Khóc cười trên một xứ sở buồn vô hạn

Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Khóc cười trên một xứ sở buồn vô hạn

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    10.

    Dù có hồi hộp lo sợ đến mấy thì cái ngày tiếp thu không mong đợi ấy cũng tới. Nhưng chẳng có Tây trắng Tây đen, chẳng có súng ngắn súng dài. Cũng không có đốt nhà hãm hiếp như ông Khứ và cô Thảnh nói. Chỉ có độc một cây cơ màu vàng ba sọc đỏ ai đó lặng lẽ đem cắm trước Uỷ ban. Mấy ngày sau cũng chính ông Tư Alô chõ miệng vào loa mời đồng bào đi dự mitting mừng Ngô thủ tướng.

    Lại thấy những chiếc áo dài đen lâu nay cất kỹ được các ông hương bộ, hương kiểm, chánh phó lý rụt rè đem ra mặc. Ông phó Ba không còn hài hước chọc cười thiên hạ nữa mà cố tình làm mặt nghiêm tuyên bố: Bảo Đại vẫn còn làm vua và Ngô chí sĩ sẽ thay ngài lo việc nước. Còn ông, cái nhiệm vụ đầu tiên là cầu đảo cho cả làng được bình yên sau cái vụ cướp chính quyền của Việt Minh Cộng Sản.

    Ông bèn cho những người mới hôm nào là dân quân du kích dọn dẹp sân đình và đến nhà ông Khứ đòi lại cái án thờ. Đây là cái án được các thợ Bắc chạm trổ rất tinh xảo mà trước đây làng đã phải mua đến mấy trăm bạc. Ông Khứ, hồi đó, sau khi đã hất các bài vị xuống đất, liền âm thầm đem về nhà mình để các vị thần bá láp kia không còn chỗ mà về nữa. Bây giờ người ta mới biết rằng ông tuy không tin có thần thánh gì nhưng vẫn tin có ông bà tổ tiên và cái việc mời các cụ về ngồi lên cái chỗ sang trọng như thế là một việc làm chính đáng.

    Đã mấy đời làm nghề phù thuỷ, cho nên việc cúng tế tẩy trừ đối với ông phó dù bị ngăn cấm trong suốt chín năm vẫn rất quen thuộc. Không biết tự bao giờ và đặt ai làm, người ta thấy hai hình nhân, một nam và một nữ được ông đem đặt bên cạnh cái án thờ. Hình nhân nam mặt mày bậm trợn, mồm lún phún râu, còn hình nhân nữ thì má phấn môi son nhưng hai hàng chân mày xếch ngược, mắt trắng dã trông rất dễ sợ.

    Ông tổng Bá mặc áo thụng xanh đứng ra làm chủ tế. Sau khi khấn một tràng dài, ông lạy ba lạy rồi nhường quyền trừ ma tróc quỷ cho ông phó Ba, nay được gọi là trưởng thôn. Ông phó Ba liền vung tay bắt quyết, miệng đọc thần chú, rồi lấy roi dâu đánh lên mình mỗi hình nhân mười roi. Lần đầu tiên tôi được nghe những tiếng lạ lùng: An mani á dư hồng! An mani á dư hồng! được lập đi lập lại mãi. Sau đó người ta đem hai hình nhân bỏ vào bè chuối thả xuống sông, coi như đã xua đuổi hết tà ma ra khỏi làng! Cô Sáu bảo hai cái hình nhân đó là ông Khứ và cô Thảnh.

    Như vậy thằng địa chủ Bá lại được thưa gửi bằng ông, đồng chí thủ ngữ Đực lại bị gọi bằng thằng. Mọi sự lại như cũ!

    Lúc này những ai có thân nhân ở Nha Trang hay Sài Gòn lại khá lên như một con bệnh vừa được cứu sống và cho uống thuốc bổ. Chỉ cần đi vào đó một bận là khi trở về có cả đồng hồ, xe đạp. Thằng Khánh được bịt cả răng vàng, lúc nào cười cũng sáng lên như có chớp.

    Vì được miễn thuế, nên những nhà nhiều ruộng chỉ trong một vụ mùa là lúa đã đầy nhà. Hai mươi mẫu ruộng đã từng làm cho ông tổng Bá chết dở sống dở, giờ lại mạnh mẽ nâng ông dậy. Những kẻ trước đây không thèm làm nô lệ cho ông giờ rón ra rón rén đến xin được làm rẽ. Người ta bảo thà làm nô lệ mà có hột cơm ăn, còn hơn làm chủ mà bữa nào cũng phải húp bột mì vừa chua vừa loãng như nước mũi! Cũng có người lo sợ rằng hai cái hình nhân mà ông phù thủy Ba làm phép đẩy ra biển kia biết có linh nghiệm hay không. Chỉ mười mấy tháng nữa thôi hai cái hình nhân ấy mà sống lại thì ông tổng Bá sẽ bị đập chết và những người có liên quan thì biết sống ở đâu !

    Nhưng mà thôi, sống được ngày nào thì cứ sống. Trước đây phải dấu đút ăn trộm ăn lén, giờ đây muốn ăn gì cứ ăn, muốn mặc gì cứ mặc, muốn mua gì cứ mua! Và thực là lạ lùng, cái thứ mà mọi người rất muốn mua lại là chó! Những con mực, những con vàng, những con vện, những con đốm… chúng mày ở đâu? Cái cơn nhớ ấy bùng lên dữ dội khi thằng Hậu con ông hương mục (coi việc chăn nuôi trâu bò trong làng) đem về từ Sài Gòn hai con chó Nhựt một đực một cái. Người ta kéo đến xem vòng trong vòng ngoài còn hơn cả xem Sơn Đông mãi võ. Nhiều người tranh nhau mua. Ông hương kiểm đã phải mất một cặp gà và 300 ký lúa mới đổi được. Thấy quá hời, thằng Hậu lại đi vào Sài Gòn và trở thành một anh buôn chó có tiếng. Một năm sau nó sắm được xe, cất được nhà, cưới được vợ mặc dù mang cái tên khó nghe là Hậu chó.

    Như thế trong làng có hai đứa nhờ chó mà sống được và ăn nên làm ra. Nó là chủ trại nuôi, bán chó còn tôi thì làm công. Những con chó nó đem về từ miền nam không phải xinh xẻo như hai con chó Nhựt, mà là những con ốm đói, ghẻ lở, lẽ ra phải chui vào nồi rựa mận. Con nào cũng nằm buồn rầu ủ ê không buồn sủa lấy một tiếng. Công việc của tôi là đem ra sông tắm rửa từng con một, rồi ve uốt dỗ dành để nó chịu ăn. Đối với ai khác thì đó là một công việc hết sức dơ bẩn và cực nhọc. Nhưng với tôi lại là một niềm vui. Dường như cái dòng sữa chó trong tôi đang thức dậy và lũ chó cũng nhận ra rằng, tôi với chúng cũng là đồng loại chỉ khác là biết nói tiếng người.

    Lũ chó được tôi chăm sóc chẳng mấy chốc đã trở nên phổng phao xinh đẹp. Chúng lại còn biết làm vài trò đơn giản như đứng hai chân sau, co hai chân trước như một đứa trẻ biết vòng tay để chào mừng. Cái việc đưa một chân ra để bông dua thì dễ quá, chỉ một vài miếng thịt mỡ là tập được ngay. Nhìn lũ chó sởn sơ béo tốt, thằng Hậu đã phải khen: Mày đúng là thằng chó đẻ, giỏi thiệt!

    Tuy nhiên cái công việc bán chó ấy cũng không phát được lâu. Chỉ một năm sau là nhà nào cũng có chó. Những con chó cái đã đẻ ra hàng loạt con chó con. Người ta không mua nữa mà là xin, cùng lắm thì đổi một con gà. Đó là chưa kể cái nguồn chó trong nam đã bị những người Bắc di cư tóm vào các quán thịt cầy mọc lên nhan nhản. Thằng Hậu dẹp trại nuôi chó xoay ra nuôi gà đá. Cái món này thì nó không cho tôi đụng vào. Nó bảo, cái máu chó của mày làm cho lũ gà chạy biến. Vào độ mà chạy là có nước bán nhà!

    Lúc này tôi mười bảy tuổi. Đêm nằm trở giấc đã muốn ôm một ai đó vào lòng. Những khi ngồi trước gương cho thợ cắt tóc, tôi lại nhớ tới lời cô Sáu “trông mày cũng lịch sự trai “. Tôi chỉ mỉm cười một mình vì ngoài chị Thảo chưa có ai thèm nắm lấy tay tôi. Nhớ lại hồi cả làng đêm nào cũng kéo nhau ra sân đình tập nhảy Xôn-đố-mì, một điệu nhảy của Trung Quốc anh em. Cứ một trai một gái đâu mặt vào nhau, hết đá chân phải lại đá chân trái, điệu nhảy mà ông phó Ba gọi là Tao-đá-mày. Đưá nào cũng bắt được cặp chỉ có tôi là không. Tụi con gái chẳng đứa nào chịu. Chúng nó bảo tôi hôi mùi chó! Bây giờ làm cái nghề nuôi dạy chó, chắc không khi nào tôi lấy được vợ!

    Cái ông vua Bảo Đại có lẽ là ông vua bấp bênh nhất trong lịch sử. Năm bốn lăm, khi trao ấn kiếm cho Cách mạng, ông nói cứng “thà làm dân của một nước độc lập, còn hơn làm vua của một nước nô lệ“. Thế rồi nghe đâu công dân Vĩnh Thụy trốn qua Pháp và lại làm vua nước Nam tại Pháp. Những năm ấy nghe nói ông chỉ đi săn và đi nhảy đầm. Mọi việc trong nước đã có Thủ tướng lo. Chẳng biết ông Ngô Đình Diệm làm thế nào mà bỗng dưng được suy tôn lên làm Tổng thống, còn ông bị truất phế rơi xuống làm dân. Cuộc đời như thế người ta gọi là lên voi xuống chó.

    Để mừng quốc khánh và suy tôn Tổng thống, người ta bày ra cái cảnh lần đầu tiên thi xe hoa. Mỗi thôn một xe cùng thi tài ở sân vận động của xã. Các vị chức sắc ở thôn An Định vò đầu bức tóc nghĩ mãi mới ra được cái xe hoa như thế này. Hai cái xe đạp tháo ghiđông để có bốn bánh xe. Một cái khung hình chữ nhật bọc vải trắng vẽ những cảnh sơn thuỷ và mai lan cúc trúc. Trên cao là cái tháp nhỏ có hình Ngô tổng thống mặc quốc phục khăn đóng áo dài. Chung quanh kết cờ ba sọc, tối đến có đèn chớp nháy. Vậy là đẹp, là có ý nghĩa. Nhưng xe đạp đâu có chạy được nếu không có người đạp. Chẳng lẽ cho thanh niên chạy trước kéo hay đi sau đẩy? luộm thuộm quá coi không được. Các vị cãi nhau suốt.

    Đang lúc lúc lúng túng không biết cho xe chạy bằng cách nào thì ông hương kiểm bỗng nói: sao không cho chó kéo? Mọi người ngớ ra một lúc rồi cùng ồ lên: Phải! Phải! Để chó kéo coi ngộ à! nhưng một con kéo sao nổi mà nhiều con chạy loạn xạ thì ngã mẹ nó chiếc xe còn gì!

    Rốt cuộc, người ta lại nhớ đến tôi, rằng chỉ có tôi với cái miệng từng ngậm vú chó mới có thể dạy được chúng kéo cái xe để giật giải. Dĩ nhiên là tôi không chối từ cái vinh dự có một không hai ấy. Tám con chó đực béo tốt nhất làng đã được chọn. Chúng là những con chó đã được tôi chăm sóc ở trại thằng Hậu ngày nào, nên khi gặp lại tôi chúng rít lên ư ử, ngoáy tít đuôi mừng rỡ. Cứ tưởng cái việc tập chạy thành hàng chỉ một buổi là xong. Không ngờ, người và chó cùng mệt phờ ra mà chẳng tập được gì. Chẳng con nào chịu con nào. Chúng cứ gầm gừ suốt, sểnh ra là chúng cắn nhau!

    Đã ba ngày rồi mà chúng vẫn cứ ăng ẳng sủa nhặng cả lên. Cho mấy đứa nhỏ cầm gậy lùa vào hàng, chúng lại càng lộn xộn. Cứ cái nước này thì đành phải cho bò mà kéo như bên Trung Lương. Nhưng rất may, có thằng Hậu đến xem và mách nước. Nó nói: Bây giờ tao thấy mày cũng ngu như chó! Có đến Tết mày cũng chẳng dạy được nó chạy thành hàng. Lũ chó đực với nhau mà mày không biết à? Chúng cắn nhau miết. Hãy kiếm bốn con chó cái tới đây. Cứ một đực một cái cặp với nhau, tao bảo đảm với mày là chạy tới chỗ nào cũng được.

    Thằng Hậu đúng là Hậu chó. Bốn con chó cái đến là bốn con chó đực trở nên ngoan hiền dễ bảo. Chỉ nội trong ngày hôm sau là đã có thể kéo chiếc xe không chạy khắp làng.

    Ngày Quốc khánh đến. Bảy chiếc xe hoa đủ kiểu và đủ màu sắc của bảy thôn làm cho buổi lễ đông vui hơn bao giờ hết. Thôn Trung Lương, ý chừng lấy câu “dĩ nông vi bản” nên đem cả một cỗ xe bò với mấy chàng nông dân mặc quần áo bà ba đen vác cuốc và mấy cô thôn nữ đánh má hồng tô môi đỏ tay cầm liềm. Các cô nàng mắc cỡ thẹn đỏ mặt, nhưng mắt vẫn long lanh vì biết rằng có nhiều người đang nhìn mình. Thế nào sau cái lễ này cũng được nhiều người đi hỏi làm vợ. Thôn An Dân, một chiếc ghe với những tay chèo đang hò bá trạo. Thôn Kim Bình với hai con rồng chầu cái mặt nguyệt ở giữa có ảnh Tổng thống. Thôn Kim Đức là một chiếc máy bay có hai phi công đi chân đất. Bọn trẻ con tinh quái núp dưới hai cánh lẩy roi quất vào hai chân khiến máy bay nghiêng ngửa như sắp thả bom. Nhưng lạ nhất, vui nhất là thôn An Định với tám con chó vừa đực vừa cái đeo luc lạc kêu rỏn rẻng. Đi đầu là tôi được ông Hồng lính Tây cho đội mũ kêpi mặc áo đeo ngù vàng, hông đeo kiếm giả cứ như sĩ quan của trường võ bị nào đó bên Pháp. Làng An định được hoan hô nhiệt liệt. Người ta suýt giẫm đạp lên nhau vì chen lấn để xem cho rõ. Khi giải nhất được trao cho làng thì tôi một lần nữa lại được các vị chức sắc công kênh như các vị cán bộ ngày nào.

    Nhưng có lẽ vì ganh ghét, một ai đó đã mách lẻo với ngài quận trưởng rằng, để chó kéo xe có hình Tổng thống là phạm thượng! Các vị chức sắc chưa kịp uống rượu mừng đã phải hớt hơ hớt hải kéo nhau lên quận để giải bày với ngài cái lòng trung thành khuyển mã của họ đối với Tổng thống. Ông phó Ba cho dù có tài trừ ma bắt quỷ cũng đành phải uốn lưỡi đến bảy lần và đi bằng hai đầu gối mới gỡ được cái tội đáng chém. Quận trưởng là một người Huế. Ngài nói: răng mà dỡn mặt rựa ? Thôi tha cho, cậu Cẩn mà biết được thì chẳng còn chỗ mà đội mũ mô! Sau này người ta nói, ngài quận trưởng sợ chính cái đầu của ngài chứ không phải đầu của ông thôn trưởng.

    Sau cái lần chết hụt ấy, ông phó Ba giờ là thôn trưởng thề rằng chẳng dại gì bày ra cái trò ngu ngốc như vừa rồi. Ông thì sợ cụp râu, nhưng tôi có lẽ mặt đang vênh lên vì trong bộ đồ sĩ quan giả ấy, tôi được mọi người xuýt xoa khen đẹp. Cô Sáu tôi rất hảnh diện. Trong cái tết năm ấy, bên cạnh những luống cải đầy hoa, bà vừa nói vừa cười: sắp đi hỏi vợ được rồi đấy, con à!

    Nhưng, Khi Ngô Đình Diệm đã chắc ngôi Tổng thống thì cũng là lúc chiến dịch “TỐ CỘNG “ bắt đầu. Trước tiên, ngài nhổ toẹt vào cái hiệp định Giơneo. Ngài bảo ngài không ký nên chẳng việc gì phải thi hành. Ngoài kia Cọng sản muốn làm gì thì mặc Cọng sản. Miền Nam là của ngài, gốc rễ của nó còn là ngài nhổ sạch.

    Lại rầm rập những cuộc biểu tình hoan hô Ngô Tổng thống và đả đảo Cọng sản. Lại những đêm học tập mà ông Khứ và cô Thảnh được nhắc tới như những tên Việt gian ôm chân Tầu cộng. Thằng thủ ngữ Đực và hai chị em bà Dĩa bị điệu ra trước đình y như vợ chồng ông tổng Bá và cụ cử Vân. Tôi cũng bị lôi ra như là tòng phạm. Bọn tôi bị trói giật cánh khủyu, đem lên quận.

    Chúng tôi bị quẳng vào nhà giam đã chật cứng người. Chưa bao giờ tôi phải chịu cái cảnh hôi thối ngột ngạt như lúc này. Mùi cứt đái, mùi đờm dãi, mùi hơi người dai dẳng và đặc quánh. Chỉ vài phút sau là tôi nghe da thịt mình cũng hôi hám y như họ. Cả bọn hệt như những con chó mà thằng Hậu đã mua về. Chúng tôi nằm vật lên nhau, chẳng một ai lên tiếng thở than. Nỗi sợ hãi to lớn đã bóp nghẹt cổ họng mọi người.

    Sáng hôm sau người ta lùa chúng tôi ra sân để hỏi tên tuổi quê quán. Tuy ngồi trong nắng, nhưng được hít thở khí trời, nên dù sợ xanh mặt nhưng xem ra cũng còn có chút tươi tỉnh để mà thưa gửi, chứ không đến nỗi phải đái trong quần. Người ta lùa đàn ông một bên, đàn bà một bên. Giữa, lúc nào cũng có người cầm súng sẵn sàng nhả đạn. Bốn góc là bốn cây tiểu liên và tám con mắt đăm đăm. Một buổi sáng dài lê thê với những tiếng quát nạt, tiếng chửi thề xen lẫn tiếng dạ run rẩy. Nắng lên cao, nhiều người vừa đói vừa sợ gục xuống. “Đù mẹ, giả chết hả? Con kia tên gì? Thằng kia tên gì? Xong rồi! Qua bên kia. Đù mẹ, Cộng sản gì nhiều quá! “

    Đến lượt tôi người ta hỏi

    – Tên gì?

    – Dạ Lê Văn Được

    – Cha?

    – Dạ không biết.

    – Mẹ?

    – Dạ cũng không !

    – Thằng này ngộ, ở dưới đất chui lên à?

    – Dạ ở dưới sông!

    – Bộ muốn giỡn mặt tao hả?

    – Dạ bị thả trôi sông!

    – Ai thả?

    – Dạ không biết!

    Đến lúc này người ta đá tôi một cái.

    – Đù mẹ, cái gì cũng không biết mà biết theo Cộng sản!

    Đến lượt bà Dĩa.

    – À, con mụ này, có phải mẹ thằng nhỏ kia không?

    – Dạ không

    – Tên gì ?

    – Dạ Lê thị Dĩa.

    – Em là Chén hả ?

    – Dạ

    – A, chén dĩa mà cũng biết làm Cộng sản, ngộ quá hén.

    Đến lượt thủ ngữ Đực.

    – Thằng này coi bộ giống Cộng sản quá. Đù mẹ, tên gì ?

    – Đực.

    – Cái gì Đực?

    – Thủ ngữ.

    – Thủ ngữ là cái quái gì?

    – Không biết

    – Thế ai đặt tên cho mày?

    – Không biết

    – Con hoang hả?

    – Ừ !

    – Mày không biết nói dạ à?

    – Ừ !

    – Mày theo Cọng sản từ bao giờ?

    – Không theo Cọng sản. Chỉ theo lão Khứ và con mụ Thảnh.

    – Thằng đó con đó ở đâu?

    – Ở ngoài Bắc

    – Đi tập kết rồi hả?

    – Ừ!

    – Sao mày không đi?

    – Tụi nó không cho đi

    – Vậy theo tụi nó làm gì?

    – Để được chia nhà chia ruộng

    – Ngon hả, được mấy cái?

    – Không có cái nào

    – Vậy còn theo nữa không?

    – Chửi cha nó chớ theo.

    – Ừ, thằng này nói nghe được đó. Cho mày điếu thuốc đây.

    Nó cầm lấy điếu thuốc ngửa mặt lên trời hít lấy hít để. Thế là nó tưởng sắp được tha, mặt đã bắt đầu vênh lên. Nhưng nhiều ngày sau, nó vẫn bị giam, ăn ngủ lẫn lộn cùng với cứt đái. Lại thêm nỗi nhớ vợ khiến nó nổi điên la hét suốt đêm. Người ta lôi cổ nó ra đánh cho mấy bạt tai. Nó liền đánh lại. Người ta tộng nó vào thùng tônô đem phơi nắng. Nó ú ớ ít lâu rồi im bặt. Ai cũng tưởng nó chết khô trong đó. Nhưng tối đến, cái thùng sắt lạnh làm cho nó tỉnh lại. Nghe nó thều thào xin nước, một người lính đùa dai bảo không có nước chỉ có rượu thôi uống không? Nó nói, thiệt hả? Đúng là Quốc gia chơi ngon hơn Cộng sản. Câu chuyện của nó cứ như chuyện tiếu lâm, ở cái nhà tù này ai cũng biết.

    Tiếp theo là những ngày dài tơi tả, những đêm dài bần dập vì bị tra khảo. Những đá, những đạp, những thụi, những bịch, những tiếng thét chói tai, những tiếng kêu ằng ặc không lúc nào ngớt ở phòng bên cạnh. Người nào bị gọi cũng cúm rúm co ro.

    Không một ai ưỡn ngực hiên ngang trước quân thù như cô Thảnh và ông Khứ thường bảo. Đến khi thả về người nào cũng máu me xệch xạc. Những ai chưa bị gọi, tuy thể xác còn lành lặn, nhưng tinh thần đã bị tra khảo tàn tạ. Mỗi cú đá cú đạp ở sát vách bên kia cứ dội thẳng vào đầu, vào ngực của những người đang chờ đợi trong tuyệt vọng ở phía bên này. Thà bị đánh chết giấc mê man không biết gì, chứ ngồi mà chờ đến lượt mình thì cứ như bị tra khảo gấp đôi, gấp ba lần. Nhiều người chưa bị gọi mà mắt đã trợn ngược như bị trúng gió. Nhiều người không ngớt rì rầm Cứu khổ cứu nạn Quan thế âm Bồ tát. Tôi thì rất lạ. Nỗi sợ hãi làm cho tôi xuất ra một thứ nước nhầy nhầy. Chao ôi! Lúc đó chúng tôi chẳng phải là người, mà khổ thay cũng chẳng phải là con vật. Chúng tôi là những thứ rác rưởi mà người ta muốn dọn sạch mà chưa có cách gì dọn được!

    Trong khi đó ở bên ngoài, cái chiến dịch Tố Cọng càng dữ dội ác liệt hơn khi người ta tìm thấy trong các ngôi mộ liệt sĩ ở Qui Nhơn không phải là những hài cốt quy tập từ các chiến trường mà là những hòm đầy lưụ đạn, những khẩu súng tháo rời. Rồi những kho muối, kho gạo cất dấu trong núi rừng.

    Lại bầm dập! Lại tả tơi!

    Bây giờ, không đấm đá thụi bịch, mà là nước xà phòng đổ vào miệng, điện dí vào chỗ kín để truy tróc tận gốc rễ những bí thư, những huyện uỷ, tỉnh uỷ…Đau quá! Khiếp hãi quá! Đành phải khai! Nhưng cái đám đàn ông đàn bà lơ ngơ láo ngáo này, có ai biết gì đâu mà khai! Thì đành khai bậy! Đầu óc đảo điên, cứ nhớ được tên ai là khai tên đó. Khai bạn khai bè, khai anh khai em. Khai luôn cả cha mẹ! Cứ một người phải khai ít nhất hai ba tên. Số người bị băt vì thế tăng lên gấp đôi, gấp ba. Rồi những người ấy bị đánh đau cũng phải khai ra những ai chợt nhớ. Thế là một trại không đủ. Hai trại rồi ba trại cũng không đủ. Người ta phải dùng dây thép gai quây ra ở bãi Trường thi lùa bọn họ vào như trâu bò. Dạo ấy có làng bị bắt đến một nửa, nhất là làng kiểu mẫu như làng An Định. Ngoài cái bè lũ bốn tên trong đó có tôi, còn có các bà vợ của bộ đội, vợ cán bộ không đủ tiêu chuẩn đi tập kết, những đại biểu nông dân, phụ nữ, những anh dân quân hung hăng…

    Lệnh trên đưa xuống là phải tìm cho ra những tên Cộng sản gộc đang thay tên đổi họ còn ở lại để đòi Tổng tuyển cử. Nếu không bí thư thì cũng là chủ tịch, nên đồng chí thủ ngữ Đực dù chỉ làm chủ tịch có hai đêm cũng đúng phóc là gộc rồi! Mà gộc bự nữa vì là chủ tịch của Toà án nhân dân. Thế là gã lập tức được đưa ngay lên tỉnh, có xe chạy trước mở đường và xe chạy sau hộ tống. Gã không bị tống vào xà lim mà được cho ở vila, được hút thuốc thơm và được uống rượu Tây, cho xứng với chức danh của gã. Ngài tỉnh trưởng nghĩ rằng đây là một con cá lớn, biết đâu còn có cả một bầy, nên ngài đã ân cần dụ dỗ. Chính ngài đã đưa tay ra bắt và vỗ vai thân mật như bạn lâu ngày mới gặp nhau. Vì thế gã đã khai thêm chị em bà Dĩa và tôi cho đủ một bộ tứ.

    Tin rằng sắp hốt trọn ổ cả một “Toà án nhân dân“, ngài tỉnh trưởng vui còn hơn bắt được vàng. Nhưng khi nhìn thấy hai chị em bà Dĩa, chỉ là hai mụ nhà quê đang run rẩy nép vào nhau như hai con chó đói và tôi hỉ mũi chưa sạch, thì ngài lắc đầu bảo: Bỏ mẹ! Ngữ này mà gộc à? rồi ngài ra lệnh thả bọn tôi ra chỉ giữ lại đồng chí thủ ngữ Đực, chắc là để đùa chơi giải buồn.

    Khi về đến làng nhiều người không dám nhìn chúng tôi. Chỉ có lũ nhỏ chạy theo hỏi “Mày bị thiến rồi hả Chó Đẻ“. Tôi lầm lũi bước đi không buồn giận gì chúng. Được đi trên dường làng, được về với bến sông và sắp gặp lại cô Sáu, tôi thấy cuộc đời vẫn còn cho tôi quá nhiều ưu ái. Những ngày qua chắc là cô buồn lo rất nhiều. Hôm bị trói giật cánh khuỷu lôi đi, tôi nghe cô kêu tên tôi ai oán như bà phó lý kêu tên cậu Phú. Sắp gần đến chỗ rẽ qua cầu, hai chị em bà Dĩa nép vào một bụi cây bên đường. Hai bà không quên những cái tát của cô khi dám nhận là đã sinh tôi ra. Ở trong tù, tôi có hỏi hai bà sao dám vu oan giá hoạ cho người khác thì hai bà đều bảo là do ông Khứ và cô Thảnh sắp đặt. Và cũng như thằng thủ ngữ Đực, được hứa sẽ cho thứ này thứ nọ, còn hứa đem ra Bắc để gặp cụ Hồ!

    Từ ngày ông Khứ đi tập kết, cô tôi lại bán mía bên cầu. Dù lúc này có chất mía thành đống cao như cái nhà cũng chẳng ai thèm hỏi tới. Lúc tôi về tới bên này cầu, nghe bọn trẻ con kêu chó đẻ, cô liền ném cây liềm xuống đất chạy qua. Tôi lao tới ôm lấy đôi vai gầy guộc của cô. Tôi khóc thành tiếng và cô cũng vừa khóc vừa hỏi tôi: con có bị đánh nhiều không? Tôi nói: chưa, con chưa bị đánh, nhưng con sợ lắm. Buổi tối hôm ấy bà phó lý tới thăm đem cho một bát cháo gà. Chưa bao giờ tôi được ăn một bát cháo ngon đến thế. Hai bà hỏi tôi đủ thứ chuyện trong tù. Tính ra tôi đã ở tù hai mươi bốn ngày và nếu nói như cụ đồ Ngân, nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại, thì tôi đã trải qua mấy chục cái thiên thu!

    Nhớ lại những ngày trong tù, tôi thấy rùng mình. Nhưng tôi cũng nhận ra tôi đang trưởng thành. Những gì tôi đã thấy, đã nghe, đã chịu đựng chỉ là màn giáo đầu của vở tuồng đời dài lê thê mà số phận đã sắp đặt, không chỉ của riêng tôi mà của cả những người dân ở vùng Nam Ngãi Bình Phú.


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Khóc cười trên một xứ sở buồn vô hạn

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    11.

    Chiến dịch Tố Cộng vẫn tiêp diễn. Đây là cơ hội cho những mối tư thù, những hơn thua ganh ghét ở xóm làng. Hồi chín năm ai cũng sợ cái mũ phản động, liên quan. Giờ đây người ta còn sợ hơn nếu phải đội cái mũ thân Cộng. Chỉ cần giành nhau một cái măng tre ở góc vườn, hay buồng chuối mà gốc ở bên này ngọn ở bên kia là hai bên đã có thể chụp cái mũ khốn nạn lên đầu của nhau. Nói chi đến chuyện được vợ hay mất vợ. Kẻ thua cuộc vì tình có đủ cách để tống kẻ thắng vào tù. Chỉ cần đem một miếng vải đỏ có gắn ngôi sao dắt đâu đó đằng sau nhà, rồi đi tố cáo là coi như cái giường tân hôn sẽ đầm đìa nước mắt. Mặc dù tiếng chuông chùa Thiên An vẫn không ngừng ngân nga, nhưng cái không khí sân si thù hận vẫn không dịu đi một chút nào. Gần một nửa làng bị bắt thì nửa kia coi như kẻ thù.

    Ông tổng Bá sau 14 tháng vẫn thấy cái đầu mình hãy còn nằm trên cổ, như cá mắc cạn bỗng gặp con nước về, cái chiến dịch Tố Cộng đã nâng ông lên cái chỗ còn cao hơn ngày trước. Bây giờ ông là thân hào nhân sĩ, tuy không nhận một chức gì, nhưng cái uy quyền vẫn bao trùm lên đám chức dịch. Đám con cháu nhà ông, trừ cậu Khánh đã bị điên thật, coi việc trả thù như một mệnh lệnh của lòng hiếu thảo. Bọn nhỏ thì hết lên mả nhà ông Chánh nhạc đái ỉa, lại đứng trước ngõ nhà ông Khứ chửi rủa tục tĩu. Bọn lớn hơn như thằng Mậu thằng Tài, thì lùng tìm hai chị em bà Dĩa đến nỗi cả hai phải trốn lên An Khê làm rẫy cùng với Thượng. Bà năm hàng xáo, người đã lỡ phun một bãi nước trầu vào mặt ông tổng Bá thì trốn biệt xuống cõi âm sau một cơn đau không lấy gì làm nặng lắm. Còn tôi, trong một đêm đi nghe máy hát đã bị chúng trùm mền đánh cho một trận thừa sống thiếu chết. Cô tôi phải nhờ bà biện Ngữ sắc cho mấy ấm thuốc võ. Thuốc đắng đến tê người, trong uống ngoài thoa, phải mất cả tuần mới đi lại được.

    Làng nào cũng có những cuộc trả thù như thế. Ngày trước ai đứng ra đấu tố địa chủ thì giờ này không nằm trong tù cũng nằm trong nhà thương. Có nơi nửa đêm người ta đốt nhà có người đi tập kết. Bà vợ ông Khứ sợ quá phải bỏ cả ruộng vườn bồng con về tá túc với cha mẹ ở An Đông.

    Tối đến, các chị vợ có chồng đi tập kết phải đến trụ sở thôn mà ngủ. Không chăn chiếu, không mùng màn, bọn trẻ con bị muỗi cắn suốt đêm khóc ngằn ngặt. Những gã dân quân tự vệ lấy cớ canh chừng thỉnh thoảng lại quét đèn pin vào những chỗ hớ hênh. Giống như ngày trước bị gắn vào ngực cái thành phần địa chủ, bây giờ bọn họ bị gắn cái thành phần thân cọng, chẳng còn ai dám lui tới hỏi han. Họ sống âm thầm như cái bóng, trông họ xanh xao ốm yếu nhưng lòng họ lại mạnh mẽ hướng về phương Bắc. Có thể nói hồn của họ ở ngoài kia mà xác ở trong này.

    Một hôm cả làng bỗng giựt mình khi nghe tin thằng thủ ngữ Đực sẽ bị đem bắn ở đông cây Sanh. Khi ngài tỉnh trưởng giữ nó ở lại, ai cũng tưởng ngài đùa chơi rồi cũng sẽ thả nó ra. Chắc ngài cũng biết quá rõ cái ngữ như nó thì cọng sản gộc thế nào được. Nhưng thả nó ra thì chiến dịch Tố Cộng coi như thất bại à? Phải có cái mà trình lên Tổng thống chứ! Thế là người ta đem rượu ra cho nó uống. Có rượu thì tội lệ gì nó cũng nhận tuốt. Còn đánh nó thì đừng hòng, chẳng những nó đánh lại mà còn dũng cảm chịu chết chứ không khai. Vì vậy nó bị đưa ra Toà với đủ tội danh nào giết cụ cử Vân, nào chôn sống một tiến sĩ ở Chánh Danh, nào dân biểu quốc hội, nào chánh án Toà án nhân dân… Phải mất một buổi sáng mới đọc hết bản cáo trạng của nó. Sau cùng người ta kết án tử hình, chỉ khác là đem về làng bắn chứ không đút đầu vào máy chém.

    Hôm đưa nó về làng có cả một đoàn xe đi hộ tống. Người ta phải xốc nách nó lôi ra khỏi xe vì nỗi sợ chết đã làm hai chân nó sụm xuống. Một đàn ruồi nhặng tranh nhau bám theo sau. Đáy quần của nó ướt sũng. Nó bị cột vào cọc, mà phải cột nhiều bận vì nó không tài nào đứng nổi. Người ta bịt mắt nó mặc dù đôi mắt đã sưng húp gần như không thấy gì.

    Ngài quận trưởng đọc lệnh xử bắn, sau khi Tổng thống đã bác đơn ân xá. Ngài nói, nó phải chết để trả thù cho những người vô tội đã chết dưới bàn tay Cọng sản. Mười hai viên đạn dễ dàng ghim hết vào người nó. Ngày mai các nhựt trình ở Sài Gòn sẽ loan tin cho cả nước biết một tên Cọng sản gộc nằm vùng đã bị bắt và đền tội.

    Nhưng ngoài dân làng An Định, nào ai biết đó là cái gã không cha không mẹ, sống bằng nghề đòi nợ thuê, bẻ bí trộm gà, đương nhiên là cả trộm chó nữa. Để có thành tích chống Cộng, người ta đã thổi phồng gã lên với đủ các chức vị oai phong, vô tình biến gã thành một anh hùng. Vì vậy, mười mấy năm sau, tên của gã được dùng để đặt tên cho cây cầu bê tông bắc qua Trung Lương. Có điều người ta đổi chữ Đực thành ra chữ Đức. Cầu anh Đức nghe cũng hay hay nhưng chẳng ai biết anh Đức là anh nào!

    Cái chết của thủ ngữ Đực không ngờ đã làm dịu bớt những hận thù không đáng có. Người ta thấy rằng ai cũng có thể bị bắn. Ai cũng có thể bị gắn lên ngực cái chức bí thư tỉnh uỷ, huyện uỷ…và đoàng ! Người ta thôi bới móc chụp mũ lên nhau nữa. Ai lo phận nấy, gầm mặt xuống mà kiếm hạt lúa củ khoai. Dân đen tự bao đời chẳng là dân đen! Cô Sáu bỗng dưng thở dài nói ra một câu như vậy.

    Có lẽ ở các nơi cũng có những thủ ngữ Đực bị chém hay bị bắn như thế. Người ta tin là đã giết hết những tên Cộng sản gộc rồi, nên thả bớt những người dân vô tội. Tổng thống là người có đạo, nên ngoài việc cai trị dân còn có bổn phận mở mang nước Chúa. Ngoài những người theo đạo vì yêu hàm râu của Chúa hơn hàm râu của Bác, còn có cả những người buộc lòng phải đặt cây thánh giá lên bàn thờ nhà mình để khỏi bị chụp cái mũ Cộng sản lên đầu. Hai chị em bà Dĩa nhờ theo đạo mà đã ung dung trở về làng.

    Sau chín năm kháng chiến cơ cực và sau những năm tố cọng, cuộc sống đã có ít nhiều thay đổi. Những người có nhiều ruộng đã bắt đầu xây nhà. Các ông tổng Bá, phó Ba, hương kiểm, hương mục… cho người ra sông xúc cát đúc gạch táplô. Chỉ sau ít tháng đã thấy tường quét vôi vàng, mái lợp ngói đỏ. Một cái biển chữ số 1960 màu đỏ được gắn trịnh trọng trước nhà như một con triện xác định cái năm tháng đáng nhớ của cả một đời người. Những ai chưa xây được nhà thì cố sắm xe đạp. Và chuông xe đạp cùng với chuông càrem kêu leng keng khắp đường làng. Sau bao nhiêu năm nghe lời thầy giảng bài, giờ tôi mới chứng nghiệm được rằng, nước đá đúng là cứng như đá nhưng lại tan ra dưới ánh mặt trời. Bọn con trai cùng lứa tuổi tôi đã đi hỏi vợ. Những đám cưới đi qua cầu thường dừng lại khá lâu để thợ chụp hình làm kỷ niệm. Các sòng xóc dĩa, bầu cua chật cứng đàn bà trẻ con chen nhau chơi trò đỏ đen. Thỉnh thoảng một chiếc ghe con, chẳng phải câu đêm cũng chẳng phải thả lưới, lượn lờ dưới gậm cầu. Khi thằng Mậu, khi thằng Tài, cũng có lúc ông phó Ba ngó trước trông sau bước xuống rồi mất tăm ở một khúc sông vắng nào đó. Cô Sáu bảo đó là ghe đổ tiêm la, còn bà vợ ông thì gào lên cho cả làng cùng biết là ông đi chơi đĩ!

    Nhưng cái sắc màu thanh bình chỉ vừa mới phớt qua xóm làng đã bị cái bóng ma cọng sản làm cho u tối. Những chiếc xe đò đã bị giật mìn, cờ búa liềm đã được treo ở chỗ nọ chỗ kia và Tổng thống suýt bị bắn chết ở Banmêthuột. Những đám mây đen của chiến tranh đã kéo tới và cái hơi lạnh chết chóc của nó đã thổi tới mọi nhà.

    Lệnh tổng động viên được Tổng thống lập tức ban hành. Bọn con trai cả nước được các cổng quân trường mở rộng cửa đón chào. Bài hát đi quân dịch là thương nòi giống suốt ngày vang lên ra rả. Xe GMC đến tận đầu làng đón bọn chúng tôi lên quận khám tuyển.

    Trừ những đứa thiếu cân như tôi, bị què hay chột như thằng Thịnh, còn tất cả đều phải đi quân dịch. Những cặp vợ chồng mới cưới vừa bén hơi nhau đã sụt sùi nước mắt chia ly. Và chưa đầy mười hôm, hai con vợ thằng Hùng và thằng Vĩ đã phải khóc chồng. Hai đứa đó vừa mới tới Dục Mỹ chưa bắn viên đạn nào đã bị pháo kích toi mạng. Mới hôm nào, bọn chúng trong phòng khám còn nghịch đo cái ấy lẫn nhau, giờ đã không bao giờ trở về làng nữa!

    Lại nghi ngờ! Lại bắt bớ! cọng sản đâu chỉ ở miền Bắc mà ở cả miền Trung và miền Nam. Không chỉ ở trên núi trên rừng mà ở ngay trong làng trong xóm. Phải tách chúng ra và phải phát súng cho dân đánh lại chúng. Thế là người ta biến mỗi làng thành một pháo đài.

    Cũng như trước kia, mọi người phải đi phá thành đào đường để chống giặc Pháp, giờ phải lên núi chặt cây để rào làng chống Cộng. Nói thì dễ, nhưng đi cả ngày trời mới tới được núi, mà núi toàn là núi trọc, thì kiếm đâu ra cây bằng bắp chân dài ba thước! Mà cũng đâu chỉ một vài cây! Cứ tính theo nhân khẩu, nghĩa là mới khóc oe oe cũng phải kiếm cho ra cây để rào đủ mười thước! So ra cái khổ nộp cây còn hơn cả cái khổ nộp thuế nông nghiệp. Ngày trước, địa chủ phú nông lo sợ bao nhiêu thì giờ các anh bần cố nông lo sợ bấy nhiêu! Nghe nói Mỹ viên trợ cho mỗi nhà 70 ngàn nhưng tiền chưa thấy mà Cộng sản đã tới rồi nên phải cấp tốc rào làng. Phải vay, phải mượn, phải cầm cố hay bán cả ruộng vườn.

    Lúc này mới thấy cái tài của thằng Hậu chó. Nó dẹp ngay cái trại gà, dông tuốt lên An Khê thuê Thượng chặt cây đóng bè thả về làng. Cái bến sông ở địa đầu thôn Trung Lương bỗng chốc trở thành một cái chợ cây, kẻ mua người bán còn tấp nập hơn cả những phiên chợ Tết. Không chỉ mỗi làng An Định cần cây mà cả xã, cả huyện. Cây về bao nhiêu là bán hết bấy nhiêu. Nó làm ăn phát đạt đến nỗi phải thuê cả chục người vác cây, trong đó có tôi. Khi ấp chiến lược hoàn thành, không ai tính được là nó đã thu vào bao nhiêu tiền. Trừ nhà ông tổng Bá, còn nhà nào cũng phải nợ nó, nếu không nợ tiền thì cũng nợ lúa. Nó chỉ trong một vài tháng đã trở thành một đại địa chủ vì nhiều người phải cầm thế hay bán hẳn ruộng cho nó. Bây giờ tiếng nói của nó còn mạnh hơn cả tiếng nói của ông tổng Bá. Nó còn chơi ngon, ngã một lúc hai con bò và mấy con heo để khánh thành ấp chiến lược. Ấp An Định là ấp duy nhất được ngài quận trưởng vinh dự tới cắt băng khánh thành. Trước các vị hào lý khăn đóng áo dài, trước đám dân quân tự vệ, trước hai hàng thanh niên nam nữ cọng hoà, ngài quận trửơng đã trao cho nó cái bằng khen có hai con rồng chầu lá cờ ba sọc do chính tay ngài tỉnh trưởng ký tặng.

    Rồi cũng giống như thời ông Khứ, người ta liền diễn tập cho ngài quận trưởng và các vị quan khách xem dân làng An Định chiến đấu chống Cộng sản. Đám dân quân và thanh niên nam nữ cọng hoà lập tức nép vào các hàng rào chiến lược. Những thân cây rừng vót nhọn chỉa ra hai bên như những cái lưng của con kỳ đà khổng lồ. Kẻ súng người dao lăm lăm trong tay. Tất cả sẵn sàng chờ cọng sản. Thế rồi một đứa bé từ dưới sông hớt hãi chạy lên miệng la to: Cọp về làng! Cọp về làng! Tiếp theo là một bọn cởi trần mặt bôi đầy lọ nghẹ từ các soi bắp chui ra, bọn chúng chưa kịp leo qua rào đã bị đám dân quân và thanh niên thanh nữ cọng hoà trói chặt. Một hồi trống dài báo tin thắng trận và cũng là lúc buổi diễn tập kết thúc để mọi người vào tiệc. Trong rượu thịt mọi người chếnh choáng tâng bốc lẫn nhau. Ngài quận trưởng hết lời khen ngợi tài tổ chức của quân, dân, chính, làng An Định. Ông thôn trưởng Văn văn Ba hứa suốt đời tận tuỵ trung thành với Ngô Tổng thống và ngài quận trưởng.

    Nhưng ấp chiến lược thực ra giống như một cái một cái rông nhốt bò. Cái hàng rào như kỳ đà xù lưng trông có vẻ hung dữ là thế, nhưng đứa trẻ nào chẳng leo qua được huống hồ là cọng sản. Dân quân tự vệ, kẻ có súng, người thì không. Mà súng thì cũ rích từ đời nảo đời nao, bắn được một phát lại phải dùng cây thông nòng. Tối đến, cả bọn đi rảo một vòng rồi về uống rượu hay nói chuyện gái. Thế thì Việt cộng có muốn vào cứ việc ngang nhiên mà vào, việc gì phải leo trèo cho khổ thân!

    Mặc dù vậy, tiếp theo An Định là các thôn các xã khác cùng hoàn thành. Rồi cả huyện cả tỉnh và cả nước cùng hoàn thành. Cố vấn Mỹ đi đến ấp nào cũng đều đưa lên một ngón tay cái. Tổng thống vốn thấp, chân ngắn, cực chẳng đã ngài mới đi kinh lý cùng với quan cố vấn vì cái sải chân của nó dài gấp đôi, khiến ngài bước theo muốn hụt hơi. Đã có tướng ngũ đoản lại có thêm nốt ruồi son trên mặt, nên mọi người đều tin rằng ngài có tướng quý nhân và trường thọ. Nhờ Chúa mà ngài đã có thể bình định xong cái nạn Cọng sản. Dĩ nhiên chẳng ai dám nói cho ngài biết rằng, ấp chiến lược vừa khánh thành hôm trước thì hôm sau ở cái làng An Định xa xôi này, ông tổng Bá đã bị giết.

    Đó là một buổi sáng. Như biết được cái thói quen dậy sớm tắm sông của ông, một người có lẽ cũng không xa lạ gì đứng trên bờ kêu tên cho ông ngẩng mặt lên. Ông có hơi bất ngờ vì nghe gọi và càng bất ngờ hơn khi thấy một họng súng đen ngòm chỉa thẳng vào mặt. Ông chưa kịp la lên thì một tiếng nổ đã rền vang trên mặt sông. Ông ngã xuống trong nước và trôi vật vờ cho đến khi một người đứng nhá (cất vó) kinh hoàng khi thấy xác ông tấp vào.

    Hai ngày sau, bà vợ ông thôn trưởng đã chết giấc khi thấy cái bản án tử hình Văn văn Ba gắn trước cửa.

    Cái bóng ma vô hình đã thực sự lởn vởn khắp mọi nhà. Nó đến lúc nào không ai biết, nó đi lúc nào cùng chẳng ai hay. Nhưng trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái, trên trời dưới đất đâu đâu cũng có nó. Từ đây, mọi người lại co rúm như làng đang có dịch!

    Trai tráng trong làng còn sót lại đứa nào cũng vội vàng đăng lính để nhận một ít tiền thưởng. Ra trận, sống chết chưa biết thế nào, nhưng còn hơn chui rúc trong ấp chiến lược cứ như trâu bò. Sáng nào cũng tập họp điểm danh vì sợ buổi tối cọng sản mò về bắt lên núi. Rồi suốt đêm đi canh đi tuần, lỡ vướng phải mìn, nhẹ thì mất một giò, nặng thì banh xác. Vả lại dẫu có đi xa con vợ nhà quê, nhưng được đi đó đi đây, mỗi lần xuống phố thấy bao nhiêu là gái mắt đen da trắng quần áo lượt là cũng đã con mắt. Những đứa đi trước về phép kể cho nghe đủ thứ chuyện, mà chuyện nào cũng mê ly nghe thèm rõ dãi. Trong làng chỉ còn lại những đứa quặt quẹo, những nông dân vừa kéo cày vừa kéo cả gánh nặng gia đình, những người già hai mắt trũng sâu vì mất ngủ và các chị vợ lính. Các chị nhớ chồng thì ít mà nhớ măngđa thì nhiều. Đến nhờ tôi viết thư, chẳng còn ai chê tôi hôi mùi chó nữa. Có nàng lại còn bảo tôi dẽ thương hơn cái anh chồng ưa nạt nộ của mình.

    Ông phó Ba tức ông thôn trưởng từ khi trông thấy cái bản án tử hình đã không còn thiết tha gì nữa đến cái chức trưởng thôn. Đã mấy lần ông xin từ chức, nhưng ngài quận trưởng bảo dẫu có từ chức thì cọng sản nó cũng không tha. Như ngài, đã lỡ cỡi lưng cọp thì đành chiến đấu tới cùng. Với lại ta có biết bao nhiêu súng đạn, làm thế nào mà thua cọng sản được. Nói rồi ngài cho ông một khẩu súng lục, bảo tối lên phố ngủ, lại có dịp xa con vợ già …hơ hơ, đấy, sướng thế, việc quái gì mà sợ!

    Chẳng riêng gì ông phó Ba mà những người có máu mặt trong làng, cứ trời chạng vạng là kéo nhau lên phố. Ấp chiến lược gần như trống không chẳng còn ai canh giữ. Thỉnh thoảng cọng sản từ bên kia sông đánh trống khua mõ kêu tên Văn văn Ba ra chửi. Bà vợ ông phó Ba và những người có chồng đi phố ngủ giờ lại lo sợ khốn khổ y như các bà vợ cán bộ và bộ đội đi tập kết trước đây.


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Khóc cười trên một xứ sở buồn vô hạn

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    12.

    Trên đời này, cái việc xem tướng là dễ nói cho người ta nghe nhất, mà cái sai cũng nhiều nhất. Ngài Tổng thống mới đó được khen là quý tướng đã bị quân đảo chánh bắn chết cùng với em trai trên một chiếc xe thiết giáp. Nền cọng hoà do ngài thiét lập coi như mất cái đầu. Những cuộc chỉnh lý vì thế diễn ra liên miên, hết Dương Văn Minh đến Nguyễn Khánh. Hết Nguyễn Khánh đến Nguyễn Cao Kỳ. Chẳng ai ngồi yên trên cái ghế tổng thống. Nhiều người bảo hai anh em ông Diệm chết oan mà lại chết nhằm ngày thiêng, nên hễ ai mon men leo lên, chưa kịp ngồi nóng đít đã bị lắc cho ngã nhào.

    Nhưng đó là ở Sài Gòn, còn ở làng An Định thì chẳng ai thèm tranh cái ghế trưởng thôn. Ông Văn văn Ba vẫn cứ nhấp nha nhấp nhỏm, tối lên phố ngủ và để cho bớt sợ đã chui vào mùng một bà hàng vải nào đó. Bà vợ mây lần định lên xé xác con quỷ cái đó ra. Nhưng ông phó Ba thề sống thề chết rằng chỉ chui vào đồn cảnh sát mà ngủ chứ chẳng chui vào nhà ai. Cái cục ghen của bà vì thế cứ to ra, ấm ức mãi không tiêu được. Mấy tháng sau, trước khi mất bà bảo con kêu ba mày lại. Cứ tưởng bà trăn trối điều gì, không ngờ bà đem hết sức tàn, tát cho ông mấy cái rồi mới chịu nhắm mắt.

    Các vị tướng lãnh cứ mãi lo đảo chánh và chống đảo chánh, gần như chẳng còn ai ngó ngàng gì đến những vùng nông thôn xa hút như làng An Định. Ngài quận trưởng tuy nói chiến đấu đến cùng nhưng cũng chỉ lẩn quẩn ở trên phố. Ông phó Ba thì chỉ giỏi trừ ma tróc quỷ. Nước lã và roi dâu chỉ phù phép được mấy mụ đàn bà mắc đàng dưới chứ làm sao đuổi được cọng sản. Vì thế họ không thèm co rút trong núi nữa. Một ngày nào đó họ làm lễ ly sơn, quyết rời bỏ núi rừng để lấn chiếm đồng bằng.

    Trước tiên họ cô lập những đồn bót lẻ tẻ, cắt đứt liên lạc rồi tiêu diệt. Sau đó họ gom dân lại, phá ấp chiến lược, đốt trụ sở. Họ khua mõ đánh trông suốt đêm làm cho dân ở những làng bên cạnh phải hốt hoảng gồng gánh đồ đoàng dắt díu nhau chạy đến những làng còn treo cờ ba sọc. Chẳng mấy chốc, con sông chảy qua làng đã trở thành ranh giới giữa cộng hòa và cộng sản.

    Đến lúc này quận mới diều xuông một đại đội địa phương quân và tiểu khu yểm trợ cho một khẩu đội pháo đóng ở gò Na. Cô cháu tôi phải rời bỏ cái chòi tranh cũ nát qua bên này sông nếu không muốn đạn bắn cho tan xác.

    Phía bên kia cộng sản cứ tối đến là đốt lửa đánh trống khua thùng thiết. Những ngọn đuốc lập loè trong đêm giống như ma trơi trong những tối trời mưa. Phía bên này thỉnh thoảng rót qua vài quả đại bác giữa đồng không mông quạnh. Cuộc chiến cứ nhì nhằng như thế, chẳng bên nào dám vượt qua sông.

    Ngài thiếu tá quận trưởng vì thế phải đổi đi chỗ khác. Quận trưởng mới là một đại uý trẻ. Ngay ngày đầu nhậm chức ông đã một mình lái xe jeep xuống thẳng trận tuyến. Không cần cận vệ, chỉ mặc có mỗi áo giáp, ông cầm súng đi băng băng qua bên kia sông. Ông xem xét địa hình một hồi rồi quýêt định kéo quân qua đóng giữa đồng. Ông cho đặt mìn cờlaymo khắp nơi. Ông bảo giữa đồng cát trắng xoá này cọng sản có giỏi thì cứ mò vào. Chỉ cần bấm một phát là chết như rạ, chưa nói tới đại liên sẽ quét ngã như sung rụng.

    Những ngày sau ông cho quân đi lùng sục các làng. Ông bảo cứ nằm yên thì trước sau gì cũng bị chúng làm thịt. Chi bằng ra tay trước. Nhưng suốt một ngày chỉ bắt được vài cụ già run rẩy mắt hấp him gần như bị mù. Ông đành bảo lính cho ăn rồi thả họ ra. Hôm sau, lính bắt được hai tên CS mặt non choẹt. Vừa định đem về quận thì bị một đám đàn bà con nít vây chặt. Đàn bà thì cố giựt súng, con nít thì cắn vào tay. Những tên lính ngơ ngác đành phᚣi bắn chỉ thiên. Nghe súng nổ họ dạt ra một chút rồi lại sấn tới. Đang lùng nhùng như chơi trò giật cờ thì liên tiếp mấy quả đại bác rơi sau lưng họ. Cả bọn hoảng hốt xô nhau chạy.

    Cái sự dũng cảm và cái máu ngang tàng của đại uý quận trưởng thế mà được việc. Cộng sản không còn dám rấn tới. Ranh giới giữa cộng sản và cộng hoà được đẩy dần xuống chân núi. Dân lại lũ lượt trở về. Những lá cờ ba sọc lại tung bay rực rỡ. Chính đại tá tỉnh trưởng xuống tận đồng cây Sanh để trao mề đai và gắn lon thiếu tá.

    Cuộc đời binh nghiệp của ông tưởng đang lên như diều gặp gió, không ngờ lại đứt dây giữa chừng! Một hôm, trên đường về quận, vẫn một mình một xe với cây tiểu liên gác trong lòng, ông đã phải trả giá cho lòng dũng cảm thiếu cẩn thận của mình. Lúc xe qua gò Na, từ trong những bụi duối một thời là hang ổ của Năm Quầng, Sáu Quẳng, một trái B.40 vọt ra làm nổ tung chiếc xe định mệnh. Ông chết đi, những thôn làng vừa được tái chiếm đã ngã rạp theo như lúa ngã ngoài đồng. Bao nhiêu ấp trưởng, ấp phó lần lượt bỏ trụ sở. Đêm đêm cộng sản lại nổi lửa đốt hết ấp chiến lược này đến ấp chiến lược khác. Dân chạy loạn tới đâu cọng sản tràn theo tới đó.

    Một đêm tháng ba nhưng còn buồn hơn cả đêm tháng mười. Lính đã rút đi không còn ai lảng vảng bên những cô gái chưa chồng. Ấp trưởng ấp phó và một vài anh dân quân tự vệ cũng theo chân họ hoăc là lên phố hoặc đến ngủ ở các làng gần quốc lộ. Những đứa bé đã được bà nội hay bà ngoại kéo vô nhà bắt phải đi ngủ sớm. Chỉ còn những chị vợ bộ đội chờ chồng trong mỏi mòn. Chó không sủa, gà không gáy. Giống như những đêm mà cán bộ bỏ làng đi tập kết. Trong cái yên lặng đến nguội lạnh ấy, ông Khứ và cô Thảnh đến thăm từng nhà. Họ chào hỏi ngọt ngào. Họ hỏi thăm trong bao nhiêu năm qua sống ra sao. Họ xin lỗi đã không giữ trọn lời hứa là trở về sau hai năm. Họ bảo vợ xa chồng, cha mẹ xa con, ông bà xa cháu là do đế quốc Mỹ. Nhiệm vụ của họ và của cả toàn dân lúc này rất nặng nề vì phải chiến đấu với kẻ thù hùng mạnh và nguy hiểm hơn. Nhưng họ bảo nhất định thắng. Nhất định phải đánh cho Mỹ cút đánh cho nguỵ nhào!

    Sáng hôm sau cái tin ông Khứ về làng đã làm cho mọi người thấy như sắp sống lại cái thời chín năm. Lại đào hầm, lại vót chông, lại đi dân công tải đạn, lại biểu tình hoan hô đả đảo và nhất định là phải có khả năng ! Thế là cả nhà ông phó Ba thuê hẳn một chiếc xe chở tất cả đồ đoàng lên phố. Bà hàng vải sau khi bà phó Ba mất đã có thể đường hoàng giúp đỡ con cháu ông một cách nhiệt tình. Bà cho hẳn một cái nhà kho để các cháu ăn ngủ được thoải mái. Còn ông thì bà rất muốn cái miệng tiếu lâm ở bên cạnh để giúp bà đỡ buồn. Các ông hương kiểm, hương mục, chánh tuần, phó tuần cũng dọn sạch đồ lên phố chỉ chừa lại cái nhà không. Các ông vẫn chưa đi hẳn vì hãy còn đồng ruộng trâu bò. Nhà ông tổng Bá thì chính ông đã phải trả nợ máu bằng chính máu của mình rồi. Bà tổng sau cái chết oan nghiệt của chồng, giờ già sọm lú lẫn. Thằng Mậu, thằng Tài đã đi lính biệt kích. Chỉ còn cậu Khánh dở điên dở khùng, lúc nào cũng mang trên lưng mấy cái xương đầu chó mà tụi dân quân gặm xong quẳng đi. Thỉnh thoảng cậu lại bày ra giữa cầu, thắp nhang khấn vái rồi đọc văn tế do chính cậu làm.

    Gần một nửa làng bỏ đi. Rất nhiều nhà bỏ không, ai muốn vào ở cũng được, nhưng cô Sáu vẫn cứ về lại cái chòi của mình. Cô bảo ở đó quen rồi, có sông nước bên cạnh làm việc gì cũng dễ. Bây giờ cô lại đi mót lúa, chẳng đầu cơ tích trử thứ gì nên cũng chẳng phải lo ông Khứ tịch thu. Khi thằng thủ ngữ Đực chết thì chỉ còn mỗi một mình tôi là nghèo trơ khất và vẫn bị gọi bằng thằng. Cái tên thằng Chó Đẻ chắc vẫn còn theo tôi cho đến tận già.

    Khi ông Khứ và cô Thảnh về thăm làng thì cũng có nghĩa là các làng khác cán bộ đi tập kết đã trở về. Lực lượng cọng sản mạnh lên trông thấy. Họ thành lập MTGPMN, cờ của họ bây giờ là nửa xanh nửa đỏ. Họ lại đánh trống, khua chiêng, gõ thùng thiết. Các ấp chiến lược liên tục bị đốt cháy. Dân chạy loạn kéo nhau đi kìn kìn. Họ dồn đuổi quân cọng hoà chỉ còn giữ được các thị trấn và tình lỵ.

    Một đêm sau khi ông Khứ và cô Thảnh về chừng mười ngày thì toàn bộ hàng rào chiến lược của làng An Định bị đốt cháy. Thực ra, cũng như các cây cọc phòng không, chỉ loè chơi trước các máy chụp hình và máy quay phim chứ giết được ai, giữ được cái gì. Đó là chưa kể sau khi ông Diệm bị giết, ấp chiến lược đổi thành ấp tân sinh thì cũng chẳng còn vị tướng nào thèm ngó đến nữa. Nắng mưa, cả trâu bò và con người làm cho nó xiêu vẹo nghiêng ngã, nhiều đoạn người ta lấy trộm gần hết. Nên cọng sản đốt là để biểu dương lực lượng chứ đâu phải đốt mới vào được. Chỉ tiếc bao nhiêu tiền của công sức mồ hôi chỉ để làm giàu cho thằng Hậu và cọng sản đốt coi chơi. Cây khô gặp lửa cháy còn nhanh hơn cả nhà ông tổng Bá bị Tây đốt. Lửa rùng rùng, hung dữ và tàn nhẫn như khi lửa tràn qua cánh đồng đang mùa lúa chín. Lửa khói trùm cả làng khiến nhiều người hốt hoảng chạy ra sông như những con chuột khi cháy nhà.

    Đã đến lúc người ta đành bỏ rơi cái làng này. Từ trên cao máy bay phát lệnh di tản. Mọi người phải rời bỏ nhà cửa ruộng vườn trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Sau đó sẽ oanh kích tự do. Ai không đi coi như theo Việt cộng! Mọi người nhốn nháo thu dọn đồ đạc. Tiếng heo gà kêu, tiếng trẻ con khóc. Tiếng gọi cha gọi mẹ xao xác. Không làm sao nói hết được cảnh hỗn loạn của dân làng. Mà tội nghiệp thay, những người còn lại đều là những người nghèo. Tài sản của họ chỉ có cái xoong méo và mấy cái quần áo rách. Họ buồn bã rời làng, lếch thếch đi về phía cái quầng sáng của ánh đèn phố quận.

    Trong cảnh nhốn nháo ấy cô Sáu tôi vẫn ra sông đãi mớ lúa vừa mót được. Cô bảo, ai chạy đâu thì chạy, tao cứ ở đây. Cộng sản cũng là người chứ có phải ma quỷ gì đâu mà sợ. Khi thấy tôi có ý muốn đi, cô bảo, ừ mày cũng nên chạy đi. Không chừng lên trên đó biết đâu mày lại tìm được mẹ. Nhưng tôi lòng dạ nào mà để cô ở lại một mình. Vả lại lên đó biết lấy gì mà sống. Trong khi ở đây lúa chín tràn bờ chưa ai gặt, cá lội đầy sông, rau cỏ đầy vườn. Cứ nghĩ tới đó thì dù ngày mai hay ngày mốt có oanh kích tự do cũng đâu có gì đáng sợ. Con sông đó, đồng ruộng kia, chỗ nào trốn núp mà không được.

    Thế là cả làng chỉ có cô cháu tôi và cậu Khánh điên là ở lại. Khi thấy tôi, cậu nói : Ta là Tổng thống, mi là Thủ tướng. Này nữ công dân kia nghe ta ra lệnh: Hãy nấu cơm cho ta ăn! Dù không có lệnh, cô Sáu tôi vãn vui vẻ nhóm lửa nấu cơm. Tôi xuống sông bắt cá còn cậu thì ngồi trên cầu nói lảm nhảm như đang đọc thơ. Một lúc sau, cơm vừa chín tới, cá rô nướng thơm lừng, cô Sáu bày mâm bát ra giữa cầu lúc này không còn ai qua lại cho Tổng thống và Thủ tướng cùng ăn. Cô tôi ngồi hầu bên cạnh. Không phải cô tôi đùa, cũng không phải nghĩ mình quá nghèo nên không dám ngồi cùng mâm với cậu là con nhà giàu. Cô tôi hầu thực sự vì đối với cô, cậu Khánh, thầy Hiên, cụ cử Vân là những người cô quý trọng dù điên hay tỉnh. Những người có chữ trước hết là những người đạo đức, những người được sinh ra để dạy điều hay lẽ phải cho người khác. Và chuyện đỡ bát xới cơm, rẽ cái xương con cá cho cậu ăn đâu phải lúc nào cũng làm được. Cô tôi sẽ rất vui nếu ngày nào cũng được nấu cơm cho cậu ăn.

    Nhưng đó là bữa cơm duy nhất mà người khách kỳ lạ cùng ăn với tôi trong đời. Ăn xong, cậu lịch sự cảm ơn nữ công dân, dặn thủ tướng phải chăm sóc cho bà rồi vác mấy cái xương đầu chó đi về phía cuối làng. Cô Sáu nói, cậu ấy giả bộ điên đó. Người khôn như thế mà điên à? Ngẫm nghĩ một lúc cô lại nói, mà cũng mong cho cậu điên thật. Cha mẹ bị hành hạ như thế không điên sao được! Sau đó ít lâu nghe nói cậu chết trôi, đúng cái bến sông cha cậu bị bắn.

    Đêm hôm đó là một đêm rất dài. Dù không nói ra nhưng tôi và cô Sáu đều hồi hộp. Không biết hết hai mươi bốn giờ thì cuộc sống sẽ ra sao. Cảnh vật yên lặng đến rợn người. Những con chó con gà bị bỏ sót lại cũng im thin thít. Ai cũng bảo năm 2000 là tận thế. Chẳng biết đêm ấy có giống như đêm nay? Tôi có cảm tưởng mọi người đều chết hết, cả quốc gia và cọng sản, chỉ còn lại hai cô cháu tôi sót lại ở cái bến sông này. Đáng lẽ phải mừng vì được sống sót, tôi lại thấy kinh hoàng vì được sống. Dường như khi còn lại một mình, tôi phải gánh chịu cả bao nhiêu khổ đau bất hạnh của những người đã chết.

    Hôm sau đúng 12 giờ là đủ hai mươi bốn tiếng. Cô tôi chẳng buồn nấu cơm và tôi cũng không thấy đói. Trời trong xanh không một chiếc máy bay. Cũng không có tiếng đại bác xé gió mà đi nghe chíu chíu. Chẳng có vẻ gì là một cuộc oanh tạc hay pháo kích sắp xảy ra. Trọn cả một buổi chiếu chúng tôi sống bình yên như những cây cau cây chuối, như đồng lúa chín đang gục đầu chờ người gặt. Bỗng dưng tất cả trở nên thanh bình êm ả. Không cộng sản, không quốc gia, chỉ có đất trời, cây cỏ, đồng lúa và những con người tầm thường như chúng tôi. Cuộc đời như thế dản dị quá, đáng sống quá!

    Những ngày hôm sau vẫn bình yên. Chỉ có lúa mỏi mòn chờ người gặt. Cô tôi cứ đi mãi giữa ruộng đồng. Mùi thơm của lúa như rủ rê mời mọc cô. Những gié lúa níu lấy chân cô. Lúa đòi được đem về nhà. Nhưng một mình cô làm sao gặt hết bao nhiêu ruộng. Với một người cả đời đi nhặt từng hạt thóc như cô, thì cái cảnh cả một đồng lúa chín rục không người gặt làm cho cô hết sức đau lòng.

    Một buổi sáng, sau khi tìm được một cây liềm tốt cô tôi liền đi gặt một mình. Cô bảo được bao nhiêu cũng được, chẳng lẽ bỏ cả cho lên mạ. Với lại cô cũng muốn kiếm rạ đánh một ít tranh để lợp lại cái chòi đã quá dột. Tôi lóng ngóng vì chưa được gặt bao giờ. Cô bảo đợi cô gặt xong sẽ vác giúp cô đem về chòi. Trong khi chờ đợi, tôi đi bắt cá ở một con mương cạn nước gần đó. Cá không ai bắt nên rât nhiều. Tôi bắt mê mãi. Cô gặt cũng mê mãi. Có lẽ trong bao nhiêu năm chưa bao giờ chúng tôi thấy hạnh phúc như lúc này.

    Đúng lúc ấy một chiếc máy bay trực thăng bay tới, cái cánh quạt to lớn của nó quay tít ở trên trời. Tiếng kêu to và chậm của nó chỉ làm cho người ta khó chịu chứ không làm người ta sợ. Tôi ngửa mặt lên nhìn định đưa tay ra vẫy, nhưng một đường sáng vừa đỏ như lửa mà cũng vừa trắng như bạc phóng thẳng xuống cánh đồng. Trong tiếng nổ phành phạch, tôi chỉ nghe một tiếng rẹt rẹt như muối nổ trong nồi rang. Không hiểu là cái gì nhưng tôi cũng vội vàng ngã nhào xuông bùn. Thế rồi nó bay đi, tiếng phành phạch nhỏ dần.

    Tôi lên tiếng gọi cô để khoe mớ cá vừa bắt được. Nhưng tôi chẳng nghe tiêng cô ừ hử và cũng chẳng thấy bóng dáng cô đâu. Chẳng lẽ máy bay trực thăng như chim đại bàng đã tha cô đi mất. Tôi tìm đến chỗ cô gặt. Cô nằm co quắp trên ruộng lúa như đang ngủ. Tôi lay cô dậy. Một giòng máu ứa ra từ trên ngực. Thôi thế là hết rồi, cô tôi đã chết!

    Tôi nhớ lúc đó tôi không khóc. Tôi chỉ ngồi ôm cô trong lòng. Tôi vuốt mái tóc đã chớm bạc của cô, vuốt đôi mắt mờ đục có một con mắt chột. Tôi cũng vuốt lại quần áo cô. Lúc này tôi mới thấy những miếng vá, những chỗ sắp bục ra. Dường như suốt bao nhiêu năm tôi chưa thấy cô mặc quần áo mới bao giờ. Một lúc sau nước mắt tôi mới lặng lẽ rơi trên áo cô. Tôi khóc không thành tiếng. Rồi khóc nức nở và sau cùng tôi gào lên giữa cánh đồng: Mẹ ơi !

    Tôi gọi Mẹ ơi là phải thôi vì còn ai trên đời này thương tôi như cô. Tôi gọi Mẹ ơi vì đó là tiếng kêu đã nén trong lồng ngực tôi suốt bao nhiêu năm. Tôi cõng xác cô về lều. Suốt ngày và suốt đêm hôm đó tôi ngồi bên cạnh cô. Bắt chước người trong xóm khi có người chết, tôi cũng nấu cơm, luộc trứng (may mà có một cái trứng) rồi vắt để trên đầu cô.

    Sáng hôm sau tôi chọn một mô đất cao ở bên cầu để đào huyệt. Tôi đào mãi đên chiều mới xong. Không có hòm, tôi phải dùng rơm và lá cây để lót cho cô nằm. Thật khổ tâm khi phải xúc đất đổ thẳng trên mình cô. Đất rơi lộp bộp làm cho tim tôi đau nhói. Trước đó, tôi đã muốn cạy đại môt vài cánh cửa trong những căn nhà bỏ hoang, để che chắn cho cô. Nhưng nghĩ tới tính cô không tham của ai, tôi không dám. Không chừng cô đội mồ lên để mắng cho tôi một trận.

    Tôi ở lại đốt lửa đủ ba hôm rồi lạy cô ba lạy rời khỏi làng. Đến bây giờ tôi mới hiểu được thế nào là vành đai trắng. Dọc đường đi, các thôn làng nằm thiêm thiếp không một bóng người. Một vài con chó đói, vài con gà hốt hoảng chui vào bụi khi trông thấy tôi. Đây là nơi đất chết, muốn trút bao nhiêu bom bao nhiêu đạn cũng được. Cứ thấy có cái gì động đậy là bắn. Cô Sáu tôi đã là nạn nhân đầu tiên của vùng đất khốn khổ này!

    Đến cái trạm gác đầu tiên ở gần đường quốc lộ, tôi nghe lính ra lệnh dừng lại, đưa tay lên. Tôi răm rắp làm theo. Bọn họ trói thúc tôi rồi giải lên quận. Nếu không có ông ấp trưởng Ba lúc đó đang chờ nhận gạo phát cho dân đứng ra bảo lãnh thì tôi đã bị nhốt vào trại giam. Sẵn đó ông bảo tôi làm giùm sổ sách. Ít lâu sau ông muốn đưa tôi lên làm ấp phó, nhưng tôi chẳng dại gì mà nhận cái bản án tử hình đang chờ sẵn.

    Dân di tản của làng An Định và các làng khác tấp vào hai bên đường quốc lộ như rác rưởi dạt vào bờ trong mùa nước lụt. Họ xúm xít chen chúc nhau trong những mái lều làm bằng thùng đồ hộp, mỏi mệt, lờ khờ như những con dế bị trẻ con ngắt mất râu. Các ông hương, ông lý, chánh phó tuần gặp nhau chỉ còn biết giương cặp mắt mất ngủ ra mà nhìn. Chẳng ai buồn chào hỏi như những khi gặp nhau ở đình làng. Cái thời các ông khăn áo chỉnh tề ngồi vuốt râu ở chiếu trên đã xa hun hút. Trông cái cảnh các ông chìa cái bị ra đựng gạo mới tội nghiệp làm sao. Cứ như những người ăn xin! Quận phát cho mỗi nhà mười tấm tôn, nhưng cây gỗ không có nên cũng chẳng biết đến khi nào mới dựng nổi một cái nhà. Các chị vợ lính vì chưa có địa chỉ nên chẳng nhận được thư chồng. Với đứa con quặt quẹo trên tay, các chị đã chẳng làm được gì. Có bao nhiêu tiền đều đổ hết vào tiền thuốc.

    Trong khi đó dân ở phố nhiều người giàu lên bất ngờ. Gạo mắm, chén bát, thau chậu, những vật dụng tối thiểu của cả ngàn người. Muốn bán giá nào chẳng được. Những đồng bạc hiếm hoi của dân di tản rơi dần vào túi họ. Biết kêu ai, trách ai!

    Tôi không mẹ không cha, không vợ không con, lúc này lại đỡ khổ. Những đứa khác nếu không cõng mẹ cõng cha đi nhà thương thì cũng nhếch nhác với vợ đau con ốm. Trông đứa nào cũng già khú, ốm tong ốm teo. Nhiều đứa trốn quanh trốn quất ở làng, giờ dạt lên phố, chịu không nổi cái cảnh đêm đêm bị ruồng bắt cũng đành đi lính xây dựng nông thôn hay nghĩa quân. Chưa khi nào, từ lúc lập làng cho đến giờ, dân An Định lại phiêu dạt tứ tán như lúc này.

    Hoà bình! Thống nhất! Ai chẳng muốn. Nhưng cái cuộc chiến dai nhách như kẹo cao su này thì biết đến bao giờ!

              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Khóc cười trên một xứ sở buồn vô hạn

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    13.

    Đâu phải chiến tranh chỉ đem đến đói nghèo chết chóc. Chiến tranh còn đem đến cơ hội làm giàu cho một số người. Cơ hội thì đầy ra đấy nhưng đã dễ mấy ai biết nắm lấy. Chỉ có một ít người mà ngay cả cha sinh mẹ đẻ cũng không ngờ. Thằng Hậu chó, đúng là một thằng giỏi nắm bắt thời cơ như thế.

    Ngay từ lúc mà mọi người chỉ mong được ăn cơm trắng không độn, được mặc một cái áo không hở trước hở sau là đã thấy sướng lắm rồi, thì nó đã biết phải làm gì để được ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn. Cái việc buôn chó của nó chắc gì những người học giỏi tài cao mà nằm nghĩ ra được. Chỉ cần thấy ông hương kiểm sẵn sàng bỏ ra 300 ký lúa và một cặp gà để đổi lấy hai con chó nhỏ là nó dã hiểu ra rằng, cái việc làm giàu đâu có khó. Ai cũng biết chỉ có đi buôn mới giàu nhưng buôn chó mà làm giàu thì chỉ có nó mới nghĩ ra. Rồi khi mọi người muốn phát điên lên vì phải kiếm cây rào ấp chiến lược, thì nó đã chẳng ngại gì mà không đi phá rừng để đem cây về bán. Cái vố đó nó thu vào bằng mấy đời ky cóp của nhà ông tổng Bá. Thay vì tậu ruộng, xây nhà, vênh vang lên mặt với người trong làng bằng cách vung tiền ra mua chức nọ chức kia, nó lại đem tiền mua một lúc mấy căn phố ở Quy Nhơn. Thế rồi, trong khi ông tổng Bá bị bắn, ông hương kiểm và nhiều người giàu có khác cơ nghiệp tan tành chỉ ngồi mà khóc than, thì nó sắm ô tô, học nói tiếng Anh bập bõm để đi thầu rác Mỹ. Gọi là rác nhưng trong đó bao nhiêu là cam táo, là sắt thép chì đồng. Khi Mỹ đổ bộ lên Quy Nhơn quá nhiều và mấy lần Việt cộng chặn xe bắt nộp tiền chuộc mạng thì nó đếch có dại gì chạy xe vào chỗ chết. Nó bắt nhân tình nhân ngãi với một con điếm già ở Sài Gòn đứng ra mở bar bán rượu cho lính Mỹ. Giờ nó chỉ có mỗi một việc là ngồi uống uýtki pha coca thu tiền.

    Làng An Định bị đốt, nó chỉ mất có mỗi cái nhà trước kia là trại nuôi chó. Chẳng việc gì nó phải tiếc thương như các ông già lẩm cẩm. Tuy vậy, nó cũng không phải là đứa quên gốc gác bản làng. Khi biết tin dân làng phải bỏ cả nhà cửa ruộng vườn trôi dạt lên phố quận, nó đã mua đến mấy xe gạo, cả chăn chiếu mùng màn lên phát cho dân. Nó chơi ngon còn hơn cả chính quyền. Gặp tôi nó rất mừng, tháo ngay chiếc đồng hồ đang đeo trên tay cho tôi. Nó bảo: được lắm, mày cứ tạm giúp việc cho bác trưởng ấp rồi tao sẽ có việc cho mày. Mà việc ngon ăn lắm nghe. Nó nháy mắt rồi đi không quên để lại bao thuốc Salem cho tôi.

    Thế đấy, ai chửi Mỹ thì mặc ai, với nó có Mỹ là có tiền. Nó hơn tôi có vài tuổi nhưng lọc lõi khôn ngoan còn hơn cả bố tôi. Chẳng học hành gì nhiều mà sau mười năm, nó đã xa cách tôi một trời một vực. Nhiều người bảo nó gặp thời và chỉ giỏi bợ đít Mỹ. Nhưng một hôm chính nó đem lên một thằng bác sĩ Mỹ để khám bệnh cho cả làng. Nó còn bảo thằng Mỹ đưa các ông cụ đang khổ sở vì bệnh thấp khớp hay bệnh tim bệnh gan gì đó vào tận nhà thương Mỹ để điều trị. Một tuần sau nó đưa các ông cụ về. Cụ nào cũng đi đứng vững chải cứ như chưa hề biết đến bệnh tật là gì.

    Khi việc phát tôn gạo xong, nó nói với ông ấp trưởng đem tôi xuống Quy Nhơn. Nó cho ông ấy một cây thuốc, một chai uýtki và không quên nói nhỏ vào tai ông khi nào khoẻ nó sẽ đưa ông xuống bar nó uống rượu. Lần đầu tiên được ngồi trên xe Huê kỳ chạy vù vù tôi thấy mình bỗng dưng khác lạ. Cứ như được thay hình đổi dạng trong chớp mắt. Những căn lều xập xệ của dân di tản cứ lùi xa rồi mất hút. Những tháng năm khổ cực của tôi cũng đang trôi theo. Tôi nhẹ người khi thoát khỏi cái cảnh ngày nào cũng thấy bao nhiêu người sống trong sợ hãi tuyệt vọng. Tôi hỏi nó: Mày đem tao xuống để làm việc gì? Nó cười: Còn làm việc gì nữa! Tao nói thật mày đừng giận nghe. Không biết có phải vì mày bú sữa chó hay sao mà tao thấy mày rất thật thà. Phải nói là rất trung thành. Mày sẽ giúp tao giữ tiệm, chỉ có vậy thôi! Nghe nó nói tôi cảm thấy thật là buồn. Nhưng cái thân phận của tôi đã buộc chặt vào với loài chó thì còn biết nói gì hơn!

    Cái bar của nó nằm giữa một con phố chính. Mặt trước trang trí như một cái cửa động. Nghĩa là không vuông vức mà nhiều góc cạnh lồi lõm. Bên trong, trần nhà biến thành vòm động với những miếng cạt tông làm cho méo mó đi để giả đá. Dấu kín trong các hốc là những ngọn đèn mờ xanh đỏ. Nó bảo tụi Mỹ thích cái vẻ âm u như vậy. Theo lời nó thì cái bar Lucky là đẹp nhất thành phố. Phải mời kỹ sư và hoạ sĩ ở tận Sài Gòn ra làm cả tháng mới xong.

    Khi tôi bước vào thì bar chưa có khách. Một vài cô ả mắt xanh môi đỏ như các hình nhân của ông phó Ba đang ngồi dũa móng chân. Mụ nhân ngãi của nó già đến nỗi tưởng chừng hai người là mẹ con. Sau này tôi biết được mụ đã từng là chủ chứa ở Bà Hom bà Quẹo gì đó. Mụ đã khoe với đàn em rằng, có lần thiếu gái, chính mụ đã tiếp cả một trung đội lính lê dương. Trước mặt mọi người mụ vẫn má má, con con với thằng Hậu, nhưng khi trong bar chỉ có hai người thì mụ vít cổ nó xuống hôn lấy hôn để. Thằng tình nhân bất đắt dĩ phải cố hết sức bình sinh mới thoát khỏi hai cánh tay núc ních của mụ. Khi tôi hỏi kiếm đâu ra con mụ quỷ quái như thế thì nó bảo, làm cái nghề này mà không có mấy con mụ đó thì mấy ả ranh kia ai trị cho nổi.

    Lúc đầu mụ nhân ngãi và mấy ả cave chẳng ai thèm ngó ngàng gì đến tôi. Khi thì thêm nước đá, khi thêm rượu, khi thêm một cái Sài Gòn tea, tôi lẩn quẩn trong bar như một anh bồi già. Chỉ đến khi thằng Hậu bảo tôi là em họ chưa vợ thì mụ điếm già kia mới chu miệng liếc xéo tôi và các ả thì kêu anh Ba, anh Ba dễ thương quá hén.

    Suốt ngày mụ con con má má ngọt xớt với mấy ả. Mụ khen ả này sửa cái mũi quá đẹp, ả kia bơm ngực coi đã con mắt quá. Mụ chê ả nọ quá kẹo không chịu mua váy mới. Mụ ôm hôn các ả bảo ráng đi con, bữa nay đầu tháng ráng moi cho được nhiều đô. Nhưng các con chớ dại đổi hết tiền của má. Má mà biết được thì các con sống không nổi với má đâu. Còn các ả thì bá vai choàng cổ rồi sà vào lòng mấy thằng Mỹ mặt non choẹt hay già khú kêu ‘ai lấp diu “. Có đến hơn hai chục ả làm cái nghề chẳng tốn một giọt mồ hôi nào. Ả nào cũng đẹp, cũng xếch xy. Tụi Mỹ cao to ôm các ả vào lòng như ta ôm một con chó Nhựt hay một con mèo.

    Tụi Mỹ, nếu dưới cái nhìn của các ông già ở làng An Định thì trên đời này không có ai ngu bằng. Ai đời một ly trà nguội ngắt mà phải trả đến 70 đồng, tức là cả chục giạ lúa. Mà đâu phải một hai ly gì cho cam. Những ngày đầu tháng có đứa trả đến mấy trăm ly. Thực ra ly trà vàng vàng giống màu rượu uýt ky pha coca, gọi là Sài Gòn tea, thằng Mỹ biết là láo quá đi chứ nhưng nó vẫn vui vẻ trả tiền vì nếu không thì chẳng có ả nào chịu ngồi với nó. Và muốn được ngồi lâu, được kề môi áp má thì phải chi từ vài chục đến cả trăm tích kê. Đôi khi gặp ả có bùa ngải là có bao nhiêu đô trong túi đều móc ra hết. Ly trà nhạt thếch lúc ấy lên đến cả ngàn đô. Bảo sao các ả không chịu làm nghề gì khác ngoài nghề bán bar và chủ ăn chia đến những bốn phần bảo sao thằng Hậu không giàu!

    Nhưng bar không phải là nhà thổ và tụi Mỹ đến đây cũng không như đến nhà thổ. Chúng đến bar để được nói dù các ả không hiểu hay hiểu rất ít, để được khóc vì nhớ mẹ, nhớ cha, để được vuốt ve đôi chút vì nhớ vợ con hay nhớ người yêu. Mặc dù trong bar nhạc lúc nào cũng xập xình và ca sĩ thường kêu dé dé như bị ai bóp cổ, nhưng rất ít khi tụi Mỹ hò hét nhảy nhót. Nếu có đứa nào say sưa đập phá là tụi MP tóm về trại ngay. Bọn chúng sợ MP còn hơn dân mình sợ cảnh sát.

    Sau những ngày lội sình, những cuộc hành quân, hay những trận càn bị phục kích đứa nào sống sót trở về mà không rúc vào bar. Những lúc ấy trông chúng thật tội nghiệp. Chúng để mặc cho các ả xoa đầu xoa cổ, bẹo tai bẹo mũi. Chúng gục đầu vào lòng các ả khóc rấm rứt như một đứa trẻ lên năm. Đối với chúng giờ đây, một nơi cách xa đến nửa vòng trái đất, các ả là quê nhà, là mẹ, là vợ, là người yêu! Và lúc đó mụ nhân ngãi già của thằng Hậu cũng bước ra khỏi quầy kẹp một gã sồn sồn nào đó mà dỗ dành. Cái tài nựng nịu của mụ thì khỏi phải chê. Mụ kéo cái đầu hói của gã áp sát vào hai cái bầu ngực khổng lồ của mụ, xoè hai cánh tay to bệu ra ôm gã như muốn nâng lên, rồi mụ đưa năm móng tay chuốt nhọn ra cào trên lưng trên cổ, thỉnh thoảng ngửa mặt gã ra hun đánh chụt một cái. Như thế, thằng Mỹ to như con bò mộng làm gì mà chẳng mê tơi. Nó cứ tưởng là đang ở trong vòng tay của vợ mình. Cũng không hẳn chỉ có những gã già nua cục mịch là mê mẩn mụ. Khi các ả đã có đủ cặp thì một thằng mặt búng ra sữa không tìm được ai cũng sẵn sàng để mụ ôm vào lòng và tưởng mụ là người tình bé bỏng ở quê nhà.

    Các ả cùng làm một nghề mà cả nước ai cũng chê, cùng ăn uống ngủ nghê với nhau, lẽ ra phải thương nhau như chị em, nhưng thực ra là châm chọc và tranh giành nhau một cách ngấm ngầm. Đương nhiên làm nghề này là phải đẹp. Nhưng đẹp vẫn chưa đủ. Phải biết cách moi tiền, phải làm cho thằng Mỹ trút hết cả ví mà vẫn vui vẻ. Cái bí quyết ấy các ả đều biết là nhờ ngải. Có ngải dù xấu cũng thành đẹp. Ngải làm cho thằng Mỹ đút tiền vào ngực của ả mà như gửi tiền vào nhà băng để lấy lãi. Ngải tinh tường ở chỗ là biết rõ đứa nào có nhiều tiền. Một bọn ba bốn đứa cùng vào bar, cả đám cùng ùa đến níu kéo, nếu ả nào có ngải linh thì chọn được một thằng nhiều tiền nhất, sẵn sàng xé cả chục cái tích kê một lần. Còn ả nào không có hay ngải hết linh thì dù có đẹp như hoa hậu, xếch xy như nữ tài tử xi nê cũng chẳng có đứa nào chịu xé cho cái tích kê nào, có khi nó uống quịt phải bỏ tiền túi ra đền, nếu không con mụ chửi như tát nước vào mặt

    Xem ra các ả cũng chẳng sung sướng gì mấy. Ngoài tiền chuộc ngải, tiền kiếm bùa Miên, các ả còn phải nuôi cha mẹ, anh em chạy loạn, phải nuôi chồng hờ là bọn macô. Ít lâu sau hết thời đành kiếm một thằng Mỹ già nào đó làm chồng. Khi về nước nó lại sang tay cho đứa khác.

    Các chủ bar thì chỉ muốn cái con bò sữa là lính Mỹ ấy là của riêng mình. Bọn họ chơi nhau đủ kiểu. Mà cái đòn phép tàn độc nhất là yểm bùa. Một buổi sáng, thằng Hậu và con mụ cho bồi lục tung hết cả bàn ghế, cứ tưởng là tìm cờ xí truyền đơn của Việt cọng. Hai đứa xem xét từng cây đinh đóng vào ghế, từng mảnh giấy nhỏ, từng cái bóng đèn con. Một hồi chúng tìm được một mảnh giấy vẽ ngoằn ngoèo những hình vẽ trông như những con trùn đỏ, những mũi tên dấu dưới bàn thờ ông địa. Đúng là bị yểm bùa rồi! Hèn nào đang nườm nượp khách bỗng trở nên vắng hẳn, trong khi các bar bên cạnh Mỹ đen Mỹ trắng cứ kìn kìn chui vào. Mụ nắm chặt mảnh giấy nghiến răng thề sẽ trù yếm lại cho tàn mạt, cho lụn bại phải cuốn xéo đi.

    Mụ đe nẹt các ả, đòi kêu lính bắt hết bọn bồi. Mụ rít lên: con nào, thằng nào đem bùa bỏ vào nhà tao, nói mau? đồ bạc ác, ăn cây nào rào cây nấy chớ. Sao tiền Mẽo tiền đô biết kiếm ở đây mà nghe lời của bọn rắn độc yểm bùa để cùng chết đói nhăn răng ra à? Những cuộc chiến khi dữ dội, khi ngấm ngầm làm cho các bar thù nhau như quốc gia thù cộng sản!

    Bên cạnh bar Lucky có một căn phố dành riêng cho các ả. Tại đây, các ả ngủ nghê tắm táp… các ả làm đủ trò nhưng không được dắt Mỹ về. Ả nào muốn đi đêm thì cứ việc tới khách sạn. Thường thì cửa đóng suốt. Các ả ngủ đến tận trưa, khi bọn đầu bếp đem cơm đến mới chịu mở cửa. Gần như suốt cả buổi chiều các ả đến tiệm làm tóc để thợ chải cho tóc dựng lên, phun keo cho bết lại, rồi mang cả cái đầu cao vồng như nồi cơm điện đi tới bar.

    Có lần thằng Hậu bảo tôi qua đó lôi mấy ả dậy để khai báo gì đó với cảnh sát. Một cảnh tượng chẳng đẹp chút nào so với vẻ kênh kiệu như một bà hoàng khi các ả đến bar. Quần áo chăn màn, đồ lót vứt tứ tung. Các ả gần như trần truồng nằm ngủ mê mệt. Trắng lôm lốp cứ như mấy con heo cạo lông chờ mổ bụng. Các ả không thèm mắc cỡ khi thấy tôi, cứ nằm ườn ra đó nói dấm dẳn: Về đi, muốn khai gì qua đây khai. Có tí tẹo chứ nhiều nhỡi gì mà bắt khai hoài. Cả bọn cùng cười hăng hắc.

    Nhưng một lúc sau các ả ăn mặc tươm tất, ké né đi qua như những gái nhà lành. Một điều dạ hai điều thưa cứ như nói với bố chồng. Ai cững biết rõ là các ả sợ cái mũ Việt cộng chụp lên đầu! Việt cộng thì không chịu làm cái nghề này nhưng rất biết lợi dụng các ả. Khi thì một lá cờ xanh đỏ, khi thì trái lựu đạn, nếu không bị nổ tung thì bar cũng bị đóng cửa, chủ bị bắt, thế là cơ nghiệp tan tành. Cho nên tuy tiền vào như nước nhưng thằng Hậu lúc nào như cũng đang ngồi trên thùng thuốc nổ. Phải nhờ đến an ninh quân đội, cảnh sát chìm mới đủ sức thanh lọc được Việt cộng trà trộn.

    Người làng An Định nghe thằng Hậu làm chủ bar cứ tưởng nó ngủ ả này đến hết ả khác, không thua gì hoàng đế Bảo Đại. Nhưng nó bảo chuyện làm ăn mà bậy bạ như thế thì có nước dẹp tiệm. Ngoài mụ điếm già đôi lúc nhớ lại thời oanh liệt chọc phá nó chút đỉnh cho đỡ buồn, bọn cave chẳng đứa nào dám giỡn mặt. Cũng chẳng có đứa nào dám âm mưu giựt nó làm chồng. Có mà đi đời nhà ma với con mụ ấy. Nhưng với tôi thì nhiều ả sấn tới. Các ả thích cái vẻ nhà quê khờ khạo, thà cặp bồ với tôi còn hơn mấy gã ma cô lúc nào cũng vòi tiền, không có nó đánh cho sưng mặt.

    Thế rồi thằng Hậu nói sao đó mà cả tiệm coi tôi như của lạ. Mụ điếm già cứ liếc xéo về phía tôi cười tủm tỉm. Các ả cũng ý tứ nheo mắt hùa theo. Làm như cái mũi của tôi bỗng dưng dài ra!

    Mụ nhân ngãi của thằng Hậu một hôm đến sớm. Lúc ấy khoảng 8 giờ. Tôi vừa ăn sáng xong chưa kịp dọn dẹp. Mụ đi lên đi xuống như đang tìm bùa yểm. Buổi sáng chưa mở máy lạnh nên không khí trong bar rất nóng. Mụ đi vào nhà tắm mở nước nghe rào rào. Tôi đang loay hoay với mấy cái chén dĩa thì nghe mụ gọi: “Được ơi! Tìm cho má cái khăn!” tôi hỏi khăn nào thì mụ nói khăn nào cũng được. Tôi đem một cái khăn Mỹ đang treo trên dây cho mụ. Mụ hé cửa chìa tay ra. Nhưng thay vì cầm lấy khăn thì mụ chụp lấy cổ tay tôi lôi vào. Như một con mãng xà kéo con mồi vào hang.

    Tôi chưa kịp chống đỡ thì mụ đã vật tôi nằm xuống sàn gạch. Hai cái vú to bè như hai cái bao cát chống đạn đè xuống ngực tôi. Cái màu trắng lôm lốp như tôi thấy hôm nào, giờ lại trắng hơn nhưng bềnh bệch cùng với mùi nước hoa gắt gắt chua chua làm cho tôi vừa ngộp thở vừa buồn nôn. Với tất cả đòn phép lão luyện trong nghề mụ đã làm được cái điều mụ muốn làm. Như cái lần bị bắt lên quận, nỗi sợ hãi đã làm cho tôi phọt ra nhanh chóng khiến mụ chưng hửng. Mụ đẩy tôi qua một bên cầm vòi nước xả tồ tồ. Trước khi ra ngoài, mụ nói: “Lần đầu hả? Mới bóc tem hèn gì! Thôi để bữa khác má đền cho!”

    Trời ạ! Nghe “má đền cho! “ tôi sợ còn hơn bị bắt lại vào tù. Cái cảm giác như bị mộc đè khiến tôi kinh hoàng, chắc cũng giống các cô gái bị Tây hãm hiếp. Từ đó, tôi thấy những ngày trong bar sao mà nhớp nhơ hạ tiện. Dù sao tôi cũng là một thằng đàn ông, chẳng lẽ cứ để một mụ điếm già kẹp vào nách! Tôi không nói những điều suy nghĩ của tôi cho thằng Hậu. Tôi chỉ nói, tao không ghét gì mầy nhưng tao muốn đi khỏi nơi đây. Nó cười bảo: Trông cái mặt hí hửng của con mụ là tao biết đã có gì rồi. Con trai mà sợ gì. Nhưng mày không muốn ở nữa thì cũng được. Có điều, tuổi của mày là tuổi quân dịch. Mày đi đâu mà không bị tóm. Bây giờ thiếu cân thiếu ký, đuôi què mẻ sứt gì cũng tóm hết. Thà đăng lình. Để tao coi. Rồi sẽ tìm một chỗ lẩn quẩn đâu đây. Bây giờ mà ra chiến trường là toi mạng!

    Một tuần sau, nó đem một thằng Mỹ đến gặp tôi. Nó nói xì xồ vừa bằng miệng vừa bằng tay. Thăng Mỹ kêu Dét, Dét ! rồi vỗ vai tôi nói Ô kê ! Thằng Mỹ đi rồi, nó nói với tôi: Mày sẽ làm lính chó, tức là quân khuyển. Mà quân khuyển của Mỹ nghe. Nó ô kê rồi. Thứ hai đây trình diện.

    Tôi cũng ô kê. Làm lính chó cũng được, đâu có sao! Chó với tôi từ lâu đã là bè bạn mà!


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Khóc cười trên một xứ sở buồn vô hạn

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    14.

    Trại biệt kích Mỹ nằm sát biển. Bốn bề từng từng dây kẽm gai. Bốn cái tháp canh ban đêm có đèn pha tự động quay bốn hướng. Mỹ không xây lô cốt bằng bê tông kiên cố như Pháp. Nó dùng bao đựng cát làm tường. Đạn bắn bao nhiêu cứ việc găm vào. Đánh giặc như Mỹ thật là sang. Từ tôn ván, từ búa kiềm, từ thùng đựng nước đá cho đến cả tăm xỉa răng, giấy chùi đít cũng đem qua từ Mỹ. Tại Việt Nam nó chỉ mua có mỗi đá cây để xếp trong lô cốt cho đỡ nóng. Và đương nhiên là cần những ả bán bar, không có các ả chắc là chúng đã đòi về hết.

    Tuy là trại biệt kích Mỹ nhưng lính Mỹ ít hơn Việt. Mà Việt chính gốc cũng ít hơn Nùng. Sậm đen, to cao, cỡ như bọn tôi chúng vật như nhái. Biệt đội quân khuyển chừng hai chục người và mười con chó. Đây là những con chó đặc chủng. Có tên chó cha, chó mẹ, có ngày sinh tháng đẻ, có tên trường lớp và tên thầy. Rồi ngày chó vào lính, đơn vị, chiến công, quân hàm. Có con mang lon đại uý.

    Tôi không phải như mấy đứa trong làng đi lính cọng hoà. Khỏi phải tập dậm ghẹ, tập chạy tập bò. Chỉ tập tháo ráp và tập bắn. Nhưng chúng tôi cực hơn vì phải chịu trận với chó. Đây là những ngày mà nhiều đứa phải bỏ cuộc vì bị tra tấn bỡi những hàm răng sắc nhọn, những cái táp như hàm cá mập, những cú lao vào như cả một khúc gỗ từ trên dốc lao xuống.

    Để tránh thương tích, chúng tôi được trang bị nào găng da, nào áo giáp. Hai tay và chân được nịt chặt như những đòn bánh tét. Và với thân mình được gói kín như thế, bài tập đầu tiên là giả làm Việt cộng để cho những con chó cao to và hung hãn như những con sư tử táp vào tay, đớp vào chân, tộng vào ngực. Khi bọn tôi ngã nhào xuống đất, chúng lập tức cắn vào quần áo lôi đi. Cái hay là chúng không cắn vào cổ, nếu không chúng tôi đã tiêu ma từ lâu rồi. Sau những bài tập như thế, chúng tôi ê ẩm cả người. Đứa nào cũng nằm vật ra thở dốc. Chẳng đứa nào đứng dậy nổi để mang khay đi nhận phần ăn.

    Bài tập thứ hai đỡ hơn. Không phải giả VC cho nó cắn mà tập cầm dây da chạy theo nó để tìm V.C. Sức nó chạy như ngựa, chạy theo không kịp nó lôi ngã như voi kéo gỗ. Sau buổi tập, mặt mũi chân tay đứa nào cũng trầy trụa đầy đất cát. Có đứa ngã gãy răng.

    Sau cùng là học chăm sóc. Thực ra là học hầu hạ nó! Học tắm táp, học chải lông. Học lo cho nó ngủ, học dẫn đi chơi, ngay cả cách dẫn nó đi ỉa cũng phải học. Nhưng bài học quan trọng nhất là phải học cách bảo vệ nó khi Việt cộng liều mạng tấn công như ném lựu đạn hay ôm cả mìn lao vào.

    Có lẽ nhờ cái dòng sữa chó đã chảy sẵn trong tôi, nên dù với chó Tây tôi cũng không sợ vãi đái ra. Tôi thấy thích những con chó Tây hơn chó ta vì nó đẹp, thông minh và rất có kỷ luật. Mặc dù tôi rất nhỏ con và không biết tiếng Mỹ, tôi cũng làm quen được với nó khá dễ dàng. Có lẽ tại tôi yêu nó nên nó cũng yêu lại tôi. Một khi đã thân quen, tôi và nó rất hiểu ý nhau. Tôi thường nhìn vào mắt nó và nó cũng nhìn sững vào mắt tôi. Nếu tôi khẽ liếc về bên phải là nó chạy ngay về bên phải, liếc trái là chạy về trái. Nếu nó làm gì quá quắt, tôi chỉ cần lắc đầu là nó xìtốp ngay.

    Bọn Mỹ không ngờ tôi làm chủ bọn chó nhanh như vậy. Sau khi đã tếch qua tếch lại nhiều lần, bọn chúng khen tôi là năm bờ oan và giao cho tôi chăm sóc con Giêm. Đó là một con chó Đức thuần chủng từ bao nhiêu đời. Trong huyết quản không có một tí tẹo nào chó Anh hay chó Pháp. Con Giêm cao to như một con bò nghé, nhưng nó mạnh mẽ và săn chắc hơn. Cái ngực của nó như đá tảng, bốn chân thuôn đẹp như chân hươu. Nói đến chiến công của nó thì cũng phải hết cả trang giấy này. Chỉ biết là nó có hàng chục cái huy chương và nó đang mang cấp bực đại uý, còn tôi chỉ là binh nhì!

    Công việc của bọn tôi cứ đều đều nếu không phải ra trận. Sáng đem nó đi ỉa đái, tập thể dục, ăn sáng bằng thức ăn đóng hộp gọi là đót min (mà nhiều đứa bên biệt kích tưởng là thịt chó đóng hộp). Trưa ăn thịt bò Mỹ tươi và có cả đồ tráng miệng. Xong, đi ngủ. Có cả nhạc cho dễ ngủ! Con nào không chịu ngủ thì có xương nilon gặm cho đỡ buồn. Chiều dắt đi dạo như một nhà quý tộc. Rồi tắm táp chải chuốt chờ bữa tối. Trước khi đi ngủ còn xem phim hoạt hình! Đời chó mà như thế thì đời người cũng ít ai bằng! Kẻ hầu hạ trung thành và tận tuỵ là bọn quân khuyển chúng tôi. Nếu không có cuộc chiến tranh dai nhách chết tiệt này, nếu không bị ruồng bắt như bắt chó thì chẳng đứa nào chịu làm cái nghề không chút vẻ vang này cho dù là lãnh tiền đô.

    Nhưng dù có giàu sang và yêu chó như nước Mỹ thì cũng chẳng ai chịu bỏ công, bỏ của ra để huấn luyện những con chó khơi khơi như thế, nếu nó không có một cái mũi biết đánh hơi cọng sản. Trong những trận càn, khi lực lượng của địch bị quét sạch trên mặt đất, người ta đem chó tới để theo cái mũi của chúng mà dò tìm những địa đạo, những hầm bí mật. Chẳng có ai biết được dưới những luống khoai bụi chuối hay ao hồ sông suối có những kẻ đang dấu mặt như con sâu rút mình trong cái kén để chờ cơ hội phản công. Cũng chẳng ai ngờ được rằng dưới chân mình đang đứng, dưới chỗ mình đang ngồi hay dưới cái ang nước cũ kỹ với cái gáo dừa úp hờ kia là cả một căn hầm nuôi dấu cán bộ cốt cán. Chỉ có chó vơi cái mũi trời cho tinh nhạy hơn cả rađa là biết được ngay chỗ nào có kẻ địch đang lẫn trốn. Dù ngụy trang khéo léo đến đâu chó cũng tìm ra được. Ngụy trang chỉ có thể qua được mắt người chứ không thể qua được mũi chó, nhất là cái mũi ấy được đào tạo qua trường lớp và được thử thách qua nhiều trận chiến. Vì vậy, Việt cộng rất ghét bọn quân khuyển chúng tôi. Từ xa, chúng tôi đã bị bắn nheo cu. Đến gần chúng tôi bị ném lựu đạn, bị nổ tung vì bom cảm tử. Chó thì có hàm răng vô địch, bộ binh có carbin, còn chúng tôi chẳng có gì để tự vệ ngoài một sợi dây da buộc vào cổ chó!

    Sau bao nhiêu cuộc chỉnh lý và đảo chánh, Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ kết hợp thành một liên danh đắc cử Tổng thống và phó Tổng thống. Báo chí gọi đây là một cuộc hôn nhân chính trị. Vì “cưỡng hôn” nên cơm không lành canh không ngọt là chuyện đương nhiên. Dù vậy, dưới sức ép của viện trợ Mỹ, hai người cũng mạnh tay hơn với cọng sản. Khắp bốn vùng chiến thuật nổ ra những cuộc hành quân liên miên để tái chiếm những vùng đã bị mất. Những toán biệt kích được thả dù xuống miền Bắc để đánh thẳng vào hậu phương địch. Bọn họ được huấn luyện đặc biệt. Trước tiên phải là người gốc Bắc. Bọn họ phải học làm việc, học đi đứng nói năng y như người miền Bắc. Ngoài ra họ còn phải học cách sống một mình trong rừng sâu khi bị lạc. Sau khi thuần thục họ được thả phía sau lưng địch để phá cầu đường, kho đạn, tàu thuyền. Mỗi lần đi gọi là nháy sô coi như không có ngày về nên họ được lãnh tiên tử rất lớn. Vì vậy, nếu anh nào bỏ xác ngoài đó thì thôi, anh nào trở về coi như được sống lại. Rủng rẻng trong túi nhiều tiền, họ ăn chơi cho bõ những ngày phải đối mặt với cái chết. Gái ghiếc là chuyện thường tình. Họ còn chơi cả thuốc phiện trắng. Tôi có quen một tay người Nùng. Anh ta lấy bớt thuốc ra rồi đổ cái thứ bột chết người ấy vào xe đầu lại. Anh ta cho tôi một điếu hút thử. Tôi chẳng thấy Tiên Phật nào cả, chỉ thấy ngây ngây dại dại, cả đêm cứ tưởng đã ngủ rồi mà thật ra là thức trắng. Sau đó ít lâu, anh ta chết vì bị mục xương chứ không phải vì nhảy sô.

    Những cuộc bình định tái chiếm nông thôn đã kéo theo bước chân của bọn tôi. Những thôn làng không người ở xác xơ, những ngôi nhà bị đốt cháy, những cánh đồng cỏ dại cao lút đầu. Cứ tưởng là những vùng đất chết. Nhưng dưói cái cây kia là một họng súng đang hướng cái đầu ruồi về phía bọn tôi. Con đường đất buồn bã đầy rác rơm cũng đang dấu kín những hầm chông. Và ở đâu đó trong lùm tre, những đôi mắt chỉ huy của cán bộ vẫn không ngừng quan sát. Nhưng cái mùi hơi người mà chúng tôi chẳng nhận được gì thì lũ chó đã đánh hơi như khi bụng đói mà ta nghe mùi chiên xào! Thế là hộc hộc, vừa sủa chúng vừa lao tới, chúng tôi cũng phải lao theo. Cái mũi chúng như một máy dò mìn, rà rà hết bờ cây này, bụi cỏ nọ, sau cùng là rít lên báo hiệu cái nơi cần phải tìm. Miệng hầm chẳng khó khăn gì đã được tìm ra. Những con người xanh xao lốp ngốp bò lên. Nếu không chịu lên thì lựu đạn cay thả xuống, và nếu chống trả thì hàng chục trái lựu đạn ném xuống không thương tiếc!

    Có một lần chúng tôi bị đánh liều mạng. Bắt được hơi người, con Giêm quá hăng lao tới. Bất ngờ mảng cỏ được nâng lên và một trái lưụ đạn ném thẳng vào trước mũi nó. Tôi vội đá trái lựu đạn văng ra xa và nằm đè lên mình nó. Cả hai thoát chết trong gang tấc. Tôi bị thương nhẹ ở vai, nhưng con chó không hề hấn gì. Lần đó tôi được bọn Mỹ thưỡng cho một món tiền. Không ngờ câu chuyện đó đến tai thằng Mậu, con ông tổng Bá. Nó đến trại tìm thăm tôi. Nó cứ tưởng tôi không biết hai anh em nó đã trùm mền đánh tôi một trân tơi bời. Nó nói: “Tao tưởng con mụ Thảnh và lão Khứ nhồi nhét mày thành một thằng cọng sản như thằng thủ ngữ Đực rồi chớ. Không ngờ mầy cũng ngon lắm. Thế nào Việt cộng nó cũng treo giải cho ai lấy đầu mầy. Nó đã treo giải đầu tao rồi đó. Đầu tao nó treo là phải. Nè, mầy coi đây! “. Rồi nó lấy trong bọc ra khoe với tôi mười mấy cái tai cắt được của cọng sản. Những cái tai khô quéo quắt như nấm tai mèo với những sợi lông trắng trông rất dễ sợ. Nó đưa cho tôi cầm nhưng tôi rụt tay lại. Nó cười: “ Mầy sợ à? Tao thề trước mộ ông tao là phải cắt đủ 100 cái, tức là phải giết đủ 100 thằng. Chừng đó tao sẽ đem đốt trước mộ ông tao như ngày xưa người ta cắt đầu kẻ thù để tế cho người chết. Mầy tin tao làm được chớ? Chiến tranh còn dài quá mà!”

    Sau đó ít lâu tôi nghe nó bị Việt cộng bắt được trong một lần phục kích. Nó bị mổ bụng moi gan và cái gan ấy bị cắt nhỏ đúng 100 miếng. Không biết để ăn cho hả giận hay để tế cho những người đã bị nó cắt tai. Cứ cái kiểu trả thù như thế, rồi con nó lớn lên sẽ trả thù cho cha nó như thế nào? Nghĩ tới mà rùng mình!

    Cứ tưởng những cuộc bình định đã đẩy dần cọng sản về tận núi rừng. Không ngờ họ lặng lẽ xâm nhập thành phố. Tết Mậu Thân, như thường lệ hai bên ngưng chiến để đồng bào ăn Tết. Phố xá chật kín người. Người ta tạm quên chiến tranh để chúc mừng nhau đã sống thêm được một tuổi. Đêm giao thừa pháo nổ không ngừng. Càng chết chóc, càng lo sợ người ta càng đốt pháo. Lẫn trong tiếng pháo là tiếng súng của những người lính xa nhà. Đạn bắn chỉ thiên vẽ những đường lửa đỏ trên nền trời đêm. Ai cũng muốn xua đi cái năm cũ đầy máu lửa để đón một năm mới may ra có được hòa bình.

    Quá nửa đêm tiếng pháo thưa dần nhưng tiếng súng lại vang lên dòn dã. Những người lính có chút hơi men cọng với nỗi buồn càng bắn dữ hơn. Nhưng lẫn trong tiếng tạch tạch có cả tiếng nổ của B.40 và tiếng A.K đanh gọn. Nhiều người đang ngơ ngác hỏi nhau thì có tiếng máy bay u u trên cao và những trái hoả châu sáng rực cả thành phố.

    Đến lúc này ai cũng biết là bị Việt cộng tấn công. Họ đánh vào tiểu khu, vào toà tỉnh trưởng và đài phát thanh. Té ra họ cạo trọc đầu giả nhà sư, mặc quần áo đẹp giả trai gái đi hái lộc. Họ dấu súng trong áo cà sa, dấu cờ và truyền đơn trong áo dài. Họ đã làm được cái điều rất khó làm trong binh pháp là gây bất ngờ.

    Lúc đầu quân cộng hoà bị choáng. Nhưng sáng ra các đơn vị liên lạc được và yểm trợ lẫn nhau, bắt đầu phản công. Chỉ trong một ngày là cộng sản bị đánh bật ra ngoài. Họ cố rút đi trong đêm, nhưng một số bị kẹt lại do không rành đường. Họ đành chui rúc trong các ống cống, các mương nước thải chờ đêm tối thoát ra. Phần nhiều họ đã chết vì bị thương mất nhiều máu. Lúc này lũ chó của cả trại được tung ra và chúng cắn áo kéo họ ra như những con mèo tha chuột. Người nào cũng cởi trần chỉ mặc một cái quần đùi, ngang hông lủng lẳng một cục cơm vắt.

    Kinh ngạc làm sao, trong số ấy có xác của ông Khứ. Ông ta bị thương nằm kẹt giữa hai bức vách của hai căn nhà nằm sát một con mương. Ông cố trườn ra mép nước, gục đầu xuống uống một hơi rồi chết. Tôi làm sao quên được ông với cái mũi khoằm và cái miệng dẩu. Mái tóc lúc nào cũng cắt xiên qua bên phải như vừa bị ai lấy dao đè ra chặt. Ông ta trắng hơn, mập hơn, nằm đó với cục cơm vắt bị thiu và cái bụng chương lên vì uống quá nhiều nước. Vậy là sau bao nhiêu năm thét gào, hết ra Bắc lại vào Nam giờ bị kéo ra công viên để cho mọi người nói cười chỉ trỏ. Thật chẳng ra làm sao!

    Việt cộng không chỉ tấn công thành phố Quy Nhơn mà khắp cả nước. Báo đăng họ đánh vào cả toà đại sứ Mỹ. Tại Huế họ cố thủ đến những cả tháng mới chịu rút ra. Bên nào cũng hô chiến thắng, nhưng nếu tính cả hai bên tròng cái Tết Mậu Thân điên cuồng ấy chắc cũng đến vài vạn người. Thật không ai hiểu được vì sao cái dân tộc này lại hận thù và giết nhau đến thế. Có người bảo do dân Hời trù yểm. Những ngọn tháp còn đứng mãi kia như những lời nguyền.

    Sau tết Mậu Thân dường như người ta nhìn vào đâu cũng thấy Cộng sản. Đây là thời cơ cho cái mũ thân cọng chụp lên đầu bất cứ ai nếu người ta muốn. Và thằng Hậu đã bị chụp cho một cái mũ khổng lồ là làm kinh tài cho Việt cộng!

    Một buổi chiều trong ngày lễ Phục sinh, cả chục cảnh sát ụp vào bar lôi nó đi trước sự ngơ ngác của các ả cave và bọn lính Mỹ. Bar Lucky bị lục lọi, bị niêm phong. Mụ nhân ngãi già của nó vơ vội ít quần áo tư trang nhét vào vali bay tuốt vào Sài Gòn chẳng bao giờ dám trở lại. Các ả cave nháo nhác cố bám vào những thằng lính Mỹ. Lúc này chỉ mong được nó nhận làm vợ hờ để khỏi bị vạ lây. Bọn Mỹ khi hiểu ra có đứa khoái chí hét lên: Ai lấp V.C Hâu !

    Như thế là cơ nghiệp của nó cũng đã tan tành! Nó đã khôn hơn các ông tổng Bá, ông hương kiểm khi nó bỏ làng mà đi. Nhưng nó không đủ khôn lanh để bỏ cái miền đất mà một đưá bé mới sinh ra cũng bị kết tội là cọng sản như cái ở cái vùng Nam, Ngãi, Bình, Phú này. Nếu nó ở Nha Trang hay Sài Gòn, chưa dễ ai chụp được lên đầu nó cái gì. Đã vậy nó lại còn mua cả mấy xe gạo, vải vóc thuốc men lên phát cho dân nên dễ bị nghi ngờ là tiếp tế cho cọng sản. Nó cũng tưởng quen biết nhiều, gái trong bar toàn là gái tuyển, chẳng mấy chốc nó sẽ đánh bạt hết những cái bar lép nhép kia để trở thành ông trùm của cả một con phố ăn chơi. Nó đâu biết rằng từ lâu nó đã ở trong tầm ngắm của những thế lực trùm hết cả miền Trung.

    Toàn bộ tài sản của nó bị tịch biên. Nó bị quẳng ra ngoài Côn đảo như một tay cộng sản thứ thiệt.

    Các ông già ở làng An Định thở dài bảo giàu sớm quá là không bền, xưa nay vẫn vậy! Nghĩ đến cách ăn ở có trước có sau của nó các ông đều cảm thấy ngậm ngùi. Lúc này có muốn gửi cho nó một hộp sữa hay một gói thuốc cũng không cách gì gửi được. Cái tin nó bị bắt làm cho tôi bàng hoàng không ngủ được đến mấy đêm. Cứ y như hồi tôi thấy ông cử Vân nằm chết trần truồng trên đất lạnh. Một đằng thì tán gia bại sản vì tư thù ganh ghét. Một đằng thì gục ngã vì hận thù giai cấp. Cả hai đối nghịch nhau, nhưng lại giống nhau vì cái mục đích triệt hạ con người.

    Lúc này tôi thấy nhớ làm sao cái ngã ba Trung Lương. Cô cháu tôi đã sống những ngày thật êm đẹp. Chúng tôi đói nghèo, có bị khinh khi đôi chút, nhưng trời mây sông nước là của chúng tôi. Nhớ những tối đầy sao, những đêm trăng mát lạnh. Nhớ những lúc cô cháu xuôi thuyền trên sông. Nhớ bữa cơm cuối cùng ngồi ăn với cậu Khánh điên ở trên cầu. Tôi cũng không làm sao quên được cái chết oan ức của cô. Giờ này không biết cái mô đất bên cầu có còn không hay là đã bị nước lụt cuốn trôi.

    Tôi cũng thấy nhớ chị Thảo, nhớ cái đêm mưa chị thiếp ngủ trong lòng tôi, nhớ mùi thịt da thơm ấm của chị. Tôi thường đi rảo khắp thành phố để mong được gặp chị. Biết bao người con gái hao hao giống chị đã từng làm tôi nôn nao muốn khóc. Nhưng đến gần lại không phải là chị. Bây giờ chắc là chị đã đi lấy chồng và theo chồng ở một nơi nào đó rất xa.

    Chiến tranh vẫn cứ tiếp diễn và leo thang ra tận ngoài Bắc. Cuộc hoà đàm Paris suốt một năm trời mà chỉ có thoã thuận được một cái bàn hình bầu dục. Cộng sản lại pháo kích vào thành phố và cộng hoà vẫn nối tiếp những trận càn. Đám quân khuyển đi theo sục sạo đến thở không ra hơi.

    Một ngày đầu tháng sáu, cuộc càn quét đi qua các làng An Định, Trung Lương. Mới có năm năm mà cái làng cũ đã không còn nhìn ra. Bao nhiêu nhà nếu không bị đốt thì cũng ngã nghiêng xiêu vẹo. Cỏ cây lau lách mọc đầy như rừng. Cây cầu gỗ do ông tổng Bá bỏ tiền ra bắc đã bị sập. Căn lều của cô tôi dĩ nhiên là cũng không còn. Cánh đồng cây Sanh qua bao mùa lụt cát trải rộng đến tận bờ tường chùa Thiên An. Người ta tin chẳng có hầm hố gì dưới những lớp cát ấy nên không dẫn chó qua sông. Tôi cũng không thể giao chó cho ai, nên đành đứng bên này nhìn qua. Cái mô đất chỗ cô tôi nằm hãy còn lại bên đầu cầu. Trong đám cỏ cây rậm rạp dường như có một cây khế đang ra bông. Chắc xương thịt của cô đã theo cây khế đó mà ngoi lên nhìn tôi.

    Lục soát hết An Định, xuống An Dân rồi qua Trung Lương. Một ngày dài, chó và người đều mệt lã. Lúc này mà V.C tấn công chắc là bọn tôi tiêu đời. Đúng lúc ấy cái mũi của đại uý Giêm phát hiện trong bụi tre gai có hơi người. Nó giằng dây xích lao tới. Nhờ nó người ta lần ra được một ống thông hơi làm bằng gốc tre dấu rất khéo và tìm được miệng hầm nằm dưới một lớp lá tre khô. Người ta bảo lên khỏi hầm. Nhưng chẳng ai chịu lên và người ta thả xuống một trái lựu đạn cay. Thế là trong lớp khói cay xè đến ngột thở, cả chục V.C lớp ngớp bò ra.

    Thật không ngờ, cô Thảnh trắng bệch như con mụ nhân ngãi của thằng Hậu, mặt đầy nước mắt nước mũi vẫn cố hét lên: Đả đảo đế quốc Mỹ! Và khi thấy tôi đang cố giữ không cho con chó Giêm muốn bứt dây để lao tới, cô phun vào mặt tôi một bãi nước bọt, rít qua hai hàm răng: đồ chó đẻ ! Thật khác xa với lúc cô cầm tay tôi dắt đến trước mặt ông tổng Bá để chỉ cho ông ta thấy cái tội ác bằng xương bằng thịt do ông gây ra. Và cũng chính vì cô đem tôi ra để làm nhục ông mà tụi thằng Mậu, thằng Tài đã đánh tôi một trận để trả thù. Nếu còn sống và nếu gặp cô ở đây chắc là nó không tha cái tai của cô!

    Cùng với các đồng chí, cô bị đưa về tiểu khu, bị đưa qua an ninh quân đội để khai thác và sau cùng chắc chắn cô bị đưa ra Côn đảo. Ở đó cô sẽ gặp thằng Hậu đang đội cái mũ thân cọng. Chẳng lẽ hai người là đồng chí?!

    Dưới sức ép của nhiều phía, cuối cùng cái hiệp định Paris cũng được bốn bên ký kết. Mỹ và Đồng minh sẽ rút nửa triệu quân ra khỏi miền Nam. Mỹ rút. Bao nhiêu súng ống đạn dược, tàu bay tàu bò, Mỹ giao hết cho Miền Nam. Nhưng với những con chó thì Mỹ đem về. Bọn lính quân khuyển chúng tôi, mười mấy đứa được đưa sang bộ binh.

    Thôi nhé, vĩnh biệt đại uý Giêm! Bái bai !

              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Khóc cười trên một xứ sở buồn vô hạn

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    15.

    Tôi được đưa lên Pleiku. Thành phố nhỏ như một tổ chim. Không dường ngang phố dọc. Không nhà cửa nhiều tầng. Con phố chính không quá 100 mét. Chỉ có một vài hiệu buôn, một vài quán ăn và quán càphê. Nhưng ngoại ô là cả một vùng đất đỏ mênh mông với những con đường vàng rực hoa quỳ. Những buổi sớm sương trắng bềnh bồng và những cô gái Thượng xinh xẻo mang gùi trên lưng đi từng hàng dài. Không bị pháo kích, không bị đặt mìn. Chỉ có cái lạnh hiu hiu và bầu trời như xuống thấp hơn ở đồng bằng. Mặc dù chiến sự đang đến hồi ác liệt nhưng nơi đây thật thanh thoát và bình yên.

    Đơn vị của tôi đóng cách thành phố hơn 5 cây số. Nếu không có những bao cát, những hàng rào dây kẽm gai và nhất là không phải leo lên cái tháp canh mỗi tuần vài bận thì tôi đã tưởng mình được đi chơi sau những ngày ngột ngạt ở trong bar thằng Hậu.

    Trung đội tôi có một lao công đào binh. Anh ta tên Hiển, lớn hơn tôi vài tuổi. Anh sống lặng lẽ, ít nói, nên chẳng ai biết nhiều về anh. Chỉ biết anh đã đào ngũ đến lần thứ ba! Tha mãi không xong người ta đưa anh vào quân lao rồi đưa lên đây. Không cấp bậc, không súng, không lương. Anh phải làm những công việc nặng nhọc như tù khổ sai. Rất may, trung uý trung đội trưởng không vì thế mà hành hạ anh. Ông bảo chết nhiều quá, ai không sợ. Thỉnh thoảng ông có cho anh chút tiền tiêu vặt và chúng tôi thường san sẻ thuốc lá cho anh. Anh bị phạt một năm, chịu đựng được hơn năm tháng.

    Bỗng một hôm điểm danh không có anh. Mọi người ai cũng nghĩ là anh lại trốn. Không ngờ anh treo cổ trong nhà tắm!

    Cái chết của anh làm cho tôi ngẩn ngơ. Thà bị bắn gục ở ngoài mặt trận, chứ đút đầu vào thòng lọng sao nó cay đắng quá. Đâu phải anh không muốn sống. Nhưng cái cuộc chiến tranh này nó kéo dài quá lâu. Nó cày nát biết bao phận người. Những người vô tội như cô Sáu tôi, cả những người không ai ưa như ông Khứ, thằng Mậu hay ngơ ngáo như thằng thủ ngữ Đực….Tất cả ngã xuống và rồi sẽ ngã xuống cho đến bao giờ? Cái hiệp định Paris ồn ào kia chỉ làm lợi duy nhất cho những nhà buôn sơn. Khắp nơi người ta đua nhau vẽ cờ trên mái nhà, trên các bức tường mặt phố. Người ta chuẩn bị một cuộc giành dân lấn đất. Chỉ có vậy thôi. Đã ai nhường nhịn ai đâu. Cái bào thai hoà bình chắc cững phải đẻ non thôi, làm sao mà sống được!

    Ngoài cổng lúc ấy lao nhao có người đàn bà hỏi thăm ai đó. Ai cũng tưởng là vợ anh ta đến tìm. Sao mà anh ta linh thiêng đến thế! Biết ăn nói làm sao với người đàn bà tội nghiệp này! Tôi định đi ra gặp chị, nếu cần san sẻ một ít tiền dành dụm để giúp chị. Nhưng không phải là vợ anh ta. Tôi quay vào, bỗng nghe kêu giật ngược :

    – Được ơi, phải em Được đó không?

    Tôi sững sờ quay lại. Thì ra chị Thảo. Tôi cũng kêu lên:

    – Dạ, chính em là Được đây.

    Nếu không có nhiều người chắc là tôi đã chạy ra ôm chầm lấy chị.

    – Thực không ngờ là em ở đây!

    – Em cũng không ngờ là được gặp chị. Em trai của chị ở đơn vị nào?

    – Pháo binh, ở đâu dưới Pleiku.

    Tôi xin phép trung úy đưa chị đi. Chúng tôi tìm đến đơn vị cậu ta thì được biết pháo đội đã được điều đi nơi khác. Ngày mai chị mới đến chỗ của cậu em. Chị đành phải nghỉ lại ở Pleiku.

    Tôi đưa chị loanh quanh đi dạo phố. Chị nói, con phố gì mà nhỏ quá. Cứ như đi dạo ở làng An Định. Chị hỏi thăm tôi cái làng quê bé xíu nà chị đã từng sống ở đó đến hơn chín năm. Cái cầu tre mỏng mảnh gần trường học mà chúng tôi thường run rẩy bò qua, cái lớp học đầy cóc nhái và rắn rít giữa những hàng tre. Và những con người đã từng cay nghiệt hành hạ nhau ở làng An Định. Những ông tổng Bá, ông Khứ, cô Thảnh…Khi biết những người một thời rất đáng sợ với trẻ con ấy, kẻ đã chết, người bị bắt…chị thở dài nói:

    – Thật tội nghiệp! Chẳng biết sao họ thù nhau đến thế? Rồi họ được gì? Cho đến giờ chị vẫn còn run khi nhớ lại tiếng nói the thé của cô Thảnh!

    Con phố không đủ dài cho những hồi ức của chúng tôi. Đi mãi cũng chán, chúng tôi ghé vào quán ăn uống qua loa, rồi đi tìm nhà nghỉ. Đó là một khách sạn nhỏ ở một con phố cũng nhỏ chỉ vừa đúng năm căn nhà. Chủ là một người đàn bà kiêm luôn bồi phòng. Bà không hỏi nói gì chỉ lặng lẽ đưa cho tôi một chìa khoá, chỉ tay lên gác. Tôi đưa hai ngón tay. Bà hơi nghi ngờ nhưng cũng đưa thêm một chiếc nữa.

    Nhận phòng xong chị đi tắm. Tôi ngồi hút thuốc ở ban công. Mới hơn 8 giơ tối mà phố xá đã im lìm. Môt vài chiếc xe jeep chạy vụt qua. Đâu đây tiếng máy điện nổ rì rầm. Mới ngày nào mà đã hai mươi năm. Quả thực, nếu chị không kêu đúng tên thì dù có gặp ở ngoài đường tôi cũng không thể nhận ra. Tôi không nói chị đẹp hơn hay già hơn, nhưng so với người con gái đã có lần ngủ quên trong lòng tôi thật khác xa. Ngày ấy chị như chị ruột tôi, còn bây giờ qua cái vẻ hồ đồ của người chủ khách sạn, tôi lúng túng hiểu ra rằng chúng tôi chỉ là hai người đàn ông và đàn bà.

    Tôi định đi xuống phố một lát. Nhưng cửa phòng chị sịch mở và chị tươi tắn đến bên cạnh tôi. Rất tự nhiên, chị đặt tay lên vai tôi, hơi ngửa mặt ra một chút để nhìn cho rõ. Chị nói :

    – Em không khác trước là mấy. Em có biết tại sao chị nhận ra em không ?

    – Dạ không.

    – Tại vì em quá bé và có một cặp mắt rất sáng.

    – Như mắt chó!

    – Đừng nói bậy. Để chị nghĩ coi. Mắt bồ câu thì là mắt con gái. À, phải rồi, như mắt con chồn đèn ấy. Rất tinh khôn mà cũng rất buồn. Không thể nào quên được!

    Hai chị em cùng cười. Thấy tôi cứ mãi đốt thuốc, chị nói :

    – Em hút thuốc hơi nhiều đấy!

    – Dạ em cũng định bỏ mà chưa bỏ được. Đời lính buồn quá chị à.

    – Ơ, chị quên chưa hỏi em. Vợ con ra sao rồi?

    – Em chưa có gì hết.

    – Thật à?

    – Dạ thật.

    – Thế cũng có một cô em nào nhớ tới em chứ?

    – Cũng không.

    – Em dấu chị.

    – Không, thật mà. Chỉ có một người em nhớ tới, luôn luôn nhớ tới nhưng ở rất xa.

    – Ở dâu mà xa?

    – Ở trong chuyện ngày xưa.

    – Thôi đừng đùa nữa!

    Lẽ ra tôi cũng hỏi chuyện chồng con của chị nhưng không hỏi. Thực ra là không dám hỏi. Không hiểu tại sao tôi lại sợ. Có lẽ tại tôi không muốn cái hình ảnh năm xưa bỗng chốc nhòa đi khi biết về chồng con của chị. Nhưng nếu cứ đứng mãi ở ban công, cứ hỏi nói vẩn vơ thế nào cũng có lúc chị tự nói ra, nên tôi khuyên chị đi ngủ sớm để sáng mai đủ sức đi xe. Chị nghe lời vào phòng. Tôi chúc chị ngủ ngon, nhưng chị nói:

    – Chắc chưa ngủ được đâu. Lạ phòng chị hơi sợ. Vào nói chuyện chút nữa đã. Em còn phải kể cho chị nghe trong bao nhiêu năm qua em đã sống ra sao, phải vậy không ?

    – Dạ.

    Tôi vào phòng chị. Cũng một căn phòng nhỏ như phòng tôi. Một chiếc giường nhỏ, một cái bàn, một cái ghế. Chúng tôi phải ngồi trên sàn, tựa lưng vào vách. Y như hồi nào chúng tôi ngồi co ro trong lớp vì đi học quá sớm. Chỉ khác lúc này trời không mưa, đèn sáng và hai người đã trải qua những năm tháng giông bão của cuộc chiến tranh.

    Chúng tôi lại nói tiếp về những ngày còn bé, về cái lớp học chập chờn ma quái trong đêm, những con đường trơn như thoa mỡ, những con đom đóm lập loè, những cọng cam thảo tẩm mật ong….Đêm cao nguyên mát lạnh. Về khua sương giăng trắng. Tiếng máy điện rì rầm nghe rõ hơn và xa xa vọng lại tiếng pháo 155 ly.

    Có một lúc gần như hết chuyện để nói cho nhau nghe. Chúng tôi ngồi lặng ngắm những con thạch sùng đuổi nhau trên trần nhà. Chúng bò ngược mà vẫn nhanh nhẹn như những đứa trẻ chạy chơi trên đất. Thế rồi tôi mơ hồ nghe có tiếng gọi:

    – Được à .

    – Dạ.

    Một bàn tay, đúng là bàn tay của chị chứ đâu phải ai khác nhưng rất lạ bất chợt nắm lấy tay tôi. Nếu bảo một cái cây bị gió thổi rạp cũng chưa chắc đã nhanh bằng. Phải nói là một trái chín đang rụng. Tôi ngã vào lòng chị.

    Phải như tôi ngủ thiếp đi như ngày trước chị ngủ thiếp trong lòng tôi. Phải như một trái hoả châu rơi ngoài cửa sổ. Ừ, phải như vậy thì mọi sự đã không xảy ra. Đằng này chúng tôi như hai thỏi nước đá trong một cái cốc. Chúng tôi đã tan ra và hoà trộn vào nhau.

    …Cho đến khi bừng tỉnh và nhận ra đã làm cái điều không nên làm thì trời đã sáng. Chị giục tôi nhanh chóng trả phòng.

    Chúng tôi ngồi uống cà phê ở một quán cóc. Chị tránh không nhìn tôi. Tôi cũng không dám nhìn chị. Nhưng tôi vẫn thấy đôi mắt long lanh ấy, đôi môi nóng bỏng ấy, làn da tươi mát ấy…. Chị đã hào sảng ban cho không một chút dè sẻn. Từ dưới đáy cuộc đời, tôi bỗng dưng được chị nâng lên và cả hai trong một phút giây đã cùng bay lượn trên đỉnh trời cao nguyên lồng lộng.

    Uống càphê xong chị đón một chiếc xe ôm ra bến xe. Tôi rất nuốn đưa chị đi nhưng chị bảo đừng. Chị nói thế nào về trại em cũng bị phạt. Chị bảo anh xe ôm siết ga lao nhanh. Tôi đứng trông theo, bâng khuâng mãi không biết là mộng hay thực.

    Về đến đơn vị, chúng tôi được lệnh hành quân ngay. Có tin quân miền Bắc tập trung một lực lượng lớn ở Ngã ba biên giới. B.52 không còn ném bom rải thảm nữa nên chẳng việc gì họ phải sợ. Tổng thống Mỹ Nixon phải rời Nhà Trắng vì nghe lén. Tổng thống Ford đang nằn nì xin quốc hội chi thêm 700 triệu đô. Trong khi đó, tổng thống Thiệu thề không cho cộng sản về Sài Gòn ăn phở!

    Dường như lịch sử đang lao vào một khúc quanh nghiệt ngã. Không biết bọn chúng tôi có phải rơi tòm xuống vực? !


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Khóc cười trên một xứ sở buồn vô hạn

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    16.

    Sau bao nhiêu đồn đoán, rốt cuộc quân miền Bắc tấn công Banmêthuột. Dưới con mắt của các nhà chiến lược thì đây là một cuộc tấn công có phần mạo hiểm nếu không muốn nói là tự sát. Bởi vì quân đoàn II từ Pleiku đánh thốc xuống, quân đoàn dù và thuỷ quân lục chiến từ Nha Trang đánh lên. Có là con voi chín ngà cũng không thoát khỏi vòng vây. Nhưng không hiểu sao người ta vẫn bảo cọng sản chỉ dương đông kích tây để đánh Pleiku! Đến khi cái buôn làng giàu có nhất Tây nguyên bị đánh chiếm hoàn toàn thì mọi quyết đưa ra đều đã quá muộn!

    Banmêthuột bây giờ giống như thiên linh cái đã bị điểm trúng huyệt. Chẳng những các quyết định đưa ra đã quá muộn mà còn quá sai tưởng chừng như u mê lú lẫn. Thay vì phải quyết giành lại cho bằng được dù phải ném vào đó cả sư đoàn như ở cổ thành Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa, thì người ta lại quyết định di tản chiến thuật! Nghĩa là tạm thời bỏ cao nguyên để lui về giữ vùng duyên hải. Năm sau bầu cử tổng thống Mỹ đánh chiếm lại cũng chưa muộn! Thế là một cuộc di tản quân sự ồ ạt chưa từng có đã diễn ra!

    Để tránh bị truy kích và phục kích, người ta không đi dường quốc lộ 19 xuống Quy Nhơn mà đi đường tỉnh lộ 7 xuống Tuy Hòa. Người ta cho rằng như thế là đã đánh lừa được cộng sản.

    Cả một quân đoàn với bao nhiêu xe pháo lính tráng vợ con, cùng cả vạn dân tứ xứ lên lập nghiệp ở cao nguyên, đùn đẩy chen chúc nhau trên tỉnh lộ có từ hồi Pháp thuộc, đã từ lâu không dùng đến đầy ổ gà ổ voi nhiều chỗ đứt đoạn.

    Lúc đầu có công binh đi mở đường, thiết giáp đi đoạn hậu, trên cao trực thăng quần đảo. Nhưng khi ra khỏi thành phố chừng vài mươi cây số, bắt đầu xuyên qua rừng thì bị đánh thọc sườn. B.40 lao thẳng vào xe. Rồi lựu đạn ném như vãi cát. A.K nổ cồng cộc từng tràng. Lửa và khói mù trời. Tiếng súng nổ. Tiêng thét gào. Tiếng rên xiết kêu la tuyệt vọng. Một cảnh hoảng loạn chưa từng thấy. Dân hốt hoảng giẫm đạp lên nhau. Lính vứt súng đi tìm vợ con. Cả một quân đoàn thiện chiến giờ như một con rồng bị thương đang cố trườn mình ra biển!

    Trước đó, cuộc hành quân của chúng tôi chưa được mấy ngày đã được lệnh khẩn cấp phải quay về. Chúng tôi không kịp về trại mà phải xuống Pleiku để di tản ngay. Lúc đầu còn đi theo từng trung đội, sau mạnh ai nấy đi. Chẳng mấy chốc chúng tôi lọt giữa một rừng người hốt hoảng. Người ta tranh nhau leo lên xe, chẳng cần biết là lính hay dân. Rồi người ta cướp xe, cán cả lên người bị thương mà đi. Phía trước có cầu bị sập. Phía sau không cần biết cứ đùn đẩy tới trước. Cả một đám người lúc nhúc loi nhoi, tới không được, lui cũng không. Pháo địch lại rót tới không thương tiếc! Máu và thịt tung lên đỏ thắm như xác pháo.

    Mình đầy máu me, tôi bị hất tung lên cao rồi rơi xuống bìa rừng. Bị choáng một lúc. Khi tỉnh lại tôi nhận ra rằng, nếu cứ nhập vào cái đoàn người vừa đói khát vừa điên dại đó, trước sau gì tôi cũng bị xéo nát. Tôi tìm tới một gốc cây nghỉ mệt, mặc cho đoàn người xe pháo tuyệt vọng vẫn cứ bò qua.

    Tôi chập chờn trong cái đêm kinh hoàng nhất của đời mình. Hơn cả lúc cô Sáu tôi chết. Cái khủng khiếp không hẳn do đạn bom chết chóc mà là một nỗi tuyệt vọng to lớn làm cho cả đầu óc và chân tay tưởng chừng rũ liệt.

    Sáng ra, đoàn người đã đi suốt đêm bỏ lại con đường đầy những súng ống giày mũ và những xác chết không còn nhận ra mặt người. Đau xót làm sao là hãy còn những đứa bé xao xác đi tìm cha mẹ. Tôi định gom chúng lại dẫn đi. Nhưng lúc ấy có nhiều toán du kích xuất hiện. Bọn họ đi thu nhặt súng. Tôi lại phải nằm xuống giả vờ chết. Mặc cho những đứa bé dãy dụa khóc la, họ vẫn buộc chúng đi theo họ vào tận rừng sâu. Tôi cố nghỉ là họ không nỡ đem chúng đi bắn để khỏi phải gào lên!

    Thật may là tôi không bị thương tích gì. Tôi nhặt một biđông tìm chút nước. Tôi uống một ngụm rồi cứ phía trước mà đi đại chẳng cân biết đây là nơi nào. Vượt qua những vũng máu, những xác xe tăng đang còn cháy dở, tôi đến gần một con suối. Lúc ấy tôi nghe một tiếng rên. Tôi tìm tới, chắc là có người đang bị thương. Nhưng thật bất ngờ, đó là một người đàn bà với cái bụng to kềnh đang quằn quại vì sắp sinh. Dĩ nhiên là tôi ngồi xuống bên cạnh, dù tôi không biết sẽ phải giúp đỡ chị ta bằng cách nào.

    Tôi chưa dám hỏi nói gì với chị. Trông chị mệt lã. Mồ hôi chảy ướt cả tóc. Bên cạnh chị, một xác chết nằm sấp, chiếc mũ sắt che kín mặt anh ta. Tôi thấy đau nhói ngang ngực. Chắc chắn cái xác ấy là cha của đứa trẻ chưa biết sẽ được sinh ra bằng cách nào!

    Dường như cảm nhận có người ngồi bên cạnh, mắt chị vẫn nhắm, nhưng miệng chị run rẩy thều thào: “Xin đừng bỏ đi! Hãy làm phước giúp tôi!“. Tôi vội lên tiếng để chị yên lòng: Ờ, có tôi ở lại đây, chị đừng sợ. Chị mở choàng mắt, ngạc nhiên khi thấy tôi là một người đàn ông. Chị nói như khóc: Xin anh giúp giùm mẹ con tôi. Tôi gật đầu.

    Liền sau đó, chị cong người lên vì đau. Tôi vội ra sau đỡ lấy người chị. Chị cắn môi đến bật máu để nén tiếng kêu. Tôi chưa thấy một người đàn bà nào trở dạ trong cảnh đau thương tuyệt vọng như chị. Tôi rùng mình nghĩ tới mẹ tôi. Cái đêm mà mẹ sinh tôi ra ở bờ sông chắc cũng trơ trọi, đớn đau và tuyệt vọng như thế này. Tôi thấy thương mẹ tôi quá. Bao nhiêu giận hờn, ấm ức, giận mẹ giận đời, như cục đá to suốt bao nhiêu năm chẹn ngang ngực, bỗng chốc tan ra như nước.

    Bỗng chị quờ quạng nắm chặt tay tôi. Chặt đến nỗi tôi tưởng chừng chị sắp bóp nát nó ra. Hai gót chân chị cày trên đất để tìm chỗ tựa. Người chị như một cánh cung. Chị nín thở rồi bật ra một tiếng “ối”.

    Chị ngã vật ra. Tôi cũng ngã theo.

    Ơn trời, chị sinh được một cháu bé. Khi tôi đỡ đứa bé trên tay, một thằng cu, nó khóc thật lảnh lói. Tôi mừng đến chảy nước mắt. Cũng là tiếng khóc, nhưng không phải là tiếng khóc của những con người khốn khổ vừa đi qua, mà tiếng khóc mới, ấm và vui quá chừng. Không hiểu tiếng khóc đầu tiên của tôi có được như vậy không?

    Mẹ của cháu tuy mệt, nhưng nụ cười đã làm cho khuôn mặt chị trở lại bình thường, không còn méo mó nhăn nhúm nữa. Chị đỡ lấy con, nhờ tôi đi xuống suối lấy nước. Sau đó, chị chỉ cho tôi một số việc mà các bà mụ phải làm. Tuy lúng túng vụng về nhưng tôi đã làm những công việc kỳ lạ đó không một chút ngượng ngập xấu hổ.

    Sau đó, để yên cho chị rủ rỉ nựng con, tôi lặng lẽ đem cái xác của người chồng đến một gốc cây gần đó. Tôi bẻ lá cây rừng phủ lên người anh, như tôi đã từng lót lá để chôn cô Sáu. Tôi khiêng đá chặn lên để thú rừng không moi xác anh. Tôi cũng dùng đá khắc tên họ anh lên cây để may ra sau này chị biết chỗ mà tìm.

    Khi mọi việc xong xuôi, ngày cũng sắp tàn. Tôi đến gần chị và nhận ra khuôn mặt chị đầm đìa nước mắt. Chị nhìn tôi, nói gần như nấc lên từng tiếng:

    – Anh gì ơi! Mẹ con tôi biết lấy gì đền ơn anh !

    – Trông chị hãy còn mệt lắm. Chị ngủ đi!

    – Anh ấy là chồng tôi.

    – Tôi cũng đoán vậy.

    – Anh ấy bị trúng đạn.

    – Anh chị về đâu ?

    – Về Nha Trang. Chắc còn xa lắm phải không?

    – Tôi cũng không biết nữa, nhưng sẽ cố đưa chị về ít ra là tới Tuy Hòa.

    – Anh khổ với chúng tôi quá. Chắc là Trời Phật đưa anh tới giúp chúng tôi.

    – Chị đừng nghĩ ngợi lung tung. Tôi với anh ấy cùng là lính mà.

    Rất may là anh chị đã chuẩn bị cho đứa con đầu lòng rất chu đáo. Những tã lót và quần áo của cháu bé vẫn còn sạch sẽ thơm tho. Anh là trung uý và chị là giáo viên tiểu học. Thật tiếc là anh không còn sống để được thấy đứa con xinh đẹp của mình chào đời.

    Đêm hôm đó, tôi đốt một đống lửa bên cạnh nấm mồ bằng lá của anh. Gần đó vợ con anh đang nằm ngủ. Xa xa vọng lại tiếng máy bay trinh sát và khu rừng đôi lúc sáng lên dưới ánh hoả châu buồn bã.

    Sáng hôm sau chúng tôi lên đường. Một cuộc hành trình vất vả mà có lẽ suốt đời chị không bao giờ quên được. Cuộc hành trình giữa những xác chết đã bắt đầu hôi thối. Dù can đảm và chịu đưng đến mấy cũng có lúc chị phải bật khóc. Chân chị phồng rộp. Nhiều đoạn tôi phải ghé lưng cõng chị đi. Đứa bé trên lưng chị ngật ngừ vì bị sốt.

    Năm ngày sau, chúng tôi cũng bò được ra khỏi rừng và đến được những xóm làng nghèo nàn thưa thớt. Dù vậy, những người ở đây cũng đã giúp chúng tôi thoát chết.

    Khi tôi đưa được chị đến Tuy Hoà thì cờ MTGPMN đã tung bay ngạo nghễ. Tôi tìm cách đón xe cho chị về Nha Trang. Đứa bé đã biết hấp háy nhìn tôi khi tôi đặt một ngón tay lên trán bé để từ biệt. Chị không nói lên lời, nước mắt lặng lẽ nhỏ xuống mặt con. Tôi chúc chị lên đường bình yên. Còn tôi, con đường trước mặt chắc chắn là không bình yên một chút nào.


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Khóc cười trên một xứ sở buồn vô hạn

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    17.

    Giữa những con phố đầy cờ nửa xanh nửa đỏ, mọi người mệt mỏi trở về sau khi đã cố sức chạy theo quân miền Nam mà không kịp. Hay đúng hơn là cũng không còn biết chạy đi đâu nữa. Lịch sử đang viết tiếp những dòng dữ dội. Hết Phan Rang, Phan Thiết, đến Long Khánh, Biên Hoà rơi rụng như những đồng bạc vô hồn trong tay một con bạc tháu cáy. Sài Gòn bị bao vây bỡi một số lớn những máy cày giả làm xe tăng. Tổng thống một ngày Dương văn Minh chỉ kịp ghi cái dấu chấm nhỏ vào lịch sử bằng cách tuyên bố đầu hàng vô điều kiện!

    Dù sao thì cũng đã hoà bình, tuy rằng con chim bồ câu một cánh thì xanh, một cánh thì đỏ. Từ đây các bà mẹ không phải đêm đêm ra thắp nhang giữa trời, cầu xin Trời Phật chở che cho con trai khỏi phải bị hòn tên mũi đạn. Các chị vợ lính khỏi phải ngất xỉu vì nhận giấy báo tử của chồng. Và lúa chín sẽ có người chờ gặt!

    Trở về!

    Hai tiếng nghe náo nức làm sao!

    Trên đường về làng, nhộn nhịp những người hồi cư. Vẫn gồng vẫn gánh, vẫn tay xách nách mang, vẫn luộm thuộm rách rưới như ngày nào bỏ cả nhà cửa ruộng đông mà đi. Sau bao nhiêu năm dấp dúi bên hông phố chợ, những con người của đồng ruộng cũng chẳng giàu có văn minh hơn chút nào. Đôi mắt ai cũng mờ đi ít nhiều. Giọng nói còn đục và buồn hơn. Biết sống làm sao đây khi ruộng đồng cỏ lát cao ngập đầu người. Những đồng lương ít ỏi của những đứa con đi lính xẻ chia đã không còn nữa. Trên đầu đứa nào cũng cao lêu nghêu một cái mũ nguỵ quân nguỵ quyền.

    Tôi đã gặp các ông hương kiểm, hương bộ, các ông biện, ông câu… Với cây gậy trong tay các ông run rẩy đi theo con cháu. Chừng ấy năm chạy loạn, chừng ấy năm sống bụi sống bờ, các ông hãy còn liu xiu bước đi đã là may. Đem được cái nắm xương về với quê nhà thì con chim hoà bình màu gì cũng được!

    Đã tới làng rồi đây!

    Tôi lội qua sông leo lên cái mô đất bên cầu. Giữa cây cỏ hoang vu, một cây khế đúng là đã mọc trên chỗ cô tôi nằm. Những bông khế đầu mùa tim tím đang lặng lẽ toả hương. Tôi cứ tưởng mình sẽ phải khóc nức nở khi được quỳ trên mộ của cô. Nhưng thật lạ, tôi lại thấy lòng mình rất ấm áp. Như thể tôi đang gặp lại cô. Tôi nói thầm: Con đã về rồi, thưa Mẹ!

    Trong lúc tôi đang lay hoay thắp nhang cho cô thì có tiếng đạn lên nòng và có tiếng quát :

    – Mày là thằng Được chó đẻ phải không?

    Tôi nói:

    – Đúng, Lê văn Được là tôi.

    – Đi theo tao!

    Tôi nói:

    – Để tôi thắp cho cô tôi cây nhang đã!

    Nhưng bọn họ túm nắm nhang vừa mới đốt ném vào bụi.

    – Đi ngay! Không nhang khói gì hết. Đồ chó đẻ mà cũng bày đặt nhang với khói!

    Tôi bị dí súng vào lưng bắt phải đi đến trụ sở Uỷ ban quân quản lúc này đang che tạm trên nền nhà ông Chánh nhạc. Một người hơn 30 tuổi đầu đội mũ tai bèo, lưng đeo súng colt xô ghế đứng dậy hỏi tôi:

    – Hừ, thằng chó đẻ mày có biết tao không?

    Tôi không trả lời. Thực ra tôi biết. Nó là thằng Khấu con ông Năm Qườn chăn vịt. Ngày trước ở làng người ta gọi đùa ông là thiếu tá vì dưới cây sào của ông lúc nào cũng có cả mấy trăm con vịt đẻ. Bà vợ ông cũng đẻ nhiều như vịt, nhiều đến nỗi ông không nhớ hết tên con. Để khỏi nhầm, ông gọi kèm với một đặc điểm nào đó. Như Sủng lé, Mận còi, Khấu thẹo…Một lần đuổi theo mấy con vịt lạc bầy, ông đã bị nước lụt cuốn trôi. Khấu thẹo thay cha nắm cây sào. Chẳng biết có phải vì lý lịch chăn vịt mấy đời mà nay nó được chăn dắt dân làng An Định lúc này cũng đang lao nhao chẳng khác gì một bầy vịt đói.

    Múa cây colt trong tay như một viên thiếu tá thực thụ, nó nói:

    – Giải phóng đã từ lâu rồi sao mày còn ôm chân đế quốc?

    Tôi nói:

    – Hôm nay mới mùng 10 tháng 5.

    – Tao nói từ khi giải phóng Bình Định kia!

    – Nhưng nay cũng đâu đã hết hạn.

    – Mày cãi lý với tao hả. Nếu không gông cổ mày tới đây, đã chắc gì mày chịu trình diện. Mày có biết cái tội của mày lớn đến chừng nào không?

    – Tôi trốn không được thì phải đi lính vậy thôi. Tôi nào đã bắn chết ai đâu!

    – Mày đem chó khui hầm bắt đồng chí Thảnh và nhiều đồng chí khác mà không bắn giết ai à? Những đồng chí ấy đáng giá cả trăm cả ngàn người. Lại còn đồng chí Khứ nữa. Mày ác đến độ để lũ chó kéo xác cho lũ giặc xem.

    – Ông ấy cố lết ra miệng cống uồng quá nhiều nước nên chết. Tôi muốn cứu cũng không được.

    – Vậy là mày nói đồng chí ấy ngu?

    – Không. Tôi nghe người ta nói bị thương mà uống nước nhiều nước là chết không kịp ngáp.

    Thế là hắn quát:

    – Tống cổ nó vào xà lim.

    Thực ra đó là cái nhà tắm của cô Thảnh đã bỏ hoang từ khi có một thằng phải gió nằm trên mái nhìn trộm. Sau bao nhiêu năm dưới bom đạn chẳng hiểu sao nó vẫn còn! Nó đầy cóc đầy nhái và trên tường đầy những hình vẽ tục tĩu. Tôi bị trói, một tay quặt ra sau lưng, một tay vòng sau ót, hai chân không bị cùm nhưng cột vào một khúc cây nên chỉ có trời mới cứu được. Tôi cố chịu trận suốt đêm.

    Sáng hôm sau chúng đem tôi ra trước dân, thực ra là trước một đám du kích, chỉ lèo tèo vài cụ già ốm yếu. Tôi biết là mình đang bị đem ra đấu tố. Tôi được cởi trói, nhưng bị bắt quỳ chống hai tay xuống đất. Tiếng Khấu thẹo:

    – Bò tới đây!

    Tôi bò tới. Hắn thảy một gói gì hôi hôi trước mặt bảo ăn đi. Tôi không ăn, cả bọn cùng cười. Hắn chế nhạo:

    – Chó mà chê cứt à?

    Tôi im lặng vì biết những gì sắp xảy ra. Đó là sau khi bị làm nhục đủ điều sẽ ăn đấm ăn đá, bị báng súng nện vào đầu, gậy đập vào lưng và sau cùng là bị quẳng xác xuống sông. Y như chó chết.

    Tôi đang chờ đợi cái kết thúc cuộc đời một cách khôn nạn như thế thì có đứa đến nói nhỏ vào tai Khấu thẹo gì đó. Hắn bực bội chửi thề, rút súng bắn lên trời mấy phát. Hắn chỉ thẳng vào mặt tôi, nói:

    – Tội của mày đáng băm vằm ra trăm mảnh chứ không phải chỉ có mỗi lá gan như của thằng Mậu thôi đâu. Trước đây thì mày đã nát xương với tao rồi. Nhưng nay hoà bình thì để Trên xử. Mày đã hại các cụ lớn thì hãy để phần cho các cụ trị mày. Thôi đưa nó lên Huyện.Đồ chó đẻ!

    Bọn chúng không bắt tôi phải đi theo kíểu chó. Nhưng hai tay bị trói, lại có cả tiểu đội du kích áp tải, nên dọc đường đi, mọi người nhìn tôi thương hại như nhìn một tử tội trên đường ra pháp trường.

    Tại Uỷ ban quân quản huyện, tôi được đối xử nhân đạo hơn. Người ta cho tôi ăn, dĩ nhiên là cơm độn. Rồi người ta đưa giấy bút bảo tôi kê khai những tên biệt kích Mỹ. Tôi nào nhớ hết. Vả lại tôi cũng chỉ nhớ mang máng một vài đứa. Tôi định viết hai chữ: không biết, nhưng nhớ lại hồi bị giam ở quận, nếu không khai bậy vài tên sẽ bị đánh nhừ đòn, nên tôi phịa ra cả một danh sách dài với những tên Mỹ và Nùng mà dù có thắp đuốc đến năm 2000 cũng không tìm ra được.

    Có danh sách ấy người ta coi tôi như thằng thủ ngữ Đực dạo nào. Nghĩa là từ tôi sẽ phăng ra bọn biệt kích mà người ta tin là còn được cài lại để chống phá Cách mạng. Tôi được phép mua thuốc hút, được mua bia nếu muốn. Cứ như tiêu chuẩn của cán bộ cao cấp. Nhưng rồi tôi phát hoảng khi nhớ lại rằng, cũng chính vì thế mà thằng thủ ngữ Đực đã bị đem ra bắn bỏ ở đồng cây Sanh!

    Cũng may là người ta có quá nhiều việc phải làm, nào đổi tiền, nào cải tạo công thương nghiệp, nguỵ quân nguỵ quyền… nên người ta quên mất cái danh sách bậy bạ của tôi. Sau đó, người ta đưa tôi đi cải tạo mặc dù tôi không phải là sĩ quan. Tôi bị ghép vào tội ác ôn gây nợ máu với nhân dân. Cái danh sách ở làng An Định đi học tập, chẳng những tên tôi đứng đầu mà còn gạch đít màu đỏ đến những hai lần.

    Đến trại K….

    Một tháng sau, người ta rà soát lý lịch thấy tôi chỉ là một thằng lính chó nên đuổi về. Nhưng vừa về tới làng thì Khấu thẹo bảo tôi bỏ trốn, lại thộp cổ đưa đi. Lại đuổi về. Rồi lại bị áp giải đưa lên. Đá qua đá lại như thế, sau cùng người ta ném tôi vào chung với bọn ma cô đĩ điếm, bọn anh chị cướp giật trước đây.

    Có vào đây mới biết địa ngục là có thật. Nó ở ngay trên cái trần gian này chứ không cần phải xuống tận âm phủ. Chẳng biết do ai đồn thổi mà chúng tưởng tôi đã từng làm chủ bar nên rất giàu. Có đứa còn bảo tôi đi biệt kích Mỹ đã từng nhảy sô ra Bắc nên tiền tử và tiền thưởng để đâu cho hết. Cứ sau khi cán bộ quản giáo vừa quay lưng là chúng lôi tôi ra tẩm quất bằng những cái lên gối muốn ói máu, những cái thúc cùi chỏ đến nghẹn thở. Rồi chúng bắt tôi uống một thứ nước quỷ quái gì đó, nửa như nước đái bò nửa như nước rửa thớt để tôi nôn thốc nôn tháo ra. Không thấy gì, chúng lại bắt tôi uống một thứ nước khác đau thắt ruột, rồi bắt một đứa ngồi xem tôi ỉa có hột xoàn hay không. Chúng hành hạ tôi suốt cả tháng trời đến nỗi chỉ còn là cái xác khô nằm trong xó. Cán bộ tưởng tôi chết cho đem đi chôn. Bọn chúng không thèm đào lỗ, chỉ quăng tôi xuống suối. Có một người mò cá vớt được, cho tôi uống nước gừng và quế. Nhờ đó tôi sống lại được, một mình bò về trại.

    Mãi sau này chúng mới biết tôi là đứa không mẹ không cha, mới sinh đã bị đem thả trôi sông, đi lính chỉ là lính chó! Từ đó, chúng coi tôi như cùng một giuộc, nghĩa là cùng bị cuộc đời chó má chà lên đạp xuống không biết bao nhiêu lần. Chẳng những chúng thôi hành hạ mà còn cho chác, khi miếng đường khi điếu thuốc. Chúng còn bảo khi ra tù chúng sẽ bày cho mánh làm ăn!

    Tôi cố gắng cải tạo thật tốt, nghĩa là cố gắng giữ đúng nội quy của trại. Sáng nhận một củ khoai nhỏ bằng ngón tay để đánh thức cái dạ dày đã ngủ yên. Rồi vác rựa vào rừng để chặt cây hay vác cuốc xuống ruộng tuỳ theo đội. Trưa về, đúng một chén cơm trộn bo bo và một phần tư con mắm thối. Chiều lại đi vào rừng, lại xuống ruộng. Lại một chén khô rốc gọi là cơm và một phần tư cái xác thối gọi là mắm. Tối xem TV để thấy cả nước đang hăng say xây dựng XHCN!

    Sau cùng đến giờ ngủ. Cứ tưởng với cái thân xác đói khát mệt rũ người ra, đứa nào cũng sẽ ngủ như chết. Nhưng trong đêm tối đủ thứ tiếng động lịch kịch. Tiếng rên, tiếng khóc, đôi khi tiếng thét như một đường gươm. Tôi co quắp người bịt tai lại như con trút. Có những cảnh cưỡng dâm khủng khiếp như trong cái buồng tắm của bar thằng Hậu!

    Mặc dù năm nào tổng kết, tôi cũng được coi là tiến bộ, được đề nghị cho ra trại. Nhưng địa phương vẫn cứ bảo là tôi cần phải cải tạo nữa, không chịu nhận. Sau nhiều lần như vậy, quản giáo đâm gắt: cái làng An Định chết tiệt, có giỏi thì lên đây mà cải tạo. Nhờ vậy tôi được cho về sau đúng 5 năm giáo dưỡng! Nếu tính ra thiên thu thì biết mấy ngàn cái thiên thu trong một đời người!

    Khi về đến làng, việc trước nhất của tôi là đến thăm mộ cô Sáu. Lần này thì tôi khóc nức nở như một đứa bé bị lạc mất mẹ. Đến những mười lăm năm kể từ ngày cô mất, giờ tôi mới được bình yên ngồi bên cạnh mộ cô, thực ra là ngồi trên chỗ cô nằm mà chỉ có mỗi cây khế thay cho bia mộ. Tôi bồi hồi nhớ lại những ngày sống bên cô. Những lần đi mót lúa, đi mua mía và cái áo mới cổ vuông. Đó là những ngày êm đẹp nhất. Tôi thiếu cơm, thiếu áo nhưng không bao giờ cảm thấy thiếu Mẹ.

    Cái chòi của cô đương nhiên không còn. Cái rẻo đất ấy người ta cũng không cho làm nhà. Tôi được anh Cộng trưởng tràng ngày nào giờ là trưởng ban thôn cho ở tạm trong nhà kho của HTX. Rồi tôi được giao cho việc giữ sổ sách, mỗi ngày được 10 điểm, quy ra thóc là được 500 g.

    Mọi việc có vẻ êm xuôi như thế là nhờ Khấu thẹo không còn ngồi trên cái ghế chủ tịch nữa. Anh ta sau mấy năm được cho đi học bồi dưỡng nhưng không qua được cái bổ túc công nông cấp 1 bèn chửi đổng: Đù mẹ, thà làm thằng chăn vịt sướng hơn làm thằng cán bộ. Anh ta lại tậu một bầy vịt và dưới cây sào của anh, bầy vịt ngoan ngoản để cho anh đếm dẽ dàng hơn là làm mấy con tính cọng trừ nhân chia.

    Đời sống ở HTX so ra cũng chẳng khác gì mấy ở trại giáo dưỡng. Cũng sáng đánh kẻng ra đồng. Trưa đánh kẻng về, chiều lại đánh kẻng ra. Lúa thóc đến mùa được đưa hết vào những cái kho to đùng mới cất trên các gò đầy mồ mả. Ban quản trị HTX nắm hết tất cả soi ruộng trong làng, trở thành một đại địa chủ còn to gấp trăm lần ông tổng Bá. Chỉ khác một điều là anh có thể cầm cuốc đứng nhơi nhơi cho hết giờ rồi về. Và tối đến anh có thể đi ăn trộm!

    Cứ đem theo một cái bao cát rồi nằm sấp trên bờ ruộng mà trườn đi. Chân thì đạp tay thì tuốt. Tuốt, tuốt mãi cho đến khi đầy bao hay chảy máu tay thì thôi. Năm Quầng, Sáu Quẳng mà có sống lại cũng phải cúi đầu bái phục! Ở trại giáo dưỡng tội ăn cắp của tập thể là bị bỏ đói, nhiều lần thì bị cùm chân. Nhưng ở làng thì chẳng ai làm gì anh vì gần như cả làng cùng đi ăn trộm như thế. Biết bỏ đói ai, cùm ai bây giờ! Với lại cũng phải làm ngơ cho người ta sống chứ. Một hạt lúa bây giờ cõng đủ thứ trên lưng. Nào quỹ này quỹ nọ, nào phải mua nông cụ, nào tái sản xuất, nào xây dựng kênh mương và phải nuôi mấy chục người trong Ban quản trị nên công điểm tụt dần mỗi ngày công chưa được vài lạng.

    Còn đói hơn hồi chín năm. Và để có cái áo cho con, cái quần cho vợ, trai tráng trong làng kéo nhau đi buôn. Ngày xưa, chợ là của đàn bà, bây giờ chợ là của đàn ông. Bỡi vì chẳng những phải biết khiêng biết vác mà còn phải biết chạy. Chạy và chạy. Nếu chạy không giỏi thì bị quản lý thị trường và thuế vụ tịch thu! Bây giờ có hàng ngàn ông Khứ đang ngày đêm chực chờ rình rập ở các bến xe, các con tàu, các sân ga, các ngõ vào thành phố…

    Ham vui và cũng đi một lần cho biết Sài Gòn, tôi đã theo bọn họ thử làm con buôn! Với 20 ký gạo buột trên lưng, ăn ngủ nằm ngồi cũng không được rời ra, trông cứ như một cái bướu. Bọn họ, kẻ thì mang giỏ gà, kẻ thì mang heo con. Buồn cười nhất là cái anh bán heo. Anh ta mang hai con heo trên lưng cứ như Phạm Công mang hai con ra trận. Cốt Đột thấy thương quá bèn cắt cho cái đầu rồi bãi binh. Nhưng thuế vụ thì không. Anh ta bị rượt chạy mà không trốn vào đâu được vì hai con heo cứ mãi kêu ét ét !

    Cả bọn trốn vào các nhà gần ga. Khi con tàu mệt nhọc bò tới, có cả trăm con người với đủ thứ lỉnh kỉnh trên lưng cùng đè nó ra mà leo lên. Bọn trên tàu sập cửa, bọn dưới đất liền phá cửa. Một cuộc hỗn chiến như du kích tập đánh xáp lá cà. Kẻ lên được thì chết ngộp trong hơi người, hơi heo gà mắm muối. Kẻ chưa lên thì cố đu theo như những con nhái. Trên mui đương nhiên là đặc kín người. Thỉnh thoảng có kẻ ngủ quên hay qua cầu bị gạt rơi xuống!

    Xe qua Vân Canh như đi vào một cuộc phục kích của thổ phỉ. Một cơn mưa cây và than trút vào các toa. Ai không tránh được thì đành ôm cái đầu máu hay cái tay gãy! Xe qua Suối Dầu là mưa chuối cây. Xe vào Phan Thiết là mắm muối, là cá khô…

    Phì phò, è ạch mãi đến hai ngày đêm, con tàu mới lết nổi tới Sài Gòn. Cái thành phố khổng lồ gần như đang bị bao vây sống lây lất nhờ bọn con buôn đem những thứ không ăn được như lốp xe, vải vóc, thuốc trừ sâu… đổi lấy những thứ ăn được. Một cuộc bán buôn chụp giựt diễn ra dưới sự bố ráp của đủ thứ lực lượng. Tu huýt kêu toét toét…Mặc kệ! Đạn bắn chỉ thiên kêu chóc chóc! Cũng mặc kệ! Bị rượt đuổi như chuột…Mặc kệ tuốt! Vừa chạy vừa bán. Vừa trốn vừa bán. Đang té ngã cũng cứ bán.

    Tôi bị đạp ngã nhào. Chưa kịp ngồi dậy đã bị đè nghiến. Chỉ nghe một tiếng rẹt, cái cục gạo dính chặt suốt mấy ngày trên lưng bỗng biến mất. Khi tôi đưng lên được thì một gã đeo băng đỏ quát vào mặt: Cút xéo đi, đồ con buôn!

    Cái cảnh ấy ngày nào cũng diễn ra dưới ánh nắng mặt trời nóng bỏng và buồn bã của phương nam.

    Thế rồi, bỗng dưng bức tường Bá Linh kiên cố là thế lại sụp đổ. Các nước Đông Âu rơi rụng y hệt như những thành phố Miền Nam năm 75. Liên xô thành trì Cách mạng vô sản thế giới cũng tan rã theo như tuyết tan trên sông Vônga.

    Cả nước bàng hoàng!

    Người ta không còn thách thức: Ai thắng ai ! nữa, mà làm một cuộc Đổi Mới là trả ruộng lại cho dân! Thực ta là chia và tôi cũng được đúng 475 thước. Bây giờ, tôi có nhiều cục đất để ném chó ỉa và không còn bị gọi bằng thằng như trước nữa.

    Nhưng bấy nhiêu ruộng đất đó cũng chỉ đổi đời bằng tiếng gọi ông chứ nghèo vẫn hoàn nghèo. Tôi dành 75 thước cất một cái nhà chỉ lờn hơn cái lều cô Sáu tôi một chút, còn lại suốt năm cặm cụi trên mảnh đất đó như con gà bươi mãi trên cát.

    Những nhà khác được chia nhiều hơn vì có đông nhân khẩu. Nhưng cũng lại đông hơn những cái miệng há ra đòi ăn như những con chim tu hú trong các tổ chim sáo! Và cũng chẳng hơn gì tôi, cũng lại nghèo, có khi còn thê thảm hơn vì ốm đau phải đem cầm thế, bán lần bán hồi rồi cũng lại trắng tay.

    Một ngày tháng ba, một chiếc xe kêu lạch cạch chở một chiếc quan tài về làng. Mọi người nhấp nhỏm kéo ra xem. Té ra, đó là thằng Hậu. Nó không mặc áo đại tang, nhưng trông nét mặt buồn rũ ra, ai cũng biết người nằm trong hòm là cha nó.

    Trong làng, gần như ai cũng mang ơn nó nên hỏi thăm rối rít. Câu chuyện của nó đúng là có một kết thúc quá buồn. Bao nhiêu tài trí, khôn lanh, chỉ trong một buổi sáng đã không gỡ nỗi cái mũ kinh tài cho Việt cọng. Sau 75, một cái mũ khác to hơn, nặng hơn, cái mũ làm tay sai cho giặc, làm nhục phụ nữ Việt Nam anh hùng (mở bar chứa gái), đã đưa nó tới cái vùng ma thiêng nước độc gọi là kinh tế mới. Ở đó với hai bàn tay không, với vợ con đau ốm, nó thực sự quỵ xuống.

    Cũng có lần nó được một vài người quen cũ thương tình cho đi vượt biên. Chiếc thuyền mỏng manh như một cái mo cau cố sức trườn tới hải phận quốc tế. Rất nhiều tàu đi qua, có tàu to như cái xóm Miễu, ban đêm đèn thắp sáng choang. Nhưng chẳng tàu nào chịu dừng, mặc cho nó và những người trên tàu tung mũ nón, kêu gào đến khản cổ. Mãi mấy ngày sau mới có một tàu thả ca nô xuống. Nhưng khi lên tàu, hóa ra là tàu Liên xô! Bọn nó bị đưa vào Đà Nẵng, rồi bị tống giam vì tội phản quốc.

    Ra tù, vợ con nó trôi dạt chẳng biết đi đâu, chỉ còn mỗi ông già nằm thoi thóp mong thấy mặt con rồi mới chết. Có lẽ linh cảm cái tai nạn tán gia bại sản, nên trong những ngày mà nó rủng rỉnh tiền bạc, ông cụ đã dành dụm ky cóp những đồng tiền ăn quà, mua được mấy chỉ vàng. Nhờ vậy, nó mới đủ tiền thuê một chiếc xe than đưa xác ông cụ về quê.

    Sau đám tang nó ở lại làng một vài ngày. Nó có đến nhà tôi một lần, ăn một bữa cơm không độn bo bo và uống một chút rượu mía thay cho rượu úyt ky pha coca. Tôi quá nghèo chẳng biết lấy gì giúp đỡ nó.

              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Khóc cười trên một xứ sở buồn vô hạn

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    KẾT.

    Bây giờ đã là năm 2000.

    Mặt trời vẫn mọc. Nắng vẫn vàng như mật ong. Trời vẫn xanh màu xanh muôn thuở. Chẳng có gì là đã đến ngày tận thế. Chúa cũng chỉ hù dọa mà thôi.

    Dù sao được sống đến cái năm mà cả thế giới hồi hộp đón chờ cũng thật là hạnh phúc. Các ông già đã được con cháu lần lượt khiêng qua bên kia sông. Tôi tròn sáu mươi tuổi. Cũng sắp được lên lão làng.

    Từ một đứa bé bị thả trôi sông, trải qua sáu mươi năm, trở thành một ông già thật là dài. Những tháng năm cuồng nộ đã đi qua đời tôi như một bầy ngựa điên. Nhiều lúc tôi tưởng đã bị chúng giẫm đạp cho nát tan. Tôi bị tung lên, bị quật xuống, bị đá qua bên này, bị đạp qua bên nọ.

    Nhưng cuộc đời dù khốc liệt đến đâu vẫn có cách san sẻ riêng của nó. Tôi kể ra đây câu chuyện cuối cùng để kết thúc những trang hồi ký buồn nhiều hơn vui này.

    Một buổi chiều, trời cũng đẹp như chiều hôm nay. Đó là lần giỗ thứ ba mươi lăm của cô Sáu tôi. Đám giỗ ngay tại cái mô đất bên cầu. Bên cạnh cây khế giờ đã xum xuê hoa trái, tôi đặt một đĩa cơm vắt và muối rang, là hai thứ mà cô tôi thích vì cho rằng đó là những thứ quý nhất trên đời.

    Tôi đang lâm râm khấn khứa, bỗng có cảm giác nóng ran một bên má. Tôi quay lại. Đứng trên cầu là một người đàn bà đang lặng nhìn tôi. Hai hàng nước mắt sáng lên trong nắng cùng những sợi tóc bạc.

    Tôi kêu lên thảng thốt :

    – Chị Thảo! Có phải chị Thảo không?

    Chị gật đầu.

    Tôi sụp lạy. Vừa lạy cô tôi, vừa lạy tạ đất trời.

    Khi tôi ngẩng đầu lên, một người con trai cao lớn ở đâu đến đứng sau lưng chị. Tôi nghe tiếng nói như từ trong mơ hay từ một cõi trời nào đưa lại:

    – Chào cha đi con!

    Lần này thì tôi khóc.

    Đứa con trai ôm lấy tôi, áp cái đầu đang muốn nổ tung vì bất ngờ vào cái ngực vững chải của nó. Một lúc sau nó mới ngửa mặt tôi ra, hôn lên cái trán đã bắt đầu nhăn nheo thay cho một lời chào.






    Viết xong lần thứ nhất năm 2004
    Lần thứ hai năm 2009
    Lần thứ ba hiệu đính năm 2011

    Khuất Đẩu



    Nguồn:https://tuongtri.com



              
Trả lời

Quay về “của người”