Mẹ và quê hương

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Mẹ và quê hương

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Mẹ và quê hương



    Giới thiệu: Tôi viết bài này hơn mười năm trước và đăng trong phần
    “Notes” khi tham gia Facebook. Mới đây Facebook ngưng phần “Notes” dù
    không xóa bài nên tôi mang về đây để các bạn chưa đọc có dịp đọc. Bài
    viết giới thiệu một phần đời của tôi và câu chuyện về bài thơ Đổi Cả
    Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười


    Một danh ngôn mà chúng ta thường nghe “thế giới có rất nhiều kỳ quan,
    nhưng kỳ quan tuyệt vời và vĩ đại nhất vẫn là trái tim người mẹ”.Thật
    vậy, bao nhiêu thơ viết về mẹ cũng không đủ, bao nhiêu nhạc hát về mẹ
    cũng không vừa. Biển Thái Bình bao la, nước sông Hằng cuồn cuộn nhưng
    không sao có thể so sánh được với tấm lòng của mẹ. Bản nhạc nào viết
    về mẹ cũng hay, bài thơ nào viết về mẹ cũng cảm động bởi vì ngôn ngữ
    dành cho mẹ là ngôn ngữ của trái tim.

    Mẹ là biểu tượng trọn vẹn và tuyệt đối của tinh thần Chân Thiện Mỹ.
    Nếu có một người để chúng ta có thể san sẻ những điều thầm kín, riêng
    tư nhất, thì người đó phải là mẹ. Nếu có một người có thể tha thứ cho
    chúng ta dù phạm phải bất cứ một lỗi lầm gì, người đó sẽ là người mẹ.
    Tôi tin, nếu chúng ta biết dành ý nghĩ đầu tiên của một ngày, thay vì
    để nghĩ đến chuyện hơn thua, danh lợi nhưng là để nghĩ về mẹ, nghĩ về
    khuôn mặt của mẹ, tiếng cười của mẹ, lời dặn dò của mẹ hay thậm chí
    chỉ để gọi tiếng mẹ thôi, chúng ta sẽ có một ngày an lành và hạnh
    phúc.

    Mẹ là người mang ta đến cuộc đời, và cũng là nơi ta trở về. Người đàn
    bà chân mang đôi dép ngược, khoác chiếc mền rách như trong một câu
    chuyện thiền mà chúng ta có thể đã từng nghe kể, dù bao mùa mưa nắng
    vẫn không than van, không oán trách, vẫn chờ đợi ngày về của đứa con
    mải mê trên đường đi tìm chân lý. Nếu chân lý mà chàng trai trẻ kia đi
    tìm là tình thương và sự thật thì chân lý sẽ không ở đâu xa mà trái
    lại vô cùng gần gũi. Trong tấm thân gầy yếu nhỏ nhoi của người mẹ chứa
    đựng cả một đại dương của hy vọng, tình yêu, sự thật và lòng vị tha
    sâu thẳm.





    Hơn mười năm trước, tôi có viết một bài thơ về mẹ, trong đó có hai câu
    đã trở thành quen thuộc:

    • Ví mà tôi đổi thời gian được
      Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.


    Bài thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ
    tôi từ Việt Nam. Giọng của mẹ như vọng lại từ một thế giới khác xa
    xôi. Tôi viết rất nhanh, nhanh hơn khi viết những bài thơ khác nhiều.
    Những dòng chữ, những câu thơ đúng ra là từ mơ ước, thao thức đã ấp ủ
    trong tâm thức tôi từ lâu lắm, chỉ chờ dịp để tuôn ra. Tôi không làm
    thơ, tôi chỉ chép như có một người nào đang nhắc nhở bên tai mình.
    Nguyên văn bài thơ như thế này:

    • Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
      Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
      Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
      Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi

      Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
      Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
      Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
      Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

      Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
      Bên đời gió tạt với mưa tuôn
      Con đi góp lá nghìn phương lại
      Đốt lửa cho đời tan khói sương

      Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
      Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
      Mẹ xa xôi quá làm sao vói
      Biết đến bao giờ trông thấy nhau

      Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
      Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ
      Đau thương con viết vào trong lá
      Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

      Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
      Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
      Ví mà tôi đổi thời gian được
      Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.


    Bài thơ đơn giản và dễ hiểu, không có gì phải cần bình giải. Tất cả
    chỉ để nói lên tâm trạng của một người con xa mẹ, bay đi như chiếc lá
    xa cành, mười năm chưa về lại cội. Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đã
    ngoài 60 tuổi và đang sống trong căn nhà tôn nghèo nàn ở Hòa Hưng Sài
    Gòn. Căn nhà nhỏ có giàn hoa giấy đỏ đó là nơi tôi đã sống tám năm.

    Nhớ lại đêm cuối cùng ở Sài Gòn, tôi đón xe xích-lô từ cửa sông về
    chào mẹ. Trời mưa lớn. Nhưng khi gặp mẹ, với tâm trí ngàn ngập những
    lo âu, hồi hộp cho chuyến đi, tôi không kịp nói một câu cho trọn vẹn
    ngoài ba tiếng “Con đi nghe”. Và như thế tôi đi, đi không ngoảnh lại,
    đi như chạy trốn. Để rồi hai ngày sau, khi chiếc ghe nhỏ của chúng tôi
    được hải quân Mỹ cứu vớt trên biển Đông vào khuya ngày 13 tháng 6 năm
    1981, đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nhìn về phía Nam, tôi
    biết quê hương và mẹ đã ngoài tầm tay vói của mình. Đời tôi từ nay sẽ
    như chiếc lá, bay đi, bay đi, chưa biết ngày nào hay cơ hội nào trở về
    nguồn cội.

    Nếu có một quốc gia mà những người dân của quốc gia đó đã phải từ chối
    chính đất nước mình, từ chối nơi đã chôn nhau cắt rốn của mình, tôi
    nghĩ, đất nước đó không còn bao nhiêu hy vọng. Việt Nam sau 1975 là
    một đất nước sống trong tuyệt vọng như thế. Dân tộc Việt Nam những năm
    sau 1975 là một dân tộc sống trong tâm trạng những kẻ sắp ra đi. Sài
    Gòn giống như một sân ga. Chào nhau như chào nhau lần cuối và mỗi ngày
    là một cuộc chia ly. Bắt tay một người quen, ai cũng muốn giữ lâu hơn
    một chút vì biết có còn dịp bắt tay nhau lần nữa hay không. Gặp người
    thân nào cũng chỉ để hỏi “Bao giờ anh đi, bao giờ chị đi”, và lời chúc
    nhau quen thuộc nhất mà chúng thường nghe trong những ngày đó vẫn là
    “Lên đường bình an nhé.”

    Đất nước tuy đã hòa bình rồi, quê hương đã không còn tiếng súng nhưng
    lòng người còn ly tán hơn cả trong thời chiến tranh. Đêm cuối ở Sài
    Gòn lòng tôi ngổn ngang khi nghĩ đến ngày mai. Ngày mai sẽ ra sao? Nếu
    bị bắt tôi sẽ ở tù như lần trước nhưng nếu đi được thì sẽ trôi dạt về
    đâu?

    Suốt sáu năm ở lại Sài Gòn, tôi chỉ nghĩ đến việc duy nhất là ra đi.
    Khi chiếc ghe nhỏ bị mắc cạn trong một con lạch ở Hải Sơn buổi sáng
    ngày 11 tháng 6 năm 1981, trời đã sáng, nhiều người, kể cả một trong
    hai người chủ ghe, cũng bỏ ra về nhưng tôi thì không. Tôi phải đi dù
    đi giữa ban ngày. Tôi phải tìm cho được tự do dù phải bị bắt và ngay
    cả phải trả giá bằng cái chết. Tự do đầu tiên, biết đâu cũng sẽ là
    cuối cùng và vĩnh viễn. Nhưng hai ngày sau, khi đứng trên boong tàu
    Mỹ, tôi biết mình vừa mất một cái gì còn lớn hơn ngay cả mạng sống của
    mình. Đó là đất nước, quê hương, bè bạn, con đường, tà áo, cơn mưa
    chiều, cơn nắng sớm, và trên tất cả, hình ảnh mẹ. Không phải những
    người ra đi là những người quên đất nước hay người ở lại bám lấy quê
    hương mới chính là người yêu nước. Không. Càng đi xa, càng nhớ thương
    đất nước, càng thấm thía được ý nghĩa của hai chữ quê hương. Không ai
    hiểu được tâm trạng người ra đi nếu không chính mình là kẻ ra đi.

    Nói như thế không có nghĩa là tôi hối hận cho việc ra đi. Không, tôi
    phải đi. Nhưng chọn lựa nào mà chẳng kèm theo những hy sinh đau đớn.
    Bài hát Sài Gòn Vĩnh Biệt, tôi thỉnh thoảng nghe trên đài VOA khi còn
    ở Việt Nam như những mũi kim đâm sâu vào tâm thức. Bao nhiêu điều hai
    ngày trước tôi không hề nghĩ đến đã bừng bừng sống dậy. Bao nhiêu kỷ
    niệm tưởng đã chìm sâu trong ký ức đã lần lượt trở về. Tự do, vâng,
    tôi cuối cùng đã tìm được tự do nhưng đó chỉ là tự do cho chính bản
    thân mình. Những gì tôi đánh mất còn lớn hơn thế nữa.

    Nhớ lại đêm thứ hai trên biển, khi biết chiếc ghe chiều dài vỏn vẹn
    mười mét rưỡi nhưng chứa đến 82 người của chúng tôi vừa cập vào thành
    tàu chiến của Mỹ thay vì Ba-Lan hay Liên-Xô như mọi người trên ghe lo
    sợ, ai cũng hân hoan mừng rỡ. Đám bạn tôi, có đứa thậm chí còn hô lớn
    “USA, USA” và ôm chầm lấy những người lính hải quân Mỹ đang dang tay
    đỡ từng người bước lên khỏi chiếc cầu dây đang đong đưa trên sóng.

    Tôi cũng vui mừng, biết ơn và cảm động nhưng không ôm chầm hay hô lớn.
    Lòng tôi, trái lại, chợt dâng lên niềm tủi thẹn của một người tỵ nạn.
    Chiếc cầu dây mong manh tôi bám để leo lên chiến hạm, trở thành chiếc
    cầu biên giới, không chỉ cách ngăn giữa độc tài và tự do, của quá khứ
    và tương lai, mà còn giữa có quê hương và thiếu quê hương. Tôi nghĩ
    thầm, cuối cùng, tôi cũng như nhiều người Việt Nam khác, lần lượt bỏ
    đất nước ra đi mà thôi. Dù biện minh bằng bất cứ lý do gì, tôi cũng là
    người có lỗi với quê hương.

    Tôi nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong
    đó tôi là con lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi
    bán bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình nguyện
    đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi còn được phép ở lại Sài Gòn học
    hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi về nuôi nấng chúng
    tôi trong những ngày đói khổ.

    Trong tâm trí tôi, hình ảnh bà mẹ Hòa Hưng, đêm đầu tiên trong căn nhà
    không vách trên vùng Kinh Tế Mới, khoảng 20 cây số phía nam thị trấn
    Đồng Xoài vào năm 1976. Cánh rừng vừa được khai hoang vội vã này không
    ai nghĩ một ngày sẽ được gọi bằng một cái tên rất đẹp, khu Kinh Tế
    Mới. Kinh Tế Mới là những căn nhà lá mỗi chiều chỉ hơn mười mét do
    những bàn tay học trò của thanh niên xung phong dựng lên, nối nhau
    chạy dọc theo cánh rừng hoang.

    Tôi kính yêu me. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng
    ngày khó khăn nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ
    Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy
    nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã
    mang tôi vào cuộc đời này.

    Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần
    như không biết mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt nước còn
    biết mẹ mình là mây, chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn tôi thì
    không. Tôi là đứa bé cô độc, một con người cô độc, không anh em, không
    chị em. Tôi lớn lên một mình với cha tôi trong cảnh gà trống nuôi con
    trong căn nhà tranh nhỏ ở làng Mã Châu, quận Duy Xuyên. Đêm đêm nằm
    nghe cha kể chuyện thời trai trẻ buồn nhiều hơn vui của đời ông. Những
    ngày tản cư lên vùng núi Quế Sơn. Những ngày sống trong túp lều tranh
    dưới hàng tre Nghi Hạ. Và dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng đó, cha
    mẹ tôi đã gặp nhau, đã chia nhau ly nước vối chua chua thay cho chén
    rượu tân hôn nồng thắm. Dù sao, bên khung cửi vải, bên lò ươm tơ, họ
    đã cùng nhau dệt một ngày mai đầy hy vọng. Mặt trời rồi sẽ mọc bên kia
    rặng tre già, mặt trăng rồi sẽ tròn bên kia giòng sông Thu, những ngày
    chiến tranh, tản cư cực khổ sẽ qua đi nhường bước cho hòa bình sẽ đến.

    Nhưng rồi chiến tranh như một định nghiệp, đeo đuổi theo số phận của
    đất nước chúng ta, đeo đuổi theo số phận của đời tôi. Năm tôi 13 tuổi,
    chiến tranh đã cướp đi cha tôi, người thân yêu cuối cùng của tôi.
    Chiến tranh lan tràn đến làng Mã Châu, đẩy tôi ra khỏi xóm lụa vàng
    thân quen để làm người du mục trên quê hương đổ nát của mình. Từ đó
    tôi ra đi. Từ chặng đường đầu tiên trên căn gác hẹp trong con hẻm 220
    Hùng Vương Đà Nẵng, đến chùa Viên Giác Hội An, xóm nghèo Hòa Hưng,
    trại tỵ nạn Palawan và hôm nay trên nước Mỹ, nơi cách chặng đầu tiên
    trong hành trình tỵ nạn của tôi hàng vạn dặm.

    Hình ảnh duy nhất của tôi về mẹ là ngôi mộ đầy cỏ mọc dưới rặng tre
    già ở làng Mã Châu. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi buổi chiều khi tan trường
    tiểu học, trên đường về tôi thường ghé thăm mộ mẹ. Nhổ những bụi cỏ
    hoang, trồng thêm những chùm hoa vạn thọ. Tôi ưu tư về cuộc đời và về
    thân phận của mình ngay từ thuở chỉ vừa năm, bảy tuổi. Tại sao tôi chỉ
    có một mình? Tại sao mọi người đều lần lượt bỏ tôi đi? Nếu mai mốt ba
    tôi cũng đi thì tôi sẽ sống với ai? Lớn lên tôi sẽ làm gì? Tại sao đất
    nước tôi lại có chiến tranh? Những người du kích bên kia sông là ai?
    Và ở đó những buổi chiều vàng, bên ngôi mộ nhỏ của mẹ, tôi để lòng
    tuôn chảy những suy tư, dằn vặt đang bắt đầu tích tụ. Từ khi năm bảy
    tuổi tôi đã linh cảm cuộc đời tôi sẽ là những ngày đầy biến cố. Tôi đã
    nghĩ đến chuyện một ngày nào đó tôi sẽ đi xa khỏi rặng tre già, khỏi
    ngôi làng tơ lụa Mã Châu dường như thôn làng nhỏ bé này sẽ không đủ
    lớn để chứa hết những buồn đau, u uất của tôi. Nếu tuổi thơ là tuổi
    hồn nhiên với những cánh diều bay, với những con bướm vàng thơ mộng
    thì tôi đã không có tuổi thơ. Tuổi thơ tôi là một chuỗi ngày ưu tư và
    chờ đợi một điều gì sắp đến.

    Mẹ tôi qua đời vì bịnh trong một xóm nhà quê nghèo khó nên không có
    ngay cả một tấm hình để lại cho tôi. Cha tôi thường bảo, tôi giống cha
    nhiều hơn giống mẹ. Tôi cũng chẳng có cậu hay dì nên tôi lại càng
    không thể tìm đâu ra được một nét nào của mẹ trong những người thân
    còn sống. Vì không biết mẹ, nên mẹ trở thành tuyệt đối. Khi nhìn ánh
    trăng tròn trong ngày rằm tháng Bảy, tôi nghĩ đó là khuôn mặt dịu dàng
    của mẹ, nhìn nước chảy ra từ dòng suối mát tôi nghĩ đến dòng sữa mẹ,
    nhìn áng mây trắng bay trên nền trời tôi nghĩ đến bàn tay mẹ, nhìn
    những vì sao trên dải thiên hà tôi nghĩ đến đôi mắt mẹ. Nói chung,
    hình ảnh nào đẹp nhất, tinh khiết nhất, thiêng liêng nhất, đều được
    tôi nhân cách hóa nên hình ảnh mẹ. Vẻ đẹp của mẹ tôi là vẻ đẹp không
    những tuyệt vời mà còn tuyệt đối.

    Tôi về thăm mộ mẹ lần cuối vào năm 1980 trước ngày vượt biển. Ngôi mộ
    đầy cỏ mọc hoang vu. Sau 1975, ngay cả người sống cũng không ai chăm
    nom đừng nói gì chuyện chăm nom cho người đã chết. Hôm đó, tôi ngồi
    nơi tôi đã từng ngồi trong thời thơ ấu và kể cho mẹ nghe đoạn đời chìm
    nổi của mình. Tôi nói với mẹ rằng tôi sẽ ra đi khỏi nước và hứa sẽ về
    dù biết nói như thế chỉ để an ủi hương hồn mẹ mà thôi. Tôi cầu mong mẹ
    phò hộ cho đứa con duy nhất của mẹ được bình an trong những ngày sóng
    gió sắp xảy ra.

    • Ôi đời mẹ như một vầng trăng khuyết
      Vẫn nghìn năm le lói ở đầu sông.

    Vâng, vầng trăng bên dòng sông Thu Bồn từ đó không còn tròn như trước nữa.

    Ai cũng có một cuộc đời để sống. Nỗi bất hạnh nào rồi cũng nguôi
    ngoai. Vết thương nào cũng lành đi với thời gian. Tuy nhiên có một nỗi
    bất hạnh sau bao nhiêu năm dài vẫn còn, đó là bất hạnh của dân tộc
    Việt Nam. Điều làm tôi đau xót nhiều hơn cả, không phải vì tôi mất mẹ,
    không phải vì tôi xa mẹ nhưng chính là sự chịu đựng của hàng triệu bà
    mẹ Việt Nam triền miên suốt mấy chục năm qua, từ chiến tranh sang đến
    cả hòa bình.

    Trên thế giới này, bà mẹ Nga, mẹ Ý cũng thương con như một bà mẹ Việt
    Nam. Trong lúc tình yêu của một bà mẹ ở quốc gia nào cũng bao la, cũng
    rộng lượng, cũng vô bờ bến, tôi vẫn tin một bà mẹ Việt Nam thì khác
    hơn nhiều. Bà mẹ Việt Nam, ngoài là biểu tượng cho tất cả những nét
    đẹp của quê hương, đất nước, tình thương, còn là những hình ảnh đầy
    thương tích, tủi buồn nói lên sự chịu đựng, gian nan, khổ cực không
    thể nào đo lường hết được. Hình ảnh bà mẹ giăng tấm vải dầu trên một
    góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy con thơ dại đang
    đói khát. Hình ảnh bà mẹ chết đói sau khi ghe của mẹ đi lạc nhiều tuần
    trên biển. Hình ảnh bà mẹ chết trong mỏi mòn tuyệt vọng dưới gốc me
    già trên góc phố Sài Gòn vào một ngày mưa bão. Hình ảnh bà mẹ chết cô
    đơn trong chiếc thuyền chài nghèo nàn. Tất cả hình ảnh đau thương đó
    đã trở thành mối ám ảnh thường xuyên trong tâm trí tôi. Ám ảnh nhiều
    đến nỗi dù viết về bất cứ chủ đề gì, thể loại gì, văn hay thơ, cuối
    cùng tôi cũng trở về với hình ảnh mẹ. Mỗi bước chân tôi đi trên đường
    đời mấy chục năm qua vẫn còn nghe vọng lại tiếng khóc của những người
    phụ nữ Việt Nam bất hạnh, đã khóc trong chiến tranh, khóc trong hòa
    bình, khóc trong bàn tay hải tặc giữa biển Đông và khóc trên xứ người
    hiu quạnh.

    Mơ ước lớn nhất của tôi, vì thế, không phải cho tôi mà cho những người
    mẹ đang chịu đựng, để các mẹ có cơ hội được sống trong một đất nước
    không còn hận thù, rẽ chia, ganh ghét, một đất nước chan chứa tình
    đồng bào, một đất nước thật sự tự do, ấm no, hạnh phúc. “Đổi cả thiên
    thu tiếng mẹ cười” trong một ý nghĩa rộng hơn là ước mơ của tôi, của
    anh chị, của cô chú và của tất cả những ai còn nghĩ đến sinh mệnh của
    dân tộc, về một ngày đẹp trời cho đất nước mình.

    Quá nhiều máu và nước mắt đã đổ trên mảnh đất linh thiêng và thống khổ
    Việt Nam. Mỗi người Việt Nam, hơn bao giờ hết hãy trở về với mẹ như
    trở về với chính cội nguồn uyên nguyên của dân tộc mình. Trong đêm rằm
    tháng Bảy này, xin hãy cùng nhau thắp lên những ngọn nến, dù nhỏ, dù
    đơn sơ nhưng được làm bằng chất liệu dân tộc, nhân bản và khai phóng
    đã được tổ tiên chúng ta hun đúc sau hơn bốn ngàn năm lịch sử.

    Đời tôi là những cơn mưa dài. Mưa khi tôi rời làng Mã Châu, mưa trong
    đêm đầu tiên trong căn gác trên đường Hùng Vương Đà Nẵng, mưa dưới gốc
    đa già ở Chùa Viên Giác, mưa khi tôi vừa đặt chân đến Sài Gòn lần đầu
    tiên và mưa lớn trong đêm tôi rời đất nước ra đi. Nhưng tôi chưa bao
    giờ tuyệt vọng, chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời là hố thẳm. Tôi không
    sống trong hôm qua, trái lại mỗi ngày là một chặng đường mới của đời
    mình. Tôi bình tĩnh đến độ hồn nhiên khi đón nhận những khắc nghiệt
    đến với đời tôi và tôi rất lạc quan trong khả năng chuyển hóa hoàn
    cảnh của chính mình.

    Trong cuộc đời này, tôi đã nhiều lần vấp ngã nhưng nhiều người cũng đã
    giúp vực tôi dậy, lau khô những vết thương trên thân thể và trong cả
    tâm hồn. Tôi mang ơn xã hội nhiều đến nỗi biết mình sẽ không bao giờ
    trả hết. Tôi biết ơn những người đã che chở cho tôi và cũng cám ơn cả
    những người đã dạy tôi hiểu giá trị của gian lao, thử thách. Cám ơn
    đất nước đã cho tôi được làm người Việt Nam, cám ơn mẹ Duy Xuyên mang
    tôi đến thế gian nầy, cám ơn mẹ Hòa Hưng nuôi nấng tôi trong những
    ngày bà con thân thuộc đã ruồng bỏ tôi, cám ơn cây đa già chùa Viên
    Giác che mát cho tôi suốt năm năm dài mưa nắng.

    Nếu một mai tôi ra đi không kịp viết điều gì, thì đây, những kỷ niệm
    của một lần ghé lại.


    Trần Trung Đạo


    Nguồn:https://www.facebook.com/ChinhLuanTranTrungDao/




          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Mẹ và quê hương

Bài viết bởi Bạch Vân »

          





          
Trả lời

Quay về “của người”