươi lăm năm trước. Bây giờ chắc tuổi cũng đã 45, 46. Vợ chồng tôi ngạc nhiên khi thấy Bích Kiều vẫn còn trẻ đẹp. Cặp kiếng cận làm tăng nét tao nhã quí phái. Cô ôm chầm chúng tôi, rồi lấy kiếng xuống để chùi nước mắt.

- Không ngờ Kiều bây giờ còn đẹp hơn hồi xưa nhiều lắm. Sao đi có một mình ên còn ảnh thì giấu kỹ ở đâu rồi không cho trình diện?

Câu nói đùa của bã xã tôi làm cô bớt xúc động, nở nụ cười sau một thoáng thẹn thùng:

- Em vẫn còn độc thân mà! Hôm nay xuống đây nhờ anh chị làm mai đây.

Chúng tôi đi quanh khu vườn sau nhà. Bà xã muốn khoe mấy cụm hồng vàng vừa mới nở hoa, trước khi dắt tay cô bước vào phòng khách. Tôi mang nước ra mời và ngồi nghe hai người đàn bà nói chuyện trang điểm, phấn son xong mới lên tiếng:

- Vậy là Kiều đang ở Trondheim. Tôi thấy địa chỉ trong tấm thiệp cưới. Ngày ấy, tự dưng Kiều biến mất, làm bọn tôi cứ nghĩ là nàng trích tiên đã ngao ngán cảnh trần gian mà bay lại về trời rồi chứ. Cô cười bẽn lẽn:

- Hôm nay đến cũng để xin lỗi anh chị đây. Ngày ấy lòng em còn đau xót lắm, nên muốn đi đến một nơi thật xa, không muốn gặp bất cứ người Việt nào và nhất là những ai đã biết về mình. Mặc dù em rất thương quí và mang ơn anh chị.

Tôi cười:

- Tôi biết, nên chỉ thương chứ có nỡ lòng nào mà trách. Chắc Kiều còn nhớ cái câu tiếng Na-uy “Ngày mai tôi muốn bỏ đi thật xa” mà Kiều nhờ tôi viết ra và chỉ cho Kiều đọc đi, đọc lại bao nhiêu lần. Khi ấy Kiều bảo rất thích câu ấy trong một bài hát mà Kiều hay hát? Nhờ đó mà tôi hiểu được, nên không có ý tìm Kiều.

o O o

Đúng là cô đã đi thật xa, một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi thành phố Ålesund. Ở đó không có một người Việt nào sinh sống. Chính quyền và dân chúng rất tốt. Mẹ con cô được chăm sóc chu đáo. Một năm sau cô bảo lãnh mẹ và hai cậu em sang đoàn tụ. Gia đình sống trong hạnh phúc. Đứa bé lớn lên trong vòng tay yêu thương của mọi người. Cháu được đặt tên Trần huy Bách, và trong giấy khai sanh có cha là Trần Huy Trác. Tên người vị hôn phu của Kiều. Anh đã bị chính cha ruột của thằng bé giết chết thảm thương rồi vất xác xuống biển. Kiều giấu kín mẹ và các em điều đau thương này, nên đến lúc qua đời, mẹ cô vẫn tin đứa cháu ngoại duy nhất của mình là con của Trác. Bà mất đột ngột sau cơn bệnh tim, khi sang Na-uy được mười sáu năm.

Được chính phủ trợ cấp, cho học bổng, và nhờ mẹ giúp trông con cùng mọi việc trong nhà, nên Kiều và hai em được đi học. Cả ba chị em đều xong đại học. Hai cậu em đang là kỹ sư, còn cô làm y tá trong bệnh viện. Khi hai cậu em được nhận vào trường NTH, một đại học kỹ thuật bách khoa nổi tiếng tại thành phố Trondheim, miền trung Na-uy, cả nhà đã di chuyển về đây sau sáu năm ở Ålesund. Cháu Huy Bách, con của Kiều cũng vừa tốt nghiệp ở trường này mùa hè năm ngoái.

- Vợ chồng tôi mừng cho Kiều, cho sự thành công của mẹ con Kiều cùng hai cậu em, và cũng xin chia buồn về việc bà cụ đã ra đi. Tiếc là chúng tôi không có dịp được gặp bà.

Đang vui, bỗng Kiều xúc động:

- Tất cả đều nhờ mẹ em. Cả một đời thiệt thòi, chịu đựng vất vả với con cháu. Em vẫn ân hận là em đã phải nói dối với bà về chuyện của cháu Bách.

- Tôi nghĩ Kiều làm như thế là đúng. Ít nhất là không làm đau lòng thêm những người ruột thịt vốn đã chịu quá nhiều nhục nhằn, khốn khổ. Tôi tin là bác ra đi thanh thản, không có trách gì Kiều về sự việc ấy đâu. Tôi nói để an ủi.

Bà xã tôi nãy giờ không hiểu hết những gì chúng tôi trao đổi, hỏi Kiều:

- Sao cô lại không giữ tên Kiều mà lấy tên Bích. Tôi thấy tên Bích Kiều đẹp lắm. Ngày xưa gần nhà tôi ở Nha Trang cũng có tiệm uốn tóc Bích Kiều. Mấy cô con gái đều đẹp. Tôi quen cả hai chị em.

- Dạ, em thấy cuộc đời nàng Kiều của ông Nguyễn Du sao mà ba chìm bảy nổi quá, mà dường như cũng đã vận vào em, em sợ nên đổi tên Bích, cũng là chữ lót của em.

Tôi cười phụ họa:

- Nàng Kiều nào cũng đã chết rồi. Bây giờ, đang ngồi trước mặt tôi là Bích. Một cô Bích hoàn toàn khác. Chúng tôi rất mừng được như vậy. Xin lỗi, đáng lẽ ra không nên gọi cô là Kiều nữa. từ bây giờ chúng tôi gọi tên Bích nghe.

- Có sao đâu anh. Hai đứa em của em cũng gọi em là chị Kiều mà. Ngoài gia đình, chỉ có anh chị là biết cái tên này của em. Chuyện xưa cũng đã qua rồi. Em muốn anh chị cứ gọi em là Kiều như ngày trước. Hơn nữa, em biết, ngày ấy anh chị cũng thương yêu cô Kiều đó lắm, phải vậy không?

Cả ba chúng tôi đều cười.

Kiều nhìn đồng hồ trên tường, khi nghe tiếng chuông báo giờ. Không biết vì không muốn nhắc lại chuyện cũ, hay là sợ không còn nhiều thời gian, cô bắt đầu một câu chuyện khác. Cô mở xách tay lấy ra mấy tấm ảnh đưa cho chúng tôi xem. Ảnh của Bách, con trai cô vừa chụp với cô vợ tương lai trong ngày lễ đính hôn hơn ba tháng trước. Một cô gái Việt nam. Cả hai cô cậu đều đẹp, mũi cao, đôi mắt to, vầng trán thoáng lên nét thông minh.

- Hai cháu rất xứng đôi vừa lứa! Vợ chồng tôi khen.

Cô cho biết cô dâu tương lai là một dược sĩ vừa mới tốt nghiệp, con gái út của vợ chồng một vị giáo sư trước 75, được con bảo lãnh sang Na-uy, và bây giờ lớn tuổi đã về hưu. Ông bà đang sống ở Oslo. Gia đình nề nếp, đạo đức, có năm người con, tất cả đều thành đạt. Cô nhờ vợ chồng tôi, tuổi tác ngang với cha mẹ cô dâu, đứng ra thay mặt nhà trai trong ngày đám cưới. Nhưng điều quan trọng hơn, theo cô, là để cho cháu Bách, và chính cô nữa, được tự tin, ấm áp hơn về phía gia đình mình. Bởi vợ tôi là người chứng kiến khi Bách ra đời, còn tôi là người đồng hương duy nhất biết rõ về Bách, về những tình huống để có Bách hiện diện trên thế gian này.

- Sự có mặt của anh chị trong ngày đám cưới cháu Bách, là một kỷ niệm thiêng liêng quý giá đối với mẹ con em. Bởi vì khi nhìn thấy anh chị, em sẽ có cảm giác như là đang có anh Trác bên cạnh. Xin lỗi anh chị, em cũng đã nói dối với cháu Bách, anh là người duy nhất ở Na-uy này biết chuyện Trác, và tội nghiệp, cháu Bách vẫn tin anh Trác là ba của nó. Em thường bắt gặp cháu đứng thật lâu trước tấm ảnh của anh Trác trên bàn thờ.

- Vậy nhỡ cháu Bách hỏi tôi về Trác, tôi biết nói gì với cháu?

Nghĩ ngợi một lúc, Kiều lên tiếng:

- Em chỉ nói với cháu Bách, là ngày xưa anh ở trong quân đội, nên biết ba của anh Trác là ông nội cháu, thế thôi. Chứ lúc ấy anh Trác còn nhỏ lắm. Em thiết tha mong anh chị giúp em. Vì trong lúc này, em cảm thấy thật lo sợ và cô đơn. Những hình ảnh hãi hùng ấy cứ tưởng đã quên được từ lâu rồi, vậy mà bây giờ nó lại hiện lên liên tục, ngay cả trong giấc ngủ của em. Thú thực, ban đầu em không có ý định gặp anh chị, nhưng càng gần ngày đám cưới cháu, em càng thấy lòng bất an. Cuối cùng bất ngờ em đã nghĩ đến anh chị, người đã biết tường tận hoàn cảnh của mẹ con em, bỗng dưng em thấy nhẹ nhàng, như vừa giải tỏa được những gì cứ phải chôn giấu, đè nặng mãi trong lòng.

Nhớ tới hai người em trai của cô, vợ tôi hỏi:

- Còn hai cậu em của cô bây giờ ra sao. Đã có gia đình riêng hay vẫn ở chung với cô?

- Cậu lớn sống chung với cô bạn gái người Na-uy hơn hai năm thì chia tay, còn cậu út vẫn chưa lập gia đình. Tuy nhiên, hai cậu đều ở riêng.

o O o

Cuối cùng, vợ chồng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi London. Phải gọi sang xin lỗi và giải thích cho vợ chồng cô con gái, bảo đây là một việc ba má cần làm để giúp cho những người bất hạnh có thể tìm lại ít nhiều hạnh phúc. Lễ thành hôn được tổ chức buổi sáng thứ Bảy. Chúng tôi đến khách sạn Royal Christiania khi trời vừa mới trải qua một cơn mưa hạ. Ánh nắng bắt đầu chói chang rọi qua những tàn cây tạo thành những vệt lung linh trên các bãi cỏ xanh điểm những chấm vàng rực rỡ của hoa løvetann đang mùa nở rộ. Họ nhà trai dùng khách sạn này, nơi mẹ con Kiều và hai cậu em đang ở mấy hôm nay, làm “điểm xuất phát”. Từ Trondheim xuống, nên họ chỉ có bốn người. Thêm một cậu người Na-uy ở Oslo, bạn học của Bách làm phụ rể. Vợ chồng tôi đến với hai cô con gái và ba đứa cháu, để bưng các mâm lễ vật, theo yêu cầu của Kiều.

Lần đầu tiên chúng tôi gặp Bách. Cậu bé ra đời vào một đêm đông tuyết giá, trong nỗi cô đơn và xót xa của mẹ, chỉ có vợ chồng tôi, hai người đồng hương xa lạ, có mặt và nghe tiếng khóc đầu đời, bây giờ là một thanh niên tuấn tú, có học, chân thật hiền lành. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là Bách nói tiếng Việt rất giỏi. Bất giác, tôi nhớ tới những điều Kiều kể với vị cảnh sát ngoại kiều trước kia trong bệnh viện. Đầu óc như mơ hồ có tiếng sóng biển thét gào phẫn nộ, và hình dung tới gã hải tặc Thái Lan có mái tóc phủ xuống lưng, trên người đầy những hình xâm với đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trong men rượu. Bỗng tôi giật mình với cảm giác như vừa làm điều phạm tội. Cố gắng hướng tâm trí tới những điều thánh thiện, tốt đẹp khác để xua đuổi hết những hình ảnh đen tối ấy vào giờ phút mọi người đang cần có niềm vui và hạnh phúc.

Lễ thành hôn đã diễn ra tốt đẹp. Ông bà sui của Kiều đều là nhà giáo, hiểu biết và tôn trọng nề nếp cũ. Mọi nghi thức hôn lễ theo tập tục do ông bà hướng dẫn khá tỉ mỉ. Con cháu đều thành đạt, lễ phép. Tôi mừng cho Kiều, và nhất là cho cháu Bách đã may mắn là con rể của gia đình này. Có lẽ thấu hiểu hoàn cảnh của Kiều với lòng mến mộ, sau khi lạy ông bà trên bàn thờ gia tộc, ông giáo hướng dẫn cô dâu chú rể đến dâng rượu và xin lạy mẹ của Bách hai lạy. Ông giải thích, một lạy cảm tạ công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ. Mất chồng từ khi còn rất trẻ, nhưng không bước thêm một bước nào nữa mà dành hết cuộc đời cho đứa con duy nhất của mình. Một lạy xin mẹ nhận thay cha, để hai con tưởng nhớ đến người cha bất hạnh, sớm lìa đời khi chưa thấy mặt con. Khi vợ chồng cháu Bách mời rượu, nói những lời cám ơn thật cảm động, Kiều âu yếm nhìn hai con, định nói điều gì, nhưng rồi nghẹn ngào, sau một lúc mới nở được nụ cười trong ràn rụa nước mắt. Tôi thấy lòng bâng khuâng. Thầm mong đó không phải là những giọt nước mắt xót xa mà là niềm vui của hạnh phúc. Không khí bỗng lắng xuống. Mọi người đều xúc động. Kiều ngước lên, đúng vào lúc tôi quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt của chính mìn
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20162
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Chuyện người đàn bà khi cuộc chiến tàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • :thanks: .. Cám ơn TT, anh Ngọc Hân ..
Trả lời

Quay về “của người”