Ký ức bỏ quên

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5410
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Ký ức bỏ quên

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Ký ức bỏ quên – Thành Gia Định





    I. Thành Gia Định

    Khai trận

    Ngày 17 tháng 10 năm 1977. Tôi bị bắt ở quận 4, với những tang chứng không chối cãi – Tổ chức chống chính quyền cộng sản. Nằm ở công an quận 7 ngày, tôi bị đưa lên trại giam T 20, chính là thành Gia Định được xây dựng từ thời Pháp.

    Khi được mở băng bịt mắt trên suốt chặng đường từ lúc bước ra khỏi phòng tạm giam ở quận 4. Cái không gian mà tôi thấy được làm tôi muốn ngạt thở. Tiếng cánh cửa sắt đóng sầm thô bạo, tiếng khoá bên ngoài vang lên chói tai, căn biệt giam tối mờ mờ, một ngọn đèn bóng tròn trên tận nóc cao, rọi xuống xuyên qua lớp lưới chống B40, mùi ẩm mốc bốc lên trong khoảng không gian chật hẹp, bít bùng như một trấn áp đầu tiên khiến tù nhân phải sợ. Chắc khoảng gần một phút sau tôi mới trấn tỉnh và quan sát thật kỹ chung quanh.

    Một cái bệ xi măng cao hai gang tay, ngang và dài như một cái giường cá nhân , một cánh cửa thép dày, khoét một hình vuông mỗi cạnh 20 phân với một chốt khoá bên ngoài, dĩ nhiên nó được đóng kín, liền sau cái bệ xi măng đó là một cầu tiêu kiểu ngồi xổm, có một vòi nước. Dọc theo cái bệ này là phi đạo (lối ra vào duy nhất) có bề ngang đúng 3 gang tay, và dài 20 bàn chân bước khít lại. Im lặng, chính cái im lặng trong âm u rờn rợn đó, làm dấy lên cảm giác lẻ loi vô hạn.Hai tuần trong biệt giam, là những ngày bọn công an điều tra quay tôi như chong chóng. Sáng sớm cái lỗ thông gió được mở ra để điểm danh, sau đó một tên dẫn mối (danh gọi này do anh em tù nhân gọi đám công an cắt ké dẫn tù lên bộ phận chấp cung gọi là ban chấp pháp), công việc này gọi nôm na là “đi làm việc”. Thức ăn ngày hai bữa được phát qua cái lỗ gió con con đó, Suốt thời gian tôi ở xà lim, cái lỗ gió khốn kiếp ấy luôn đóng, nó chỉ mở ra khi đi làm việc và nhận thức ăn, nước uống.

    Hồi đó tôi rất trẻ, cái năng nổ trong thời gian hoạt động, lặn lội hãy còn, cho nên ngay khi bị tống vào cái biệt giam khốn kiếp này tôi đã tìm mọi cách liên lạc chung quanh, trái phải, trước sau. Nó tự khắc đến trong bản năng sinh tồn của con người như một thứ cùng tắc biến, biến tắc thông. Mà thực ra, không cần tôi phải vận động cái khôn vặt đó. Mười phút sau khi tôi có mặt ở biệt giam này, lúc cánh cổng khu bằng sắt đã kéo ngang lối ra, một dấu hiệu không cần nhìn cũng biết, tên vệ binh dẫn mối đã rời khỏi khu. Là tôi đã nghe một âm thanh văng vẳng từ đâu đó:

    – Ê ! mới vô hả? Tên gì ? Có gì lạ không? Bị tội gì? Nhà ở đâu?

    Một loạt lấy cung từ các tù nhân hàng xóm đã ào ào, bên kia vách tường cũng có tiếng gõ nhè nhẹ , nhưng âm thanh nghe như phát ra từ trần nhà hoà trong tiếng dội lại, thứ âm thanh của ma trơi quỷ hú mà thuở nhỏ tôi đọc trong các chuyện liêu trai hay ma cà rồng. Vâng nó phát ra từ trên cao có hơn 4m vọng xuống. Một cái lỗ thông hơi phía sau cái bóng đèn 15 watt với cọng dây điện bám đầy váng nhện, phía dưới nó là tấm lưới B 40 cũng bụi bám nhện giăng làm ánh sánh trở nên mù mù, dù ngọn đèn vẫn cháy liên tục ngày cũng như đêm. Có lẽ sau một tuần ở trại tạm giam quận 4 tôi cũng kinh qua cái cảnh tù non rồi. Không vội vàng trả lời hàng xóm, tôi leo lên bục, ngồi nhắm mắt như kiểu thiền của những vị chân tu mà tôi chỉ biết man mán qua sách vở.

    Chiều tối, biết là tối do nhận thức ăn, nước uống và lỗ gió mở ra điểm danh. Thời gian như đứng lại trong cái mờ mờ và đơn độc nếu không đi làm việc hay lỗ gió mở ra.

    Biệt giam tôi ở là 5C2. Trại này có hai khu biệt giam nằm đối lưng nhau, mỗi khu là một dãy 30 phòng. Đối diện từng dãy biệt giam là phòng tập thể, mỗi phòng có khi chứa cả 30 người chen chúc nhau như cá hộp dưới mái tole trời Sài Gòn, dù lúc tôi vào đây đã là tháng 10. Bên trái tôi là một gã tên Trung, nghe đâu là tay anh chị cướp của, giết người đang bị cùm hai chân và xiết ngang đùi bằng một sợi dây loại câu cá cỡ lớn khó đứt làm cho chân gã tù dần dần teo lại, mất khả năng bạo động trong thời gian chờ đem đi xử bắn. Bên phải là Nguyễn Phú Hải, một sinh viên Phú Thọ bị bắt trước tôi mấy tháng, thành phần của một mặt trận nào đó ở Phương Lâm, về Sài Gòn hoạt động và bị lùa vào đây. Anh bị đưa vào xà lim này từ trại giam Đại Lợi, trước 1975 nó là cái rạp ciné ở khu Ông Tạ.

    Có điều, sau lưng tôi là biệt giam 5C1. Nhà văn Hoàng Hải Thủy đang “tạm trú”, hình như ông bị tóm trong một chiến dịch mang tên Sông Vĩnh, nhằm hốt tất cả nhà văn, nhà báo, ký giả của Sài Gòn, một đợt tấn công có kế hoạch và chuẩn bị chu đáo nhất của công an thành phố. Tôi cứ thắc mắc hoài suốt thời gian tôi ở 5C2. Tôi lên đài, ông không trả lời, tôi gõ S.O.S ông không đáp.

    Duy nhất một lần buổi sáng vừa thức dậy tôi nghe tiếng gõ thật nhẹ từ vách tường phía sau, tiếng gõ như một thăm dò, một kêu cứu, một tuyệt vọng, cho dù tôi đáp lại nhiều lần nhưng vẫn im lặng, tôi nghĩ ông tránh né, cũng có thể một phản ứng bất thần nào đó trong lúc sống trong cái không gian cô độc, tối om om như thế này, nằm không gõ nhẹ vách tường chơi, hoặc kiếm một cái gì đó khả dĩ làm dấu được trên bốn vách tường, để biết mình trọ nơi này đã bao lâu, và hình như tay nào ở biệt giam cũng làm cái vụ này, Khi tôi tới phòng này bốn vách tường là chi chít, chấm, gạch, dấu thập, rồi 7 cái gạch ngang một phát, 4 cái gạch ngang hai phát, với đủ kiểu, đủ hình thái và màu sắc, cũng có khi là một vết lõm, chắc do cạo bằng một vật cứng nào đó. Vả lại ông cũng đã già, không như đám tù trẻ của chúng tôi thời đó, tôi nghĩ thế, nên thôi không cố bắt liên lạc.

    Tôi biết vậy là khi tôi rời biệt giam lần đầu từ 5C2 ra phòng tập thể khu A. những nhân vật cộm cán ở khu tập thể này nói với tôi là Hoàng Hải Thuỷ nằm biệt giam 5C1 lâu lắm rồi mà chưa ra tập thể.

    Buổi tối trong biệt giam là một cực hình, thường những ngày đầu vào đây ai cũng bị mất ngủ, cái thức đợi đêm thâu, đêm thâu với tiếng thạch sùng tắt lưỡi não lòng. Lâu lâu một cơn gió đi qua, tưởng như thổi một hơi mỏng manh vào khe hở dưới cánh cửa, cái khe nhỏ xíu nhét cái cán muỗng chưa chắc gì qua lọt. Im, vắng, chỉ nghe được thỉnh thoảng tiếng thở dài của chính mình, khi vơ vẩn nghĩ một tình tiết nào đó cần phải khai ra cho thật có lợi. Tôi thường bước trên phi đạo này, có khi hàng nhiều giờ trong đêm, đếm từng bước chân khít sát nhau, như một gã đi trên sợi dây căng ngang thung lũng, hay chợt nhớ một thế võ công trong phim ảnh “Bích hổ du tường”, dang hai chân , hai tay bám hai bức vách tường nhích từng chút một cho tới khi đầu chạm cái lưới sắt, trên nóc, rồi đi xuống, lại đi lên. Hết đi trên phi đạo, không đi trên tường thì ngồi như kiểu tham thiền. Ý nghĩ lui tới trong đầu thật bất an, nằm xuống sàn xi măng lạnh, cởi cái áo, lót cho cái đầu bớt cấn, rồi lại đi, rồi lại ngồi. May mắn là đêm trường nhất định tới một lúc cũng hết. Nghe tiếng kẻng ba hồi vọng lên, một sớm mai, một ngày, tôi cũng bắt chước thêm một vạch lên tường để nhớ.

    Sau gần một tháng giam trong xà lim, tôi được chào đón vào phòng 2A bằng những ánh mắt thăm dò tội nghiệp của cả phòng. Hơn 30 con người nhìn tôi, quan sát. Gã trưởng phòng là một tên cán bộ cộng sản, ăn hối lộ hay bị trù dập chi đó bị đưa vào đây. Sau khi cánh cửa phòng đóng và khoá lại cẩn thận. Anh ta chỉ cho tôi một chỗ nằm, đó là phi đạo có điều nó lớn hơn và cái bệ nằm nó cũng rộng hơn nhiều, trên cái phi đạo này đã có nhiều cư dân cắm dùi trước tôi đến hơn chục mạng.

    Giáo sư Phạm Quốc Bảo nằm trước tôi theo hàng dọc, kế đến là Đằng Giao Trần Duy Cát, hoà thượng Thích Thiện Huê đạo hạnh của chùa Đại Giác trên đường Công Lý, Nguyễn Văn Thủy một trình dược viên nặng ký. Nằm trên bệ xi măng trong số này có cả Thiếu tá Mai Văn Trị hạm phó của chiếc tàu Việt Nam Thương Tín từ Guam trở về, chưa kịp cặp bờ đã ghé bến trại T20, Đại Uý pháo binh Nhảy Dù Đào Văn Thương thì nằm cuối phi đạo. Rất nhiều những nhân vật tiếng tăm lừng lẫy có mặt trong cộng đồng tù nhân ở trại T20 này, bởi nó là trại trung ương của thành phố được do chính sở công an trực tiếp săn sóc.

    Ngày hai lần điểm danh cùng một kiểu, tù nhân hai hàng dọc ngồi xếp bằng trên bệ, phi đạo dọn trống, tất cả cư dân tạm trú trên đó, đồ cá nhân phải xếp sát vào tường, sàn phòng sạch sẽ, lau bằng tay, do trực sinh trong ngày chia nhau trách nhiệm, trừ trưởng phòng, anh ta đứng ngay cửa ra vào và báo cáo số người có mặt, lần lượt tù nhân đọc tên mình cùng số thứ tự. Cú điểm danh tốc hành chừng 3 phút là xong, và lần nào cũng vậy một trong 2 tên đi diểm danh sẽ bước hẳn vào tận cuối phòng, nơi đó là một bể nước đổ bằng bê tông thời Pháp, dày cui và kiên cố đến rùng mình, anh ta sẽ nhìn thẳng xuống mặt nước hồ quan sát, rồi nhích hai bước tới nhìn vào cái lỗ cầu tiêu kiểu bệ ngồi. Dù từ xa vẫn có thể nhìn thấy rõ màu gốm lâu đời dưới ánh sáng ngọn đèn 1m2, cái cầu tiêu cực kỳ sạch, được lau bằng tay, khô và bóng. Kết thúc cú nhìn này là anh ta bước ra, cửa đóng rầm một cái, hết chuyện.

    Thời gian sống chung phòng tập thể này tôi học được nhiều thứ, có lẽ do tôi nhỏ tuổi nhất, chính cái khờ dại và vẫn còn chút trẻ con của mình được các đấng dạy dỗ nhiều, từ cách đối phó với ban chấp pháp, đến những thủ thuật cần thiết để sống trong biệt giam, hay cách chuyển một mòn đồ từ phòng này sang phòng khác bằng một sợi dây se lại từ những sợi nylon trong một manh chiếu nát, làm sao có thể treo một nải chuối to bằng một đoạn dây se cứng trên vách tường thẳng đứng v…v

    Một điều mà sau này so sánh tôi mới thấy. Cái cộng đồng tù nhân thời điểm này cư xử với nhau rất tình nghĩa, đối với nhau thành thật hơn nhiều, so với khi chuẩn bị hay ra trại tập trung đi lao động. chẳng biết có phải vì đó chỉ là thời gian tạm giam, mọi cái chưa rạch ròi và hầu hết là những nhân vật ở phòng này rất trí thức, họ là những người rất chống cộng, chống từ trong ánh mắt nhìn. Trừ mỗi một gã trưởng phòng, là người mà chúng tôi gọi là phía bên kia, mặc dù do chán chế độ, hoặc vì lý do cá nhân nào đó. Anh ta không báo cáo, thậm chí còn bao che anh em trong phòng, nhưng vì là người phía bên kia, nên anh em đều bảo nhau dè dặt với anh ta.

    Hoà Thượng Thích Thiện Huê, rất thương tôi suốt hơn 20 ngày sống trong phòng này ông thường dạy tôi cách ngồi cho đúng để giữ sức khoẻ, phương pháp dịch cân kinh của Đạt Ma Sư Tổ…

    Ba ngày một lần là thăm nuôi, nếu đã được liên lạc với gia đình, đa số là dân mồ côi vì hầu hết là tù mới bị bắt. Lao động bên ngoài phòng là những tù nhân thuộc phía bên kia, thường là tù hình sự, trong số họ có một chàng tên Hỏa rất dễ thương, là người đưa cơm và nước vào khu A cùng khu biệt giam. Có lẽ nhờ vào Hỏa mà các anh ở trước tôi biết nhiều thứ, từ chuyện nhà thơ Hoàng Hà ở phòng nào, Trần Dạ Từ khu nào, Hoàng Hải Thuỷ ở 5C1, các linh mục phòng nào, số mấy, ai ở chung với ai v..v…

    Nguyễn Văn Thủy hay tán gẫu với Trần Duy Cát và tay này biết nhiều thứ trên trời dưới đất, nhiều khi Phạm Quốc Bảo kê ngang:

    – Trời ! chuyện bà Lệ Thu mày cũng rành vậy Thủy.

    Đằng Giao cũng trạc tuổi anh Thủy nên hai anh tha hồ kể “chuyện đêm khuya” cho cả phòng nghe để cười quên đói, quên buồn.

    Thời gian này có một đợt bệnh ghẻ kinh hoàng, may mắn thay, tôi không bị dính. Doãn Quốc Sỹ nghe đâu cũng bị ghẻ lên tới mặt. Thứ ghẻ mà chúng tôi đùa là ghẻ Hà Nội thật tàn bạo lây lan chóng mặt, trại chỉ cấp lưu huỳnh để bôi cầm hơi,

    Tôi nhớ, Lý Sen, ông chủ Vicasa được cho làm y tá. Ông ta, với tướng đi lệch bệch như con vịt mái vào mùa đẻ trứng, kéo đôi dép nhựa trên nền nhà, gõ vào cửa và hống hách một tiếng duy nhất “Thuốc” rồi đưa chai lưu huỳnh pha loãng, nhỏ như ngón tay cái cho tên trưởng phòng. Anh em chấm cây chân nhang quấn bông gòn thoa trên mụn ghẻ. Nhìn là thấy cái lây lan sẽ đến ngay cho người thứ hai xử dụng tức thời, vậy mà cũng phải xài, chứ không lấy chi làm ra thứ chống ghẻ. Trời nắng chiếu xuống hành lang là cả đám trần truồng ngồi bắt cái ghẻ ngay trước cửa phòng, bất cứ thứ gì có thể dùng được đều được mang ra để khều, móc, trên những mụn nổi sần sùi chảy vệt nước vàng cùng với mùi tanh tưởi nén trong hơi lưu huỳnh nồng nồng. Dù chưa ai chết vì ghẻ vào lúc đó, chỉ có nằm khềnh khàng tay chân cứng đơ, không thể co vào cầm nắm một vật, cố gắng lắm mới bê nổi chén cơm bằng nhựa dẽo lên miệng, tay kia cầm muỗng khều từng hạt cơm một cách khó nhọc, chậm rãi đưa vào mồm. Cái thứ ghẻ ác ôn này chỉ mọc nhiều trên những chỗ khớp nối của thịt xương, làm con bệnh khó co duỗi, ghẻ nổi thành dề như miếng cơm cháy, từng mảng trên da cứng, ghẻ sần sùi, ghẻ ghê rợn, có người từ cổ xuống gót chân như một cái xác cùi hủi vào giai đoạn chót, các khớp ngón cứng ngắt, những cái mụn ghẻ dưới bờ môi kéo cái miệng méo xệch. Ghẻ gần như cả trại, như bay mù mù trong không gian, chỗ nào cũng có, phòng nào cũng ghẻ, ghẻ như là… ghẻ mà nó đâu phải thứ ghẻ ngứa thông thường, trách sao anh em chẳng gọi nó ghẻ Hà Nội. Đầu tiên tôi cũng thấy ghê ghê, nhưng rồi đành sống chung với lũ.

    Cho đến ngày này tôi vẫn không quên, Đại Uý Đào Văn Thương, sĩ quan ban 3 tiểu đoàn 3 pháo binh Nhảy Dù, trầm trầm kể cho tôi và Đằng Giao Trần Duy Cát nghe trận đánh ở đồi máu.

    Đồi 31 nơi mà người hùng Nguyễn Văn Đương của Tiểu Đoàn 3 pháo binh Dù tuẩn tiết . Câu chuyện được nghe giữa một đêm nát lòng trong tù ngục, cái buồn đứt ruột của một người trẻ còn hừng hực một lòng chống cộng, và cuộc chiến hình như chưa tàn, vẫn rần rần chảy trong từng mạch máu, chưa chịu tan hàng, chắt chiu từng viên đạn mót tìm trên bãi chiến trường cũ hay những căn cứ, tiền đồn còn sót lại, vẫn hiên ngang lên đường, nó hừng hừng như thứ rượu uống ngà ngà say.

    Anh Thương chơi một hớp nước xe một điếu thuốc rê, xin Đằng Giao một que diêm, chầm chậm đốt và rít một hơi dài:

    – … Lúc đó hầm tôi đã sập, Đương gọi tôi trong máy nội bộ “Thương! mày cho bắn lên đầu đi tụi nó kín hết rồi” và chiếc T54 lướt qua hầm khi trong ống liên hợp tôi nghe phát súng nổ.

    Giọng anh trầm xuống:

    – Đương, nó tự sát cách tôi không quá 10m, tôi bị chúng bắt khi đang bất tỉnh trên cửa hầm do sức ép của đạn phá, lúc tỉnh dậy hai tay bị trói mẹ nó rồi.

    Anh Đằng Giao hỏi tới:

    – Vậy ông dính cho tới ngày nay?

    – Ừ cho tới ngày nay, qua nhiều trại từ Bắc vào Nam.

    Cuối câu chuyện này anh Thương nắm tay tôi, khi Đằng Giao bỏ đi về phía hồ nước:

    – Em nhớ làm gì cũng cẩn thận, trong tù không đơn giản chút nào, anh qua nhiều trại rồi, thứ trại tù cộng sản ác độc lắm.

    Tôi còn nhớ nói xong câu đó. Anh vói tay lấy miếng bông, dốc chai lưu huỳnh mà anh dấu được còn đọng một ít dưới đáy, chấm trên vết ghẻ mới nổi một mụn trên ngón tay út, chai lưu huỳnh do Hỏa chuyền cho anh lúc lãnh cơm trưa.

    Hải Quân Thiếu tá Mai Văn Trị cũng dăm ba lần kể chuyện về chuyến hải hảnh chết tiệt của đời anh từ Guam trở về. Cũng có người cho là điên, cũng có anh cho là đúng, thói người quả khó mà lường. Anh chuyện trò với tôi, bởi có lần tôi hỏi anh có biết tay anh rể của tôi là dân Hải Quân Khoá 1 OCS Hoa Kỳ, từng là giang đoàn phó 46 Ngăn Chận đóng ở Tuyên Nhơn – Mộc Hóa và đơn vị cuối anh ấy thuộc toán 4 lực lượng hải yểm vùng 4 sông ngòi với cái tên tắt là ANGLICO.

    Tôi bị tống vô biệt giam lần nữa, đúng như Thượng toạ Thích Thiện Huê tiên liệu khi hỏi tôi về những buổi lấy cung trước, tôi kính ông như sư phụ của mình nên kể hết cho ông nghe:

    – Tụi nó sẽ nhốt anh lần nữa, để dụ anh khai, nó mới cho anh ra tập thể. Đưa anh trở lại biệt giam để anh thấy và sợ cô đơn, sợ đói, sợ đủ thứ… hãy cẩn thận.

    Tới bây giờ tôi mới nghiệm ra đó là môt lời khuyên giá ngàn vàng. Ông cũng không quên cho tôi một ít đồ dùng cần thiết vào hôm sau khi ông được các đệ tử gởi đồ tiếp tế.

    Tôi vẫn cố bám lấy đất nước tôi..


    Phòng Tập thể C1 rộng hơn nhiều so với phòng 2A, không gian tương đối khá nhờ cái sân rộng ngăn cách dãy biệt giam nằm đối diện nó. Tôi bị tống vào đây sau mấy tuần nằm biệt giam lần 2 ở khu C, một giai đoạn như vượt đoạn đường chiến binh lần đầu cho cái hồ sơ hỏi cung kết thúc.

    Chỗ tù nhân nằm là bệ xi măng cao 30 phân xây hình chữ U chừa một phi đạo ở giữa ngay cửa phòng, một lá thép dày phía dưới, chấn song dọc ở trên, có chút không khí để thở cho 28 con người nhét kín trong đó, phi đạo chỉ trống ban ngày, nhưng chật chội lúc đêm, phi đạo chỉ ưu tiên cho trưởng phòng nằm ngay sát cửa và những tù đàn anh, là lớp lâu hơn thứ tù còn non như tôi.

    Phú Hải, tay nằm phòng biệt giam C2 kế tôi lần trước cũng được đưa về phòng này. Tù vào đây là chuẩn bị lên đường ra trại lao động, đi đâu, lúc nào, chỉ có sở công an biết. Giám thị trại cùng lắm biết trước vài tiếng để chuẩn bị thức ăn đi đường cho tù nếu chuyến đi khá xa, tù nhân chỉ biết khi tập hợp đọc tên, rồi lên xe, tuy nhiên có khi mánh mung, quen biết đám nhà bếp thì cũng có vài tin tức. Ở đây thì khác, để chuẩn bị đi về nơi không biết, nên cái tình đồng cảnh cũng không giống khu A tạm giam, mọi người ai cũng thủ, chỉ thâm tình hay kết nhau lắm mới tâm sự đôi điều.

    Những hình ảnh khốn nạn, chia rẽ cũng bắt đầu được nhìn thấy từ chỗ như vầy trong những tháng ngày tù ngục, cái thế thủ bắt buộc phải có để sinh tồn trong thiếu thốn, chật chội và bỉ ổi của một xã hội thu hẹp. Tôi bắt đầu khôn ra từ cái cảnh bần cùng này, chó chết này.

    Tôi gọi anh là Hiển râu, bởi hàm râu quai nón và tướng ốm cao như tôi, anh là một cán bộ Xây Dựng Nông Thôn hình như ở Củ Chi hay Trảng Bàng gì đó. Sau nhiều lần, nhiều ngày tránh né tại địa phương nơi anh cư trú, anh bị tóm về đây với tội danh trốn học tập, khai man lý lịch. Tôi có cảm tình với anh qua cách anh chỉ chỗ cho tôi nằm khi chân ướt chân ráo bước vô phòng. Anh nói với Hải để tôi nằm giữa hai người. Từ hôm đó chúng tôi ba mạng hay rù rì với nhau.

    Bên kia sân là biệt giam đã đầy kín, những con ma mới rụt rè vài hôm trong những chiếc hộp nhỏ đó, rồi cũng lên đài đấu hót vang trời, đa số đều là phản cách mạng, cái tội danh như một thứ thời thượng, bởi thời gian này một chiến dịch khác đang rầm rộ hốt các phe nhóm, các mặt trận chống cộng đang nở rộ ở khắp nơi. Tại miền Nam, ngay Sài Gòn này, ngoài Chí Hoà thì T20 là trại thuộc loại “cái bang” nhiều túi, bên cạnh đó xa hơn là phải kể các trại loại chóp bu ở tỉnh.

    Trại tù mọc lên như nấm, tù vào trại không còn chỗ chứa, lại mọc thêm trại khác, Những đợt tấn công càn quét văn nghệ sĩ, tu sĩ vừa xong thì bắt đầu tới thành phần chống chế độ. Từ đây cả nước rủ nhau đi tù.

    Chúng tôi dù chỉ là thứ tù con nhưng cũng chắc mẫm là mình thuộc loại trong hàng triệu người chọn nhà tù làm chỗ dung thân. Bởi qua những tin tức nghe đồn thổi đâu đó, ông tướng này, đơn vị nọ, trú đóng nơi nào đó, bí mật có, chỉ danh có. Tuổi trẻ máu nóng thường dồn lên mặt, bất chấp tai ương, ở đâu có chống cộng là tìm tới. Nghĩ mà tội cho những kẻ mất nước, cú húc đầu mất mạng như chơi sao lại không hề nghĩ tới, cứ nghe chống cộng, hai con chữ như một mãnh lực không cưỡng lại được, nó là thứ nam châm hút dính không rời đối với đa số tuổi trẻ miền Nam thời đó, thời của 1975-1985. Nó không phải là thứ lên đường mù quáng, nó là thứ cần biết, chẳng cần mời, một thứ kháng sinh phải có, dù mua bất cứ giá nào để tiêm chích ngăn ngừa và trị liệu con bệnh đang thập tử nhất sinh “Cộng Sản”.

    Tôi đã vượt hàng trăm cây số từ Sài Gòn ra Phan Thiết, từ Tây Ninh về Hậu Nghĩa, từ Cần Thơ ngược qua Bến Tre xuống tận xứ Chợ Thơm Mõ Cày Bắc, để lục lọi tìm dâu vết của bất cứ đơn vị, tàn binh nào còn sót lại, tự nhủ trong lòng, với tấm bùa hộ mệnh là thẻ sinh viên với cái hình chụp bán thân mặc áo nhà binh có số C3A của trại Nguyễn Huệ, trên nắp túi còn rõ ràng sợi dây thẻ bài luồn qua lỗ nút áo. Vì tôi là khóa 3/73 Thủ Đức và xuất ngũ khi có điểm thi và trúng tuyển sau cái ngày hết hạn giấy hoãn dịch, trong mùa tổng động viên toàn phần nhân lực 1972.

    Hải có một nụ cười dòn tan lúc nào anh ta cũng có thể cười được, nụ cười đó an ủi tôi rất nhiều trong những ngày ở trại T20 -Thành Gia Định. Anh khoái xe gắn máy, anh hay kể cho tôi nghe về chiếc Honda 100 cc của anh với những tà áo dài xanh, tím phía sau. Hải là dân kỹ sư cơ khí, đã qua trường cao đẳng, cũng rất là bụi và văn nghệ, anh hay kể những đêm hát hò, những ngày xuống đường trong một thời sinh viên cho tôi và Hiển râu nghe.

    Buổi chiều, trước lúc nhận cơm, tay dẫn mối đưa tới phòng một anh gầy nhom, có vẻ như thiếu ăn với cặp kính cận, cái lưng khòm khòm, tóc gần như húi cua, nhưng khuôn mặt rất cương nghị, chững chạc thật đàn ông và trí thức. Gã trưởng phòng nhận anh, xếp anh nằm đối diện “bạo chúa áo đen” Đinh Xuân Hải, linh mục của dòng Tân Sa Châu.

    Nguyễn Đình Toàn, bị bắt vì can tội “nhà văn đồi trụy”, anh khai tên làm tôi giật mình, hoá ra đây là ông tướng viết truyện “Thành Phố” trên báo mà tôi từng đọc, là tay có bản nhạc hút hồn “Tình Khúc Thứ Nhất” trong tập 10 bài không tên của Vũ Thành An.

    Trời nóng, khung cửa nhà tù quá nhỏ cho ngần ấy con người hít thở, tôi và anh Toàn ra đứng một bên bám vào song sắt, bên kia dãy xà lim vẫn đóng cửa gió kín bưng, một bầy chim sẻ bay xuống sân ngăn với dãy biệt giam, những con chim tội nghiệp hớt hãi tìm mồi sau khung sắt cửa. Anh Toàn thở dài:

    – Ngay cả loài chim bé nhỏ còn không có cái để ăn nói chi tụi mình.

    Một tiếng than, bất thần vỡ vụn giữa điêu linh của đời người nghe tội nghiệp làm sao. Anh, một cây viết lừng lẫy như vậy, chí ít có một tầm vóc nhất định như vậy, mà trước cái nhà tù gần như khắp chỗ thế này còn cất tiếng than như vậy huống hồ chi tôi, thằng học trò mặt búng ra sửa. Bất ngờ anh hát khẽ một câu:

    “Tôi vẫn cố bám lấy đất nước tôi, dù sức người khô kiệt…”

    – Trời! ra đâu mà có dòng nhạc rợn da gà như vầy. Tôi níu tay anh:

    – Bài chi vậy ? Của ai hả anh Toàn?

    Thật sự lúc đó tôi chỉ biết Nguyễn Đình Toàn qua cái tên tác giả của cái truyện Thành Phố, hơn một chút nữa là biết anh có bài thơ Vũ Thành An phổ nhạc. Tôi mù tịt về anh.

    – Bài nhạc này của đám sinh viên quen, tụi nó nhờ anh nghe rồi cho ý kiến.

    – Bài nhạc hay tuyệt, lời của nó làm nổi gai óc.

    Tôi cố nhớ nó và gần 40 mươi năm sau vẫn nhớ nó, với cùng một cảm xúc như lần đầu.

    Tới giờ lãnh cơm, chén bát lại mang ra. “Trên đầu súng quê hương, tổ quốc…” bây giờ thì “…Trong nhà mát hôm nay, chỉ có thế này…”. Một chén cơm gạo mốc, nửa chén nước muối pha loãng!

    Phơi nắng là ân sủng thượng hạng mà bác dành cho, được thực hiện bởi chủ trương và chính sách không ghi trên văn bản, theo tiêu chuẩn bất thường hứng thì cho, không thì miễn, khỏi ý kiến, không có trong biên bản sinh hoạt hàng tuần vào tối thứ sáu.

    Ra cho nắng ăn 5 hay 10 phút tùy thời tiết nóng lạnh trên trán của cán bộ trực khu. Cả bầy tù trắng như chuột bạch, từ trong phòng ùa ra, ngồi la liệt trên sân xi măng trước và cách xa cửa của dãy biệt giam hơn 2m, khoảng cách an toàn để tù nhân không thể chuyển vào biệt giam bất cứ thứ gì, lúc cho nắng ăn, tay cán bộ gác chân ngồi canh trước cửa khu bên ngoài song sắt có khoá. Việc mở cửa phòng cho tù ra phơi nắng do dám lao động như Lý Sen hay Hỏa nhà bếp thực hiện. Cho nắng ăn, cái tên gọi cho buổi tắm nắng, dành cho những người bất hạnh, mất tự do nghe mà đau, hết phòng này thì tới phòng kế tiếp, dĩ nhiên , quá nhiều phòng nên cần phải luân phiên.

    Trên sân, vào thời điểm này anh Toàn hay chỉ cho tôi những tai to mặt lớn mà anh từng quen biết ngoài đời, nhân vật thế nào, tầm cỡ thân tình ra sao? Doãn Quốc Sỹ, Từ kế Tường, nhà thơ Hoàng Hà, họa sĩ Hồ Thành Đức…

    Anh Toàn cũng có hỏi tôi, ở bên Khu A có nghe nói tới tên Nhã Ca hay Thụy Vũ gì không. Tôi lắc đầu.

    Xéo phía phải là phòng 5C1, “cái bang tám túi” Hoàng Hải Thuỷ đang luyện công ở đó và duy nhất một lần chúng tôi thấy được chỉ mỗi một con mắt của ông dí vào cửa sổ gió biệt giam, cố nhìn ra ngoài. đoán chắc ông đang tìm võ lâm đồng đạo, trong đám tù cù cưa phơi nắng dưới sân. Ở khu C1 chỉ có cửa sổ gió phòng ông được mở, nhưng sẽ đóng trong giờ tù cho nắng ăn, chẳng hiểu cớ sao hôm ấy cái lỗ gió mở ra, mà tiếc là chân dung của Công Tử Hà Đông không vẻ được trọn vẹn, lỗ gió quá nhỏ.

    Tôi kết anh Nguyễn Đình Toàn, ngoài việc kính trọng một đàn anh đi trước, trí thức, điềm đạm, nhỏ nhẹ từng lời. Tôi mến anh hơn trong một lần bực dọc mà anh can thiệp như một thầy giáo với tên học trò khó dạy bằng một thái độ có thể nói, trong đời tôi chưa từng gặp ai có cách cư xử đáng nể như vậy.

    Cái khó trong nhà tù thật khốn nạn. Một thau cơm chia đều cho tất cả. Dù mới hơn hai năm sau ngày mất nước, cái đói đã ập xuống miền Nam trù phú, nó bị kéo lê thê vì phải gánh miền Trung và nuôi dân Bắc. Vơ vét miền Nam là chiêu thức đầu tiên bọn việt cộng giở trò sau khi đã lùa hết những quân, dân, cán, chính còn lại không thoát được hay chưa thoát được sau cuối tháng 4 năm 75. Xã hội như vậy nói chi nhà tù. Đói là cái vốn của chế độ cộng sản.

    Cả phòng đồng ý theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa, lao động bằng nhau, thì ăn bằng nhau, tránh thiên vị, cơm phải thay phiên chia ra từ thau lớn cho có cái gọi là công bằng. Dù nó là thứ luật nhà tù bất thành văn, chẳng biết nó có từ lúc nào. Khi tôi ở 2A thì chuyện này cũng xảy ra nhưng không đến nỗi đau lòng như tại phòng này.

    Ý kiến, ý cò cho đã, sau cùng thì mấy anh còn trẻ thay nhau gánh vác cái nhiệm vụ thiêng liêng của nhà nước giao phó: chia cơm tù, trong đó linh mục Đinh Xuân Hải tự nguyện tham gia. Mấy thằng trẻ và ông sẽ thay phiên chia cơm mỗi ngày và người nào chia cơm thì miễn trực, tức là lau chùi cầu tiêu, lau sàn phòng..

    Trong một hoàn cảnh quá ư bi đát, con người sẽ lộ hết tính khí, cái bản chất dù cất kỹ đến đâu nó cũng lộ ra, nhất là khi người ta đương đầu với khó khăn bần cùng.

    Tôi ghét, hay nói đúng hơn rất căm thù cái vụ này. Thường tôi, anh Toàn, Phú Hải, Hiển râu quăng cha cái chén bằng nhựa xuống đó rồi ra trước cửa phòng ngó trời hiu quạnh hay nghe anh Toàn hát dăm câu, tán dóc chuyện vớ vẫn chi đó, cho đến khi cái vụ chia chát xong, mấy anh em chúng tôi luôn là kẻ sau cùng nhẹ nhàng lấy cái chén cơm lưng lưng nấu bằng gạo mốc, chứa đầy cặn bã, rác rưởi, kinh qua thời gian chia chác để tiến lên xã hội chủ nghĩa đó, kéo nhau lên chiếc chiếu tù trải nửa của Phú Hải, ngồi ăn, dĩ nhiên chỉ với đồ của trại, anh em chúng tôi là con bà phước mà.

    Cách chúng tôi ba, bốn bước chân là cái lưng trắng hồng của linh mục Hải đang cúi xuống moi móc một cách kín đáo và có chút kỹ càng, thức ăn trong cái giỏ thăm nuôi mà con chiên của ông cứ ba ngày một mang vào cung phụng cho bạo chúa.

    Tôi quả thực rất chán tay linh mục bạo chúa này, tôi từng nghe danh ông ta trên báo Trắng Đen, những loạt bài về bạo chúa áo đen Tân Sa Châu trong cơn đại hồng thủy “xuống đường” trước ngày sập tiệm. Tôi lại càng khinh ông ta hơn, khi phát giác ra rằng, bất kỳ ai chia cơm đều có ông đứng phía sau, chỉ cho người đang chia rằng chén này hình như ít hơn chút, chén kia đầy hơn chút, dĩ nhiên cái chén mà ông luôn bảo là ít là của ông.

    Một ngày trúng cái phiên tôi phải lên đường tòng quân diệt giặc bằng võ khí trang bị là thau cơm cùng hai mươi mấy cái chén nhựa xếp quanh. Cứ một mực thẳng như cán cuốc của dân Nam bộ tôi lấy cái chén duy nhất làm cỡ, múc cơm từ thau lớn, một chiếc đũa nhựa quẹt ngang cho bằng mặt rồi úp vào cái chén không nào đó. Sau một vòng, phần còn lại trong thau, chơi bằng muỗng cho chắc ăn, mỗi em một muỗng trước đã, dư thiếu tính sau.

    Tay bạo chúa đã hai lần chỉ vào một cái chén vào bảo là nó hơi ít, tôi nhẫn nại vít thêm một chút bỏ vào, Cho tới lần thứ ba, thì tôi úp nguyên thau còn trong đó một ít cơm dư, vào cái chén bạo chúa đang chỉ, đứng phắt dậy, máu móng dồn lên mặt hét to:

    – Đ.M… như vầy được chưa? Hả thằng hèn?

    Anh Toàn từ ngoài cửa phóng vào nắm tay tôi, anh nói thật nhỏ vừa đủ cho tôi nghe:

    – Khiết, nghe anh Toàn, hãy cư xử có ý thức và nhẹ nhàng, không được bạo động.

    Bao nhiêu cơn nóng ầm ầm tự nhiên tụt xuống, tôi méo mó, thảm hại theo anh ra cửa. Phú Hải, Hiển râu trừng mắt ngó bạo chúa đang khoa tay phân bua với mọi người, trong phòng, ai cũng lắc đầu ngao ngán nhìn ông.

    Đó là bài học khốn nạn, lần đầu tiên trong 10 năm tù đày. “Một chén cơm tù, trên tay một người đáng kính”.

    Chiều xuống, lúc Hiển râu thầm thì với Phú Hải, anh Toàn kéo tôi ra ngoài phía cửa:

    – Hứa với anh là tụi em không làm gì nghen.

    Anh Toàn vừa nói vừa bóp bàn tay tôi. Tôi quí anh đã tuyệt vời qua cách cư xử rất chi người lớn đó. Nếu anh Toàn không can thì theo kế hoạch Hiển râu sẽ trùm mềm bạo chúa và với sức mạnh của đai đen Phú Hải chỉ một đòn là ông ta sẽ nằm một đống, nếu cần thiết sẽ đốt luôn mùng của ông, như một chuyện lỡ tay mà cháy, rồi ra sao thì ra. Đây là chiêu Hiển râu học được từ những cuốn tiểu thuyết trinh thám hay những mẩu truyện giang hồ gì đó.

    Dù không biết anh Nguyễn Đình Toàn nhiều lắm, nhiều có nghĩa như một kiểu quen biết từ ngoài đời trước khi vào trại tù này. Tự nhiên, với anh tôi có một cái gì đó gần gũi, thứ tình cảm cho phép mình tin tưởng được. Anh không hỏi nhiều về tôi, nhưng tôi nói hết với anh. Những ngày sống chung với nhau dù không hơn 3 tháng nhưng giữa anh và tôi được mô tả là khá gắn bó giữa 30 nhân mạng trong phòng.

    Anh kể tôi nghe về chậu lan đất duy nhất anh trồng cho có một chút hoa lá ở căn nhà trong cư xá báo chí, anh nói về chị, người đàn bà hiền thục luôn đứng sau lưng anh trong những lúc gian nan.

    – Anh rất nghèo, những khi viết truyện như một lối kiếm cơm, làm anh nản lòng. Nó không lột hết những gì mình muốn, mình phải sống, nên phải viết. Anh gần như té sấp xuống sau ngày “đứt phim”, ngày đó anh không có tiền, chật vật đứt hơi, chị tảo tần theo cái nghèo khó và máu văn nghệ của anh… tội cô ấy.

    Anh nói với tôi bằng ánh mắt thật buồn.

    Tôi không dám hỏi anh sợ nó làm anh nhớ và lo cho nỗi khốn khó của người đàn bà, trong tình huống như thế này. Cái hoàn cảnh khốn nạn cho những gia đình có người lọt trong tay cộng sản như hôm nay.

    – Sao anh Toàn không đi?

    – Anh có nhiều cơ hội để đi, và có nhiều cái trì níu mình lại. Sau cùng anh không đi.

    – Anh hối hận cho việc mình ở lại không?

    – Với em thì anh trả lời thật. Có khi ở lại là điều may mắn. Chí ít mình cũng nhìn rõ ràng cái tan hoang sau ngày đó, chí ít mình cũng có được ngày hôm nay, trong trại tù này. Đâu biết cái gì sẽ đến, kệ nó…

    Anh khuyên tôi cố chịu đựng, hy vọng và cứ hy vọng để sống còn.

    Trong cái vóc dáng chịu dựng, anh đứng tựa của phòng. Buổi tối chỉ có ngọn đèn chiếu ngoài sân, phân nửa con người tong teo của anh, đổ cái bóng dài trên mặt chiếu trải dưới sàn tù, cái bóng gãy gập ở góc tường loang lỗ, đè lên cái bóng của tôi. Hai chúng tôi đứng đó, nhìn ra ngoài, xa xa âm thanh phố phường văng vẳng từ chợ Bà Chiểu thỉnh thoảng còn nghe được.

    Anh hát, những dòng nhạc chảy đi tận cùng từng mạch máu:

    “Tôi vẫn cố bám lấy đất nước tôi dù sức người khô kiệt, dù sức người đã tả tơi ước mơ, tay chân dường rũ liệt,…
    Tôi chẳng còn niềm tin nào cầm cho ấm tay, sống từng ngày, sống ngày nào biết ngày ấy thôi”


    Bóng đen kéo ngày đi qua vội trong những tháng cuối năm, những buổi tối sau giờ điểm danh, trong phòng Phú Hải thường cùng Hiển râu đánh cờ tướng, bộ cờ không biết của ai, chuyền nhau mà chơi, những người khác mỗi người một chút riêng tư, kẻ nhớ nhà, người đang gác tay lên trán nghĩ suy cho thận phận, kẻ nhớ vợ, người thương con. Thường những lúc đó, với đôi mắt và giọng nói buồn thăm thẳm anh Toàn hay hát cho tôi nghe, ở trước và bên trong cửa phòng, những bài nhạc mà mười năm sau khi quay về với đời, tôi nhiều lần nghe lại:

    • “Tôi còn trẻ tôi không muốn bỏ ngang đời
      …người với người đã trở thành thiên tai
      Chiều vàng rơi trên má em tôi… mùi ngọc lan…”


    Mỗi lần nghe những bài hát đó tôi nhắc riêng mình, với một chút hãnh diện, tôi đã là một trong những người đầu tiên nghe nó, cách đây lâu lắm rồi, từ cuối năm 1977, do chính Nguyễn Đình Toàn hát cho nghe trong tù. Ở trại T20, Phan Đăng Lưu nó còn có cái tên nữa – Thành Gia Định

    Nguyễn thanh khiết


    Nguồn:https://nguyenthanhkhiet.wordpress.com


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5410
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Ký ức bỏ quên – Tuổi trẻ điêu linh

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Ký ức bỏ quên – Tuổi trẻ điêu linh





    II. Tuổi trẻ điêu linh


    Tôi có một thời tuổi trẻ chẳng hay ho gì lắm, nếu không nói là phải cực lực chê trách nhiều mặt thì đúng hơn. Cái tuổi trẻ trong thời nhiễu nhương, mỗi bước chân đi là đạp trên tang tóc của chiến tranh, tan vỡ trong ý niệm con người, một con người sống đúng với châm ngôn đạo đức và trách nhiệm.

    Đất nước chiến tranh, những bậc đàn anh ra đi và nằm xuống nhan nhản ngày một. Trong cái nhìn của chúng tôi thời đó, cái chết treo trên đầu như sợi dây thòng lọng, nó sẽ thắt lại.

    Vào một ngày nào đó khi rời bỏ trường học, vĩnh biệt tuổi thơ, ưỡn ngực về thăm nhà trong bộ đồ lính. Nằm xuống, có thể chỉ còn một cái xác mang về cho cha mẹ, cũng có khi mất hẳn không dấu vết trên một chiến trường đang ném binh như vãi đậu ngoài kia, hay mất một chân, một tay, lăn xe về trong thân phận người phế binh của một trận chiến nghe hoài đến nhức nhối. Cuộc chiến chống cộng mỏi mòn.

    Quả thực chúng tôi, cụ thể là tôi có làm gì được đâu, khi bắt đầu biết suy nghĩ. Cái thuở học đòi làm người lớn, điếu thuốc trên tay, quán café để la cà, biết ngó con gái đẹp, biết chăm chăm nhìn vào cái chữ V ngược, chỗ thắt lưng của cái áo dài Mini, Raglan và cái quần ống rộng láng bóng nổi lên những thứ mời gọi đầy dục vọng. Mode của miền Nam thập niên 70.

    Tôi tự nhiên đâm ra khác đám bạn học này. Những gã học trò tối ngày chỉ biết ăn học, nhất là ở tỉnh lẻ, tôi phải khác hơn chứ, đại loại giống một thứ dị hợm nào đó, khác hoàn toàn khác.

    Chắc tôi vẫn mang trong người cái di truyền của ba tôi. Ông nội tôi từng nói:

    – Ba con hồi trẻ đào hoa lắm.

    Câu phán của một ông già nho giáo rặc ri, viết chữ Hán, làm thơ chữ Hán, có một bồ chữ toàn là tứ thư ngũ kinh nghe mà phát sợ. Ông ấy mà phán như vậy, chắc ba tôi hồi trẻ dễ nể lắm. Tôi không rõ ràng lắm về cái thành tích ngoại hạng thời đó của ba tôi, nhưng nghe nhiều lần, má tôi kể lại:

    – Ba mày từng theo theo bè bạn, nửa đêm bị Việt Minh phục kích phải nhảy sông Ngã Bảy đội lục bình về nhà, chứ đâu phải vừa.

    Khi tôi chưa ra đời, ông chính là ông Cò xứ Phụng Hiệp, Cần Thơ thời quân đội Cao Đài có mặt tại miền Nam. Ông đi lính, nghe đâu là khoá 13 sĩ quan do Pháp đào tạo.

    Suốt thời tiểu học tôi là loại giỏi, có máu mặt ở tỉnh, từng được học bổng của Tỉnh từ lớp ba tới lớp nhất. Cái học bổng mỗi năm lãnh hai lần, một lần 900 đồng thời đó thì đâu phải nhỏ.

    Vậy mà bước sang trung học, những tinh hoa đó rớt đâu mất, tôi học hành bết bát, tới trường là để vui chơi nhiều hơn.

    Hóa ra tôi tự biết mình thuộc hạng tương đối thông minh, đọc đâu nhớ đó. Trường Trung Học Tây Ninh, trai gái học chung và là loại trường công lập phải thi tuyển, thi rớt vào đệ thất là ra tư thục. Người đủng đỉnh thi đâu đậu đó, có học bổng từ bé thì phải đương nhiên vào trường này.

    Đùng một cái, máu văn nghệ nổi lên cuồn cuộn trong lòng trai mới lớn của nước Việt hiên ngang có cái di truyền đào hoa của ông cha. Tôi bắt đầu làm thơ, mở “thi văn đoàn” vào những năm 1969-1970 lúc mới học đệ ngũ, đệ tứ trường làng.

    Sóng gió dậy lên từ đó. Tôi còn nhớ mình đã hiên ngang thiết lập một hộp thơ lưu trữ tại bưu điện tỉnh mang số 21 làm một trung tâm liên lạc bốn phương. Mỗi ngày trên chiếc xe gắn máy trước khi tới trường, quẹo ngang, ra vẻ người lớn trịnh trọng lấy chìa khoá mở hộp thư, lôi ra một chồng, từ các nơi gởi về cho thi văn đoàn lá cải của mình. Vậy là viết thư trả lời. Tôi viết rất nhanh, một cái rẹt là xong, trả lời 10, 15, 20 cái thơ trong một ngày dễ như lấy đồ trong túi. Một chút hãnh diện về cái thiên phú không biết do ai cho của mình.

    Bài vở trong trường, các cái thuộc loại văn chương, chữ nghĩa, sử địa là tôi khỏi cần học, những giờ đó là tôi có mặt ở cái quán nước trước cửa trường. Nơi đó có những bậc đàn anh lớp trên, thuộc loại dân chơi tỉnh lẻ, anh hùng xa lộ Kim Sơn với chiếc Suzuki M12, bô treo, mới cáu cạnh màu xanh nước biển hay Nguyễn Tấn Cọp, con người quá khổ cao và to, có thể ăn liền tù tì ba nải chuối già lớn, uống thêm ly cối trà đá, từng cá độ về sức chứa của cái bao tử và chưa lần nào thua cuộc. Tôi theo các anh ấy học đòi làm người lớn. Hậu quả là tôi bắt đầu biết trai gái từ cái thuở đó.

    Trần Thanh Bạch học trên tôi một lớp, Nguyễn Văn Dũng con ông Đại uý Nguyễn Văn Mới Quận trưởng Quận Phú Khương, Tây Ninh, lại chung năm, cùng trường với Bạch. Nguyễn Anh Tuấn con thiếu tá Nguyễn Văn Mách Quận trưởng cho tới ngày sập tiệm. Cả hai ông quận này đều là bè bạn của ba tôi thuở còn niên thiếu. Tuấn học một lớp với tôi từ lớp đệ thất. Chúng tôi thân nhau qua thế hệ trước, thế hệ của sĩ quan khóa 13 giáo phái thời Tây.

    Nhắc tới ông Quận Mới này thì khỏi chê vào đâu được. Năm 65-70, Miền Nam có mode quần ống túm, tóc dài theo kiểu Hippy mới du nhập. Ông Quận thì thuộc phe bảo thủ, cựu sĩ quan giáo phái Cao Đài, đức trọng tài vừa đủ cao, ông chúa ghét đám thanh niên thời thượng.

    Ông Quận cho lập mấy cái chốt chận xét giấy tờ tùy thân, không phải một mà gần như tất cả con đường trong quận, nơi ông làm thủ lĩnh. Tên nào mà lính của ông nhét chai nước ngọt không lọt vào ống quần thì sẽ bị rọc một đoạn cả hai ống. Tóc dài tới cổ hả? Cắt ngang một phát liền. Động trời một cái, toàn dân, mà không, chỉ mấy bô lão, nhà làng tích cực ủng hộ ông thủ lĩnh một đao chém chết phong trào Hippy, quyết triệt hạ các cuộc đua xe, hút chích và đặc biệt là quần ống túm, tóc dài, áo cánh dơi.

    Một hôm tôi đi học về, bị chận lại. Lính của ông đang xét giấy, may sao ông Quận lù lù bước tới hất hàm hỏi tôi:

    – Mày đi học sao tới giờ mới về hả?

    – Dạ con phải ghé qua chỗ ba con một chút

    – Ba mày sao rồi, nhắn lại anh ấy mai mốt chú vô nhà thăm. Còn mày đó, quần với áo, tóc tai nữa, bữa nay tao tha cho một lần, lần sau mày coi chừng đó.

    Ôi trời đất, xém chút nữa, hai cái ống quần của tôi bị rọc rồi. Tay lính nhận ra người nhà của quan, nên trả giấy tờ cho tôi, hú vía.

    Ông nhớ mặt tôi, vì có mấy lần ông thăm ba tôi theo kiểu tình thời chinh chiến của mấy lão, và tôi bị làm thằng hầu bưng bê nước uống.

    Về sau này, tôi thình lình hiểu ra rằng. Không phải ông khó khăn hay ra cái vẻ uy quyền tại địa phương, hình như ông đang cố gắng kìm hãm sự buông thả của tuổi trẻ, suy cho cùng trong đám lão làng ngày trước cũng còn có dăm người muốn bảo vệ cho bằng đươc cái thuần khiết của văn hóa nước nhà. Kèm theo đó là cái phong tục cổ truyền sở hữu ngàn năm nay truyền qua thời mấy lão.

    Những khuôn mặt đó, những hình ảnh như vậy, có khi mờ mờ ẩn hiện trong một cơn say ngủ nào đó, hoặc một buổi hoàng hôn bất thần dậy lên một chút nhớ nhà, nhớ quê. Cái xứ nhỏ nhoi nằm sát biên giới Campuchia, tràn ngập việt cộng. Chỗ nào cũng có, kể cả trong tòa thánh Cao Đài mà người dân ở đó coi như một nơi tôn nghiêm, bất khả xâm phạm.

    Nhiều khi tôi tự hỏi việt cộng ở đâu mà lắm thế. Sao không ném mẹ xuống mấy trái bom, tiêu tùng cả lũ cho rồi.

    Kẹt một nỗi, nơi đó có ông nội tôi, một chức sắc thuộc loại kha khá, trong vài chục mạng là nhân tố thời khai sáng giáo phái Cao Đài, có ba tôi và một lô bè bạn của ông, còn thêm mấy tấm hình để đời lúc các ông mặc quần sóc, áo ka ki vàng đeo túi da, chụp chung tại sân quân trường, mấy tấm hình vàng khè màu thời gian, như một thông báo cho nhiều đời chống cộng. Cũng có thể đó là kỷ niệm thời trai trẻ hay biểu hiện tinh thần một lòng đi giữ nước theo kiểu của mấy lão.

    Tôi làm báo với Bạch, anh ta ký một bút hiệu đầy kiêu hãnh và trữ tình “Trần Duyên Tưởng”. Cái bút hiệu liên quan đến người con gái tên Duyên nào đó, mối tình đầu thủy chung cho tới chết của hắn. Nói là làm báo cho oai, cho hách. Thật ra là dăm bài thơ, vài truyện ngắn học trò, một cái máy đánh chữ, một chồng giấy carbon, gõ và lăn rulô, xong cắt xén bằng tay, bấm kim. Không cần ai kiểm duyệt, cứ thế mang vào các trường trung học trong tỉnh, xin phép giám học cho giới thiệu ấn phẩm và rao bán từng lớp, dưới sự khích lệ và cổ động của các giáo sư, thường là giáo sư hướng dẫn.

    Đám chúng tôi, bỗng chốc trở thành cây đinh trong lớp thanh niên nam nữ cỡ tuổi của mình vào thời gian đó, tại cái đất địa có cái núi Bà nằm chình ình, có thể nhìn thấy từ chân tới đỉnh dù là ở tại tỉnh lỵ, có thể thấy những tảng đá trắng mốc đầy dấu đạn bom, và nơi đó việt cộng ở hang đông như kiến, mà không tài nào diệt hết được. Nơi phát tiếng kích hỏa của hỏa tiễn 122 ly vào trung tâm tỉnh hay một đơn vị hành quân nào đó trong khu vực, mà chuyện này lâu lâu lại xảy ra.

    Tôi có cung mệnh thuộc Sa trung kim, cho nên. Trên mảnh đất rộng của gia đình, tôi được một khoảng không gian riêng, gần như cách ly, trừ hai bữa cơm với gia đình, tôi ở căn phòng đó, kề sát ngôi chính đường. Bè bạn liền đặt cho nó cái tên rất chi là văn nghệ “Kim Sa Các”. Đó là nơi tụ tập bè bạn của tôi, nơi tôi thơ nhạc ò í e cùng bằng hữu bốn phương, nếu có một mạng quen biết của bè bạn từ xa về thăm, thì đó là nơi lý tưởng.

    Ôi! một tuổi trẻ hừng hừng, nở như một đoá hoa giữa mùa chinh chiến, chớp chớp dưới ánh sáng của thiên đàng văn học. Bàn tay đang vươn ra hứng hàng tá ngợi khen, báo chí sẽ ầm ầm, tên tuổi sẽ bay xa, một trời rộng mở cho con chim bé nhỏ… đang tập bay.

    Rồi nó lụi tàn, tắt cái rụp khi ánh sáng kinh đô chiếu vào lớp sương mù mơ mộng của xứ đèo heo hút gió, ngay khi tôi bước chân về Sài Gòn chuẩn bị cho năm học thi tú tài phần hai. Cộng thêm mùi tử khí tràn về từ bốn vùng chiến thuật. Tất cả cái trăm hoa đua nở đó rớt mất tiêu. Cái Kim Sa Các từ đó cũng tàn lụi.

    Những ký ức đẹp như trang giấy, thơ tình màu xanh xanh viết bằng màu mực tím, Quán lều, những hội ngộ, những va chạm thịt da, những đua đòi sống kiểu hiện sinh. Tất cả trở thành quá khứ đáng thương.

    Một ảnh hưởng không gì ngăn giữ được từ phong trào sách dịch, từ những thước phim phương tây, ma tuý, chất gây nghiện đã dập vùi tuổi trẻ Việt Nam vào cái thời tôi mới lớn.

    Nghe nhạc Trịnh Công Sơn, hút xì ke, uống Nubarelle, Valium và các thứ tây dược loại trấn kinh có tên trong danh sách độc bản A. Uống tới ngật ngừ, ngả nghiêng, rồi sinh ra những chuyện phá phách, do những kích động không tự chủ được của thuốc. Cái mode café đen, hút Bastos Luxe, nghe nhạc Trịnh Công Sơn, trên tay cầm một quyển sách của Phạm Công Thiện, Jean Paul Sartre, Erich Maria Remarque, Hemingway, Maxim Gorky, hay he hé cái bìa của Anna Karenina… Thời tuổi trẻ đua đòi. Những thứ này không chỉ có ở trung tâm Sài Gòn mà nó lan về cả nơi hang cùng ngõ hẻm, chui tới tỉnh lẻ miền quê.

    Tôi đã qua giai đoạn đó, đã sống trong bối cảnh tào lao thiên binh thiên địa đó. Trong cái thời loạn lạc, kè kè bên mình cuộc chạy đua không võ trang với cái giấy hoãn dịch học vấn từng năm, cùng cái chán nản từ đâu đó, tiềm tàng trong ẩn ức, tự nó bùng lên theo nhịp sống hối hả. Tuổi trẻ của tôi, lúc bấy giờ. Trên sách báo, theo thế giới văn minh nở rộ ngày một, là thế, nó là thế.

    Những chiến binh từng đi lính một thời của tôi, thời của những năm 70 cho đến ngày tan trận. Chắc đôi khi cũng nhìn lại, không cần một can đảm phi thường nào, để nhớ, để thấy trong quá khứ đã từng có vấn nạn này, một vấn nạn mà có lẽ tới bây giờ ít ai chịu nhận, hoặc không muốn nhận một thực trạng đau lòng như vậy dù nó từng xuất hiện ở miền Nam.

    Suy nghĩ của tuổi trẻ thì sao? Dấn thân, đi chiến đấu cho tự do của quê hương ư? Ôi! ngày tháng đó có được bao người? Trong chiến tranh trùng trùng, chiến trường càng ngày càng nhân rộng ra, vũ khí có tầm sát hại nhiều hơn. Cái sợ chết, cái tránh né “bổn phận sự, trách nhiệm vụ” của một công dân là chuyện thường ngày ở huyện. Ai cũng sợ, theo bản năng sinh tồn. Họa hoằn lắm trong đám bạn bè trang lứa của tôi mới có thằng can đảm bỏ học đi vào quân đội, dù nó có đủ điều kiện để được ở nhà, đi học. Những kẻ từ chối ân sủng của tử thần này hiếm hoi lắm.

    Bên cạnh đó cũng nhiều tay bán trời không mời thiên lôi, giận gia đình hay thất tình một em nào đó, đâm đầu vào lính, theo kiểu đi cho quên quá khứ, trên tay xăm nguyên hàng chữ “hận kẻ bạc tình”. Đùng một cái, sập trời, một con người không ra chi ngày trước bỗng chốc trở thành một anh hùng bỏ cả thanh xuân lên đường cứu nước, nhất là tiểu sử của người được thay đổi một ít để trở thành một ngôi sao, sau ngày tan trận.

    Tôi cũng vậy. Đùng một cái vào Quang Trung, không phải theo tiếng gọi núi sông, mà theo luật định, theo cái hết hạn hoãn dịch của mình. Góp mặt của đoàn hùng binh này gồm các thành phần sinh viên, học sinh, giáo chức, biệt phái. Nhiều, rất nhiều trong tập hợp bị ảnh hưởng do lệnh đôn quân. Lúc chiến trường trở nên khốc liệt, con số thương vong ngày một nhiều hơn, ta đành phải lên đường.

    Những trận chiến đổi màu không như kiểu du kích, nó thành thứ chiến tranh diện địa. Quân đội phải trải mỏng ra từ rừng sâu núi thẳm, tới tận hóc hẻm buôn làng, quân số phải được nhân lên. Tuổi thi hành quân dịch thay vì là 18, nay là 17. Đó là lệnh Tổng Động Viên toàn phần nhân lực của năm 1972.

    Chính cái đợt đôn quân này, tôi mới hân hạnh được trần truồng ra, cho cô y tá ở quân trường Quang Trung, dùng cây thước nâng “cái quí phái” của mình lên và phán một chữ tàn nhẫn “Tốt !”.

    Vậy là từ giữa năm 1972. Tân binh ùn ùn về như trẩy hội. Quân trường không đủ chỗ chưa, tinh thần ra đi cứu nước tràn ngập phố phường, tràn qua các đại học, leo xuống bậc trung học, chạy ào ào tới các đơn vị biệt phái, chuyên viên. Các khoá được đôn lên, khi quân trường chật cứng.

    Cùng vào Quang Trung một lúc với chúng tôi, nào là khoá 8/72, khoá 9/72, rồi tháng 1/73, cho tới tháng 4/73… Và tôi là chiến binh nhóc của khoá 3/73. Đơn vị đầu đời mang con số C3A của trại Nguyễn Huệ.

    Cùng một đại đội tân binh với tôi có đám bạn cùng quê Trần Thanh Bạch, Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Hữu Lộc, 3 thằng gốc Tây Ninh. Có thêm Tưởng Năng Tiến, Chương Còm bên Văn Khoa, Quang kỹ sư cơ khí, Hùng, Trần Mộng Hằng “con kiến càng của năm 1971-72”, thêm một lô tuổi đời đủ cỡ nằm chung một lều. Lũ chúng tôi như cá hộp trong các lều vải đó, lúc các sam, trại cố định đã quá tải.

    Đám bạn cùng lớp với tôi cũng rời trường học, vào lính, tụi nó vào nhập khóa trước hoặc kẹt quân trường phải vác quân trang ra Đồng Đế, học ké quân trường dành cho hạ sĩ quan. Một giai đoạn rối ren nhân lực và tài nguyên quốc phòng.

    Hết chỗ, khóa 3/73 chúng tôi đi phép dài hạn một tháng, đợi… quân trường trống để thực hiện cái mộng yên cương, vó ngựa sa trường, như người ta vẫn thường vẽ tấm tranh màu sắc như vậy.

    Tôi nhớ Bạch và Dũng thuê một căn phòng nhỏ ở đường Trần Bình Trọng, đối diện Hồng Tá hotel, căn phòng nằm sâu trong một vườn cây rất đẹp giữa lòng thành phố chật chội, vào năm thứ nhất Đại Học Khoa Học, chắc cũng mưu đồ nhảy vào Y Khoa. Tôi cũng đôi lần qua chỗ đó, nơi thi sĩ mày mò trau chuốt từng con chữ, từng câu thơ và Dũng thả hồn trên cây guitar viết nhạc.

    Cái thời đẹp biết bao. Ôi! Những ngày mà thi sĩ Trần Duyên Tưởng của đất Tây Ninh, của bạn bè tôi đang đợi tin vui, mong Phạm Duy phổ nhạc cho một bài thơ của hắn đã được đăng tải trên báo Văn và Khởi hành. Ôi mơ ước của chàng hiệp sĩ bất đắc chí không thành hiện thực. Có lẽ ước mơ đó cũng theo anh ta vào lính, trong những buổi sáng chà láng mấy cái giao thông hào ở trại Nguyễn Huệ, hay trên bãi bắn số 10, chạy mỏi chân, nhất là những ngày ra bãi học đêm, tôi vẫn thường nghe hắn nhắc đi nhắc lại… như một tình khúc buồn.

    Tôi đã cày mướt mồ hôi trên đoạn đường chiến binh, chạy đua với tân binh Nhảy Dù khi ra bãi bắn. Khổ thân cho tụi tôi. Trại Nguyễn Huệ sát nách Vương Mộng Hồng, là một trại chuyên biệt của tân binh Nhảy Dù thời đó. Tay huấn luyện viên mang trên vai hai chữ V cứ hét theo chúng tôi:

    – Mai mốt các anh là chỉ huy của họ, phải vượt lên, chạy không nổi thì bò, nghe rõ chưa?

    Tôi cũng từng vượt con kinh Tham Lương đen ngòm, bốc mùi hôi vào những ngày cuối giai đoạn 1 của khóa.

    – Tao xuống trước mày ở sau nghen.

    Tôi nói với Lộc (con) khi chúng tôi cuộn tất cả quân trang của cả hai vào cái poncho. Cứ từng cặp một làm bè vượt sông.

    – Trời sao hôi quá vậy?

    Tôi nhìn Lộc:

    – Nhảy xuống đi, cha huấn luyện viên tới kìa.

    Tay trung sĩ nhất huấn luyện viên đếch cần biết nước hôi hám cỡ nào, hắn tà tà cầm cây thước gõ đầu trẻ, đi dọc bờ kinh, mặc tụi tôi bì bõm trong dòng nước ngửi không vô đó.

    Trung đội dầm mình lội dọc con kinh nước đen. Đó là chuyến thao dợt cuối cho giai đoạn huấn luyện cơ bản để nay mai có mặt ở Thủ Đức đi nốt giai đoạn thứ hai, ra trường làm một sĩ quan, lỡ mà thi rớt thì mang cánh gà ra đơn vị.

    Rồi cũng đùng một cái. Tôi quay về trường Luật, với cái lệnh xuất ngũ của trung tâm ba tuyển mộ nhập ngũ, tham chiếu một lô văn kiện, chi chít nào số nào chữ đính kèm.

    Trình diện ở phòng quân vụ thị trấn. Sau hơn ba tháng “quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”. Tôi cầm cái giấy hoãn dịch vì lý do học vấn một lần nữa.

    Nhớ ngày tôi rời Quang Trung, bạn bè có đứa trúng tuyển vào Hải Quân, Không Quân cũng trả quân trang cầm sự vụ lệnh đổi thay cuộc đời như tôi, trong đó Nguyễn Văn Dũng sang Không Quân. Một số đông những anh chàng biệt phái cũng đu theo sự can thiệp của quốc hội, chống lại lệnh đôn quân. Từ hàng tá kiến nghị được công bố, một cuộc đấu tranh ầm ỉ, nó kéo dài từ khi hành pháp ban lệnh đôn quân tới cuối cùng là kết quả cho năm sau 1973. Hạn tuổi động viên quay lại với con số 18 tuổi.

    Bạch nói với tôi vào buổi học chiến thuật cuối:

    – Mày quyết định về là đúng, chí ít cũng làm xong cái đại học rồi tính gì thì tính, còn tao hả? ra trường xong coi tình hình ra sao tao mới tính tiếp.

    – Mày có định nhờ ba mày chạy về Tiểu Khu Tây Ninh không? Hay mày về sư đoàn 25 đi.

    – Dễ gì? Tới đâu hay tới đó.

    Dũng danh số 030, là trung đội trưởng khóa sinh, hắn đang lui cui phụ kéo thùng cơm từ trên xe xuống, đại đội chuẩn bị cơm chiều tại bãi.

    Tưởng Năng Tiến gõ cà mèm từ xa lừ đừ bước tới, dáng hắn cao lều khều, pha chút hom hem, in trên nền trời sắp xuống hoàng hôn.

    Mấy đứa tôi ngồi quanh, Bạch mở lon guizgo đựng thức ăn của má hắn làm cho vào chủ nhật trước, khi về phép. Tiến bỏ cái muỗng nhôm có hàng chữ QLVNCH xuống, hắn nói:

    – Nuốt không vô, cái mùi cá chiên mỡ cừu khó nuốt bỏ mẹ.

    – Mày làm như công tử, đi lính mà còn bày đặt kén cá chọn canh. Cuối tuần đi phép về Đà Lạt hả Tiến? Nói xong một câu chẳng ra tích sự gì, Bạch hỏi khơi khơi.

    – Còn chưa biết có đủ tiền ra tới Sài Gòn không nói chi là Đà Lạt.

    Dũng chen vào:

    – Tao có kết quả bên Không Quân rồi, nay mai đếch ngồi chung tụi mày nữa, tao lên trời ngồi ăn. Mai mốt ra trường uýnh đấm gọi tao yểm trợ cho nghen.

    Đó là buổi chiều cuối tôi ở Quang Trung.

    Lúc tôi lên trình diện tiểu đoàn khóa sinh, Trần Thanh Bạch và Tưởng Năng Tiến đang la cà ở câu lạc bộ, bọn hắn là chuyên viên ăn uống trước rồi ký sổ và trả tiền sau. Tôi rời quân trường đếch có thằng bạn nào tiễn đưa.

    Cầm cái thẻ hoãn dịch trên tay, tôi có một chút bồi hồi, không tiếc nhưng nhớ, không bận bịu nhưng vẫn nghĩ hoài trong đầu, và nghĩ lung tung. Hình ảnh bạn bè lính lác thoáng mất thoáng còn qua nhanh trong cái chạy đua kiếm sống theo kiểu sinh viên tỉnh lẻ về thành. Tôi làm đủ thứ nghề, dạy kèm, tạp dịch, phục vụ trong quán ăn…

    Quên đi nhà bàn với con cá chiên tanh mùi khó nuốt, quên đi những ca bị phạt dã chiến, quên tuốt cú chào tay 100 cái vì nhắm mắt đụng đầu huynh trưởng, quên đi… quên đi.

    Có lúc tôi theo chuyến xe bus chở công nhân lên tận Biên Hòa để dạy kèm cho mấy đứa con em của một gia đình công nhân của Công Ty Đường, mà cư xá của họ nằm bên cầu Đồng Nai. Cũng có lúc kè kè theo chồng sách Luật ở lì trên đó, chạy ăn nên khỏi tới giảng đường.

    Tôi là dân Tây Ninh nên cứ tỉnh bơ chui vào số 55 đường Trương Minh Giảng, nơi đó là tư dinh của thiếu tướng Trình Minh Thế sĩ quan cao cấp của Cao Đài, người bị bắn rớt đài trên cầu Tân Thuận trong hoàn cảnh tranh sáng trang tối của quân đội thống nhất, loại trừ các phe phái tại miền Nam. Người là chỉ huy trưởng của ba tôi ngày tôi… chưa chào đời.

    Căn biệt thự cổ to lớn vậy mà chỉ có điện, không có nước, có lẽ Thủy Cục Sài Gòn đã khoá đồng hồ từ lâu lắm trước khi tôi tới, nó cũng đã hoang tàn từng ngày, khi chủ nhân nó không còn và những người thừa kế chính thức không có. Nó làm nơi tá túc cho sinh viên từ Tây Ninh xuống trọ học một cách không lấy gì minh bạch lắm, dưới sự cho phép và quản lý của hội thánh Cao Đài.

    Quả là cuộc đời tôi, đi tới đâu cũng toàn gặp trắc trở. Cái giấy hoãn dịch, được cẩn thận ép nhựa vì thường lấy ra. Thời nhiễu nhương, thiếu lính, Cảnh Sát, Quân Cảnh thường hay hành quân kiểm soát, nhất là thành phần đào binh. Nó không là gì, chỉ có con dấu đỏ, mang tên và chữ ký của thiếu tướng Bùi Đình Đạm, nó là bùa hộ mệnh cho chúng tôi những người trẻ tuổi buổi đao binh. Một thứ an toàn thân thể, được ban phát.

    Tôi cũng có biết những tay mánh mung mà thậm chí còn có một hệ thống làm các loại giấy hoãn dịch này, theo nhu cầu, theo giá trị tính bằng tiền, và tùy bộ hồ sơ đi kèm để có một cái giấy lộn lưng là hoãn dịch vì học vấn hay vì sức khoẻ, gia cảnh hoặc tôn giáo.

    Lại có cái thứ hoãn dịch vì tôn giáo, nó là thứ tai ương không hiểu nổi, từ thành phần chức sắc của các giáo phái vận động, viện một lý do có trời mới biết được, Quyền Đi Tu, mà đi tu thì đứng ngoài vòng chiến, đã đứng ngoài thì khỏi nói tới nhiệm vụ công dân – Thi hành quân dịch. Thêm vào dịch vụ này là những mánh khóe hoán đổi đơn vị, các hồ sơ lính ma, lính kiểng. Dĩ nhiên chỉ có những kẻ lắm tiền thuộc loại con ông cháu cha mới có thể sờ mó vào mấy thứ này. Xã hội nào cũng vậy, có mặt trái của nó, như một đứa con vô thừa nhận, có đó mà làm như chẳng biết. Tôi lớn lên và trưởng thành đúng vào cái giai đoạn khó chịu đó, một giai đoạn mà người trẻ cảm thấy mình bị dẫm đạp tàn nhẫn.

    Thêm nữa là đám nội thành của cộng sản trà trộn trong lực lượng sinh viên, học sinh, tranh thủ tìm kiếm nhân sự, để quấy rối hậu phương. Các nhà sư, chóp bu phật giáo nhảy ra chính trường, không chịu ăn chay niệm phật theo như lời dạy thông thường, mà cổ xuý cho cái việc vạch lá tìm sâu, bắt chẹt chính quyền, kết bè đảng cùng việt cộng phá tan tành từ nhỏ đến lớn ở hậu phương. Một giai đoạn mà tuổi trẻ mới lớn dễ lầm lạc nhất.

    Đã đi qua, sống và từng bị cuốn vào cái rối rắm như một thứ bùi nhùi không mối gỡ ra đó. Tôi có những lúc ngồi một mình nghĩ ngợi, hay tâm sự nhỏ to với lũ bạn cùng lứa. Chúng tôi lớp trẻ vào giai đoạn này, như người mù bị lôi đi, cột cứng bằng những sợi dây quanh mình, mỗi đầu dây là một hướng.

    Bản thân tôi, ý thức chống cộng vốn dĩ cha truyền con nối. Những ngày thăm đơn vị của ba tôi, ở một tiền đồn trên quốc lộ 22. Cũng có khi, nằm trong đồn chờ ba tôi dẫn đại đội 277 địa phương, đi hành quân hay quan sát những buổi rà mìn trên quốc lộ. Những cảnh việt cộng đấp mô, gài mìn giết dân, những chuyến xe đò tan nát. Xác dân thường sau tiếng nổ, thịt xương vương trên hàng cây bụi cỏ bên đường, tôi đã tận mắt chứng kiến những thứ đau chết được này từ khi còn để chỏm, những ngày hớt ha, hớt hãi chờ tin ba tôi dẫn quân đi và chạm địch. Tôi làm quen đời lính từ khi ba tôi trấn thủ đồn Bàu Nâu, cũng có khi tôi ở trong đồn với ông cả ngày, chưa nói tới mấy ông lính trẻ dạy tôi tháo ráp từ Colt 45 tới Carbin M2, Garant M1. Tôi biết lính và đồ chơi của lính từ lúc đó.

    Cái sống chết của người thân, những tiếng nguyện cầu tuyệt vọng khi người ta không còn nơi nào để vịn níu, tôi từng có qua.

    Những cuộc xuống đường thời đó dứt khoát không có mặt tôi. Tôi biết rõ một triệu phần trăm là đúng. Chỉ dăm ba tay trà trộn, chỉ một hai ông trọc đầu, hò hét vận động. Nó như một mồi lửa cháy lan, sinh viên học sinh được mấy đứa gọi là có ý thức đấu tranh đâu, chỉ là theo tiếng gọi của đám đông, hay hè nhau vui chơi một chuyến, ra cái điều mình cũng xuống đường và chẳng cần biết nó là cái gì, do đâu và để làm gì. Một cái biểu ngữ căng ra vội vàng do một ai đó nhét vào tay mình, đám đông cổ vũ, mình làm theo tiếng vỗ tay đó, đơn giản thế mà nó thành lớn chuyện, đại khái như là toàn thể sinh viên cùng âm thầm tổ chức và xuống đường… Chó chết thật, cái tuổi trẻ bị lợi dụng dã man, từ những trò chơi chính trị, từ những thiểu số quá ít oi của thành phần đối lập, hay kẻ thù dấu mặt trong cuộc chiến du kích, đánh phá trị an.

    Tuổi trẻ lao đao, bị chiến tranh đè bẹp tương lai, bị xách động, bị ảnh hưởng từ những tệ đoan xã hội. Chính quyền lo phải chiến đấu, việc bình định trị an tự khắc trở thành thứ yếu, do đó rối ren xã hội làm bất an. Một khi đã bất an thì rất dễ chết, chết trong cuộc chạy đua thảm khốc sống còn, chết trong sự dung nạp tiến bộ và thác loạn vừa du nhập theo bước chân của quân đội đồng minh, thêm một thứ độc dược có từ những chán nản sợ hãi, hay phong trào phản chiến, những bài thơ, bài nhạc làm mềm lòng chiến đấu, ru ngủ tuổi trẻ. Và kết quả của những loạt tấn công này là một xã hội mà thời đó, các nhà trí thức mô tả nó bằng hai chữ: “băng hoại”.

    Tôi mang một chút máu say mê văn nghệ, văn gừng (nói như bạn bè tôi thời đó) rất bén nhạy với những thứ mơ mộng, tình cảm lăng nhăng. Tôi chẳng biết mình có từng yêu chưa hay những người con gái đi ngang qua đời chỉ là thứ tình trai gái, bình thường, một chút nhớ rồi quên, một thời hẹn hò, rồi xa. Một vài lá thư mùi mẫn ra cái vẻ yêu người quên ăn thiếu ngủ, lâm ly bi đát rồi chẳng để lại chút vấn vương nào. Nói vậy cũng không phải vậy. Tôi vẫn nhớ hoài tên người con gái đầu tiên mà mình lò dò chạy theo, chạy theo cho cái gọi là có chút tình trai gái cầm trên tay.

    Ngoài ra thì nhiều, rất nhiều người đã qua trong đời và qua rồi là đi tuốt, có khi moi óc để nhớ cái tên gọi mà không thể. Chuyện phải thế thôi, lúc còn làm mấy cái thi văn đoàn tỉnh lẻ, có bao nhiêu là thư, đâu nhớ cái nào mình trả lời nghe thật là mùi mẫn và đã viết như vậy cho ai? Bao nhiêu lần?

    Tàn nhẫn thay, khi tôi về Sài gòn, những thứ đó biến mất, biến trong chớp nhoáng, tan tành trong ký ức. Có thể do tôi bị cuốn vào cái xã hội mới, nhịp sống thành phố, hối hả và chìm trong cái lu bu vô phương đào thoát. Chạy ăn và đi học, thỉnh thoảng mới về quê, nhận tiếp trợ của gia đình, dựa trên đồng lương lính của ba tôi trong hoàn cảnh phải nuôi một lúc 5 đứa con, còn đi học. Tôi lồng lộn, chạy hụt hơi, tuyệt vọng nhìn tương lai mờ mịt của mình, tương lai con mẹ gì.

    Tôi theo trường Luật vì không đủ điểu kiện chạy đua vào các phân khoa Y, Dược, tôi chán văn chương, nên không đâm đầu vào Văn Khoa, tôi không khoái chùa chiền nên không vô Vạn Hạnh hay đại học Cao Đài. Nói chung tôi lầm lũi đi, thu thập những tài liệu từ khắp nơi cho cái môn tôi đang học. Cũng đôi khi tới giảng đường, nói cho oai, cho ra vẻ mình là dân đại học một chút. Cái thời của tôi, năm thứ nhất có hàng tỷ sinh viên chỗ đâu mà chứa. Trường Luật đang đập ra xây lại, nhà trường bèn mượn cái rạp Thống Nhất, nằm trên con đường cùng tên, xéo xéo toà đại sứ Mỹ làm giảng đường tạm. Vậy mà không đủ ghế ngồi, sinh viên phải đến sớm, chen nhau kiếm một chỗ.

    Thế cho nên, tôi là thằng lười, may mắn tôi có một cô bạn, cô ta tới trước ném vài quyển sách lên cái ghế bên cạnh. Tôi đủng đỉnh, cà phê, cà pháo cho đã rồi vào sau. Vậy mà Hồng Đức, cô bạn gốc Long Hoa, Tây Ninh cũng chìu tôi gần hết năm học. Sau ngày sập trời, nghe đâu cô đã bỏ nước ra đi và hình như chưa lần về thăm quê nhà.

    Cái vụ xây trường mới làm tôi tiếc hùi hụi. Ngày đầu quân về trường Luật ở cái cổng số 17 đường Duy tân. Tôi nhớ hoài khi đi vào bên trong, tôi hay đứng ở tấm biển đồng có ghi hàng chữ: “Nơi đây Lê Khắc Sinh Nhật đã nằm xuống”.

    Tôi mường tượng cái cảnh anh bị bắn ở chỗ này. Ai bắn anh. Một sinh viên chủ chốt của đại diện sinh viên Sài Gòn, có tiếng không khoái cộng sản, chắc là một cuộc dàn dựng cho anh đi tàu suốt để dễ bề thao túng. Tôi nghe bén mùi chính trị, chính em trên ghế học đường từ đó, từ ngày đầu vào Luật Khoa Sài Gòn tôi đã nhìn thấy các bậc đàn anh của mình bị sát hại thê thảm, dấu tích còn kia.



    Luật Khoa là một trường, tự điển cầm tay, học chí chết, học thuộc lòng, nhất là những bốn năm liền tù tì môn Cổ Luật, cái môn học chán như cơm nếp, phải nhớ từng con số, đạo dụ số mấy, năm nào, Minh Mạng thứ mấy, tu chính ra sao. Mệt, thêm nữa. Người ta coi Luật Khoa là một trường tự do, không thi tuyển.

    Thiệt là lãng xẹt. Cái trường tôi học gần như nổi tiếng với họ Vũ. Thời tôi vào đó, giáo sư Vũ Quốc Thông là khoa trưởng, giáo sư Vũ Văn Mẫu dạy Cổ Luật, con gái của ông, bà Vũ Thị Việt Hương dạy Luật Đối Chiếu. Giáo sư Vũ Quốc Thúc dậy môn Kinh Tế Học.

    Ông Mẫu ra đề rất chi là khó (nhận định từ các anh chị đi trước). Ôm chồng sách cao ngập mặt, mỗi cuốn dầy cui tối thiểu cũng 300 trang, học thuộc lòng. Ông cho đề thi với một câu hỏi trời ơi, đất hỡi. Một đạo luật nào đó, Hồng Đức hay Gia Long, câu trả lời vỏn vẹn hai dòng. Rồi thêm cái thi tuyển bất thành văn, năm thứ nhất vài trăm ngàn sinh viên, một số ít anh em trong quân đội ghi danh, Sinh viên thuần tuý là đa số, dĩ nhiên trong đó phải kể những tay ghi danh một lúc vừa Văn Khoa vừa Luật. Lên năm hai còn khoảng 3 ngàn. Chơi một phát năm ba, mỏng chút nữa, để cuối cùng ra trường là khoản 300 cái cử nhân cho học trình 4 năm với từng ban Kinh Tế, Tư Pháp, Công pháp, mỗi ban tròm trèm 100. Một lối thi tuyển một chọi vài ngàn, mệt ngất ngư. Ý là chưa nói tới 2 năm Cao Học, nếu hên mà qua được 4 năm cử nhân.

    Được mỗi cái là ban đại diện sinh viên, cứ mỗi năm ra một tuyển tập gồm tất cả những đề thi từ 10 năm trước. Thế cho nên, lúc tôi nhảy vào Luật Khoa, chuyện học tủ là đương nhiên đối với chồng sách ngập mặt đó. Hơn thế nữa, năm thứ nhất, thứ nhì với số sinh viên quá đông giáo sư không tài nào chấm bài thi hết được, việc này được san sẻ bởi các anh chị ở Cao học. Cũng có thể, hay không bằng hên hoặc học tài thi phận…. Mà chắc những năm ở trường Luật tôi rớt vào loại may mắn này.

    Qua hết rồi tuổi trẻ của tôi ơi – những ngày trú trọ kiếm sống trên thành phố phồn hoa đô hội, chạy đua với nha động viên, chạy thục mạng vì “vận động viên lão thành Bùi Đình Đạm” đang theo sát nút sau lưng.

    Đứt phim, 30-04-1975 tôi ngả xuống cùng tan hoang trời đất, tôi tiếc hùi hụi những ngày ở quân trường, sao tôi không bậm mội xé cha nó cái lệnh xuất ngũ chó chết đó, để có những ngày biên cương áo trận đối diện kẻ thù trước mặt, thứ kẻ thù của tự do. Biết đâu chừng, máu giang hồ vặt làm nên chuyện lớn, tôi sẽ hách xì xằng được thăng cấp ngoài mặt trận. Quan trọng nhất là vỗ ngực tự vinh danh mình “từng đi chiến đấu bảo vệ quê hương” hay “bỏ hết xuân xanh lên đường giữ nước”, như các bạn cùng khoá 3/73 của tôi, đã nói thế sau ngày tan trận.

    Tháng 8 năm 1975. Tôi bị xách cổ vào các lớp chính trị theo lệnh của chính quyền mới chiếm đóng. Cũng như hàng ngàn sinh viên khác ở tất cả phân khoa từ cử nhân cho tới cao học phải chịu cái cảnh, một thằng nhóc nhi, nón tai bèo, băng đỏ đặc trưng của bọn a dua, thời cuộc, nói dai nói dài, nói dóc trên diễn đàn trong một rạp hát nào đó ở thành phố, làm nơi học tập. Cái khóa học chính trị này luôn mở đầu và kết thúc bằng những hát bài hát “như có bác..”, “dưới bóng cây Kơnia” hay “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây” gì đó mà tôi ghét cay ghét đắng.

    Sau ngày đó, tôi giận dữ cuộc đời, không muốn sống chung lũ người ngượm không ra chi, tôi bỏ về Tây Ninh. Đánh dấu một khúc quanh đời mình.

    Qua hết rồi tháng ngày của tuổi mới lớn, với một tuổi trẻ đáng thương. Tôi thỉnh thoảng nhớ nó như một ký ức đã quên lãng.

    Cú tan hàng thê thảm, nó làm cả miền Nam rưng nước mắt. Thành phố Sài Sòn, mà không là người miền Nam khóc như cha chết, tiếng khóc không phát ra từ cửa miệng, không nghe được tiếng nấc, chẳng tiếng thút thít hay vật vã kêu than. Người miền Nam khóc, khóc nghẹn ngào, tức tưởi trong cổ họng, khóc với những tan hoang, dưới dấu chân loài thú đi hai chân từ đâu đó ở Trường Sơn, kéo nhau về làm banh ta lông cái hòn ngọc viễn đông.

    Ngoài đường rầm rập tiếng dép râu, nón tai bèo, băng đỏ trên tay, súng AK lăm lăm. Từng con phố, từng hẻm hóc, những trận đòn thù diễn ra thô bạo trên chính đồng bào ruột thịt của mình, như một hành quân tảo thanh sau ngày chiến thắng.

    Lộ quân Bắc Việt vào miền Nam, chân ướt chân ráo, thấy cảnh phồn hoa đô hội của Sài Gòn. Bật té ngửa, khi bên tai còn vang vang khẩu lệnh của bác. “Giải phóng miền nam, giải phóng cho đồng bào đang bị nô lệ, đói khổ, không có cái ăn, bị Mỹ Nguỵ kìm kẹp”.

    Bộ đội Bắc quân té ngửa trên những đồng hồ hai cửa sổ, automatic, cái đài rẹt rẹt đeo trên vai. Họ ngỡ ngàng với cái túi chứa ít gạo mục đem cứu đói cho bà con ruột thịt, khi theo quân về giải phóng Sài Gòn, bổ ngữa khi thấy chung quanh toàn là vàng son nhung lụa. Bộ đội té ngửa, khi không biết làm sao với con cá lóc mới mua, trong một cao ốc vừa chiếm đóng, nhốt con cá trong bồn cầu, chờ buổi đánh chén canh chua lúc cơm chiều, giựt nước con cá chui mất, bữa cơm quay về với chút muối hột mang theo từ Trường Sơn.

    Bộ đội Bắc quân mù tịt trên thành phố thừa mứa đồ tiêu dùng mang đủ nhãn, đủ mác. Chúng cố gắng vơ vét đem về Bắc, bằng mọi cách để gọi là làm quà sau chinh chiến. Cái ngu ngơ đó được đám Giải Phóng Miền Nam, một công cụ với lá cờ nửa xanh nửa đỏ giúp một tay.

    Tất cả những quân dân cán chính đang tránh né không chịu ra ghi danh để lên đường học tập, bị đám này lùng sục. Một cuộc trả thù tàn bạo, sau khi Sài Gòn thất thủ và khởi từ tháng 6 năm 1975. Tháng sáu trời mưa ướt nhem thành phố, đoàn quân bại trận đi trong mưa, đi trong tối thẳm cuộc đời. Tới những điểm tập trung theo lời dỗ ngọt của cái gọi là Uỷ Ban Quân Quản.

    Tiêu tùng. Chuyến đi của hơn 500 ngàn người vào chỗ chết. Chết bờ, chết bụi trên xứ Bắc trong một trại giam nào đó có thể là Cổng trời, Nam Hà, Tân Lập, Vĩnh Phú hay một chỗ kín đáo ở miền Trung, dưới những cái tên A20, A30, hoặc Z30C, Z30D…

    Lũ băng tay đỏ này chính là đám ngày xưa trà trộn trong cộng đồng sinh viên, học sinh, trong xóm thôn, công tác thành, trong chiến tranh du kích. Lũ mọi rợ đã cống nạp dưới chân lãnh tụ biết bao nhiêu xương máu dân miền Nam.

    Hết, cú sập tiệm dẫn đến không biết cơ man nào để nói ngoài hai chữ tóc tang. Thôi thì cứ để nguyên cho nước mắt chảy, thôi thì cứ rũ rượi, nhìn cái tan tành, tan từng nóc nhà, bờ giậu, vườn cây, tan tành ngọn lúa, con trâu, tan tành một cuộc đời tươi đẹp của hơn hai chục triệu dân yêu tha thiết tự do. Qua bao triều đại và hai nền Cộng Hoà cố công gìn giữ.

    Từ cái tiêu tùng đó, Sài Gòn mang tất cả của cải, cái muỗng có nhãn US, đến cái bình hoa bằng vỏ đạn đồng, tới bộ ly chén bằng sứ, cái đồng hồ ODO tòng teng, lắc qua lắc lại làm mê mẫn trong ánh mắt nhìn của người vốn dĩ quen sống như thời mọi rợ. Bán hết, bán lấy tiền đổi gạo, bán lấy tiền đi nuôi thân nhân đang ở trong các trại tù thiếu ăn, bệnh tật và đang chờ chết.

    Sạch sành sanh. Bỗng chốc Sài Gòn trống trơn, buồn như một đám ma, cái đám ma không kèn không trống, im re và chôn sâu trong lòng mỗi người, tất cả chỉ còn biết đổ thừa cho vận mạng của nước non.

    Tôi bị cuốn trong cái lùng bùng tan hoang rồi sạch sành sanh đó. Làm một cú quay về Tây Ninh, từ đồng bằng ta lên ở núi.

    Sau này những ngày nằm trong biệt giam ở C2 rồi C hay những đêm thao thức trong thời chưa ra trại lao động. Tôi có nhiều thời gian để nhớ cái thời oanh liệt nay còn đâu của mình, nhớ từng cái li ti theo bám một đời, một đời tưởng như quên tuốt. Không may mắn chút nào nó lù lù quay lại, xuyên thủng cái bóng tối mờ mờ, xuyên qua khe hở cái lỗ gió và ập xuống làm tôi nhiều đêm bỏ ngủ.

    Nguyễn thanh Khiết


    https://nguyenthanhkhiet.wordpress.com



          
Trả lời

Quay về “của người”