Văn thợ mộc

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5410
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Văn thợ mộc

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Văn thợ mộc



    Ngày, rồi đêm, rồi lại ngày, không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua. Tôi ngồi, tôi nằm, một mình, trong cái xà lim toen hoẻn, tường lổn nhổn vữa trộn vụn thuỷ tinh của trại quân pháp Bất Bạt. Để lưng trần mà dựa vào tường này lưng sẽ toé máu.

    Một hôm, bất thình lình cửa xà lim mở toang.

    - Thu xếp đồ đoàn – bức tượng vận quân phục nói.

    Hai hình nhân vận cảnh phục lẳng lặng dẫn tôi ra khỏi khuôn viên nhà tù. Đám đào binh làm việc ở sân ở trại tò mò nhìn theo. Họ ngạc nhiên là phải – trong nhà tù lính mà cũng có dân thường, lạ thật.

    Leo lên cái com-măng-ca mới cứng còn thơm mùi nhựa mới biết có một người đi cùng. Gày, xanh, hai tay bị khoá, người này chắc cũng tù như tôi. Về sau mới biết anh ta cũng là người trong vụ án mà tôi bị đính vào như đính một cái cúc áo. Trong cái gọi là "nhóm xét lại chống Đảng", thật kỳ cục, tôi có những đồng phạm mà mình chưa từng gặp.

    Đến phà Trung Hà, hai chúng tôi bị đuổi xuống ngồi ở mạn. Khách đi phà ngồi chật bên chúng tôi. Anh bạn tù ngượng nghịu lấy quạt nan che cái cái khoá số 8 made in SSSR để họ không thấy. Tôi nhìn sông, nghe nước chảy, tôi ngắm cảnh hai bên bờ, không quan tâm những cái nhìn tò mò.

    Sau một thời gian bị giam riêng trong trại Tân Lập (Vĩnh Yên), tôi được đưa ra một trại chung trong ba phân trại.

    Trại chung là nơi giam đủ mọi thứ tù – hình sự có, chính trị có. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không khi nào thừa nhận có tù chính trị trong đất đai của nó, nhưng ở trại giam thì họ có đầy - loại này ở riêng, mang số lẻ, tù hình sự mang số chẵn.

    Tù chính trị cũng đủ màu sắc, đủ loại : sĩ quan, công chức chế độ cũ (gọi là dân xỏ nhầm giày), các linh mục và tu sĩ Thiên Chúa giáo, chánh trương, trùm trưởng các xứ đạo, giáo dân trong các cuộc nổi dậy …

    Tôi không thuộc bất cứ thành phần nào.

    Người ta đưa tôi vào một “toán” lao động số lẻ, làm thợ mộc. Tôi lang thang trong cái sân trại rộng, lơ ngơ trong cuộc sống trước kia nằm mơ cũng không thấy.
    Tôi quen Văn Thợ Mộc là trong thời gian này.

    Đang ngồi một mình ở chái nhà giam thì một chàng trai mặt mũi sáng sủa đến ngồi bên:

    - Này, tôi biết ông là ai.

    Tôi ngạc nhiên.

    - Tôi hay đi qua nhà ông – anh ta thủng thẳng - Tôi rất thích cuốn Bông Hồng Vàng ông dịch.

    Tôi chìa tay cho anh.

    Tôi không hỏi tại sao anh bị tù. Anh cũng vậy, không hỏi. Câu hỏi này không phải thuộc điều cấm kỵ, nhưng nó vô duyên. Nhà nước không vô cớ bắt ai. Bao giờ nhà nước cũng có một cái cớ nào đó cho sự bỏ tù, nếu không nó không còn là nhà nước.

    Nhờ Văn Thợ Mộc tôi có thêm nhiều bạn: Kiều Duy Vĩnh, Tôn Thất Tần, Nguyễn Chí Thiện, Trình Hàng Vải… Mấy ông bạn số lẻ nghĩ tôi là một tên phạm cán (cán bộ nhà nước bị bỏ tù), không biết vì tội gì, thế thôi. Họ chẳng cần tìm hiểu tôi là ai. Mà có biết cũng chẳng để làm gì. Tù là tù, khối người vào tù bởi những lý do cực kỳ vớ vẩn. Chẳng hạn, có hai ông lão ở biên giới, rượu vào lời ra, có kẻ nghe thấy hai ông “tỉu na má Mao Xê Tung”, thế là bị tóm cổ xách đi. Hai người này không chơi với chúng tôi, ngoài giờ lao động là chúi vào những ván cờ bỏ dở.

    Ở đoạn đầu tôi nhắc tới ông bạn cùng vụ là có ẩn ý. Tôi là người tò mò. Có một lĩnh vực tôi có nghe chứ chưa từng đọc, là tâm lý tội phạm. Thôi thì đã rơi vào đây thì cũng nên biết mặt ngang mũi dọc nó ra làm sao. Nhưng cũng là hiểu tàm tạm thôi, chứ những người tù mà tôi ở cùng không thể gọi là tội phạm.

    Quan sát những tù nhân mà tôi gặp, số người cảm thấy xấu hổ vì cái sự ở tù rất ít.

    Ông bạn nói trên khi lấy quạt che khoá số 8 trên tay là một thí dụ. Người nào còn thấy xấu hổ vì cái sự ở tù là người mặc nhiên còn công nhận tính chính danh của nhà cầm quyền. Trong thâm tâm họ cho rằng mình là người có tội. Trước những người đại diện cho chính quyền, họ e dè, họ khép nép, họ ngước nhìn bề trên bằng cặp mắt cố tỏ ra hiền lành, có nói là họ sợ cũng không sai. Tù loại này thường là phạm cán.

    Trong thời gian ở tù tôi có gặp một cục trưởng tham ô, một cán bộ ngoại giao quan hệ cá nhân ngoài công vụ với người nước ngoài và vài người khác mang những tội ba lăng nhăng đến nỗi không thể tin được. Xét về tội trạng bị tuyên, những người người này hiển nhiên oan uổng, nhưng họ luôn tách mình ra khỏi đồng loại, cố tỏ ra mình gần gụi với người của chính quyền, sẵn sàng nhận những công việc mà ban giám thị trại trao cho như trật tự trại, văn hoá trại, hoặc làm “ăng-ten” (chỉ điểm).

    Số đông thì không thế. Đó là những người cam chịu, chấp nhận số phận. Họ lẳng lặng sống, chờ ngày được ra.

    Văn Thợ Mộc thuộc loại không giống ai - đó là những người coi sự ở tù là lẽ đương nhiên, họ chấp nhận nó với thái độ dửng dưng. Khi ngồi cùng nhau, họ không bao giờ đả động tới ngày về, cứ như thể họ đang sống theo lẽ tự nhiên ở một nơi nào khác, không phải trại giam.

    Ngay trong họ Văn Thợ Mộc cũng là một nhân vật đặc biệt. Anh chàng trẻ tuổi và đẹp trai này không chỉ dửng dưng với sự ở tù, mà còn nhơn nhơn với nó. Cứ như thể đây là chỗ ở tự nhiên, vốn có. Mặt tươi bưởi, luôn miệng huýt sáo, anh tưng tửng đi lại trong trại, lê la hết nhà này sang nhà khác.

    Nhìn theo Văn Thợ Mộc bước vào một nhà số chẵn, người tù thâm niên trên hết những người tù thâm niên nói với tôi:

    - Anh ta có một thằng con nuôi bên ấy -Tôn Thất Tần nói.

    Văn Thợ Mộc giải thích:

    - À, là thằng con nuôi tôi.

    - Thế à? Có phải cái thằng lẻo khoẻo vẫn hay thập thò ở cửa nhà này không?

    - Nó đấy. Nó tìm tôi. Tội nghiệp, thằng bé ngoan lắm, ông ạ. Chẳng hiểu sao lại rơi vào đây.

    - Nhiều đứa như thế mà.

    Anh thở dài:

    - Ông xem, nó non choẹt.

    - Nó đâu phải đứa bé nhất.

    Văn Thợ Mộc lừ mắt.

    Tôi im. Trong tù có những nhóm nhỏ họp lại với nhau, gọi là gia đình. Thứ gia đình thế phẩm có khi là mấy người tụ lại săn sóc nhau. Gia đình có thể là những anh em, có thể là những ông bố hờ và những đứa con hờ. Trong cái gia đình ấy, con người cô đơn cảm thấy nỗi đau được xoa dịu, lòng mình ấm áp hơn.

    Sau mới biết gia đình hai bố con Văn Thợ Mộc có sự tích của nó. Số là Văn Thợ Mộc đã có người yêu trước khi rơi vào tù lần thứ nhất. Anh từng là thiếu uý hay trung uý chi đó thuộc Bảo chính đoàn, là thứ người ta hốt tắp lự mỗi khi có sự kiện gì đó liên quan tới sự an toàn của chế độ, hoặc trước những ngày kỷ niệm long trọng như quốc khánh mồng Hai tháng Chín. Anh bị bắt vì sự cẩn thận của nhà nước, như nhiều người khác, vậy thôi. Nhiều năm trôi qua, người yêu không đợi được anh, đi lấy chồng. Thằng bé là con cô ấy.

    Văn Thợ Mộc yêu nó như con mình. Là tôi ví thế chứ Văn Thợ Mộc cho đến khi tôi gặp vẫn đực rựa, có con nào để mà yêu.

    Anh chiều thằng con lắm. Anh nhịn cả ăn để “chác” mấy suất cơm lấy áo bông cho nó khi mùa đông tới. Cái sự mua bán đổi chác trong trại giam rất phát đạt, có đủ hàng hoá: thuốc lào, thuốc lá, quần áo, kem răng, kính lão… Nổi tiếng trong sự mua bán đổi chác có Mai Cường, một tù hình sự đứng tuổi, cao lộc ngộc, của hiếm trong bộ lạc hình sự. Vì số tuổi đáng kính anh ta có nhiều người quen trong đám tù chính trị. Mai Cường không có áo bông cỡ nhỏ, Văn Thợ Mộc đành phải lấy cái to, của người lớn. Thằng bé mặc cái áo bông to xù, hai tay lõng thõng, trông như chim cánh cụt.

    Mùa đông ở trại nào cũng thế, người ta thường đặt trại giam trong rừng sâu, trong thung lũng, chung quanh là núi cao núi thấp, tù khó trốn.

    Những ngày chủ nhật tù được nghỉ lao động, có nắng ấm, hai bố con Văn Thợ Mộc kéo nhau ra giữa sân, cởi trần bắt rận. Nhìn hai cha con bắt rận cho nhau tôi nhớ tới một cảnh trong phim tài liệu về đời sống hoang dã.

    Rồi tôi bị chuyển đi trại khác. Rồi ra tù. Tôi không biết Văn Thợ Mộc ra trước hay ra sau tôi.

    Đời tù nó thế, nếu anh không bỏ xác lại trong nghĩa địa tù, thì rồi trước sau cũng được ra. Tôi quên anh, như quên những người bạn tù khác. Có nhớ đến thì cái sự nhớ lại bao giờ cũng gắn với những câu chuyện hoặc những kỷ niệm.

    Đời người tù trôi dạt nhiều lắm, không kể những cuộc chuyển trại, mà cả khi ra ngoài nhà tù, trong cái xã hội không chấp nhận mình. Như nhà thơ tù Phùng Cung viết: “Vào trong ao cạn vẫn còn lênh đênh”.

    Một hôm, đang lang thang trên phố, tôi nghe có ai gọi. Hoá ra Văn Thợ Mộc.

    Anh chàng cựu học sinh trường Albert Sarraut, cựu sĩ quan Bảo chính đoàn, không còn đẹp trai như lần đầu gặp nhau, giờ đây gày và đen nhẻm, vai quẩy cái cưa và thùng đồ mộc. Nhưng vẫn nhởn nhơ, y như khi ở trong tù.

    - Ông giờ làm gì? – Văn Thợ Mộc chăm chú nhìn tôi, cái nhìn ái ngại.

    - Tôi ấy à? – tôi dị ứng với cái nhìn như thế, của bất cứ ai - Gặp gì làm nấy.

    - Lại dịch sách?

    - Không – tôi lắc – Người ta không cho tôi dịch. Các nhà xuất bản không giao sách cho mình. Họ nói có lệnh trên.

    - Khổ - anh lúc lắc đầu - Thế lấy gì sống?

    - Thì dịch chui. Người khác ký hợp đồng rồi giao lại cho mình. Hoặc dịch cho một cơ quan nào cần gấp.

    Anh bặm môi, suy nghĩ.

    - Ông chưa quên nghề mộc chứ?

    - Quên là thế nào – tôi nói – Các xưởng mộc có đấy, nhưng chẳng ai dám nhận mình.

    - Thì cứ làm như tôi này. Quẩy đồ nghề lên vai, làm dạo. Người ta thấy phó mộc, trong nhà có đồ cần sửa, người ta gọi.

    Tôi bần thần:

    - Như ông à? Sống được không?

    Văn Thợ Mộc cười toác:

    - Tôi có chết đâu. Vẫn sống nhăn đây này.

    Anh hạ gánh, mở hòm đồ, xé một mảnh giấy xi măng, hí hoáy viết:

    - Địa chỉ tôi đây. Đói thì tìm tôi. Tôi lo đồ nghề cho ông.

    Tôi hờ hững đút cái danh thiếp không có hình thù vào túi.

    Rồi tôi quên bẵng nó.

    Một hôm anh tìm tôi:

    - Ông đến tôi nhá! Hôm nay nhà tôi có giỗ. Ông là khách duy nhất đấy. Tôi tìm ông Thiện (Nguyễn Chí Thiện) mới biết ông ấy lại bị đi rồi.

    - Ông Trình Hàng Vải cũng vừa cho tôi biết.

    - “Tăng” (temps, lần) này là “tăng” ba.

    Anh lại xé giấy viết cho tôi cái danh thiếp khác.

    - Tôi lập gia đình rồi, ông ạ.

    - Hay quá! Mừng cho ông.

    Theo địa chỉ Văn Thợ Mộc đưa, tôi đến nhà anh.

    Đó là một ngôi nhà tuềnh toàng ở ngoại ô, tường ốp vữa xi măng.

    - Nhà tôi – anh giới thiệu với tôi một người đàn bà nhan sắc vừa phải, không đẹp nhưng không đến nỗi xấu.

    Người đàn bà líu ríu chào tôi.

    - Thế này, hôm nay là ngày giỗ ông trước của nhà tôi.

    Văn Thợ Mộc lấy ba nén hương đưa cho tôi. Tôi thắp hương, lầm rầm khấn trước ban thờ người quá cố. Một anh bộ đội với sao trên mũ thờ ơ nhìn xuống chúng tôi.

    - Các cháu chúng nó phải làm ca, về sau.

    Thì ra chồng của vợ anh là một liệt sĩ.

    Văn Thợ Mộc đi qua nhà này, chị vợ gọi vào thuê anh sửa ban thờ chồng. Anh sửa xong thấy cái giường của chủ nhà lung lay, bèn tháo ra, đóng lại mấy cái mộng. Rồi tiện tay sửa luôn cái tủ mất một chân, cái chạn hỏng hai cánh.

    Nói tóm lại, một cuộc tình nảy nở giữa anh “nguỵ”, cựu binh Bảo Chính đoàn với người vợ liệt sĩ cách mạng.

    - Các cháu cũng ngoan lắm, biết thương mẹ. Hôm khác anh lại chơi cho các cháu chào bác.
    Cái hôm khác ấy rồi không có. Sóng đời xô đẩy tôi trôi dạt vào Sài Gòn. Rồi xa hơn nữa, Moskva, Warszawa, Paris.

    Tôi mất liên lạc với Văn Thợ Mộc từ đấy.

    * *
    *


    Tin về Văn Thợ Mộc đến với tôi là bức thư của một bạn tù.

    Anh viết: “Văn đã xa chúng ta rồi. Anh mất vì bệnh gì không ai biết ”.

    Trong bức thư có bức ảnh cuối cùng của Văn Thợ Mộc – một người đàn ông gày còm, mặt hốc hác, áo ba lỗ, quần đùi, cái nào cũng chảy dài, lụng thụng. Anh đứng trong gian bếp thấp tè lủng củng mấy cái xoong nồi.

    Tôi nhìn ảnh bạn mình, xót xa, mắt cay xè.

    Tôi không còn nước mắt.



    Vũ thư Hiên
    Paris, 2002-2019



    Nguồn:https://www.facebook.com


              
Trả lời

Quay về “của người”