Ngựa Nản Chân Bon

Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5416
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Ngựa Nản Chân Bon

Bài viết bởi Bạch Vân »


____________________________________________________________________________________________________________


  •           

    Ngựa Nản Chân Bon - Tựa của Võ Phiến



    Một buổi chiều trung tuần tháng chín năm 1983, Lê tất Điều gọi từ San Diego để báo vội vàng một tin tức: Nguyễn mộng Giác viết truyện hay quá trời .
    Điều vẫn thế, lúc nào cũng tốt bụng, cũng phấn khởi, cũng sốt sắng với văn nghệ. Mặc dù đang thất nghiệp, đang kêu nản lòng với bút mực, nhưng luôn luôn theo dõi sát các hoạt động văn nghệ đó đây của anh em, và hễ chợt bắt gặp một thành công của bất cư ai đều hớn hở reo vui, vui cả trên đường dây điện thoại viễn liên .

    Truyện của Giác viết hay, tôi đã biết từ lâu, không phải vì tôi tinh hơn Điều hay bám sát tình hình kỹ hơn Điều, dĩ nhiên ; mà bởi vì tôi là người đồng hương của Giác. Ở cái tỉnh xa xôi của chúng tôi -xa Huế kinh đô cũ, xa Sài gòn thủ đô mới - số người dự vào việc văn nghệ chẳng được là bao, nên những kẻ cầm bút ai nấy đều gần gũi nhau, và khi cùng rời tỉnh nhà vào Sài gòn sinh sống, thì lại càng thân thiết , xem nhau như cật ruột. Chúng tôi theo dõi từng tác phẩm của nhau ngay từ trong bản thảo .
    Nhân cú điện thoại của Lê tất Điều, tôi nhớ lại một câu chuyện xảy ra chín năm về trước ở Sài gòn, cùng liên quan đến Nguyễn mộng Giác, đến việc Giác viết hay . Hồi đó, Trung Tâm Văn Bút Việt Nam chọn trao giải thưởng năm 1974 cho cuốn truyện dài Đường Một Chiều của Nguyễn mộng Giác. Lúc bấy giờ Hoàng ngọc Tuấn đang bị kẹt ngoài Trung đã làm một việc chưa từng thấy trong đời văn của Tuấn và trong lịch sử các giải thưởng văn chương ở ta : là từ ngoài Trung kêu lên ơi ới , tưng bưng tán thưởng . Thực vậy , Hoàng ngọc Tuấn đã gửi một lá thư "chào mừng" thật dài cho Hội Văn Bút Việt Nam ,lá thư được đăng tải trên các báo, khen Hội có tinh thần thưởng ngoạn và thẩm định Văn chương rất tinh tế , rồi lại phát huy thêm nhiều ưu điểm của tác phẩm trúng giải mà Hoàng ngọc Tuấn xác nhận đã đọc bản thảo, và nhiều ưu điểm của Nguyễn mộng Giác.

    Ở đây tôi không có ý nêu lên cái việc Nguyễn mộng Giác được người này người kia trong văn giới yêu thích ; tôi chú ý đến chỗ sự yêu thích có pha mừng rỡ, đôi khi lại có lẫn chút ngạc nhiên. Tại sao vậy ?Sự thành công có gì bất ngờ ? Nếu Giác có địa vị ổn định rồi thì đã không có cái reo mừng nọ . Nghĩ đi nghĩ lại, thấy quả thực trong trường hợp của Nguyễn mộng Giác có điều thiệt thòi bất công : Giác đã không được chú ý rộng rãi và nhanh chóng xứng với tài mình .

    Và như thế do nhiều lẽ .

    Thứ nhất là do tình hình. Giác xuất hiện giữa lúc chiến cuộc đang hồi gay cấn, nước nhà lâm tình trạng rối ren. Tôi gia nhập sinh hoạt văn nghệ trước đó chừng mười lăm năm, và ngẫm lại bấy giờ mình đã may mắn được hưởng một hoàn cảnh thuận lợi : Sau hiệp định Genève, người ta có một cảm tưởng an lạc thái bình, ít ra trong vòng bốn năm năm đầu. Trong không khí lạc quan xây dựng, dư luận dễ dàng chú ý đến từng tác phẩm văn chương đặc sắc, từng bài thơ hay, câu ca đẹp, đến sự xuất hiện của mỗi một văn thi sĩ độc đáo. Mười năm sau đến thời của Giác, ôi thôi thật là tơi bời...hỗn mang. Các chính phủ dựng lên sập xuống đều đều, rụp rụp ; quân đội ngoại quốc đổ vào ào ạt, đảo lộn cuộc sống xã hội, nề nếp văn hóa; rồi Mậu Thân, rồi Mùa hè đỏ lửa, rồi lạm phát phi mã v.v..Con người bị xô đẩy dồn dập, chịu hết đòn chính trị quân sự đến đòn kinh tế đòn văn hóa, tối tăm cả mặt mũi , còn tâm trí đâu mà thưởng ngoạn văn chương với nghệ thuật. Câu thơ hay không xúc động bằng quả hoả tiễn nổ đánh ầm giữa khu phố chợ Vườn Xoài, cuốn sách lạ không làm giật mình bằng cái tin cổ thành Quảng Trị thất thủ, bằng tin giá xăng bất ngờ vọt lên giữa ngày mồng hai Tết v.v..

    Trong cảnh bát nháo ấy phải là một cái gì thật giật gân mới mong được dư luận chú ý đến, mà văn chương. của Nguyễn Mộng Giác không phải là thứ văn giật gân. Ồ không! Giác không nhằm giật gân giật cốt ai cả. Giác viết những điều thật tinh tế giữa một thời thật náo nhiệt. Và cái này đưa chúng ta sang một chuyện khác.

    Vào giai đoạn cuối, trong chết chóc hỗn loạn, miền Nam đã tự tìm cho mình một xu hướng văn chương thích hợp với hoàn cảnh: thứ văn chương tiêu khiển. Đàn ông đọc Kim Dung, đàn bà đọc Quỳnh Dao, rồi thiên hạ xúm nhau đọc truyện trinh thám gián điệp, đọc truyện hãi hùng thời Đức Quốc Xã, truyện ma quái hồ ly, đọc Lê Xuyên, Lệ Hằng, Nguyễn thị Hoàng mê ly, đọc mải miết, đọc say sưa trên báo hàng ngày, rồi thuê sách về mà đọc. .. Đây là thời kỳ của sách cho thuê. Sách thuê phải là thứ sách đọc ào ào rồi trả. Còn những thứ cầu kỳ điêu luyện thì không thể đọc thuê; những thứ ấy không phải của thời kỳ này. Cho nên cùng với hiện tượng sách cho thuê đã xảy ra hiện tượng sách Con Đuông. Sách Con Đuông là thứ sách không in, mà chỉ "thực hiện " mấy chục bản đặc biệt để tặng một số giới hạn văn hữu chọn lựa mà thôi. Sách Con Đuông phần nhiều là thơ, lắm tập của những thi gia nổi tiếng từ lâu. Độc giả VN không phải lúc nào cũng chê thơ, ai cũng biết. Trong văn học sử Việt Nam đã từng có thời thơ được in đi in lại, thơ là con đường vương giả tiến lên đài vinh quang mà mọi tao nhân mặc khách đều ao ước. Nhưng đến đây thì tiếng nói thanh tao đành bị tiếng đại bác át hẳn.

    Dĩ nhiên không thể nói trong giai đoạn sau ở miền Nam chỉ toàn sách xoàng. Không ai ngông cuồng rồ dại nói điều nhảm nhí như thế. Thời nào cũng có người tài, chỉ có xu hướng đổi khác. Đổi theo hoàn cảnh. Và người tài phần lớn cũng phải theo cái xu hướng của thời thế. Người kém viết sách tiêu khiển lảm nhảm: người tài viết hay, nhưng cũng liệu làm sao cho có thể tiêu khiển được thiên hạ thì "tiện " hơn. Nhiều nhà văn tiếng tăm lớp trước, khi đổ ra viết truyện dài đăng nhật trình cũng chọn lối này. Ngay người bạn Hoàng Ngọc Tuấn, tài hoa bay bướm là thế mà sách của anh thuê về đọc ngốn đọc nghiến cũng thú ra phết. Duy Nguyễn mộng Giác thì không vậy.

    Hãy nghe Hoàng Ngọc Tuấn nói với hội Bút Việt về cuốn Đường một chiều: "Theo tôi, đó là một tác phẩm được sáng tác rất công phu. Say sưa mà vẫn thận trọng, đầy cảm hứng mà vẫn tiết chế, cô đọng bằng một kỹ thuật cao và khéo léo; nội dung chứa đựng nhiều ý tưởng phong phú mà hình thức vẫn gọn gàng lôi cuốn", và về truyện của Nguyễn Mộng Giác nói chung: "Truyện của Nguyễn Mộng Giác thường đặt ra cho người đọc những câu hỏi, tác giả không trả lời, chính mỗi người chúng ta, nếu chúng ta là những độc giả không ngại phải băn khoăn suy nghĩ khi đọc sách thì chính mỗi người trong chúng ta sẽ tự tìm lấy câu trả lời riêng cho chính mình. "

    Thay mặt Hội Đồng Tuyển Trạch, Phạm Việt Tuyền nhận xét về tác phẩm được chọn thưởng, cho rằng "tình tiết rất hấp dẫn" (...) "khi đã xảy ra thành sự kiện thực tế rồi thì vẫn còn tạo bâng khuâng triết-lý như tách trà thơm ly rượu ngon đượm thêm tình nặng nghĩa sâu"(2)

    Những chỗ ngợi khen xin vì đức khiêm tốn của Giác mà không nhắc đi nhắc lại, chỉ xin chú ý đến mấy điểm mà hai vị Hoàng và Phạm cùng "nhất trí" với nhau về Giác: ý tưởng phong phú, băn khoăn suy nghĩ bâng khuâng triết lý, đặt ra những câu hỏi v.v... Các điểm ấy chính Nguyễn Mộng Giác cũng gián tiếp xác nhận khi trả lời cuộc phỏng vấn của tạp chí Bách Khoa: "Các nhân vật của Kim Dung từ Trương Vô Kỵ cho đến Tiêu Phong, Lệnh Hồ Xung, đều đã xông pha, đã dấn thân theo cách riêng của mình, nhưng cuối cùng đều phải băn khoăn y như nỗi băn khoăn của Lệnh hồ Xung khi thấy Lâm bình Chi sử dụng Tịch tà kiếm pháp" (3).

    Thành thử trong giai đoạn thời thế hỗn mang, người đời mong giải trí bằng cái gì nhẹ nhàng phù phiếm một chút thì Nguyễn Mộng Giác lại miệt mài với những suy tưởng băn khoăn triết lý, làm "vất vả" cả người viết lẫn người đọc. Vì thế đã biết Giác, ai cũng quí Giác, nhưng biết Giác không phải là khối quần chúng rộng rãi. Vì thế, lâu lâu lại bất chợt có sự mừng rỡ vì Giác được biết, được yêu thích.

    ***

    Tại sao chọn con đường heo hút cô quạnh như thế mà đi? Giác từng nói đến sự khác biệt giữa thế hệ mình và các thế hệ trước: Kẻ đi trước có niềm tin, tin ở xã hội, ở ngày mai, ở sức mạnh tri thức tiểu tư sản, tin ở sức mạnh của Miền Nam, ở chính nghĩa chống cộng v.v... Đến thế hệ sau 1960, thế hệ của Giác, thì mọi niềm tin đều sụp đổ, chỉ còn lại một cảnh bơ vơ hoang mang. (4) Do đó mà suy tư triền miên.
    Quả có thế. Nhưng trong cảnh bơ vơ tinh thần nọ, người bạn Hoàng Ngọc Tuấn cứ phơi phới, Nguyễn thị Hoàng thì tuy xài dồn dập rất nhiều chữ nghĩa triết lý nhưng không ai dám bảo là thường hay suy tưởng, và Nguyễn Đình Toàn và Duyên Anh và bao nhiêu kẻ khác không mấy khi đặt ra những câu hỏi không lời giải đáp như Giác. Nỗi hoang mang của cả một thế hệ như dồn cả vào một số người nào đó thôi, một số không nhiều. Trong đó có Giác.

    Nghĩ đến Giác, đến cái số những người thường âm thầm băn khoăn cái băn khoăn của thiên hạ, hoang mang cái hoang mang của thiên hạ, tôi chợt bâng khuâng nhớ về chỗ quê hương của mình, của chúng tôi.

    Hãy khoan! Xin đừng ai vội nhếch miệng cười, cho rằng lại sắp có vụ nhắc đến những tên tuổi anh hùng lừng lẫy nọ kia của địa phương. Chúng tôi biết mình chẳng thừa kế được nét hào hùng nào của ai cả. Anh hùng là những trường hợp bất thường, rất ít dính líu đến chúng ta. Bây giờ, lưu lạc tha hương, chúng tôi nhớ về quê cũ là nhớ đến những cái gì thật tầm thường, quen thuộc thôi, đến cảnh ruộng vườn nhà cửa, đến bà con chòm xóm, bạn bè thân thuộc mà thôi.

    Và những hình ảnh bạn bè hiện ra trong trí nhớ sao hầu hết đều có gì hao hao giống... Giác! Xin chọn một người không đến nỗi xa lạ với phần đông bạn đọc: Quách Tấn.

    Tôi gặp ông lần đầu ngày còn là một đứa học trò trung học bốn mươi năm trước; và cho đến khi tôi trông thấy ông lần chót trước lúc ra đi, ông đã ngót bảy mươi, vẫn còn giữ nguyên một cái cười ấy: cười như trẻ thơ. Ông có già mà cái cười không già; ông là một lão nhi. Trẻ thơ đây không phải là vô tư lự. Không ai có thể bảo con người từ thuở thanh niên đã làm những bài thơ cực kỳ cô đọng trong Mùa Cổ Điển, con người trải qua bao cuộc thăng trầm của nước nhà đã bao lần vào tù ra khám, đã khóc cho những thảm cảnh xảy ra trên đất nước và ngay cả trong gia đình, rồi đau ốm, rồi mang cố tật trong tuổi già quạnh quẽ, con người như thế lại vô tư lự. Cái cười của Quách tiên sinh có vẻ trẻ thơ chỉ vì trông nó lành quá sức lành. Trong cái cười ấy, người ta thấy rõ trước mặt mình một kẻ hoàn toàn vô hại, không có chút mưu chút mẹo nào hết trơn. Một kẻ thàng.

    Thàng là chữ Nguyễn Mộng Giác đã dùng trong một bài viết về tôi trên một số Văn đặc biệt (5). Thàng cũng là tiếng riêng của địa phương. Ngoài vùng Bình Định Phú Yên ra, tôi chưa hề nghe nơi nào khác dùng tiếng này. Thàng là chữ riêng của người Bình Định, và cũng là chữ riêng để mô tả người Bình Định. Thàng, cũng nói là thàng hậu; thàng hậu nghĩa gần như hiền hậu, nhưng còn đi xa hơn hiền hậu nữa kia, vì nó có khả năng mô tả, hiền hậu thì không. Hiền hậu, thực thà là một đức tính, một nết hay; thàng hậu còn là một vẻ người hiển hiện ra bên ngoài, trông rõ mồn một. Người thàng, thàng từ tiếng cười, giọng nói, nét mặt, thàng đi. Mà người thàng thì trời ơi, trong trí nhớ của tôi, tôi mường tượng mọi người Bình Định đều thàng hết: anh Ba, chị Bốn, ông Bảy, bà Năm, cô Tư, cậu Tám v.v... Hết thảy, không ai là không thàng. Muôn người như cùng một vẻ, một giọng.

    Tôi nhớ vào khoảng năm 73, 74, ở chỗ cuối đường Nguyễn Thông có cái chợ trời nhóm hàng ngày bán đồ Mỹ, một buổi chiều nào đó tôi đang lội ngược lội xuôi giữa đám đông để tìm một món hàng, chợt nghe nổi bật lên một câu nói ngắn giọng đàn bà trong vắt! Tôi giật bắn người, quay lại, đảo mắt tìm nhớn nhác. Tôi lầm sao được? Trong khắp năm mươi tỉnh của Miền Nam, có nơi nào người ta nói cái giọng nói phẳng bèn bẹt, ngang tuột ra như thế? Quả nhiên, tiếng nói lại cất lên lần nữa, và tôi nhận ra ngay một người đồng hương đang lom khom mặc cả. Trông nó lạc lõng quá chừng. Dáng người ấy, nét mặt ấy, giọng nói ấy, quê mùa thàng hậu - tôi tưởng tượng nó dính liền với đồng ruộng, với những cảnh chợ làng chợ huyện ngoài ấy; một người đàn bà Bình Định, rặt Bình Định thuần túy như thế len lỏi làm gì ở chỗ chợ trời Nguyễn Thông tạp nhạp tứ chiếng giang hồ này? Người BìnhĐịnh ít khi rời khỏi làng mạc, chỉ sau này cảnh bom đạn ác liệt quá lắm mới đánh bật gốc nổi họ, đánh văng họ tản mác thế này. Mấy tiếng nói ngắn ngủi nổi lên lạc loài ở một góc đường đô thành, ngay trên đất nước mình, cũng làm cho tôi bồi hồi xúc động, ngẩn ngơ, huống hồ...

    Nghĩ rằng một nhà văn viết về nước Mỹ không thể chỉ biết nước Mỹ trên bản đồ, trên sách vở, mà phải đến từng nơi nhìn tận mắt núi Mỹ, sông Mỹ, nghe tiếng chim tiếng gió, ngửi cái mùi đất mùi cỏ của nước Mỹ mới gọi là biết, cho nên vào năm năm mươi tám tuổi già, John Steinbeck một người một chó lên đường đi chu du khắp các tiểu bang Hoa Kỳ. Sau khi nhìn, nghe, ngửi nước Mỹ xong, nhà văn bảo ông kính trọng nơi này, ngưỡng mộ xứ nọ, mến chỗ kia, nhưng yêu thì ông chỉ yêu có tiểu bang Montana. Tại sao vậy? Đừng hỏi tại sao. Tình yêu không thể cắt nghĩa được. Ông yêu, ông phải lòng Montana, thế thôi. Dù sao Steinbeck có nói đến cảnh núi non vắng lặng đồng cỏ mênh mông và giọng người nồng nàn, cái giọng duy nhất còn giữ nguyên đặc điểm địa phương vào thời buổi của truyền thanh truyền hình này.

    Về giọng nói Bình Định một chiều nghe ở chỗ chợ trời đô thành, giọng nói ấy làm tôi xúc động vì nó không phải chỉ là một giọng nói, tôi cứ có cảm tưởng nó liên hệ với một khía cạnh tâm hồn, liên hệ sâu xa với cá tính địa phương. Ở xứ tôi nghe giọng nói, tôi nghe cả cái tính tình mềm mỏng uyển chuyển của người Huế, cái bộc trực hùng hổ oang oang của người Quảng, nghe cả cái thàng của bà con xóm diềng quanh tôi. Từ ngày đến cái xứ lạ hoắc này, mình đâu có đôi tai của John Steinbeck để phân biệt giọng nọ với giọng kia; tôi ngơ ngơ ngác ngác, bốn bề lờ-lịt một màu, mất đi biết bao là dáng vẻ phong phú.

    Cũng trong một bài báo Văn nọ, Nguyễn Mộng Giác nói đến những con người trông thì "thàng" nhưng kỳ thực lại "dữ". Lại quả có thế nữa. Người lành đâu phải là người ngây. "Tọa trung đàm tiếu nhân như mộc", họ không nhiều lời, không hay bộc lộ. Đời sống của họ thu rút cả vào bên trong, vào nội tâm. Từng cá nhân riêng lẻ, lặng lờ, triền miên suy tưởng, mộng mơ, băn khoăn, thắc mắc, hoang mang, "đặt ra những câu hỏi không lời giải đáp".

    Tôi nghĩ đến những câu thơ đường luật tinh vi, điêu luyện, cô đọng rất mực của Quách Tấn ngày nào. Giữa thời buổi náo nhiệt của thơ mới đang khởi nghĩa, thời ấm ĩ của thơ bạch nga 12 chân v.v... câu thơ Quách Tấn riêng chiếc một mình, tự thu rút lại, im ĩm, lặng lờ, cô tịch... Quách Tấn mà Chế Lan Viên đại khái đã giới thiệu như một tâm hồn yêu hồ ghét bể yêu cái tĩnh ghét cái động, yêu cái im lặng ghét cái ồn ào xao xuyến.

    Tôi nghĩ đến cái ánh trăng tràn ngập bến My Lăng của Yến Lan, cái ánh trăng mờ mịt ngút ngàn, ánh trăng mông lung phiếu diễu mà thu hút huyền bí như cõi tiềm thức, nơi tích tụ những cái "dữ" của lòng người. Cái ánh trăng vẫn ám ảnh mọi nhà thơ Bình Định như Hoài Thanh từng nhận xét. Ám ảnh như những kỳ bích của cõi tiềm thức thăm thẳm vẫn ám ảnh các tâm hồn đơn độc của những con người "thàng" ít lời ít lẽ.

    Cái lành ở đây thật là dữ, cái im lặng ở đây thật nhiều lời, đầy thắc mắc, đầy "câu hỏi".

    Nhưng kìa, tôi có vẽ vời, lắm chuyện về miền quê của mình chăng? Bình Định là cái gì mà đặc biệt quá vậy? Mà như thể một ốc đảo xa khơi tách lìa khỏi các tỉnh lân cận? Mà như thể một xứ sở nào riêng biệt, có "hồn nước" riêng, có dân tộc tính riêng vậy?

    Không đến nỗi thế đâu. Tuy nhiên nhiều phen tôi vẫn lặng lẽ thắc mắc, đặt ra những "câu hỏi " về chỗ địa phương mình. Từ ngoài đi vào, Bình Định chỉ cách Quảng Ngãi một cái đèo Bình Đê thấp lè tè, cách mà như không cách, chứ đâu phải như cách đèo Hải Vân, đèo Ngang, đèo Ba Dội v.v... Thế mà bước qua khỏi cái lằn ranh nọ, lập tức người ta đi vào một khu vực ngôn ngữ khác: Bên này lằn ranh là mô, tê, răn , rứa, chừ, ni, nớ...; bên kia lằn ranh là đâu, kia, sao, vậy, giờ, đây, đó... Một thay đổi đột ngột như vậy phải gây ra ngỡ ngàng chứ? Suốt một giải đất dằng dặc năm tỉnh từ Quảng Bình vào Quảng Ngãi không khác, mà đến đây chỉ bước qua một làng, vượt qua một lằn mức là đổi khác. Phải chăng bước đường Nam tiến đã tả ra không suông sẻ, đã gặp một vấp váp ngập ngừng nào đó.

    Người Việt các tỉnh miền ngoài đi vào nam là cùng đi với nhau, kẻ sau nối gót người trước, đi liên tục. Đến lượt Bình Định thì tặt một cái, giống người bị cắt đứt, ngắt quãng. Người Bình Định rời bắc vô nam vào một đợt khác, một thời khác, từ một địa phương khác, nói thứ giọng nói khác, với những đặc ngữ khác...

    Buổi đầu ngàn dặm ra đi vào đất mới trong hoàn cảnh như thế, sao cho khỏi thấy lẻ chiếc bơ vơ?

    Những di dân đầu tiên vào Quảng Ngãi là gốc Nghệ Tĩnh; nhưng tổ tiên người Bình Định dường như không phải vậy. Họ được đưa thẳng từ bắc vào. Lắm gia đình Bình Định còn giữ được gia phả ghi chép về ông tổ quê quán từ ngoài bắc. Họ mang từ bắc vào những tiếng nói xưa và giữ lấy, dùng mãi trong khi người Bắc đã thay đổi mà họ không hay biết: đó là trường hợp tiếng NẪU, cái tiếng vẫn làm đề tài chế nhạo người Bình Định. Họ mang theo từ ngoài Bắc những cách phát âm xưa, rồi cũng giữ chặt lấy, rồi truyền dần vào Nam, trong khi ở ngoài bắc cách phát âm đổi khác mà họ không hay biết: họ vẫn còn nói "minh mông" trong khi người bắc đã đọc ra "mênh mang" (6) từ lúc nào...

    Nguyên cách nói năng như thế, nguyên một tiếng NẪU, nguyên một chuyện không có răn, rứa, chừ, mô, đã khiến họ lạc loài, không "hội nhập" được với cộng đồng di dân lớp trước sống sát cạnh mình.

    Ở Bình Định có câu hát:

    "Trung quân vương Bến Đá trở ra
Hiểu phụ mẫu Bồ Đề trở lại".

    Bến Đá (hay Thạch Tân) là tên cũ của cái đèo Bình Đê vừa nói. Và Quách Tấn giải thích câu này như sau:

    "Ngày xưa, người Bình Định, ngoài việc đi lính và đi làm quan, ít ai ra khỏi đèo Bến Đá" (7)

    Ấy, sự giao tiếp giữa hai tỉnh giới cận Bình Định và Quảng Ngãi nó hờ hững như vậy đấy.

    Ờ, mà lạ thật! Răn, rứa, chừ, mô... là tiếng mượn của dân Chàm? Tại sao khi đợt di dân đầu tiên vào tận kinh đô Chàm, tận thành Đồ Bàn, thì lại không còn tiếp nhận ảnh hưởng của ngôn ngữ Chàm nữa? Phải chăng từ thế kỷ 15 về trước, Chiêm Thành tuy có lúc yếu kém phải mất đất, nhường đất cho Việt Nam, nhưng họ vẫn còn là một quốc gia với nguyên vẹn chủ quyền độc lập, họ vẫn còn uy thế đủ sức phát huy ảnh hưởng văn hóa tại những vùng đất nguyên là của họ; về sau, sau cuộc thất thủ kinh thành Đồ Bàn, quốc gia Chiêm Thành sụp đổ, dân Chàm co rút lại trong mặc cảm, chờ đợi tàn lụi, tránh chung đụng với kẻ chiến thắng, cho nên lúc này lớp di dân mới không có trao đổi gì với người địa phương, không vay qua mượn lại ngôn ngữ của họ nữa?

    Bị dân bổn xứ tại địa phương xa lánh, lại không mật thiết mặn mà với lớp di dân cũ, không liên lạc chặt chẽ với triều đình, không được quan quân bảo vệ, đời sống trong xã hội vừa định cư chưa được tổ chức tử tế, người dân Bình Định buổi đầu sống lẻ loi và vất vả: họ phải múa võ tự giữ lấy thân ở chỗ hoang loạn nhiễu nhương.

    Đời sống biệt tịch nơi biên cương ấy là hoàn cảnh tạo nên những tâm hồn nội hướng, đầy e ngại, băn khoăn! Ôi, tâm hồn con người lẽ đâu đơn giản, dễ "cắt nghĩa" quá vậy?

    Dù sao, giữa những kẻ đồng hương chúng tôi với nhau, mỗi khi gặp gỡ, có dịp nhìn lại những chỗ tương đồng, nhìn lại cái ấn son quê hương trên dáng vẻ, phong cách, tính tình, ngôn ngữ của nhau, chúng tôi không tránh khỏi cái cám dỗ ấy: là nhắc về Bình Định.

    ***

    Định tìm hiểu Nguyễn Mộng Giác, tôi đã nói về cái thời của Giác, lại nói về cái nơi của Giác. Hỏng cả! Ở giai đoạn cuối của văn học Miền Nam vừa rồi, có phải ai ai cũng viết như Giác cả đâu? Và ở Bình định có phải ai cầm bút viết văn cũng viết như Giác cả đâu ? Mỗi tâm hồn là một bí mật, mỗi tài năng là một bất ngờ. Phần chung của thời đại, của địa phương vẫn có một vai trò, nhưng cái phần riêng của mỗi người đâu phải kém quan trọng. Vậy nên bắt đầu một cách tìm hiểu khác: lần dò qua các tác phẩm của Nguyễn Mộng Giác chăng?
    Tôi đã dông dài mười mấy trang giấy rồi, mà độc giả tìm đến tập truyện này là vì Giác chứ đâu phải vì ai khác. Tôi không có quyền chen vào la cà, làm mất cả vui. Vả lại, tìm Giác qua tác phẩm thì chính là điều các bạn đang làm: Với tập truyện trên tay, mỗi độc giả đang tiếp xúc với tác giả, hà tất cần đến ai khác.

    Chúng ta vừa nói chuyện tìm Nguyễn Mộng Giác qua tác phẩm. Ờ, mà tại sao không đi tìm tác phẩm qua Giác có phải thú hơn không?

    Đề tựa tập Lửa Thiêng, hình như Xuân Diệu đã nhắc đến hình dáng, đến mái tóc của Huy Cận. Năm xưa, giới thiệu Lỗ Tấn với độc giả Việt Nam, Đặng Thái Mai đã mô tả nhà văn Trung quốc kỹ càng, vì cho rằng "Hữu ư trung tất hình ư ngoại".

    Ở Giác, tôi chắc chắn tất cả bạn bè Giác và những ai quen biết Giác đều nhận thấy cái hiện ra bên ngoài rõ ràng nhất là sự nghiêm chỉnh: nghiêm chỉnh ở nét mặt, cái nhìn, phong thái. Đó cũng là cái tính cách hiển hiện nổi bật từ toàn bộ trước-tác của Nguyễn Mộng Giác.

    Giác đến với nghệ thuật bằng một thái độ hết sức đứng đắn, chân thành, cẩn trọng. Trong giới văn nghệ không khỏi có những trường hợp hoặc chọn đề tài thời thượng cho ăn khách tưng bừng mà chơi, hoặc tung ra một cái gì giật gân để các nhà xuất bản xúm nhau giành giật, để hốt bạc ào ào một chuyến, hoặc nghĩ ra lối viết cách nào cho các em chịu các em khoái v.v...

    Ở địa hạt nào cũng có người tếu kẻ quấy. Giác không thế! Muốn biết Giác làm văn nghệ thế nào, chỉ cần đến đối diện với Giác thì rõ ngay. Chỉ cần nhìn vào khuôn mặt Giác, nói chuyện với Giác mấy câu, người ta hiểu ngay vì sao trong bao năm qua, mỗi tác phẩm của Giác ra đời đều là một công trình nghiêm chỉnh tìm về chân tướng con người, Suy nghĩ đào sâu một vấn đề của thời đại, của kiếp người v.v...

    Con người cẩn trọng ấy rất từ tốn, nói ít và nhỏ nhẹ; Nguyễn Mộng Giác không dàn trải mình ra bên ngoài, không bộc lộ náo nhiệt. Cuộc sống thu lắng cả vào bên trong. Im ĩm, lặng lờ. Giác triền miên sống với một vấn đề, một ý tưởng, lúc nào như cũng đang lăn qua trở lại trong đầu một nhận xét, một băn khoăn. Trong lúc đôi mắt sáng quắc như chiếu xoáy vào từng người từng vật quanh mình, đôi mắt thật tinh tường sâu sắc không để thoát một chi tiết nhỏ nhặt nào. Tôi tưởng tượng sự khốn khổ của gã nhạc sĩ vĩ cầm (trong truyện ngắn Trở lại gánh xiếc) khi bị cái nhìn lặng lẽ, sắc mà lành của Giác theo đuổi đôi kim găm ở ống quần gã. Tôi tưởng tượng đến những ngày tháng gần cái chết của bà Lộc (trong truyện dài Đường Một Chiều), của các nhà văn học giả (trong truyện ngắn Ngựa Nản Chân Bon), tưởng tượng đến những oan khiên trắc trở xảy đến cho cô tham sự hành chánh (trong truyện ngắn Tố Chân), đến những nghịch cảnh trong xã hội miền Nam Việt Nam sau ngày 30-4-75 v.v...

    ***

    Những sự kiện, những vấn đề như thế nằm trong chỗ sâu thẳm của tâm trí Giác, ở đó chúng không ngớt âm thầm, thao thức, trăn trở... Đôi mắt của nhà văn đối diện, lúc bấy giờ, bỗng dưng trở nên thăm thẳm, tưởng chừng như cặp đèn chong ngày đêm không tắt ở một chốn đài điện thâm nghiêm u tịch...

    Có phải tôi đang nói về những khổ nhọc của sáng tác?

    Không hẳn đâu! Bởi vì một nhân vật, một đề tài được tác giả miệt mài ấp ủ chầy ngày, qua một quá trình sáng tác thận trọng, chín chắn, thì một khi xuất hiện vào tác phẩm, nó lại cũng có sức hấp dẫn và ám ảnh độc giả rất lâu dài.

    Thú thực, tôi đã từng bị lắm nhân vật và vấn đề của Giác bám lấy, đeo lấy tâm trí, ám ảnh mãi. Cho nên vừa rồi không hẳn chỉ là những khổ nhọc của Nguyễn Mộng Giác mà thôi, rồi đó cũng sẽ là nỗi khổ nhọc của những độc giả yêu Giác nữa đấy!






    Võ Phiến
    Los Angeles 11-83
    __________________________________________________________

    • (1) Toàn văn lá thư đăng trên tạp chí Bách Khoa số phát hành ngày 20-12-74.
      (2) (3) (4) Bách Khoa số ra ngày 2-12-74, trang 79.
      (5) Văn, số ra ngày 1-8-1974 Sàigòn.
      (6) Nguyễn Ngọc Bích và Đào Thị Hợi trong thiên khảo cứu "Những địa tầng ngôn ngữ trong lịch sử tiếng Việt" cho rằng theo xu hướng chuyển hoán nguyên ậm từ I sang Ê, từ Ô sang A thì Minh mông là cách phát âm xưa nhất, rồi đến Mênh mông, sau cùng mới đến Mênh mang.
      (7) Quách Tấn, Nước Non Bình Định. Nam Cường xuất bản, Sài Gòn 1968, trang 26.


    Nguồn: http://nguyenmonggiac.info/          
          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5416
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Ngựa Nản Chân Bon

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           



    Lẽ Sống
    Viết bởi Nguyễn Mộng Giác


    Nằm chờ ở đảo Kuku sang đến tháng thứ hai, thì lòng hăng hái của từng người bắt đầu xì hơi. Các cụ già từng tấm tắc khen tiếng Anh đơn giản dễ học không chia động từ rắc rối như tiếng Pháp, quay sang chê giống dân Anglo Saxon thiếu tinh thần khoa học chính xác, viết một đàng đọc một nẻo. Ðể thêm cớ vất lăn lóc cuốn tự vị Anh Việt, các cụ dẫn chứng cách đọc tên văn hào Anh Somerset Maugham. Ai đời không đọc Mô-Gam mà lại đọc Môm. Hăng hái lười biếng quá, các cụ quên trường hợp quận công De Broglie 100% là hậu duệ của dân Gaulois. Các cậu thanh niên bắt đầu lười tập thể dục, lũ con nít bẻ gẫy cần câu cá làm củi nhen lửa. Các bà nội trợ sau giờ đi chợ và nấu cơm, không còn siêng năng đan giỏ xách bằng ni lông tướt từ các tấm bạt nhựa UNICEF nữa. Cả đến chuyện hấp dẫn nhất là ăn uống cũng trở nên bơ thờ. Ngán đồ hộp, ngán chen nhau mua rau tươi do thổ dân Nam Dương chèo thuyền độc mộc mang đến bán, chán kháo chuyện, chán vui mừng thoát nạn, chán hy vọng đi sớm, chán lo chuyện bên nhà, chán ngồi ở bãi biển ngóng tàu, chán hết. Tôi cũng vậy. Chỉ có một người trong số 784 người chúng tôi không biết chán. Trường hợp đặc biệt đó đáng được kể ra đây mua vui quên chán đấy chứ, thưa các bạn!

    Cho đến lúc viết mấy dòng này, tôi vẫn chưa biết ông ta tên gì. Lũ trẻ gọi ông ta là “hề Văn Chung”. Trực giác của chúng nó hay thật. Phải, bề ngoài của ông ta có vẻ đạo mạo trầm tĩnh y như anh hề cải lương nổi tiếng. Tầm vóc trung bình không cao quá, thấp quá, mập quá, ốm quá. Mập ú như Khả Năng mới trông đã bật cười. Nhưng mập ốm do trời, cái tài chọc cười dựa dẫm vào hình vóc, theo ý tôi, thiếu đức tự tin. Bộ râu mép của Thanh Việt cũng nổi tiếng lắm. Nổi tiếng như cái giọng lè nhè nhừa nhựa của anh Tùng Lâm. Lấy một nét bất thường của mình phóng đại ra làm trò vui vẫn là kỹ xảo của nhiều anh hề danh tiếng. Nhưng vẫn có vẻ “mánh nhí” thế nào ấy! Hạng hề lão luyện không cần nhờ vả vào sự may rủi. Chính anh ta, từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi bước vào nghề, phải có hình dáng, tính tình, giọng nói, điệu cười, vui buồn giận ghét y như mọi người. Sống trọn vẹn được cuộc đời bình thường rồi dùng trí tuệ khám phá cho đồng loại cái tức cười của cuộc đời, đó mới là thiên tài. Trước Charlot chưa ai khám phá ra những ràng buộc chết người của nền văn minh cơ khí. Thiên hạ khắp năm châu bốn biển say mê ca tụng phương pháp làm việc dây chuyền của Taylor, cho đó là một khúc quanh của lịch sử văn minh toàn cầu. Chỉ có một mình Charlot tìm ra được sự dã man phi nhân của phương pháp ấy và diễn lại bằng tiếng cười.

    Tôi dài dòng như vậy để các bạn hiểu vì sao lúc ông ta mới lên đảo, tôi không chú ý đến ông ta. Tôi đến Kuku một tuần thì ghe của ông mới đến. Lúc các “ma cũ” bu quanh cầu tàu để đón chuyến ghe mới (với hy vọng mơ hồ là sẽ gặp được thân nhân), mọi người chỉ để ý đến bảy thanh niên đầu trọc và một em gái khoảng 12, 13 tuổi bị điên. Em gái bị bệnh thần kinh có dáng đi xiểng tảng của người mất quân bình và vừa bước khỏi ghe lên cầu tàu đi được vài bước đã lấy đôi dép Nhật lên gặm như gặm xương.

    Lũ trẻ cười ồ reo lên:

    - Rồi, bác sĩ Tờ-ra-quít có chuyện làm rồi. Bảy đàn ông đầu trọc thì mọi người đoán non đoán già đủ cách. Vì chuyến trước có hai linh mục và mấy ông thầy ở chủng viện Thiên Chúa giáo, nên đa số Phật tử tị nạn trên đảo liền đồn đãi là có bảy nhà sư vừa cập bến. Người thích ly kỳ thì đoán là bảy người vừa vượt ngục đã may mắn vượt biên tìm tự do trọn vẹn. Cuối cùng hỏi ra mới biết chuyến ghe ấy gặp biển dữ nên thủy thủ đoàn mới nguyện thí phát nếu Trời Phật gia ơn cho cả ghe đến đất liền bình yên. Ghe họ vào được đảo Sedanau, nên trước khi được chở qua đây, họ đã tự nguyện cạo đầu.

    Có lẽ ông ta đã lên bờ, mở cái túi vải nhỏ cho cảnh sát Nam Dương kiểm soát xem có mang theo vũ khí hay không, cởi bộ quần áo vải sậm độc nhất cho bác sĩ Nam Dương khám bệnh tổng quát, uống tại chỗ bốn viên Chloroquine ngừa sốt rét, xếp hàng chờ chỉ định vào sổ nhập trại, lãnh tiêu chuẩn lương thực, mền mùng chén muỗng ở kho... nghĩa là làm đủ thủ tục như tất cả mọi người đàn ông khác. Ông đến ở chung với một số người tại một cái láng lợp lá dừa nào đó. Ông hoàn toàn vô danh trong đám đông bình thường.

    Vì thế mãi nửa tháng sau tôi mới chú ý đến ông, nhờ lũ trẻ trong nhà. Như đã nói ở trên, ban đầu thằng con trai lên 13 tuổi và đứa cháu 12 tuổi của tôi suốt ngày lội xuống biển để câu cá, bắt ốc. Về sau chúng chán, suốt ngày ngồi nhà thở ra thở vô than nhớ Việt Nam quá. Tôi đâm bực gắt với chúng, cấm không được than vãn. Sợ, chúng không than nữa, nhưng nỗi chán chường vẫn còn đó. Thế rồi vài hôm sau, tự nhiên hai đứa hớn hở hẳn lên. Chúng xuống biển, vượt suối qua rừng, bữa cơm nào cũng kháo chuyện với nhau huyên thiên. Chúng thường nhắc đến “chú hề Văn Chung”.

    - Chú Văn Chung bảo loài đỉa biển dễ sợ này ăn rất ngon. Người Tàu gọi là hải sâm. Mỗi lần đi ăn lẩu trên Chợ Lớn mình thường thấy ngoài thịt, cá, gan, tim, bò viên, có một thứ thịt mầu hồng cắt từng khoanh giống như con mực, hải sâm đó. Bên ngoài có gai và nhờn trông tởm thế, nhưng biết làm thì ăn ngon lắm.

    - Chú Văn Chung bảo loài này có lớp vảy đặc biệt. Nó nhảy chuyền trên cây như loài chim, tuy hình thù chẳng khác bao nhiêu với rắn mối. Ðậu ở đâu, vảy của nó biến màu cho giống với màu cây lá chung quanh. Chẳng hạn nếu thân nó bám vào khóm lá, mà cái đuôi dài vẫn còn quấn vào thân cây, thì thân màu xanh, còn đuôi màu nâu.

    - Chú Văn Chung bảo loài thỏ rừng cũng cực khổ khi sinh con như thỏ nhà. Chưa có loài nào sinh con mắn cho bằng loài thỏ, tuy mỗi lần sinh là một lần khổ. Thỏ mẹ tự bứt lớp lông mềm dưới bụng ra làm ổ cho con nằm...

    Lúc nào hai đứa cũng “chú Văn Chung bảo...” Tôi đâm ghen tị với người chưa quen mặt. Nhưng tôi chưa vội tìm gặp ông ta. Trong cuộc đời, tôi đã bị nhiều lần thất vọng vì “văn kỳ thanh” chưa kỹ tôi đã vội “kiến kỳ hình”. Nhiều lúc thanh với hình chõi nhau như nước với lửa. Hoặc ta lãng mạn mơ tưởng nhiều quá trong khi cuộc đời thì thực tiễn đến vụn vặt tủn mủn. Hoặc cái bóng luôn luôn lớn hơn cái hình. Hoặc phần sáng tạo của mỗi người là kết tinh phần cao cả tươi đẹp nhất của một đời khao khát tuyệt đối, như đám rễ âm thầm len lỏi dưới đất đen, lá mục để làm rạng rỡ những đóa hoa. Tôi do dự là phải.

    Nhưng đến lúc thằng con trai tôi được “chú Văn Chung” cho một chú sóc, và thằng cháu được tặng một chiếc thuyền làm bằng đồ hộp chạy dầu hỏa, tôi không chần chừ được nữa. Phải đến tìm ông ta để cảm ơn.

    Láng của ông nằm sát bờ suối, nằm gọn giữa bốn gốc cây lá to như lá mít mà tôi không biết tên. Cửa láng nhìn ra bãi bể. Dòng suối uốn quanh ôm lấy hông láng trước khi đổ ra bãi cát. Ông đang nằm trên chiếc võng kết bằng bao bố treo giữa hai gốc đước rễ ngâm dưới nước suối, chung quanh có năm, sáu đứa trẻ. Trông thấy tôi, ông ta mời một cách tự nhiên:

    - Ông nằm võng nhé!

    Tôi vội từ chối, rồi để đáp lại lời mời thân mật, tôi ngồi bệt ngay trên nền cát cạnh võng. Ông ta hỏi:

    - Chú sóc vẫn còn tung tăng đấy chứ? Tôi hơi ngớ ra một chút. Hóa ra ông ta biết tôi. Tôi đáp:

    - Vẫn vậy.

    - Ông hút thuốc lá chứ?

    Tôi đáp vâng, rồi đưa tay vào túi quần rút bao thuốc rê Nam Dương hiệu 87 và xấp giấy B.B ra mời trước. Ông lắc đầu:

    - Tôi không hút. Chỉ hỏi ông để dạy cho cháu Vũ cách làm cái gạt tàn thuốc bằng vỏ sò. Ông đã trông thấy loại vỏ sò này chưa? Làm cái đựng tàn thuốc tiện lắm.

    Ông cúi xuống đầu võng. Bấy giờ tôi mới để ý đến đống vỏ sò đủ cỡ, đủ màu sắc, hình dạng, từ lâu nằm ở đấy. Ông ta đưa cho tôi coi một chiếc vỏ sò lớn bằng bàn tay, chung quanh có những đường viền uốn khúc lạ mắt giống như năm ngón tay xòe, mỗi đầu ngón tay vừa đủ để gác một điếu thuốc. Ông vui vẻ bảo:

    - Ông thấy đấy, Thượng đế biết rõ lũ con cháu Adam và Eve có nhiều trái chứng, trong đó có cái tật quấn thứ lá khét nồng thành điếu, rồi châm lửa hít khói cho mắt lim dim, đầu óc điên đảo. Thượng đế cũng đoán thế nào các bà nội trợ cũng cằn nhằn, nên mới sinh ra loại vỏ sò này. Ta không dùng đúng chỗ là chưa hiểu được sự huyền diệu của Tạo hóa.

    Tôi cầm cái vỏ sò trên tay, băn khoăn hỏi:

    - Nhưng còn thiếu cái đế! Ðặt lên bàn sao được?

    Ông ta quay nhìn về phía chùm rễ đước:

    - Chân đế ư? Sao lại có loại rễ cây quái dị thế này!

    Thân cao vươn lên không khí khá suông sẻ, nhưng đến gần mặt nước, rễ đước lại tỏa ra đủ hình dạng. Chẳng lẽ ta không tìm được chùm rễ nào vừa đủ ôm chặt cái vỏ sò để thành đế gạt tàn thuốc ư?

    Tôi đâm thích cái lối chấp nhận cuộc đời giản dị mà sáng suốt ấy. Một thằng bé trạc 9 tuổi đang thử cho chạy chiếc thuyền chạy bằng đèn dầu hỏa trên mặt suối, chạy lên than phiền:

    - Chú Văn Chung ơi! Gió thổi quá, thuyền bị vô nước.

    Ông ta cười, xoa đầu thằng bé rồi bảo:

    - Gió ư? Sao cháu không tạm “neo thuyền vào bến”.

    Thằng bé hỏi:

    - Bến nào hở chú?

    - Cháu hãy đào cát làm cái vịnh kín như Vịnh Cam Ranh bên mình. Khuân mấy hòn đá bên kia sang làm núi. Nên lựa những viên xù xì có răng cưa và có rêu bám cho đẹp. Cầu tàu thì chặt một hộp Coca nhôm ra làm ván lót. Cháu chỉ cần nhặt nhạnh quanh đây cũng có đủ thứ để làm thành hải cảng tốt nhất thế giới.

    Ý kiến ngộ nghĩnh khiến lũ trẻ reo lên. Chúng rủ nhau bắt đầu lập vịnh. Một đứa qua bên kia suối khuân đá, vô ý để cho hàu cắt rách gót chiếc dép Nhật. Kho của cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc không đủ dép cho trẻ em nên thằng bé phải mang một đôi dép quá khổ. Nó xanh mặt vì sợ bố mẹ mắng. Bạn nó mét:

    - Chú Văn Chung ơi! Thằng Minh làm rách dép rồi.

    Bé Minh mếu máo mang chiếc dép rách lại. Ông ta hỏi:

    - Cháu có bị cắt không?

    - Chưa bị, chú ạ.

    - Thế thì không việc gì. Cháu nên mừng. Cái hàu nào cắt dép cháu đâu?

    - Ở đằng kia. Chỗ viên đá tròn như quả bóng. Ông ra lệnh:

    - Hãy lấy con dao đến cạy đem về đây cho chú. Thằng bé ngơ ngác hỏi:

    - Ðể làm gì hở chú?

    Ông ta cười, nói như đùa:

    - Chú phải trừng trị nó.

    Lũ trẻ nghĩ chú Văn Chung sắp bày một trò mới, mặt mày đứa nào cũng rạng rỡ. Cả năm đứa bỏ cái vịnh làm dở, để chạy đi cạy cái hàu hỗn láo. Khi chúng đem cái hàu về, ông ta bảo thằng Minh:

    - Cháu mang dép vào!

    Thằng bé ngoan ngoãn vâng lời, đỏ mặt hãnh diện vì được làm nhân vật chính của một trò chơi nó đoán là sẽ hấp dẫn. Ông ta lấy que củi cháy dở trên cái bếp hoang gần gốc đước vẽ kích chân bé Minh lên mặt hai chiếc dép. Vẽ xong, ông bảo nó rút chân ra, rồi đưa cái hàu cho thằng lớn tuổi nhất:

    - Hãy lấy cạnh hàu cắt dép cho nó. Cách trừng trị khoan hồng nhất đấy.

    Lũ trẻ vỗ tay khâm phục cách “trừng trị thích đáng”. Một đứa rụt rè thưa:

    - Chú Văn Chung ơi! Sóng lớn quá, tụi cháu đắp bờ làm vịnh mà cát cứ chài ra. Làm mãi không được.

    Nó nói thêm để tránh lỗi:

    - Hôm nay gió lớn quá chứ!

    Ông ta bảo:

    - Gió lớn à? Tại sao các cháu không làm diều? Tôi hiểu ra rồi! Hiểu cái ma lực quyến rũ tuổi thơ về phía ông, hiểu vì sao lũ trẻ trên đảo cứ quấn quít bên ông. Có điều tôi chưa hiểu, là do đâu lũ trẻ dám đặt cho ông cái tên Văn Chung và ông vui vẻ chấp nhận. Tôi hỏi, và ông đáp:

    - Tại lúc hết chuyện chơi, tôi thường tìm chuyện khôi hài kể cho chúng nghe. Tôi tò mò hỏi:

    - Ông đi có một mình?

    Ông thản nhiên đáp:

    - Tôi chỉ còn một mình.

    Vẻ thản nhiên khiến tôi ngập ngừng. Nếu ông tỏ ra buồn rầu, tôi đã dễ dàng đi sâu vào những tâm sự riêng tây. Tôi lờ mờ đoán rằng ông thản nhiên vì đã tìm ra cách “trừng trị thích đáng” bao nỗi bất hạnh như đã trừng trị cái hàu giùm cho thằng bé.

    *

    Khỏi phải nói các bạn cũng biết là từ đấy về sau tôi gặp ông luôn. Tôi trở thành “tình địch” của chính con tôi. Buổi sáng tuy không hẹn trước, chúng tôi thường gặp nhau ở phông ten để súc miệng rửa mặt sớm hơn mọi người, rồi cùng ngồi bên nhau trên thân cây dừa ngã để ngắm núi. Ðảo này hình chữ W và chúng tôi ngồi giữa cái vòng tròn hở đầu tiên. Quanh chúng tôi, trước mặt, bên phải, bên trái, là sườn núi chót vót, rừng già chưa hề bị rìu búa vô phép nên thân cao và thẳng vươn lên hàng hàng lớp lớp từ thung lũng hẹp cho đến đỉnh. Sương đêm chưa tan hết. Những áng mây lạc vướng vào ngọn cây như bịn rịn với nhân gian. Ðỉnh núi khi thì cắt hình lên nền trời bàng bạc, khi thì nhòe mất sau sương khói; tôi đọc cho ông nghe hai câu đối định dán lên cột chùa vừa được các Phật tử trong trại tị nạn sửa chữa:

    Vượt biển tìm tự do, sống chết hai hàng lệ ứa. Lên non tạ Phật tổ, sắc không một áng mây bay. Tôi thật thà tỏ ý muốn ghi cả tên họ toàn gia đình mình bên chỗ lạc khoản của câu đối, để thay cho bản tạ ơn. Ông trầm ngâm một lúc rồi đưa ra ba gợi ý. Thứ nhất: Ông đề nghị sửa chữ “áng” trong câu thứ hai ra chữ “mảng”. Chữ ÁNG vững chải quá, chưa thật phù hợp với lẽ sắc không. Thứ hai: Ôống không thích những hàng lệ, dù là những hàng lệ vui sau khi vượt được bao nhiêu gian nan để đến bến lợi. Thứ ba: Ông đặt câu hỏi: “Tại sao phải ghi tên vào lạc khoản?” Ðể làm gì? Sợ Phật quên chăng? Sợ đời quên chăng? Tô Thức há chẳng hỏi “Núi sông dài vô cùng mà người xưa thì nay đâu?”. Bắc chước Tô Thức để cố in dấu lên bụi thời gian chăng? Làm như thế có khác nào một ngọn cây rừng trên núi trước mặt muốn níu lại một sợi mây mong manh! Nhất là lúc vừa nhắc đến lẽ sắc không của đạo Phật. Hôm đó tuy trong lòng không vui, nhưng tôi phải nhận các gợi ý của ông đều đúng.

    Buổi chiều chúng tôi thường gặp nhau trên bãi biển. Nước thủy triều vào khoảng xế bóng rút xuống, để trơ một lũ đá vương vãi khắp đáy cát. Màu đá như rỉ sắt đáp lại màu chiều vàng vọt. Mặt trời lặn trước mặt chúng tôi, hướng những đám mây bạc sẽ trôi về quê. Tôi buồn lặng không muốn nói năng, còn người bạn mới của tôi vẫn giữ được vẻ an nhiên! Nhiều lần tôi muốn hỏi ông cách “trừng trị thích đáng” những nỗi bất hạnh, bí quyết để sống trọn được cuộc đời như thảnh thơi dạo chơi trong khoảng trăng thanh gió mát. Tôi cũng muốn hỏi ông vì sao không thích những hàng lệ. Câu trước tôi không hỏi vì thấy trước nó rắc rối quá, có thể vô tình khơi lại một vết thương mà ông muốn quên. Tôi chỉ có thể hỏi câu sau. Ông đáp:

    - Tôi không chịu đựng nổi những giọt lệ. Mỗi lần nghe tiếng trẻ con khóc, người tôi bàng hoàng nôn nao như sắp phát điên. Ông dợm kể điều tâm sự gì đó, sau lại thôi. Tôi chợt nhớ đến bức tranh “Anh hề” của Picasso. Tôi hỏi:

    - Ông có biết bức tranh nổi tiếng ấy không? Bạn tôi đáp: “Vâng”.

    Hình như bạn tôi hiểu tôi muốn nói gì, vì sau một phút ngập ngừng, ông ta hứa:

    - Hôm nào có hứng tôi sẽ kể cho ông nghe chuyện mưu sinh của tôi ở Sài Gòn. May ra lúc đó ông hiểu được vì sao tôi yêu trẻ con và ghét những “hàng lệ ứa”.

    *

    Sau ngày mất nước, giống như phần lớn bạn bè, tôi chẳng còn biết phải làm gì nữa. Vốn liếng không! Mưu chước bán buôn không! Những gì tôi có như lòng thành thực, tính yêu mến trẻ con, khát vọng được sống lương thiện... trở nên lẩm cẩm cồng kềnh vào buổi giao thời. Những kẽ hở của thứ luật pháp mù mờ trong lúc tranh tối tranh sáng, không phải ai cũng chui qua được. Ông biết đấy, phải khinh bỉ con người đến cùng cực (con người nói chung trong đó có cả mình) người ta mới dám mở miệng đề nghị hối lộ để khoan thai lọt qua các ngõ ngách. Thật vậy, phải biết đích xác không lầm lẫn kẻ ngồi đó là cái túi tham mới dám bắn tiếng. Tôi thì có thói quen xem mọi người đều đáng trọng. Thành thử đi đâu tôi cũng gặp những bộ mặt nghiêm nghị, xin làm gì cũng va đầu vào các bức tường nguyên tắc. Tôi thành thật nhận rằng mình không hợp với thời loạn, nên mỗi ngày mỗi thêm lúng túng. Vài người bạn có hảo tâm chỉ vẽ cho tôi một số nghề hái ra tiền. Tôi thử một vài lần, lần nào cũng thất bại. Những nghề quái ác ấy đòi hỏi cái lưng thật mềm, cái lưỡi lém lỉnh lật lọng và đôi chân dẻo chạy không biết mệt.

    Cuối cùng tôi tìm ra được một nghề phù hợp với bản tính của tôi: nghề bán bong bóng cho trẻ con.

    Ðó là một nghề ít vốn. Vài chục đồng bạc để mua bong bóng bán từng kí lô trong Chợ Lớn. Vài đồng bạc dây nhợ. Mượn cái ống bơm của bác thợ sửa xe đạp trước đường cái, chế biến một cái valve, xin đoạn trúc làm cây sào, bẻ đâu đó một chùm lá xanh, đồ nghề vốn liếng chỉ có vậy! Nơi hành nghề là Sở Thú, trước các lớp mẫu giáo và nhà giữ trẻ, trước các trường cấp 1, đường phố chính Sài Gòn chiều thứ bảy và chủ nhật. Sắm thêm một cái còi thổi ti toe, tôi vác sào bong bóng đủ màu sắc dạo khắp phố phường. Khách đi lại dừng bước nhìn tôi. Trẻ con reo vui khi trông thấy tôi. Chàng mua quả bóng mầu hồng có chữ Love để tặng người bạn gái e lệ, thay cho lời tỏ tình. Mẹ tặng con để thưởng một buổi chịu ngoan ngoãn giữ nhà. Tôi hớn hở mang mầu sắc cho cuộc đời, còn gì vui thú hơn. Có điều bất tiện là phần lớn bạn đồng nghiệp của tôi đều là trẻ con. Có thể nói khắp Sài Gòn chỉ có tôi là người lớn duy nhất làm nghề bán bong bóng. Khách mua nhìn tôi ngại ngùng... Nhiều người hỏi trước kia tôi làm gì. Ban đầu tôi thành thực trả lời. Tôi hưởng được sự thương hại, hàng có đắc hơn nhưng sau một ngày dạo khắp phố phường với sào bong bóng, lòng tôi chùng lại bớt vui. Tôi bắt đầu nói dối thì từ đó cũng bắt đầu cảm nhận vị chua chát của nghề nghiệp. Lòng tôi chùng lại, nghĩ đến chuyện bỏ nghề. Nhưng không bán bong bóng thì làm gì? Sửa xe đạp tôi chưa có đồ nghề. Bán nước bọt ở chợ trời thì không quen phấp phỏng sợ hãi và gian dối. Lại phải bán bong bóng vậy, nhưng để khỏi chịu đựng sự thương hại, tôi phải cải tiến.

    Tôi hỏi mượn một thùng hơi gaz để chế biến thành thùng hơi khí đá để bơm bong bóng. Vì phải đẩy thùng khí đá nặng nên tôi không bay nhảy khắp nơi như trước nữa. Tôi phải chọn những vị trí cố định như chợ búa, trường học. Nếu cần di chuyển, cũng di chuyển ít thôi. Bù lại, món hàng của tôi hấp dẫn hơn: những chiếc bong bóng biết bay! Bấy giờ đồng nghiệp của tôi toàn là người lớn. Nhiều khách hàng cũng là người lớn. Ước vọng bay lên cao, nhấc chân lên khỏi mặt đất là ước vọng chung của loài người không phân biệt lớn nhỏ. Vào các dịp lễ, tôi còn bán sỉ được cả trăm cái bong bóng để ban tổ chức làm vui mắt các đại biểu. Hóa ra kẻ đã lên cao rồi còn muốn lên cao nữa! Họ không biết bong bóng lên cao quá sẽ nổ hay sao?

    Thấy tôi làm ăn khấm khá, nhiều kẻ lỡ thời nhảy vào cạnh tranh, nên bát cơm độn chưa đầy của tôi phải bị sẻ làm năm làm bảy. Ðến một lúc hết có thể chia sẻ thêm nữa, tôi lại định chuyển nghề. Nghề gì bây giờ? Tôi có những điều thừa thãi và thiếu điều cần thiết, nên tìm mãi không ra được nghề gì sống lương thiện được! Chỉ còn có nghề bán bong bóng, nhưng một lần nữa phải cải tiến nó.

    Một hôm tôi nghe anh bạn thân phát tài mau chóng nhờ nghề đạp xe đi dạo mua răng vàng, bạc vụn, gọng kính, vỏ đồng hồ cũ, nghĩa là tất cả những thứ gì bằng kim khí đã phế thải. Ðồ nghề của anh là một lọ acide, một viên đá đen và cái túi vải nhỏ. Nhờ kinh nghiệm, anh có thể biết đích xác thứ đồ phế thải nào có pha vàng hoặc bạc và pha đến mấy phần. Gọng kính loại Rayban, nắp viết Parker 51 cũ, khung gương soi mặt, đồng bạc Ðông Dương từ 1945 trở về trước, hộp nữ trang đã móp méo, tất cả những thứ lỉnh kỉnh đó đều có thể chứa vàng hoặc bạc. Mua hàng với giá phế thải năm ba đồng rồi bán lại cho thợ phân kim với giá kim loại quí trên thị trường, anh bạn tôi phất cao trong vòng vài ba tháng. Dĩ nhiên một nghề thời trang như vậy mau chóng bị cạnh tranh, nên việc săn vàng ngày càng gian nan hơn. Anh ta bỏ Sài Gòn về rảo khắp vùng ngoại ô, rồi từ ngoại ô đi khắp các tỉnh. Tiền xe cộ ăn uống dọc đường không gì bù đắp được, anh thất bại cho đến lúc anh tìm được “người phụ tá đắc lực” là tuổi thơ. Anh bỏ tiền đi mua một lô đồ chơi trẻ con bằng nhựa như khỉ đánh trống, cóc biết nhảy, súng lục bắn ra nước, dép gắn còi mang đi kêu tò toe... Mang những thứ đồ chơi hấp dẫn ấy đến khu vực hành nghề anh đánh trống biểu diễn vài màn ảo thuật để kéo lũ trẻ tụ lại. Anh bảo chúng về nhà lục lọi tất cả những thứ bố mẹ vất vào góc tủ hộc bàn đem ra cho anh, để tùy loại mà anh đổi cho đồ chơi. Phương pháp đó quả nhiên công hiệu, và anh lại phất.

    Nghe chuyện anh, tối hôm đó tôi trằn trọc cả đêm không ngủ. Tôi cũng phải cải tiến nghề nghiệp, nhưng bằng cách nào đây? Cái hướng nên theo là biết cầu viện đến tuổi nhỏ. Nhưng hạng trẻ em nào? Ở đâu?

    Tôi lang thang khắp Sài Gòn tìm địa điểm hành nghề. Sở Thú? Những chùm bong bóng sặc sỡ đã chấp chới khắp nơi rồi. Trường học? Càng ngày các em càng rỗng túi, vài hào cha mẹ cho mỗi ngày chỉ đổi được một hai cái kẹo nhỏ làm bằng đường chảy. Cuối cùng tôi khám phá ra chỗ lý tưởng. Anh biết ở đâu không? Không phải là dân chuyên nghiệp anh không đoán ra đâu. Bệnh viện nhi đồng đấy.

    Phải! Bệnh viện nhi đồng 1 ở đường Trần Quốc Toản và bệnh viện nhi đồng 2 mới lập sau này khi người Pháp trả bệnh viện Grall lại cho nhà nước. Cải tiến của tôi là một bước thụt lùi về đạo đức, một thứ tạm thỏa hiệp với mánh lới mưu sinh. Tôi xấu hổ về chuyện đó lắm, nhưng biết làm sao. Cái bao tử xẹp không có lỗ tai để nghe đạo đức. Huống chi “cái mánh” của tôi có thể thông cảm được. Nó như thế này. Tôi đẩy bình khí đá đến sớm trước cửa bệnh viện nhi đồng, chịu khó bơm sẵn một số bong bóng dự trữ. Gửi tạm bình cho chị hàng quà nào đó giữ giùm, tôi vác sào bong bóng xanh đỏ biết bay đến chờ trước phòng ngoại chẩn. Ðứa trẻ nào đến bệnh viện mà khỏi chịu một nỗi đau đớn về thể xác. Ðứa vừa bị chích kim đau nhói cả mông. Ðứa bị nhổ răng đến buốt óc. Nhẹ nhất cũng xanh xám mặt mày trước đôi mắt “độc ác” của thầy thuốc. Và lẽ dĩ nhiên đứa nào được bố mẹ bồng ra khỏi nhà thương cũng mếu máo hoặc khóc thét. Tôi chỉ chờ có thế. Tôi vốn mẫn cảm đối với tiếng khóc trẻ thơ, nên vào những lúc như vậy, nhiều sức mạnh thôi thúc tôi bạo dạn. Thứ sức mạnh của tiềm thức từng khiến tôi bứt rứt xao xuyến không chịu nổi tiếng khóc của trẻ thơ và thúc giục tôi dỗ dành chúng. Thứ sức mạnh cụ thể của cơm áo hằng ngày. Tôi đi theo các bà mẹ. Lũ trẻ được bồng trên tay hãi hùng nhìn lại cửa địa ngục, nước mắt ràn rụa, miệng méo xệch đến tội nghiệp. Nhưng kìa, chúng đã trông thấy chùm bong bóng của tôi. Miệng chúng tròn lại, mắt chúng sáng lên. Tôi chỉ chờ có thế. Tôi se sẽ đi mau tới đưa sợi dây bong bóng cho chúng cầm. Ban đầu chúng hơi bỡ ngỡ. Có lẽ chúng nó hỏi thầm: “Thật thế sao? Thật sự trên đời còn có những người không độc ác như bọn đồ tể mặc áo trắng bịt mặt hay sao?” Tôi tô vẽ cho vui chứ có lẽ chúng hồn nhiên đón nhận niềm vui đột ngột. Tất cả niềm vui và quà ngon trên đời là của chung của tuổi trẻ. Chúng có quyền cầm lấy sợi dây buộc chiếc bong bóng xinh đẹp sặc sỡ mà không hề có mặc cảm phạm tội. Vì thế nước mắt khô mau trên má chúng. Và lũ trẻ cười thật tươi với tôi. Có niềm hạnh phúc nào lớn hơn không?

    Có thể cha mẹ chúng biết ngay, hoặc phải đi một đoạn đường xa họ mới chợt ngạc nhiên không hiểu vì sao con họ nín khóc. Họ quay lại. Họ nhìn thấy tôi. Rồi nhìn thấy chiếc bong bóng hợp thời bay lơ lửng trong tầm nhìn thích thú hớn hở của con họ. Anh nghĩ mà xem: Có ai nỡ tiếc một đồng bạc để bù đắp nỗi đau đớn con em họ vừa chịu? Nhờ thế, tôi bán nhanh được cả trăm chiếc bong bóng bay trong vòng một buổi sáng. Phòng ngoại chẩn chỉ làm việc từ 8 giờ sáng cho đến 11 giờ rưỡi trưa. Bấy nhiêu đã đủ cho tôi tìm đủ tiền lời mua gạo ăn hai ngày. Tâm hồn tôi thảnh thơi. Nghề nghiệp thật thích hợp với bản tính, số vốn ít ỏi và nhu cầu đời sống của tôi thời ấy. Tôi sống được mấy tháng hạnh phúc với một lương tâm tạm bình yên. Theo thời, tôi cũng phải sống bằng “mánh”. Nhưng như anh bạn mua đồ vụn của tôi, các mánh nhỏ ấy có thể tha thứ được. Nhưng rủi ro thay, một bà mẹ đem con nhổ răng ở bệnh viện nhi đồng 2 không có dư lòng độ lượng!

    Hôm đó, tôi hành nghề theo lối đã nói. Ðứa bé trai lên 5 bị nhổ răng, miệng còn ngậm một cục bông thấm máu. Em khóc đến nỗi nước mắt nhỏ ướt cả vạt áo trước. Lúc cầm dây chiếc bong bóng màu đỏ, em bé cố nín khóc để cười nhưng vẫn chưa thôi thút thít. Bà mẹ béo mập đầu quấn khăn theo lối các bà mệnh phụ miền Bắc bồng con băng qua đường tiến đến chỗ chiếc xe Lada trắng bảng xanh. Anh lái xe lo mở cửa sau chờ sẵn. Tôi lo ngại mất vốn khi thấy hai mẹ con đã đến gần chỗ xe đón mà người mẹ vẫn chưa biết mình mắc nợ. Kẹt quá, tôi giả vờ vấp ngã cho em bé cười. Nó cười thật. Cười thành tiếng. Bà mẹ ngạc nhiên quay lại. Khi hiểu chuyện, bà ta nổi giận. Gần như bà mẹ quát tôi:

    - Ai cho phép anh làm cái trò mánh mung đó! Nhét bong bóng vào tay con nít để tống tiền cha mẹ phải không. Chấm dứt ngay cái trò làm ăn bất lương đi, nghe chưa!

    Quát xong, bà mẹ giật cái dây bong bóng trên tay con quăng trả cho tôi. Anh đoán được rồi, chiếc bong bóng bơm khí đá bay mất lên không. Tàng me xanh trước bệnh viện Grall có ngăn dùm quả bong bóng lại cho tôi, nhưng cuối cùng nó cũng len lỏi qua cành lá thưa mà mất hút. Ðứa bé khóc thét lên, giọng lảnh lói thống khổ có lẽ còn hơn cả lúc bị nha sĩ cầm kềm nhổ bật cái răng hư ra khỏi nướu. Mặc cho con khóc, bà mẹ ấn nó vào xe, rồi đóng sập cửa lại. Tôi giận quá. Tiếng khóc làm cho máu trong người tôi sôi lên. Gai ốc nổi dọc theo xương sống. Tôi lo sợ, cảm thấy hình như chứng động kinh của tôi sắp tái phát. Tôi cố gắng dằn xúc động để làm một điều gì đó. Phải làm gấp, làm ngay điều gì đó, nếu không tôi sẽ ngất đi như hồi còn bị động kinh nặng. Anh biết tôi đã làm gì không?

    - Mắng vào mặt con mẹ độc ác!

    - Không. Quả thật tôi không dám.

    - Tặng em bé một chiếc bong bóng khác không lấy tiền?

    - Không. Tôi chưa đủ Phật tâm.

    - Vậy thì ông đã làm gì?

    - Tôi rút tặng bà mẹ một chiếc bong bóng. Cũng mất vốn đấy. Nhưng làm thế, tôi “đã nư” hơn. Tôi muốn nhắc cho con mụ nhớ rằng: đã có một thời con mụ là một cô bé tí xíu sợ nhổ răng và mê bong bóng.

    Ai lại không thế, phải không ông? Khi đứa trẻ sơ sinh vừa lọt lòng mẹ, nó giơ hai tay chới với và khóc thét lên. Từ xưa tới nay đã có quá nhiều cách giải thích.

    Ôn Như hầu trong Cung Oán Ngâm Khúc từ đó suy ra vực nước mắt của đời người, chán nản bảo:

    • Thảo nào khi mới chôn nhau
      Ðã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra.

    Các nhà phân tâm học nói đến “mặc cảm sợ té”. Sinh vật học thì giải thích: đứa trẻ chới với khóc thét vì đột ngột chuyển từ môi sinh lỏng (là cái bọc nước trong bụng mẹ) sang môi sinh khí. Tôi thì nghĩ lẩm cẩm thế này: đứa bé khóc vì sợ sắp bị nhổ răng, và đưa cả hai tay chới với để tìm dây bong bóng.

    Hỡi các em bé yêu dấu của tôi, các em có tìm được quả bong bóng nào không?




    Nguyễn Mộng Giác

    Nguồn http://nguyenmonggiac.info/          [/tab]
          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5416
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Ngựa Nản Chân Bon

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Về trời

    Viết bởi Nguyễn Mộng Giác


    Ðêm hai mươi hai tháng chạp, hai táo ông và táo bà ngồi chụm đầu vào nhau để lập bản báo cáo lên trời. Tối hôm ấy táo bà ăn mặc diêm dúa hẳn lên: quần jean chính hiệu Texwood, áo polo đỏ chói có mang quốc huy Hoa Kỳ và hàng chữ Anh: Still going strong. Táo ông từng bị hỏa thiêu đầu tiên trong đống rơm dạo nọ có vẻ ủ rũ trong chiếc áo sơ mi nâu dài tay đã vá ở vai, cổ và lưng. Táo ông kia mất sạch quần áo lúc được vớt lên tàu khoan dầu Rembertitum nên được một thủy thủ cho bộ quần áo công nhân hãng dầu OSA màu da cam đã sờn ở đũng quần. Lúc họ ngồi bàn lập bản tổng kết cuối năm, ông ta vẫn mặc bộ quần áo may liền kỳ dị ấy.

    Táo bà thấy táo ông mặc sơ mi vá ngồi hớ hênh theo kiểu ở rừng (nghĩa là một chân bỏ xuống đất một chân gác lên ghế) liếc nhìn táo ông OSA, đỏ mặt nhắc:

    - Anh ngồi ý tứ một chút. Ở đây có phụ nữ. Tập làm quen với nếp sống văn minh đi thì vừa. Người bị chỉ trích vội bỏ chân xuống, kéo vạt áo nâu phủ lên đôi bắp vế mọc đầy lông chân. Táo ông hớ hênh dàu dàu nét mặt. Ông không chịu được sự bất công trong lối phân chia tình cảm. Tại sao trước khi chỉ trích ông, táo bà lại liếc mắt đưa tình lão OSẠ Liếc xong lại đỏ mặt. Con đượi ấy trở chứng rồi. Chẳng lẽ mặc quần áo kín mít từ cổ cho đến gót chân lại gợi tình hơn cách ăn mặc đơn giản cổ truyền của ông?

    Ông vội trả đũa:

    - Bà cũng phải sờ lên ót cho tôi nhờ. Ai đời mới qua đây chưa đầy, à quên, mới qua đây có hơn một tháng, bà đã bỏ bộ quần áo Việt Nam kín đáo. Bà tưởng với đôi bắp vế mập như hai chân voi, bà mặc quần jean hợp lắm hay sao? Ông bà ta kén chọn bao đời mới tìm được cái quần lụa đen và chiếc áo dài làm của gia bảo để lại cho con cháu. Mập, ốm, cao, thấp, chân voi hay chân cò, đi vòng kiềng đi chữ bát, gì gì rồi mặc áo dài vào cũng đẹp tuốt. Dáng đi tha thướt, thân hình yểu điệu. Tà áo dài bay bay theo bước chân đi nên dáng người thanh thoát như có gió thổi...

    Táo bà giận quá cắt lời:

    - Thôi thôi! Nhập gia tùy tục, nhập giang tùy khúc, ông tưởng tôi dốt chữ thánh hiền à? Táo ông OSA cười ruồi ra vẻ khinh miệt tình địch, rồi đủng đỉnh nói:

    - Ðất nước mình nghèo chỉ vì lũ đồ gàn lẩm cẩm. Cái gì cũng “tổ tiên ta bảo”. “Thánh nhân đã dạy”, “sách xưa có nói”.

    Sẵn dịp tôi nói luôn thể kẻo quên. Này anh, tại sao anh cứ khăng khăng theo đúng truyền thuyết để nhất định không chịu mặc quần? Tại sao anh cho thế ngồi như vậy là đúng truyền thống? Truyền thống nào? Của ai? Các bạn đồng nghiệp Nam Dương của ta ăn mặc tề chỉnh. Hôm trước họp mặt thân hữu để trao đổi kinh nghiệm, tôi thẹn đến chín cả người. Phái nữ Nam Dương họ chỉ trỏ, rồi bụm miệng các nói gì đó tôi chẳng hiểu. Nhưng nhất định là họ chế giễu cách ăn mặc cổ truyền kỳ cục của anh.

    “Táo ông hớ hênh” giận quá đập bàn quát:

    - Các người a tòng với nhau để “kiểm điểm” tôi phải không? Tôi mặc quần vào thì còn ra cái thể thống gì nữa! chửi rủa tổ tiên sa sả là văn minh chắc! Still going strong? “Vẫn còn đi mạnh” tức là “chưa lỏng đầu gối”. Ngọc Hoàng ơi hỡi Ngọc Hoàng! Ngài sắp tiếp con ngày mai, nhưng đêm nay Ngài có chịu nghe con báo cáo trước vài điều khẩn cấp hay không? Con mụ này nhơn nhơn khoe khắp thiên hạ rằng “mình chưa lỏng gối”. Thế mà nó dám chê con ăn mặc hớ hênh!

    Thấy người chồng số 1 kêu la om sòm, táo bà đâm hoảng. Táo OSA cũng chùn bước. Họ bắt đầu hối hận. Chọc giận ông cáu kỉnh, ổng dám đem chuyện xấu trong nhà ra rêu rao khắp đảo lắm! Táo bà xích lại gần con người nóng tính, vuốt ve hai bàn tay đen điu của ông, dịu dàng làm lành:

    - Nói đùa cho vui mà anh nỡ giận! Thôi, em xin lỗi vậy.

    Táo ông OSA cũng ôn tồn bảo:

    - Nàng đã biết lỗi thì anh không nên để tâm làm gì. Ca dao có câu:

    Chồng giận thì vợ làm lành

    Miệng cười tủm tỉm rằng anh giận gì... Táo ông nóng tính vội xua tay:

    - Thôi thôi. Mới có một nửa bà vợ tôi chịu còn không nổi, huống chi là rước thêm một cô vợ bé. Một bà vợ rưỡi, Trời ơi! Tôi có điên đâu!

    Bà táo cười xòa. Hai táo ông cũng cười xòa tuy trong lòng mỗi người còn ấm ách niềm riêng. Ðể cố quên chuyện đau lòng, táo OSA liền đề nghị.

    - Chúng ta bàn chuyện làm ráp-po ngay kẻo khuya.

    Táo bà vỗ tay:

    - Phải đấy!

    Táo nóng tính và hớ hênh chán nản nói:

    - Cũng phải thôi!

    Thế là họ bắt đầu bàn cãi để lập bản báo cáo cuối năm...

    Ngày mai “táo ông hớ hênh” sẽ cưỡi cá chép lên Thiên Ðình.

    Họ không còn nhiều thì gì để gấu ó nhau nữa!

    *

    Táo bà và táo OSA đồng ý nhường cho con người “hớ hênh cổ truyền” chức chủ tọa. Táo OSA làm phụ tá chủ tọa còn táo bà làm thư ký. Táo OSA ân cần hỏi người vợ chung:

    - Em viết có mệt không? Giấy bút đã đủ cả chứ. Táo bà sợ người ghen, nghiêm mặt đáp:

    - Viết thì tạm dùng than củi đước. Giấy vàng bạc chủ nhà mua sẵn để cúng đưa chúng ta, dùng cũng tốt thôi. Nhưng phải viết bằng chữ gì đây? Việt Nam hay Nam Dương?

    Chủ tọa cuộc họp sa sầm ngay nét mặt:

    - Nam Dương à? Bà lén sang các bếp Nam Dương học “cua” đặc biệt phải không? Táo bà vội phân trần:

    - Em quen miệng hỏi cho vui thế thôi, chứ có biết tiếng Nam Dương đâu.

    Táo OSA chen vào để bớt căng thẳng:

    - Ðến tôi muốn học lắm mà cũng không thuộc được nhiều. Hơn một tháng chỉ nhớ mỗi một chữ TEMBAKAU là thuốc lá.

    Chủ tọa vẫn còn ấm ức, liếc táo bà nói mỉa:

    - Còn bà thì gặp tụi táo Nam Dương lúc nào cũng SELAMAT, miệng cứ cười toe ra. Táo bà giận, gần như dằn từng tiếng:

    - Tôi hỏi ông, ông là chủ tọa họp bàn thảo sớ, hay là Thiên Lôi xách búa đi hỏi tội? Người đâu mà hở một tí đã ghen! Nào, viết cái gì đọc tôi viết cho xong, buồn ngủ quá rồi.

    Cả hai táo ông đều đưa mắt nhìn nhau, ngầm đẩy phần “khởi đầu nan” cho địch thủ. Chủ tọa làm lớn phải làm láo, tằng hắng rồi nói:

    - Suốt năm ta nằm trong xó chợ, gần đến cuối tháng 11 mới có người đến mua ta về đặt lên ghe, rồi liên tục theo ghe từ Việt Nam qua đây. Cho nên ta chỉ báo cáo từ lúc ghe nhổ neo cho đến bây giờ. Phải thế không!

    - Phải lắm!

    - Chí lý lắm!

    - Ta cũng không nên viết sớ theo lối cổ điển. Tôi nghe năm ngoái nghe đọc mãi cái giọng ê a và nội dung sớ y như nhau, Ngọc Hoàng ngáy khì khì suốt buổi chầu. Phải viết thế nào cho khác người kia!

    - Phải lắm!

    - Ðúng quá! Nhưng khác thế nào?

    - Bây giờ ta phải bàn.

    Táo bà chợt nhớ cảnh hỗn loạn trên ghe và cuộc đời trầm lặng hơn tháng nay trên đảo, có ý kiến hay hay, liền nói:

    - Ta báo cáo chuyện xảy ra trên biển và trên đất liền, so sánh hai cảnh đời cho Ngọc Hoàng nghe. Biết đâu Ngài thấy lạ, quên cả ngủ gật! Chủ tọa e dè hỏi:

    - So sánh thế nào?

    Táo bà liến thoắng đáp:

    - Chẳng hạn em có tò mò theo dõi hai cô cậu, từ lúc họ mới hấp tấp trèo lên ghe cho đến khi tạm ở tại đây.

    Hai táo ông không dằn được tò mò, cùng hỏi:

    - Chuyện gì xảy ra thế? Họ yêu nhau phải không?

    Táo bà mỉm cười, giữ vẻ kẻ cả của người chủ động tình thế. Chờ cho hai ông chồng thật nóng ruột, táo bà mới nói:

    - Lúc mới lên ghe họ chưa quen nhau. Em dám quả quyết như thế vì lúc ghe vào chỗ mỏm đá, các cậu thanh niên dày xéo lên cả đàn bà con nít để leo lên trước. Cô ấy với tay nắm lên thành mũi ghe không được vì cao quá, vô ý ngã xuống nước. Vừa lóp ngóp ngồi dậy, đã bị một người nào đó kê giày lên người lấy đà rồi đu lên. Cô ấy lại ngã quị lần nữa. May có người trông thấy đưa tay cho cô ấy nắm rồi kéo cô ta lên. Em không lầm được. Chính cậu ấy đã đạp lên người cô ấy để giành chỗ may mắn.

    Chủ tọa ngờ vực hỏi:

    - Ðêm tối làm sao phân biệt ai với ai. Chưa chắc cậu ta đã biết vừa đạp lên người ngọc. Táo bà vội nói:

    - Không phải chỉ có vậy. Cậu ta xuống hầm ghe trước, tìm ngay chỗ tốt rồi nằm dang tay dang chân chiếm chỗ rộng. Cô ấy lên sau cùng, ghe sắp nhổ neo mà còn đứng trên thành ghe, nên bị người ta đẩy dúi xuống hầm. Cô ta ngồi phải chân cậu ấy. Tức thì cậu ta đạp một cái thật cật lực vào lưng cô ấy. Cô ấy sợ quá, ngã chúi mà không dám khóc. Lúc ghe rời bến khá xa, hoàn hồn, cô ấy mới tủi thân thút thít! Nếu quen nhau trước, ai nỡ đối xử với nhau tàn nhẫn thế!

    Táo chủ tọa vẫn còn ngờ vực:

    - Lúc ấy dưới hầm đâu có đèn đuốc gì!

    - Nhưng cô ấy than khóc thì phải nhận ra tiếng. Như chúng ta đây, dù tối lửa tắt đèn, em chỉ cần rên khẽ một tiếng, nhất định hai anh phải giật mình lo lắng.

    - Quả có thế!

    - Ðúng thế! Rồi sau sao nữa?

    - Cô ấy chỉ thút thít được một lúc rồi im. Không phải cô ấy đã bớt tủi thân. Cô ấy bắt đầu nôn mửa. Bảy tám chục con người chồng chất hỗn độn trong cái hầm hẹp tối, hai anh đã thấy rồi. Sửa thế ngồi, co chân hay rút tay ra cũng không được. Lại say sóng nên ai nấy nằm ngồi la liệt, gác tay gác chân lên nhau. Mùi ôi chua của thức ăn mửa ra, mùi khai của nước tiểu, mùi nồng của mồ hôi, mùi phân con nít, đủ thứ mùi hâm nóng trong cái hầm chật chội, thật ngột thở. Muốn nôn, cứ nôn ngay lưng áo người ngồi phía trước. Muốn đái, thì đái ngay lên chân ai đó bị kẹt dưới mông mình. Cô ta cũng bị bắt buộc vô phép như mọi người. Thế mà khi cô nôn phải vạt áo cậu ta, cậu ta phát cáu, húc cho một cùi chỏ. Cô ấy không còn đủ hơi để la khóc hoặc phản đối gì. Hai ngày đêm ói mửa liên tiếp, cô ấy như cái xác chết. Cũng may, chỉ có bọn con nít ỉa vãi trong hai hôm đầu, chứ nếu cả người lớn cũng vậy thì...

    - May với rủi! Trời sinh ra thế! Táo OSA được dịp trả đũa sau thời gian bị ông chủ tọa chèn ép đủ điều, liền bảo:

    - Làm gì có Trời can thiệp vào chuyện ỉa đái! Ai cũng lo sốt vó nên bị bón. Ðừng nói đi năm ngày bốn đêm. Ði cả tháng trời cũng không rặn ra được tí phân nào!

    Chủ tọa sừng sộ:

    - Chú mày có dám nói thế trước mặt Ngọc Hoàng Thượng Ðế hay không? Bị bón! Cái thứ khoa học cùn của chú mày học lóm là gì, nếu không phải là hảo tâm, là ân huệ của Trời?

    Thấy đàn anh đem Ngọc Hoàng ra dọa, táo OSA đành im lặng.

    Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Táo bà không thích cảnh đôi co giữa hai ông chồng, nên kể tiếp cho lấp đi:

    - Ở trên ghe họ đối xử với nhau cạn tàu ráo máng như thế, nhưng lên đất liền họ ra sao, hai anh biết không? Cũng may bọn mình là táo rề sô dầu hỏa nên được các láng lần lượt mượn chuyền nhau nấu nước pha cà phê khuya. Hôm ấy hai anh buồn ngủ chỉ có một mình em thức. Vui không chịu được, té ra mình ở nhà chủ ghe nên không hề biết lên đảo hai cô cậu ở chung với nhau. Không biết họ làm thân với nhau từ lúc nào. Có lẽ từ sáng hôm thứ ba, lúc mọi người qua cơn vật vã say sóng và bắt đầu tỉnh táo trở lại. Cậu khá đẹp trai, tính lại trai lơ. Cô thì đẹp gái, tuổi 17 hơ hớ. Cậu ta giả vờ quên những cú đấm cú đá cật lực ba hôm trước. Cậu ân cần săn sóc từng ly từng tí. Hứng nước cho uống, tống cho bọn nhóc con mấy cú để chúng nó xanh mặt dạt ra, dành rộng chỗ cho người đẹp ngồi. Vắt cơm sống và nhão chia cho từng người có cắm thêm khúc lạp xưởng bằng ngón tay cái, cậu tự ý nhường phần lạp xưởng của mình, bảo không chịu được mùi lạp xưởng. Cô cảm động quá, lí nhí cảm ơn. Ban đêm, cậu cởi ngay cái áo len khoác lên vai cô. Người đẹp rơm rớm nước mắt. Em chẳng hiểu trong thời gian hôn mê vì say sóng, cô có nhận mặt được kẻ vũ phu hay không? Chủ tọa nói liền, giọng mỉa mai cay độc:

    - Có chứ. Nhưng đã lỡ đái cả lên người người ta, mùi hôi khai còn nồng nặc, cái mùi khai quen thuộc cô ngửi quen đã biết ngay là “của nhà”, thì làm ngơ giả vờ như không biết cho nó tiện! Táo OSA nhíu mày khó chịu, còn táo bà thì thấy uy tín phái yếu bị xúc phạm:

    - Anh nói thế sao được! Lúc đó ai không từng đái mửa vào người khác. Người ta, và chính cậu ấy nữa, cũng vạch quần đái vào người cô ấy. Không có gì đáng thẹn mà phải giả vờ không biết. Nhất định cô ấy không hay biết gì thật. Họ thành đôi chim câu, từ đó, không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào để rỉa lông cho nhau. Cái đêm họ mượn rề sô để pha cà phê khuya, em phải dằn lắm mới khỏi bật cười. Họ rủ rỉ nói chuyện với nhau thơ mộng lắm! Cả hai ông táo đều tò mò muốn nghe chuyện thơ mộng của đôi chim câu. Táo chủ tọa cố làm ra vẻ thản nhiên khinh khi, trong khi táo OSA bộp chộp hỏi:

    - Họ đã nói những gì?

    Táo bà chậm rãi nói, cố kéo dài thì giờ chờ đợi:

    - Chàng trân trọng nâng ca cà phê sữa lên mời nàng. Nàng khẽ cảm ơn, ánh mắt sáng lên dưới bầu trời đầy sao. Trăng vừa mới nhú lên khỏi đầu núi. Sóng ì ầm như ru tâm hồn đôi tình nhân. Chàng say sưa ngắm khuôn mặt trái soan e ấp dưới mái tóc mềm mại như tơ của nàng, rụt rè một lúc mới đánh bạo nói: “Anh không bao giờ quên được cảm giác ngây ngất lúc thoạt trông thấy em lần đầu, khi em vừa xuống ghe. Lúc đó anh cũng lo sợ như mọi người chứ. Sợ bị bắt. Sợ không lên ghe được. Sợ bị bỏ lại. Nhưng cái dáng nhỏ nhắn nhu mì của em làm cho anh quên hết. Anh thấy tự tin, bạo dạn. Cuộc ra đi lén lút âm thầm như một cuộc chạy trốn khuất lấp, có em, tự nhiên thành một cuộc phiêu lưu kỳ thú vào những miền đất xa lạ và thơ mộng. Lúc đó mà hát lên thì chắc mọi người cho mình là thằng điên. Nhưng quả thực anh khe khẽ hát. Em có nhớ lời ca bài Viễn du của Phạm Duy không?” Nàng chớp chớp đôi mắt bồ câu, sẽ đáp: “Thưa có”. Chàng vui mừng hỏi tiếp: “Em thử đọc lại, hoặc tốt hơn hết là hát lại mấy câu đầu. Ngẫm kỹ lời ca, sao mà đúng với tâm trạng anh hồi mới gặp em quá. Nào, hát cho anh nghe đi, cưng”. Nàng giả vờ từ chối vài lần cho chàng cầu khẩn van xin, rồi mới hát: “Ra khơi, biết mặt trùng dương biết đời viễn vông đất trời mênh mông biết ta hải hồ. Ra khơi, biết tình thế giới thấy lòng phơi phới thấy mộng ngày mai thấy niềm tin mới. Chơi vơi con thuyền no gió ra khỏi, bão bùng xô tới xô lui, vững tay chèo lái.”

    Chủ tọa xì một tiếng, cay độc:

    - Xạo hết chỗ nói!

    Cả táo bà lẫn táo OSA đều phản đối:

    - Họ đâu có xạo!

    - Họ thành thực đấy chứ. Không thành thực thì không thể nghĩ ra được bao nhiêu câu thơ mộng ấy. Chủ tọa bực, càng cáu:

    - Thế lúc mới gặp bà, tôi nói bao nhiêu câu ngớ ngẩn bây giờ nhớ lại phải đỏ mặt, còn bà chỉ cúi đầu cắn mãi ngón tay út, bà nói đi, hồi đó chúng ta có thành thực không? Nói đi.

    Táo bà đỏ mặt chống chế:

    - Chúng ta khác. Hồi đó...

    Táo OSA xấu tính muốn biết rõ sự ngớ ngẩn của tình địch, liền cười ruồi rồi hỏi táo bà:

    - Lúc ấy anh cả đã nói gì thế? Chủ tọa liền lừ mắt dọa:

    - Không kể được. Bà kể, coi như...

    Táo bà hiểu phía sau tiếng “coi như” có nhiều điều hãi hùng, như “coi như tôi với bà dứt tình”, “coi như tình nghĩa vợ chồng đứt gánh”. Khổ nỗi bà đã quá quen thuộc với tính ghen tương cáu kỉnh của ông chồng thứ nhất, lâu ngày đâm nghiện như nghiện thuốc phiện. Mỗi lần ông cả ghen, bà thấy thú vị, thấy mình có giá hẳn lên. Bà không thể tưởng tượng hết cuộc đời thui thủi chán phè của những người đàn bà bất hạnh chỉ có một chồng. Vì vậy, táo bà không dám kể.

    Táo chủ tọa chưa yên tâm. Nếu vợ mình kể thì làm sao? tính nhẹ dạ thích vui của bà, ông còn lạ gì nữa! Tốt hơn hết là giành lời của vợ. Cho nên mặc cho táo OSA liếc mắt về phía táo bà thúc giục một cách có ác ý, táo chủ tọa vội nói:

    - Tôi cũng được chứng kiến sự đổi trắng thay đen tức cười của lòng người. Ở trên biển họ nói khác, lên được trên bờ họ nói khác. Lời nói nào của họ đáng được ghi vào ráp-po để trình cho Ngọc Hoàng? Tôi chịu không định được. Này nhé! Suốt năm ngày đêm trên biển cả, tôi cứ hoang mang tự hỏi có phải ba chúng ta vượt biên chung chuyến với giống người hay không, và tại sao Ngọc Hoàng thượng đế bắt buộc bọn táo chúng ta mang lốt người mà không cho mang lốt bò để khỏi suy nghĩ phiền phức? Lại giao cho chúng ta cái nhiệm vụ quái ác là theo dõi công việc loài người để hàng năm vào đúng 23 tháng chạp phải cưỡi cá chép bay về trời báo cáo. Lúc còn ở dương gian, có hai thứ nghề tôi vẫn sợ, là nghề thầy thuốc và nghề thầy kiện. Thầy thuốc suốt đời chỉ thấy ghẻ lở, máu mủ, ho hen, đờm dãi, bệnh tật, chết chóc. Có được người ta trọng vọng mời mọc ân cần đấy, nhưng cả đời sống nhờ vào ghẻ lở đờm dãi, gớm! Thầy kiện thì chỉ nghe toàn chuyện con giết cha, em đánh anh, vợ lừa chồng (nói đến đây, táo chủ tọa lườm táo bà một cái cảnh cáo, vì táo bà đang cười thật tươi với táo OSA), bạn bè phỉnh gạt nhau. Cũng toàn ghẻ lở, đờm dãi, chỉ khác là bệnh tật thối tha đã biến thành những điều trừu tượng. Ai ngờ chết đi, lại bị Ngọc Hoàng phạt. Ghét của nào trời trao của ấy. Chúng ta phải làm “công an khu vực” chuyên nghe lén chuyện nhà nhân gian để báo cáo cuối năm. Giá trời cho tôi già điếc tai thì may mắn lắm! Khốn khổ tai tôi cứ thính, nên phải ngẩn ngơ hoài! Ở dưới ghe các người từng chứng kiến cảnh giành giật nhau từng miếng ăn giọt nước, cảnh cãi vã trộm cắp nhau như thế nào rồi! Ba ngày đầu say sóng ăn không vô, uống nước vừa khỏi cổ lại ói ra nên chưa có chuyện gì đáng nói.

    Nhưng vừa tỉnh lại là con người vội mang cái bộ mặt thú. Tụi đàn ông con trai giành nước của bọn con nít. Ðêm trời mưa trần ghe hở nên từng giọt nước ngọt rỏ xuống. Bọn con nít khát quá lấy bao ni lông hứng từng giọt. Hứng cả giờ mới được một ngụm. Nhưng chúng không được phép hứng lâu. Khi thấy có thể đỡ khát bằng nước mưa mà khỏi phải ra tận be thuyền chịu lạnh chịu nguy hiểm để giăng vải bạt, người lớn đẩy tụi con nít vào chỗ khô ráo để lấy ly hứng nước. Hứng được bao nhiêu uống cạn rồi hứng nữa. Uống cành hông vẫn uống tiếp để nhỡ ngày mai trời nắng ráo không có gì mà uống, trong khi bọn nhóc kêu khóc van nài. Phần nước tiêu chuẩn hai ly con mỗi ngày do thủy thủ phát, họ cũng uống càng cả phần kẻ yếu ngồi tận góc hầm. Họ đứng ở ngoài cửa mà. Thay vì chuyền vào bên trong, họ ực ngay vào bụng cho gọn. Cái ăn cũng đê tiện như cái uống. Giành giật nhau từng mẩu bánh tráng mốc, gấu ó nhau, chửi bới nhau, xin xỏ không được thì trộm cắp của nhau, ôi thôi sao mà thối hoăng, thối hơn cả mùi xú uế nồng nặc những nước đái, mồ hôi, cứt, đồ ăn hôi chua... Muốn có thêm chút ưu quyền như một hớp nước đục pha lẫn dầu hỏa nhớt lợn cợn, một nắm cơm lớn hơn nắm cơm khác tí tẹo, họ không ngần ngại nói dối gia thế của mình: nào là chú của chủ ghe, nào là mẹ của tài công, nào là vợ của thợ máy. Vừa nhận được phần phụ trội bất chính, họ vội cho vào mồm, sợ bị móc ra. Ðôi mắt hau háu đỏ ngầu, láo liêng nhìn quanh, lâu lâu đưa lưỡi liếm mép. Khiếp thật! Thà họ say sóng nằm ngổn ngang chồng chất lên nhau như một đống thịt nhầy nhụa hôi hám còn đỡ khiếp hơn. Ðúng là một bầy thú đói sổng chuồng! Ngọc Hoàng thượng đế ơi! Sao Ngài lại bắt con mang phải lốt người? Nếu đã lỡ mang lốt người, sao Ngài không cho con ân huệ được mù, được điếc! Phải. Ðược mù để khỏi trông thấy cảnh giành giật trên ghe, và được điếc để sau đó khỏi phải nghe họ nói lúc đặt chân được lên đất liền. Các người có nghe họ nói những gì không? Không à? Các người quên béng nhiệm vụ “công an khu vực” rồi sao?

    Bản báo cáo có cần ghi rõ tên người nào đã nói những gì không nhỉ? Có lẽ không nên. Những trên 100 con người, nhiều quá. Ngọc Hoàng Ngài chỉ cần biết tình hình tổng quát. Chẳng hạn ông A (vừa giành hứng nước mưa với lũ con nít mấy hôm trước) hăng hái đòi ban đại diện phải dành mọi ưu tiên, tiện nghi “cho các cháu”. Phải phát sữa cho các cháu uống, phải lập ban đồng ca nhi đồng cho các cháu vui, phải mở lớp Anh văn vỡ lòng cho các cháu học. Ðể làm gương, ông thường dắt các cháu đi dạo biển thả diều, câu cá. Cậu B (cũng đạp lên đầu phụ nữ để lên ghe trước nhưng không phải cái cậu trai lơ của bà) vận động mọi người bắt chước văn minh tiên tiến nên tôn trọng phái đẹp; phải nhường chỗ cho phụ nữ được khám bệnh trước, lãnh lương thực trước; phải làm riêng một nhà vệ sinh cho phụ nữ để họ khỏi “công xúc tu sỉ”. Cụ B (đã giấu hai phần bánh tráng của hai người đàn bà say sóng vào túi quần để ăn thêm) hô hào đoàn kết và tự trọng để bảo vệ uy tín dân tộc Việt Nam, vận động các bậc-thức-giả suy nghĩ tìm một hướng đi, một lý tưởng cao cả cho thế hệ trẻ tuổi vừa phải bỏ nước. Cô C (vừa nhất định không chịu nhường phần nước cặn trong bi đông mang theo cho một bà cụ sắp chết khát) lên sân khấu hát bài “Nối vòng tay lớn”. Còn nhiều, nhiều lắm, kể không hết được. Họ là ai? Phần nào mới đúng là họ? Con thú trên biển dữ hay ông thánh trên đất liền? Các người trả lời giùm tôi đi!

    Táo bà vốn lãng mạn không thích chuyện buồn, đáp liền:

    - Ông thánh trên đất liền! Chuyện xấu hãy quên đi!

    Táo OSA đáp lơ lửng:

    - Cả hai. Vừa thú vừa thánh. Nói “thánh-thú” hay “thú-thánh” cũng được.

    Chủ tọa chau mày hỏi:

    - Thế là thế nào?

    - Nghĩa là con người “ni ange ni bête” như lời Pascal. Kẻ bi quan cho là “bậc thánh sa đọa”. Kẻ lạc quan có thể gọi là “con thú thánh hóa”. Táo chủ tọa lắc đầu chê:

    - Rắc rối quá. Tôi thích cái gì phân minh. Ngọc Hoàng Ngài hay ngủ gật, nhưng cũng không ưa điều mù mờ. Tôi lên nộp ráp-po nhiều lần, tôi biết. Táo bà nói:

    - Cái gì rắc rối thì đừng báo cáo, chỉ thêm phiền. Chỉ nên báo cáo cái gì vui, cái gì rõ. Táo OSA liền nói:

    - Thế thì nên báo cáo chuyện vui tôi sắp kể đây. Chủ tọa thấy tình địch cứ chờ táo bà tung là hứng, bực dọc chất vấn:

    - Có chắc vui và rõ không?

    - Chắc chứ.

    - Kể đi. Ngắn gọn như tôi thôi nhé! Táo bà thấy chủ tọa bất công, liền kê:

    - Ơ kìa, sao anh cả dài dòng được lại không cho anh hai dài dòng.

    Táo chủ tọa đáp cộc lốc:

    - Khuya buồn ngủ rồi.

    Táo bà không chịu thua:

    - Em chả buồn ngủ.

    Chỉ chờ có thế. Táo OSA liền kể:

    - Tôi cho là chuyện vui vì nó ngược ngạo quá. Ngược ngạo trong lời nói của từng người ở hai lúc khác nhau. Nhiều chuyện tương tự như thế lắm, nhưng để làm vừa lòng anh cả, tôi chỉ kể hai trường hợp thôi.

    Trường hợp thứ nhất liên quan một ông khách tuổi trên dưới 20, hàm râu đen không cạo mọc lởm chởm như rễ tre khiến khuôn mặt thêm vẻ anh chị. Theo lời anh ta kể thì cuộc đời của anh phong trần thật. Từng đứng ra tổ chức vượt biên, thành công thì về Sài Gòn sống liên tiếp nhiều đêm “nhất dạ đế vương” ở khu ăn chơi Hoa kiều, thất bại dám tổ chức cướp ghe để bù lỗ. Bốn lần vào tù, ba lần vượt ngục, lần chót vừa ra khỏi trại giam Cựu Chiến Binh thì đến ngay Bãi Dâu lên ghe vượt biên thành công. Lúc được tàu khoan dầu vớt, anh cẩn thận mang cái “rề sô chúng ta” lên tàu, thành thử anh ta trở thành ân nhân của chúng ta ngồi đây. Không phải thế sao? Anh ta không chịu khó mang rề sô lên thì cả ba chúng ta đã lênh đênh trôi dạt trên biển cả rồi chết chìm dưới đáy sâu rồi. Tuy vậy, tôi không nói tốt hay nói xấu anh ta làm gì. Tôi chỉ kể khách quan theo lương tâm một công an khu vực. Anh ta lên tàu, mang rề sô đến cho chị chủ ghe và cảm động run run nói: “Thú thật tôi đã từng tham gia vượt biên nhiều lần, lần bị vỡ ngay từ trên bờ kẻ bị bắn chết kẻ bị tù, lần ra đến hải phận quốc tế rồi tàu hư phải quay vô, nhưng chưa có lần nào thấy tổ chức hoàn hảo như chuyến này. Anh em ở bãi làm việc nhanh nhẹn chính xác. Ghe vừa cập vào, một người đằng lái thả neo, một người đầu mũi nhảy xuống nước vừa đo độ sâu vừa cột dây vào bến. Lựa được đúng chỗ mỏm đá cao đầu ghe có thể ghé sát để khách leo lên, đâu phải dễ. Việc mua bến cũng an toàn 100%. Khách lên ghe chưa đầy 15 phút đã xong. Chưa yên tâm, một người còn soi đèn pin khắp bãi xem còn có ai bị bỏ sót không. Ghe rời bến yên lặng gần như không nghe thấy tiếng máy nổ. Suốt lộ trình lựa chọn đường đi cách sao không hề gặp cướp biển, không thấy bóng tàu quốc doanh Côn Ðảo hoặc tàu hải quân nào. Ðến tàu giàn khoan đúng chỗ, cập vào là được vớt ngay. Ăn uống tuy có hơi thiếu thốn nhưng lỗi do bãi chứ không phải do anh chị. Tôi thay mặt đa số anh chị em ở đây thành thật cảm ơn chị nhiều. Rất nhiều. Thế mà hôm anh ta đến mượn rề sô về pha cà phê, anh ta nói sao anh cả với em biết không? Anh ta nói: “Chúng ta may mắn lắm mới còn được sống cho tới đây. Người ta đi hai ba hôm đã tới. Mình kéo dài những năm. Nếu tàu dầu không vớt, chẳng hiểu hiện giờ mình đang nằm ở đáy biển nào? Không chết khát thì cũng chết đói. Tàu gì mà chạy rề rề một giờ không được 5 cây số. Lũ tàu biên phòng chắc quáng gà hết nên mình mới sổng. Còn tổ chức bãi bến? Tôi nghĩ lại mà rùng mình! Ai lại chọn ngay bãi Dâu, chỗ thiên hạ bị bể tùm lum. Dẫn khách đi ngờ ngờ từ chỗ Phật Ðài lên đỉnh núi, ở dưới nhìn lên thấy rõ áo xanh áo đỏ bồng bế dắt díu nhau, đến con nít cũng biết chứ đừng nói công an, tôi mà đứng ra tổ chức hả? Không làm trò “ruồi bu” như thế đâu...”

    Trường hợp thứ hai là trường hợp “bác tài”. Mấy ngày đầu bị vất vào xó buồng lái, chắc anh cả và em say sóng không nghe gì thấy gì. Tôi tò mò chuyện đi biển nên theo dõi kỹ lắm. Lần đầu thử thách sóng gió mà! Bác tài lái ghe suốt ba ngày, lúc đã ra đến hải phận rồi mà không hề gặp tàu bè đi lại trong lòng bắt đầu phát rét. Tuy ngoài miệng nói cứng. “Tôi thuộc đường đi từ 20 năm nay. Phải tránh đường có nhiều tàu bè đi lại, vì gặp “chúng nó” phiền lắm. Tàu buôn thì độ này rất ích kỷ, không hề chịu vớt ai. Nhỡ gặp phải tàu khối xã hội chủ nghĩa lại khổ. Chọn đường vắng một mình một chợ là hay hơn hết”. Nhưng lâu lâu, bác tài trách nhẹ hai anh phụ lái, như dọn đường đổ thừa: “Hai chú lái có đúng 230 độ không đấy? Hay lúc tôi ngủ các chú lái gà lái gật, trệch mẹ mất hướng rồi”. Ngày thứ tư ghe vẫn chạy giữa mênh mông trời nước. Không gặp bất cứ thứ gì có dấu vết con người, ngoài một cái phao lưới trôi lạc. Hành khách xôn xao lo âu. Bác tài phải trấn an: “Ðịa hình vùng này như cái phễu, không thể lạc đường được. Tôi muốn vào bờ thì vào được ngay, nhưng tụi Mã Lai với Thái Lan có tử tế gì mà vào. Chi bằng chịu khó đi thẳng Galang hay Singapore”. Sang ngày thứ năm, bác cũng hết cả tự tin để nói khoác. Thấy được bóng giàn khoan trước mặt, ai cũng mừng hết lớn. Kẻ mừng nhất là bác tài, nhất định thế. Nhưng bác vẫn nói cứng: “Nó không chịu vớt đâu. Mình chỉ vào để xin thêm nước dầu và check lại tọa độ”. Cập vào tàu dầu lạng quạng thế nào đến nỗi ghe suýt chìm như anh cả và em đã biết. Thế mà lúc lên đây, ông ấy nói gì hai người biết không? “Tôi biết trước tụi tàu giàn khoan không bao giờ vớt những ghe chưa thực sự lâm nguy. Ðàn bà trẻ con phải nằm la liệt, máy hư, tàu vỡ, chúng nó mới cứu. Cho nên lúc cập vào, tôi cố ý lái như người say rượu. Chúng nó hỏi, tôi đáp tay lái hư mẹ nó rồi. Ghe có vỡ chút đỉnh chúng nó mới hết do dự, dứt khoát cho tất cả lên tàu khoan. Lúc ghe thả trôi dạt xa khỏi tàu, kể cũng ngậm ngùi thật. Nhưng không nên tiếc. Ghe gì mà chậm ì à ì ạch, tôi có dám cho chạy nhanh đâu. Bánh lái lâu lâu lại kẹt, quay đến trẹo xương vai không đi. Thủy thủ toàn loại dổm. Thợ máy mới học nghề. May phước là máy chưa trục trặc, chứ nếu hư, chỉ có tôi nai lưng cởi áo ra hì hục sửa, chứ có ai biết chút máy móc nào đâu. Mà chỗ nào đứng sửa máy đây? Ðàn bà con nít nằm la liệt ngay trên chỗ đặt máy, quần áo, tã lót, rơi cả vào dây cua roa. Hú hồn thật! Tôi đem cả gia đình phó mặc cho may rủi. Nếu biết ghe như thế, thủy thủ như thế, khách như thế, nhất định tôi không đi. Không xứng đáng với gia đình một hạm trưởng thương thuyền như gia đình tôi”. Ðấy, hai câu chuyện của tôi có đủ vui đủ rõ để ghi vào ráp-po không? Táo chủ tọa trề môi chê:

    - Vui và rõ! cũng “cá mè một lứa” thuộc loại “ni ăn ni uống”.

    Táo OSA ngớ ra một lúc, khi hiểu, cười phá lên:

    - “Ni ăn ni uống”. Hô hố! Trời ơi là trời! “Ni ange ni bête” của Pascal mà đọc thành “ni ăn ni uống”!

    Táo bà xanh mặt chờ đón cơn bão tố không dám hé môi.

    Táo chủ tọa quát:

    - Chú mày mới học lóm được một vài chữ Tây của lão ký già hãng thuốc lá Tây MITAC đã làm phách. Xì, đồ lai căn. Bà nó đâu? Táo bà run run đáp:

    - Thưa em đây.

    Táo chủ tọa lớn tiếng truyền:

    - Hãy ghi vào ráp-po một câu thôi. À, hai câu cho rõ. Ghi nhé: “Lúc lên ghe cũng như lúc lên bờ, họ đều chen lấn giành giật nhau. Lên ghe, thanh niên đạp nhầu lên đàn bà để tranh chỗ; lên bờ, trò giành giật với thày để tranh ăn”. Ðủ vui và rõ chưa?

    Cả táo OSA lẫn bà vợ chung đều hỏi:

    - Còn những chuyện khác? - Còn chuyện tình của em?

    - Hãy ghi vào phần tồn nghi ở phụ bản để Ngọc Hoàng tự cứu xét xem là loại vui hay buồn, đáng thương hay đáng trách!




    Nguyễn Mộng Giác

    Nguồn http://nguyenmonggiac.info/          [/tab]
          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5416
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Ngựa Nản Chân Bon

Bài viết bởi Bạch Vân »

          




  • Một ngày như mọi ngày
    Viết bởi Nguyễn Mộng Giác



    Thượng đế hấp tấp tạo dựng ra muôn vật khi chưa kịp đọc kỹ bản tuyên ngôn nhân quyền. Chàng bật cười nhớ lại cái ý ngộ nghĩnh đó của Will Durant, sử gia người Mỹ đã bỏ cả đời để viết bộ lịch sử văn minh nhân loại. Chí lý thay! Nếu Ngài ngập ngừng thêm một sát-na (xin mở ngoặc đơn lưu ý là một sát-na của Thượng đế bằng khoảng thời gian dằng dặc từ thời khai thiên lập địa cho đến thế kỷ 20) để đọc được bản tuyên ngôn đẹp như mộng ấy đủ hai sát-na, Ngài đã không bắt chàng sống cuộc đời vô tích sự như vậy. Mọi người đều được quyền có việc làm. Nhiều người được ân sủng của Thượng đế. Chàng thì không. Chàng chẳng biết phải làm gì. Ðứa con gái út hỏi nghề nghiệp cha để ghi vào sơ yếu lý lịch nộp cho nhà trường. Chàng bối rối không biết trả lời con thế nào. Vợ chàng nhanh trí đáp hộ: “mất sức lao động”. Con gái chàng không hiểu gì cả. Chàng lườm vợ, bất bình. Vợ chàng đỏ mặt. Chàng hỏi gay gắt:

    - Ai cho phép em đặt tên con là Gái Út? Vợ chàng không vừa:

    - Ðó không phải là lao động!

    Thượng đế cao xanh ơi! Ðến vợ con còn không hiểu được chàng, làm sao người ngoài hiểu được! Chẳng trách ai cũng gọi chàng là con người lêu bêu vô ích!

    Chàng ái ngại thương mình. Kể ra chàng cũng có cố gắng đấy chứ. Việc gì chàng cũng làm hết mình, rán đến nơi đến chốn. Kết quả tuy không ra gì nhưng “mưu sự tại chàng, còn thành sự tại trời”. Chàng thành thực thấy mình oan uổng không đáng trách.

    Thử lấy một ngày nào đó từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ xem chàng đã làm gì! Ngày nào cũng được, trừ chủ nhật. Một ngày như mọi ngày. Chàng cẩn thận yêu cầu tránh giùm ngày chủ nhật vì hôm đó vợ chàng ở nhà, chương trình làm việc của chàng bị xáo trộn. Chàng cũng không được thoải mái mấy, nên kết quả lao động hôm ấy thiếu tính chất tiêu biểu, nghĩa là không đủ tiêu chuẩn khoa học khách quan.

    Chàng thức dậy lúc bảy giờ. Ðáng lý chàng có thể dậy sớm hơn vì đêm nào chàng cũng thao thức tiếc rẻ một cái gì. Tiếc một ngày nữa đã qua chăng? Tiếc những trang giấy vô tội bị bôi bẩn chăng? Tiếc của vì lỡ xé vụn một tờ nháp chăng? Có thể lắm. Nhưng đó là chuyện hôm trước. Chàng chỉ kể đến hôm nay, một ngày như mọi ngày. Chàng dậy trễ để chờ vợ ra khỏi nhà. Chàng thích được tự do, độc lập, hai thứ không có gì quí hơn. Vợ chàng dắt xe cắp cặp đi dạy xong, chàng tung chăn ngồi dậy, vươn vai, ngáp. Khoái thật! Ngáp cũng là một động tác thể dục buổi sáng, theo khám phá mới nhất của phép luyện nội công dành cho người lao lực về trí tuệ. Chàng ngáp một cái, hai cái, ba cái. Ðúng sách vở thì ngáp ba cái là đủ. Nhưng... nhưng sao thế này? Chàng ngáp thêm cái nữa, rồi cái nữa, rồi cái cái nữa nữa! À! Chàng nhớ ra rồi. Sách dạy nội công thánh thật! Quả đúng ngáp ba cái thì uế khí trong người bị đẩy ra hết, nội công lại thâm hậu đủ mười hai thành công lực, trí tuệ trở nên hoàn toàn sáng suốt. Nhờ trí tuệ sáng suốt, qua cái ngáp thứ tư trở đi, chàng nhớ một cách sáng suốt rằng mình chưa hề uống cà phê và hút điếu thuốc lá nào cho hôm nay. Cũng nhờ sáng suốt nên chàng trầm ngâm suy nghĩ được lâu. Chàng khám phá ra cái vòng lẩn quẩn của cuộc đời nhờ qui nạp pháp. Chàng có nói ngoa đâu! Này nhé, chàng bắt đầu từ chuyện ghiền cà phê thuốc lá của mình, một chuyện hoàn toàn vặt vãnh tưởng như không có gì đáng nói tới. Khối óc chàng có mụ mẫm đôi chút, trì trệ ì ạch đôi chút nên chàng cần chút xíu chất kích thích để phấn chấn lên. Cà phê thuốc lá nguyên chất còn vô hại, huống chi thứ cà phê pha 92,4% bắp rang và thuốc lá trộn 89,6% lá đu đủ. Xin yên tâm đừng nghe lời các thầy thuốc dại mồm dại miệng! Chàng cần chút xíu thứ nước và thứ khói gọi là cà phê thuốc lá ấy để đầu óc thêm minh mẫn. Ðầu óc minh mẫn để làm gì? Ðể suy nghĩ chín chắn xem trong các thứ đồ đạc còn lại trong nhà, chàng nên bán thứ gì trước thứ gì sau, bán thứ nào thì được mau mắn hơn thứ nào, nên bán thứ gì để được cao giá hơn thứ khác. Bán để làm gì? Ðể mua thứ nước và thứ khói gọi là cà phê và thuốc lá? Mua để làm gì? Ðể đầu óc thêm minh mẫn? Minh mẫn để làm gì? Ðể nghĩ chín chắn xem thứ gì còn bán được? Bán để mua cà phê thuốc lá! Ðể đầu óc minh mẫn! Ðể nặn óc nghĩ cạn xem còn bán được gì nữa không! Bán để mua cà phê thuốc lá...

    Ðấy đấy. Không phải cái vòng lẩn quẩn của cuộc đời là gì. Phóng đại qui nạp pháp rộng thêm nữa, có thể suy ra cả luật tuần hoàn của vũ trụ, từ đó rút ra cả một hệ thống nhân sinh quan hoặc vũ trụ quan đủ, dư xài cho một đời! Kỳ diệu thay cái ngáp! Thế là chàng hăm hở bắt tay vào công việc đầu tiên trong một ngày bình thường, một ngày như mọi ngày!

    Sau khi súc miệng rửa mặt xong, chàng đi ra đi vô suy nghĩ lung lắm. Chàng nhìn quanh: cái tủ sách đã vỡ kính, sợ, nép mình sát vào vách tối. Cái bàn viết gỗ tạp hạ chân xuống núp sau tủ sách. Cái radio cũ gãy cần ăng ten giơ cái tay cụt làm chứng như hô hoán: “Tôi là đồ bỏ, không ai thèm mua đâu!” Cái giường thì dọa: “Không có tao, nằm đất bị phong thấp cho coi”. Cái lọ hoa mẻ miệng thều thào: “Lạy Chúa, xin thương kẻ tật nguyền!” Chàng chỉ giả vờ lừ mắt dọa chúng nó thôi. Sức mấy chàng dám động đến những thứ ấy. Chúng thuộc độc quyền của vợ chàng. Chàng không mang được đồng xu cắc bạc nào về, thì không được phép chạm đến các thứ ấy. Phải để cho vợ chàng có phương tiện bù đắp những hao hụt trong chi tiêu hàng tháng chứ!

    Chàng chỉ được phép nghĩ đến những thứ vặt vãnh xứng hợp với giá tiền cà phê thuốc lá dỏm. Hôm nay còn bán được món gì đây? Bột ngọt? Giá cao đấy. Hai trăm năm mươi đồng một ký, gấp năm lần số lương của vợ chàng. Vị chi 100 grams bán được những 25 đồng. Hai năm trước, chàng đã từng lén vợ bán 100 grams bột ngọt để đủ bao bốn người bạn văn đi nhậu một bữa phủ phê. Hồi đó tiêu chuẩn nhu yếu phẩm của công nhân viên còn khá, nên chàng tái phạm nhiều lần mà vợ chàng không hề hay biết. Bây giờ mỗi tháng chỉ được chia cho vài ba muỗng cà phê, vợ chàng ham tiền bán ngay trên đường về. Chàng thúc thủ, bỏ ngay ý định thứ nhất. Bao ni-lông chăng? Chàng rất sành giá cả. Một ký loại còn trong giá 20 đồng. Loại tái sinh không biết đến kiếp thứ mấy mầu nâu lợn cợn chất bẩn giá 14 đồng. Cũng cao giá đấy chứ! Nhưng Gái Út đã nằn nì xin chàng 58,6 grams để làm “Kế hoạch nhỏ”. Không nạp bao ni-lông và giấy vụn cho đội làm kế hoạch nhỏ, Gái Út sẽ không được công nhận là Cháu Ngoan Bác Hồ. Không phải là cháu ngoan của Bác, chao ôi, hại tương lai biết mấy! Thế là lại bỏ “phương án” thứ hai. Gạo chăng? Hơi phức tạp đấy! Hình như trong lu da lươn còn một ít gạo, loại cửa hàng lương thực bán cho gia đình công nhân viên có độn nhiều thóc, bông cỏ và sạn. Giá một ký ngoài thị trường tự do là 6 đồng 25 xu. Tối hôm qua, vợ chàng căn dặn sáng hôm nay nếu cửa hàng có gọi đi mua gạo thì nhớ xem các cô cân cho đủ. Nhưng nếu nhỡ họ không gọi, hoặc xe chở gạo trên phòng lương thực bị hư chưa chở kịp, thì làm thế nào? Nguy hiểm lắm. Không đùa với lu gạo được. Lấy hết sáng suốt suy đi nghĩ lại, chàng chỉ thấy còn nước cuối cùng: trở về lũ bạn quyến thuộc thân yêu của chàng, lũ bạn đã từng chia sẻ với chàng bao nhiêu đắng cay, vinh nhục, lặng lẽ âu yếm theo dõi cuộc đời chàng. Chỉ còn lũ sách. Chàng đau nhói cả lòng. Bao nhiêu năm chàng sống giữa sách, sống vì sách. Bắt chước một câu khẩu hiệu cũ, chàng có thể nói: “Chàng là của sách, do sách, và vì sách”. Hồi còn đi học, cha mẹ chàng gửi cho mỗi tháng 1.200 đồng. Tiền cơm tháng 700. Tiền nhà 200. Còn lại bao nhiêu thứ chi tiêu quan trọng khác! Thế mà chàng dám bỏ 200 đồng để mua sách đều đều (chàng nhớ giá mỗi cuốn tiểu thuyết bìa mỏng loại Livre de poche chỉ có 10 đồng thôi). Mỗi lần mua được cuốn sách mới, chàng trân trọng nâng niu như nâng trứng hứng hoa. Sau khi bao bìa bằng giấy kính trong suốt, chàng lật trang đầu nắn nót viết vài dòng lưu niệm rồi mới đọc. Nét chữ, lời ghi, cách ký tên giữ nguyên tâm trạng chàng ở từng thời kỳ. Lâu lâu, buồn, đọc lại, chàng cảm thấy ngộ nghĩnh và bồi hồi. “Một chiều không nắng”, “Buồn vu vơ”, “Mùa lá rụng ở thành đô”, “Một sáng heo may bên thành quách cũ”. Vợ chàng thường đem những lời ghi ấy ra chê chàng hồi nhỏ quá “cải lương”. Chàng đỏ mặt, và càng thương cậu học sinh mới lớn học đòi làm thơ hồi đó. Trưởng thành hơn, chàng ghi đơn giản lại: “Kỷ niệm ngày tốt nghiệp”, “Buổi chiều gặp em”, “Ngày cưới”. Ðôi lúc do chưa đọc sách đã ghi dòng lưu niệm, chàng gặp cảnh trái ngoe, như chàng gặp người yêu đầu tiên (và cũng là người yêu cuối cùng) đúng vào hôm chàng mua cuốn truyện La Dame aux camélias, và chàng ghi hai chữ trân trọng “ngày cưới” lên cuốn Sonate à Kreutzer của Léon Tolstoi.

    Lũ bạn sách đi theo ôm ấp bảo vệ chàng suốt các chặng đường lưu lạc. Bàn viết, giường ngủ của chàng luôn luôn có sách bao bọc. Chàng chỉ cần giơ tay lên là gặp gỡ được một cuộc đời. Chàng đọc đi đọc lại những đoạn ưa thích, đến nỗi mỗi khi muốn tìm lại, chàng chỉ cần lật đến chỗ giấy lề bị đen bẩn hơn là tìm thấy. Bạn bè tứ phương kiên nhẫn chờ chàng để được hỏi han, chia vui sẻ buồn. Thế mà bây giờ, ở thế kẹt, chàng phải phản bạn. Loại sách từng bị chàng rẻ rúng như truyện kiếm hiệp, bói toán, ái tình lâm ly đã bỏ chàng ra đi từ mấy năm trước vì đắt hàng. Mấy cuốn kinh Phật chàng đã “cúng dường” cho chợ sách một năm trước đây. Sách Mỹ bìa dầy giấy khổ rộng nặng cân nên đã theo các chị ve chai. Trong tủ sách hiện giờ chỉ còn loại sách mỏng, khổ nhỏ và có giá trị theo cách đánh giá của chàng. Xin nói thêm là cách đánh giá ấy không giữ phần chủ động. Sách hay, nhưng nặng ký cũng phải biến thành cà phê thuốc lá. Chỉ có sách hay mà bị các chị ve chai chê mới còn làm bầu bạn với chàng cho tới hôm nay, một ngày như mọi ngày! Phần lớn đều thuộc loại tiểu thuyết tiếng Pháp cỡ Livre de poche, hoặc loại khảo cứu và văn học. Chàng rút ra một cuốn khá dầy: “Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay” của Tạ Tỵ do Lá Bối xuất bản. Chàng tính nhẩm: Ít ra phải được 10 đồng. Mỗi khuôn mặt văn nghệ lớn chỉ đáng 1 đồng, rẻ quá. Nhưng rút kinh nghiệm các lần trước, chàng không dám tin cách định giá khiêm nhường của mình. Ðể chắc ăn hơn, chàng lấy thêm hai cuốn nữa theo lối nhắm mắt may rủi: Sử ký của Tư Mã Thiên bản dịch tuyệt vời của Nhượng Tống, và Sonate à Kreutzer của Tolstoi. Chàng vội ấn cuốn tiểu thuyết của văn hào Nga vào kệ sách. Không được chạm đến kỷ niệm thiêng liêng của hai vợ chồng! Dù Tolstoi bi quan đến mức nào về đời sống lứa đôi, nhưng Sonate à Kreutzer vẫn cứ là một lưu niệm đẹp. Chàng nhắm mắt rút một cuốn khác! Lại Tolstoi: Résurrection. Chàng không dám do dự nữa. Nếu do dự, chàng có thể sẽ nghĩ đến máu lệ từng thấm qua nét chữ Tư Mã Thiên, hay công lao khảo cứu của Tạ Tỵ. Chàng dứt khoát đóng tủ sách lại, dặn con trông nhà, rồi đạp xe lên chợ sách đường Ðặng Thị Nhu (xưa là Bùi Quang Chiêu).

    Chàng tránh các sạp bán sách cũ của bạn bè vì hai lý do: bạn văn của chàng vồn vã mời cà phê thuốc lá nhưng lại hay quên trả tiền nợ. Hơn nữa, gặp là kháo nhau đủ thứ chuyện, trong lúc chàng có nhiều việc để làm. Chàng ghé một sạp sách cũ chuyên nghiệp trước từng bán sách ở đường Lê Lợi. Người mua sách mau mắn chận chàng lại hỏi:

    - Có gì bán không chú?

    Tội nghiệp, đến nước này mà chàng còn ngượng. Chàng không dám cho khách qua đường thấy chàng nỡ phản bội ông bạn già Tạ Tỵ, đại văn hào Nga và nhà viết sử Trung Hoa. Chàng chìa ba quyển sách ra, cẩn thận úp sấp lại. Người chủ sạp sách cũ không cần lật ngược để xem nhan đề, hai con mắt nhà nghề đo lường khổ giấy và chất giấy, trong khi đôi tay nhà nghề nâng lên nâng xuống đo trọng lượng. Một lát, ông ta hỏi:

    - Bao nhiêu?

    Chàng lấy bạo ra giá:

    - Hai mươi đồng!

    Bấy giờ chủ sạp mới đeo kính lão vào xem nhan đề. Ông trề môi chê:

    - Sách văn học bán ế lắm. Chú còn sách bói toán hay kinh Phật, bao nhiêu tôi cũng lấy. Chàng định phản đối tới cùng, nhưng thấy vô ích. Chàng cố lấy vẻ bất cần hỏi:

    - Nhiêu?

    - Năm đồng.

    - Ba cuốn mới được 15. Rẻ quá.

    - Không. Năm đồng ba cuốn. Giấy cũ, gói đồ không được, làm bị rách, các-chú chê không mua.

    Chàng giận quá, dằng mấy cuốn sách trên tay chủ sạp, bỏ vào túi vải. Chàng bỏ đi. Ra khỏi chợ, chàng ngáp đến sái quai hàm. Tại thiếu cà phê thuốc lá đây! Chàng do dự, rồi rẽ phía đường Calmette ghé vào hiệu mua bán giấy cũ của chú ba Tàu quen. Chú ba lắc đầu lia lịa:

    - Giấy cũ ngộ không lấy. Có Lênin ngộ mua cho, 18 đồng một ký.

    Chàng ngớ người hỏi lại:

    - Chú mua sách Lênin à? Chú tiến bộ dữ!

    - Hà hà! Ngộ đọc loại Lênin toàn tập dữ lắm. Tuyển tập giấy dày hao ký, ngộ không đọc. Chàng đâm sợ! Tại sao có chuyện lạ vậy? Một tiểu thương gốc Hoa dốt nát không đọc được chữ Việt hỏi mua Lê Nin toàn tập! Hay là... hay là một chiến dịch phá hoại mới của Trung Nam Hải như vụ nạn kiều? Biết đâu được! Giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc theo Marx nhưng không theo Lê Nin. Họ hãnh diện là Hán tộc, đâu chịu răm rắp tuân theo lời dạy một người Nga-la-tư. Phải ra lệnh cho đạo quân thứ năm là Hoa kiều các nước tung tiền thu vét hết sách Lê Nin đốt đi, rồi lặng lẽ tung Mao tuyển ra. Thâm thật! Thảo nào! Chàng sợ rắc rối lôi thôi, vội vàng bỏ đi.

    Ði đâu bây giờ? Liếc nhìn cái đồng hồ chợ Bến Thành, đồng hồ đứng. Hỏi thăm đến người thứ 37, chàng được biết lúc ấy mới 8 giờ 45 phút. Sớm quá, nhưng không biết đi đâu khi túi rỗng, chàng đành trở về nhà vậy.

    Con gái chàng cho biết tổ 15 của chàng phải mua gạo trước 5 giờ chiều, trễ là khóa sổ. Chàng mừng rỡ. A ha, tìm ra kế rồi. Chiều mua gạo, vậy chàng có thể xúc tạm vài lon đi bán mua cà phê thuốc lá được.

    Công việc chóng vánh hơn bán sách nhiều. Chị hàng gạo đong được 1 ký rưỡi, nhân cho 6,25, vị chi 9 đồng 375. Chàng hồi hộp hy vọng được trả 9 đồng rưỡi, nhưng chị hàng gạo bần tiện bủn xỉn keo kiệt tham lam nói:

    - Lon cuối cùng hơi lưng, nên trừ bớt còn đủ 9 đồng chẵn.

    Ðành nhận vậy, biết làm sao!

    Chàng huýt sáo vui vẻ, hùng dũng tiến tới hàng thuốc rê.

    Dì bán thuốc nhắc 1 đồng nợ hôm qua. Chàng bớt hăng hái, mua thêm 2 đồng thuốc và một xấp giấy quốc doanh giá 1đ5. còn 4đ5, chàng yên tâm đạp xe lên đường bà Lê Chân uống cà phê ở quán anh bạn thi sĩ.

    Cà phê ở đây không rẻ hoặc ngon hơn các chỗ khác. Vẫn loại 92,4% và vẫn giá 1đ5 một tách nhỏ. Nhưng sở dĩ chàng chịu khó đạp xa như vậy là vì ở đấy chàng gặp đủ các bạn cũ làm văn nghệ lỡ-cỡ và lỡ-làng như chàng.

    Chàng thất vọng vì thoạt nhìn vào quán hẹp dọn ghé bên chái đình, chàng không nhận ra mặt nào quen cả, anh bạn thi sĩ chủ quán cũng mất tăm. Lỡ khóa xe cẩn thận, chàng đành phải vào. Quanh chàng, hầu hết là thanh niên mới lớn và dân chạy thuốc tây chợ Tân Ðịnh.

    Phía bên phải sát bếp bốn cậu trẻ tuổi tóc dài đang hăng hái khoe thành tích văn nghệ. Một cậu có lẽ đang học trường âm nhạc thành phố khoe hôm qua vừa đi nhậu say túy lúy với đại nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Một cậu chuẩn thi sĩ khoe cái đầu vừa được thợ hớt tóc kiêm đại thi sĩ Phạm Thiên Thư chăm sóc cho. Chàng hứng chí, muốn tìm tên một đại văn hào để khoe dây mơ rễ má. Nhưng tìm mãi không được. Người đi tù, người đi Mỹ. Hạng nhà văn lỡ cỡ cũng có đấy, nhiều là đằng khác. Nhưng chẳng lẽ khoe nhà văn X vừa hỏi mượn chàng ba điếu thuốc lẻ, hay nhà văn Y vừa xin bớt chàng một cái quần cũ. Phải giữ thể diện cho ngành văn chứ!

    Chàng buồn rầu ngồi một mình, uống cà-phê thật chậm để chờ. Chừng 20 phút sau, ông bạn họa sĩ và ông bạn chuyên viết văn dành cho tuổi thơ tới. Gặp chàng, họ mừng quýnh. Họ gọi rối rít:

    - Ra đây! Có chuyện làm ăn khá lắm! Ðãi hai tách cà phê sẽ mách cho.

    Chàng bấm bụng gọi thêm hai tách cà phê nữa. Sạch túi. Uống xong, bạn họa sĩ nhìn lơ láo xung quanh sợ người nghe trộm. Chàng càng tin trúng mánh lớn. Thấy hoàn toàn an ninh, họa sĩ chồm tới sát chàng hỏi:

    - Mày còn giữ tấm thẻ sinh hoạt câu lạc bộ văn nghệ không?

    - Còn.

    Hai người bạn chàng reo lên:

    - Khá quá. Tao đã bảo chắc thằng này tính cẩn thận, thế nào cũng còn giữ.

    Chàng lo lắng hỏi:

    - Nhưng có chuyện gì vậy?

    - Chuyện làm ăn lớn. Cỡ tuyệt mù trời đất kinh thiên động địa như tư tưởng Lê Nin vậy. Chàng xịu mặt, chuẩn bị thủ thế. Bạn nhà văn hỏi:

    - Sao mày đổi sắc thế?

    Chàng đáp nhỏ:

    - Coi chừng âm mưu của Trung Nam Hải. Hai bạn chàng cười ồ:

    - Âm mưu cái mốc xì. Bộ Lê Nin toàn tập bán tự do ở hiệu sách quốc doanh, ai mua không được.

    - Nhưng tụi mày hỏi thẻ câu lạc bộ làm gì?

    - Vì họ chỉ bán cho người làm công tác văn hóa. Chàng đáp ngay cho dứt khoát:

    - Sách Lê Nin tao đọc không vô. Mua làm gì. Bạn chàng lại cười:

    - Ai bảo mày đọc! Mua để bán lại kiếm tiền cà phê.

    Chàng bắt đầu thấy ham. Chàng e dè hỏi:

    - Lời nhiều không?

    Anh bạn họa sĩ mừng rỡ rút ngay mảnh giấy trong túi ra vuốt vuốt cho thẳng, rồi đặt trước mặt chàng. Trên mảnh giấy, đã có sẵn mấy phép tính. Anh ta vừa trỏ vào giấy vừa giải thích:

    - Kỳ này họ bán 7 cuốn, giá vốn 24đ7 hào. Xé bìa cân ký được 4 ký 45, mỗi ký... Chàng cười tiếp lời luôn:

    - Mỗi ký 18 đồng.

    - Ủa, mày mua rồi à? Sao không nói từ đầu.

    - Không, tao chưa mua. Mày tính tiếp đi. Bạn chàng bớt hăng hái vì hồ nghi, nhưng vẫn tính:

    - 18 nhân cho 4,45 thành 80đ10. Dĩ nhiên vựa ve chai không có 10 xu lẻ, nên chỉ trả 80đ. Trừ 24đ7 vốn, còn lời 55đ3. Tao lấy 15 đồng. Thằng này 15 đồng. Phần mày những 25 đồng 3 hào. Chịu không?

    Chợt nhớ cảnh đem nài nỉ đánh đổi Tư Mã Thiên, Tolstoi và mười khuôn mặt văn nghệ Việt Nam để lấy 10 đồng không được, chàng đồng ý liền. Gật đầu xong, chàng mới nhớ đã sạch túi. Chàng lo lắng hỏi:

    - Tụi mày xuất vốn hả?

    - Hả... Hả?

    - Tao hết nhẵn cả tiền rồi.

    - Sao mày dám bao cà phê?

    - Vì bao tụi mày mới hết. Tao chỉ có 4đ5. Khó xử thật! Bạn nhà văn hỏi:

    - Nhà mày sách cũ còn nhiều không? Chàng bật cười, vỗ vào cái túi vải:

    - Tao vừa mang đi rồi mang về. Ế lắm.

    - Ðược mấy ký?

    - Tao chưa cân.

    Bạn họa sĩ không thèm mở nắp túi vải, nhấc cả túi lên cân bằng tay:

    - Nhẹ quá. Sợ không đầy một ký. Mày mượn vợ thằng HT xem sao.

    Chàng dẫy nẩy:

    - Không được. Tao không quen vay nợ. Bạn nhà văn đột nhiên tìm ra lối thoát:

    - Hay thế này. Mày với hai đứa tao đến mua, rồi mày giả vờ quên ví nhờ tao về lấy. Tao chở sách Lê Nin đi xuống Cầu Sắt bán, đem tiền về trả. Ðược không?

    Cả ba vỗ tay reo. Họ làm đúng “phương án”, và chia chát cũng đúng “phương án”. Với 25 đồng 3 hào trong túi, chàng định mua luôn 100 grams thuốc rê để dành. Nhưng đến sạp bán thuốc, chàng do dự. Không nên để leo việc hôm nay qua ngày mai. Một ngày như mọi ngày, nên mỗi ngày phải giữ trọn tính chất độc lập tự do của nó. Hôm qua chàng thèm thuốc lá quá nên phạm lỗi, đó là điều không được tái phạm. Cho nên sau khi sáng suốt suy nghĩ, chàng chỉ mua thêm 4 đồng thuốc rê và 1 đồng 3 giấy vấn. Còn chẵn 20 đồng. Nhìn đồng hồ một anh chợ trời thuốc tây, chàng thấy đã 9 giờ 50. Phải về nhà để lo cơm nước thôi. Chàng đạp xe về theo đường Trần Quang Khải. Hai bên đường rợp bóng cây bày la liệt những chiếu mua bán đồ cũ. Toàn loại phế thải. Bảng hiệu là một tấm giấy bìa đề chữ cẩu thả hoặc bay bướm dựng trước chiếc chiếu bày hàng. “Mua bán băng nhựa cassette cũ. Giá cao”. Mua giá cao thì được, còn bán giá cao thì lơ đễnh quá! “Mua dao điện” “Mua gọng kính cũ, phim phổi, tiền xưa, bạc vụn” “Mua sách báo cũ. Giá phải chăng”. Ðây mới đúng là một anh chợ trời chân thành! Chàng sẽ trở lại đây nhiều lần! “Mua bán lốp ruột xe đạp. Bảo đảm không đứt triên trong 6 tháng”. Bảo đảm? Loại bảo đảm chợ trời! Chàng đã lỡ nghe một lời bảo đảm như vậy nên mua phải một cặp lốp giả bố làm bằng bao cát mục, cao su pha quá nhiều đất sét, chỉ chạy 6 giờ đồng hồ là nổ. Chàng lẩn thẩn suy nghĩ về xã hội mình đang sống. Có hai đặc tính nổi bật: “tư liệu sản xuất” là đồ phế thải và hình thức “giao lưu hàng hóa chợ trời”. Thang giá trị cũng đảo ngược: đồ sản xuất càng lâu năm càng đáng tin cậy. Ðúng là một nền văn minh phế thải. Trên những con đường chàng thường đi qua, hai tiếng “phế thải” cứ vang vọng bất tận trong trí chàng. Những đứa trẻ bị phế thải khỏi trường học lặn hụp mò bao ni lông cũ chìm dưới đáy sông Thị Nghè. Người đàn ông phế thải cưỡi chiếc xe đạp sắp phế thải, vỏ sau chằm vá cột buộc đủ chỗ nhưng còn rán chịu đựng được cái bao rách chứa giấy phế thải. Một chị đàn bà đặt cái cân bàn ở góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm Tự Ðức mua giấy sách cũ. Họ thành một đôi xứng hợp. Chàng quan sát họ, thầm nghĩ: Có thể thành một đề tài truyện ngắn không? Qua chợ Thị Nghè, chàng vội bóp phanh trước một đám đông cuối dốc. Dây phanh đáng lý nên phế thải bị lưu dụng quá hạn nên đứt ngang. Chàng phải lấy dép chà lên mặt đường hãm đà. Ðôi dép làm bằng nhựa phế thải chịu không nổi, rách quai. Chàng may mắn không tông phải ai. Một vụ cãi vã gay go. Chuyện đó thường tình. Ðiểm đặc biệt là hai đối thủ đều có đủ chất điển hình: ông cán bộ thắng trận đội mũ cối mang dép râu và anh lính ngụy thua trận bán chợ trời. Cuộc cãi vã có cơ trở thành một màn đấu tranh chính trị nguy hiểm. Khốn nỗi người đi chợ tuy ghét dân chợ trời nhưng lại thương người ngã ngựa, khiến ông cán bộ nổi sùng. Hình như nội vụ bắt đầu khi ông cán bộ dùng thuốc nam không hiệu quả phải vác tiền ra mua thuốc tây ở chợ trời. Ông không tin ở những gì ở ngoài vòng kiềm tỏa của nhà nước. Ông nghi đang cầm phải một vỉ thuốc giả. Anh chợ trời đâm cáu, giật vỉ thuốc lại, bĩu môi:

    - Không có tiền thì thôi. Vào hiệu thuốc quốc doanh mà mua!

    Thế là ông cán bộ to tiếng mày tao:

    - Hạng chuyên lừa đảo phe phẩy như mày là ghẻ lở của xã hội. Hàng nhà nước thất thoát vì mày! Cán bộ hủ hóa vì mày! Tao kêu công an còng mày bây giờ!

    Một số khá đông người hiếu kỳ thấy như mình bị xúc phạm danh dự. Gia đình nào không có thân nhân lăn lóc chốn chợ trời? Vài lời xúi giục có ác ý, hy vọng chứng kiến “cuộc đấu tranh ai thắng ai” giữa hai ý thức hệ. Nặng và hiểm nhất là câu:

    - Tao thấy lâu nay mày ngon lắm, sao bữa nay hiền vậy, Hùng Ðầu Bò.

    Hùng Ðầu Bò quắc mắt lườm lườm nhìn ông cán bộ. Ông cán bộ quắc mắt nhìn lại. Mọi người nín thở hồi hộp. Hùng Ðầu Bò càm ràm gì đó, rồi quay đi. Bấy giờ ông cán bộ mới thấy mình bạo phổi. Quá dễ bị đòn hội chợ. Ai lại phỉ báng làm nhục dân chợ trời giữa chợ trời? Ông cũng càm ràm gì đó để giữ thể diện nhà nước, rồi lên xe đạp. Chờ ông đi rồi, đám đông quay chất vấn Hùng Ðầu Bò:

    - Mày làm mất mặt tụi tao quá. Tao tưởng mày ngon.

    - Mày bị nó chê là ghẻ lở, không xấu hổ sao? Hùng Ðầu Bò rút thuốc ra hút, phà hai hơi, rồi nói tỉnh:

    - Mụt ghẻ nó đâu có xấu. Ðáng xấu hổ là thằng ở dơ để cho da dẻ mọc mụt.

    Ðám đông cười ồ. Thế là danh dự được cứu vãn. Chàng cũng cười, thầm nghĩ: Ðúng là lý luận kiểu AQ. Viết truyện ngắn hoặc cái truyện vừa theo kiểu Lỗ Tấn được không?

    Chàng sẽ gắng viết thử. Nhưng việc trước mắt là phải về cho kịp nấu cơm trưa. Thế là hết buổi sáng.

    Bữa cơm trưa khá vui, trừ những lúc buồn! À quên, trừ những lúc vui buồn lẫn lộn nữa. Vợ chàng hay kể những chuyện xảy ra trong trường nhìn từ bàn cô giáo xuống cuối lớp. Ðứa con trai chàng bổ khuyết bằng cách nhìn ngược từ cuối lớp lên bảng đen. Ngày nào cũng vậy, câu chuyện hào hứng làm cho cả gia đình quên được cái đạm bạc của mâm cơm độn. Ví dụ khi vợ chàng than:

    - Thật tệ quá. Ai đời sáng nay em “chia tiêu chuẩn” được 200 grams thịt ba chỉ. Chờ nửa tháng dài mới được hưởng ân huệ cách mạng, mừng hết lớn. Em đã cẩn thận bọc trong bao ni lông, bên ngoài bao thêm giấy dày giấu kín giữa cuốn sổ kiểm diện đặt ngay phòng giáo viên. Thế mà dạy xong tiết 2, em nghĩ quẩn sợ mất, vội chạy lên xem. Không mất. Nhưng đứa khốn nạn nào đã đổi phần thịt của em rồi. Anh cắn thử miếng này, toàn bầy nhầy.

    Con chàng bổ khuyết:

    - Hèn gì cô chủ nhiệm của con cứ xách thịt xuống lớp nhờ tụi con giữ hộ. Ðể trên đó, cô không yên tâm.

    Hoặc khi vợ chàng kể:

    - Ban đời sống trường em làm việc đến kỳ! Ai đời căng tin bán cho học trò không có tổ chức gì ráo trọi. Mạnh ai nấy bán. Giờ học vừa hết, thoáng một cái, mỗi cô giáo một giỏ quà ngồi la liệt trên sân chơi chờ đợi học sinh mua. Giờ học răn đe la mắng nó, giờ chơi phải cười cầu tài. Con chàng bổ túc liền:

    - Hèn gì cô con đem quà bán ngay trong lớp học cho tiện. Sáng nay cô dọa khảo bài sinh vật, mà tụi con chiều hôm qua lo tập văn nghệ đã kịp học đâu. Tụi con tìm mánh: Cô vừa xách giỏ bánh mì nướng phết đường vào, tụi con cử một đứa lên mua, đưa tờ 20. Cô không đủ tiền thối, chạy đi đổi dưới căng tin. Thối xong, cô cười cười, khuyên tụi con mỗi lần ăn quà nên tránh ăn đồ lạnh như cà rem dễ đau bụng. Cô con ghét cô Nga chủ nhiệm 7B lắm. Cô Nga bán kem mà ba. Cô nói chuyện một lúc, sắp sửa trở lên bàn thầy giở sổ, thì một đứa khác lên mua. Cô lại cười tươi, than độ này bột mì đắt nên bánh nhỏ. Củi lửa khan hiếm. Cứ thế tụi con kéo dài được đến cuối tiết. Ðại khái trưa nào cũng có những chuyện vui như thế cả.

    Chàng ghi vào óc, lúc cần có thể dùng được. Ăn cơm xong, vợ chàng để mặc chén bát nồi niêu cho cha con chàng rửa, lấy nón giỏ tất tả ra chợ trời. Trước khi đi, vợ chàng cũng đi ra đi vào suy nghĩ cho chín chắn như chàng buổi sáng. Ðến lượt những thứ từng lờn mặt với chàng sáng nay phải nem nép sợ hãi. Mấy cái son nhôm, chảo nhôm, thau nhôm... nói chung thứ gì bằng nhôm trong nhà bếp đều cảm thấy hồi hộp trước cuộc đời lưu lạc gian truân sắp chịu. Vợ chàng có trí nhớ tốt, nên không thứ gì bể, mẻ, móp, méo, lủng thuộc đồ nhôm, dù trốn ở gậm giường xó tủ nào, nếu chẳng may bị nàng trông thấy một lần, là không thể thoát được! Chàng biết thế nên không bao giờ dám xâm phạm “đất cấm”. Ngành chuyên môn thứ nhì của nàng là quần áo cũ. Một miếng giẻ nàng cũng tìm được chỗ bán, và bán giá cao mới lạ chứ. Ðôi khi chàng ngờ vợ mình đã cố ý tăng giá lên để “lấy le” với chàng. Hư thực thế nào, đến bây giờ chàng chưa biết!

    Ngành thứ ba vợ chàng giành độc quyền là chén bát, ly tách. Lâu lâu lén mua 50 grams cà phê nguyên chất (rồi dối vợ là người bạn thân từ Buôn Mê Thuột vừa về Sài Gòn chơi đem biếu) về pha filtre, chàng tìm cái ly thủy tinh có quai mãi không thấy đâu. Chờ vợ về hỏi, nàng chỉ ỡm ờ bảo “ở đâu đó”. Chàng nghi vợ đã học đòi theo chàng, vợ chàng liền chất vấn:

    - Có ông bạn quí nào vừa lẩm cẩm vừa bủn xỉn đến nỗi từ xứ cà phê xuống thăm bạn ở Sài Gòn lại chỉ đem biếu có 50 grams. Nói dối thì cũng phải có lý của nó chứ! Chàng im, dừng lại, không dám tra vấn cái ly mất tích nữa. Rồi nay cái quần sờn đáy xổ lai, mai cái liễng Nhật, mốt cái đèn nhôm Mỹ, cuối cùng cái tủ áo, tủ buffet, chạng thức ăn rỗng ruột. Luật bù trừ mà! Muốn cho cái ruột này đầy thì cái ruột kia phải rỗng. Ngày xưa Nguyễn Du nói: Lạ gì bỉ sắc tư phong.

    Tiếc một điều là vợ chàng không biết dùng qui nạp pháp! Nhưng đó là việc của vợ. Hãy trở về việc chàng.

    Buổi chiều các con đi học cả, vợ đi vắng, chàng phải ở nhà vậy. Lo giặt dịa, lau chùi nền nhà và bàn ghế, phủi bụi ở tủ sách. Càng ngày chàng càng trở nên cẩn thận ngăn nắp hơn. Chùi nhà một lần, chờ khô, chàng thấy mặt nền còn nham nhám. Chùi lần thứ hai, đỡ hơn, đúng lúc đó con chó SuSu mang bốn cái chân bẩn chạy vào. Lại phải chùi lần thứ ba, lầ này cẩn thận khép cửa. Ði ra đi vào nhìn thứ gì chàng cũng thấy không được chỉnh. Lũ đồ vật gặp cái nhìn của chàng vào buổi chiều, nên yên tâm! Chàng đã hoàn toàn vô hại. Chỉ có thiện chí! Chàng nâng niu cái này, xoa nắn cái kia, đánh bóng cái nọ. Ðồ vật nhoẻn cười yên tâm trong tay chàng. Mải mê làm vệ sinh, chàng suýt nữa quên chuyện trọng đại: mua gạo. Khốn nỗi đến lúc đó chàng mới nhớ vợ chàng chưa đưa tiền. À quên, chàng còn đủ 20 đồng đây. Chắc đủ. Chàng nở mũi hãnh diện. Có thế chứ. Chàng đâu phải là kẻ vô tích sự. Chàng còn đủ sức lo gạo cho gia đình, mà có gạo là có tất cả. Lê Nin “vĩ đại” ở chỗ dám đem lý thuyết ai cũng cho là không tưởng ra thực hành ngay trong cuộc đời rối rắm phức tạp này, nhưng còn “vĩ đại” ở chỗ dám giúp một kẻ chưa đáng tin cậy đủ tiền cho hắn mua gạo ăn trong thời gian sám hối. Chàng tự trách đã quá bất công với nhà lãnh tụ Nga. Với tâm hồn yêu đời, chàng đi mua lương thực. “Cửa hàng phục vụ gạo” đông nghẹt. Chàng thích cánh len vai xông vào. Một chị sồn sồn rủa:

    - Cái ông già dịch. Ðạp cả lên chân người ta! Già dịch! Cái chân chị là chỗ dễ kích thích chắc! Nhưng chàng đang yêu đời nên chàng quên ngay lời rủa, nghĩ theo cái hướng tích cực: Già dịch! Thế mà bà xã mình dám bảo mình “mất sức lao động”. Ðúng Bụt nhà không thiêng. Này, mất sức lao động này! Chàng lấn thêm cho gần tới bàn cô thư ký ghi sổ. Lại có nhiều tiếng la ôi ối:

    - Làm gì như đi ăn cướp vậy!

    - Yêu cầu bà con giữ nếp sống văn hóa mới! Chàng khựng lại. Phải, chàng còn mang quá nhiều tàn dư văn hóa cũ, không chịu vì mọi người. Chàng định thối lui để nhường chỗ cho các em bé, cụ già, đàn bà có thai, thương binh liệt sĩ (không phải thương phế binh ngụy), gia đình có công với cách mạng. Không kịp rồi. Dộm bước lui thì một em bé gái khoảng 10 tuổi kêu thét lên:

    - Ái! Chết ngộp mất trời ơi!

    Có ai vừa đánh rắm thối hoăng. Người ta bịt mũi lại, tiếng chửi nghe thật tức cười. Chàng bị sửa lưng liền:

    - “Ðịch” thối om còn đứng cười! Vô duyên. Chàng mắc oan Thị Kính mà không cách nào bào chữa được. Nếu không đánh rắm, sao chàng không bịt mũi. Chịu thưởng thức “của nhà” tức là công khai nhận lỗi. Mọi người nhìn chàng căm tức. Tình thế ngày càng tuyệt vọng, không khéo thu xếp chàng có thể bị đòn hội chợ như chơi. Trước hết, hãy rút lui đã. Ra ngoài được rộng rãi, dễ thanh minh hơn. Mặc tiếng la ó, chàng cố chen trở ra. Cô thư ký ngộp thở, bỏ bàn giấy vùng vằng đi ra phía sau. Sợ không được mua gạo, người ta càng căm tức chàng hơn. Làm sao đây? Chàng bắt đầu ngờ rằng có thể chàng lỡ dại nhưng do gắng sức chen lấn chàng không hay biết. Thanh minh không ai nghe, bỏ về sợ mất phần gạo. Cho nên khi nghe loan báo hoãn thời hạn chót đến chiều mai, chàng mừng rỡ ra về.

    Quần áo chàng đẫm mồ hôi, nhọ nhem như quần áo chú bé quét bồ hóng. Chàng cảm thấy ngứa ngáy. Phải về gấp để tắm mới được. Lúc cởi quần dài vắt lên dây thép, chàng thấy túi quần bị đảo ngược, lớp vải lót mầu cháo lòng thò ra ngoài thành một cái tai vểnh. Chàng không hiểu gì cả. Có lẽ tách cà phê sáng đã hết hiệu lực. Ðến khi hiểu, chàng mới biết kẻ gian đã nhân lúc chen lấn mượn tạm 20 đồng của chàng rồi. “Của Lê Nin trả lại cho Lê Nin”. Ðúng là luật công bằng trong mơ ước của bản tuyên ngôn nhân quyền!

    Chàng thường dành buổi tối để viết. Ðáng lý chàng phải để dành 1đ5 để mua sẵn một tách cà phê loại 92,4% làm “tư liệu sáng tạo”, nhưng 20 đồng phi nghĩa không còn nữa, nên chàng phải rán dằn những cái ngáp ác hại.

    Phút linh cầu mãi không về.

    Bâng khuâng giấy trắng chưa nề mực đen. Chàng gặp y nỗi khổ tâm của Hồ Dzếnh. Ngáp đến cái thứ tư mà xú uế cứ dâng tràn. Chàng nghĩ thầm:

    - Phải viết cái gì trung thực.

    Chàng ôn lại những gì đã thấy đã nghe trong một ngày bình thường. Âm mưu của Trung Nam Hải? Nếu trung thực thì nguy lắm, chàng sẽ trở thành kẻ tòng phạm trong vụ án phản động có tầm cỡ quốc tế. Viết chuyện mua bán sách cũ? Lại mắc tội lưu hành phổ biến văn hóa phẩm đồi trụy nhảm nhí! Chuyện cãi vã ở chợ trời? Không khéo bị tố là nói xấu chế độ! Nhân dân lao động sáng suốt đâu có bênh vực tên lính ngụy đã không chịu sản xuất còn phá hoại kinh tế xã hội chủ nghĩa! Viết chuyện nhà trường? Bôi bác nền giáo dục cách mạng, không phân biệt được khó khăn tạm thời và thuận lợi cơ bản, đánh đồng một cách ác ý bản chất và hiện tượng! Viết chuyện đi ra tổ phục vụ mua gạo?

    Thì làm sao giấu được 20 đồng bạc đánh cắp của Lê Nin?

    Càng nghĩ chàng càng thấy sợ. Chàng hút hết liên tiếp ba điếu thuốc vấn, rồi đặt lại vấn đề:

    - Hay là ta nên viết cái gì đăng được?

    - Phải đấy. Viết không đăng được thì viết làm gì. Viết rồi đốt là điên, viết rồi giữ đó như giữ bom nổ chậm là khùng. Kẻ khôn ngoan thức thời chỉ nên viết cái gì đăng được. Chàng tìm cuốn lịch bỏ túi xem các ngày lễ. Ðây là kinh nghiệm xương máu do các bạn văn nghệ miền Bắc ưu ái truyền lại cho chàng. Cứ giở cuốn lịch ra, tìm các ngày lễ và viết sẵn một số truyện, thơ “lương khô dự trữ”. Lễ nhỏ viết vài ba cái, lễ lớn phải chín, mười. Các loại sáng tác “nhân dịp” này năm nào cũng đắt hàng. Chàng dò tìm, nhưng thật rủi cho chàng, hôm nay không kề cận với ngày lễ nào sắp tới. Cậu bé Nguyễn Tất Thành đã chào đời, các đồng chí thương bệnh binh cách mạng đã nhận quà của hội phụ nữ nhân ngày 22-7. Cách mạng tháng 8 còn manh nha, vườn hoa Ba Ðình vẫn trống trơn chưa dựng bục để Bác đọc lời tuyên ngôn độc lập. Tìm không ra chuyện thành thị, chàng quay về nông thôn. À, cái đề “Mùa bội thu” hay đấy! Sao ta không viết cái truyện tả cảnh một khu kinh tế mới được mùa. Chàng nắn nót viết nhan đề MÙA BỘI THU lên đầu tờ giấy hẩm. Chàng dàn ý, tìm các chi tiết tiêu biểu, nghĩ trước cái kết tốt: “Bác Năm cười quay lại gọi con dâu:

    - Hai à!

    Chị Hai đang tính công điểm, bỏ bút xuống thưa:

    - Dạ con đây.

    - Thẵng đã về chưa?

    - Dạ ảnh còn mắc chia lúa bội thu cho bà con.

    - Ờ được, tụi bay còn trẻ rán giúp đỡ bà con. Làm sao cho mùa sau còn được hơn mùa này nữa. Không nhờ ơn cách mạng, gia đình mình đâu có như thế này.

    Chị Hai mỉm cười, mơ màng nghĩ đến cảnh chị ngồi trên cùng chiếc máy cày với anh, mê mải ngắm những đường cày thẳng tắp chạy dài đến tận chân trời.”

    Chàng bắt đầu viết, xóa, lại viết, rồi lại xóa. Nặn mãi không ra cái nhập truyện. Vợ chồng anh Hai đang sống khổ cực ở Sài Gòn. Anh làm phu xích lô suốt ngày gò lưng đạp tháo mồ hôi mà không đủ tiền nuôi con. Chị bán cháo huyết ở khu lao động, và vì dân lao động quá nghèo nên cháo của chị quá ngon mà quá ế. Ðứa con của anh chị bị đau. Anh chị không có tiền mua thuốc, đem vô nhà thương bị rẻ rúng vì anh chị nghèo. Con của họ chết, anh đâm ra rượu chè be bét. Chị khuyên nhủ, năn nỉ mãi, anh vẫn chứng nào tật nấy. Rồi Sài Gòn “được giải phóng”. Cả anh lẫn chị đều tham gia vào công tác cách mạng. Công tác nào anh chị cũng xung phong đi đầu. Chính sách kinh tế mới ban hành, anh chị ghi tên ngay đợt đầu tiên, rồi vận động được cả bà con hàng xóm nữa. Thủ cựu như cha chồng là bác Năm mà chị cũng thuyết phục được. Mới lên, họ vất vả trăm chiều. Muỗi, vắt, nước độc, chim kêu vượn hú. Nhưng: Bàn tay ta làm nên tất cả

    Với sức người sỏi đá cũng thành cơm. Nhà thơ “cách mạng” Hoàng Trung Thông đã nói đúng. Bà con khu kinh tế mới đã biến núi rừng thành đồng bằng, dưới sự hướng dẫn lãnh đạo tận tình của cán bộ. Kết quả là mùa bội thu đầu tiên chàng đang viết đây.

    Chàng viết được hai trang, lại ngáp. Hút thêm điếu thuốc vấn 89,6% trí óc chàng minh mẫn trở lại. Chàng nhớ nhiều chi tiết hay hay có thể thêm cho truyện bớt công thức. Và trời ơi, chàng nhớ cả những chi tiết thừa thãi: như cảnh dân kinh tế mới kéo trở về Sài Gòn nằm la liệt hàng đêm trên lề đường Trần Hoàng Quân Chợ Lớn. Như những gia đình sống mòn bên đống rác khổng lồ trên đường Trần Quốc Toản. Như những đứa trẻ cầm que đi nhặt từng mảnh giấy vệ sinh gần chợ Tân Ðịnh! Chàng khựng lại. Ðọc từ đầu, chàng ngượng chín người. Thiếu sáng suốt, chàng vò nhàu hai tờ bản thảo vứt đi. Sau nghĩ lại. Chàng bưng đèn cúi xuống nhặt lên, vuốt cho thẳng, xếp vào xấp giấy cùng số phận các đêm trước. Xấp bản thảo nhàu nhò vô tội đã khá dày. Có thể được đến vài trăm grams.

    Với giá 14 đồng một ký giấy học trò viết hai mặt, chàng có thể bán được khoảng 3,4 đồng. Chàng đã có vốn để mua cà phê 92,4% và thuốc lá 89,6% đổi sự sáng suốt cần thiết cho sáng hôm sau.

    Ý tưởng đó khiến chàng yên tâm đi ngủ. Lúc đặt lưng xuống cái giường què, chàng nghe cô gái choai choai nhà bên kia hát nhỏ như sợ đôi tai thính của ông công an khu vực:

    “Một ngày như mọi ngày, xin trả lại đời tôi”...





    Nguyễn Mộng Giác

    Nguồn http://nguyenmonggiac.info/
          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5416
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Ngựa Nản Chân Bon

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           




    Dốc Nhân Sinh
    Viết bởi Nguyễn Mộng Giác



    Sau khi có lệnh cấm ngặt các quán cà phê không được mở nhạc tiền chiến, nhạc disco, và một số chủ quán cà phê ở đường Trần Quang Khải bị đưa ra tòa, khu vực này chết lặng như một vùng mộ. Người qua đường nghe trở lại tiếng lách cách của những trái me chín khô va chạm vào nhau, và lại bồi hồi xúc động ngắm những giọt lá me vàng bay nghiêng, bay nghiêng. Chị phu quét đường ngập ngừng không nỡ đưa nhanh nhát chổi. Lâu lâu gió trái chứng đổi hướng, lá me chao liệng rồi bay tạt vào quán vắng.

    Cô chủ quán, có vẻ đẹp của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích, nhìn mông lung ra phía hồ tắm cạn nước nay đổi thành hầm chứa rác và lá khô. Bàn ghế trong quán không có vẻ gì chuyên nghiệp: hai bộ ghế nệm bọc nhung mầu huyết dụ đã sờn phai khiêng từ những phòng khách vắng chủ nào đó, một tủ buffet cẩm lai thay quầy rượu, chén tách bằng đồ sứ Nhật. Chỉ còn thiếu một cuốn Vang Bóng Một Thời in trên giấy dó nằm ơ thờ đâu đây là đủ lệ bộ của sưu tập quá khứ. Ở góc quán, chỗ gần bụi trúc La Ngà trơ trụi già nua, chỉ có hai người khách. Người mang kính đen từ lâu ít nói, mỗi lần nói lại quá nhỏ; nên từ xa, có cảm tưởng người gầy ốm tóc muối tiêu đang phân trần với một pho tượng. Pho tượng ngồi thu cả hai chân lên nệm ghế nhung, hai tay ôm lấy gối, nhìn mãi về phía chiếc xe đạp thồ dựng ở gốc trúc cỗi. Trước mặt họ, hai tách cà phê đã hết bốc hơi.

    Khi cô chủ quán ra khỏi nỗi bâng khuâng vu vơ, vẫn người gầy tóc muối tiêu đang nói:

    - … Không, bị trận hồi hành quân Lam Sơn 719 kia!

    - …?

    - 719. Trận đường 9 ấy mà.

    - …

    - Ðúng đúng. Các anh thì gọi là trận Ðường 9 Nam Lào.

    - …

    - Hôm 30-4 tôi nằm bệnh viện Cộng Hòa vì chỗ chân cưa bị nhiễm trùng lở trở lại. Tôi chưa biết cách đi, nên cái chân gỗ làm tình làm tội tôi. Mỗi lần đặt chân trái xuống đất, đau buốt đến nỗi chảy cả nước mắt sống.

    - … ?

    - Ở chỗ này. À quên, anh có nhìn thấy đâu. Ngay phía dưới đầu gối. Nhờ thế tôi mới còn đi xe đạp được.

    - …?

    - Bị mìn cá nhân, hình như loại Trung Cộng thì phải. Chắc chắn điều này anh thạo hơn tôi. Nghe nói chỉ bé chừng này thôi.

    - …

    - Lớn hơn à? Thảo nào. Nghe tiếng nổ xong, tôi ngất đi. May trực thăng lúc đó còn hạ xuống được nên tôi được chở thẳng về bệnh viện hậu cứ. Tỉnh dậy, tôi đòi xem cho được cái chân trái. Thế mà họ cũng chiều đấy.

    - …

    - Chẳng có gì đặc biệt. Hơi gây gây ở xương sống. Gần như ghê tởm, nói đúng hơn là ác cảm. Lạ thật. Một phần thân xác trìu mến của mình, thế mà khi nó rời ra, trông xa lạ thế nào! Cứ theo tưởng tượng của mấy tay viết tiểu thuyết thì phải ôm lấy nó khóc nức nở. Cũng như kỷ niệm của tôi về ngày lấy vợ. Ôi thôi các ông ấy tô điểm đủ điều. Nào e ấp nhìn nhau. Tân lang và tân giai nhân âu yếm dìu nhau đi trên xác pháo. Nào rộn rã trước hạnh phúc vĩnh cửu. Láo hết. Lo đủ thứ chuyện lỉnh kỉnh, lại bị các bà cô ông chú bắt khoan bắt nhặt. Mệt phờ người ra. Tôi cho rằng bấy nhiêu thứ nghi lễ phiền phức nhảm nhí ấy chỉ nhằm có một việc: những vợ chồng trẻ hãy gắng mà chịu đựng nhau, lấy vợ lấy chồng một lần tởn đến già nên không dám làm lại lần nữa.

    - …

    - Tôi chua chát lắm sao? Có lẽ vì tôi tiếc của đấy. Anh biết không, lúc gặp anh, tôi vừa mất gọn bốn trăm năm mươi đồng bạc chẵn.

    - …?

    - Không. Dù ở Sài Gòn bây giờ ra ngõ là gặp trộm cắp, nhưng… nhưng kẻ cắp cũng còn có trái tim. Ai nỡ cướp cơm chim của kẻ tật nguyền. Tôi có một ông bạn phế binh mù đi bán vé số. Lừa anh ta dễ quá. Một mảnh giấy bèo nhèo có mồ hôi nào đó cũng thành tờ 50. Thế mà anh chưa hề bị lừa một đồng. Tôi mất tiền vì gặp tai nạn.

    - …?

    - Ngay trước lúc gặp anh ở dốc bên này cầu Thị Nghè.

    - …?

    - Ủa, nãy giờ anh chưa biết kế mưu sinh của tôi sao? Tôi đãng trí quá. Tôi cứ tưởng anh nhìn được chiếc xe đạp đặc biệt của tôi. Trông thấy nó, biết nghề của tôi ngay. Tôi đạp xe đạp thồ chở hàng thuê đấy.

    - …?

    - Vâng, y như loại xe thồ hồi tụi mình còn học ở Bồng Sơn. Nhưng xe thồ ở đây được cải tiến, trọng tải lớn hơn nhiều. Loại xe thồ hồi ấy chỉ như xe du lịch. Khách hàng thường là các cô gái đi buôn hàng chuyến ngồi vắt lên đòn ngang giàn xe, ngay trong lòng “tài xế”. Giỏ hàng cột phía sau porte-bagage. Hồi đó tụi mình thường nghe nhiều chuyện tiếu lâm về các anh xe thồ xấu máu. Ôm người đẹp trong vòng tay, tóc thơm cọ lên mặt, chiếc cổ trắng ươm ướm mồ hôi như hoa đào ngậm suong, ôi chao, có phải gò người đạp lên dốc đứng cũng không biết mệt. Tụi tôi bây giờ chỉ là “tài xế” xe chuyên dùng, xe chở hàng nặng. Chán phèo.

    - …?

    - Anh đoán xem!

    - …

    - Không.

    - …

    - Cũng không. Loại vừa cồng kềnh vừa mỏng manh.

    - …?

    - Tôi chuyên chở thạp đấy. Loại thạp da lươn người ta dùng đựng nước uống hoặc đựng gạo. Vì thế tôi mới bảo là vừa cồng kềnh vừa mỏng manh. Hồi sáng tôi vừa làm vỡ tám cái thạp như vậy.

    - …?

    - Tám.

    - …?

    - Ðúng là tám. Mỗi chiếc giá vốn 50 đồng, 8 chiếc 400. Tiền công chở từ Biên Hòa lên Sài Gòn 5 đồng mỗi chiếc, vị chi 40.

    - …?

    - Làm sao chở hết một lúc chừng ấy chiếc ư? Bí quyết đơn giản quá. Cái bao tử xẹp thì tìm ra cách ngay. Vả lại cái khó là cột cho chắc tám chiếc thạp trơn lên xe. Những tay lão luyện tự làm lấy cả. Tôi mới vào nghề, phải thuê mất mười đồng. 400 đồng tiền vốn, cộng 40 tiền công, cộng 10 đồng tiền thuê cột hàng, tất cả đúng 450 đồng chẵn.

    - …?

    - Không phải nổ lốp hay gãy tay cầm. Tiếc là anh không trông được cái xe thồ của tôi dựng chỗ bụi trúc kia. Ði chiếc xe như vậy khỏi cần xuất trình giấy hành nghề. Bánh sau đùm niềng xe Mobylette, tăm xe loại cyclo. Ghi đông sắt lấy từ xe Alcyon loại Tây thuộc địa. Bàn đạp là hai ống sắt cỡ 17 hàn dính vào giò xe. Phụ tùng có cây thanh gỗ chắc chắn đầu cưa hình chữ U để dựng xe nghỉ mệt. Ống bơm loại đứng có thể dùng bơm ruột xe hơi.

    Giọng người mang kính đen lớn hơn:

    - Anh tàn tật, chọn chi cái nghề nặng nhọc vậy?

    Người gầy ốm tóc muối tiêu thấp giọng hơn thường lệ:

    - Anh vẽ giùm tôi một nghề nhẹ nhàng đủ sống xem! Một vợ bốn con, làm sao tôi sống được đây? Làm gì còn đất sống cho người lương thiện!

    - Anh lại chua chát rồi! Tại sao anh không tìm một nghề ít dùng đến chân?

    - Như nghề gì?

    - Làm nghề thợ may. Nghề đan mây tre. Thậm chí xin lỗi anh, tôi thấy nhiều phế binh chế độ cũ làm nghề hát dạo trên xe buýt.

    Người tóc muối tiêu cười, nụ cười méo xệch:

    - Tôi hát bài gì để làm mủi lòng bà con cô bác rồi chìa mũ xin tiền bố thí đây? Chẳng lẽ bài “Tiến về Sài Gòn”! Hay là bài “Hà Nội niềm tin yêu và hy vọng”! Còn hát những bài anh thường nghe ở bến xe buýt chợ Bến Thành, với tấm giấy phóng thích của trại học tập cải tạo…

    - Tôi nói cho vui thế thôi. Thiếu gì nghề nhẹ cho anh. Anh còn may mắn hơn tôi. Anh còn đôi mắt. Thợ may, thợ đan, thợ điêu khắc, thiếu gì!

    Người tóc muối tiêu trầm ngâm một lúc, rồi chậm rãi nói:

    - Quả thật không thiếu. Nhưng tôi nói điều này, tin hay không tùy anh: tôi không muốn làm những nghề nhếch nhác, những nghề đàn bà. Chính tôi muốn tìm một nghề khó, cần đủ đôi chân khỏe và khéo léo. Tôi muốn chứng tỏ rằng mình chưa phải là thứ vứt đi. Chở xe thồ bình thường phải có đôi chân đạp khỏe, muốn đẩy xe lên dốc cầu Bình Lợi phải lực lưỡng. Một chân, ốm o, tôi phải làm được. Khó nhất của nghề thồ là chở thạp, chở thạp cừ nhất phải được mười cái. Nay tôi lên được tám.

    - Nhưng anh vừa đánh vỡ cả tám!

    - Ðúng. Ðây là lần đầu tiên tôi làm vỡ hàng, sau sáu tháng hành nghề. Ðánh vỡ vì một chiếc xe bảng xanh phanh bất ngờ trước mặt tôi, đúng lúc tôi ấn cái chân gỗ lên bàn đạp. Tôi chán nản quá, bỏ mặc chiếc xe với đống thạp vỡ, cà nhắc đến ngồi bên lề đường. Anh biết không, tài xế xe bảng xanh phanh ẩu vì vừa nhận ra mật hiệu của chị mua xăng lậu. Tôi chỉ là người bị nạn, không phải kẻ gây tai nạn. Tôi chưa đáng vứt đi, như người ta đã vứt tôi ra khỏi bệnh viện Cộng Hòa hôm 30 tháng 4.

    Người mang kính đen khựng đi một lúc, mới nói:

    - Làm sao được! Lúc đó chúng tôi nhiều việc quá, không có thì giờ sướt mướt những chuyện thương vay khóc mướn. Vả lại, chẳng lẽ phải vứt thương binh chúng tôi ngoài hành lang bệnh viện Cộng Hòa!

    Người tóc muối tiêu đáp ngay:

    - Tôi đã mất một chân, có chiếm nhiều chỗ lắm đâu.

    - Nhưng anh còn có “máy bay lên thẳng” chở về hậu cứ để chỉ mất từ ống chân trái trở xuống. Nếu tôi được như anh, nếu tôi được như anh…

    Người mang kính đen nghẹn lời, không nói tiếp được. Bạn anh không nghe anh tiếp, ngơ ngác nhìn lên. Hai người im lặng hồi lâu. Mãi một lúc sau, người tóc muối tiêu mới e dè hỏi:

    - Ðáng lý anh không đến nỗi phải mù?

    - Vâng, nếu…

    - Ðường xa quá? Hay y sĩ…

    - Cả hai.

    - Chị ấy có…

    - Tôi không muốn cho nhà tôi biết ngay. Vả lại…

    - Thế nào ạ?

    - Vả lại… Nếu có muốn cũng không được. Thường thường phải hơn một năm sau, trong trường hợp… Anh hiểu cho, liên lạc khó khăn lắm. Hơn nữa, phải làm thế để giữ vững tinh thần ở hậu phương.

    Rồi đột nhiên, giọng anh thương binh mù sang sảng, làu làu như đang đọc bài:

    - Nhưng so với sự “hy sinh lớn lao của các chiến sĩ cách mạng” đi trước, thì phần đóng góp của tôi có nhằm gì!

    Người đạp xe thồ ái ngại nhìn bạn. Anh đẩy tách cà phê về phía bạn, nhắc nhở:

    - Tách cà phê của anh còn đầy. Anh uống kẻo nguội hết. Anh thương binh mù bối rối nói:

    - Ðược, được. Cảm ơn anh; rồi dè dặt đưa tay phải mò lên mặt bàn. Tách cà phê đã đổi chỗ nên suýt chút nữa anh làm đổ cà phê ra cái đĩa sứ. Người đạp xe thồ thấy bạn đã tìm được quai tách, nói lảng sang chuyện khác. Anh hỏi:

    - Chị và các cháu đã vào hẳn trong này chứ anh?

    - Ban đầu chúng tôi cũng định thế, nhưng…

    - Nhưng sao ạ?

    - Lâu nay anh có về thăm Bồng Sơn không?

    - Không.

    - Sau “giải phóng” tôi cũng hơi ngại. Làm vương làm tướng mà về thì… còn tình cảnh tôi, anh hiểu. Sau tôi đánh bạo. Không nhìn được vườn dừa quê mẹ thì cũng phải nghe lại cho được tiếng xe nước rì rào bên bờ sông Lại, nhúng chân một lần vào nước mát con sông xưa. Bao nhiêu năm tôi quay quắt với những thú thân thương đó. Không đủ tiền, nên tôi chỉ đem theo cháu út.

    - Sao anh không dẫn chị vào?

    - Nhà tôi cũng muốn lắm. Nhưng cháu út lên bảy, mình thương binh có thể thương lượng cho cháu miễn vé. Cũng may nhà tôi không đi.

    - …

    - Gia đình tôi trôi dạt đâu cả, không còn ai. Nghe nói từ 1972 tản cư vào Qui Nhơn rồi đi lập nghiệp nơi khác. Nghe nói vườn dừa bị cụt ngọn cả rồi. Tôi ngủ lại ngay bến xe một đêm, hôm sau về Thanh Hóa. Không kịp hỏi tin tức bạn bè cũ ở trường Nguyễn-Huệ-bắc dạo đó. Anh có biết không?

    - Anh muốn hỏi ai?

    - Lũ bạn cũ. Ðể tôi nhớ lại đã. Như cái thằng ngồi đầu bàn phía ngoài lớp Bảy D, có cái tật hay khịt mũi ấy.

    - À, thẳng Quảng. Sau Genève nó làm xã trưởng.

    - “Ác ôn” đến thế kia à! Có “gây nợ máu” nhiều không?

    - Chẳng rõ. Chỉ biết năm 1965 cả nhà nó chết thảm vì một quả lựu đạn ném vào mâm cơm tối.

    Hai người im lặng một lúc. Người thương binh mù hỏi tiếp, giọng bớt hăng hái:

    - Còn thằng Luân? Thằng có cây viết Kaolo ngòi thủy tinh.

    - Nó giàu lắm. Mở hiệu ăn ở Phù Cát, gặp lúc Mỹ qua buôn đồ lậu, phất như diều.

    - Ái dà! Tư sản cỡ lớn chắc. À, thằng gì một lần xuống hầm núp máy bay, nó đái lên cả đầu con Lý hay dỗi?

    - Thằng Ðức. Ðức Cống ấy mà!

    - Phải. Nó lộn gan mỗi lần bị gọi như vậy. Nó ra sao?

    - Nhảy núi sớm lắm. Tận hồi tố cộng.

    - Luật 10/59 chứ gì. Về sau anh có nghe Ðức nó lập được thành tích gì không?

    - Tôi chẳng biết. Ðáng lý anh phải biết chứ.

    - Còn anh?

    - Ðơn giản thôi. Sau 1955, theo ông chú vào Nha Trang rán lấy cái bằng tú tài. Học hai năm ở khoa học, hỏng liên tiếp ở chứng chỉ Toán đại cương hóc búa. Bị động viên, qua pháo binh. Mười năm lính, bốn lần bị thương. Mất một cái chân, trước khi mất hết. Không được may mắn như anh đâu!

    Người thương binh mù ngửng phắt lên, vội hỏi:

    - Ðời tôi may mắn ư? Anh nói đùa?

    Người đạp xe thồ do dự một lúc, rồi nói:

    - Trước kia hồi học ở Bồng Sơn, anh vẫn được khen luôn luôn thuộc bài. Kể ra lúc thấy trống trải, có cái gì để học thuộc cho khỏi nghĩ ngợi miên man, cũng hay.

    Người thương binh mù ngồi yên, không động đậy, không nói năng.

    Pho tượng bó gối có nét mặt bần thần. Bạn anh hỏi nhỏ:

    - Anh sao thế? Ðã muốn về chưa?

    - Có lẽ phải về thôi. Tôi còn chút việc.

    Người đạp xe thồ lấy thìa khua vào mạn tách. Cô chủ quán đến gần lễ phép hỏi:

    - Quí ông đã cần pha trà chưa ạ?

    Người đạp xe thồ xua tay nói:

    - Khỏi cần cô ạ. Cô cho chúng tôi gửi tiền.

    Người thương binh mù vội bỏ hai chân xuống đất:

    - Anh để tôi trả tiền. Bao nhiêu hở cô?

    - Thưa 14 đồng. Cà phê độ rày cao quá.

    Bàn tay lục túi của người mù ngần ngừ. Người bạn tinh ý hỏi:

    - Anh không đủ tiền trả phải không? Ðể tôi trả cho.

    - Nhưng sao đắt thế này! Tôi nghe chỉ một đồng một tách đen thôi mà.

    Cô chủ quán vẫn nhỏ nhẹ thưa:

    - Cà phê nguyên chất quả có khác chứ ạ. Hồi còn được mở nhạc, những mười đồng một tách đấy.

    Không có tiền thối, anh xe thồ nhận bốn điếu Ðà Lạt rồi đưa cả cho bạn. Người mù không hay biết gì, mò tìm cây gậy nhôm. Thấy mình vô ý, người đạp xe thồ ân cần hỏi:

    - Anh cần đi đâu, để tôi chở cho.

    - Cám ơn. Chân anh thế, tôi không yên tâm. Tôi đi bộ cũng được.

    - Tùy anh. Hôm nào gặp lại nhé!

    - Vâng. Hôm nào rảnh tôi sẽ tìm thăm anh.

    Họ chia tay nhau. Người mù huơ cây gậy nhôm tiến ra cửa quán. Người đạp xe thồ cà nhắc về phía gốc trúc La Ngà. Họ đều quên, không hỏi nhau địa chỉ tạm trú.





    Nguyễn Mộng Giác

    Nguồn http://nguyenmonggiac.info/          [/tab]
          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5416
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Ngựa Nản Chân Bon

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           




    Tạ Ơn
    Viết bởi Nguyễn Mộng Giác


    Họ được phát bốn bao ni lông lương thực bên ngoài in chữ đỏ: UNHCR, P3V, Indonesia. Không ai thắc mắc về ý nghĩa của mớ chữ khó hiểu ấy, vì cả bốn đều háo hức muốn biết ngay bên trong bao có những gì. Bốn khẩu phần y như nhau gồm 2 ký gạo loại xấu, 1 bọc đậu xanh, 2 bao mì ăn liền, 1 bao nhỏ cà phê, 1 bao đường, 1 bao muối, ngoài ra còn có thêm tiêu, bột ngọt, và hấp dẫn nhất là hai lon đồ hộp. Một hộp bên ngoài có vẽ hình con cá, nên dù không đọc được tiếng Anh, họ đều đoán đúng là hộp cá mòi. Một hộp lớn mà thấp, hàng chữ Anh đề gì họ không hiểu nhưng bên dưới, trong hai cái ngoặc đơn - có ghi hàng chữ Việt: Thịt heo ăn trưa. Thằng Dù 7 tuổi thôi mân mê lon thịt hộp của mình, quay sang hỏi thằng Hùng lúc đó đang cắn góc bao ni lông đường:

    - Nó viết cái gì vậy anh?

    Thằng Hùng ra vẻ kẻ cả, vì biết đọc:

    - Thế mà cũng hỏi. Ðây là thịt heo ăn trưa. Thằng Dù thắc mắc:

    - Mình ăn ngay chiều nay được không? Thằng Hùng hơi băn khoăn, nhưng cứ đáp đại:

    - Không được. Ðã bảo ăn trưa là phải ăn trưa. Chiều đã có hộp cá.

    Câu chuyện trao đổi giữa hai đứa bé khiến hai người lớn phải chú ý. Ờ nhỉ! Sao chỉ được ăn thịt buổi trưa mà không được ăn vào buổi chiều? Trần Văn Nhường lớn tuổi nhất, tính tình điềm đạm ít nói nên không sợ mất mặt, quay hỏi Võ Văn Thành:

    - Sao lại có luật lệ kỳ cục vậy? Thành thì không bao giờ muốn thua kém ai, nên đáp liền:

    - Dân ở đây theo đạo Hồi cữ ăn thịt heo. Buổi chiều tụi nó cầu kinh, không muốn bất cứ ai đem thịt heo ra kho nấu.

    Ba người nhìn Thành với đôi mắt khâm phục, kính nể.

    Thành đắc chí, hỏi liền:

    - Thế mấy người có biết vì sao mình là dân biển quen sóng, mà lên đảo mình bị say hay không?

    Câu hỏi hóc búa quá. Im lặng, Thành chờ thật lâu để mũi nở lớn hơn chút nữa, mới chậm rãi nói:

    - Một phần tại đổi khí hậu. Một phần tại đến đây, là dứt khoát xa hẳn quê hương. Mình bắt đầu nhớ nhà. Ðừng tưởng bệnh nhớ là bệnh nhẹ. Nhớ đến xót ruột là nhớ lắm, nhẹ như mình hiện nay thì ra ngẩn vào ngơ, hay là ngây ngây như say rượu. Vì quên mất bốn viên thuốc ngừa sốt rét họ phải uống lúc vừa lên khỏi cầu tàu, nên một lần nữa, sự khâm phục đối với kiến thức uyên bác của Thành không lấy gì đo cho hết. Phải, có Thành nhắc, họ mới nhớ bắt đầu từ đây, họ vĩnh viễn xa cha mẹ, vợ con, xóm làng. Nói chung chung thì như vậy, riêng từng người thì nỗi nhớ tiếc có khác nhau. Nhường nhớ ở Trà Vinh, mỗi lần say rượu bị vợ cằn nhằn, anh thường quơ đại một bộ quần áo, hằm hằm đi ra cửa dọa: “Ð.M. tao chán quá rồi. Tao về Vạn Ninh cho mẹ con bay đói nhăn răng ra”. Vợ anh vẫn tỉnh khô, tiếp tục chuyện bếp núc: anh giận sôi lên, quyết về quê thật. Ít ra phải về một lần cho nó biết sợ. Nhưng lần nào cũng vậy, anh trở ra quán cóc chú Bảy Thìn uống chịu thêm hai ly đế nữa để hạ hỏa, rồi khóc mùi mẫn vì chợt nghĩ lại thấy thương vợ thương con. Từ hồi lấy nhau, chị Nhường có được ngày nào sung sướng đâu. Anh chỉ làm khổ chị. Anh mất tích, chị đi tìm. Anh ở tù, chị lo thăm nuôi. Anh trốn, chị lo năn nỉ bà con để giấu. Anh tha phương cầu thực, chị đi theo. Ðã đành chị không đẹp lắm, lại hôi nách, nhưng có ai chịu nhường nhịn cho bằng chị Nhường! Anh hối hận, và lại về nhà. Bây giờ dù nhớ da diết mùi hôi nách của vợ, anh không thể trở về được nữa. Anh cảm thấy choáng váng, ngây say đúng như lời Thành!

    Thành uyên bác đến thế lại nhớ sự ngây ngô của mình, mỗi lần đứng trước cô hàng cà phê Dung có cái răng vàng thật dễ thương ở bến ghe. Dung có đôi mắt biết cười, ít nói, nhưng mỗi lần nói, rất độc. Ác nữa! Cũng như Nhường, Thành là dân chài vùng Khánh Hòa. Có lẽ vì uống nước lợ nên giọng nói của họ hơi cứng, mỗi lần phát âm lưỡi hơi cong lên, nên đâm ra nói chớt: “giúp” thành “dúc”, “trên” thành “tơn”, “chết” thành “chớt”. Ðặc biệt những tiếng nguyên âm đơn như “ở”, “ơn” bao giờ cũng biến thành tiếng “đở”, “đơn” như cách nói người ngọng. Mỗi lần gặp Thành, cô Dung chắp tay cầu: “Xin đơn tơn dúc con mau chớt - Amen” (Xin ơn trên giúp con mau chết, Amen) rồi cười giơ cái răng vàng lấp lánh ra. Giờ đây, Thành nhớ giọng nhại ác nghiệt và cái răng vàng đấy chi lạ! Thằng Hùng tự nhiên nhớ thằng em út lên sáu ở khu kinh tế mới Suối Dầu. Má đẻ em Lực lúc ba vắng nhà. Ba có ở nhà, má đã không vô ý như vậy. Ba đặt tên mấy đứa con trai đầu thật hay, thật “nhà binh”. Ðứa đầu tên Nguyễn Thanh Anh. Ðứa nhì là Nguyễn Thanh Hùng. Em kế của Hùng là Nguyễn Thanh Hào. Rồi Nguyễn Thanh Kiệt sinh năm 1974 lúc ba được thăng lên đại úy. Năm 1975 ba vắng nhà, má đặt thằng út là Nguyễn Thanh Lực, làm liên lụy đến thanh danh em Kiệt. Bà ngoại thường la má: “Mày hết tên đặt hay sao mà đặt kỳ cục vậy. Kiệt lực! Trời hỡi!” Hùng nhớ má nói: “Sống sao thì đặt vậy cho dễ nhớ, chớ mẹ!” Tội nghiệp má với em Lực quá. Hùng thấy say say, nước mắt rơm rớm, mắt đỏ hoe y như người nghiện rượu!

    Thằng Dù cũng nhớ nhà, nhưng vì bé nhất, nó nhớ đơn giản thôi. Dù nhớ thằng Tí Sún mượn của nó hai hòn bi ve, một hòn còn mới nguyên chưa cờn, một hòn đã mẻ ở chỗ có đường vân tim. Không biết Tí nó có đổi hòn bi mới hay không? Làm sao đòi lại đây! Nó tiếc của, tuy ôm chặt hai lon đồ hộp trong lòng, vẫn thấy thiêu thiếu thế nào ấy!

    Nói tóm lại bốn người đều say và tưởng đã tìm đúng được nguyên nhân. Cho nên, khi Võ Văn Thành gợi ý nên tìm chỗ nào cao cao nhìn về quê nhà để tưởng nhớ người ngọc mang răng vàng cho dễ, thì ba người kia đồng ý ngay. Thằng Dù hơi lo khi hỏi:

    - Cất mấy lon đồ hộp ở đâu hở chú? Trần Văn Nhường biết thằng bé hỏi mình. Tuy mới gặp nó lần đầu, nhưng anh thương nó như thương con. Nó cũng lên 7 như con anh, cũng có cùng cái tật lâu lâu hay nheo con mắt phía trái. Không nỡ rầy thằng bé đặt cái ăn lên trên tình cảm thiêng liêng, anh Nhường vuốt tóc nó, bảo:

    - Sợ mất thì lấy tấm bạt ni lông kia đậy lại. Không, mang cả bốn bao luôn thể. Có nặng lắm đâu mà ì ạch! Ðược rồi. Ði nào! Họ ra khỏi láng, nhìn quanh. Phía sườn núi sau lưng trại, cây rừng mọc dày. Vài mảng mây lạc vướng mắc ở ngọn cây chóp núi. Thân cây thẳng sắp hàng đón ánh nắng chiếu từ phía biển cả. Ở chỗ sườn núi thưa lá, thấp thoáng một ngôi nhà mái tứ giác lợp vải bạt ni lông Unicef. Thành nói:

    - Chỗ cao kia có bậc thang đi lên. Hình như một ngôi chùa!

    Nhường vốn chín chắn, đáp hàng hai:

    - Có thể lắm. Hay là cái nhà kho chứa lương thực cho khỏi ẩm.

    Chùa hay không phải chùa, đâu phải là điều quan trọng. Bấy giờ, họ chỉ cần một chỗ đất cao để nhìn về quê. Không bàn cãi vô ích, họ đi tới. Vẫn Thành dẫn đầu. Tiếp theo là “đồ đệ” của Thành, thằng Hùng. Thằng Dù đi sau thằng Hùng. Trần Văn Nhường bước chậm sau cùng. Con đường mòn dẫn họ đi qua một vùng cát cỏ mọc lưa thưa, vươn vãi dấu tích những căn láng đã đổ nát hoặc vắng chủ. Xuống dốc, hình thù ngôi nhà cheo leo trên sườn núi hiện rõ. Ðúng là một ngôi chùa, vì tuy không đọc nổi ba chữ Chúng Phước Tự ở cổng tam quan, họ cũng xác nhận được nhờ cách kiến trúc đặc biệt của Phật đường. Chỗ cửa thiền luôn luôn có thiên nhiên ấp ủ. Ở đây cũng vây. Một dòng suối uốn quanh. Một cây cầu nhỏ. Mấy gốc đại thụ che rợp mái chùa bắt đầu dột. Bậc đá dẫn lên Chân Như. Gió biển thổi lên khiến họ bớt say. Bậc đá đắp vội không có xi măng nên hai thằng bé thở dốc. Chúng bắt đầu thấy muốn nhớ quê nhà cũng phải cần đến đôi chân dẻo. Họ leo cao, cao hơn. Càng cao càng tốt. Hết các bậc cấp, họ đến khoảng đất bằng phẳng của sân chùa. Thằng Dù bị tụt phía dưới, vừa thở hổn hển vừa kêu:

    - Anh Hùng, chờ em với!

    Hùng tò mò nhìn ngôi chùa dột nát dựng từ ba năm trước, không thèm quay lại, chỉ nói với xuống:

    - Gần đến rồi. Rán lên!

    Dù không còn cách nào khác ngoài cách cố tì tay lên đầu gối để rán leo tiếp mấy bậc chót. Lên đến nơi, thằng bé có ngay một quà thưởng. Trong lúc ba người kia mải mê ngước nhìn lên mái chùa, chỉ có một mình thằng Dù chú ý đến mớ tóc vương vãi trên mặt đất. Nó hỏi thằng Hùng:

    - Ở đây có thợ hớt tóc hở anh? Hai người lớn tuổi cúi xuống nhìn mớ tóc đen. Anh Nhường ngập ngừng trước khi hỏi “nhà uyên bác”.

    - Có người cạo đầu đi tu à? Trong chùa đâu thấy ông sư nào!

    Thành nghiêm mặt giải thích:

    - Không phải đâu. Người ta cạo đầu để cúng Phật.

    Anh Nhường hỏi lại:

    - Ðể làm gì?

    - Ðể cúng Phật!

    - Cúng hương hoa xôi chuối chứ ai lại cúng tóc! Thành lúng túng không biết giải thích thế nào cho anh Nhường hiểu. Vì lúng túng, Thành làm cho rắc rối hơn:

    - Thì người ta vẫn nói “thí phát cúng dường tam bảo”. Muốn hỏi kỹ, thì tìm hỏi mấy ông sư. Nhường nhìn Thành hồi lâu, ánh mắt nghi ngờ. Thành sợ bị hỏi thêm, vội trỏ vào trong chùa, đề nghị:

    - Ta vào đốt nhang niệm Phật đi! Anh Nhường thấy điều đó dễ hiểu hơn, vì nhiều lần chị Nhường đã làm như vậy. Nhất là vào những tháng không kiếm ra tiền mà anh lại nhậu nhẹt say sưa, anh nói với Thành giọng không được hăng hái:

    - Vào thì vào. Nhưng chú mày có thuộc kinh không?

    Thành quả quyết:

    - Thuộc chứ. Thắp nhang vái ba vái, rồi đọc “Nam mô A Di Ðà Phật”. Ðọc nhiều lần chừng nào tốt chừng nấy. Anh Nhường biết Thành nói ẩu. Thằng Hùng cũng biết, vì nhớ mỗi lần bà ngoại tụng kinh niệm Phật đều có mang kinh để đọc kinh trong một cuốn sách giấy bổi. Hùng cũng nhớ ngoại thường cung kính đặt cuốn sách ấy dưới cái mõ mỗi lần tụng kinh xong. Nó chen vào chuyện người lớn:

    - Chắc có cuốn kinh dưới cái mõ. Thành mừng rỡ nói:

    - Phải đấy. Mình tìm thử xem!

    Bàn thờ Phật trong chùa cũng có đủ những thứ cần thiết: chuông đồng mang từ Chợ Lớn theo ghe, mõ bằng ống nứa rừng, đèn dầu hỏa làm bằng hộp Coca Cola nhôm cắt hình hoa sen, bình hoa làm bằng hộp Sardines Fisher A1 hiệu Nhật có cắm hoa sim đã héo, lư hương bằng vỏ ốc đầy cát. Hình Ðức Phật ngồi kiết già trên đóa hoa sen vẽ bằng mực tàu trên giấy bìa khổ rộng chiếm nguyên mảng tường gian giữa. Lại còn thêm hình vẽ mực tàu của Ðức Quan Thế Âm và hình Quan Công, Quan Bình, Châu Xương lộng trong khung kính. Nhưng dưới cái mõ nứa, không thấy cuốn kinh. Thằng Hùng tìm một lúc, chợt reo lên:

    - Ðây rồi!

    Không phải. Nó chỉ tìm được xấp giấy vàng bạc giấy hẩm cũng làm tại Chợ Lớn. Thành bắt đầu thất vọng, thì thấy một xấp giấy pelure mỏng bọc trong bao ni lông đựng lương thực. Không dám cả tin, Thành e dè nói:

    - Có lẽ xấp kinh đây rồi!

    Ba người biết đọc quốc ngữ là anh Nhường, Thành và thằng Hùng xúm lại. Quả là kinh Phật thật, do một Phật tử đi trước “ấn tống” bằng cách chép tay lên giấy trắng xin trên văn phòng cao ủy, anh Nhường bảo Thành:

    - Chú mày tụng kinh đi.

    Thành sợ để lộ sự yếu kém tiếng Việt của mình, vội nói:

    - Anh lớn tuổi, thay mặt tụi này phải hơn. Nhường tìm cách nấn ná:

    - Nhưng không có nhang! Hơn nữa chữ viết khó đọc lắm. Nước dột làm mờ hết cả. Thằng Hùng mau miệng nói:

    - Ðể em đọc thử!

    Thành mừng rỡ bảo:

    - Phải đấy. Biết đâu không phải kinh Phật. Hùng nhẹ nhàng rút xấp giấy khỏi bao ni lông. Anh Nhường nói đúng. Chữ viết chân phương nắn nót nhưng khó đọc, nước mưa thấm qua bao ni lông rách làm mờ mất góc phía cuối trang. Nhưng Hùng tự tin ở trình độ lớp ba của mình. Nó lớn tiếng đọc:

    • “Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh”

      “Quán tự tại Bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách xá lợi tử sắc bất dị không không bất dị sắc sắc tức thị không không tức thị sắc thọ tưởng hành thức diệc phục như thị...”


    Anh Nhường không kiên nhẫn được nữa, kêu lên:

    - Thôi, thôi. Mày đọc cà lăm bậy bạ hết. Cứ sắc sắc không không hoài.

    Hùng cãi lại:

    - Em đọc đúng chứ bộ! Tại người ta chép lầm tới hai chữ sắc sắc, không không nên em phải đọc đủ. Nhưng đúng là kinh Phật.

    Thành hỏi liền:

    - Sao mày biết?

    - Vì tụng một lúc, người ta nhắc mình xá. Ðây này ”... không độ nhất thiết khổ ách”. Ðến chữ ách phải dừng lại để xá một cái. Giọng anh Nhường bắt đầu mất kiên nhẫn:

    - Rắc rối không hiểu gì hết. Tụng kinh phải êm tai, ngâm nga được. Tìm chỗ khác xem thử có thơ không?

    Thằng Hùng lật tìm một lúc, cuối cùng reo lên:

    - Ðây rồi. Bài niệm hương. Em biết mà. Ðúng là sách kinh.

    Thành giục:

    - Ðọc lẹ lên!

    Hùng bắt đầu đọc chậm, vì vừa đọc vừa đoán mặt chữ:

    • Nguyện đem lòng thành kính
      Gửi cho đám mây hương
      Lan tỏa khắp mười phương
      Cúng dường ngôi tam bảo
      Thề trọn đời giữ đạo
      Theo tự tánh làm lành
      Cùng pháp giới chúng sanh
      Cầu Phật từ gia hộ
      Tâm Bồ đề kiên cố
      Trí tu học vững bền
      Xa bể khổ nguồn mê
      Chóng quay về bến giác


    Ðôi mắt Thành lim dim, đầu gật gù, Trần Văn Nhường thành thực hơn, chậm rãi nói:

    - Cũng không hiểu gì nhiều. “Thề trọn đời giữ đạo”. Ðạo gì vậy?

    Thành mau mắn đáp:

    - Thì đạo Phật.

    - Ai không biết đạo Phật. Nhưng giữ đạo là làm sao?

    - Xì! Thì làm lành. Kinh có nói rồi.

    Anh Nhường yên tâm, mỉm cười nói:

    - Vậy thì tao không đến nỗi. Trừ những lần say rượu bị vợ cằn nhằn đâm quạu, tao chưa làm hại ai. Ði lính chưa bắn phát súng nào. Làm tài xế chưa hề cán chết ai. Chưa quịt nợ. Không ăn lường. Lái ghe thì mày biết, chưa gây tai nạn lần nào. Thành nói liền:

    - Tôi cũng vậy!

    Nhường chợt nhớ cuộc đời long đong của mình, giọng nói pha lẫn chua chát, bi phẫn:

    - Nhưng Trời Phật có mắt không? Tao làm lành mà sao đời xui xẻo dữ vậy! Mới lớn lên chưa kịp lấy vợ phải đi lính. Muốn ở nghĩa quân phụng dưỡng mẹ già phải tốn tiền. Hồi 75 tưởng được yên ai dè bắt đầu xui xẻo hơn nữa. Lính từ Phú Bổn chạy về Tuy Hòa thì Tuy Hòa mất, nên cướp xe chạy vô Ninh Hòa thì đường 21 vỡ. Tụi nó chạy ngược ra Tu Bông, dí súng vào lưng bắt tao lái ghe chở đi Sài Gòn. Vợ con tưởng tao chết mất xác. Sau “giải phóng” trở về lại bị tù vì tội chở người di tản. Nói mãi mấy ổng không tin, ở mãi thì không chịu nổi. Phải trốn. May mà tao đem được cả vợ con vô Trà Vinh. Bây giờ tao ở đây, vợ con bị bắt ở Long Châu. Trời Phật có mắt không? Thành lại tiếp:

    - Thì tôi cũng vậy!

    - Vậy thế nào được! Mày một thân, khỏe re!

    - Tôi bị bắt đi lính chứ đâu có tình nguyện mà đẩy tôi đi kinh tế mới. Phải “dời non lấp biển”? Tôi dân chài lên non sống sao được. Mấy ổng quen, sao không “dời non” luôn cho tôi sống với biển, tiện biết mấy. Mấy năm tôi nhớ biển quá không đêm nào ngủ được, nằm mơ là nghe tiếng sóng ì ầm. May có lũ anh em thằng Hùng, lâu lâu giỡn cũng vui.

    - Sao má nó cho mày dẫn nó đi?

    - Bã đi kinh tế mới để chồng mau về. Ổng có về đâu! Một mình nuôi lũ nhóc sao nổi. Ðỡ được đứa nào, hay đứa nấy.

    Thằng Hùng tự thấy phải bổ túc thêm:

    - Em cũng mê biển nữa. Nghe anh Thành kể, em muốn làm dân chài. Ai ngờ...

    Từ nãy đến giờ, thằng Dù mải mê ngắm cái ông râu đen mắt trợn cầm đao trên bàn thờ phía tay trái. Oai dễ sợ! Nhưng lúc nghe thằng Hùng chê bai nghề biển, nó nổi xung nói:

    - Bắt cua bắt cá vui thấy mồ! Mày biết gì! Nhường thấy thằng bé giận dữ một cách ngộ nghĩnh, trêu thêm:

    - Có gì đâu mà vui thấy mồ! Vui thấy mồ sao mày còn bỏ qua đây?

    Thằng Dù đỏ mặt, trương gân cổ lên cãi, mắt nháy lia:

    - Chú không bắt, cháu đâu có đi!

    - Không đi sao mày không khóc?

    - Cháu không thèm khóc. Con trai khóc xấu. Nói xong, nó mếu máo. Anh Nhường càng thấy thương nó hơn. Anh Thành và thằng Hùng tấp ghe vào chỗ hẹn lấy dầu, bất ngờ gặp thằng Dù đi soi đèn bắt cua. Sợ lộ, bọn anh phải bắt nó đi theo. Qua đến chỗ rước người, sắp cho ghe vào thì súng trên bờ nổ liên hồi. Bãi bị bể rồi. Bốn người trên ghe chỉ còn có cách chạy thẳng ra khơi. Không la bàn, với bốn lít gạo và nửa can nước ngọt. Máy F8 trục trặc khò khè nhiều lần vì dầu có pha nước, cuối cùng liệt hẳn sau ba ngày trở chứng. Ðói. Khát. Sóng. Gió. Tấp được vào Kuku sau bao ngày bập bềnh trên mặt bể tím, thật là điều kỳ diệu. Thế mà giờ đây họ hỏi: “Trời Phật có mắt không?” Chính Trần Văn Nhường thấy mình giận Trời một cách vô phép vô lý, nên anh ôn tồn bảo Thành:

    - Dù sao tụi mình còn sống được là may. Biết đâu nhờ mình làm lành.

    Thành đáp:

    - Qua đây mình cũng gặp may. Anh có thấy ban đầu họ nghi mình ăn cướp ghe hay không? Ghe người ta trăm này trăm nọ. Ghe mình chỉ bốn người, nghi là phải. Nhưng lấy lý lịch thấy tụi mình không bà con họ hàng gì với nhau, lại không quen ai ở nước ngoài, họ mới tin mình thành thật. Ở hiền gặp lành. Ờ Trời Phật còn có mắt đấy chứ! Thằng Hùng tò mò tìm đọc những tờ giấy dán trên cột và vách chùa từ nãy đến giờ, đột nhiên kêu lớn:

    - Anh Thành, lại đây xem này. Người ta viết giấy cảm ơn Phật tùm lum đây này. Ghe 1877TS ra đi ngày 5-9-81 đến Kuku ngày 10-9-81. Ghe 125 khởi hành ở Trà Vinh, trên ghe có 23 người. Chà, tờ này viết dài dữ.

    Họ quên béng chuyện niệm hương, chạy đi tìm đọc tất cả những lời tạ ơn. Nhường và Thành đọc chậm, phải đánh vần lôi thôi nên để mặc cho thằng Hùng làm “xướng ngôn viên”. Thằng Dù đã quay về chiêm ngưỡng Châu Xương. Hai người lớn chăm chú lắng nghe, lâu lâu chen vài lời bình luận. Trên bản tạ ơn viết trân trọng nắn nót của nhóm người đến trước, một người đến sau viết thêm lời tạ ơn của mình trên bờ lề. Nét chữ cẩu thả không thẳng hàng. Nhường nhăn mặt chê:

    - Ðã lên chùa tạ ơn Phật còn đi viết ké. Giá trị gì! Phật đâu thèm đọc những câu viết bên lề. Một bản tạ ơn khác được làm khá cầu kỳ. Trên cái gương tròn do Hồng Thập Tự Nam Dương phát cho, người thọ ơn Phật cạo nước thủy phía sau thành hình trái tim. Mảnh giấy trắng dán sau trái tim trong suốt có ghi tên ba người-vượt-biên-maymắn thật lớn ở trên. Tận chóp phía dưới, ghi hàng chữ nhỏ: “Tạ ơn Ðức Phật” và ngày tháng đến Kuku. Thành bình phẩm:

    - Tụi nó đè lên mình Phật. Lấy cớ lên chùa chỉ để ghi tên lưu niệm, như tụi con nít choai choai ngày xưa ưa qua Hòn Chồng lấy sơn đề tên tùm lum trên đá. Sao lại có hình trái tim? Còn mũi tên với mấy giọt máu đâu rồi?

    Có bản họ chê dài quá. Có bản họ chê ngắn quá, ngắn như cái điện tín đánh về Việt Nam báo tin mừng cho thân nhân. Rồi cái gì phải đến đã đến. Thành nhìn Trần Văn Nhường, rồi nhìn đồ đệ Hùng, e dè đề nghị:

    - Hay tụi mình cũng viết một tờ cảm ơn Ðức Phật?

    Trừ thằng Dù lúc đó đã chán ông mặt đen và quay sang mê ông mặt đỏ đứng phía bên phải khung kính, ba người còn lại đều hớn hở hẳn lên. Hùng nhanh nhẩu reo:

    - Phải đấy.

    Nhường trầm tĩnh chín chắn hơn, đáp chậm:

    - Nên lắm!

    Nói dễ, nhưng lúc bắt đầu đi vào chi tiết, nhiều vấn đề phải đặt ra! Cuộc bàn thảo bớt đi hăng hái. “Phương án” tốt. “Vật tư” như giấy, bút có sẵn (tuy tờ giấy hơi nhăn và cây bút bị mực ra nhiều quá nét chữ hơi nhòe), cái đáng lấy làm ái ngại là “khả năng” có “đạt yêu cầu” hay không? Viết cho Ðức Phật đọc, trời ơi, biết làm sao đây? Thành lý luận cứng cáp quá, Trần Văn Nhường có chối từ vai “thảo thư” cách mấy cũng không được. Ai lớn tuổi nhất? Nhường sinh năm 1950. Thành kém Nhường hai tuổi! Trên mặt biển ai quan trọng nhất? Tài công Trần Văn Nhường. Lên đảo Kuku ai là đại diện cả ghe? Vẫn Trần Văn Nhường. Vậy có lý nào anh được từ chối vai đại diện toàn ghe để viết lời tạ ơn Ðức Phật. Anh Nhường khổ sở còn hơn cả lúc từ quán rượu trở về nhà sắp nghe lời cằn nhằn của vợ. Anh nằn nì, nấn ná:

    - Biết nói gì với Phật đây?

    Thành đáp ngay:

    - Nghĩ sao nói vậy!

    - Nhưng tao viết kém lắm. Sai lung tung.

    - Cần gì. Nói sao viết vậy!

    Anh Nhường đỏ mặt lên, nhìn Thành, định nói gì lại thôi, thôi lại nói:

    - Tao với mày dân biển, hay nói chớt. Nói sao viết vậy, biết có đúng không!

    Thành đáp liều, cho nó xong đi:

    - Sao không đúng. Chữ viết để ghi tiếng. Với lại cốt ở lòng thành. Viết hay mà viết ké, hoặc viết đè lên Phật, hay ho gì.

    Trần Văn Nhường hết đường lui rồi. Anh đành đem tờ giấy hơi nhăn và cây bút hơi nhòe mực đến chỗ bàn kê góc trái Phật đường. Nhờ thằng Dù đã chán cả Châu Xương mặt đen, Quan Công mặt đỏ và Quan Bình mặt trắng, nên quanh anh Nhường có đầy đủ ba người cùng chia sẻ số phận với anh. Sau khi vuốt vuốt cho thẳng tờ giấy và di di đầu bút cho mực ra đều, anh Nhường méo miệng ngoẻo đầu nắn nót bốn chữ quan trọng nhất: Kỹ niệm đơn Phật.

    Giờ phút khai bút thiêng liêng đã qua. Bấy giờ mọi người mới được quyền tự do góp ý: Thằng Hùng nhớ bà ngoại, nhắc:

    - Trước hết phải tụng Nam mô A Di Ðà Phật...

    Thành rút kinh nghiệm các bản vừa đọc, gợi ý:

    - Ðầu bản tạ ơn phải nói rõ mình có mấy người, đi ở đâu, đến lúc nào...

    Anh Nhường tiếp thu ý kiến, và viết ngay, theo lòng thành của mình. Anh thiếu tự tin, nên đôi khi phải dừng lại để chờ tranh luận dài dòng rồi mới dám viết. Chẳng hạn khi anh viết lời cảm ơn Phật vì đã giúp cả bốn thoát qua cái chết trên biển cả, thằng Hùng chợt nhớ những lúc phải tát nước liên miên, cãi lại:

    - Mình thoát chết nhờ siêng tát nước chứ bộ. Nếu ai cũng lo niệm A Di Ðà, thì đã chết ngoẻo lâu rồi.

    Võ Văn Thành bẻ lại liền:

    - Nhưng gió không thuận thì ghe mình trôi đi đâu? Tát nước là công của mình, gió thuận là ơn Phật. Ðược gió thuận là nhờ mình hưởng cái phước trước kia, còn tát nước là tạo cái phước sau này. Lo chờ gió mà không lo tát nước ư? Làm vậy chẳng khác nào ăn cơm thiu. Mày hiểu không? Thằng Hùng không hiểu gì ráo. Nó ậm ừ, rồi gật gù. Người lớn nói rối mù, nó chịu thua. Nói thế không có nghĩa Trần Văn Nhường là cái máy viết ý người khác. Anh cũng có viết theo ý anh, một cách kín đáo. Thành đòi anh yêu cầu Phật giúp tiếp vào hai giai đoạn sau (từ Kuku qua Galang, rồi từ Galang qua nước định cư thứ ba). Anh cho đòi như vậy là hỗn, là quá tham. Anh viết đúng ý Thành, nhưng cuối câu, vòng thêm hai chấm hỏi. Hoặc khi cả thằng Hùng lẫn thằng Dù nhớ đến cha mẹ và anh em, bạn đánh bi, bạn bắt dế... ở Việt Nam, nên xin Phật phù hộ cho tất cả những người còn ở lại, anh Nhường đâm ích kỷ. Anh sợ đông quá Phật không nhớ hết. Cho nên anh rút bớt lại, chỉ xin Phật giúp đỡ cho 17 người bị bắt trên bãi, trong đó có chị Nhường và thằng Nhịn con trai anh.

    Họ viết xong bản tạ ơn lúc trời đã xế. Mải lo tìm bao ni lông bọc tờ tạ ơn và tìm đinh để đóng vào vách chùa, họ quên mất mục đích ban đầu là tìm một chỗ cao để nhìn về phía quê hương.

    *

    Thưa các bạn đọc,

    Ðể các bạn hiểu được lòng thành của bốn người trong cuộc, tôi xin chép nguyên văn bản tạ ơn của họ (không sai một dấu chấm).

    • KỸ NIỆM ÐƠN PHẬT
      NAM MÔ ÐA DI ÐÁ PHẬT
      NAM MÔ BỖNG SƯ THÍCH CA NAM MÔ
      DI PHẬT:
      NAM MÔ
      Chúng con đỡ tại Chà Vinh đi tại long châu vào ngày 30-9-81 tông bộn con đi 21 người bị bắt 17 người còn 4 người đi qua loạc tại đảo Kuku vào ngày 10-10-81 chún con cám đơn phật dúc đỡ cho chún con qua sợ dan khỗ và sự chớt tơn biễn cã vậy chún con cám đơn phật chún con còn hai day đọn nữa hồn và sái chún con giễi cho phật dúc đỡ chún con:??
      nay con kính lời đơn phật dúc đỡ 17 người còn đỡ lại Việt nam man đâu khỗ trông bàn tay cộng sản con. tăm lạy phật dúc đỡ dum con con cam đơn phật những người đi trông ge chún con: tầm dăn nhườn-20-11-1950 thôn tuần lễ-xã vạn phước va.ninh
      dõ dăn thằn-10-10-1952
      nguyễn thanh hùng 9 tuổi nhatrang.TPK nguyễn.v.dù 7 tuổi
      T G Hùng ký tên,


    Truyện ngắn này in ra, lời tạ ơn của họ sẽ được phổ biến nhiều nơi. Chắc thế nào Ðức Phật cũng đọc và đoán được tâm thành của họ. Bản tạ ơn này hiện dán tại vách hậu chùa Kuku Indonesia. Các bạn đọc đa nghi (kể cả các bạn hiện ở Việt Nam) nếu muốn, cứ đến đảo Kuku mà xem cho rõ. Có đi xin các bạn hãy nhanh chân, vì lúc tôi rời Kuku, ngôi chùa đã tàn tạ lắm rồi. Mái lợp vải nhựa UNICEF đã hư dột. Cột chùa bị mối đục sắp gãy. Làm sao được! “Sắc tức thị không; không tức thị sắc; thọ tưởng hành thức diệc phục như thị”. Tập kinh Ba La Mật mực nhòe vì mưa dột trong chùa đã có ghi như thế rồi!





    Nguyễn Mộng Giác

    Nguồn http://nguyenmonggiac.info/          [/tab]
          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5416
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Ngựa Nản Chân Bon

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           




    Mẹ trong lòng người đi
    Viết bởi Nguyễn Mộng Giác


    Có một lần vô tình tôi đọc được mấy câu thơ thật lạ của thầy Huyền Không. Bài thơ nhan đề Trẻ Thơ như thế này:

    Chùa xưa mái ngói cũ
    Trèo lên nắm cây sào
    Đêm khuya rồi không ngủ
    Kéo rụng bao nhiêu sao?

    Chú bé rắn mắt của tôi ơi! Chú hoang nghịch lắm! Chú không còn biết kiêng nể gì nữa. Chú dám trèo lên cả mái chùa mà theo trí tưởng tượng cu/a tôi, ngói âm dương lợp từ bao đời trải qua mưa nắng, hoặc đã rệu rã trên thân kèo mục, hoặc đã xanh rêu. Không khéo chú sẽ bị trợt chân ngã xuống sân chùa, hoặc những mảnh ngói vụn vỡ rơi xuống sẽ đánh thức vị sư già đang tham thiền nhập định. Đã thết, chú lại mang theo một cây sào dài, khều trộm ổi sân chùa chăng? Hay chọc phá một tổ chim?

    Không. Chú lẻn vào chùa ban đêm. Trăng hạ huyền đêm nay lên chậm. Chú biết. Chim đã ngủ yên trong tổ. Trái ổi chín đã lẩn mất giữa cành lá đen. Bầu trời mênh mông, đêm vô cùng. Chú thao thức không ngủ, bâng khuâng hoang mang không hiểu mình muốn gì. Trên trời, những vì sao nhắp nháy trêu ghẹo chú. Có những vì sao sáng, có những vì sao mờ. Có những ánh sao đổi ngôi. Chú thích quá, những tưởng có thể dùng dùng cây sào vô dụng kia để tự tay "đổi ngôi" những đám tinh tú rắn mắt. Chú trở thành nhà thơ, hoặc một nhà chính trị không-tưởng. Tôi thích chú trở thành một nhà thơ hơn, vì hành động "kéo rụng bao nhiêu sao" vừa dễ thương vừa vô hại. Nhưng chú nhớ cho, đừng bao giờ kéo rụng một ngôi sao đặc biệt. Ngôi sao ấy rụng xuống, chú sẽ cô đơn hối tiếc vĩnh viễn trên đường đời. Áo chú rách vì chui qua hàng rào gai vào chùa, sẽ không ai vá cho chú. Chú cảm thấy lạnh vì đêm khuya, không có bàn tay mềm mại nào đặt lên trán chú, tai chú không còn nghe được tiếng xuýt xoa lo âu nào nữa. Đừng! Hãy coi chừng! Chú khều rụng bao nhiêu sao sáng sao mờ cũng được, nhưng hãy lặng lẽ trân trọng cầu xin cho Ngôi Sao Mẹ còn sáng mãi trên bầu trời. Ngày chú lớn khôn rồi bị trôi nổi bập bềnh nhiêù phen trên sóng dũ của đời, chú sẽ hiểu thấm thía hơn thứ ánh sáng huyền diệu của Ngôi Sao ấy, chú sẽ hiê/u thế nào là nỗi khổ xa mẹ, mất mẹ.

    Vâng! Phải đến một lúc nào đó trên đời, tất cả chúng ta trong đó có chú, sẽ phải xa bàn tay thân yêu, xa đôi mắt lo âu, xa lời ru hiên hòa của mẹ. Không thể tránh được. Đó là luật sinh hóa, không hền có biệt lệ. Chính mẹ ngày xưa cũngphải đành đọan xa Ngoại, gạt nước mắt mà đi.

    Khóc như thiếu nữ vu qui nhật
    Tiếu tự thư sinh lạc đệ kỳ
    (Khóc như thiếu nữ ngày về nhà chồng
    Cười như anh học trò vừa hỏng thi)

    Chú có nghe hai câu cổ thư ấy? Các cụ mỉa mai, chế giễu mẹ: "Ấy, các cô dâu cứ níu lấy tà áo mẹ khóc như mưa như gió trước khi lên xe hoa, chỉ là giả vờ thôi. Vui sướng như thế, hạnh phúc như thế, khóc cái gì!"

    Ờ, các cụ cũng có lý. Nhưng phải xét giọt nước mắt long lanh trên má mẹ thời ấy theo chữ tình: Mẹ có vui duyên mới thật, nhưng Mẹ cũng buồn đến đứt ruột vì phải xa bàn tay chăm sóc của Ngoại. Mẹ bắt đầu một cuộc hành trình khác, giống y như cuộc hành trình của Ngoại trước kia.

    Chú bé khều sao của tôi ơi? Chú có chị gái đến tuổi cập kê không? Có hả? Thế thì cứ lấy trường hợp cô chị của chú, lấy cuộc hành trình cô ấy đang chuẩn bị như cuộc hành trình của Mẹ và Ngoại, làm ví dụ cho chú dễ thấy. Chắc chú đã từng phụng phịu hờn dỗi mỗi lần thấy Mẹ chải tóc cho chị, may áo cho chị, làm đẹp cho chị. Chú thấy tủi thân vì bị bỏ rời, chú ghen tức với chị. Mẹ dành cho chị nhiều ưu tiên quá. Cáo áo đẹp nhất này. Cái lược quí nhất này. Tôi cũng trải qua cảnh huống như chú. Tôi có lời khuyên: hãy kiên nhẫn chờ! Chị của chú sắp phải xa bàn tay mẹ rồi, chú yên tâm. Chú, hãy nghe lời thi sĩ Hồ Dzếnh kể lại kinh nghiệm của mình:

    Ngày xưa còn nhỏ ngày xưa
    Tôi đeo khánh bạc lên chùa dâng nhang
    Lòng vui quần áo xênh xang
    Tay cầm hương nến đỉnh vàng mới mua
    Chị tôi vào lễ trong chùa
    Hai chàng trai tre/ khấn đùa hai bên:
    "Lòng thành lễ vật đầu niên
    Cầu cho tiểu được ngoài giêng đắt chồng"
    Chị tôi phụng phịu má hồng
    Vùng vằng chút nữa quên bồng cả tôi
    Tam quan ngoài mái chị ngồi
    Chị nghe đoán thẻ, chị cười luôn luôn
    Quẻ thần, thánh mách mà khôn
    "Số nàng chồng đắt, mà con cũng nhiều"
    Chị tôi nay đã xế chiều
    Chắc còn nhớ mãi những điều chị mơ.

    Đấy chú thấy không. Chẳng còn mấy lúc nữa Mẹ sẽ là "độc quyền" của chú. Sao nét mặt chú chưa vui? Còn hồ nghi à? Này, bà chị đáng ghét của chú tuy phụng phịu, vùng vằng trước lời chòng ghẹo, nhưng ra khỏi tam quan vẫn không quên ngồi sà xuống bên các thầy đoán quẹ để biết "đường tình duyên gia đạo". Rồi chị lỏn lẻn cười khi thần thánh mách nhỏ cho chị biết rằng chị sẽ vừa chồng đắt mà con cũng nhiều. "Chồng đắt" thì mặc sức chọn (nếu mẹ cho chị được phép chọn). Còn con cái nhiều thì... tội nghiệp chị quá. Chị lại khổ một đời vì con, như Mẹ đã khổ một đời vì chú, như Ngoại đã khổ một đời vì Mẹ...

    Hình như ngay từ thời thơ ấu, bắt chước Ngoại, Mẹ đã chuẩn bị sẵn sàng để sau này biết cách nâng niu, chiều chuộng, chăm sóc nuôi nấng chú. Mẹ (lúc đó mới chỉ là cô bé tóc thắt bím và hay làm nũng) lấy vải vụn của Ngoại tập may áo cho búp bê, cho con búp bê bú sữa, đắp chăn lên ngực cho búp bê khỏi ho, bước chân đi rón rén cho búp bê khỏi giật mình thức giấc. Mẹ đã say mê vai trò chăm sóc con cái ngay từ thuở còn chưa hiểu gì về thân phận đàn bà. Bài học vỡ lòng ấy đối với Mẹ không khô khan tàn nhẫn như những phép tính cộng trừ, không rắc rối bí hiểm như những công thức hóa học. Tất cả sắc đẹp, tình yêu, trí tuệ, đức kiên nhẫn, niềm tin đều dồn cả cho bài học làm mẹ ấy, vậy mà mẹ không rối trí chút nào. Mẹ học thuộc tự nhiên dễ dàng như thuộc một câu hát ru em.

    À, mà cả những câu hát ru em cũng là những bài học làm mẹ. Bài học báo trước nỗi vật vã của việc mang nặng đẻ đau:

    Vì sương cho núi bạc đầu
    Vì đâu sương gió cho rầu rĩ hoa.

    Chú biết không, mỗi lần chú cựa quậy trong bào thai là mỗi lần mẹ cắn môi đến bật máu để nén đau đớn, nước mắt sống chảy thành dòng trên gò má xanh xao của Mẹ. Nhưng cơn đau qua đi mẹ lại mừng: "Thằng Chó Con của me Nó khoẻ đẹp dữ". Mẹ vừa lấy ống tay áo gạt nước mắt vừa khoe với Ngoại như vậy. Chú đã xé lòng mẹ mà chào đời. Chú khóc oa oa trong lúc mẹ nằm đó, như con tàu vừa vượt qua một vùng biển sóng cuồng cuối cùng đến được bến bờ, ván long, sơn tróc, rệu rã ê ẩm từ mũi đến lái. Nhưng đã hết đâu. Lời hát ru lại báo trước nỗi lo lắng không nguơi của mẹ lúc con chập chững vào đời. Những đêm thấp thỏm theo từnh hơi con thở:

    Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
    Năm canh dài thức đủ năm canh

    Rồi những lo âu khi con khôn lớn:

    Ru con nước mắt hai hàng
    Nuôi con càng lớn mẹ càng thêm lo.

    Cái thân cò ốm o của mẹ tuy mong manh thế, nhưng dẻo dai chịu đựng thử thách, bền bĩ hy sinh cho con đến độ phi thường. Mẹ lo đến cả những bất trắc gặp phải trong chuyện cơm áo:

    Cái cò mà đi ăn đêm
    Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
    Ông ơi ông vớt tôi nao
    Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
    Có xáo thì xáo nước trong
    Đừng xáo nước đục đau lòng cò con

    Mẹ chuẩn bị tinh thần chịu đựng cả sự bạc bẽo của con cái:

    Mẹ thương con biễn hồ lai láng
    Con thương mẹ kể tháng kể ngày

    Mẹ lo trước lúc con gái mẹ phải đi lấy chồng:

    Chiều chiều ra đứng ngõ sau
    Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều.

    Xa hơn thế nữa, lo đến lúc phải lìa đời đẻ đàn con côi lại:

    Mẹ già như chuối chín cây
    Gió rung mẹ rụng con rày bơ vơ.

    Cuộc đời mẹ là một chuỗi dài hy sinh, chuỗi daì lo lắng. Người chị của thi sĩ Hồ Dzếnh vào tuổi xế chiều, sau bao năm nuôi nấng lo âu cho đàn con khôn lớn, đứa đi lấy chồng, đứa lấy vợ, đứa thành người hiền giúp đời, kẻ thành nỗi ô nhục cho cha mẹ, chắc đôi lúc cũng bùi ngùi nhớ lại cái thời ẩm em lên chùa xin quẻ. "Chắc còn nhớ mãi những điều chị mơ?" Nhất định là nhớ. Và buồn, vì mơ với thực khác nhau xa quá. Cái gương cái lược làm dáng thời con gái, chắc người mẹ ấy đẵ nhường cho con rồi. Mẹ không cần soi gương nữa, vì cái gương của mẹ là đôi mắt vui buồn của các con. Chú bé khều sao của tôi ơi! Chú biết không, một bà mẹ Việt Nam đã vui buồn theo cuộc đời con cái, dù khổ cực nhưng tha thiết yêu mến nỗi khổ cực ấy như một báu vật thiêng liêng trên đời, một hôm nào đó, cảm xúc hát ru con bằng hai câu cơ tuyệt tác:

    Cuộc đời nước mắt soi gương
    Cũng đau đớn lăm càng thương nhớ nhiều.

    Giọt nước mắt long lanh có thể làm gương soi thấu ý nghĩa cuộc sống ấy, chú bé rắn mắt của tôi ơi,chính là Ngôi Sao Mẹ trên bầu trời đêm. Hãy coi chừng, đừng vô ý khều rụng Ngôi Sao sáng láng cao cả ấy!

    Thú thực với chú cho đến lúc này tôi vẫn còn lo.

    Đêm khuya rồi không ngủ
    Kéo rụng bao nhiêu sao?

    Chú đang là, sẽ là một nhà thơ. Cho nên tôi nói chuyện thơ để dè chừng chú, xin chú nhẹ tay đừng vô ý "đổi ngôi" một vì sao thiêng liêng. Nhưng cái táo bạo của chú (dám chui qua rào, dám trèo lên mái chùa, dám ngồi một mình giữa đêm tối, dám nghĩ đến chuyện kéo rụng những vì sao), tôi ngại lắm. Chú có thể trở thành một kẻ chọc trời quấy nước muốn xóa sạch tất cả tinh tú để gắn lên trời đêm một ngôi sao độc nhất: ngôi sao của chú. Hoặc chú muốn các vì sao ngoan ngoãn xếp hàng ngay ngắn theo ý mình. Hoặc chú muốn chúng xếp thành vòng để nhìn chú sáng láng. Nếu như vậy, nói chuyện thơ với chú chẳng đi đến đâu. Thơ thẩn phù phiếm! Tôi kể chuyện của tôi cho chú nghe, có lẽ dễ tin hơn.

    Cha tôi mất từ năm 1972 nên đến năm 1975, anh em chúng tôi chỉ còn có mẹ. Trước đó mẹ đã tôi đã tưởng có thể xoa tay an hưởng tuổi già vì đã lo lắng xong xuôi cho tương lai các con. Con lớn đã lập gia đình. Con nhỏ đã có nghề nghiệp. Tiền mẹ tôi chắt chiu dành dụm suốt cuộc đời công chức tỉnh lẻ đủ xây hai ngôi nhà cho chúng tôi ở, và một ngôi trường tư thục để hết chiến tranh, đứa nào giải ngũ sẽ về nối nghiệp làm nghề dạy học. Thời thế biến đổi làm tan hết ước vọng đơn sơ của mẹ tôi. Gia sản còn lại chỉ có một mớ sách cũ và đống kiến lỗi thời. Các con của mẹ thất nghiệp. Rồi lần lượt hết đứa nọ đến đứa kia vào tù. Phải, vào tù!

    Vì nếu bọn đàn ông mê lý trí và không tưởng có thể chấp nhận mấy tiếng "học tập cải tạo", thì mẹ tôi, lấy nỗi khổ cực nuôi con và tình mẫu tử bao la ra làm thước đo giá trị mới, mẹ tôi nói thẳng từ đầu là "đi ở tù". Mẹ quay quắt còm cõi vì lo cho hết đứa này đến đứa khác. Một đứa học hành dang dở, học trường sĩ quan hải quân, đi tù ba năm ở Hóc Môn, được về vài tháng mẹ con chưa kịp mừng mừng tủi tủi lại bị bắt ở tù trở lại thêm bốn năm ròng! Một sĩ quan không quân ở tù ra không nơi nào chịu cho nhập hộ khẩu, phải tìm cách vượt biên, bị bắt, đào thoát được, bị tầm nã, phải chạy về quê trốn trong căn nhà mẹ. Mẹ vơ vét tiền nong, năn nỉ người này người nọ, cuối cùng gửi được con trên chiếc thuyền chật trốn qua Hồng Kông. Một đứa đi không thành phải bỏ trường trốn vào sài Gòn. Mẹ lại gạt nước mắt đưa con ra bến xe, biết rằng từ đây chỉ còn được gặp con trong lén lút khuất lấp.

    Riêng tôi lúc nhỏ đau một trận thập tử nhất sinh, báo hại mẹ tôi phải bỏ các em tôi ra tận Huế để chữa trị. Lớn lên tôi cũng khiến tôi cũng khiến cho mẹ tôi lo lắng thấp thỏm hơn ai hết. Những lần tôi vào tù, mẹ tôi đều tất tả vào sài Gòn để lo lắng cho tôi. Lần đầu tôi bị nhốt trong xà lim chật hẹp hôi thối, lại tối tăm suốt ngày vì chỉ có một lỗ nhỏ đưa cơm trên cánh cửa sắt và một lỗ thông hơi nhỏ khác gần sát trần. Tôi phải ngồi dựa vào vách xà lim ẩm ướt thật lâu mới làm quen được bóng tối. Không biết làm gì, tôi tẩn mẩn tìm đọc những câu mà người vào đây trước tôi đã dùng móng tay khắc lên vách khám: những ngày tháng, những tên họ, những hình tục tĩụ Nhưng ở vào chổ cao trọng sáng sủa nhất của xà lim, ở chỗ có chút gió thổi làm loãng mùi hôi hám tanh tưởi người tù thường ngồi, tôi chú ý thấy hai dòng nguyện: Lạy Đức Mẹ Maria và Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát. Hai hình ảnh tuyệt vời của tình Mẹ giữa cảng ngục tù. Chiều hôm đó, bọc quần áo nhà tôi gửi vào tuy bị khám xét cẩn tthận nhưng cũng xót lại một mẩu giấy nhỏ. Tôi vui mừng tưởng như mảnh thư của nhà tôi, nhưng không phải. Đó là mẩu biên lai điện tín. Tôi kê sát vào lổ đưa cơm đọc được nhật ấn bưu điện Thị Nghè, ngày tháng hôm ấy, và gửi về Qui Nhơn.

    Tôi vừa mừng vừa xót xa: Vậy là một lần nữa, me tôi nghe tin đứa con trai của mẹ vào tù. Tôi cầm mẩu biên lai bồi hồi thật lâu. Hôm sau, chỗ vách sáng nhờ lỗ thông hơi dẫn chút nắng xanh xao vào xà lim tối, tôi lấy móng tay bắt chước các bạn đi trước khắc mấy dòng chữ: tên Mẹ tôi, tên nhà tôi, và ngày "nhập trại". Tôi dò tìm mãi vẫn không thấy trên vách tù tên một lãnh tụ nào, một anh hùng nào, một khẩu hiệu nào. Lúc đau đớn, mọi người như đứa trẻ thơ, đều chỉ biết cầu cứu đến Mẹ.

    Tôi dài dòng kể chuyện riêng, để nhắc chú bé khều sao của tôi hai điều, vâng, hai điều, chú nhớ cho. Nếu chú trở thành một tay chọc trời quấy nước, thì nhớ đừng dại dột khều rụng Vì Sao Mẹ. Lúc thất thế, chú sẽ hối hận vô cùng vì không có thể còn Người để kêu hai tiếng "Mẹ Ơi!" Nếu chú chưa thất thế, thì hãy nhớ luôn luôn đến công lao nuôi nấng và nỗi lo âu của tất cả các bàmẹ trên đời. Hãy gắng làm cho các bà mẹ ấy vui vì được thấy con trẻ bụ bẫm, con lớn hạnh phúc, và riêng mẹ thì được an hưởng tuổi già. Làm được hai việc đó, thì chú mặc tình "đổi ngôi" bao nhiêu vì sao cũng được, khều rụng bao nhiêu vì sao cũng được.

    Nhưng... nhưng tận thâm tâm, tôi vẫn thích chú trở thành một nhà thơ hơn. Kéo rụng bao nhiêu sao? Ôi! Nên thơ và vô hại biết mấy, nếu chỉ là lời thơ.





    Nguyễn Mộng Giác

    Nguồn http://nguyenmonggiac.info/          
          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5416
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Ngựa Nản Chân Bon

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           




    Tố Chân
    Viết bởi Nguyễn Mộng Giác


    • Có phải không Tố Chân?
      Lời yêu nhau đầu tiên là nước mắt!
      Lòng tin nhau đầu tiên là sự thật!
      Trong suốt hồn ta

      Như một bài hoan ca
      Của tiếng họa mi gọi mừng buổi sáng
      Và tâm hồn em

      Thực vô cùng sáng láng
      Maria Tố Chân

      Anh yêu em vô cùng!

    Chàng thầm đọc mấy câu thơ cũ khi nhận được lá thư của nàng. Nàng không ghi tên người gởi, không có địa chỉ. Hai con tem trên góc phải một con dán xuôi một con dán ngược. Nét chữ run run, nhưng không thể lầm được, đúng là nét chữ của nàng. Chàng hồi hộp không dám xé thư đọc vội. Chuyện cũ đã trên mười năm rồi, tại sao hôm nay lại có bức thư này? Đã đành thời thân phụ chàng qua đời, nàng có gởi một lá thư ngắn: "Biết tin Bác mất, tôi rất bùi ngùi. Xin chia buồn cùng anh chị và cầu chúc linh hồn Bác được tiêu diêu nơi lạc phúc" Ngoài hai chữ LẠC PHÚC mà thời còn yêu nhau hai người rất ưa dùng, lá thư không còn chút dấu tích lưu luyến hoặc hờn giận nào. Còn gì để lưu luyến hay hờn giận nhau? Cả hai đều đã lập gia đình, cả hai đều đã có con cái, và kỷ niệm cũ như một chỗ bẻ ghi trên đường rầy xe lửa, chỗ bẻ ghi không ở trước mặt mà đã bỏ lại mất hút đằng sau lưng. Gần đây chàng không mở cuộc triển lãm tranh nào, không gởi thơ đăng ở các tạp chí, xa lánh bạn bè thui thủi một mình để rán tìm ra nguyên do sự thay đổi trong tâm hồn chàng. Tự nhiên chàng thấy bao nhiêu bức tranh đã vẽ xưa nay, từ các bức nổi tiếng vẽ nàng từ phía sau lưng với chiếc cổ thiên nga và hai suối tóc mềm phủ đôi vai ấm, cho đến các bức trừu tượng từng gây tranh luận ồn ào, tất cả các tác phẩm cũ đột nhiên trở nên dối trá, trơ trẽn, như một cô gái già hết duyên còn làm bộ thơ ngây. Chàng thử tìm màu sắc mới, bố cục mới. Vẽ rồi xóa, xóa rồi vẽ, bao nhiêu tiền vải và sơn dầu đã hao phí để kết quả là tuyệt lộ. Chàng đổ thừa cho đời sống trì trệ của Huế. Thành quách rêu phong, dòng sông trầm lặng, những ngày mưa thê thiết, những tà áo trắng bay bay trên cầu sắt, những khu vườn um tùm chim lạ kêu giữa đám cây dại làm nhớ giọng Nam Bình... Khung cảnh ấy chỉ thích hợp với người ưa ôm ấp quá khứ như một niềm kiêu hãnh. Còn chàng? Chẳng lẽ cứ thế này mãi sao? Chẳng lẽ cứ tán hươu tán vượn mãi trên cuộc đời những Chagall, Van Gogh, Cézanne, Modigliani, Buffet, Rousseau, dày vò màu sắc, mổ xẻ đường nét, xẻ nát khung tranh ra mà nhặt từng hạt cơm đỏ. Chàng tự khinh rẻ mình đến nỗi suốt hai năm ròng sống ở Huế, bạn bè cũ ở Sàigòn tưởng chàng đã mất tích lâu rồi. Thế mà lại có bức thư này? Vì sao?

    Chàng nhìn quanh căn phòng hẹp làm xưởng vẽ. Những bức tranh cũ bán ế đã cột lại thành kiện, bên ngoài chêm bằng bao bố. Đống ống sơn dầu dùng hết hoặc lở dở chưa kịp cho vào hộp nằm lăn lóc trong xó. Mấy cái khung gỗ cũ đã bắt đầu mọt. Bản phác thảo trên giấy croquis ám khói, chỉ còn lờ mờ một triền đồi có rừng thông thưa, cỏ lau hoa trắng phơ phất và một thiếu nữ mặc áo dài cố nắm lấy vạt trước để gió chiều khỏi đưa tạt lên phía tòa biệt thự hoang phế. Sư vật quanh chàng ẩm mốc, cũ kỹ, ngổn ngang. Tâm hồn chàng cũng vậy. Tại sao nàng gởi lá thư này? Trách móc chăng? Chuyện cũ đã ẩm mốc ám khói như bản phác thảo của chàng. Khơi lại đống tro lạnh để tìm một đóm lửa chăng? Tìm cho ai? Cuộc đời hai người đã an bài, như hai con đường rầy song song không bao giờ gặp nhau nếu định mệnh không cố ý đặt một trạm bẻ ghi. Không dằn được nữa, chàng xé thư ra đọc.

    "Đã hơn mười năm qua mà em vẫn không quên được mối tình cũ kỹ. Sao suốt hai năm nay không thấy anh triển lãm? Hôm được tin thầy mất, em có gởi lá thư, anh có nhận được không? Hiện em bị bệnh nặng lắm, chắc không qua khỏi. Chúc anh ở lại được hạnh phúc. Em có dặn nhà khi khâm liệm nhớ bỏ theo cho em bức tranh anh vẽ em dạo nọ, không biết chồng con em có nhớ cho không. Em không hề giận anh. Vĩnh biệt. "

    Bên dưới lá thư nàng vẫn dùng chữ ký thời xưa hai người dùng chung, có ghép tên tắt của nhau.

    Chàng choáng váng vì bất ngờ. Chàng không thể tưởng tượng được suốt bao năm qua Tố Chân vẫn theo dõi từng bước cuộc đời chàng. Thật vậy, sau khi cha mất. không còn gì giữ chàng ở lại cái thành phố biển ấy nữa. Mấy đứa em gái chàng đã lấy chồng. Mẹ chàng đã về Vĩnh Long sống với người chị cả của chàng để gần gũi lũ cháu ngoại mồ côi cha. Chàng âm thầm xin đổi về Huế: Nơi chàng tưởng đủ khuất gió để sống trọn với màu sắc. Đến các bạn thân ở Sài gòn cũng không biết chàng đã về dạy trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế. Nhưng tại sao Tố Chân biết địa chỉ mới của chàng? Nàng sợ không qua khỏi căn bệnh ngặt nghèo nên viết thư vĩnh biệt? Bây giờ chàng mới hiểu ý nghĩa hàng chữ run run và hai con tem dán vội ngoài bì. Chàng xúc động đến nghẹn thở. Vừa hãnh diện thụ hưởng một tình yêu thuần khiết vừa đau xót da diết vì xấu hổ. "Em không hề giận anh". Lời viết giản dị ngắn ngủi nhưng đủ gợi lại bao nhiêu chuyện phức tạp khó hiểu trên mười năm trước. Đã từng nhiều lần chợt nghĩ chuyện cũ, chàng vội tìm một cớ biện hộ, tha thứ cho mình. "Ồ, chuyện trẻ con!"

    Mà trẻ con thật! Hai người quen nhau tận hồi chàng còn học đệ nhị, còn nàng đệ tứ. Chàng ở trọ nhà chú theo học trường cấp ba ở thành phố để vừa đỡ tiền cha mẹ vừa dạy kèm cô em gái con chú học thêm toán lý hóa. Chàng vốn kém các môn khoa học nên việc dạy học khá vất vả, bù lại, nhờ có hoa tay nên chàng trang trí, viết đề bài giùm cho cô em thật đẹp. Chẳng bao lâu cô em đem cả vở các bạn cùng lớp về nhà mượn chàng vẽ thêm. Còn việc nào hấp dẫn, còn dịp nào "sáng tạo" những tác phẩm nghệ thuật đầu đời đáng mơ ước hơn! Chàng nắn nót kẽ chữ, chăm chút cẩn thận trang trí những trang vở lạ còn hơn cả tự làm cho mình. Dưới nhan đề bài sử Đinh Bộ Lĩnh, chàng vẽ ngay 12 cậu bé tóc còn để chỏm mặc quần ló rốn cầm cờ lau. Bài địa lý về Mưa có tranh ba cô gái mặc ái dài chen chúc nhau núp dưới một cái dù Nhật Bản. Cũng có khi chàng phải vẽ theo đơn đặt hàng: hai con bướm vờn trên một cụm hoa cúc, một đóa hướng dương, chùm hoa Forget-me-not với một chấm than và một chấm hỏi, một cô bé tuổi 13, 14 tóc thắt bím có đôi mắt thật lớn và đôi lông mày thật cong, hai chú thỏ tai vểnh ngồi ngắm chị Hằng với một áng mây vắt ngang hình chữ Z... v.v...

    Một hôm em chàng nhờ chàng trang trí cho một cuốn vở 100 trang hoàn toàn mới. Chàng nhớ rõ cuốn vở hiệu Cyclo máy ba bánh bìa nâu nhạt. Toa đặt hàng khá đặc biệt. Tên: Maria Tố Chân . Muốn vẽ gì ở trang đầu cũng được. Vở Đại số học. Chàng thích quá! Trước hết là thích cái tên Maria Tố Chân. Chàng thấy cái tên Tố Chân tròn trĩnh mũm mĩm do khi phát âm chữ Tố, cái miệng tròn lại. Tưởng tượng xa hơn, chàng thấy đôi mắt tròn xoe thán phục và đôi môi no đầy chu lại kêu lên: "Ôi chao là đẹp". Cô bé đệ tứ chàng chưa hề biết mặt tính lại dễ dãi, biết trọng thiên tài. "Muốn vẽ gì ở trang đầu cũng được." Có thế chứ. Chàng rất ghét bị bó buộc. Nhưng vẽ gì cho cuốn vở đại số đây, khi chàng ghét cay ghét đắng môn đại số. Chàng cũng rất chán những cô bé thắt bím mày ngài mắt phượng. Cuối cùng chàng phác thảo được bức tranh về sau tạo sự nghiệp cho đời chàng: bức tranh một cô gái cổ cao quay lưng với môn đại số. Chàng giải thích như thế cho em gái chàng. Không biết em gái giải thích tô vẽ với Tố Chân thế nào mà hôm sau, chàng nhận được một mảnh giấy học trò bị quăn góc có hàng chữ nghiêng ốm yếu "Tố Chân cũng thích được quay lưng với cái môn rắc rối ấy. Cảm ơn anh. Maria Tố Chân. "

    Mảnh giấy ấy chàng giữ được thật lâu coi như lá thư tình đầu tiên nhận được trong đời. Xin đừng vội nghĩ rằng ngay sau đó chàng nhận được liên tiếp "lá thư" thứ hai, thứ ba... Chàng mới lớn cả thẹn, không dám mở miệng hỏi em gái về Tố Chân. Em gái chàng thì dường như quên bẵng một "biến cố long trời lở đất" như vậy. Vẫn có nhiều đơn đặt hàng đấy, nhưng toàn là hoa bướm, thỏ giỡn trăng, và những cô bé choai choai tóc bím. Chàng thất vọng dần, nhiều hôm định xé lá thư tình thứ nhất đi. Chàng cũng không có nhiều thì giờ dành cho thất vọng. Tuy kém toán, chàng phải học ban B vì trường không có ban nào khác. Năm đó chàng lại phải gắng học thật dữ để thi tú tài bán phần. Những cái hôn âu yếm cho thơ và họa đành bắt chước Xuân Diệu hẹn đến sang năm, (à quên, sang năm còn phải vất vả gấp bội với cái toàn phần), hẹn đến sang năm nữa, lúc chàng đã xin vào được trường mỹ thuật. Cuối tháng 5, đứa con trai út của chú chàng đột ngột mất vì bị sài uốn ván. Chàng cáng đáng hầu hết việc tang ma. Nhiều cô bé đệ tứ A2 đến chia buồn với em gái chàng, một số bạn thân đưa quan tài ra đến tận bãi tha ma. Một nắm đất mới vừa vun lên bên cạnh những ngôi mộ cũ cỏ áy. Gió biển thổi cát bay mù nhưng không lấp được tiếng khóc tỉ tê của thím chàng và đứa em gái. Một cô bạn đến nâng em gái chàng dậy, thì thầm gì đó, rồi cả hai đến gần cái mộ bia cao thắp nguyên cả bao hương lớn. Sau đó hai cô gái chia nhau đi cắm hương lên các ngôi mộ. Chàng xúc động mãnh liệt trước hành động từ ái đơn sơ ấy. Em gái chàng mặc áo tang cô bạn mặc áo dài trắng. Gió đưa tà áo họ bay cao trông như những đôi cánh thiên thần. Chàng quan sát cô bé kỹ hơn, thấy cô không đẹp lắm. Khuôn mặt hơi ốm, đôi mắt buồn, mũi hơi lớn so với đôi môi mỏng và nhỏ như môi đàn bà Nhật. Chiếc cổ cao khiến chàng hy vọng vu vơ nhưng mái tóc uốn ngắn vô ý phô đôi vai gầy và hẹp. Chàng cảm thấy vừa thương xót vừa hối tiếc. Nếu gặp cô bé ở một nơi đông đúc vui vẻ như sân trường giờ ra chơi, trước rạp chiếu bóng, sân thể thao, có lẽ chàng không thể chú ý đến cô. Nhưng ở nơi mồ mả đìu hiu quạnh quẻ này, hình như hình dáng yếu đuối và đôi mắt buồn ấy, đôi tà áo trắng chơi vơi giữa gió lộng ấy, việc đi chia sớt chút từ tâm lên những vong hồn bơ vơ ấy, tự nhiên có cái gì thiêng liêng trinh khiết quá. Chàng nghĩ đến hình ảnh Đức Mẹ. Cho nên khi em gái chàng cho biết người bạn chí tình tên Tố Chân, chàng chợt nhớ đến tên thánh Maria trên "lá thư tình đầu tiên" . Chàng thật sự yêu nàng từ đó!

    ***

    Những bài toán hình học không gian, lượng giác, đại số... tàn nhẫn vùi dập tình yêu mới nhú của chàng. Tố Chân Δ = b² - 4ac Tố Chân sin x chia cos x Maria Tố Chân Δ = 4ac - b² Tố Chân sin x Tố Chân tang x Tố Chân cotang x... Thôi thôi, rắc rối quá rồi. Không chấm dứt từ đây thì đừng hòng lấy được cái bằng bán phần tú tài hạng vớt. Đành tạm biệt Maria Tố Chân vậy.

    Δ trở lại bằng b² - 4ac; sin x chia cho cos x lại bằng tang x. Đậu xong tú tài bán phần ban B hạng thứ (may mắn nhờ kịp mời Tố Chân ra khỏi tâm tưởng chàng khỏi có tên trên bảng đậu vớt) chàng phải vào Sài gòn học tiếp đệ nhất. Và chàng cũng chưa nói được với Maria Tố Chân câu nào. Còn cô bé nghĩ thế nào về chàng? Xin chịu!

    Lên đệ nhất, môn toán thêm nặng tay dày vò chàng! Ngoài những kẻ thù quen thuộc như đại số, lượng giác, hình học, lại có thêm những kẻ thù mới: số học, thiên văn học, phép họa hình... Một tuần đến những 9 giờ tất cả. Chàng sợ giáo sư toán còn hơn sợ cọp, trong khi các cuộc triển lãm tranh, những sách hội họa in tuyệt đẹp bày bán ở các quầy sách cũ ở đường Lê Lợi không bỏ lỡ cơ hội quyến rũ mê hoặc chàng. Chàng khốn khổ như anh chàng hai vợ mà yếu đuối. Maria Tố Chân trở thành một cơn gió thoảng. Nhớ lại kỷ niệm năm trước, chàng cảm thấy lâng lâng, không phân biệt được vui hay buồn, thế thôi.

    Gần Tết, chàng nhận được thư cô em gái con chú. Em chàng dặn nếu về thăm nhà thì nhớ ghé Nha Trang để mua giùm cho em một đôi guốc Đa Kao mang Tết. Lá thư dài viết thật lộn xộn và rất tùy hứng. Cuối thư em chàng hỏi: "Anh còn nhớ Maria Tố Chân không? Quên mất rồi chứ gì. Cái con bé ôm ốm anh vẽ giùm cái hình quay lưng trên cuốn vở đại số đó. Nó thường nhắc đến anh luôn. Mừng chưa? "Nhớ lựa mua đôi guốc nào gót không bị vẹt hoặc nhằm chỗ gỗ mắc, đi dễ mất gót lắm. Quai thì anh tùy ý chọn thế nào cho nhã, cho mỹ thuật và cho... cho đỡ tốn tiền (vì em biết anh chi tiền trước cũng hơi kẹt cho anh. Phải sắm Tết nhiều thứ phải không?) Em tin tưởng ở đôi mắt hội họa của anh nên khỏi cần dặn nhiều. Họa sĩ tài ba của cả lớp em mà! À, Tố Chân hỏi anh đã xin học Mỹ Thuật chưa? Đã xem hết tranh ở Sài gòn chưa? đã hết quay lưng với môn toán chưa? Nó hỏi đủ thứ về anh. Em đoán có một câu nó muốn lắm mà chưa dám hỏi. Đố anh biết câu gì? Hình như nó cứ thắc mắc tại sao anh "quay lưng" với Nha Trang, lâu nay không thư từ gì hết. Đừng quên đôi guốc Đa Kao của em à nheng!...

    Trong xấp thư lưu niệm, chàng xem lá thư "đầu Ngô mình Sở" ấy như lá thư tình thứ nhì của Tố Chân. Bây giờ thì chàng biết cô bé thiên thần ấy đã từng hỏi đến chàng. Chẳng những có hỏi, mà còn hỏi nhiều nữa. Hỏi đủ thứ chuyện. Nhiều câu hỏi "hữu ý" lắm. Quên Nha Trang? Quay lưng với Nha Trang? Quay lưng, quên thế nào được. Chàng ngây ngất không học được chữ nào suốt tuần lễ, lúc thì ngồi bần thần; lúc thì đạp xe đi quanh thành phố với lòng nô nức. Chính vào thời gian này, chàng đã viết được bài thơ tình thứ nhất:

    • Có phải không Tố Chân?
      Lời yêu nhau đầu tiên là nước mắt.
      Lòng tin nhau đầu tiên là sự thật.
      Trong suốt hồn ta
      Như một bài hoan ca
      Của tiếng họa mi gọi mừng buổi sáng.
      Và tâm hồn em
      Thật vô cùng sáng láng
      Maria Tố Chân

      Anh yêu em vô cùng!

    Chàng viết một mạch từ đầu đến cuối, chỉ sửa chữ CHÀO ở câu thứ sáu thành chữ MỪNG Vì như thế đúng với tâm trạng nô nức của chàng hơn. Nhưng khi chấm dấu than vào sau chữ CÙNG ở câu thứ mười, chàng chợt nghĩ: Có thật Tố Chân đã hỏi về mình không? Hay con em gái muốn chàng khỏi quên mua guốc, đã đặt điều cho mình vui lòng? Có thể lắm! Nó tinh ranh hết sức. Mỗi lần thấy mình ngập ngừng muốn hỏi đến Tố Chân, nó giả vờ như không hay biết gì. Nó biết rõ mình yêu Tố Chân, nên đem cô bé ra làm mồi nhử. Lại còn cố ý viết lơ mơ như vô tình! Khéo và ranh thật! Nếu thế đã chắc gì chuyện Tố Chân hỏi han mình đã có thật! Bài thơ viết chưa ráo mực đã trở thành chứng tích của ngu ngơ, khờ dại, nông nổi... Chàng thấy trước con em gái trề môi ngún nguẩy cười chàng: "Nghèo mà ham". Chàng toan xé bài thơ, nếu không vội nghĩ: "Nó nói thật thì sao? Việc gì phải đặt điều nói dối? Giá một đôi guốc Đa Kao có đáng là bao nhiêu mà phải bố trí kỹ càng như vậy? Thôi thôi, mình lẩm cẩm quá rồi. May thật. Suýt chút nữa xé mất một bài thơ tình! Không, một lá thư tình.

    ***

    Tết năm đó, chàng ghé Nha Trang để mang cho cô em gái đôi guốc Đa Kao kèm theo một lá thư thơ. Cô em gái tròn xoe mắt vui mừng ôm guốc đi khoe với bạn bè khi chàng còn ấp úng chưa lấy đủ can đảm và bàn tay phải âm thầm cuống quít mân mê lá thư thơ gấp tư. Nó đi biệt suốt cả buổi sáng, rồi buổi trưa. Chàng nóng ruột chờ đợi. Không hiểu tại sao chàng cứ nghĩ Tố Chân ở đường Yersin nên mượn xe ông chú đạp không biết bao nhiêu vòng trên con đường biệt thự sang trọng ấy. Nhà nào cũng có khuôn viên cây xanh, nhà để xe du lịch, thảm cỏ, lối đi trải sỏi, vườn hoa. Càng ngắm đời sống thượng lưu ở thành phố biển du lịch này chàng càng chùn bước. Chàng lại toan xé thư. Lúc trở về chàng được cô em gái đón tận ngoài cổng để tíu tít khoe:

    - Tụi bạn em đứa nào cũng chu mỏ lại kêu lên: "Ồ, tuyệt quá. Mua ở đâu chỉ cho tao với." Em nói dối mua ở đường Độc Lập. Tụi nó vội vòi tiền mẹ đạp xe đi ngay. Em chờ nghe chúng chửi sa sả mà lòng vẫn cứ vui. Chờ nghe chửi nên mới về chậm như vậy. Mỗi đứa khen theo một cách. Con Lý khen mầu guốc nhã. Con Thương khen dáng đôi guốc sang. Con Liện chê gót hơi nhọn không hợp tuổi học trò nhưng tấm tắt khen mãi cái quai bền. Con Diệu mê nhất hàng đinh chắc chắn không sợ đứt. Con Thanh Vĩnh thích cái hoa hướng dương vì theo lập luận khôi hài của nó, cánh hoa xòe ra che được móng chân cái đóng đầy ghét... .

    Chàng thất vọng não nề. Sao không có người đẹp ở đường Yersin? Đứa em gái "thiếu tế nhị" lại chỉ huyên thiên toàn chuyện đâu đâu. Nó lo đi chợ sửa soạn cơm chiều. Thôi thế là xong. Biết thế này thà... Chàng tiu nghỉu, lấy sách đại số ra làm bài tập để trả thù. Đang nóng đầu vì cái phương trình hóc búa, con em gái se sẽ bước đến sau lưng chàng, cười ranh mãnh hỏi nhỏ:

    - Anh chờ lâu lắm phải không?

    Chàng hơi mừng nhưng vẫn cố ý gắt gỏng:

    - Cái gì đâu mà chờ!

    Em gái chàng cười phá lên:

    - Thôi đừng làm bộ. Em biết anh nóng ruột, nhưng phải chờ đi chợ mới ăn gian được tiền me.

    Nó nói gì thế này? Chàng không dám hiểu theo cái nghĩa thông thường. Nửa lúng túng xấu hổ, nửa giận, chàng lớn tiếng:

    - Em xem thường anh vừa thôi chứ. Giá đôi guốc chỉ vài chục bạc...

    Em gái chàng thôi cười, nét mặt kẻ cả:

    - Nhưng anh cần tiền để mua ngay thứ gì đó. Anh tệ thật. Ngố nữa! Chẳng lẽ em phải viết huỵch toẹt là phải mua cả hai đôi giống nhau. Có viết như thế Tố Chân nó cũng không chịu, tụi em vẫn thường đưa thư riêng cho nhau đọc. Hôm trước em viết nhiều và rõ hơn kia, nhưng nó bắt buộc em viết lại.

    Từ vực sâu thăm thẳm của tuyệt vọng tăm tối, trong một thoáng, chàng được thánh Phêrô đón vào thiên đường! Chàng choáng váng tim đập liên hồi. Hai thái dương căng thẳng không nói được lời nào.

    Em gái tưởng chàng hồ nghi, nói thêm:

    - Em không dám lại đường Trần Quí Cáp khoe đôi guốc. Anh lấy tiền em đi mua cho em đôi guốc khác, rẻ tiền thôi. Guốc mộc quai nhựa cũng được. Em chỉ ăn gian được có 40 đồng. Còn đôi guốc Đa Kao, để tặng cho Tố Chân.

    Từ đó chàng trở thành kẻ ngoan ngoản nhu mì dưới lời sai khiến của em gái. Nó dẫn chàng xuống đường Độc Lập để chọn guốc. Đến ngả năm công viên trước ga xe lửa, nó ngập ngừng. Chàng hỏi:

    - Cái gì thế?

    Nó lo âu đáp:

    - Em định đi tắt đường Trần Quí Cáp cho nhanh hơn, nhưng sợ Maria nó thấy.

    Chàng lấy bạo nói:

    - Cứ đi đường tắt cho nhanh.

    Em gái liếc mắt nhìn chàng, cười. Chàng hồi hộp chờ. Chàng biết trước đứa em ranh mãnh sẽ không chỉ nhà Tố Chân cho chàng, nhưng nếu theo dõi kỹ vẻ mặt và hướng nhìn của nó, chàng có thể đoán được lắm. Hai anh em qua hết đường Trần Quí Cáp, rẽ về phía đường Độc Lập. Nét mặt em gái chàng nghiêm nghị một cách khó hiểu, mắt nhìn thẳng tới trước như lo bị đám xe cộ những ngày áp Tết va phải. Chàng nuốt hận. Phải chờ vòng về thôi! Họ chọn đôi guốc thật nhanh vì chàng còn đủ tiền bù vào để mua cho em gái đôi guốc khá đẹp và chắc. Cũng có gắn hoa hướng dương đấy, nhưng không được quai da như guốc Đa Kao. Quai nhựa mầu nâu nhạt. Hoa vàng mầu hoàng yến. Em gái chàng có vẻ tiếc rẻ, nhưng vẫn cố gượng vui an ủi:

    - Đôi guốc nó phải đẹp hơn, lại chính hiệu Đa Kao Sài gòn, nó mới thấy thích.

    ***

    Buổi tối hôm ấy, chàng do dự mãi mới dám rủ em gái đi dạo phố Tết, xem thử Tết Nha Trang có vui như ở Sài gòn không?Em gái chàng cười nhỏ rồi đáp:

    - Dĩ nhiên không đông đúc tấp nập bằng Sài gòn, nhưng năm nay chắc chắn phải vui hơn.

    Chàng cười chữa thẹn. Em gái chàng rủ qua Trần Quí Cáp. Chàng vội từ chối:

    - Đi với anh qua ngả rạp Tân Tân cho anh mua mấy tờ báo.

    Chàng làm như vô tình hỏi bất chợt khi câu này, khi câu khác. Em chàng cũng làm như hờ hững trả lời nhát gừng. Ghép lại bấy nhiêu câu đáp rời rạc, chàng biết đại khái lý lịch của Maria: con gái đầu của một gia đình công chức hỏa xa theo đạo Thiên Chúa, cha người Quảng Nam mẹ người Huế. Có ba đứa em gái và một em trai út. Ít thích ra khỏi nhà tuy ở thật sát phố chính. Căn nhà thuê lâu năm được giá hời, vì cách bố trí thất cách trái ngoe: cửa trước ăn thông với nhà chủ nên bị xây kín lại ra vào phải đi qua cửa nhà bếp ăn thông ra đường Trần Quí Cáp. Kín đáo hỏi kỹ hơn một chút chàng chỉ biết nhiều lần ba Tố Chân sai mấy chị em mua sơn sơn lại tấm cửa gỗ tạp sắp bị mối đục, nhưng người này nạnh hẹ người kia, cuối cùng cánh cửa vẫn xập xệ như cũ. Một cánh cửa ván tróc sơn bắt đầu bị mối? Trời hỡi! Làm sao tìm ra đây? Hỏi địa chỉ cho chính xác thì chàng chưa đủ can đảm. Phải gắng lấy tất cả ý chí "kẻ làm trai", lẩm nhẩm đọc lại tất cả những bài thơ học thuộc lòng của Nguyễn Công Trứ năm đệ nhị, chàng, mới đủ bạo ấp úng đưa bài thơ cho em gái và dặn nhỏ qua hơi thở gấp:

    - Đưa luôn bài thơ này để Maria đọc cho vui. Dặn cô ấy đọc xong xé đi.

    Em gái chàng đòi xem. Chàng dứt khoát từ chối. Nó đành kẹp bì thư dán kín bằng keo và đôi guốc mang đi, nét mặt phụng phịu (Về sau Tố Chân trách chàng: Anh thật vô ý. Ai đời lá thư viết rõ như thế mà không chịu dán kín lại. Báo hại con Dung cứ chọc em hoài.)

    Sau Tết năm đó họ bắt đầu viết thư cho nhau, tuy ở Nha Trang hai người chưa dám gặp nhau hoặc nói với nhau được một câu ngớ ngẩn nào. Thư của Tố Chân và của chàng đều ngắn, vô thưởng vô phạt, và dĩ nhiên thuộc loại "phụ bản đính kèm" theo "lá thư chính thức " gửi cho Tường Dung. Bạn cùng chung nhà trọ với chàng khâm phục chàng ra mặt, cật vấn cái cô Tường Dung Nha Trang ấy bao nhiêu tuổi, đẹp xấu thế nào. Chàng thành thực bảo đó là em gái con ông chú của chàng, họ vẫn không chịu tin. Họ hỏi:

    - Em gái sao siêng viết thư cho mày thế? Thư nào cũng dày cộm.

    - Thư em gái mà hôm nào đi học về, mày cũng hỏi "Tao có thư không?" Mày nóng ruột còn hơn chờ mandat cuối tháng nữa!

    - Em gái? Em gái hậu phương chắc! Sao tự nhiên cô em quí hóa viết liên tiếp hàng tuần cho mày. Trước kia ngoài thư bảo đảm có thấy mày nhận thư của ai đâu?

    Chàng đỏ mặt thề thốt, lòng hãnh diện ngầm. Chàng đâm thương hại những đứa con trai chưa nếm hương vị tình yêu. Cuộc đời chúng nó vô vị, nhạt nhẽo, trống rỗng, nhàm chán quá lắm! Khô khan quá lắm! Chàng thường mỉm cười bâng khuâng một mình. Lũ bạn bắt gặp lại tra vấn. Chàng lựa bức thư vô hại nhất của Tường Dung đưa cho chúng đọc. Từ đó, chúng mới để yên cho chàng sống trọn với tình yêu đầu.

    Tường Dung mau chán với vai trò chim xanh nên chẳng bao lâu chàng nhận được những lá thư cũng của Tường Dung nhưng nét chữ khác: nét chữ nghiêng ốm yếu. Phụ bản dần dần chiếm hết chỗ của bản chính, và độ dày của thư cũng y như cũ dù giấy mỏng hơn. Khỏi cần thuật lại những điều họ viết, vì cổ kim chỉ bấy nhiêu chuyện trời trăng. Cũng khỏi cần ngạc nhiên hỏi vì sao chỉ có bấy nhiêu chuyện tầm phào mà họ viết mãi chưa hết, không bao giờ hết. Chàng bất cần sự đe dọa của thi cử, nghinh mặt sừng sộ với hình học, số học, đại số, lượng giác, thiên văn học. Thư Nha Trang giành chỗ của sách giáo khoa luận lý học, đạo đức học, vật lý, sinh ngữ. Chàng thi hỏng khóa đầu. Ai cũng kinh ngạc, trừ chàng. Phải thế chứ. Phải có niềm đau khổ nào đó làm tế lễ dâng cho Thiên Thần Vĩnh Cửu Lạc Phúc của chàng.

    Chuyến về quê để phân bua với cha mẹ, chàng lại ghé Nha Trang. Nàng giả vờ đến mượn Tường Dung cuốn đại số học. Lần đầu tiên chàng được nói chuyện với Maria, cuộc nói chuyện tay ba, vì dù Tường Dung cảm thấy thừa thãi muốn rút lui, cả Tố Chân lẫn chàng đều hoảng hốt năn nỉ Dung ở lại. Cuộc gặp gỡ không được một phần nghìn những gì chàng mơ tưởng, và chưa được một phần trăm những lời đã viết cho nhau qua thư từ. Đại khái khi Tưởng Dung cầm quạt phe phẩy than:

    - Hôm nay trời nóng dữ

    Chàng nói:

    - Ừ, trời nóng thật.

    Còn Maria thì e dè nói:

    - Có lẽ sắp mưa mất! Mấy bài tập đại số Dung làm chưa?

    - Chưa. Sẵn có anh Thiệu đây, làm hộ tụi này quách.

    - Anh chịu! Xưa nay "tôi" chúa ghét môn đại số.

    Tường Dung cười giòn chữa lại:

    - Phải nói "quay lưng với môn đại số " cho đúng bài bản.

    Tố Chân đỏ mặt, liếc nhìn chàng. Chàng lúng túng hỏi em gái:

    - Nhưng khó lắm không?

    - Không khó thì cần gì hỏi anh. Mày làm được mấy bài rồi Tố Chân?

    - Nghĩ mãi không ra, đến khổ!

    - Mày bận nghĩ đâu đâu, toán đệ thất làm cũng không được chứ đừng nói đệ tam.

    - Bậy! Dung nhờ làm giúp rồi cho chép với!

    - Mày "ra lệnh trực tiếp" hiệu quả hơn.

    - Bậy!

    - Thôi được. Để đó anh làm giúp cho. "Tôi" vừa thi hỏng, làm sai Dung không được trách đó nhé!

    - Người ta mắng cho đấy, trách còn nhẹ, phải không Tố Chân?

    - Bậy!

    - Bậy bạ hoài. Thôi để em đi cho "hai ông bà" tiện nói chuyện.

    - Không. Mình cũng phải xin phép về. Mạ dặn phải đi chợ mua gừng.

    Tường Dung nhất định bỏ đi. Maria líu ríu đứng dậy, ấp úng nói gì đó để xin chàng về. Chính chàng cũng không dám lưu khách ở lại. Chàng đưa hai cô bé ra đến cửa, ngập ngùng không dám đi tiếp đến tận cổng. Tưởng Dung chợt nhớ, cười chế giễu hỏi:

    - Ủa, sao mày không lấy cuốn đại số?

    - Ờ, mượn cũng được.

    Chàng cương quyết ra cổng. Phải nói trực tiếp với Maria câu gì đó, nếu không thì khôi hài quá. Thư qua thư lại cả xấp mà gặp nhau không nói với nhau được câu nào. Chàng đến nơi kịp lúc Maria sắp quay gót. Nàng ngượng ngùng lí nhí:

    - Em về!

    Chàng chỉ nói với được một câu:

    - Chúc Tố Chân nghỉ hè vui!

    Khách về rồi, Tưởng Dung ôm bụng cười. Nó kêu lên:

    - Trời ơi là trời.Thật chẳng khác nào ăn vụng bột bị bắt quả tang. Nói không được, còn mím môi ngậm thì sặc! Sao hai ông bà viết cho nhau như khướu hót mà gặp nhau lại thế?

    Chàng đỏ mặt chịu trận. Về lại Sài gòn để lo học thi khóa hai, chàng viết ngay cho Maria một lá thư dài vô địch. Chàng xin lỗi sự bất lịch sự hôm trước, kể vanh vách những gì mình định nói mà không thể nói được. Thư gởi đi chưa được một ngày, chàng đã nhận được một bức thư dài chẳng kém. Tố Chân cũng kể hết những điều mình định nói, thú nhận hôm ấy mình thật "bậy". Nàng lại hỏi những câu chưa kịp hỏi: "Bài thơ thứ hai anh hứa gởi về Nha Trang, em chờ lâu thật lâu sao chẳng thấy? Bài thứ nhất dĩ nhiên em rất thích, tuy đọc tên mình trên một "tác phẩm", thấy dị dị thế nào ấy! Con Dung nó đem rêu rao bài thơ cho cả lớp, rồi cả lớp rêu rao cả trường, làm tụi con trai đệ nhị chọc em hoài. Anh biết không, bài thơ đó nổi tiếng khắp Nha Trang đấy. Nhiều đứa tò mò muốn biết Maria Tố Chân là ai. Em không dám ra đường nữa. Sợ thiên hạ thất vọng não nề. Hỏi thật anh nhé, anh đã thất vọng chưa? Em xấu xí lắm phải không? Em không có ảo tưởng đâu! Em đã dặn lòng từ nhỏ là nên chịu đựng. "Em là gái trời bắt xấu. " , anh đã đọc tập thơ ấy của Lệ Khánh chưa? À, hôm về thầy mẹ có trách móc nhiều không? Rán học anh nhớ!...

    Chàng tuân theo lệnh truyền! Chàng đã rán học, và đậu bình thứ vào khóa hai. Bất chấp lời khuyên của thầy mẹ, của bạn bè chàng xin học Cao Đẳng Mỹ Thuật. Chỉ có Maria tán đồng lựa chọn của chàng.

    Chàng nhận được của thầy mẹ một lá thư trách móc thấm thía: "Con tưởng thầy mẹ đủ sức nuôi con cả đời để con tự do vẽ vời bông lông hay sao? Chị hai con đã lấy chồng, từ nay lo con chưa xuể huống hồ giúp đỡ mẹ con buôn bán độ nhật qua ngày như trước. Thầy sắp về hưu. Gia cảnh nhà ta, con rõ hơn ai hết. Nếu không có chú trong đó, liệu con học được đến chừng này hay không? Một mai nếu thấy mẹ có mệnh hệ nào, lũ em con ai lo đây? Nhiều đêm mẹ con lo nghĩ quá, trăn trở không chợp mắt... "

    Chàng bối rối chưa biết giải quyết ra sao thì kỳ diệu thay, cô bé mới tròn l7 đã đủ chín chắn gỡ rối cho chàng. "Sao anh không chuyển sang trường Sư Phạm Mỹ thuật? Em có một ông cậu cũng học trường đó, hiện đã ra trường về dạy môn vẽ ở trường trung học Phan chu Trinh Đà Nẵng. Làm giáo sư hội họa vừa có nghề nghiệp vừa tiếp tục sáng tác được. Ông cậu em vẽ không có gì lạ, nhưng được cái nghề nhàn. Còn anh của em thì... "

    Một lần nữa chàng tuân lệnh. Chàng sướng mê lên! "Anh của em thì..." Ba dấu chấm ấy đã đủ báo hiệu sự nghiệp hội họa vẻ vang của chàng sau này. Các họa sĩ danh tiếng lẫy lừng khắp thế giới có ai may mắn tìm được người yêu có đôi mắt xanh như chàng đâu? Paul Gauguin vớ phải một bà nội trợ quần áo hôi mùi xúp tỏi và phó mát. Modigliani, một cô gái thất tha thất thểu dở điên dở khùng. Van Gogh thui thủi suốt đời, cắt tai không có lấy một người đàn bà rỏ được giọt nước mắt sợ hãi hay xót xa. Chagall? Có may mắn hơn đấy, nhưng làm sao bằng được chàng. Chàng thấy mình cao lớn như nhà thờ Đức Bà. Hai người đặt ra nhiều sáng kiến cỡ long trời lở đất. Nàng than cái tên Maria Tố Chân tuy thân yêu nhưng nhiều người biết quá rồi. Bài thơ của chàng được truyền tụng nhiều, nên cái tên đáng lẽ chỉ dành riêng cho chàng, đã trở thành tên Cúc Hoa trong miệng các anh mù hát xẩm. Chàng liền đặt riêng cho nàng một cái tên mới: Lạc Phúc. Nàng không dám để cho chàng gởi thư về đường Trần Quí Cáp, lâu nay vẫn nhờ Tưởng Dung chuyển hộ. Cô em gái chàng dần dần ghen tị với hạnh phúc "bất xứng" của người bạn thân, bắt đầu làm khó dễ.

    ***

    Chàng đề nghị một thứ mật mã chỉ có riêng hai người trên quả đất này nắm được chìa khóa. Nếu Tưởng dung không đem lá thư kỳ dị ấy ra hỏi ông chú chàng, rồi ông chú nhát gan sợ liên lụy viết thư mắng cho chàng một trận, chắc họ còn dạy thứ chữ bí hiểm ấy cho đến đời con, cháu, chắt. Chàng còn ngu ngơ đến bưu điện trung ương để xin thuê bao một hộp thơ lưu trữ riêng. Nếu phí tổn hàng tháng không cao gấp ba tiền học bỗng sinh viên của chàng, có thể chàng khỏi phải bị bạn bè cùng trọ tọc mạch xoi mói. Chàng hứa sẽ về Nha Trang vẽ chân dung nàng, từ phía sau lưng. Người mẫu mặc áo cánh mỏng để lộ đôi vai thon và cái cổ Thiên Nga, tuy quay lưng về phía người xem nhưng từ cái bóng lờ mờ của thành quách cũ ở phông tranh, ai cũng đoán được nàng đang nhớ về quê ngoại. Dự định này chàng thực hiện được, và bức tranh ấy được huy chương bạc từ khi chàng mới là sinh viên năm thứ hai. Chàng được bạn bè và các thầy kính nể. Giới phê bình hội họa xem chàng như mầm mống của một trường phái ấn tượng mới, đậm đà mầu sắc trầm mặc kín đáo của phương Đông. Chàng được nhiều người biết tên. Nhiều người đã biết cả mối tình của chàng... Mọi sự riêng tư kín đáo e ấp sượng sùng nên giấu diếm lo ngại, bây giờ được công khai hoá. Thầy mẹ chàng viết thư vào Nha Trang hỏi ông chú lai lịch của gia đình Tố Chân. Chàng đã đủ dạn dĩ rủ lũ em Tố Chân đi xi nê, đi ăn kem trước rạp xi nê Tân Tiến. Mạ Tố Chân vồn vã "mời cậu mỗi lần về hè nhớ ghé Nha Trang chơi". Chàng không quen được thái độ chăm sóc thái quá của những bà mẹ Huế đối với tương lai lứa đôi của con gái. Một lần chàng ghé Nha Trang, và hôm sau phải ra ga sớm để đáp chuyến tàu 3 giờ sáng về Đà Nẵng. Ga Nha Trang hôm ấy vắng. Chàng thấp thỏm chờ đợi mãi mới thấy Tố Chân đến. Nàng mặc áo dài tím lụa mỏng nên thân thể trông càng ốm yếu hơn. Chàng cảm động và thương hại cho con chim bé bỏng tự nguyện nấp dưới "đôi cánh rộng" của đời chàng. Hai người ngồi bên nhau trong phòng đợi, chờ giờ ra sân ga. Gió đêm thổi qua cửa lớn nhà ga, hất tung vạt áo dài lên người chàng. Chàng ngây ngất vì hương vị quyến thuộc thoang thoảng mùi băng phiến. Nàng vội níu tà áo phủ lên đôi chân. Mãi đến hồi đó, nghĩa là hai năm từ hồi mới quen nhau, họ vẫn chưa dám cầm tay nhau. Chàng muốn nhân cơ hội trả vạt áo lấy bàn tay nhỏ nhắn của Tố Chân, ấp nóng trong lòng tay mình cho nàng bớt lạnh. Hình như Tố Chân đoán được ý định của chàng nên sau khi thu vạt áo về, nàng giấu hai bàn tay dưới lớp lụa tím. Chàng hỏi:

    - Em có lạnh không?

    Tố Chân đáp nhỏ:

    - Chỉ hơi lạnh thôi. Độ này em không được khỏe.

    Chàng nhìn nàng thương hại:

    - Em bày vẽ đưa đón làm gì! Anh quen lo liệu một mình từ lâu, từ thời còn bé.

    Nàng thành thật nói:

    - Đêm qua em mệt quá tí nữa ngủ quên. May có mạ để đồng hồ báo thức.

    Chàng cảm thấy khó chịu. Tại sao mạ lại xen vào chuyện này? Đột nhiên chàng nhận thấy (có thể chàng tưởng tượng thái quá) trong cách vồn vã săn đón của mẹ Tố Chân "có cái gì" thiếu vô tư; bạo miệng một chút, cái gì đó là sự nôn nả lo lắng tìm kiếm cho cô trưởng nữ một ông chồng coi được. Từ đó chàng càng khó chịu hơn: hình dáng chàng, học lực của chàng, nghề nghiệp của chàng, tương lai của chàng, kể cả những điều thiêng liêng như lòng đam mê nghệ thuật,tình yêu Tố Chân khát vọng đạt được cái tuyệt đối, ước muốn được sống lương thiện và chân thật, đều bị người mẹ Tố Chân xoi mói lôi ra cân đo đong đếm. Đêm tiễn biệt ấy tự nhiên mất vui, và tình yêu của chàng có thêm một dấu chấm hỏi. Có phải đó là dấu rạn đầu tiên không? Đến bây giờ chàng vẫn chưa xác quyết. Về Đà Nẵng, chàng sống qua một tháng hè trống trải. Nỗi nao nức chờ thư sút giảm. chàng cố nhớ lại vẻ mặt, câu nói của Tố Chân đêm ấy. Nàng có vẻ mệt mỏi chán nản thật. Không chán, sao phải chờ mạ nhắc mới dậy để lên ga tiễn đưa chàng. Còn nếu yêu chàng như thuở đầu, nàng có ngủ được đâu! Mà dù có mệt quá mà lỡ ngủ quên, ít ra nàng cũng phải giấu chuyện cái đồng hồ báo thức chứ. Nàng nói huỵch toẹt ra vì bất cần. Tôi như vậy đấy, anh chịu đựng không được thì thôi.Thư Tố Chân gửi về Đà nẵng cũng đều đặn như trước, thiết tha âu yếm như trước,nhưng chàng đọc được ở chỗ giấy trắng bên lề thư nhiều dấu hỏi và nhiều dấu than.Về lại Sài gòn học năm thứ ba, mật độ trả lời thư của chàng chậm lại. Hình như Tố Chân cảm thấy điều gì bất thường đã xảy ra nên liên tiếp trong nhiều lá thư, nàng thảng thốt hỏi thăm tình trạng sức khoẻ của chàng.

    Chàng lại nghĩ: "Bà mẹ bắt đầu sợ con mồi vuột khỏi tay đây". Chàng lấy ảnh Tố chân ra ngắm lại. Chàng dần dà khám phá ra những nét thiếu cân đối hoặc cách trang điểm thái quá của cô gái trong ảnh. Quả tình cái mũi nàng có quá lớn thật. Nhìn theo đòi hỏi hài hòa của nghệ thuật, cái mũi ấy không xứng hợp tí nào với đôi môi ấy, thân dáng ấy. Thằng thợ chụp hình nhà quê nào khuyên nàng mang lông mi giả và tô môi đỏ choét thế này? Một người nhu mì như Tố Chân lại đi nghe những lời xúi giục phản mỹ thuật đến thế ư?

    Tố Chân dài dòng thắc mắc. Chàng dài dòng trấn an. Nàng thấp thỏm. Chàng lửng lơ xem như một cuộc báo động giả, tuy càng lúc càng thấy niềm lo ngại của nàng có đủ căn cứ. Lá thư dài vì tha thiết khác với lá thư lê thê vì buồn chán, đàn bà nhạy cảm chuyện đó lắm. Nàng đòi vào Sài gòn dự khai mạc cuộc triển lãm tranh hội họa-sĩ-trẻ do chàng và các bạn đứng ra tổ chức. Chàng vội trả lời chưa thỏa thuận được với giám đốc nhà hàng Continental về thời gian triển lãm. Chính lúc đó, lúc chàng hồi hộp chờ đợi xác nhận của dư luận về tài ba của chàng như một bị can chờ nghe tuyên án, chàng nhận được lá thư định mệnh. Nàng viết:

    "Hôm qua chú thím được thơ thầy mẹ có ra nhà ba mạ em dò hỏi chuyện chúng mình. Em lo ngại quá. Ba em thì mọi sự đều đơn giản. Nhưng phần mạ, em không yên tâm chút nào. Mạ cứ nhắc mãi đến anh kỹ sư điện nào đó bạn cậu em ngoài Đà Nẵng (không biết thầy mẹ ngoài nhà có quen với người ta không?) Em khóc đến hết nước mắt, cứu em với, anh Thiệu ơi. Em tuyệt vọng khi nhận được điện tín của anh, báo tin ngày khai mạc triển lãm dời lại vô hạn định. Chuyện chúng mình cũng như thế sao anh? Ba sai tụi em sơn quét nhà cửa, sợ nhỡ thầy mẹ có vào, nhà cũng tươm tất hơn một chút. Mạ thì cứ dùng dằng. Viết thư, hoặc đánh điện tín ngay cho em, cho em biết đích xác anh có đau yếu gì không, đã quên em chưa..."

    Chàng phát sốt vì sợ hãi. Tại sao thế này? Bao nhiêu câu hỏi dồn dập đến: Lại thêm một cách cân đo đong đếm và mặc cả của mạ phải không? Cái anh chàng kỹ sư điện nào đó có thật hay chỉ là sản phẩm tưởng tượng của mạ ?Thầy mẹ chàng định vào Nha Trang thăm nhà ư? Lại thêm chuyện quét dọn nhà cửa nữa. Chàng cảm thấy mình bị vây bắt tứ phía, anh chàng kỹ sư là cái hình bù nhìn để dọa phía trước, sơn quét nhà cửa là cái lưới để hứng phía sau. Bên phải thì có thầy mẹ chú thím chàng. Bên trái có ba mạ và lũ em Tố Chân. Bài binh bố trận kỹ như thế chàng thoát làm sao được? Cao siêu thay, đầu óc thợ săn chuyên nghiệp của những bà mẹ Huế. Mà tại sao lại săn đuổi chàng đúng vào lúc này? Lúc niềm hãnh diện sáng tạo kề bên nỗi thất vọng, tự tin khó phân với ngờ vực, từ chân-tài đến kẻ làm bạc giả chỉ cách nhau mỗi một tiếng thị phi.

    Cuộc triển lãm mở chậm hai ngày so với dự tính. Tranh của chàng được chú ý, tuy chỉ bán được có một bức nhỏ. Báo chí lại nhắc đến tên chàng, nhưng hình như giới phê bình hết xem chàng như "một mầm non cần nâng đỡ ","một hoạ sĩ trẻ sẽ đi xa trong tương lai", và quay ra xoi mói hạch hỏi tác phẩm của chàng như một kẻ khổ dâm hành hạ phụ nữ. Nhiều lời lẽ không đẹp đã nói về chàng, ngụy trang bằng cái bề ngoài mỹ miều: "nhà mô phỏng điêu luyện", "Van Gogh thời đã hết điên". Chàng viết một lúc hai bức thư một gửi cho thầy mẹ xác nhận chàng chưa hề có ý lập gia đình khi chưa đủ sức nuôi các em, một gửi cho chú thím hỏi lại chuyện thăm nhà, và một điện tín gửi cho Tố Chân: "Anh là một thằng bất tài không thể đủ sức nuôi vợ. Hãy vâng lời mạ. Chúc hạnh phúc".

    Sự đổ vỡ do chàng gây ra ghê gớm hơn chàng tưởng tượng. Sau này chàng được biết thầy mẹ chàng có viết thư vào Nha Trang nhờ chú thím chàng dò hỏi chuyện lứa đôi cho chàng thực. Hai ông bà đã già, tha thiết muốn có cháu nội làm người thừa tự. Đã đành chàng chưa có sự nghiệp gì, nhưng không ai biết tính con bằng cha mẹ. Thầy mẹ chàng nghĩ nếu lập gia đình, bị vợ con ràng buộc. chắc chắn chàng sẽ bỏ bớt ước vọng lông bông hão huyền muốn làm một nghệ sĩ. Vả lại, thầy mẹ có ép uổng gì chàng đâu. Hai người chỉ làm trước cái việc mà trong thâm tâm, những người trẻ tuổi yêu nhau đều mong ước mà chưa dám nói ra. Chú thím chàng đã vui vẻ ăn mặc nghiêm chỉnh sang nhà Tố Chân thăm dò. Chị em Tố Chân cũng đã quét dọn sơn phết nhà cửa sạch sẽ, để rồi mọi người bật ngửa sửng sốt vì cái điện tín của chàng. Bây giờ, mạ Tố Chân chỉ biết tiếc rẻ. Tố Chân chỉ biết khóc. Ba nàng trở lại tỏ quyền gia trưởng. Ông thấy đây là một sỉ nhục không thể chịu đựng được của gia đình. Bao nhiêu giận dữ, ông đổ cả lên đầu Tố Chân. Nàng chỉ biết khóc mà chịu. Hỏi tại sao? Nàng không đáp được. Những điều nàng mang máng lo âu đã trở thành sự thực. Nhưng do đâu? Nàng còn non nớt quá, không thể hiểu được tình địch của nàng không phải là một cô gái Sài gòn bằng xương bằng thịt, có thân thể cân đối mạnh khỏe hơn nàng, ăn diện đúng thời thượng hơn nàng, cái mũi đẹp hơn mũi nàng, nụ cười mời mọc hơn cái cười hiền hậu của nàng... Tố chân cũng không thể hiểu được sự khó chịu phức tạp của chàng khi nhận được lá thư cuối. Đối với nàng, hoặc chàng là một kẻ không thể hiểu được, hoặc chàng là một kẻ phản bội.

    ***

    Sự đổ vỡ được dọn dẹp chóng vánh hơn công lao gầy dựng. Chàng và nàng bặt tin nhau từ đấy. Khi chú thím chàng chưa đổi đi nơi khác và Tưởng Dung chưa lấy chồng, chàng còn nhận được tin tức Tố Chân qua Tưởng Dung. Nàng là cái "tiền lệ xấu" cho một gia đình có nhiều con gái cần lấy chồng. Những đứa em kế lần lượt lên xe hoa, nàng vẫn ở vậy. Thi hỏng bán phần tú tài, nàng xin làm thư ký công nhật tòa hành chánh, tiền lương vừa đủ đưa thêm cho mạ đi chợ để khỏi nghe những lời dằn xóc. Làm được một thời gian, nàng tự học lấy được bằng tú tài toàn phần, rồi thi đậu vào học tham sự hành chánh. Chàng chỉ biết đến đó, rồi mất tin luôn, vì Tưởng Dung theo chồng lên ở Pleiku. Hồi cha chàng mất, nhận được thư phân ưu của Tố Chân, chàng cố soi kính lúp mới nhận ra được hai chữ TUY HÒA lờ mờ trên dấu ấn bưu điện. Chàng đoán có lẽ ra trường xong, nàng được đổi về làm việc ở đó. Hỏi dò chừng vài người bạn từng học quốc gia hành chánh, họ có biết Tố Chân. Không phải nàng có gì nổi bật. Chỉ vì số nữ sinh viên theo học ở cái học viện ấy không nhiều. Vài người còn cho biết khi đi học nàng đã có chồng là sĩ quan quân bưu, vì nhiều hôm người chồng có đưa xe Jeep đến đón cô vợ thai nghén về.

    Thôi, xin ngậm ngùi chia vui với em vậy, Tố Chân! Chàng lo ngại không hiểu lúc các bạn họa sĩ đăng báo chia vui nhân lễ cưới hai vợ chồng chàng (báo nào cũng có họa sĩ vẽ tranh hí họa, nên gần như báo nào cũng có đăng), Tố Chân đã lên xe hoa chưa. Chàng bồi hồi xót thương anh chàng họa sĩ trẻ thấp thỏm, bất trắc, phức tạp là chàng thời đó, thành thực ân hận những đổ vỡ gây ra cho cuộc đời người con gái ốm yếu. Chàng không thể biện minh gì được. Muốn biện minh, chàng phải viết cả một cuốn tiểu thuyết vài trăm trang. Chàng đã bỏ làm thơ từ lâu, và chưa hề thử viết truyện. Làm sao đây? Cho đến hôm nay, lúc chàng ở vào cảnh tuyệt lộ không tìm được lối thoát, lá thư của Tố Chân lại đến. Chàng nhíu mày cố đọc dấu nhật ấn bưu điện. Vẫn Tuy Hòa. Chàng gạt mớ phác thảo bừa bộn trên bàn, đưa lá thư gần ngọn đèn bàn đọc lại lần nữa.

    "Đã hơn mười năm qua mà em vẫn chưa quên được mối tình cũ kỹ. Sao suốt hai năm nay không thấy anh triển lãm? Hôm được tin thầy mất, em có gửi lá thư, anh có nhận được không? Hiện em bị bệnh nặng lắm, chắc không qua khỏi. Chúc anh ở lại được hạnh phúc. Em có dặn nhà khi khâm liệm nhớ bỏ theo cho em bức tranh anh vẽ em dạo nọ. Không biết chồng con em có nhớ cho không. Em không hề giận anh. Vĩnh biệt".

    Lần này chàng mới chú ý đến chữ THẦY nàng dùng để gọi cha chàng. Chỉ ở vào phút lâm chung, Tố Chân mới vứt hết hờn giận, tự ái, để trở thành cô học trò dốt đại số học lớp đệ tứ A2 thuở xưa.

    Nàng tự xem là người vợ đầu tiên của chàng, chẳng những thế, còn lặng lẽ âm thầm cảm tạ người cha đã sẵn sàng nhận nàng làm con dâu khi chưa biết mặt. Lòng hối hận của chàng lại bùng dậy.

    Sáng hôm sau chàng nói dối vợ cần vào Đà Nẵng để thu xếp việc bán căn nhà của thầy mẹ ở đường Phan Thanh Giản chia cho anh chị em làm vốn mưu sinh. Vợ chàng nghe nói chuyện này từ lâu nên không ngờ vực gì. Nàng chỉ dặn:

    - Anh liệu về sớm. Nhớ đừng theo bạn cũ lên chợ Cồn nhậu nhẹt. Em Chúa ghét đàn ông say rượu. Anh nhớ... nhớ...

    Nàng dặn dò chàng đủ điều phải nhớ, từ vài lọn tré ở gần ga cho đến cây tăm mang theo để khỏi phải dùng tăm hàng chưa nấu chín sát trùng ở các quán. Nàng dặn gì chàng cũng gật. Chàng đi nhằm chuyến xe có bác tài già quá cẩn thận. Đường mưa trơn ướt, xe bò lên đèo Hải Vân như con rùa ì ạch lê cái mu nặng. Lên đến trạm gác trên đỉnh lại phải đậu chờ gần hai tiếng đồng hồ nhường đường cho một đoàn công voa. Về đến Đà Nẵng đã quá l giờ chiều. Xe đi thẳng Tuy Hòa đã xuất bến từ 7 giờ sáng. Chàng nóng ruột mua vé xe đi Quảng Ngãi. Lâu lâu, chàng lấy thư Tố Chân ra đọc lại. Thư không ghi ngày, dấu nhật ấn bưu điện hơi nhòe nhưng dùng hết cách suy đoán, cuối cùng chàng xác định được ngày 13 tháng 9. Nhẩm tính đến hôm nay, đã l4 ngày qua. Liệu chàng vào Tuy Hòa còn kịp không? Chàng giả thuyết nhiều trường hợp và cách xử trí của chàng trong các trường hợp ấy. Nếu nàng vẫn còn sống? (Mà sao lại không? Chàng nghe nói những người hấp hối còn mối hận nào đó thường chưa chịu trút hơi thở cuối cùng nếu chưa thỏa nguyện). Nếu nàng còn sống, tất nhiên chàng phải tìm nàng ở bệnh viện Tuy Hòa. Chàng tự tin với vài lời khéo léo và một bao thuốc thơm, bác gác dan sẽ vào văn phòng tìm giùm phòng bệnh Tố Chân nằm. Chàng không thể đường hoàng vào thăm, vì sợ gặp mặt chồng con Tố Chân. Chàng không muốn gây cho nàng tai tiếng trước khi lìa đời. Chàng sẽ kiên nhẫn chờ ở đâu đó. Khi chồng con nàng vừa ra về, chàng sẽ len lén lách qua cửa phòng bệnh, đến bên giường nàng khẽ gọi: Maria Tố Chân. Chàng cố dằn lòng để dừng lại đó, không dám tưởng tượng tiếp những gì sẽ xảy ra. Nếu nàng vừa chết, và chàng chỉ vừa vào kịp để dự lễ tang? Chàng còn gì khác để làm việc lặng lẽ nối đuôi đám tang, lặng lẽ khóc thầm để đưa nàng ra mộ. Chàng cũng sẽ chờ mọi người về hết rồi mới đến xin lỗi nàng, đọc lại cho nàng nghe bài thơ đầu tiên, cố gắng giải thích cho nàng hiểu tâm trạng phức tạp rối rắm của chàng lúc ấy. Chàng sẽ cảm ơn câu ngắn đầy hào hiệp trong lá thư vĩnh biệt: "Em không hề giận anh". Chàng sẽ nhắc lại niềm xúc động của chàng khi ngắm hai thiên thần áo trắng đi ban phát lòng từ ái khắp các ngôi mộ lạnh thuở xưa. Chàng không theo đạo Thiên Chúa nhưng cũng thuộc vài đoạn cầu kinh để cầu cho linh hồn nàng an lạc. "Lạy Chúa, xin thương người quá cố này là tôi tớ Chúa.. xin vì lòng nhân từ Chúa cho linh hồn Maria được nghỉ yên muôn đời. và được hưởng ánh sáng nghìn thu..."

    Chàng thuê ghế bố ngủ ngay tại bến xe Quảng Ngãi để sáng hôm sau đi chuyến xe tài l khởi hành lúc 4 giờ sáng về Tuy Hòa. Chàng may mắn gặp chiếc xe tốt, tài xế trẻ tuổi chạy bạt mạng nên khoảng 3 giờ chiều hôm ấy chàng đến Tuy Hòa. Bước ra khỏi bến xe cạnh quốc lộ, chàng mới thấy cuộc tìm kiếm của chàng vô vọng. Tìm một người hấp hối qua địa chỉ in nhòe của dấu bưu điện và một lý lịch thu góp qua lời đồn đãi? Chàng thấy thương hại con người hăm hở là chàng ở bến xe Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi! Nhiều bác phu xích lô đến mời chàng. Chàng do dự chưa biết về đâu, phác tay nói dối rằng nhà chàng ở gần. Đi bộ được một quãng, chàng lại tin tưởng. Phải! Nàng học quốc gia hành chánh, ngạch tham sự, như vậy chỉ cần xuống tòa tỉnh Phú Yên hỏi thăm phòng nhân viên là biết. Chàng hăm hở thuê xe Honda thồ xuống tòa hành chánh. Hai ba nhân viên tòa tỉnh chàng gặp đầu tiên lắc đầu không biết Tố Chân là ai. Chàng hỏi thêm vài người. Họ đi hỏi bạn bè một lúc lâu, rồi mới quay ra bảo:

    - Ở đây không có ông phó đốc sự nào tên là Trân cả.

    Chàng vội cải chính:

    - Xin lỗi bác lầm rồi. Tôi muốn hỏi bà Chân. C.H.Â.N. chứ không phải Trân. Tố Chân, tham sự hành chánh làm việc ở đây từ mấy năm nay.

    Bác công chức già ngơ ngẩn một lúc, rồi nói lơ mơ:

    - Có lẽ bà Chân trước làm ở phòng hành chánh.

    - Vâng, đúng rồi. Tố Chân. Maria Tố Chân.

    - Có phải cái bà ôm ốm hay bệnh.

    - Vâng, đúng lắm. Có phải...

    Chàng không dám hỏi hết câu. Bác công chức liếc qua đôi kính lão thấy nét mặt chàng thảng thốt quá, tuy chưa hiểu tại sao nhưng vẫn xúc động, chịu khó chạy đi vào trong hỏi giúp chàng. Chàng chờ đợi như chờ cả thế kỷ. Bác trở ra vui mừng bảo:

    - Phải. Ở đây có bà tham sự tên Tố Chân. Nhưng...

    - Nhưng thế nào ạ?

    - Nhưng hết làm ở tòa tỉnh lâu rồi. Bà ấy sức khỏe kém không xông xáo được như mấy cậu phó đốc sự, nên đã xin chuyển qua làm bên hội đồng tỉnh. Nghe đâu...

    - Nghe sao ạ?

    - Nghe đâu bà ấy xin nghỉ dài hạn không lương. Ông thử qua bên hội đồng tỉnh hỏi xem.

    Chàng vừa hy vọng vừa thất vọng. Chàng đã tìm ra tông tích Tố Chân. Nhưng nàng còn sống hay đã chết, chàng chưa biết được. Nhìn đồng hồ, đã 3g45 chiều. Nhiều công chức sửa soạn giấy tờ, xếp đặt lại cho vào tủ, để chuẩn bị ra về. Chàng thuê xe thồ giục chạy nhanh lên hội đồng tỉnh. Cơ quan đại diện cho dân đóng ở một ngôi nhà gần chợ, loại nhà liên dây dùng làm cửa hàng buôn bán có một tầng lầu, bên dưới có cửa sắt kéo. Một phía cửa sắt đã khép, một phía kéo hờ vừa đủ cho hai người đi, bên ngoài che bằng một tấm che gió bằng dây nhựa đan. Nếu không có tấm bảng đề Hội Đồng Tỉnh Phú Yên treo trước cửa, chàng đã tưởng mình lầm địa chỉ. Cơ quan vắng vẻ quá, chàng lo sợ đã đến quá trễ. Chàng hồi hộp gõ cửa. May quá, bên trong còn có tiếng máy chữ lách tách. Không nghe ai trả lời, chàng bạo dạn bước vào.

    Chàng sững sờ, vui mừng đến kinh ngạc. Maria Tố Chân còn ngồi đó, dáng nhu mì mệt nhọc y như đêm nàng tiễn chàng trên ga Nha Trang hơn 10 năm trước. Nàng ngồi ở cái bàn gỗ tạp đối diện với cô thư ký đang đánh máy, mặc áo dài màu hồng nhạt. Chàng đứng ở cửa không dám tiến thêm bước nữa. Còn Tố Chân vì chóa nắng và vì bị cận thị (chàng nhớ thuở quen chàng, nàng đã mang kính 2 dioptries) nên có lẽ chưa nhận ra chàng. Chàng nghẹn lời không nói được tiếng nào. Tố Chân thì ngơ ngác hỏi:

    - Ông tìm ai?

    Chàng tiến thêm hai bước nữa. Cô thư ký đánh máy dừng công việc tò mò quan sát hai người. Chàng bắt đầu lo ngại. Nếu không khéo, chàng có thể làm hại đến thanh danh và hạnh phúc gia đình nàng. Chàng làm đổ vỡ đời nàng một lần, đủ rồi. Đúng lúc đó, Tố Chân nhận ra chàng. Lúc nàng còn bàng hoàng chết lịm vì bất ngờ, chàng đã nhanh trí nói:

    - Tôi là anh của Tưởng Dung, bà còn nhớ không? Em gái tôi biết tôi có công chuyện đi ngang qua Tuy Hòa, nên gửi cho bà một lá thư. Tôi có làm phiền bà lắm không?

    Tố Chân hơi bất ngờ lúc nghe lời lẽ chàng. Nhưng trong một thoáng, nàng hiểu nói như vậy là cần thiết. Nàng lễ phép đứng dậy vồn vã vừa phải, khi đáp:

    - Thế à? Quí hóa quá! À phải rồi, có phải anh Thiệu không? Hồi còn đi học, tôi vẫn nghe Tưởng Dung nhắc đến anh luôn. Anh ghé Tuy Hòa được bao lâu?

    Chàng cố bi thảm hóa:

    - Việc gấp quá. Ngày mai tôi phải vào Sài gòn. Nếu gặp chuyến, có thể ngay chiều nay tôi đi cũng chưa biết chừng.

    Quả nhiên nét mặt Tố Chân hơi lo âu khi hỏi cô thư ký:

    - Mấy giờ rồi em?

    - Bốn giờ mười phút rồi chị.

    - Thôi em lo xếp hồ sơ rồi còn về. Chị phải về sớm để lo cơm nước cho thằng CoCa. Nhà chỉ có hai mẹ con, bỏ nó một mình, chị ngại quá.

    Rồi quay về phía chàng, Tố Chân nói:

    - Có bận đến mấy, thế nào anh cũng thu xếp để ghé nhà tôi một lát. Gần đây thôi. Lâu nay không được thư từ gì của Tưởng Dung cả, tôi sốt ruột lắm. Hôm trước tôi có gửi cho nó lá thư, không biết có nhận được không?

    Chàng vui mừng đáp:

    - Nghe em nó nói có đấy. Nhờ thế tôi mới biết bà còn làm việc ở Tuy Hòa.

    Nàng mỉm cười không nói gì nữa, lo xếp dọn hồ sơ, khóa tủ lại, rồi xách cái xắc da mầu vàng đi ra cửa. Chàng vội bước theo. Vẫn cái dáng đi khoan thai hơi lê bàn chân trên mặt đường y như trước.

    Chờ cô thư ký khóa cửa sắt ra về, nàng mới thì thào hỏi:

    - Anh nhận được thư em hồi nào?

    Chàng nuốt nước miếng, dằn xúc động đáp:

    - Chiều hôm kia. Sáng hôm qua đi suốt ngày tới được Quảng Ngãi. Ngủ ở bến xe, bốn giờ sáng khởi hành. May quá, đến đây còn kịp giờ công sở.

    Nàng đỏ mặt vì vui sướng. Chỉ cần một câu ấy thôi, nàng có thể quên hết bao nhiêu năm cay đắng đã qua. Tố Chân di di đầu guốc lên nền thềm xi măng không nói gì. Chàng nói:

    - Nghe tin em mệt nặng, anh cứ lo không kịp...

    Nàng ngước lên cười buồn:

    - Em đã tưởng không qua khỏi. Gửi thư cho bác y công đem đi rồi, em vừa hối vừa lo.

    Chàng hiểu nàng muốn nói gì, nhưng cứ hỏi:

    - Vì sao vừa hối vừa lo?

    Tố Chân lại di di chiếc guốc, đáp nhỏ:

    - Em chỉ sợ bác ấy quên không gửi giùm.

    Chàng cười:

    - Hèn chi tem dán cái xuôi cái ngược. Em đã khỏe hẳn rồi chứ? Bị bệnh gì nặng không?

    Nàng bối rồi, ngập ngừng một lúc, rồi đáp:

    - Em bị sẩy thai, sau đó băng huyết dữ vào lúc quá yếu.

    Chàng khựng người, ngước lên chăm chú nhìn nàng, hơi xót xa. Bây giờ chàng mới nhớ nàng đã có một đời sống riêng, kể cả chuyện phòng the giữa vợ chồng. Đoán được tâm trạng chàng, Tố Chân vội nói:

    - Anh về nhà em đã. Cứ kêu xe thồ bảo chở đến quân bưu. Em đi cyclo qua nhà chị bạn đem cháu về. Nếu em chưa về kịp, anh chịu khó đợi một chút. Một lần nữa chàng khựng lại. Chồng nàng làm ở quân bưu thật. Qua những câu nói khéo, chàng biết ông ấy đi vắng. Và một lần nữa, chàng lại xót xa. Chàng đến khu nhà tiền chế của trạm quân bưu lúc Tố Chân chưa chở con về kịp. Cửa các nhà khu gia binh đều mở, trừ một cánh cửa khóa ở dãy phía tay trái. Chàng đã đoán không lầm. Đúng là nhà nàng. Đứa con nàng dẫn về lên 4 thật kháu khỉnh, mạnh khỏe khác hẳn mẹ. Chàng vuốt tóc làm thân với nó. Sợ mẹ, nó để yên cho chàng vuốt ve một lúc, rồi gỡ tay chàng ra, đến nép sau tà áo hồng của mẹ. Nàng dẫn chàng theo cái dốc thấp lên chỗ cánh cửa khóa. Gió thổi hất tà áo hồng về phía chàng. Thoang thoảng mùi băng phiến! Chàng định nhắc lại kỷ niệm cũ, nhưng nhớ đến cảnh ngộ hàm hồ khác thường, chàng cho như thế là đi quá mức cần thiết. Tố Chân đã được sống sót, và phải trở lại chịu đựng những ràng buộc cũ. Chàng không được quên điều ấy!

    Bên trong căn nhà thật trống trải: một bộ bàn ghế sắt hàn từ những mảnh lót sân bay, hai chiếc giường nhà binh kê cạnh nhau, cái nôi đã không cần thiết bị rỉ chỗ lót tã, đồ nấu bếp, cái tủ quần áo bằng tôn đựng hồ sơ ở các văn phòng.

    Không có thứ gì riêng tư và trường cửu, như đời sống tạm bợ của các gia đình quân đội. Thằng CoCa mãi chơi bi một mình nên mẹ nó được thong dong ngồi tiếp chuyện chàng.

    Tố Chân hỏi:

    - Anh còn vẽ nhiều không?

    Chàng chưa đáp vội, nhìn quanh tìm bức tranh thiếu nữ xoay lưng với môn đại số. Nàng hiểu, cảm động run run nói:

    - Em đã gửi nhờ con em giữ hộ.

    - Tại bố thằng bé không thích?

    - Không phải thế. Nhưng...

    - Nhưng thế nào?

    - Anh không hiểu em đâu.

    Chàng ngước lên cố đoán xem nàng đang nghĩ gì. Hai người nhớ lại chuyện cũ nên bùi ngùi im lặng. Một lát, chàng hỏi:

    - Anh mong em hiểu anh. Hồi ấy...

    Tố Chân cướp lời:

    - Em hiểu anh chứ. Ban đầu em ngơ ngác, đau xót. Nhưng sau đó em hiểu. Nếu không...

    Nàng dừng lại. Chàng chờ thật lâu, nàng mới tiếp:

    - Nếu không, em đã không viết thư. Em không muốn anh áy náy về em.

    Chàng cảm động, nhìn đôi bàn tay gầy đặt trước mặt đang cuống quít đan nhau, muốn nắm lấy để cảm ơn nàng, nhưng không dám. Chàng sống lại y cái thời e ấp cũ. Muốn dằn xúc động, chàng hỏi:

    - Sao em biết được tin thầy mất?

    Nàng chớp mắt, cười ranh mãnh:

    - Anh nổi tiếng quá; có chuyện vui buồn gì, ai cũng được chia sẻ. Em biết nhờ đọc báo.

    - Cảm ơn em. Nhất định là thầy được lên "miền lạc phúc" rồi!.

    Nàng giật mình, ngước nhìn chàng hồi lâu. Không chịu đựng được cái nhìn đầy ngụ ý, nàng quay mặt đi, nói sang chuyện khác:

    - Anh biết không? Em được gặp thầy rồi!

    Chàng kinh ngạc hỏi:

    - Hồi nào? .

    - Hồi đó. Chính thầy vào Nha Trang thăm chú thím. Em vô tình qua thăm Tưởng Dung, thoáng gặp thầy, đã biết là ai liền. Sao đôi mắt của anh giống đôi mắt thầy thế. Nhưng thầy hiền hơn!

    Họ lượn lờ quanh chuyện cũ, và cùng hưởng lại cái thú đau thương của những kẻ vừa qua được cơn vật vã đứng nhìn nỗi hiểm nguy với lòng thanh thản. Họ không đả động gì tới hai người thân vắng mặt, cũng không có chút mặc cảm tội lỗi nào. Chàng xin lỗi không dám tin còn gặp lại nàng nên không mua quà cho cháu.

    Nàng hỏi thăm các con chàng. Chàng đưa cho nàng xem hình đứa con trai út bằng tuổi thằng CoCa. Nàng khen cháu dễ thương, nhất là đôi mắt nồng nàn. Câu chuyện vẫn lan man nhát gừng chẳng khác mấy với các câu chuyện cũ; chỉ khác một điều là bây giờ, trừ những lúc chới với tưởng sắp vĩnh biệt cõi đời, họ không còn có thể bổ khuyết chỗ thiếu sót lúc gặp nhau bằng những lá thư dài khi xa nhau.

    Sau ngày mất nước, họ lại bặt tin nhau. Chàng mong ước gia đình Tố Chân may mắn vượt qua các bất trắc của buổi giao thời. Và chàng tin rằng, cho đến lúc này, nàng vẫn còn chịu đựng can đảm các hệ lụy của cuộc sống mới. Nàng chưa tuyệt vọng. Nếu tuyệt vọng "sợ không qua khỏi", thế nào chàng cũng nhận được một lá thư khác, dù chàng lưu lạc đến bất cứ phương trời nào.





    Nguyễn Mộng Giác

    Nguồn http://nguyenmonggiac.info/          [/tab]
          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5416
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Ngựa Nản Chân Bon

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           




    Về Nguồn
    Viết bởi Nguyễn Mộng Giác



    Mở tivi định xem qua chương trình cải lương tối thứ bảy để quên nỗi bực dọc ở cơ quan, đồng chí thủ trưởng ban tuyển sinh đại học gặp ngay mục dự báo thời tiết. Khi hình bản đồ chữ S vừa hiện lên khung Tivi, xướng ngôn viên đã đọc bằng giọng đều đều ngái ngủ:
    "Dự báo thời tiết cho đêm nay và ngày mai: Trời nhiều mây, buổi sáng có mưa lớn, trưa và chiều có thể có bão. Tin khí tượng cho tàu chạy ven biển: Khu vực thành phố Hồ Chí Minh và đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo: Tầm nhìn xa không quá 1 cây số, biển động đến động mạnh. Gió cấp 6 cấp 7, có nơi cấp 8... "

    Ông lặng người vì lo âu... Cô xướng ngôn viên đã dự báo đúng thời tiết của cơ quan ông. Nếu mỗi cơ quan có mùa xuân và mùa đông riêng cho mình, thì ban tuyển sinh đang ở mùa đông buồn. Làm việc tất bật, gần như vật lộn với đống hồ sơ mà không tìm được chút ánh sáng le lói ở cuối đường hầm. Kỳ họp tổng kết công tác nào cũng bị đem ra kiểm điểm, chỉ trích. Cán bộ nhân viên đem cả cơm chiều vào ăn tại cơ quan để làm thâu đêm, mắt người nào cũng thâm quầng, thế mà việc đâu vẫn ì ra đấy. Điện thoại từ các trường đại học giục. Điện thoại từ trường trung học chuyên nghiệp hối. Phải làm thế nào gởi gấp cho họ bản tổng kết về thành phần lý lịch để kịp niêm yết danh sách trúng tuyển. Đại học bách khoa trễ hạn ba ngày. Y khoa 7 ngày. Sư phạm 11 ngày. Đại học tổng hợp 6 ngày. Ban tổ chức thành ủy đích thân xuống kiểm tra. Trên hối, dưới thúc, chẳng khác nào đe búa cứ nhè vào cái thân gầy của đồng chí thủ trưởng mà đập cho dẹp. Ông có xin thêm bên công an Thành một số chuyên viên đến giúp đỡ. Nhưng họ chỉ làm công việc đổ thêm dầu vào lửa, thứ lửa đã đủ nóng để đốt cháy sự nghiệp toàn thể nhân viên cán bộ ban tuyển sinh. Bằng đôi mắt nhà nghề, sau khi đọc qua các bản lý lịch của học sinh nộp đơn thi vào các đại học, các chuyên viên đã lập bản báo cáo thật bi quan. Đại loại họ phân chia các lý lịch ấy làm hai hạng:

    Hạng thứ nhất gồm những bản lý lịch mù mờ cần phải được xác minh trước khi thu nhận ứng viên đó vào đại học. Không phải những bản lý lịch giả hoặc có tẩy xóa. Cũng có khuôn dấu đỏ và chữ ký của ủy viên thường trực hoặc chủ tịch phường xã ký đàng hoàng. Nhưng vì người phụ trách không nắm hồ sơ chính trị của nhân dân ở trong địa phương mình, nên lý lịch có nhiều điểm đáng ngờ. Chẳng hạn trên bản lý lịch do chính đương sự viết, phường xã chỉ ghi: "Chứng thực theo lời khai của đương sự". Thử hỏi có đương sự nào dại dột đến nỗi khai tuột những điều xấu hoặc bất lợi của mình ra giấy trắng mực đen? Hoặc có nơi viết: "Đương sự hiện có hộ khẩu thường trú tại phường 19 chúng tôi". Thừa! Rất thừa đến nỗi hóa ra lẩm cẩm! Có ai dám cấp sơ yếu lý lịch cho người không có hộ khẩu thường trú? Đã thế, ủy viên thư ký phường xã, vì không có trình độ chuyên môn, nên bỏ qua một số chi tiết thật quan trọng, không đòi hỏi đương sự xác minh trước khi đóng dấu ký tên. Có cậu khai cha làm cán bộ ở cơ quan X. Loại cán bộ nào? Từ A (nghĩa là từ ngoài bắc ) vừa được chuyển công tác vào nam, hay từ R (nghĩa là từ chiến khu) về thành? Thậm chí những người ở vùng tạm chiếm (không ai rõ thời Mỹ ngụy có gây tội ác nào không) vừa được tuyển làm công nhân viên là nhân viên cấp thấp của guồng máy kềm kẹp chính quyền Sài gòn cũng vẫn xưng là cán bộ. Tin vào những lời khai đó khác nào tin lời Thị Mầu! Có cô khai mẹ đang công tác tại Mặt Trận Tổ Quốc quận Y. Mặt trận à? Cái tiệm chạp phô chuyên trưng bày hàng mẫu đầy đủ thượng vàng hạ cám ấy, từ kẻ chuyên làm nghề tôn giáo cho đến tên sĩ quan ngụy vừa học tập cải tạo về nằm chờ vượt biên, mẹ đương sự thuộc dạng hàng kiểu nào? Công tác gì? Công tác trốn núp dưới cái dù Mặt trận để đỡ bị công an phường khóm lưu ý hay dịch vớ vẩn vài ba trang tài liệu chữ Anh chữ Pháp để vất vào xó? Anh chị em ruột đều là công nhân viên nhà nước ư? 99% công nhân viên tại thành phố đều là người được Cách mạng lưu dụng. Ân huệ nhà nước đến mức đó là tận cùng rồi, còn thừa chút nào đâu để san sẻ cho anh em! Cha đương sự đã chết xin khỏi cần khai nghề nghiệp địa chỉ? Sao lại khỏi cần? Tại sao chết? Chết bệnh? Hay hy sinh vì tổ quốc? Hay vì là ác ôn nên phải đền tội? Nói chung các bản lý lịch do ủy ban nhân dân phường xã chứng thực đều không rõ ràng, mà không rõ ràng tức là khả nghi.

    Hạng thứ hai gồm những bán lý lịch do chính công an địa phương chứng ký. Loại này tránh được các điều mù mờ thường gặp ở loại thứ nhất, nhưng nhận xét và đề nghị ghi bên dưới đặt ban tuyển sinh vào thế ngặt nghèo. Cô Trần thị Dung có mẹ là Huyền Tôn Nữ Thu Trang và cha là Trần Bá Cảnh thời Pháp thuộc làm cai khố đỏ. Ỷ cha mình đã chết bệnh từ 1944, cô Dung chừa trống chỗ khai nghề nghiệp và địa chỉ hiện tại của thân phụ. Trưởng ban công an phường 17 quận 6 đích thân ghi thêm bằng nét chữ xấu "cai khố đỏ" vào ô nghề nghiệp, và "chưa kịp trả nợ nhân dân " vào ô địa chỉ. Bên dưới tờ lý lịch có lời nhận xét: "Con của thực dân phong kiến, đề nghị cho đi cải tạo lao động". Gia đình vừa có con em đi lính ngụy vừa có người theo cách mạng như hầu hết gia đình miền nam ư? Phê ngay: "Nửa nạc nửa mỡ. Gia đình thuộc thành phần lưng chừng". Một ứng viên hãnh diện khoe có anh đã từng tham gia tranh đấu trong phong trào sinh viên thành thị và từng bị Mỹ ngụy cầm tù. Nhưng qua đôi mắt nhà nghề, trưởng ban công an xã liền hỏi trên giấy khai sơ yếu lý lịch: "Trong tù có phản bội đầu hàng địch không? Cần xác minh trước khi thu nhận". Tóm lại, trong hạng thứ nhì, hầu hết ứng viên đều trở thành kẻ thù của nhân dân, hoặc có thể đã là kẻ thù, kẻ phản bội.

    Chỉ còn một số ít học sinh con em cán bộ từ Bắc vào hoặc từ bưng biền ra là có lý lịch rõ ràng, trong sạch. Số này lại quá ít, không đủ số định tuyển cho các đại học. Làm thế nào bây giờ? Bươi đống lý lịch kỹ chừng nào, công việc chậm chạp phiền phức chừng nấy. Mà không bươi không được. Đồng chí thủ trưởng nghĩ nát óc, vấn kế đủ mọi nơi mà chưa tìm được lối thoát.

    Sáng hôm qua bị điện thoại thúc quá, ông định làm liều. Cho tốt hết. Rồi đề nghị suốt thời gian theo học, hiệu trưởng các trường dần dần cho xác minh lý lịch và loại những kẻ gian dối, man khai. Chưa kịp làm ẩu thì chiều hôm qua, Thành ủy đã gọi lên lưu ý tình trạng học sinh đại học bỏ trường vượt biên hoặc đã tốt nghiệp lại bỏ cơ quan ra bán chợ trời ngày một đông. Đồng chí bí thư gay gắt bảo: "Các đồng chí lo tuyển sinh tức là làm cái phần chọn giống. Phần quan trọng nhất đấy. Tương lai đất nước, tiền đồ của dân tộc nằm gọn trong tay các đồng chí. Các đồng chí làm ăn thế nào mà kết quả đáng ngại đến như vậy? Phải xem xét lại từ đầu. Từ đầu nghe chưa? Các đồng chí có hiểu tôi nói "từ đầu" nghĩa là gì chưa? Không. Không phải từ ban đầu! Từ "cái đầu" của các đồng chí đấy! Lập trường các đồng chí đã chao đảo chưa, phải rà lại cho kỹ. Nếu lập trường cách mạng vững, mắt các đồng chí sẽ sáng. Không có con em kẻ địch nào lọt vào đại học được đâu".

    Ðúng là một bản dự đoán thời tiết xấu cho cơ quan ông: "Tầm nhìn không xa quá 1 cây số"cho nên thế nào chiếc thuyền ông đang lái cũng gặp "gió cấp 7, cấp 8 ". Mưa lạnh, bão lớn sắp vùi dập sự nghiệp của ông sao?

    Tối hôm ấy, Tivi chiếu lại tuồng "Thái hậu Dương Vân Nga ". Thái hậu Thanh Nga đã bị bọn cướp tống tiền bắn gục trên chiếc xe nhà ở đường Ngô Tùng Châu nên thái hậu Bạch Tuyết ra đóng thế. Tài tử đẹp, phông cảnh tráng lệ đắt giá, giọng ca điêu luyện! Nhưng vì mải lo nên đồng chí thủ trưởng chỉ xem lơ mơ. Ông khâm phục tài ba của các nghệ sĩ cải lương miền Nam tuy trong thâm tâm vẫn lợn cợn mối ác cảm với cô đào Bạch Tuyết. Một nhân viên lưu dụng của ông có mách rằng có lần Bạch Tuyết đã đội mũ lính GI xâm lược lên đầu để chụp hình đăng trên tờ Stars and Stripes. Tại sao lại chụp hình chung với lũ đế quốc, lại còn đội mũ mãng để quảng cáo cho chúng! Nhất định chúng đã chua thế này dưới bức ảnh: "Nghệ sĩ cải lương ưu tú nhất VN chào mừng các chàng GI". Tại sao một đoàn ca kịch cải lương quốc doanh như đoàn Trần Hữu Trang lại thu dụng Bạch Tuyết? Tại sao Sở Văn hóa Thông Tin lại cho phép Bạch Tuyết lên Tivi? Lập trường của họ chao đảo rồi chăng? Những câu hỏi ấy khiến ông xem cải lương mất thú. Cuối cùng, ông chỉ khâm phục mỗi một mình tác giả kịch bản là Trúc Đường. Tài thật! Biến một người đàn bà lăng loàn may mắn được bọn sử quan phong kiến bỏ qua không hỏi tội ngoại tình thành một người phụ nữ ái quốc thức thời! Giới viết lách lách tài thật! Dẻo và khéo quá! Việc khó đến thế họ còn làm đưọc, còn ông? Ông nhớ đến bốn câu thơ của Bác:

    • Không có việc gì khó
      Chỉ sợ lòng không bền
      Dời núi và lấp biển
      Quyết chí cũng làm nên.

    Việc ông đâu có khó? Bác đã thì thầm nhắc ông: Vì lòng không bền và chưa quyết chí nên ông lo âu đấy thôi! Vả lại cách mạng là sự nghiệp chung. Tại sao ông không tham khảo ý kiến các cơ quan bạn, như Viện Qui Hoạch, như Phòng tổ chức Thành ủy. Phải rồi. Ông có một người bạn thân hiện làm Viện trưởng Viện Qui Hoạch. Ông lú lẫn quá. Tại sao không hỏi ý kiến ông ấy. Tìm được giải pháp tốt, đồng chí thủ trưởng yên tâm đi ngủ. Lần đầu tiên từ 8 tháng về làm thủ trưởng ban tuyển sinh, ông ngủ ngon giấc.

    ***

    Đúng một tuần sau cũng vào tối thứ bảy, đồng chí viện trưởng viện qui hoạch trung ương bồn chồn đi ra đi vô căn phòng rộng 20 mét vuông của mình ở đường Lý Nam Đế. Không khí nóng bức. Bên ngoài mây đen thấp xuống đe dọa những bóng đèn lù mù. Khi trời bắt đầu đổ mưa và gió dữ, ông phải đóng kín cửa lớn cửa sổ lại, và ngồi ở cái bàn con cạnh giường ngủ của vợ. Bên kia tấm màn vải hoa đã bị ố vài nơi vì mưa dột, ba đứa con ông đã ngủ say. Vợ ông có ý chờ xem tuồng chèo cổ thường chiếu trên Tivi vào mỗi tối thứ bảy, nhưng khi nghe loan báo có thay đổi chương trình vào phút chót do "sự cố kỹ thuật", bà lật tờ Phụ Nữ Việt Nam xem qua loa rồi cũng ngủ nốt. Chỉ còn một mình đồng chí viện trưởng thức khuya. Bạn bè ông kháo nhau rằng vở kịch "Erostrate kẻ đốt đền" do Đoàn kịch nói trung ương trình diễn hay lắm, thâm lắm, nên ông rán chờ xem cho biết. Không phải ông bồn chồn chờ xem kịch. Ông không ái mộ nghệ thuật đến độ ấy. Ông chỉ muốn tìm cách nào đó để tạm quên chốc lát các điều phiền phức khó khăn ở viện.

    Lúc vặn nút Tivi, ông gặp đúng mục Dự báo thời tiết "Trời ít mây. Buổi sáng có mưa vài nơi, buổi chiều trời nắng tốt. Tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển. Vịnh Bắc bộ: Tầm nhìn xa khoảng 10 cây số. Biển hơi động đến động. Gió cấp 2, cấp 3. Có nơi cấp 4... "

    Đồng chí viện trưởng hơi vui vui, gật gù nói một mình: "Bọn khí tượng thủy văn làm việc tiến bộ đấy chứ. Không bù với lúc trước lúc nào cũng dọa mưa với bão".

    Ông cảm thấy phấn chấn, quên hẳn vở kịch Liên Xô Người đốt đền và trở lại bàn làm việc. Ngọn néon 4 tất đêm nay như sáng hơn các đêm trước. Ông di di đầu bút bi vào miệng giấy thấm chuẩn bị ghi lại các đề nghị của mình thì điện cúp. Cúp thì cúp, cần gì. Lòng ta hồ hởi, chí ta bền, đèn dầu hỏa hay đèn néon ta vẫn làm việc được. Ông vừa húyt sáo vừa thắp cây đèn bão hiệu Minh Hoa của Trung Quốc.

    Ngọn đèn vừa đủ soi sáng bao nhiêu vấn đề nan giải đang trải ra trước mặt ông. Phải làm sao đây? Không phải ông đã quên béng cái chìa khóa thần kỳ có thể mở tất cả mọi cánh cửa đóng: "Nắm vững chuyên chính vô sản, phút huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng văn hóa tư tưởng, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt". Ông nhìn quanh, lo ngại nhìn về phía vợ, rồi nói thầm: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!" Biết từ bao nhiêu năm nay, nhưng tại sao bao nhiêu chuyện cực nhọc hóc búa cứ đùn về cho viện ông? Tại sao năng suất đã không tăng còn giảm dần theo mức độ đáng ngại? Tại sao ở các hợp tác xã nông nghiệp, xã viên, và cả đảng ủy địa phương a tòng với nhau lén "khoán chui" đi ngược với chính sách nhà nước mà lúa nghĩa vụ đạt yêu cầu hơn các nơi theo đúng chính sách? Tại sao các kế hoạch thủy lợi ở các tỉnh phía nam đều vỡ, nhiều con kinh cấp l, cấp 2 tốn bao nhiêu công của đào lên lại phải lấp xuống? Tại sao đã ra chỉ thị dẹp bỏ các trạm thu thuế mọc như nấm trên đường quốc lộ mà trong chuyến vào nam vừa rồi, ông vẫn thấy mỗi tỉnh vẫn có luật thuế khóa riêng, giá cả nơi này chênh lệch quá xa với nơi khác? Tại sao đất hoang còn bỏ mặc cho cỏ lát cây dại mà dân thành thị vẫn sống bám vào chợ trời? Làm thế nào chận đứng nạn lãn công đang tràn lan khắp các cơ quan nhà nước và xí nghiệp quốc doanh? Làm thế nào chấm dứt hiện tượng xuất não nguy hiểm do phong trào vượt biên ồ ạt? Làm thế nào bài trừ tận gốc nạn tham nhũng? Làm thế nào hạ thấp số trại giam và tù nhân đang tăng vọt khắp nơi? Tại sao? Tại sao? Làm thế nào? Làm thế nào? Tại sao? Làm thế nào? Ông hốt hoảng hỏi liên tiếp và hãi hùng như tử tội hãi hùng nhìn chiếc máy chém. Ngọn đèn lụn dần trước mặt ông. Hết dầu rồi! Ông châm thêm dầu, và phải chờ khá lâu mới đủ ánh sáng đọc tiếp các đề nghị do viện qui hoạch địa phương và chuyên ngành gửi về. Tập công văn đề nghị dầy cộm, ông biết trước không cách nào mình đọc xuể. Phải tìm ra chiếc chìa khóa đơn giản và cụ thể hơn mới mong giải quyết được. Làm sao đây? Tìm ở đâu? Theo thói quen, mỗi lúc thối chí, ông ngước lên đọc bốn câu thơ của Bác do chính ông viết dán trước bàn làm việc:

    • Không có việc gì khó
      Chỉ sợ lòng không bền
      Dời núi và lấp biển
      Quyết chí cũng làm nên.

    Phía trên cao, Bác đang mỉm cười khuyến khích ông. Cảm thấy yên tâm, ông lại moi óc tìm chìa khóa thần. Lúc đang lơ mơ suy nghĩ, mắt ông vô tình lướt qua lá thư của Tân, bạn cũ của ông, hiện làm thủ trưởng Ban tuyển sinh ở thành phố mang tên Bác. Ông đã đọc lá thư đó hồi sáng, đọc xong thấy khó chịu vì bạn ông lại nhờ ông trả lời những câu hỏi chính ông không trả lời được. "Tại sao như thế? Phải làm gì? Anh ở trung ương nắm vững đường lối chính sách (nhất là ở cơ quan có tầm nhìn chiến lược) mong anh giúp tôi. Phải nói đúng hơn là giúp chúng ta, giúp thế hệ thứ 4, thứ 4.5, thứ 5 để con cháu chúng ta có thể nối tiếp gìn giử thành quả cách mạng mà thế hệ tiên phong mở đường của Bác, thế hệ thứ hai của các chiến sĩ kháng chiến chống thực dân, thế hệ thứ ba chống Mỹ cứu nước đã đổ bao nhiêu máu xương mới đạt được".

Rắc rối đây! Phiền nhỉ! Ông bạn xa thật láu cá! Dùng dao to búa lớn đế ràng buộc anh em, chơi độc thật!

    Ðồng chí viện trưởng gạt hết xấp công văn sang một bên, đoc kỹ lá thư của ông Tân lần nữa. Đọc nửa chừng, ông reo lên:

    A! Chìa khóa đây rồi! Sao ta lú lẫn thế! Chính Bác đã dạy: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa". Không lo đào tạo con người mới thì làm sao xây dựng thiên đường mới ngay trên quá đất này? Gợi ý của Ban tuyển sinh thành phố mang tên Bác thật đáng chú ý. Phải đặt vấn đề này lên ưu tiên hàng đầu.

    Mừng quá, ông chạy đến lay vợ dậy. Bà vừa đi công tác ở nông trường bò giống Ba Vì trở về quá mệt nên nằm co quắp ngủ say, nước dãi nhểu cả ra mép. Viện trưởng thấy thế ngủ của vợ dễ thương, vệt nước dãi trở thành dấu hiệu của niềm vô tư thanh thản. Vợ ông càu nhàu gì đó trong miệng, rồi dụi mắt ngồi dậy. Ðồng chí viện trưởng lay vợ bảo:

    - Mình ơi mình. Dậy tôi nói chuyện này hay lắm.

    Vợ ông ngáp dài rồi hỏi:

    - Cái gì thế? Có nhà ai cháy hở?

    - Không! Tôi vừa tìm ra cái chìa khóa để giải quyết trọn vẹn bao nhiêu khó khăn trên toàn quốc. Mình thử nghĩ mà xem. Chỉ lấy đơn giản một trường hợp nhỏ: Làm sao cho các xã viên chịu sản xuất chứ không bỏ đi buôn chợ trời?

    Bà vợ ngáp một cái thật dài nữa, rồi nói:

    - Dễ quá. Có thế cũng gọi người ta dậy!

    - Dễ à! Mình đáp đi.

    Bà vợ bực mình ngồi ngay người nghiêm mặt hỏi chồng:

    - Ðược. Nhưng trước hết mình trả lời tôi mấy câu hỏi ngắn thôi. Mình có thích ăn ngon không?

    - Có. Ai lại chả thế.

    - Mình có thích mặc đẹp không?

    - Dĩ nhiên là có, nhưng...

    - Khỏi cần thêm "nhưng, tại vì, tuy thế". Mình có thích ngủ trên cái giường êm và ấm không?

    - Có chứ, nếu...

    - Khỏi cần "nếu". Mình có thích ở biệt thự, có xe riêng không?

    - Thì coi như có đi, dù rằng...

    - Thôi đủ rồi. Trời sinh sao thì để vậy. Có ông thánh như Bác nhưng đời còn có nhiều người không phải thánh. Tại bắt mọi người làm thánh cả nên mới rắc rối.

    - Lập trường em để đâu mà...

    - Em có lập trường riêng dựa theo kinh nghiệm quan sát ở Viện nghiên cứu chăn nuôi. Trâu bò không có tư tưởng nhưng cách sống của nó cũng có "chính sách" đấy chứ.

    - Mình nói gì tôi chẳng hiểu.

    -Thôi em hỏi gọn lại: Anh tìm ra được cái chìa khóa gì nào?

    Đồng chí viện trưởng hí hửng đọc câu danh ngôn của Bác, cho đó là chìa khóa mở tung cửa khó khăn của ông bạn Ban tuyển sinh.

    Vợ ông trề môi hỏi:

    - Nhưng muốn có toàn con người mới để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải làm sao?

    Viện trường bí, lí nhí lặp đi lặp lại:

    - Muốn có con người mới... muốn có con người xã hội chủ nghĩa... muốn có con người cộng sản thuần khiết... thì ta... thì ta...

    Vợ ông bật cười:

    - Thì hãy bắt chước cách em vẫn làm lâu nay!

    - Cách gì?

    - Cách dùng tinh đông viên để lai giống. Trâu Mura Ấn Ðộ, bò sữa Liên Xô, heo Cuba mình chỉ xin có vài con, thế mà hiện nay khắp các nông trường chăn nuôi, đếm không xuể.

    Viện trưởng hồ nghi rụt rè hỏi:

    - Trâu bò làm thế được, chứ con người...

    - Con người thì sao? Vẫn là một loại sinh vật như trâu bò thôi. Em nghe nói hồi xưa bọn quốc xã Đức muốn các bà vợ lính ở quê nhà vẫn tiếp tục sinh ra những chú quốc xã tí hon để nối nghiệp cha anh, cũng đã dùng cách gửi các lọ tinh khí từ mặt trận về. Bây giờ khoa học tiến bộ, dùng tinh đông viên tiện hơn.

    - Nhưng anh Tân khổ sở về chuyện khác cơ. Chuyện xét lý lịch để tuyển các học sinh ưu tú và vững lập trường vào đại học.

    Bà vợ đáp ngay:

    - Thì giải pháp của em cũng giải quyết được. Ta dùng tinh khí của những người cộng sản chân chính đã kinh qua thử thách, thì lý lịch bên cha tất phải tốt. Việc còn lại là lựa chọn những bà mẹ "ba đảm đang", những "chiến sĩ gái kiên cường".

    Gợi ý của bà vợ mới mẻ quá, táo bạo quá, khiến viện trưởng sững sờ. Ông ngồi chết lặng hồi lâu. Điều khó nghĩ cho ông, là đề nghị ấy vừa quá hợp lý, vừa không hề trái với các nguyên tắc bất khoan nhượng của chủ trương chính sách như : "chuyên chính vô sản", như "phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động". Nó lại phù hợp với cuộc cách mạng then chốt là cách mạng khoa học kỹ thuật. Suy nghĩ hồi lâu, ông đành phải gật gù:

    - Mình cũng có lý. Thôi ngủ đi. Mai tôi thử trình phương án đó lên cấp trên xem sao.

    ***

    Do ngẫu nhiên, thứ ngẫu nhiên Marx bàn rất chu đáo trong duy vật sử quan, bộ chính trị họp khẩn cấp vào tối thứ bảy. Trong khi chờ đợi các đồng chí đến muộn, những người đến sớm mở tivi xem chương trình đặc biệt cuối tuần. Ngẫu nhiên lịch sử lại khiến mọi người gặp đúng mục dự báo thời tiết. Cô xướng ngôn viên có giọng ngọt ngào êm ái đọc chậm:

    "Dự báo thời tiết cho đêm nay và ngày mai: khu vực Hà nội trời quang đãng, buổi sáng có mưa phùn lấm tấm, chiều nắng đẹp tuyệt vời. Tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển: Vịnh Bắc bộ: Tầm nhìn xa trên 10 cây số. Biển hoàn toàn lặng, gió nhẹ cấp 1, có nơi cấp 2... "

    Ðồng chí tổng bí thư bật cười khen:

    - Sau mấy kỳ kiểm điểm, chúng nó có khá đấy chứ.

    Câu chuyện sau đó nổ như bắp rang. Khác với tưởng tượng của quần chúng lao động vẫn nghĩ cung cách họp hành ở cấp cao giống như kiểu cung đình phong kiến, ở đây không khí hoàn toàn thoải mái thân mật. Cách sống và làm việc giản dị của Bác Hồ đã trở thành mẫu mực cho lớp học trò kế nghiệp Bác. Do đó phòng họp là phòng khách ấm cúng của đồng chí tổng bí thư, người nào thích ngồi ở đâu, ngồi thế nào tùy ý. "Tài liệu hồ sơ đặt trên bàn nước, lót dưới cái gạt tàn thuốc làm bằng vỏ máy bay B52, vất trên đống báo Nhân Dân, kẹp trong tạp chí Cộng Sản hoặc nằm trên ghế piano gỗ bóng màu huyết dụ. Ngoài hai đồng chí thư ký của ban bí thư ăn mặc nghiêm chỉnh luôn luôn giữ thái độ cung kính lễ phép, tất cả mọi người đều ăn mặc xuề xòa, áo sơ mi ngắn tay bỏ ngoài quần, chân mang dép Nhật. Các đồng chí lãnh đạo đều mạnh khỏe nên tuy ngoài trời mưa giông gió giật, khí hậu rét căm căm, mỗi người chỉ quấn sơ một chiếc phu-la len mỏng. Cách xưng hô thân mật gọi nhau bằng thứ hai thứ ba y theo lối ăn nói của một gia đình nông dân miệt vườn Nam bộ. Chẳng hạn không ai cung kính "Thưa đồng chí tổng bí thư". Chỉ nói thật gọn: "Thưa anh Ba". Thế thôi! Cấp lớn xưng tôi gọi chú. Cấp nhỏ hơn xưng em gọi anh.

    Các ban bí thư và đặc trách bắt đầu báo cáo tình hình chung. Ngoại vụ có vấn đề bình thường hóa quan hệ với Mỹ và các kế hoạch hợp tác toàn diện với Liên Xô anh em. Tổng công đoàn có vấn đề giải thích hiện tượng "công đoàn gọi là Ðoàn kết" ở Ba lan và tiên đoán các hệ lụy của nó. Nội vụ có vấn đề tìm kinh phí phát triển các trại giam và bù đắp lương thực lạm chi cho số phạm nhân gia tăng. Nông nghiệp đề nghị thông qua phương án khoán cây lúa xuống đến từng hộ để cứu vấn nạn khan hiếm ngũ cốc. Công nghiệp cũng xin khoán sản phẩm và trả lương theo thành quả sản xuất được. Vì được bàn cãi nhiều lần nên các vấn đề tưởng như hóc búa ấy được cho qua giữa những tiếng cười, ngụm trà ngon và tiếng nhai kẹo lạc rôm rốp. Gần khuya mà chưa có ai thấy lý do vì sao "anh Ba" triệu tập cuộc họp toàn Bộ chính trị thật khẩn cấp này. Mọi người chờ, chờ, chờ... Ðến khi anh Ba nhắc khéo hai đồng chí thư ký nên về ngủ để bảo vệ sức khỏe, mọi người mới biết giờ phút nghiêm trọng của lịch sử dân tộc đã đến.

    Chờ cho hai đồng chí thư ký ra về xong, đồng chí tổng bí thư mới thân mật mời mọi người kéo ghế lại gần, rồi nói:

    - Vấn đề này vừa quan trọng vừa ngộ nghĩnh, theo lối nhìn của từng anh em. Tôi thì không xem nhẹ nó chút nào, nên mới có cuộc họp này. Tôi phải bàn kín với anh em trước, rồi mới cho họp mở rộng sau. Việc tuy chung mà riêng vì liên quan đến sức khỏe và ý chí, tâm tình từng người, riêng mà hóa chung vì có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ. Chẳng những thế hệ thứ 4, thứ 4.5 như anh em thường nói đùa, mà có thể kéo dài đến thế hệ thứ 10, thứ 20. Để anh em được về nghỉ sớm, tôi đọc ngay phương án của Viện Qui Hoạch.

    Anh Ba đọc xong, rất nhiều người ngẩn ngơ không hiểu mình đang nghĩ gì, sắp nên nói gì. Lâu về sau, có người thì thào:

    - Họ đề nghị thật như thế ư?

    Người thì hỏi:

    - Họ nghiêm chỉnh đấy chứ?

    Người thì hàng hai dò đường:

    - Kể ra cũng không có gì sai chính sách lắm!

    Ðồng chí tổng bí thư nói:

    - Tôi đã đọc kỹ các sách kinh điển, và quả thật nhận thấy phương án không đi ngược với học thuyết Mác Lê. Nhìn theo đôi mắt duy vật biện chứng, nó còn phù hợp với đòi hỏi của lịch sử là đằng khác. Vấn đề chính là anh em ta có dám thực hiện hay không. Tôi tin rằng khi đồng chí Lénine đọc xong bộ Tư bản luận của đồng chí Karl Marx, đồng chí Lénine cũng ở cùng tâm trạng của chúng ta đêm nay. Dám hay không dám, đó là vấn đề.

    Anh Ba nói xong nhìn quanh khắp mọi người. Chẳng hiểu do buồn ngủ, do lạnh, hoặc do hoang mang trước phương án táo bạo, mà mọi người đều ngồi co ro, hai vai so lại trong chiếc áo mỏng, dáng ủ rũ như những cụ già về chiều. Anh Ba chợt nhớ mọi người đều đã già, nhỏ nhất cũng trên 60, có người đi quá cái tuổi "cổ lai hi" từ lâu lắm. Một người vừa ho húng hắng vừa phều phào hỏi:

    - Họ đề nghị làm thí điểm như thế nào?

    Anh Ba lật qua nhiều tờ giấy, đến tờ cuối mới đáp:

    - Có đây. Họ ghi vào phần phụ bản. Dĩ nhiên những người cha lý tưởng phải là các bậc cách mạng lão thành đã kinh qua nhiều thử thách, và có sức khỏe dồi dào.

    Người vừa hỏi quên giữ ý, ngây thơ nói:

    - Sức khỏe của chúng ta, của anh em ta, tôi sợ...

    Anh Ba lừ mắt hỏi lại:

    - Sức khỏe chúng ta thế nào? Chủ Tịch Mao trên 70 còn bơi nổi qua sông Dương Tử. Chẳng những bơi nổi, mà còn bơi nhanh hơn cả bọn trai tráng nữa. Ðáng lý chúng ta cũng phải làm cái gì tương tự như vậy. Đây cũng là một thử thách về ý chí cách mạng, đồng chí nhớ cho!

    Từ lúc anh Ba gọi anh em bằng hai tiếng "đồng chí", không khí trong phòng trang trọng nghiêm túc hẳn lên. Phương án được thông qua nhanh chóng. Dáng ngồi, cách nói của từng người trở nên trẻ trung, vững chãi, hùng hồn. Vấn đề còn lại là tìm những người cha lý tưởng cho thế hệ sau thế hệ thứ tư hiện tại. Người thứ nhất đề nghị giao cho các đồng chí tỉnh ủy viên. Ý kiến bị bác bỏ vì như vậy cuộc thử nghiệm sẽ mở rộng trên qui mô cả nước. Liệu dư luận quần chúng chưa tiến bộ, guồng máy chiến tranh tâm lý của bọn phản động, óc hẹp hòi bảo thủ của giới tu sĩ, và dư luận thế giới có để yên cho không? Trung Nam Hải, Hoa Thịnh Đốn, Rangoon, Kuala Lampur, Singapore, Jakarta, Manila, Roma, và có thể cả Mat-cơ-va nữa, sẽ nghĩ thế nào? Người thứ nhì nâng lên cấp trung ương ủy viên. Vẫn còn nhiều quá, thế nào cũng có lời ong tiếng ve. Dĩ nhiên làm kẻ khai phá bao giờ cũng đơn độc và thường bị đàm tiếu. Nhưng quan hệ ngoại giao hiện đang bất lợi không cho phép quá liều lĩnh. Ý kiến thứ ba đề nghị thu hẹp vào ban bí thư. Bàn qua tán lại cuối cùng chỉ còn một lối thoát độc nhất: "đã đứng mũi phải chịu sào", đã đủ ý chí chiến thắng những cuộc thử thách đối đầu với bao nhiêu tên đế quốc sừng sỏ đủ màu đủ cỡ từ Nhật, Tàu, Tây, Mỹ cho đến bọn bành trướng Trung Nam Hải hiện nay, thì phải dư ý chí chiến thắng cái thứ thử thách cỏn con này.

    Chân lý cách mạng quá đơn giản. Mọi người tuy trong lòng phần bực, phần lo, phần tức cười, nhưng ngoài mặt ai ai cũng tỏ ra lạc quan tự tín. Đồng chí tổng bí thư nhìn lên ảnh Bác, giọng bâng khuâng:

    - Tiếc quá, nếu Bác còn sống với anh em chúng ta...

    Những người còn lại đã từng nghĩ như đồng chí tổng bí thư, nhưng không đủ thế để nói ra một điều dường như bất kính, bấy giờ được dịp phụ họa:

    - Ừ nhỉ! Giá Bác còn sống!

    - Phải rồi. Được có Bác thì...

    Rồi nghĩ đến sự yếu đuối chùn bước trước thử thách, không hẹn họ cùng hướng về phía bức sơn mài mầu đen có khảm xa cừ bốn câu thơ quí giá:

    Không có việc gì khó
    Chỉ sợ lòng không bền
    Dời núi và lấp biển
    Quyết chí cũng làm nên.
    Họ ra về lúc đã quá khuya. Xe của từng người có gắn máy sưởi ấm nhưng ai nấy đều lạnh run. Một phần khí hậu Hà nội không đúng như bản tin thời tiết đọc trên tivi, một phần do họ cứ lo âu vu vơ.

    ***

    Phương án thử nghiệm được thực hiện đúng như đề nghị của Viện Qui Hoạch. Phòng tinh đông viên thuộc Viện nghiên cứu chăn nuôi trung ương được bí mật giao thêm một công tác mới. Hội Phụ Nữ Trung Uơng khẩn cấp họp kín để tranh cãi bình bầu 14 bà mẹ lý tưởng. Ở đây, hội phụ nữ đã gặp quá nhiều khó khăn khách quan. Luật sinh vật học dám ở ngoài biện chứng pháp nên không cho phép những chiến sĩ gái luống tuổi từng kinh qua nhiều thử thách có thể thụ thai, nên bắt buộc phải lựa chọn các phụ nữ dưới bốn mươi tuổi. Họ thuộc thế hệ thứ ba, thế hệ chống Mỹ cứu nước. Một số khá lớn từng sống nhiều năm trong rừng để làm hết đường mòn Hồ chí Minh bên Trường sơn tây lại đến Trường sơn đông, nên bị sốt rét kinh niên, tức là không hội đủ tiêu chuẩn sức khoẻ. Số xinh đẹp khoẻ mạnh lại bị mang tiếng lập trường chao đảo không dám xung phong đi B. Số ốm o vì từng bị tra tấn trong nhà tù Mỹ ngụy. Số quá to béo vì làm việc lâu năm ở cửa hàng thương nghiệp hoặc nhà hàng ăn uống quốc doanh. Số quá trẻ để có thành tích nghĩa là có lý lịch tốt. Số quá già để đủ sữa nuôi con.

    Kình cãi gấu ó nhau mãi, cuối cùng Hội phụ nữ đã phải nhờ đến máy tính điện toán. Lựa cho được 14 người mẹ khó thật.Máy vừa lựa xong, một trở ngại mới lại xuất hiện: 7 trong số 14 người phụ nữ may mắn đã đăng ký ứng tuyển khi chưa hỏi ý kiến chồng. Gia đình suýt có cơ tan vỡ nếu 7 ban thư ký công đoàn không vội vã đến gặp 7 ông chồng cổ hủ để vừa giải thích, vừa đe doạ,.,vừa vuốt ve. Sức người hợp với sức máy cuối cùng đã hoàn thành sứ mệnh chu đáo.

    Bộ Y tế phối hợp với Hội Bảo vệ bà mẹ và trẻ em chuẩn bị đầy đủ các phương tiện thăm thai, bảo vệ thai, đỡ đẻ, nuôi trẻ sơ sinh. Bộ Giáo dục chuẩn bị mở các lớp đặc biệt dành cho trẻ em xuất sắc. Một Ủy ban đặc biệt được thành lập để phối hợp công tác, theo dõi đôn đốc phần vụ các ngành ban cho nhịp nhàng và có hiệu quả cao nhất. Tóm lại, mọi sự đều sẵn sàng đến mức tối hảo, tối tối hảo.

    Viện nghiên cứu chăn nuôi cử 14 chuyên viện xuất sắc nhất của Phòng tinh đông viên đến Hà nội lãnh công tác đặc biệt. Trước đó, họ được dự một khoá học tập chính trị 21 ngày, mỗi ngày được hưởng phụ cấp bồi dưỡng 50 đồng. Ăn ở tại khách sạn dành cho khách quốc tế. Đi lại có xe con của Bộ nội vụ. Họ phải tuyên thệ giữ bí mật trước khi nhận công tác.

    Phương án sơ khởi của Viện qui hoạch chỉ có hai trang giấy đánh máy hàng đôi cỡ 21 x 27. Nhưng sau khi triển khai đầy đủ phương án gốc, tập tài liệu dày đến 200 trang đặc cỡ chữ nhỏ.

    Tuy nhiên phương án chi tiết này quên một điểm then chốt: đó là quyết tâm của các đồng chí lãnh đạo trong Bộ Chính trị. Sau cuộc họp khẩn tối thứ bảy hôm đó, về đến nhà, các vị mới thấy mình vừa chấp nhận một cuộc thử thách kỳ cục. Kể cả đồng chí tổng bí thư. Nhưng ai là người đầu tiên dám thú nhận mình không còn đầy đủ sinh lực để tiếp tục hi sinh cho cách mạng? Ai? Mao Trạch Đông còn dám bơi qua sông Dương Tử giữa ban ngày trước mắt hàng triệu triệu người. Còn mình? Chỉ gắng sức một tí ở chỗ không có ai trông thấy, mà hiệu quả tuyên truyền chẳng kém gì hành động ngoạn mục của họ Mao, tại sao không dám làm?

    Phải làm, tuy vẫn thấy kỳ cục, đó là vấn đề.

    Cho nên có vị bèn nhờ anh tài xế lái xe riêng cho mình. Có vị đi nhờ anh cần vụ. Anh cần vụ không hiểu gì ráo vẫn thấy kỳ, đi nhờ lại những chỗ làm ăn ơn nghĩa lâu nay với anh, như cửa hàng trưởng cửa hàng lương thực đặc biệt, như trưởng phòng thương nghiệp, anh phụ trách vật tư, thủ kho xăng dầu, công an kinh tế...nghĩa là các chức sắc cấp trung nắm trong tay rất nhiều tiền, và có trong óc rất nhiều kế móc ngoặc bọn cửa quyền để thủ lợi.

    Kết quả cuộc thử nghiệm ra sao?

    Chính xác lắm. Và các bạn đọc đừng ngạc nhiên khi thấy sang thế hệ thứ 4.5, thứ 5, thứ 6...những người kế nghiệp thực sự nắm quyền lãnh đạo đất nước là anh tài xế cán bộ thương nghiệp, cán bộ vật tư xăng dầu, công an kinh tế...

    Cha truyền con nối theo huyết thống mà.




    Nguyễn Mộng Giác

    Nguồn http://nguyenmonggiac.info/          
          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5416
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Ngựa Nản Chân Bon

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           




    Ngựa Nản Chân Bon
    Viết bởi Nguyễn Mộng Giác


    Gió vi vu làm nền cho lời ca thánh: ...”Nhờ công ơn lân tuất của Chúa ta, Đấng đã từ cao cho 'Mặt trời mọc' đến thăm viếng. Và soi sáng cho những ai còn ngồi trong u tối và trong bóng chết, để dắt chúng ta trên con đường an lạc. Lạy Chúa xin cho các linh hồn được yên nghỉ muôn đời và được hưởng ánh sáng nghìn thu. Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin ta thì dù có chết sẽ được sống lại, và ai sống mà tin ta thì không phải chết đời đời”.

    Vị linh mục đọc kinh Lạy Cha... và rảy nước thánh lên chiếc quan tài đóng vội bằng gỗ ván thuyền. Vợ người quá cố khóc thảm thiết, và lúc bấy giờ lời cầu nguyện lại làm nền cho tiếng khóc. ”Lạy Chúa, xin thương người quá cố này là tôi tớ Chúa. Xin đừng theo việc làm mà phán xét họ, họ vốn một lòng một ý với Chúa. Lại nữa, khi còn sống họ đã ở cùng đoàn thể các tín hữu, với một lòng tin tưởng thành thực. Xin vì lòng nhân từ Chúa, cho linh hồn Giu-se họp đoàn thể cùng các Thiên Thần Chúa trên trời. Nhờ Chúa Ki Tô, Chúa chúng con. Amen”. Quả phụ nín khóc. Dường như một lúc nào đó, tạm quên đau khổ nàng lắng nghe lời ca thánh, và bất chợt nhận thấy lời nguyện chung gần gũi với nỗi lo lắng và niềm mơ ước riêng tư. Hoặc niềm đau xót đã đến chót vót, khiến nàng bàng hoàng ngơ ngác, như người đã lên đến ngọn đỉnh trời, lo âu nhìn vực thẳm quanh mình, không biết làm gì nữa giữa chốn mây khói bàng bạc và gió thổi. Vị linh mục tiến thêm một bước để làm dấu thánh giá trên quan tài... ”Lạy Chúa xin cho linh hồn Giu-se được nghỉ yên muôn đời, và được hưởng ánh sáng nghìn thu. Xin cho linh hồn Giu-se được nghỉ yên. Amen. Mong cho linh hồn này và linh hồn mọi tín hữu, nhờ lòng lân tuất Chúa được nghỉ ngơi bằng an. Amen”.

    Đã đến giờ hạ huyệt. Từng nắm cát rơi rào rào trên tấm ván thiên, lâu lâu có lẫn tiếng sỏi rơi khô. Góa phụ lại nức nở khóc. Chẳng mấy chốc bên bãi đáp phi cơ trực thăng lập chon von trên sườn núi có thêm một ngôi mộ. Những người đưa tang lần lượt xuống núi, lòng nặng trĩu đẩy bước chân mau.

    Chờ cho góa phụ về xong, vị linh mục mới cởi áo lễ và mời mấy người bạn thân về lán mình uống trà. Họ vui vẻ nhận lời, mỗi người có lý do hoàn toàn khác nhau. Viên trung úy từng học ban triết ở đại học Văn Khoa trước khi bị động viên muốn bàn với linh mục vài vấn đề thuộc tín lý đạo Thiên Chúa liên quan tới cái chết và sự phục sinh. Ông nhà giáo muốn có dịp đưa ra nhận xét về ý nghĩa tang lễ. Cụ cán sự công chánh hồi hưu muốn quên một ám ảnh khó chịu và muốn thưởng thức trở lại vị trà thơm Đài Loan sau mấy tuần uống trà HCR nhạt thếch.

    Họ cùng vui vẻ xuống núi. Trong khi vị linh mục lui cui xuống bếp nấu nước sôi, ba người bạn cởi áo ngoài ngồi chờ trên những chiếc ghế làm bằng thân dừa cắt từng đoạn ngắn. Trời hôm ấy hơi bức, nên họ ăn mặc hết sức ”thoải mái”. Người nào cũng vận quần đùi. Cụ cán sự công chánh mặc chiếc áo thun tay cánh mầu xanh dương, trước ngực vẽ hai đứa trẻ cầm vợt vũ cầu với hàng chữ ”Joanna is my childday friend”. Lúc được tàu khoan dầu vớt, cụ bỏ quên áo nhà binh rách lưng dưới ghe nên một thủy thủ Tây Đức phải nhín bớt phần quà Noel gửi cho con trai giúp cụ đỡ rét. Ông nhà giáo có lẽ cũng gặp cảnh huống tương tự, nên mặc cái áo polo trắng có in hình một cô gái Hawai tóc đen dài quấn lơ là tấm khăn vải hoa thật sặc sỡ. Cô gái đứng cười lẳng lơ dưới gốc dừa, trong khi ông giáo phải cười ngượng nghịu mỗi lần có ai nhìn chăm chú vào ngực mình.

    Viên trung úy thì giữ được cái áo treillis cho đến tận cầu tàu đảo tị nạn, nhưng luật lệ ở đây không cho phép mặc đồ nhà binh, nên anh phải cởi áo nộp cho cơ quan quản lý trị an và xin một áo may-dô có vẽ chiếc trực thăng trên hàng chữ đỏ viết vội Ku Ku Camp. Vị linh mục đem nước sôi nấu trong lon pâté hộp lên. Ông cũng mặc quần đùi, khoác thêm cái áo sơ-mi trắng cũ. Ngồi chờ nước trà quanh cái bàn gỗ ép xiêu vẹo, cả bốn trở thành những người bình thường. Khó lòng đoán được quá khứ, nếu chỉ nhìn mái tóc dài và cách ăn mặc của họ.

    Viên trung úy ghiền cà phê không tha thiết mấy với chuyện uống trà, dù là trà Đài Loan thượng hảo hạng... nên không chịu kiên nhẫn chờ. Vị linh mục vừa ngồi xuống, anh đã vồ vập hỏi:

    “Lúc giảng kinh trên thánh đường, Cha có nghe chị ấy kể lể những gì không?”

    Cụ cán sự công chánh ngăn lại:

    “Chầm chậm đã nào! Trà chưa đượm đâu. Vội gì!”

    Linh mục do dự chưa biết phải theo phái già hay phái trẻ. Ông quay về phía nhà giáo, bắt gặp ánh nhìn khuyến khích. Linh mục cười rồi đáp:

    “Có chứ!”

    Anh trung úy liền hỏi:

    “Cha có bực mình không?”

    “Không.”

    Ông giáo tò mò hỏi:

    “Chị ấy nói gì thế?”

    Linh mục đáp thay cho anh trung úy:

    “Lúc ấy tôi đang hát: ”Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin ta thì dù có chết cũng sẽ sống lại, và ai sống mà tin ta thì không phải chết đời đời” - ”Góa phụ”, xin lỗi, phải nói cho đúng hơn là ”chị ấy” vật vã bên quan tài kêu khóc ”Em đã cầu nguyện liên tiếp bao nhiêu ngày mà Chúa có cho anh sống được đâu! Làm sao sống lại đây, anh ơi là anh!” Họ chỉ mới yêu nhau, và trốn cha mẹ dắt nhau sang đây trước khi làm lễ cưới. Chị ấy chưa nhận phép bí tích, chưa hiểu ý nghĩa sự sống lại.”

    Ông nhà giáo quên cả tính e dè cố hữu, chen vào hỏi:

    “Ở chỗ riêng tư xin hỏi thật Cha: Cha có tin ở sự sống lại không?”

    Câu hỏi bất ngờ gây thích thú cho mọi người, kể cả vị linh mục.

    Ông chậm rãi đáp, giọng tâm sự:

    “Tôi cũng xin thật thà đáp các bạn rằng đức tin đến với tôi không theo đường thẳng, lúc vào chủng viện tôi không đặt câu hỏi ấy. Tôi còn nhỏ tuổi, vào chủng viện hay không, có nghĩa đơn giản là vâng lời bố mẹ hay cưỡng lại. Tôi là một đứa con ngoan. Sau nhiều năm học giáo lý, tôi dần dần hiểu tầm quan trọng của câu hỏi, nhưng câu trả lời còn mập mờ. Nếu tôi tiếp tục ở lại chủng viện, có lẽ lý do chính là tôi sợ làm điều khác thường, điều gây ra tranh luận hoặc tệ hơn nữa là gây tai tiếng. Cuối cùng tôi xác quyết rằng có. Các bạn thấy đấy, nếu không khẳng định với tất cả niềm tin, tôi đã trở thành một người tu xuất rồi.”

    Thấy nét mặt viên trung úy có thoáng ngờ vực, linh mục hỏi:

    “Còn anh, anh tin không?”

    Trung úy đáp ngay:

    “Cha đừng phiền. Tôi không tin. Hình như Feuerbach hay Marx có nói rằng tôn giáo luôn luôn mang tính chất của nữ tính. Tôi không nhớ rõ ai nói vì sau mấy năm, mớ kiến thức triết học ít ỏi đã rỉ sét cả rồi. Nhưng câu nói trên thì nhất định đúng.”

    Vị linh mục mỉm cười bao dung, lắc đầu chầm chậm:

    “Rắc rối đấy. Không tin có sự sống lại thì sẽ không trả lời được nhiều câu hỏi hóc búa mà thiết thân: ”Từ đâu ta đến đây? Sống để làm gì? Chết rồi sẽ về đâu? Ý nghĩa của bao nhiêu bất công đau khổ trên quãng đời ngắn ngủi?...”

    Viên trung úy không chờ thêm được, cắt lời vị linh mục:

    “Những câu hỏi vô ích! Tại sao phải hỏi vậy? Chính cách đặt câu hỏi như thế là dấu hiệu của nữ tính hoặc của tuổi già. Người Pháp có một cách phân biệt tuổi già và tuổi trẻ, sức-mạnh-tự-tin và sự-yếu-đuối-chịu-đựng thật hay. Gặp một bức tường chắn lối đi, tuổi trẻ xem đó là một ”Obstacle à franchir”, tuổi già lại xem như một ”Surface à étudier”. Không nên trở lại những điều đã rồi như ”từ đâu ta tới đây”? Đau khổ ư? Bất công ư? Hãy gắng thu xếp ngay trong đời này chứ đừng nhờ vả hoặc hứa hẹn lần hồi. Còn cái chết? Tôi đoán được ý Cha: Chỉ có Thiên Chúa ban sự sống nên cũng chỉ có Thiên Chúa mới quyết định sự chết và cho sống lại. Không. Không. Chính con người dựng tượng Chúa thì con người có thể quyết định được cái chết. Điều quan trọng là dám hay không? Tôi cho rằng những người thực sự tin ở mình là những kẻ dám tự vẫn. Không chọn được lúc và nơi sinh ra, thì ít nhất cũng dám chọn cho mình lúc và nơi chết đi!

    Không khí tranh luận có vẻ căng thẳng. Cụ cán sự hồi hưu vội nói:

    “Tuổi trẻ thì lúc nào cũng thế, nhưng kinh nghiệm do lớp già chúng tôi thu thập được bằng cuộc đời thăng trầm, không phải đáng vất cả đâu. Chúng tôi đã từng u đầu vì nhiều bức tường cao, nhiều lần vì hăng tiết vịt, rồi mới cẩn thận ”nghiên cứu” nó. Tôi dịch étudier thành chữ ”nghiên cứu”, có đúng không nhỉ?”

    Nhà giáo cười lớn rồi bảo:

    “Cụ dịch hay lắm. Thâm lắm! Cụ mỉa mai khéo quá! Nhưng ta uống trà đi chứ. Nguội mất!”

    Linh mục chủ nhà nhớ lại phận sự của mình, cười xuề xòa rồi mời:

    “Các bạn uống trà đã. Mời cụ, mời anh. Trung úy uống trà đi. Chuyện đâu còn đó. Tôi xin trả lời trung úy về chuyện tự vẫn, sau khi ta thanh toán xong ”ấm” trà này. Xin cụ đừng cười. Tôi vẫn thường khoe với các giáo hữu cái rề-sô tự tạo và cái ”ấm Thiết Quan Âm” đặc biệt HCR này.”

    ***

    Rán thu xếp mọi sự trong đời này? Ai lại không muốn thế. Tôi cũng mong ước như trung úy. Và tôi tin rằng những con người dùng đồ đá thời tiền sử cũng khao khát ”thu xếp” gọn gàng cuộc đời mình với các phương tiện thô sơ. Chúng ta không biết họ có tìm được cách nào không, nhưng những di tích khảo cổ tìm thấy chứng tỏ họ chỉ tìm được một nền văn hóa tạm phù hợp với đời sống thực tế, còn những điều khó khăn, họ cũng hẹn lần hồi hay nhờ vả đến thần linh. Từ bấy đến nay biết bao thế hệ đã sống cuộc đời của họ trên quả đất này, và theo chỗ tôi biết, loài người vẫn chưa thu xếp xong. Triết lý, thần học thường nhắc đến chữ ĐẠO. Con đường của nó luôn mời gọi sự khai phá, mời gọi khởi hành. Cho nên những cuộc tranh luận về sự sống và phục sinh khó lòng đi cho đến một kết luận được mọi người công nhận. Con đường “đạo” để cất chân bước và sống trọn với niềm thao thức chân thành, chứ không phải cho kẻ đứng bên lề ”nghiên cứu” lạnh lẽo.

    Tôi dài dòng như vậy để giải thích vì sao thay vì dùng lý luận, tôi lại kể một câu chuyện để trả lời trung úy. Không. Tôi giới hạn trong vấn đề nhỏ thôi. Vấn đề tự vẫn để xác lập sự cao cả tự tín của con người. Tôi cũng xin nói thêm rằng câu chuyện này tuy có thực nhưng vẫn giống với chuyện tiểu thuyết. Nó không vraie, mà vraisemblable. Tôi xin dịch là “dường như có thực”, được không cụ? Tôi nhấn mạnh hai tiếng ”dường như” vì những điều người vợ nói với tôi, các bản thảo, sách vở người chết để lại, quang cảnh căn phòng trên gác xép lúc tôi đến, cùng những tìm hiểu của tôi sau này qua sách báo ở thư viện đều là những chứng liệu mờ ảo, có thể như thực theo nhận định và khả năng tổng hợp yếu kém của tôi, nhưng chưa chắc đúng là sự thực nếu chính người chết hồi sinh và đứng ra kể lại cách ”thu xếp” của mình. Tiện hơn hết các bạn xem đây như một thứ dụ ngôn. Hồi ấy tôi vừa được đổi về giáo xứ X. Công việc của một Cha xứ mới đến giáo xứ lần đầu bề bộn như thế nào, các bạn tưởng tượng được rồi. Tòa giám mục địa phận cho phép vị Cha xứ tiền nhiệm ở lại giúp đỡ, hướng dẫn cho tôi một thời gian, nhưng thú thật, vị ấy đi rồi, tôi cảm thấy bối rối. Giáo dân chiếm một nửa dân số ở vùng này, và vì ở sát một căn cứ Mỹ, nên thành phần dân chúng hết sức phức tạp. Gần giống như một đống rác vậy.

    Nhưng là rác Mỹ còn nhiều thứ phế thải đáng giá, nên ruồi nhặng tứ phương dồn về đây. Gái điếm, ma cô, trộm cắp, buôn lậu, lừa đảo, hối lộ. Tòa giám mục phải đổi vị Cha xứ tiền niệm về địa phận khác vì Cha ”cứng” quá, muốn mọi người phải sống đúng theo tinh thần Phúc âm, kể cả các quan chức nên va chạm nặng với chính quyền địa phương. Nhà cửa dựng vội quanh khu quân sự Mỹ thì luộm thuộm, sặc sỡ một cách lõa lồ với đủ thứ bảng hiệu tiếng Mỹ như Steak house, Laundry shop, Bar, Car washing, Room for rent. Các bạn đừng cười, có cả bảng quảng cáo ”Beautiful roommate for you” nữa. Theo lời khuyên của Cha tiền nhiệm, tôi bắt đầu tổ chức lại các hội đoàn và bình thường hóa các sinh hoạt phụng vụ. Những giáo dân đến tiếp xúc với tôi, đúng như trung úy nói, hầu hết là đàn bà. Gái điếm bị lính Mỹ bỏ ngang đến cầu cứu Chúa. Mà gái điếm ế khách toan hoàn lương cũng có. Không thiếu những bà mẹ lo lắng thấy con sa vào cám dỗ, hoặc những người vợ xanh xao mất chồng. Cho nên tôi không ngạc nhiên khi đang tập hát cho ca đoàn nhà thờ thì một người đàn bà ốm yếu, mặt hốc hác, mắt thâm quầng hớt hải đến tìm. Tôi nghĩ thầm: ”Lại thêm một bà mẹ mất con nữa đây”. Người đàn bà vừa gặp tôi đã quì xuống van lơn trong nước mắt:

    “Con van Cha! Xin Cha đến ngay cho! Nhà con đang hấp hối. Xin Cha làm phép giải tội cho nhà con!”

    Tôi vội đi ngay. Căn nhà ván ọp ẹp nghèo nàn nhưng không thuộc vào loại ”ăn xổi ở thì” như những Laundry shop, Bar, Room for rent vây quanh. Thoạt nhìn tôi đã đoán chủ nhà thuộc loại công chức nghèo lỗi thời, quyết giữ nếp nên kiên nhẫn đi ngược gió. Loại nhà hạng tiểu công chức ở phố huyện như các bạn thường thấy: Một cửa lớn và hai cửa sổ lá sách không lắp kính, phía trước có hàng rào gỗ thấp ngăn con nít ra đường, bàn ghế gỗ loại chắc và rẻ ở phòng khách, cái tủ chè đựng vài cái ly, bộ chén tách, hộp trà, đôi lọ thuốc cấp cứu gia dụng... Chỉ nội việc giữ nguyên gian phòng khách cổ lỗ bám bụi truyền thống chứ không sửa thành Room for rent cũng đủ chứng tỏ ”khuynh hướng bảo thủ” của chủ nhà. Tôi có thiện cảm ngay. Tôi chỉ hơi ngờ ngợ khi nhìn quanh không tìm thấy bàn thờ Chúa.

    Người đàn bà dẫn tôi qua một cửa ngăn có treo tấm màn cửa đã hoen ố cũ kỹ. Gian sau tối om và ẩm mốc. Ngay sau cửa ngăn có một cầu thang bằng gỗ dẫn lên gác xép. Người đàn bà thấy tôi dọ dẫm bước, liền nói:

    “Xin lỗi Cha. Để con đi thắp đèn.”

    Tôi quen dần với bóng tối nên đáp:

    “Khỏi cần. Cha đã thấy rõ các bậc cấp rồi.”

    Người đàn bà đi sau vẫn chưa yên tâm, run run nhắc:

    “Cha vịn vào thanh gỗ kẻo ngã.”

    Tôi leo thang chầm chậm, tò mò đưa mắt nhìn xuống phòng sau. Ngoài hai chiếc giường con hẹp màn gối bừa bãi, gian giữa chứa toàn sách là sách. Không có tủ kệ gì cả. Một miếng ván kê lên hai viên gạch, thế rồi trên đó chồng chất so le hết lớp sách này đến lớp sách khác, cao quá tầm người. Tôi khựng lại. Nếu người đàn bà không đẩy lưng tôi giục giã, giọng pha lẫn sợ sệt:

    “Xin Cha nhanh cho. Nhà con nằm trên đó.”

    Có lẽ tôi đã dừng lại để ngắm khung cảnh lạ mắt bất ngờ ấy rồi.

    Lên khỏi thang gác, tôi còn gặp bất ngờ khác lớn hơn. Gác xép thoáng khí hơn tầng trệt, cũng chồng chất toàn sách. Ánh sáng chiều tà dọi từ cửa sổ phía tây nhuộm vàng mọi thứ, kể cả người đàn ông đang nằm ngửa trên sàn gác. Quanh ông, sách vở, giấy tờ vất lung tung. Người vợ không dám lên khỏi cầu thang, ló đầu sợ sệt hỏi:

    “Thưa Cha, nhà con còn sống không?”

    Tôi vội bước đến chỗ người chồng nằm. Người đàn ông đã già, khoảng trên dưới sáu mươi. Hai mắt trợn. Lưỡi thè ra, nước miếng còn đóng bọt hai bên mép. Đũng quần ướt. Tôi đâm hồ nghi. Chăm chú nhìn kỹ chỗ cổ áo, tôi thấy có vết bầm tím xây xát quanh cái cổ xanh xao. Tôi vội ngước lên trần nhà, hy vọng mình đoán sai. Nhưng không. Một đoạn dây thừng còn treo lơ lửng, khẽ lay động khi có gió thổi. Tôi thất vọng, hơi giận khi quay lại nói với người vợ:

    “Ông ấy thắt cổ tự vẫn mà!”

    Người vợ đã lên khỏi cầu thang, đứng nép vào vách ván. Đoán được tâm trạng của tôi, bà ta phân bua:

    “Nhưng nhà con chưa chết. Hơn nữa, lúc còn sống...”

    Người vợ ngập ngừng, rồi dừng lại. Có lẽ bà chợt thấy câu nói của mình có mâu thuẫn vô lý. Tôi cúi xuống đưa tay sờ lên chỗ trái tim người chồng. Không cảm thấy gì cả. Sờ lên tay chân. Còn mềm nhưng bắt đầu lạnh. Khuôn mặt khắc khổ bất động, cái nhìn trợn trừng mờ đục, vừa giận dữ vừa chới với. Tôi quay lại nói dứt khoát:

    “Ông nhà chết rồi!”

    Người vợ bật khóc nức nở, rồi sụp xuống quì bên cạnh tôi. Giọng bà hối hả thống thiết:

    “Con van Cha. Cha hiểu giùm con. Không phải con lừa dối Cha. Lúc con lật bật cắt dây đem nhà con xuống, nhà con vẫn còn thở. Nhà con có lầm bầm gì đó, con nghe hình như nhà con muốn xưng tội. Trước đây đôi lần nhà con cũng có ý đó. Thế nào nhà con cũng viết trên bản thảo. Xin Cha tin con. Con van Cha. Xin Cha làm phép giải tội cho nhà con. Con van Cha! Con lạy Cha!”

    Nói xong, người vợ khóc lớn hơn. Tình cảnh tôi thật khó xử. Rõ ràng người đàn ông này đã tự ý quyết định cái chết của mình, đã cướp

    đoạt quyền năng Thiên Chúa, đã ”dám chọn cho mình lúc chết và nơi chết” như trung úy vừa bảo. Còn cái ý định muốn xưng tội từng viết đâu đó trên tờ bản thảo nào đó nằm lây lất khắp gác xép, thì đáng ngờ lắm. Làm sao cho khỏi đi ngược với tín lý? Nếu không có những chồng sách và khung cảnh ”ngược gió” đầy khắc kỷ vừa gây thiện cảm cho tôi, có lẽ tôi đã từ chối dứt khoát từ lúc đầu. Tôi mới về một giáo xứ lạ và phức tạp, các bạn hiểu cho, tôi cần giữ một số nguyên tắc. Tôi do dự chưa biết phải làm thế nào; chỉ vì chất khắc kỷ ấy đã thuyết phục tôi. Cuối cùng khuôn mặt xanh xao thống khổ và đôi mắt van lơn của người vợ khiến tôi nhượng bộ. Tôi hỏi tên thánh của người chồng. Người vợ mừng rỡ cho biết tên Bao-ti-xi-a. Tôi làm phép giải tội. Nhưng làm xong, tôi lại sợ đã làm điều trái với Phúc âm. Hy vọng còn lại của tôi là sẽ tìm được ý muốn xưng tội của người chết giữa đống bản thảo. Tôi đã đoán không lầm. Người chết là một nhà văn, một nhà tư tưởng từng xuất bản nhiều sách và đăng nhiều bài tiểu luận trên tạp chí.

    Việc đầu tiên của tôi là hỏi cặn kẽ về nguyên do cái chết. Người vợ được thỏa nguyện nên lấy lại đủ bình tĩnh để nghe và đáp. Cho đến chiều hôm trước, người chồng chưa tỏ điều gì khác thường. Mái tôn rỉ sét, mưa dột vào gian giữa tầng dưới, nên người vợ thấy chồng cặm cụi xếp dọn lại đống sách cũ, không lấy làm ngạc nhiên. Ông xuýt xoa tiếc rẻ những cuốn bị thấm nước hoặc bị mối đục, rồi bê hết những cuốn sách quí có đóng bìa da gáy in chữ vàng lên gác. Cẩn thận hơn, ông đem chiếc ghế đẩu theo để làm giá. Những hành động đó bình thường, hoàn toàn bình thường. Người chồng thức khuya, vật vã khổ sở với đống bản thảo. Chuyện đó cũng bình thường nốt. Điều bất thường duy nhất là buổi sáng, người chồng cứ thắc thỏm chờ đợi cái gì, lâu lâu nhắc người vợ sao đã trưa chưa đi chợ. Người vợ hẹn chiều. Người chồng ậm ừ khó chịu, rồi im lặng... Lúc 2 giờ, người chồng dặn vợ nếu đi chợ nhớ mua cho ông bánh thuốc lào loại 888. Dù thức ăn còn đủ đến sáng hôm sau, người vợ bắt buộc phải ra chợ huyện. Lúc trở về, ông đã thắt cổ tự vẫn rồi. Tôi thắc mắc:

    “Tại sao chồng sách quí lại đổ vương vãi thế kia?”

    Người vợ có vẻ lo âu, ngập ngừng nhìn xác chồng một lúc như ngại người chết nghe thấy, rồi mới đáp nhỏ:

    “Nhà con không dùng cái ghế đẩu. Nhà con xếp chồng sách cho cao, leo đứng trên đó để...”

    Bà liếc nhìn đoạn dây thừng đong đưa, mặt xám xanh, không nói tiếp được. Tôi hiểu. Thật khéo chọn cách chết. Đúng là ”cái chết chín chắn hàm súc” của một nhà tư tưởng suốt đời nhọc nhằn với đống sách vở. Tôi đưa mắt nhìn chiều đổ của đống sách quí. Đúng lắm. Sách đổ theo một chiều, cái chiều người chồng đã lấy đà ẩy ngã chồng sách kê sau khi đưa cổ vào thòng lọng. Tôi tò mò muốn xem những cuốn sách được lựa chọn làm chân đế cho cái chết tự nguyện. Các bạn đoán thử xem những cuốn gì!

    Biết vị linh mục muốn áp dụng kỹ xảo của những tay kể chuyện nhà nghề, ưa chọn chỗ hấp dẫn nhất làm phút giải lao, ba người kiên nhẫn chờ nhà tu chầm chậm uống hết ca nước trà. Viên trung úy mất kiên nhẫn trước tiên, nên hỏi vội:

    “Ông ta là nhà tư tưởng ư? Cha cho biết tên được không?”

    Linh mục đáp:

    “Rất tiếc, như đã nói từ đầu, tôi muốn giữ nguyên cái chất vraisemblable của câu chuyện. Những cuốn sách quí tôi tìm thấy ngay dưới chân xác chết là bộ Tứ Thư bằng chữ Hán, Kinh Viên Giác và Lăng Nghiêm do Viện Phật Học Nam Việt xuất bản, bản Đạo Đức Kinh xuất bản tại Hồng Kông, Nam Hoa Kinh do Nhượng Tống dịch, bản dịch kinh Coran bằng tiếng Pháp, bộ Tư Bản Luận của Karl Marx, bộ Luận Về Lịch Sử của Toynbee, cuốn sách mỏng: Bài học lịch sử của Ariel & Will Durant, cuối cùng, dĩ nhiên phải có bộ kinh Cựu và Tân Ước. Trung úy thấy đấy, một người đã bỏ cả đời đọc đi đọc lại bao nhiêu cuốn kinh sách để gắng trả lời các câu hỏi bức thiết ”Ta từ đâu đến? Sống làm gì? Chết về đâu? v.v...”, để gắng ”thu xếp”. Ông ấy tìm được gì chưa? Lúc đó tôi cũng hỏi như vậy. Tôi quay lục tìm đống bản thảo bừa bộn. Đọc kỹ các tựa đề và số thứ tự ghi ở góc trên mỗi xấp bản thảo, tôi mới khám phá ra nhiều điều thú vị khác. Không. Các bạn yên tâm. Lần này tôi không bắt các bạn làm thầy bói nữa đâu. Hóa ra đống bản thảo chỉ có vẻ bừa bộn bề ngoài.

    Đọc kỹ, tôi thấy tác giả đã xếp riêng từng khóm, mỗi khóm luận về cũng một loại đề tài. Kỹ lưỡng hơn, trong mỗi loại có xếp thứ tự các bài viết theo thời gian. Bài viết xưa nhất viết năm 1940 về phong trào đấu tranh của thợ mỏ Cẩm Phả. Bài mới nhất ”viết” một ngày trước khi tự vẫn, xếp vào loại siêu hình học, chỉ đơn giản là một trang giấy học trò với một dấu hỏi và một dấu than lớn nét run run bằng mực viết nỉ. Tôi đã đoán như thế này, không biết các bạn có đồng ý không. Nhà văn đã chuẩn bị kỹ cho cái chết của mình, chuẩn bị trong sáng suốt và tự chủ. Từ nhiều hôm trước, ông đã lục và đọc lại tất cả những bài mình viết từ gần 40 năm nay, đọc thật kỹ rồi mới phân loại, ghi số. Thu hoạch kết quả suy nghiệm bao nhiêu năm, ông mới ”viết” bản thảo sau chót. Một dấu hỏi, và một dấu than. Ông quyết định tìm cái chết. Ban đầu ông định tìm cái ghế đẩu, và muốn vợ con bạn bè còn ở lại khỏi hiểu lầm, ông xếp chồng sách quí và xấp bản thảo ngay ngắn bên cạnh cái ghế. Nhưng tới lúc leo lên ghế để thắt thòng lọng, nhà văn chợt tìm ra một chân lý.

    Những chuẩn bị cẩn thận vừa làm có ý nghĩa gì trước cái chết? Sách quí ư? Nó có giúp ông hiểu gì thêm về cuộc đời? Những điều ông suy luận ư? Nó ”thu xếp” được gì cho ông và cho đồng loại? Ông tự thấy lẩm cẩm. Ông nhấc cái ghế đẩu đặt vào góc phòng, quyết định dùng chồng sách thay vào. Còn bản thảo, làm gì bây giờ? Đây mới thực là máu thịt, là mồ hôi nước mắt của đời ông! Ông muốn vất tung tóe cho xứng với dấu than trong bản thảo cuối. Nhưng niềm kiêu hãnh tuyệt vọng của người cầm bút ngăn ông lại. Ông vẫn vất chúng đi, từ trên chồng sách quí. Nhưng vất theo từng xấp, từng loại! Những bài báo và sách của nhà văn về sau tôi tìm đọc ở Thư Viện Quốc Gia xác nhận dự đoán của tôi. Nhà văn đã gặp bế tắc về tư tưởng. Ông hăm hở mở đường, nhưng về già thì gặp tuyệt lộ. Điều đáng yêu (hoặc đáng thương tùy theo lượng bao dung của từng người) là đến phút chót, ông ấy vẫn hy vọng cách chết của mình mang một message, một thứ sứ điệp nào đó.”

    Cụ cán sự hồi hưu hỏi:

    “Rồi Cha có tìm được bản thảo ghi ý muốn xưng tội không?”

    Vị linh mục đáp, thật trầm tĩnh:

    “Có, tôi tìm ra ngay.”

    Đoán biết ba người bạn chờ đợi, linh mục tiếp:

    “Tôi tìm ở dấu than của bản thảo cuối cùng.”

    ***

    Điều dễ đoán là ngay sau khi vị linh mục dứt lời, viên trung úy giành nói trước:

    “Xin Cha đừng buồn. Tôi xin nói ngay là tôi không đồng ý với cách suy luận của cha. Cha vừa nói hành động cuối cùng của nhà văn đó đáng yêu hoặc đáng thương tùy theo lượng người. Nếu tôi không lầm, cha cho là đáng thương chứ gì? Tôi cho thật đáng yêu! Đáng kính! Cha đã lầm lẫn ở một số điểm quan trọng thuộc phương pháp suy luận. Tuy cha có cẩn thận không dám xác định câu chuyện vừa kể là có thật, là vraie, mà chỉ vraisemblable, dường như có thật. Còn xa với ”dường như có thật” lắm lắm! Cha quan sát khung cảnh gác xép để tưởng tượng ra diễn tiến cái chết, rồi dùng các bản thảo đọc vội lẫn sách báo do người chết viết để kiểm chứng. Phương pháp ấy không thể tái tạo sự thật được. Này nhé, những gì chúng ta cảm thấy, nghĩ ra phần lớn đều mông lung, phức tạp. Khi định được ý, ta đã loại bỏ không thương tiếc một số yếu tố không phù hợp với lý trí, hoặc ước lệ xã hội. Rồi từ lúc định ý cho đến lúc viết thành chữ, ta lại phải đơn giản hóa, hệ thống hóa để người khác hiểu được. Chữ viết là một thứ đồ nguội, tệ hơn nữa, một thứ đồ hộp có chỉ dẫn tỉ mỉ cách pha chế cho tiện lợi đối với kẻ phàm tục lười biếng.

    Cái nóng hôi hổi đang bốc hơi, cái còn chảy máu không thể diễn ngay thành chữ. Cho nên đọc những gì người ta viết để tìm hiểu họ là điều đáng ngờ. Nếu vạn bất đắc dĩ không có cách nào khác thì chỉ nên tin những gì họ viết vào ba thời điểm sau đây: Thứ nhất là những tác phẩm thời niên thiếu, lúc họ chưa nổi danh nên chưa tự uốn nắn bản ngã vì cái hào quang giả tạo. Tôi tin những gì Marx viết lúc còn trẻ giá trị gấp mấy trăm lần bộ Tư Bản Luận. Thứ nhì là những gì họ viết lúc về già. Khổng Tử thú nhận đến 70 tuổi mới hiểu đôi chút về lẽ Dịch. Có lẽ lúc ấy, ”Ngài” nhớ lại cái thời cắm cúi san định Thi, Thư, Lễ, Nhạc, sẽ không khỏi đỏ mặt vì lẩm cẩm quá. Thứ ba là những gì họ nói họ viết lúc rong chơi. Rong chơi thì khỏi cần làm dáng làm bộ với ai nữa, có nói điều gì cũng khỏi sợ đồ đệ chộp lấy ghi thành kinh lưu cho hậu thế. Con người thật của Khổng Khưu chỉ hiện ra khi ông ao ước thấp lè tè, ao ước được tắm một phát ở sông Nghi, hóng mát ở đền Vũ Vu, rồi dang tay hát nghêu ngao mà về. Ngoài ba thời điểm đó ra, những gì một người viết đều có tính cách bất thấu quang, đều opaque. Nhưng thôi cứ tạm nhận như ý cha, là ông ấy tuyệt vọng trước khi tự vẫn đi. Con người ở cảnh tuyệt lộ đã đáng thương chưa? Thưa cha, chưa. Ngược lại, ngay trong trường hợp bế tắc, tuyệt vọng, cái chết tự ý vẫn hết sức cao cả. Bắt chước cha, tôi xin kể một câu chuyện có thực.”

    Vị linh mục bẻ lại:

    “Có thực theo tiêu chuẩn gì? Theo những điều anh nghe, hay theo lời đồn đại?”

    Trung úy đáp:

    “Theo những điều tôi thấy. Cha yên tâm, tôi cố gắng hạn chế các suy luận chủ quan, để chỉ còn những dữ kiện thô, chưa trau chuốt. Hồi ấy vòng phòng thủ cuối cùng ở Xuân Lộc đã vỡ, Sài Gòn ở trong tình cảnh tuyệt vọng hoảng loạn. Ông Thiệu từ chức giao ghế cho cụ giáo già sau khi hứa sẽ ở lại với ”anh em binh sĩ” chiến đấu đến đồng đô la cuối cùng. Không biết cụ giáo có chống gậy lên Tân Sơn Nhất tiễn gia đình người bạn chiến đấu hay không; có lẽ cụ mệt quá, chán cho nhân tình thế thái không hợp lẽ Quốc Văn Giáo Khoa Thư quá, nên cụ vội trao ghế cho Big Minh. Ông Minh vơ đầu này đầu kia vẫn không đủ người lập nội các, định gọi điện thoại mời ai thì đã nghe chị sen anh tài xế người đó đáp là ông chủ đã xách va-li lên Tân Sơn Nhất rồi. Kẹt nhất là Bộ Quốc Phòng. Giao cho ông tiến sĩ luật cái bộ súng đạn, Big Minh không yên tâm chút nào. Chất nổ, xe tăng, máy bay đâu có chịu học luật! Nhìn quanh chỉ toàn các tướng về vườn lâu nay chuyên mở tiệm nhảy đầm, nuôi gà, làm thầu khoán. May còn có ”anh cả Trường Sơn” dòng dõi hoàng tộc để giao khoán cái Tổng Tham Mưu. Anh cả lên ti-vi chửi bọn chuột nhắt hèn nhát không lo đánh đấm mà chỉ lo trốn, rồi ngay hôm sau, chính anh cả cũng làm chuột nhắt. Ở các bến tàu, sân bay, thiên hạ chen chúc nhau, nếu cần dày xéo chém giết nhau để tìm một chỗ ra đi. Lính rã ngũ vất quần áo súng đạn đầy hai lề xa lộ, chỉ mặc độc cái quần đùi thất thểu qui cố hương. Cướp bóc lan tràn khắp phố phường. Cái cảnh chợ chiều ấy, các bạn đã chứng kiến tận mắt, tôi khỏi cần phải dài dòng.

    Tôi chỉ nhắc sơ lược để lưu ý các bạn rằng hồi ấy chúng ta hoang mang cùng cực, không có lấy một chút gì để tin tưởng nữa. Cùng thất trận, nhưng chúng ta khác xa với tình cảnh dân tộc Đức và Nhật năm 1944, 1945. Họ còn được niềm kiêu hãnh. Các sĩ quan Nhật mổ bụng tự vẫn với lương tâm bình yên và một niềm tự hào ngút ngàn. Chúng ta hồi đó có gì? Không có gì cả. Ngoài lòng trung thực ra, chúng ta không có gì làm vốn để dám lên ti-vi chửi bới ”lũ chuột nhắt”, mà cũng không đê tiện đến nỗi chửi xong vội vã cuốn gói ra đi. Không biết các bạn thế nào, thú thực hồi ấy, tôi dùng dằng bất quyết. Ra đi thì không muốn. Ở lại thì e ngại. Cuối cùng phải tìm đủ lý luận để trấn an mình. Nào là mình chỉ là hạng sĩ quan nhép ngồi bàn giấy, không tội tình gì phải lo sợ. Nào là thà làm cái xác chết bón cho cây Việt Nam hơn là làm kẻ tha hương lơ láo! Đất nước thống nhất rồi, Nam Bắc một nhà, bây giờ ta có dịp ”nối vòng tay lớn”. Một ông bạn thi sĩ của tôi làm ngay bài thơ tả khoái cảm lúc ngồi xe lửa hạng nhất có couchette đi du lịch từ Sài Gòn đến tận ”Mục Nam Quan”, đến mỗi ga vẫy tay chào những người anh em thân ái, đùa với em bé, hàn huyên với cụ già, tay bắt mặt mừng với đôi mắt rướm lệ.

    Chung chung thì bọn chúng ta đều lãng mạn như vậy cả. Hoặc bỏ ra đi, hoặc ở lại với cái ”mộng thanh bình”. Không như Nhật năm 1945, rất ít người nghĩ đến chuyện tử tiết! Tử tiết để làm gì? Cho ai? Cho những ông tướng chiến đấu đến đồng đô la cuối cùng à? Hay cho cụ giáo? Cho ông Minh? Phải có một niềm tin sắt đá vào cái gì đó, hoặc một niềm kiêu hãnh cao cả nào đó, người ta mới tử tiết được chứ! Cho nên tôi hết sức kinh ngạc khi nghe tin một số tướng tá ở Vùng 4 đã tự vẫn chết, sau khi căn dặn cấp dưới chuẩn bị kỹ thủ tục ”bàn giao” theo lệnh tân Tổng Thống. Người dễ dãi vô tư tiếc rẻ giùm họ. Việc gì tự làm khổ thân thế! Sao không khôn ngoan như anh cả Trường Sơn? Người ưu tư thì hoang mang. Nhưng bao nhiêu chuyện đổi đời dồn dập đến sau 30 tháng Tư 75 khiến thiên hạ không còn tâm trí đâu nghĩ đến họ nữa. Lâu lâu nhớ lại, họ thấy thương, và phục, một cách mơ hồ thuần cảm tính.

    Nếu không tận mắt chứng kiến một cái chết tương tự, có lẽ tôi cũng giống như bao nhiêu người khác. Hôm ấy là ngày 2 tháng Năm 75, ba anh em tôi, một đứa Hải Quân lái tầu tuần duyên ở Nha Trang, một đứa phi công AD6, một đứa Chiến Tranh Chính Trị Quân Đoàn I, may mắn đoàn tụ ở Sài Gòn trước ngày 30 tháng Tư, sáng hôm ấy mở cả caisse Champagne (Champagne dân hôi của khuân từ kho lương thực Mỹ ở quân cảng về bán rẻ rề ở chợ Tân Định, mỗi chai 300$), cắt nguyên một cái đùi jambon (cũng nhãn hiệu Mỹ cùng xuất xứ) ra nhậu mừng hòa bình và đoàn viên. Chúng tôi hân hoan, ”hồ hởi” chờ đợi một ông anh tập kết ra Bắc năm 1954 sắp về. Thằng em Hải Quân định về Cần Thơ mua vườn, đào ao nuôi cá. Thằng lái AD6 muốn lên cao nguyên khai hoang, hai vợ chồng sẽ sắm đôi ngựa để chiều chiều thắng yên phi trên đồi cao nhìn xuống cảnh thung lũng như những lúc nhìn từ buồng lái AD6. Thật khôi hài mà cũng thật cảm động! Nhậu xong, chúng tôi dứt khoát với quá khứ bằng cách đem hết đồ nhà binh, thẻ bài, mũ mãng cân đai ra hỏa thiêu. Mẹ chúng tôi cười chảy cả nước mắt.

    Thôi, thế là từ nay hết thắc thỏm lo âu mỗi khi nghe tin chiến sự! Qua được bao năm bom đạn mà lũ con trai còn trở về đầy đủ, chẳng những thế, không đứa nào bị thương tật, còn phước nào lớn hơn! Chúng tôi đèo nhau trên hai chiếc Honda đi xem phố xá. Cờ đỏ, khẩu hiệu vải đỏ, bảng cơ quan nhà nước màu đỏ. Ở đâu cũng đỏ ối. Ở đâu cũng chói lòa. Chúng tôi ra đường Lê Lợi. Người chật như nêm. Xe hơi, xe Honda phun khói mù mịt, chờ thật lâu ở các ngã tư mới nhích được một bánh. Người đi bộ thì xúm quanh các toán bộ đội, xe tăng. Thấy đi xe bất tiện quá, chúng tôi gửi xe đi bộ. Mệt, khát, tôi đề nghị vào Givral tìm cái gì để uống. Hai đứa em đồng ý ngay, nhưng trong tiệm kem cũng chật cứng. Các bạn nhớ, dân Sài Gòn hồi đó vung tiền qua cửa sổ vì những cuộc nhậu nhẹt lu bù. Sợ chẳng mấy chốc tiền cũ không xài nữa, hoặc nghe nói cách mạng chủ trương sống tiết kiệm khắc khổ, không ăn bây giờ về sau lại tiếc. Tìm không ra ghế, chúng tôi qua công viên trước Quốc Hội đứng đợi. Hai pho tượng Thủy Quân Lục Chiến vẫn chỉ súng vào cái nhà hát vắng đào kép. Tôi đang trỏ lên ngọn cây trước Quốc Hội bảo các em:

    “Nếu những cây này biết nói và viết, thì chắc chúng đã trở thành những nhà viết sử tài ba.”

    Thì một người đàn ông khoảng 40 tuổi mặc áo mưa mầu xanh đậm loại Không Quân đến gần chúng tôi. Cậu lái AD6 tưởng gặp một xếp lớn cùng binh chủng, sửa lại thế đứng để chờ chào theo thói quen quân kỷ.

    Nhưng không! Người đàn ông không quen biết gì với chúng tôi cả. Qua khỏi ghế đá chúng tôi ngồi, ông ta tiến đến chỗ bục đặt tượng, ngước nhìn hai anh Thủy Quân Lục Chiến một lúc. Thằng em Hải Quân của tôi khôi hài:

    “Chắc là một người anh em vừa từ Bắc vào!”

    Tôi hỏi:

    “Sao biết?”

    “Trời bức người đông thế này mà mặc áo mưa là một sự lạ. Loại áo nhà binh này, dân Sài Gòn đang giấu hoặc đốt đi không ai dám mặc. Chỉ có ”người anh em” vừa mua được chiếc áo tốt mới dám mang đi khoe phố mà thôi!”

    Chúng tôi cười, phục đứa em thông minh. Người đàn ông khác thường trở thành mục tiêu quan sát của chúng tôi. Ông ta đứng nhìn hai pho tượng khá lâu, rồi nhìn quanh như có ý chờ đợi ai. Nét mặt ông khắc khổ, lo lắng. Tôi đoán ông đi lạc, không biết đường về cơ quan. Nếu không có lòng tự ái của kẻ thua trận, có lẽ tôi đã tiến tới gần chỉ dẫn giùm lối về cho người anh em rồi. Làm thế thì còn mặt mũi nào! Mới hai ngày đã sợ sệt quò lụy với kẻ chiến thắng đến thế sao! Hai đứa em tôi cũng nghĩ như vậy, nên cả ba chúng tôi vẫn ngồi nguyên chỗ cũ.

    Người đàn ông nhìn quanh quất một lúc, rồi đứng nghiêm, nhìn thẳng về phía Quốc Hội. Ông ta mở cái gói giấy từ đầu vẫn kẹp ở nách bên phải ra. Hình như tay ông hơi run. Chúng tôi càng tò mò hơn. Đang cúi xuống mở nút dây buộc, đột nhiên ông ngước lên nhìn thẳng về phía chúng tôi. Ánh nhìn đầy thảng thốt ngờ vực. Tôi sợ ông ta khó chịu vì chúng tôi tò mò, nên nhìn tránh đi nơi khác. Hai em tôi cũng vậy. Lúc tôi quay lại, đã thấy ông ta đội cái mũ két sĩ quan lên đầu và đang cởi hàng nút cái áo mưa. Lạ thật! Ông ta điên chăng? Vài người dạo phố bắt đầu tò mò thắc mắc như chúng tôi. Người đàn ông cởi áo mưa thật nhanh, và khi ông ta vất chiếc áo mưa xuống, chúng tôi đều sững sờ:

    Ông ta mặc nguyên bộ lễ phục của sĩ quan chuyên nghiệp đào tạo từ trường sĩ quan cảnh sát, với quân hàm trung tá vàng chói. Không để cho chúng tôi ngạc nhiên lâu hơn, ông đứng thẳng người, mắt nhìn thẳng về hướng Quốc Hội, và rút súng lục từ quần ra tự bắn vào đầu. Tiếng súng nổ nhỏ thôi, nhưng ba anh em chúng tôi đều bàng hoàng sợ hãi. Tôi bật đứng dậy. Viên trung tá ngã ngửa ra, nằm thẳng, đầu hướng về phía Quốc Hội. Thân ông oằn lên một chút, rồi nằm trở lại thế ngửa, hai chân dãn ra. Hình ảnh cuối cùng tôi thấy được là hai chân người hấp hối cố gắng... cố gắng hết sức để khép lại cho đúng thế nghiêm.

    Người hai bên phố ùn ùn kéo đến. Chúng tôi sợ rắc rối nên chạy qua phía Givral, cố tìm cho được một chỗ để vừa giải khát cho đỡ hồi hộp vừa quan sát tiếp chuyện sắp tới. Khách đã bỏ đi nhiều nên cả ba chúng tôi tìm được chỗ ngồi. Nhưng có ai dọn kem cho chúng tôi đâu. Bên kia cửa kính hiệu kem sang trọng có máy lạnh, chúng tôi chỉ thấy toàn lưng với lưng. Có tiếng xe cứu hỏa hú còi. Đám đông sợ hãi chạy dạt xa hai pho tượng. Nhờ thế, tôi mới thấy xác viên trung tá đã được phủ bằng một tấm vải trắng. Tấm vải hơi ngắn, nên chỉ phủ được thân người và cái đầu.

    Đôi chân người chết khép chặt, mũi giầy thẳng lên bầu trời đúng theo thế nghiêm. Về sau tôi được biết tấm vải là cái khăn phủ bàn của hiệu kem Givral.”

    Ông giáo nghe đến đó, cảm động kêu lên:

    “Thật là oái oăm! Tại sao có sự trùng hợp kỳ lạ vậy?”

    Vị linh mục hỏi:

    “Ông nói gì thế? Cái gì trùng hợp?”

    Ông giáo ngồi chờ cho bớt xúc động rồi đáp:

    “Phải. Đúng là một sự trùng hợp oái oăm! Cha thử tưởng tượng xem.

    Trên tấm khăn trải bàn hiệu Givral ấy, đã dính bao nhiêu nước mồm nước dãi của bọn đào kép từng gấu ó nhau trong cái nhà hát lớn. Đứa này tố đứa kia buôn thuốc phiện. Đứa kia tố đứa nọ buôn lịch cởi truồng. Đứa ngụy hòa, đứa thân Cộng. Đứa bảo không có đàn ông làm sao có đàn bà. Đứa bảo không có đàn bà làm sao có đàn ông. Đứa đòi quyền đái ngoài đường. Đứa đòi thừa nhận con hoang. Tấm khăn bàn ô nhục ấy phủ được khuôn mặt và thân thể người chết, nhưng có phủ được đôi chân nghiêm chỉnh đâu. Viên trung tá tự vẫn trước Quốc Hội vì còn nghĩ khi kéo qua Givral giải lao, chúng chỉ làm bẩn được tấm khăn liệm nhỏ xíu. Chúng không lấy thúng úp voi được!”

    Anh trung úy không ngờ câu chuyện kể của mình có ý nghĩa lớn lao như vậy, đỏ mặt vì sung sướng lẫn ngượng ngùng. Anh thêm tự tin khi nói tiếp:

    “Câu chuyện của tôi chỉ có vậy, thưa cha. Chỉ là một số những ghi nhận còn thô, xù xì không trau chuốt. Tôi không dám nhận cách suy diễn lý thú của bạn nhà giáo, vì nó tượng trưng quá. Tôi chỉ nghĩ đơn giản thế này: Dù ở trong hoàn cảnh tuyệt vọng, hành động tự sát của ông trung tá vẫn xác định trọn vẹn được ý nghĩa cuộc đời mình. Cha từng hỏi: Sống để làm gì? Vâng! Tôi ”thu xếp” câu hỏi đó lại, thành câu trả lời này: Không thể chấp nhận được cuộc sống không có ý nghĩa! Một tên đánh thuê có lẽ sống của tên đánh thuê. Kẻ phiêu lưu tìm ý nghĩa trong tư tưởng chủ não: Điều quan trọng không phải ở chỗ vì sao ta bỏ đi, mà ở chỗ cái mới ta sẽ tìm thấy. Cái chết của viên trung tá khiến tôi liên tưởng đến cái chết của Mishima, tác giả Kim Các Tự. Dường như (xin Cha nhớ cho đây là lần đầu tôi dám nói một điều ”dường như có thật”), dường như trung tá muốn nhắn với bạn bè và kẻ thù của ông rằng: Tuy thất bại, ông vẫn phải được kính nể như một địch thủ nghiêm chỉnh. Một cách ”thu xếp” cuộc đời trọn vẹn đấy chứ, thưa cha!”

    Hai người đã phát biểu ý kiến của mình. Nhiệt tín của nhà tu, lòng đam mê tự tin của tuổi trẻ, cộng với sự quá khích háo thắng thường thấy trong các cuộc tranh luận, đã khiến vô tình họ trở thành những người đối địch không khoan nhượng. Những tiếng ”thu xếp”, ”dường như là có thật” trao qua trả lại hoài, cuối cùng thành tiếng mỉa mai. Vị linh mục và trung úy cũng nhận thấy điều đó, nên sau khi trung úy dứt lời, linh mục mỉm cười gật gù, tỏ ý chấp thuận một phần không nhỏ lập luận của đối thủ.

    Tuy thế cụ cán sự hồi hưu vẫn chưa yên tâm. Cụ thích sự hài hòa, ghét tất cả cái gì quá khích. Cho nên cụ sợ vị linh mục lại sắp nhập cuộc. Thấy nhà tu im lặng mỉm cười, cụ lại hiểu lầm rằng linh mục muốn biểu lộ lòng rẻ rúng, khinh khi. Cụ muốn xoay câu chuyện sang phía dễ dãi. Cụ cán sự hồi hưu hỏi ông giáo:

    “Hồi trước ông làm gì mà thông thạo sinh hoạt ở Quốc hội đến thế?”

    Ông giáo đáp:

    “Trước tôi dạy học. Trường Nguyễn Trãi bên Khánh Hội, cụ biết chứ?”

    “Vâng. Tôi có mấy đứa cháu cũng học ở đấy. Ông siêng đọc báo lắm nhỉ?”

    “Không có đâu ạ. Bị bắt buộc đấy!”

    “Sao thế?”

    “Mấy năm Mỹ qua, vật giá lên cao quá. Đồng lương giáo sư không đủ sống. Nhà tôi lại hẹp, không có phòng nào dư để sửa thành ”Room for rent”. Vì thế, tôi xin thôi dạy, ra làm quản lý trị sự cho một tờ nhật báo.”

    Biết thế nào ba người cũng hỏi, nhà giáo tiếp luôn:

    “Báo Tranh Đấu, chắc cụ và cha có đọc. Trung úy thì tôi không dám hỏi, vì báo tôi ”già” lắm, thuộc phái thủ cựu. Tôi có cậu em rể làm chủ bút, nên giới thiệu giúp cho. Sau ”giải phóng”, tôi khổ sở vì tờ báo liên miên.”

    Trung úy hỏi:

    “Sao thế?”

    “Tờ Tranh Đấu bị xếp vào loại phản động, mập mờ vuốt ve giới lao động mà thật sự là CIA của Mỹ. Các ông ấy bảo vậy. Khốn nỗi chủ nhiệm, chủ bút, các biên tập viên chính đều ra đi cả, còn trơ một mình tôi ở lại. Tôi trở thành đầu têu của một ”cơ quan tình báo” núp sau hoạt động báo chí. Cho đi tù là phải!”

    Mãi đến lúc đó, ba người mới biết nhà giáo hiền hòa ít nói đã từng nếm mùi tù đầy khá lâu. Cụ cán sự hồi hưu hỏi:

    “Ông bị bắt năm nào?”

    “Năm 1976. Đợt hơn 200 nhà văn nhà báo bị bắt một lượt sau vụ nổ plastic ở công trường Con Rùa.”

    Trung úy vội hỏi:

    “A, như vậy cùng một lượt với Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Hồ Hữu Tường, Mai Thảo, Duyên Anh chứ gì?”

    “Phải. Nhưng Mai Thảo thoát được, mãi về sau mới trốn khỏi Việt Nam qua Mỹ.”

    “Nghe nói có cả Thanh Tâm Tuyền, Vũ Hoàng Chương?”

    “Thanh Tâm Tuyền trình diện học tập theo sĩ quan chế độ cũ. Còn Vũ Hoàng Chương bị bắt trước đó vì một bài thơ.”

    Ba người bạn của ông giáo không ngờ tìm được một người am tường giới văn nghệ báo chí như vậy, họ thay nhau hỏi ông giáo đủ thứ chuyện.

    “Vào đó họ tách riêng ra hay nhốt chung với ngụy quân ngụy quyền?”

    “Không. Ngụy quân ngụy quyền được ”hưởng” chế độ học tập cải tạo, đầu tiên thuộc quân quản. Chúng tôi là tù 100% với đầy đủ lệ bộ: Trát tống giam của Bộ Nội Vụ, khám xét nhà, còng số 8, xe đưa rước đến tận xà lim...”

    “Họ nhốt ở đâu? Chí Hòa à?”

    “Đầu tiên ở Phan Đăng Lưu, trước mặt chợ Bà Chiểu đó. Sau một thời gian họ phân loại, mỗi người mỗi ngả.”

    “Họ phân loại cách nào?”

    “Họ phân loại sẵn từ trước. Các bạn nhớ là mãi 1976 họ mới bắt. Như vậy ngoài tài liệu sách báo có sẵn trước 1975, họ còn hơn một năm để tìm thêm tài liệu, thu thập các bản báo cáo của kẻ nằm vùng, dân xu thời nịnh hót, kẻ sợ hãi thái quá. Quá đủ thời gian để họ tính sổ nợ. Ngành nào tính sổ nợ ngành ấy. Có lẽ văn nghệ báo chí là ngành phức tạp, nên tính có hơi chậm.“

    “Rồi họ hỏi các ông những gì?”

    “Họ hỏi ít thôi. Chỉ bắt chúng tôi nghe thì nhiều.”

    “Thì vẫn những bài bản quen thuộc ”Đất nước ta giàu đẹp, nhân dân ta anh hùng”. ” Tình hình và nhiệm vụ mới”, ”Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng...”

    “Không. Họ xem chúng tôi như những tên ”biệt kích nguy hiểm” trên mặt trận tư tưởng, nên muốn phanh phui cho ra ”âm mưu thâm độc của Mỹ Ngụy trên mặt trận văn hóa văn nghệ”. Nào cuộc đấu tranh quyết liệt giữa phe đế quốc tư bản với lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới; nào chính sách toàn cầu của đế quốc Mỹ. Chính sách ấy áp dụng riêng ở Việt Nam như thế nào, Mỹ đã ra lệnh cho ngụy quyền Sài Gòn làm những gì. Bọn chóp bu ngụy quyền nhận lệnh quan thầy Mỹ rồi ra lệnh cho bọn bồi bút ra sao. Cuối cùng đến phần chúng tôi: Viết bài báo đó theo lệnh tên CIA nào? Được trả bao nhiêu đô la? Cuốn truyện, bài thơ đó xuất bản đúng lúc Mỹ đang chủ trương ”thay màu da cho xác chết” tức là ”Việt Nam hóa chiến tranh”. Giả vờ chống Mỹ, giả vờ đề cao tình tự dân tộc để phục vụ chính sách đó phải không? Đại khái chúng tôi nghe những lời như vậy. Cả một hệ thống lập luận đồ sộ từ chủ thuyết triết học ”khoa học và tiên tiến” nhất. Nhờ nó mà cái âm mưu thâm độc nham hiểm về văn hóa văn nghệ của Mỹ bị vạch trần. Bọn bồi bút biệt kích các anh đã làm gì trong âm mưu ấy?”

    “Rồi ông trả lời ra sao?”



    “Tôi ngớ ra, miệng há hốc chẳng hiểu gì cả. Chẳng hiểu mà không dám hỏi, không dám cãi, vì cái hệ thống luận lý đồ sộ quá, tôi hãi hùng. Trời hỡi! Té ra việc bỏ dạy, làm kế toán kiếm thêm tiền chợ cho ”má bầy trẻ hài lòng” của tôi nằm trong một âm mưu thâm hiểm và bao quát cả toàn cầu! Tôi một mực kêu oan với cán bộ chấp pháp, thưa tôi chỉ lo trị sự kế toán như chạy mua giấy, trả tiền nhà in, trả nhuận bút theo phiếu chi của tòa soạn, nhận tiền đăng quảng cáo... Họ khó chịu, bảo tôi vung tiền ra thuê bọn bồi bút viết chửi cách mạng, tức là một thứ cai thầu văn nghệ mà còn kêu oan. Họ hỏi ai ra lệnh cho tôi thôi dạy để gài vào tòa báo, núp bóng sau cái dạng một thầy ký lẩm cẩm. Tôi bảo tôi chưa lẩm cẩm, và chính vợ tôi gài tôi vào tòa báo. Họ bực quá, đuổi tôi về xà lim. Hai tháng sau, tôi gặp một cán bộ chấp pháp khác, chuyên viên về văn hóa văn nghệ thực dân mới được biệt phái qua Bộ Nội Vụ để tìm hiểu, làm việc với chúng tôi. Anh này còn trẻ, ăn nói nhã nhặn, vừa hỏi vừa mời tôi hút thuốc thơm Phù Đổng.”

    “Anh ta có nói gì khác không?”

    “Khác chứ. Anh ta nói có sách mách có chứng. Anh đã đọc kỹ từ số 1 đến số 1092 của nhật báo Tranh Đấu, từ bài xã luận cho đến mục rao vặt. Anh ta phân tích cho tôi thấy các bài xã luận đã chuyển mục tiêu trong từng giai đoạn như thế nào, và các giai đoạn đó phù hợp với ba giai đoạn ”chiến tranh cục bộ, chiến tranh toàn diện và Việt Nam hóa chiến tranh” trong sách lược xâm lăng của đế quốc Mỹ ra sao. Kỳ diệu hơn nữa là ngay cả mục rao vặt cũng biến đổi theo ba thời kỳ. Cũng may cho tôi là...”

    Nói đến đó, nhà giáo ngừng lại, cười bẽn lẽn. Vị linh mục hỏi:

    “May là ông được trắng án chứ gì?”

    “Trắng sao nổi! Không phản động thì ngụy hòa. Không ngụy hòa thì ngụy dân tộc. Không ngụy dân tộc thì đồi trụy. Không đồi trụy thì nhảm nhí. Mà nhảm nhí, đồi trụy, ngụy dân tộc, ngụy hòa lại là hình thức tinh vi hơn của phản động. Chạy trời không khỏi nắng đâu!”

    “Thế thì may cái gì?”

    “May cho tôi là có mấy lần thằng em rể giận vợ hay càm ràm chuyện tiền nong, bỏ sở lên Đà Lạt chơi mấy ngày liền. Chủ nhiệm than quá, bắt tôi gánh mấy kỳ xã luận. Tôi phải đem báo cũ ra xào nấu chắp vá đến toát mồ hôi.”

    “Nguy rồi. Chắc họ chất vấn dữ lắm?”

    “Không. Tôi đề tên em rể tôi. Tòa báo nào cũng vậy, ai viết mặc, nhưng cứ để tên một số người có thế, cho đỡ rắc rối.”

    Nhà giáo lại đỏ mặt lên, ấp úng thú nhận:

    “Mấy bài báo đó bị anh chấp pháp chuyên viên cho là quan trọng, trích dẫn tùm lum tà la mới chết chứ! Anh ta bảo nó báo hiệu bước chuyển tiếp từ: ”khuynh hướng phản động trực diện” của tờ Tranh Đấu qua “khuynh hướng ngụy dân tộc”.

    “Ha ha! Ông viết gì trong đó mà quan trọng thế?”

    “Hôm ấy kỷ niệm giỗ tổ Hùng Vương. Tôi xào nấu lại bài ”Cảnh quê hương đẹp hơn cả” trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư học hồi còn nhỏ.”

    Cả bốn người đều cười. Cụ cán sự hồi hưu nhận xét:

    “Ông chỉ nhún nhường giấu mình, để khôi hài cho vui đấy thôi! Nghe ông luận giải từ cái khăn trải bàn hiệu kem Givral ra bao nhiêu lời chửi xéo bọn đào kép nhà hát lớn, tôi biết ông thâm lắm. Viết xã luận, phải biết!”

    Nhà giáo vội nói:

    “Cụ dạy quá lời!”

    “Không quá lời đâu. Ông đừng vờ vịt. Tôi phải bắt ông trả nợ. Cha và anh trung úy đây đã phát biểu về chuyện tự vẫn. Bây giờ đến lượt ông.”

    “Đâu dám qua mặt cụ.”

    “Tôi đã có ý kiến rồi, nhưng để sau cùng. Ông nói trước đi.”

    Nhà giáo không có cách nào thoát, đánh làm mặt nghiêm, và nói:

    “Vâng. Tôi phải rán nói vậy. Kể lan man phất phơ, chứ lý luận chặt chẽ thì chịu thua thôi!”

    Hồi đó trong trát bắt gian chúng tôi, Bộ Nội Vụ có ghi rõ hình phạt tập trung cải tạo ba năm. Hai chữ ”cải tạo” thì anh em chúng tôi đều hiểu cả. Còn ”tập trung” thì chịu! Hiểu theo nghĩa đen, chúng tôi an ủi nhau: ”Thôi có anh em quen biết, có bó chân bó cẳng thì cũng còn có người đồng cảnh ngộ hàn huyên đỡ buồn. Tập trung chứ có phải biệt giam đâu! Nghĩ thế nên mới vào Phan Đăng Lưu, tôi yên lòng. Sau một thời gian chới với vì hệ thống lập luận đồ sộ tôi vừa nói, tôi dần dần làm quen với cuộc sống mới. Riết rồi cái gì cũng quen, chắc các bạn đều đồng ý với tôi như vậy. Thời gian qua mau, thoáng một chốc đã đủ ba năm. Chúng tôi có một cách lập luận lẩm cẩm nhưng hữu hiệu: Trước kia với bao nhiêu hiểu biết và ràng buộc của một người thường thường bậc trung, mình chỉ có thể làm như vậy, bây giờ mình trả nợ như vậy cũng đúng thôi. Lúc vui, chúng tôi còn bắt chước cách nói của giám thị hoặc cán bộ chấp pháp, thường đùa với nhau: Trước gây tội lỗi như vậy vì mù mờ, ”phải thôi”, bây giờ chịu tập trung cải tạo, ”tốt thôi”!

    Có thể nhiều bạn bè bên ngoài hoặc đã ra đi chờ đợi ở chúng tôi những hành động ngoạn mục, lẫm liệt, đại khái như cái chết của viên trung tá, trung úy vừa kể. Tôi nghe nói ở Sài Gòn người ta loan truyền khá nhiều huyền thoại, theo ước mong của thiên hạ chứ không theo thực tế. Vài người trong chúng tôi được choàng vòng hoa kiểu đó. Nhưng là người trong cuộc, tôi xin thành thật nói ngay rằng sự lương thiện không cho phép ai nhận bừa vòng hào quang. Các bạn tính, chúng tôi có gì đâu để tỏ ra lẫm liệt? Trung úy vừa bảo lúc ấy giới nhà binh hoang mang tuyệt vọng, không có lấy một thần tượng hoặc một niềm tin để kiêu hãnh. Giới chữ nghĩa chúng tôi cũng vậy. Tuy cùng cầm bút, nhưng chúng tôi khác biệt nhau về tuổi tác.

    Rồi do tuổi tác mà cách tham dự hoặc nhận định về lịch sử khác hẳn nhau. Lớp dấn mình vào cuộc kháng chiến chống Pháp ở tuổi đôi mươi rồi vỡ mộng vào thành như Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến, vừa ấp yêu thời kỳ kháng chiến như một kỷ niệm đẹp, vừa viết văn chống Cộng. Lớp trẻ lớn lên sau Hiệp định Genève tán đồng huyền thoại kháng chiến của đàn anh nhưng khó chịu khi đọc văn chống Cộng của họ, thầm chê họ lẩm cẩm. Lớp trẻ hơn nữa dồn hết sức chống Mỹ, và mơ màng một ”cuộc cách mạng xã hội không đổ máu”.

    Tóm lại thế hệ nào cũng thầm lặng khâm phục người Cộng sản tuy họ cùng khốn khổ vì cuộc chiến tranh do người Cộng sản chủ động. Càng về sau, cái mốt chung của thời đại là khuynh tả. Tiến bộ, sáng suốt, nhân đạo, thuận chiều tiến hóa tất yếu, đồng nghĩa với khuynh tả. Chính tôi cũng vậy. Quay sang đề cao tình tự dân tộc, tỏ thái độ phản chiến hay hô hào bảo vệ đạo đức trước ảnh hưởng ngoại lai, đều là cái bóng của khuynh tả, và khuynh tả là cái bóng của sự khâm phục thầm lặng đối với bên kia. Trong lúc đó bên này có gì? Trung úy đã nói giúp tôi rồi. Thành thử khi bị bắt, chúng tôi tự an ủi: ”Thôi, trước sau gì cũng phải trả nợ cho xong!”

    Khốn nỗi người ta đòi nợ nhiều quá, chúng tôi tối tăm mặt mũi. Cái thân ốm của tôi gánh sao nổi món nợ của đế quốc toàn cầu? Chúng tôi bàng hoàng, rồi ấm ức. Cho nên đúng ba năm mà chưa được thả về, chúng tôi giận thật sự. Thế này là thế nào? Giấy trắng mực đen còn đó! Rõ ràng mặt đấy mặt này chứ ai! Làm gì bây giờ? Chẳng ai biết phải làm gì cả. Chống lại kẻ một lần ta lỡ khâm phục, khó lắm, khó y như đi đòi nợ một ông thầy học cũ. Các bạn tưởng tượng xem, ở trong cảnh huống ấy mà nghe tin một người có uy tín trong văn giới can đảm tuyên bố tuyệt thực để phản đối, bọn chúng tôi xúc động đến mức nào. Vừa hãnh diện quàng vừa tự xấu hổ. Ít ra cũng phải có một người dám làm một cái gì chứ! Anh em chúng tôi xì xào bàn tán bới nhau, vừa mừng vừa lo. Người bảo:

    “Ông ấy làm tới đấy. Xưa ông ấy nổi tiếng bốc!”

    Người thì bảo:

    “Biết đâu là tin phịa để mua vui!”

    Có người lo:

    “Ông ấy như lửa rơm. Bốc đó rồi xìu đó. Sợ không bền!”

    Người ta đem cả văn nghiệp ra để hy vọng hay lo lắng, và ai cũng có vẻ hợp lý cả. Đào bới bấy nhiêu cuốn tiểu thuyết thì chứng minh cái gì không được. Huống chi tiểu thuyết có bao nhiêu loại nhân vật, dữ, hiền, khôn, dại, hào hiệp, bần tiện, hiền triết đạo tặc, thiên thần, ác quỏ, kẻ dâm dục, người bất lực, hạng nào cũng đủ, mỗi hạng mỗi cách nói, chứng minh cái gì cũng có sẵn.

    Chúng tôi chờ, dọ dẫm phản ứng của ban giám thị trại giam... Không phải chuyện phịa, vì chính giám thị khu chúng tôi cũng xác nhận. Thật đáng mừng. Tin vui đi nhanh qua nhiều ngõ ngách. Có thể nói dù bị kiểm soát gắt gao, chúng tôi vẫn có thể thông báo cho nhau tin từng giờ:

    ”Giám thị đã xuống phòng giam và tịch thu phần cơm anh ấy nhường cho bạn.”

    “Nhà bếp được lệnh bớt một phần cơm phòng số 8. Chính giám thị xuống chia cơm.”

    “Anh ấy đã bị chuyển sang khu biệt giam. Từ nay việc lấy tin chắc khó!”

    “Người ta bắt đầu kiểm soát nước khu biệt giam. Chính giám thị đi chia nước chứ không giao cho ban trực nhật.”

    “Đã có lệnh không được mang nước uống cho anh ấy!”

    Mọi người bàng hoàng. Thế này là thế nào? Họ quyết bỏ mặc cho anh ấy chết khát ư? Nhịn đói thì cuộc tranh đấu còn kéo dài được 10, 15 ngày. Có sâm, nhung, lê táo như các thầy Ấn Quang hồi trước kéo tháng này tháng nọ dễ dàng. Nhưng không uống gì cả được bao lâu? Bắt đầu có nhiều lời bàn ra tán vào. Người lãng mạn quyết tin rằng anh ấy sẽ đi đến cùng, lẫm liệt, hào sảng như các nhân vật chính của anh ấy. Người hoài nghi xét lại: Có thể, có nên dùng phương pháp đấu tranh bất bạo động đối với một chế độ chuyên chính hay không? Người ba phải thì quay sang lo cho sức khỏe vốn kém của anh ấy. Mọi người nóng ruột như đứng trên lửa. Chờ đợi khiến phòng giam thêm nực, phòng thêm tối. Chờ một ngày. Chờ hai ngày. Đến ngày thứ ba, thì có tin chánh thức đáng tin cậy từ khu biệt giam cho biết anh ấy xin ăn trở lại. Phòng chúng tôi đột nhiên ồn ào như cái chợ. Mạnh ai nấy nói. Thế lày là thế lào? Các bạn đừng cười. Tôi nhại câu nói liệu ”Thế lày là thế lào?” của giám thị khu B đến nỗi nhập tâm thành tật. Hỏi gì thì hỏi, sự thật vẫn cứ là sự thật. Từ đó về sau, chúng tôi nhận được tin ”hoàn toàn chính thức từ giới hữu trách có thẩm quyền” công khai loan báo. Tin nào cũng đều khiến chúng tôi đau nhói trong lòng cả!”

    Cụ cán sự hồi hưu nói:

    “Có khi chưa tới ranh giới sống chết, người ta vẫn hành động giống như một người bình thường với đầy đủ những cao cả lẫn hèn yếu. Theo ký họa của một người họa sĩ đương thời thì hoàng hậu Pháp Marie Antoinnette vẫn cố tỏ ra bệ vệ hách dịch dù ngồi trên xe cây dẫn ra chỗ đặt máy chém. Một tử tội đi đến pháp trường vẫn cúi xuống phủi một vết bẩn trên chiếc áo đang mặc.”

    “Vâng. Tôi thấy phải hiểu anh ấy như một người bình thường. Thần tượng hóa anh ấy theo mong ước lãng mạn của mình là lỗi của mình, không phải lỗi anh ấy. Theo cách đó, tôi nghĩ không nên siêu hình hóa cái chết. Gán cho nó một ý nghĩ quá quan trọng là cái lỗi của tinh thần duy lý

    Tây phương. Tại sao không xem nó như một loại sinh hoạt của đời sống sinh vật y như tìm mồi, làm tổ, sinh con, bài tiết, thậm chí cắn mổ nhau để vui chơi hoặc tranh ăn. Quan trọng hóa cái chết thành ra làm hại nó. Đặt cho cái chết một mục tiêu, là làm hại nó lần thứ nhì. Cái lỗi của chúng tôi, và của cả anh ấy, là muốn dùng cái chết để làm một cái gì đó. Ta mặc cả với Thần Chết, ta so đo, ta vòi vĩnh, cò kè thêm bớt. Ta tính đến chuyện thành bại. Cho nên khi thấy không thành công được, thấy chết chỉ thiệt thân, ta bèn dừng lại. Tôi nhớ lúc nãy trung úy có bảo tuy thất bại, kẻ thù vẫn phải kính nể trung tá như một kẻ thù nghiêm chỉnh.

    Tôi đồng ý với phần sau câu nói, nhưng xin lỗi nhé, tôi bác bỏ phần đầu: ”Tuy thất bại”. Tại sao nói chuyện thành bại ở đây? Gắn thêm cho cái chết một cái đuôi chỉ tổ làm vướng dáng đi tự nhiên của nó thôi! Giả sử bây giờ có ai bảo hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối ông Diệm, nhất định ta sẽ chê người đó là cận thị rồi! Câu chuyện của tôi đến đây chấm dứt. Nếu là cán bộ chấp pháp, các bạn sẽ xếp nó và loại nào: Phản động? Đồi trụy? Ngụy dân tộc? Hư vô chủ nghĩa? Chắc không nặng án thế đâu! Quá lắm chỉ thuộc loại nhảm nhí, tuy tôi vẫn nhớ ”nhảm nhí cũng là hình thức tinh vi của phản động.”

    ***

    Nhà giáo vừa dứt lời, cụ cán sự hỏi liền:

    “Xem cái chết là tự nhiên à? Anh sợ chết không, nói thực đi?”

    Ông giáo cười, quay hỏi vị linh mục:

    “Cha sợ chết không?”

    Cha xứ nghiêm chỉnh đáp:

    “Không. Tôi tin sự sống đời đời trong nước Chúa.”

    Ông giáo hỏi trung úy:

    “Còn anh?”

    “Chưa sợ. Tôi còn khỏe. Hơn tháng nay, tôi chưa phải bước chân lên bệnh viện lần nào.”

    Ông giáo hỏi ngược lại cụ cán sự:

    “Thế cụ có sợ chết không đã?”

    Cụ cán sự hồi hưu đáp ngay:

    “Sợ chứ!”

    Ông giáo bật cười lớn:

    “Sợ chết sao còn dám vượt biên? Cụ luống tuổi rồi đi đâu cho khổ. Gió bão, tù tội, đói khát, sơ ý một chút là chết. Tại sao phải đi?”

    “Tôi sợ một cái chết khác ghê gớm hơn.”

    Ba người hơi thất vọng, đoán thế nào cụ cũng xổ một lô những lời chống Cộng thật đúng bài bản, như ”vô thần khát máu” như ”tam vô chủ nghĩa” vân vân và vân vân. Họ đã nghe những thứ đó chán chê từ thời ông Diệm. Cụ cán sự để mặc cho các bạn thất vọng, từ từ uống cạn ca nước trà nguội, rồi mới nói:

    “Tôi không sợ chết nói chung, nhưng sợ riêng một số cách chết. Chết đứng như Từ Hải, thảm mà oai. Chết mà đi như Dracula chỉ dùng để dọa con nít. Tôi luống tuổi, mặn ngọt chua cay của cuộc đời nếm tê cả đầu lưỡi, từng ”nghiên cứu” cái chết kỹ lưỡng lắm, nên nghiệm thấy cái chết đáng sợ nhất là cái chết mà vẫn còn sống, sống mà vẫn chết.”

    Nhà giáo cười rồi hỏi:

    “Nghĩa là ngắc ngư? Bị bại liệt à?”

    “Không, đây là một cách tự vẫn đặc biệt. Rắc rối quá phải không. Để tôi kể quách cho các bạn nghe cho rồi!”

    Tôi hơn các bạn những hai chục tuổi, từng sống dưới sáu chế độ: Pháp thuộc, Nhật thuộc, Tàu phù thuộc, Cộng sản thời kháng chiến, Chế độ quốc gia từ thời ông Diệm, à quên, từ Bảo Đại đến ông Thiệu, cuối cùng là Cộng sản sau 1975. Nếu kể HCR nữa thì đến bảy. Anh em, bà con, con cái, bạn bè, lần lượt chết khá nhiều, mỗi người mỗi kiểu. Không thiếu những người tự tìm lấy cái chết, trong đó có một con trai của tôi. Các bạn đừng lầm. Tôi không kể về cái chết của nó đâu. Nó chết tầm thường, tự nhiên, một cái chết lảng xẹt vì một con điếm thúi. Chuyện tôi sắp kể liên quan đến một người bạn cũng từng sống dai nhách như tôi vậy.

    Ông ấy cũng là một nhà văn. Thời chúng tôi còn phải học ”Nos ancêtres sont des Gaulois”, thú tiêu khiển hiếm lắm. Ngoài vài ba thứ cờ bạc bị nghiêm cấm, lũ học trò chúng tôi chỉ tìm vui trong thú đọc sách. Mà sách lại hiếm, khó mua khó mượn.

    Cầm được một quyển sách trên tay đã được các cô kính nể khâm phục lắm rồi. Huống chi là viết sách! Bạn tôi thuộc vào số ít con người đáng nể ấy, lúc chưa được hai mươi. Đã thế sách bạn tôi viết lại được trích giảng cho học trò học thuộc lòng. Tôi dám tin chắc rằng các bạn cũng đã thuộc lòng đoạn văn của bạn tôi.

    Mọi người đều tò mò hỏi:

    “Cụ đọc thử xem?”

    Cụ cán sự hồi hưu chớp chớp đôi mắt lộ vẻ cảm động. Cụ nhớ lại cái thời xa xưa đã mất, run run đọc:

    Hằng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều...

    Ba người cùng kêu ồ, nhà giáo ê a đọc tiếp:

    Và trên không có những đám mây bàng bạc...

    Trung úy nói:

    “Bài Ngày tựu trường của Thanh Tịnh.”

    Vị linh mục cũng nói:

    “Trong tập Quê Mẹ. Bài đó nổi tiếng trong giới học trò chẳng kém gì bài La Rentrée của Anatole France. Cụ có quen với Thanh Tịnh à?”

    Cụ cán sự nói:

    “Đấy. Cha vừa hỏi: ”Cụ có quen với Thanh Tịnh à?” Gần xuống lỗ mà còn được hỏi như vậy, huống chi thời đi học được là bạn của Thanh Tịnh, mày mày tao tao với một ”nhà văn”, ôi chao, hân hạnh biết chừng nào. Khỏi cần nói chắc các bạn cũng biết tôi đã bắt chước Thanh Tịnh từng dáng đi, điệu nói, cách để tóc, cách ăn mặc. Tôi còn lén viết một bài văn đặt nhan đề ”Hôm khai trường” với đầy đủ lá rụng, mây bay, chơi diều, chơi bi, rồi chép sao nhiều bản gửi đi các báo ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Tôi chuẩn bị đón nhận sự nổi tiếng. Sáng tác của tôi gửi đi mà chờ mãi không có gửi lại. ” Tài ba” của tôi bị các cặp mắt phàm tục đố kỵ ở các tòa soạn lơ là, tội nghiệp thân tôi. Tôi tủi thân, đâm ra ganh ghét bạn.

    Ánh sáng của Thanh Tịnh làm mờ hào quang của tôi. Phải xa anh ta mới dựng sự nghiệp được. Thầy mẹ giúp tôi thỏa ước - vì sau đó gia đình tôi dời đến tỉnh khác. Cách mạng tháng Tám. Rồi tản cư. Tôi đã trở thành một thanh niên có bằng Cao đẳng Tiểu học. Tên nghe lạ phải không? Hồi ấy Trung học đệ nhất cấp gọi là École primaire supérieure, đậu Trung học đệ nhất cấp thì gọi là đậu bằng Thành chung hoặc Cao đẳng Tiểu học. Trước cách mạng tôi đang học dở ngành trợ giáo nên trong kháng chiến, tôi phụ trách một trường bình dân học vụ, rồi làm hiệu trưởng trường cấp hai. Chưa có thời kỳ nào tôi đam mê hào hứng với công việc của mình như thời ấy. Cảm và nói là một, nói với làm cũng là một. Bây giờ nghĩ lại thấy hồi đó mình lãng mạn đến quá khích.

    Tôi tin tưởng tuyệt đối vào cuộc kháng chiến, nên làm gì tôi cũng xung phong hàng đầu. Chịu gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật là một niềm vinh dự. Cũng như các bạn cùng thế hệ, hai tiếng ”độc lập” làm cho tôi say mê. Vì độc lập tôi sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiếu thốn ư? Có độc lập sẽ có tất cả. Yêu nhau mà chưa lấy được nhau ư? Hẹn ngày độc lập. Lấy nhau mà không thể sống bên nhau? Hẹn ngày độc lập! Độc Lập là cái chìa khóa mở mọi cánh cửa, kể cả những cánh cửa có ổ khóa rỉ sét. Còn giữ lại làm gì những tư tưởng ủy mị lỗi thời từng làm yếu đuối thanh niên, làm trì chậm cuộc đấu tranh giành độc lập. Chỉ cần nghĩ như thế chúng tôi lao vào cuộc cải tạo tư tưởng đầy dằn vặt, thống hối, lo âu, hoảng hốt.

    Ôi những đêm tự phê bên ánh đèn dầu sau giờ dạy học, những tháng ngồi trước trang giấy đáng sợ, để moi óc ghi lại tất cả những tư tưởng, cảm giác, hành động bạc nhược hèn yếu. Chúng tôi xưng tội công khai, khóc lóc, thống hối công khai. Cầm một cuốn tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là một cái tội. Chúng tôi đã nghĩ như vậy, và thù ghét cái bóng tiểu sư sản trong con người mình một cách chân thành. Thưa cha nếu không sợ phạm thánh, tôi dám so sánh cái không khí thời đó giống với không khí của Phúc âm. Quả thật như vậy. Cũng có những ”Đấng Cứu Thế” và những lời tiên tri. Cũng có hứa hẹn sự sống vĩnh hằng và sự xả thân, nghĩa là đầy đủ yếu tố cho một thời huyền thoại. Có kể như vậy các bạn mới hiểu sau 30 - 4, tôi ngơ ngác đến bậc nào khi thấy anh em bộ đội thản nhiên mua sách Chưởng, sách Tự Lực Văn Đoàn bán xôn ngoài hè phố để đọc. Kể cả quyển sách Quê Mẹ mà thời kháng chiến, tôi lãnh phần mổ xẻ phân tích để lôi ra tính chất ủy mị, bạc nhược.

    Anh giáo sư, tôi phải bắt chước anh để hô hoán lên: ”Thế lày là thế lào?” Rồi tôi gặp hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Lạ thật. Tôi không hiểu gì hết. Hay lớp trẻ sau này có bản lĩnh hơn chúng tôi thời trước? Tôi nhận thấy họ hiền hậu, có học thức, lễ độ, nhưng ánh mắt không ngời lên, khuôn mặt không đăm chiêu, khắc khổ. Có lẽ họ có bản lĩnh thực! Bao nhiêu năm được đào tạo trong truyền thống cách mạng phải khác bọn trẻ ủy mị bị thực dân đầu độc chứ! Nhưng lập luận của tôi không vững. Tôi lần lượt gặp những nhà phê bình nghiêm khắc lên án sách chưởng Kim Dung nhưng mê truyện chưởng hơn mê gái. Phần nào trong ông ta mê ”chưởng” và phần nào trong ông ta chửi ”chưởng”? Khúc trên hay khúc dưới? Sao có thể cùng làm một lúc hai việc đối chọi nhau một cách thản nhiên? Nói ở chỗ thân mật khác hẳn chỗ công khai. Nghĩ chân thật nhưng viết phải theo bài bản, và điều ấy tự nhiên!

    Tôi còn nghe nói khi họp chi bộ, các đảng viên cũng được thoải mái hơn xưa nhiều, khỏi phải đăm đăm hoặc lên gân. Trước khi họp có kẹo lạc, thuốc lá, nước trà. Lúc đó ăn nói vung vít, kháo chuyện thoải mái về đủ thứ vấn đề. Hăng máu chửi cả thủ trưởng cấp cao cũng không sao. Chê Đảng vài điều cũng được nốt. Muốn hát nhạc Ngụy? Được. Lật vài trang chưởng bỏ dở đọc tiếp? Được. Nhưng khi bí thư chi bộ nhắc: ”Đến giờ rồi, các đồng chí vào làm việc” thì vẫn những con người ấy nhưng khuôn mặt, lời nói, tình cảm, tư tưởng hoàn toàn đổi khác. Người vừa chửi thủ trưởng có thể hết lời ca tụng. Người vừa đọc truyện chưởng gay gắt lên án văn hóa thực dân mới. Người vừa nấu cám heo bằng điện nhà nước hô hào các đồng chí tiết kiệm của công, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Trời hỡi! Thế này là thế nào? Lớp trẻ khó hiểu quá đối với tôi. Họ phân thân rối mù nên tôi không biết lúc nào mới gặp đúng họ.

    Tôi phải chờ các bạn cũ cùng thế hệ. May mắn cho tôi là vài tháng sau, nhân ngày kỷ niệm sinh nhật Hồ chủ tịch, phòng giáo dục quận (nơi con gái tôi làm việc) có tổ chức một buổi nói chuyện. Đề tài là ”Cuộc đời của Hồ chủ tịch”. Báo cáo viên, trời ơi, may mắn quá, đúng là thần tượng thời trẻ của tôi, đúng Thanh Tịnh. Trung tá Thanh Tịnh. Tôi hồi hộp chờ ngày gặp lại bạn cũ. Tôi tìm đọc lại cuốn Quê Mẹ để bồi hồi nhớ thời thơ ấu. Tôi tự trách tôi bất công. Tài ba tôi đâu có ra gì đâu mà đòi làm nhà văn! Đã thế, thời kháng chiến, lợi dụng lúc cách biệt, tôi đã ”trả thù” bằng cách đem cuốn Quê Mẹ ra mổ xẻ, chê lên chê xuống. Tôi sẽ mời Thanh Tịnh về nhà, nài cho được một đêm nằm bên nhau rủ rỉ đủ thứ chuyện tâm tình. Bây giờ già rồi, còn ngại gì nữa. Tôi sẽ nói hết, thú nhận hết, từ việc lén viết bài ”Hôm khai trường” cho đến việc lên án cuốn Quê Mẹ. Tôi sẽ không xưng tên ngay để sau buổi nói chuyện dành cho bạn một ngạc nhiên lớn.

    Than ôi, chính Thanh Tịnh dành sẵn ngạc nhiên để tặng tôi. Thanh Tịnh già rồi. Thanh Tịnh nhà văn nhỏ nhẻ dễ thương thành Thanh Tịnh trung tá. Thời gian mà. Có gì đáng kinh ngạc đâu.

    Nhưng tôi sững sờ khi Thanh Tịnh bắt đầu nói. Thiên hạ đồn không lầm. Thanh Tịnh đã thành báo cáo viên chuyên nghiệp chuyên ca tụng bác Hồ. Đi đâu, lúc nào, bao nhiêu năm nay, Thanh Tịnh chỉ nói về đề tài ấy, gọt dũa luyện tập từng câu từng chữ, để ý đến cả cách nhíu mày, cách đứng nghiêm, mắt nhìn lên chiêm ngưỡng khi nhắc đến Bác. Nghe Thanh Tịnh báo cáo một lần, lần sau đến nghe nữa có thể đoán trước trung tá sắp khóc ở đoạn đó, sắp cúi đầu im lặng ở đoạn kia, sắp ưỡn ngực hô hào ở đoạn khác... Đúng là một cái xác ướp biết đi biết nói, quan trọng nhất là ca tụng không biết chán.

    So sánh với các cung phi bị giam kín nơi lăng tẩm các vua chúa đã chết thời xưa, Thanh Tịnh còn may hơn nhiều. Nhưng một nàng cung phi mới bị ông hoàng si bỏ quên, đã dám nghĩ:

    Dang tay muốn dứt tơ hồng

    Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra.

    Thanh Tịnh có bao giờ dám nghĩ thế không? Than ôi! Thanh Tịnh, người bạn nhỏ của tôi, ”địch thủ” của tôi, thần tượng của tôi, niềm mơ ước của tôi! Bạn không có cách tự vẫn nào dễ chịu hơn ư? Bạn đã chọn cách chết chậm chạp nhất, khắc kỷ nhất, chết mà vẫn sống, sống mà coi như đã chết. Bạn tự nguyện làm cái xác ướp để dễ hầu cận một cái xác ướp khác.

    Tôi bỏ về trước khi trung tá Thanh Tịnh kết thúc bài nói chuyện, lòng hối tiếc khôn nguôi. Cách tự vẫn tôi kể, nhạt nhẽo lắm phải không? Nó kéo dài quá, như một màn kịch vụng lê thê làm khán giả chê chán! Nhà tư tưởng của cha lấy thế đẩy ngã chồng sách là xong, để lại cả một lô messages, một lô sứ điệp. Ông trung tá đoành một cái, được bạn nhà giáo khen là thâm trầm. Nhà văn bỏ dở cuộc nhưng được bạn bè thông cảm. Còn bạn tôi, than ôi, biết làm sao đây! So với các bạn, tôi chịu lỗi đã kể chuyện buồn và nản. Biết làm sao được! Trong Chinh Phụ Ngâm có câu:

    Dòng nước sâu ngựa nản chân bon

    Tôi có khác nào con ”ngựa nản chân bon” ấy!! Gần kề bên dòng nước sâu là cái chết, tôi phải làm gì? Lấy hết sức hí lên cho vang động núi rừng? Uống nước suối độc tù hãm bên cầu Nại Hà rồi lăn ra chết? Hay là nhảy đại qua vực để hy vọng đạp vó lên Mé Vĩnh Cửu?

    Làm gì thì làm, nhưng tôi nhất định không vì ”nản chân bon” mà làm con ngựa gỗ. Tôi mệt quá rồi! Xin cha cho tôi chút nước!”

    Linh mục rót khoảng nước còn lại trong lon pâté vào ca cụ cán sự già. Cụ bưng lên uống. Nước chảy qua hàm răng thưa, nhểu cả ra hai mép. Bàn tay cụ cán sự run run. Đến lúc đó, linh mục mới thấy một người trần thế muốn ”thu xếp” cuộc đời mình gặp thật lắm gian nan, nhất là những người trung thực. Linh mục thầm cầu xin: ”Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và được hưởng ánh sáng nghìn thu...”





    Nguyễn Mộng Giác

    Nguồn http://nguyenmonggiac.info/          [/tab]
          
Trả lời

Quay về “của người”