Chuyến tàu chỉ có một người

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Chuyến tàu chỉ có một người

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    • Chuyến tàu chỉ có một người





    Anh cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bị tập trung cải tạo. Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn, sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết mình nằm trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực gì nổi. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứ thứ gì có thể bỏ vào bụng cho đở đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như nhau. Ai tìm được nấy ăn.

    Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy hy vọng. Anh cứ nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì thế nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không can đảm. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay chịu trận.
    Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ chủ của nó! Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về trại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở ra kiểm soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.

    Ai nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra. Còn anh thì không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.

    " Anh yêu quý,
    Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.
    Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về.
    Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.
    Vợ anh
    Lê Thị Hồng"


    Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ ky, anh và ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói đồ ăn mà lòng trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. Còn mình sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.

    Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.

    Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v.v... anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu hay tới đó.

    Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần về sau nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là phạm tội một đôi lần.

    Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đình. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng? Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê Thị Hồng, thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu thư không bị kiểm duyệt thì chuyện nầy dễ nói. Còn thư tù như anh thì qua biết bao nhiêu cửa ải. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽ tống cổ anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi, đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.

    "Hồng em,
    Cám ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách mạng.
    Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước.
    Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.
    Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.
    Chồng em
    Nguyễn Hữu"

    Anh nhắc lại hai lần chữ "lầm lẫn", để chị Hồng biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ. Hai ngày sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì xẩy ra. Có lẽ vì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.

    Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói: "Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?"

    Anh lắc đầu: "Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất.. "

    "Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng."

    Người cán bộ nói tiếp: " Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đình. Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữ thêm một thời gian nữa."

    Anh ấp úng: "Vâng, thưa cán bộ."

    Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: " Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình."

    Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm trong bụng với cái chiêu dụ nầy.

    Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng tiêu chuẩn.. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ "lầm lẫn" kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã chết.

    Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là mình trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày. Vì thế nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người nhà mang đến. Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.

    Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần nầy thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc.. Thư viết cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh. Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn tạo ra tình huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không thẹn với lương tâm.

    Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủ với lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị Hồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm lòng thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xã hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn như chuyện thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.

    Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau nầy rất bẽ bàng và ngượng ngập. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ biết mấy. Với anh thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã chuẩn bị tinh thần. Dù gì thì anh cũng phải trả lại sự thật nầy. Anh không muốn nó cứ mãi kéo dài, cứ mãi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để chị tha thứ. Anh sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu lầm trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Sài Gòn ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.

    Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa anh nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối hận. Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì. Những gì anh đã chuẩn bị bay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc mãi.. Có lẽ anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày, để họ khóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: "Xin lỗi...xin lỗi chị".

    Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi.. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.

    Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chị dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.
    Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy ra phụ mang đồ về phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc còn để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tự nhiên không ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.

    Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn anh. Khuôn mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên lạc với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật.. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chị đã bao năm khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện...

    Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh không?... Dù sau nầy thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.

    Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.


    Phan Xuân Sinh


    https://www.saigonweeklyonline.com


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Chuyến tàu chỉ có một người

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Tưởng nhớ Phan Xuân Sinh




    KENNEDALE, Texas (NV) – Khi nghe tin Phan Xuân Sinh được khẩn cấp chuyển vào bệnh viện hôm 18 Tháng Hai, tôi bàn với bạn bè Dallas cùng đi thăm, nhưng do ai cũng bận bịu chuyện này chuyện nọ chưa thu xếp ổn thỏa, nên nấn ná. Hóa ra, trễ mất rồi. Anh đã từ giã cõi đời vào khuya 28 Tháng Hai, sau hơn mười ngày hôn mê.


    Từ trái: Trần Doãn Nho, Lương Thư Trung, Phạm Văn Nhàn, Phan Xuân Sinh. (Hình: Trần Doãn Nho cung cấp)



    Trước nay, tuy cách khá xa (đoạn đường Dallas-Houston mất từ 4 đến 5 tiếng lái xe), nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn tự lái xe đi thăm anh em bầu bạn và vấn an anh, người vốn đã không mấy khỏe, lại phải chăm sóc cho chị Nga, vợ anh, sức khỏe còn tệ hơn. Thế mà, trong lúc bạn bè ái ngại hỏi han, thì anh vẫn vậy, hiếm khi vắng mặt trong các cuộc gặp gỡ.


    Còn nhớ, bốn tháng trước đây (Tháng Mười, 2023), chúng tôi (Nguyễn Trọng Khôi, Thận Nhiên và tôi) đi Houston, cùng vợ chồng anh tham dự buổi sinh hoạt văn nghệ bỏ túi hội ngộ với anh chị Duy Trác và các con, do Ngu Yên tổ chức tại nhà riêng. Anh ở lại đến khuya, đọc thơ góp vui và sáng hôm sau, cùng đi uống cà phê và ăn trưa với nhau. Không ngờ đó là lần gặp anh cuối cùng.


    Mới đây, một ngày trước khi anh vào bệnh viện, khi Hoàng Xuân Sơn ghé Houston, anh chị vẫn đến với bạn bè, cà phê cà pháo bình thường, không có dấu hiệu gì báo trước tin xấu. Không ai ngờ, anh ra đi. Đúng là sinh hữu hạn, tử vô kỳ!

    Chỉ biết ngậm ngùi.

    Trong đời sống, Phan Xuân Sinh là một mẫu người hiếm thấy. Nhà văn Song Thao, qua bài viết tưởng nhớ Phan Xuân Sinh chỉ một ngày sau khi anh qua đời, đã gọi anh là “người của mọi người” (*).

    Quả thật thế. Khi còn ở Boston, anh là một trong những thành viên tích cực trong các sinh hoạt cộng đồng và là “mạnh thường quân” cho các sinh hoạt văn nghệ. Mỗi lần có bạn văn từ xa tới để thăm viếng hay ra mắt sách, thì ngoài nhà thơ Trần Trung Đạo lo điều hành tổng quát, Phan Xuân Sinh gần như bao sân những chuyện còn lại, từ đưa đón, ăn ở cho đến tiệc tùng, thăm viếng.


    Một số buổi ra mắt sách (của Trần Doãn Nho hay Hoàng Lộc chẳng hạn) được tổ chức ngay trong nhà (mà cũng là tiệm) của anh. Phụ tá đắc lực cho anh không ai khác hơn là chị Nga. Không những tiếp đón khách, anh chị còn đảm trách luôn cả việc đưa anh chị em văn nghệ sĩ chúng tôi đi các nơi tham dự các sinh hoạt văn nghệ: Canada, Washington DC, New Jersey, Philadelphia,… Anh lái xe, chị lo ăn uống. Nói tóm, hễ anh em cần là anh chị sẵn sàng, hiếm khi từ chối.

    Giai đoạn 1995-2006, Boston xôn xao sinh hoạt văn học nghệ thuật, có lẽ chỉ thua Orange County. Giữa thập niên 2000, anh chuyển công việc làm ăn về Texas; thiếu anh, Boston dường như lắng xuống. Ngược lại, có anh, Houston khởi sắc lên, nhất là khi công việc làm ăn của anh chị xuôi chèo mát mái. Nhà anh luôn rộng mở, bất kể thịnh, suy. Bạn bè văn nghệ khắp nơi, khi đến Houston, không có chỗ nghỉ chân hay cần họp mặt hàn huyên là cứ tới nhà Phan Xuân Sinh.

    Chan hòa với cuộc sống như thế, không hiểu sao, vận rủi cứ liên tiếp đổ xuống gia đình anh, sau này. Chị Nga đột ngột bị đột quỵ, rồi lại tái đột quỵ, khiến công việc kinh doanh phải đình chỉ. Là người bươn chải, năng động, nhưng từ đó, chị đành phải sống dựa vào anh, dù bản thân anh, vốn là thương phế binh thời VNCH, cũng mang đủ thứ bệnh của người lớn tuổi.


    Đã thế, Tháng Chín, 2020, đứa con trai đầu của anh, độc thân, bị tai nạn, qua đời, khi đi phi trường đưa tiễn một người bạn. Đứa con trai còn lại, cũng độc thân và cũng bị bệnh, chỉ ở nhà phụ giúp chuyện lặt vặt. Xem như cả nhà có ba người thì đều là ba người bệnh. Bây giờ, anh ra đi thì yên phần anh, nhưng còn chị Nga và đứa con… Thiệt là “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí!”

    ***

    Phan Xuân Sinh mê văn chương. Anh làm thơ đăng báo từ trước 1975 và tiếp tục làm thơ khi ra hải ngoại. Nhiều bài thơ của anh với hiện thực chan hòa trong lý sự, tạo thành một phong cách riêng, đã để lại ấn tượng mạnh trong lòng độc giả. Trước sau, anh xuất bản ba tập thơ.

    Tôi đã có nhiều dịp “bình” thơ Phan Xuân Sinh, hoặc qua lời Tựa hoặc khi anh ra mắt tác phẩm. Nói chung, theo tôi, “Hơi thơ của Phan Xuân Sinh lạ, ngang tàng mà u uất, cuồng ngạo mà xót xa, sâu mà chân chất. Trong cuộc rượu, đọc lên nghe nghèn nghẹn, tưng tức và cảm giác như muối xát vào lòng” (thi tập “Đứng Dưới Trời Đổ Nát”).


    Thơ anh không cần phân tích dài hơi. Anh làm thơ y như thể đang trò chuyện với bạn bè trong cuộc nhậu. Dù đề cập đến bản thân, người tình, kẻ địch hay đồng đội, ngôn ngữ Phan Xuân Sinh thẳng băng, hiếm khi vận dụng lối nói tu từ màu mè, bóng bẩy. Muốn hiểu thơ anh, rất giản dị, chỉ cần mang bài thơ ra đọc. Là đủ. Bàn thêm, đôi khi sẽ thấy thừa. Lại không khéo sẽ làm bay đi mất cái “chất” riêng vốn sẵn.

    • “trên chiếu rượu. Bạn là tay cự phách
      cỡ như ta cũng phải chầu rìa
      nhào vô. Chỉ thấy mình lãnh đạn
      thối lui… đâu được. Cứ lia chia
      máu Quảng Nam ta, hơi thô lỗ
      vài ba chén rượu, đã cãi càng
      bận tâm chi mấy lời nói sảng
      rượu vô, điên tiết cứ huênh hoang”
      (Chén Rượu Ta Lòng Bạn Hiền)


    Phan Xuân Sinh thế đấy: chầu rìa, nhào vô, lia chia, cãi càng, nói sảng, điên tiết…

    Thực ra, nếu lưu ý, qua thứ ngôn ngữ nghe rất “đời thường” đó, thơ anh ẩn chứa một nét khác: tính nghịch lý.

    Chẳng hạn, nghịch lý tiền tuyến/hậu phương:

    • “ta vẫn nằm trên đồi gió thổi
      chim hót ban ngày, pháo dội ban đêm
      em cứ chạy theo từng mốt mới
      còn ta, uống rượu để tìm quên”
      (Nghe Chim Hót Trên Đồi 55)


    Chẳng hạn, nghịch lý quê hương/đảng:

    • “trên quê hương tôi
      lòng người đổ vỡ, tan hoang
      khi những người thắng trận
      (…)
      thay vì xây dựng quê hương
      lại xây dựng đảng
      thay vì vá lại những vết thương
      lại vạch thêm những vết nứt
      những đứa bé đến trường
      phải thông qua lý lịch
      bài học đầu đời không cần đạo đức
      phải tỏ tấm lòng
      nhiệt thành cách mạng
      những học vị vứt vào sọt rác
      lao động là vinh quang
      những thằng vô học đứng trên bục giảng
      rêu rao lý thuyết điên cuồng
      như vẹt
      không nuôi được nhân dân
      nhưng làm giàu bè đảng
      quê hương tôi chìm trong uất nghẹn”
      (Bom Nổ Giữa Tim Người)


    Hay nghịch lý bộ đội/lính:

    • “sau vài ly, ông nhìn tôi từ đầu tới chân
      anh là ai? thấy quen quen như gần gũi
      tôi trả lời ông, xin thưa, tôi là thằng ‘lính ngụy’
      xưa kia… có lần tôi nhắm bắn trật ông
      ông cười ha hả hèn chi thấy quen
      mình là lính chuyên nghiệp,
      mà ‘dở ẹt’ nghề xạ thủ
      bữa nhậu nầy tràn ly vẫn chưa đủ
      tôi với ông đều là thứ lính dân chơi”
      (Người Lính Già, Bên Kia)


    Bài thơ này còn hàm chứa một nghịch lý khác: bắn trật/bắn trúng. “Bắn trật” ở đây nói lên một yếu tố rất nhân văn của người lính Phan Xuân Sinh: không muốn giết người. Vậy ai là kẻ “bắn trúng.” Dạ thưa, đây:


    • “cuộc chiến qua, như một tấm tuồng đời
      thấy chúng nó bắn đâu trúng đó
      bắn tan xác nhân dân,
      bắn tanh bành đất nước
      vẫn chưa thỏa được lòng tham”


    Không những chỉ bắn trúng một cách chung chung, mà “bắn đâu trúng đó.” “Chúng nó” chẳng ai khác hơn đám quan chức nhà nước hiện nay, tạo nên một vấn nạn nhức nhối của đất nước gần như không tìm ra lối thoát.

    Đọc bài thơ trên, không thể không nhớ đến “định nghĩa” về chiến tranh của nhà thơ Paul Valéry (Pháp): “Chiến tranh là cuộc tàn sát lẫn nhau giữa những người không quen biết nhau, để phục vụ cho những người quen biết nhau nhưng không tàn sát lẫn nhau” (La guerre est un massacre de gens qui ne se connaissent pas au profit de gens qui se connaissent bien mais ne se massacrent pas).

    ***

    Ngoài thơ, Phan Xuân Sinh còn viết văn. “Bơi Trên Dòng Nước Ngược,” tập văn xuôi đầu tiên của anh, là một tạp bút. Trong lời mở đầu, anh thành thật cho biết: “Đây là một tạp văn gom góp lại những mẩu chuyện nho nhỏ của tôi được đăng rải rác trên các báo và tạp chí tại hải ngoại. Vì sợ thất lạc và để dễ dàng gìn giữ nên tôi quyết định in ra để bạn bè, những người thân thuộc, những anh chị em quen biết, như một món quà giữ làm kỷ niệm, chứ không có hoài bão lớn lao nào khác.” Trong đoạn cuối, anh cũng thành thật viết “Trong tạp văn này tôi gom đủ mọi thứ, buồn vui lẫn lộn, hư thực xen lẫn nhau. Để người đọc mua vui trong chốc lát…”




    Phan Xuân Sinh tiếp bạn văn tại nhà. Từ trái: Phan Xuân Sinh, Phạm Văn Nhàn (Houston), Uyên Hà (Việt Nam), Bùi Huy, Trần Doãn Nho (Dallas), chị Trần Doãn Nho, chị Phan Xuân Sinh. (Hình: Trần Doãn Nho cung cấp)



    Như thơ, văn Phan Xuân Sinh bộc trực, không quanh co, úp mở. Tấm lòng anh tỏ lộ trên từng câu, chữ, dù trong tùy bút, ký, tự truyện hay truyện ngắn. Anh gói mọi biến cố và bi kịch cuộc đời trong tình người. Vì thế, truyện của anh – tuy không ít kịch tính – lại có những kết thúc, lúc nào cũng làm… nhẹ lòng người. Thú vị nhất là theo anh xuôi về những kỷ niệm thời thơ trẻ với những tinh nghịch thuở học trò, với mối tình đầu và với vùng đất quê hương anh. Vui, buồn, tếu, cay đắng, khổ đau, hạnh phúc… Đủ cả. Quê hương Quảng Nam xấu, tốt chi cũng đều bị anh lột trần. “Con gái Bắc tế nhị, khéo léo bao nhiêu thì con trai Quảng Nam cộc cằn, độc đoán bấy nhiêu, họ kín đáo thầm lặng bao nhiêu thì mình huỵch toẹt, ồn ào bấy nhiêu. Ôi cái xứ mình tạo ra những con người như thế, quá thẳng thắn, quá cứng rắn, mà cái gì quá thì nó cũng căng dễ đứt, không hay. Vừa phải chừng mực thì tốt hơn. Thế nhưng người Quảng Nam thì không chịu thái độ không dứt khoát này, chấp nhận tràn đầy chứ không thể lưng chừng.”

    Cảm động nhất, có “Con Tàu Chỉ Có Một Người,” truyện ngắn. Một tù nhân cải tạo bị vợ chê, không hề được thăm nuôi, bỗng nhiên nhận được một gói quà gửi qua đường bưu điện. Tưởng vợ mình hồi tâm, té ra không: vợ một người khác gửi cho anh. Đọc thư kèm theo, mới hay, chị vợ này bé cái lầm: do trùng họ tên lại trùng cả đơn vị trong quân đội, chị tưởng anh là người chồng – vốn bị mất tích từ lâu trong chiến tranh – hãy còn sống. Nhận quà bất ngờ, lòng không yên, anh viết thư ám chỉ xa gần rằng chị đã gửi nhầm. Tưởng thế là yên, không ngờ, quà và thư vẫn cứ gửi vào. Đã thế, còn được thăm nuôi. Tưởng người thân, hóa ra, lại là người phụ nữ không quen biết nọ. Anh ngỡ ngàng, nhưng chị ta ra dấu cho anh im lặng, làm như là vợ đi thăm chồng. Chị nói, nhận thư anh, chị biết mình lầm lẫn, nhưng vẫn cứ gửi, vì thương cho hoàn cảnh một người tù bị vợ bỏ rơi. Biết chắc chồng mình đã chết, chị tuyệt vọng nhưng bù lại, cảm thấy vui vì đã làm được một việc đầy ý nghĩa: mang chút tình sưởi ấm cho người bất hạnh.


    Kết truyện, diễn tả lại cảm xúc của người tù trước tình cảnh éo le này, Phan Xuân Sinh viết: “Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng (…) Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật quý báu cho một tấm lòng. Anh cảm thấy chị và con tàu đang lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.”

    Bốn năm sau, anh cho in “Sống Với Thời Quá Vãng,” cũng là một tạp bút. Trong lời đề tựa cho tập này, Trần Doãn Nho viết: “…Qua những số phận rất riêng, thực ra, Phan Xuân Sinh muốn nói lên một cái rất chung: vết thương chia cắt dân tộc qua những năm dài chiến tranh và hơn ba thập niên không-chiến-tranh mà chưa có dấu hiệu gì đã được chữa lành. Bằng những ghi nhận sắc nét và cụ thể từ hiện thực, qua một chuyến trở về với vô vàn cảm xúc, Phan Xuân Sinh đã cung cấp cho người đọc những hình ảnh và những sự kiện rất thấm thía. Đây là một tác phẩm văn chương, cố nhiên. Nhưng mọi cái toát ra từ đây không chỉ là văn chương. Mà là một tấm lòng. Một bày tỏ. Một mối quan hoài. Và cuối cùng, một niềm hy vọng…”

    Nội dung các câu chuyện khác nhau chỗ này chỗ kia, nhưng ý nghĩa chính của chúng gói gọn trong hai chữ: trở về. Trong “Ánh Sáng Cuối Đường Hầm,” người vợ từ nước ngoài “trở về” nước tìm lại chồng con sau 15 năm cắt đứt mọi liên lạc chỉ vì tủi hổ đã bị hải tặc hiếp trên đường vượt biển. Trong “Khi Con Đường Không Lối Thoát,” người con trở cũng từ nước ngoài “trở về” tìm gặp lại người mẹ đã bỏ chồng tù để lấy người khác. Cũng là bỏ, nhưng một người thì vì mặc cảm tội lỗi, còn một người thì phản bội. Hoàn cảnh khác nhau đưa đến hậu quả khác nhau. Người vợ này tìm thấy “ánh sáng cuối đường hầm”, gặp lại được chồng con, được tha thứ; còn người vợ kia thì “không lối thoát” vì nhận ra quyết định của mình trong quá khứ là không thể sửa chữa được.

    Và chính Phan Xuân Sinh cũng “trở về.” Bút ký dài ghi lại chuyến trở về này là một chuỗi những sự kiện và gặp gỡ với nhiều tình huống và cảm xúc phức tạp. Cũng như hàng triệu người Việt Nam khác, anh rời bỏ quê hương; rời bỏ những khát khao trở về; trở về thì hoàn toàn bị hụt hẫng: quê hương không nhìn nhận đứa con xa xứ. Cảm giác bị xem như một người lạ ngay chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình là một kinh nghiệm mới mẻ đầy chua xót. Một trong những kinh nghiệm đó là xuất bản sách. Anh kể: “Tôi về Việt Nam trong chuyến nầy, nhà xuất bản Văn Nghệ có in cho tôi một tập thơ, theo lời rủ rê của vài người bạn thân, tôi in một tập ở đây để biếu anh em, vì in ở Mỹ mang về khó quá. Theo dự trù, tập thơ sẽ in xong trước Tết, thế nhưng vào giờ chót không kịp. Nhà in hẹn Mùng Tám Tết sẽ giao. Tập thơ mang tên: ‘Khi Tình Đang Ru Đời.’ Đúng ra tập thơ 225 trang, tôi layout sẵn. Thế nhưng khi nhận tôi nhìn thấy thay đổi tất cả, kể cả layout. Anh Tần Hoài Dạ Vũ (một nhà thơ trước 75) báo cho tôi biết là tập thơ bị kiểm duyệt 8 bài và 5 bài viết về tôi của Nguyễn Đình Toàn, Luân Hoán, Nguyễn Mạnh Trinh, Vương Trùng Dương và Lương Thư Trung bị cắt. Tập thơ chỉ còn lại 115 trang. Lý do vì sao bị kiểm duyệt? Tôi không được nghe chính thức giới có thẩm quyền nói ra, chỉ nghe qua người khác nói lại là những bài thơ bị kiểm duyệt có chút ít đụng chạm. Những tác giả viết về tôi, không phải là người trong nước viết nên bị loại. Đơn giản như vậy. Khi in tập thơ nầy, chính tôi đã tự kiểm duyệt, chỉ lựa ra những bài thơ vô thưởng vô phạt, thế mà cũng chưa vừa lòng người kiểm duyệt. Tôi là người viết ở hải ngoại, người đọc tác phẩm tôi là người đang sống tại hải ngoại. Có ai trong nước đọc được của tôi đâu để viết về tôi. Một sự đòi hỏi thật vô lý, tréo cẳng ngỗng. Thế nhưng người kiểm duyệt hình như họ không cần phải biết những điều như vậy. Họ chỉ là những bộ máy nghiền nát theo một chính sách chung. Thật khó lòng cho những ai muốn về nước để in ấn, khi bộ máy nghiền nầy chưa được tháo gỡ.”

    Thật thấm thía nỗi đời.

    Chào vĩnh biệt Phan Xuân Sinh! (Trần Doãn Nho) [qd]

    Chú thích: (*) Song Thao, Phan Xuân Sinh, Người Của Mọi Người – Văn Học Nghệ Thuật – Việt Báo Foundation – A Nonprofit 501 (c)(3) Organization (vietbao.com)

    Phan Xuân Sinh sinh năm 1948 tại Nại Hiên Tây, Đà Nẵng. Định cư tại Hoa Kỳ ngày 1 Tháng Sáu, 1990. Có bài đăng trên các tạp chí: Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Làng Văn, Phố Văn, Chủ Đề và các trang mạng Talawas, Da Màu…

    Các tác phẩm đã xuất bản: “Chén Rượu Mời Người” (tập thơ, Phan Xuân Sinh-Dư Mỹ, 1996); “Đứng Dưới Trời Đổ Nát” (tập thơ, 2000); “Bơi Trên Dòng Nước Ngược” (tạp bút, 2004); “Khi Tình Đang Ru Đời” (thơ, 2008); “Sống Với Thời Quá Vãng” (tạp bút, 2009).

    Trần Doãn Nho/Người Việt

    https://www.nguoi-viet.com



              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Chuyến tàu chỉ có một người

Bài viết bởi Bạch Vân »

          





          
Trả lời

Quay về “của người”