Một Vài Kỷ Niệm Với Bùi Giáng

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5381
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Một Vài Kỷ Niệm Với Bùi Giáng

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Một Vài Kỷ Niệm Với Bùi Giáng



    Bùi Giáng (1926-7.10.1998) - Sài Gòn, 1992



    Nhiều buổi chiều Sài Gòn, tôi chẳng còn có thể nhớ đích xác vào những năm nào, đâu như năm 1962, đâu như năm 1965 (nếu sai, nhờ hai anh Cung Tiến, Phạm Công Thiện nhớ lại dùm cho), tôi thường được mời tới những họp mặt ăn nhậu trên căn lầu ngăn nắp, thoáng mát của thầy Thanh Tuệ ở đường Lý Thái Tổ. Mỗi họp mặt với Thanh Tuệ, hồi đó là giám đốc của nhà xuất bản An Tiêm và còn là nhà sư trẻ tươi tắn chưa cởi áo hồi tục, thường vì một cuốn sách. Một cuốn sách mới, vừa in xong chưa ráo mực. Và trước khi gởi sách vào nắng mưa đời, họp mặt An Tiêm với thân hữu là một tiệc rượu lạc thành cho sách.

    Những họp mặt vì sách và do sách đó thường có tôi, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện, đôi khi Nguyễn Đình Toàn, Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc Sĩ, và đương nhiên nhân vật chủ chốt là tác giả sách là Bùi Giáng.

    Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy Thanh Tuệ vì một tấm lòng liên tài đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi Giáng, chỉ in Bùi Giáng, dành trọn phương tiện cho ưu tiên xuất bản Bùi Giáng trước mọi tác giả khác. Và giai đoạn có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm in ngày, in mệt nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi thơ Bùi Giáng bấy giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm, ngôn ngữ và tư duy của Bùi Giáng bấy giờ hiển lộng tới không bến không bờ, vô cùng vô tận, và tài năng ông cũng vậy.



    Thủ bút của Bùi Giáng:
    Thơ gởi Mai Thảo



    Bùi Gíang chất ngất một trời chữ nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương. Vậy mà mỗi lần gặp thi sĩ hồi đó, cảm tưởng bao giờ cũng giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn rỗi, rất rong chơi. Bước chân vào nhà Thanh Tuệ chúng tôi đã thấy Bùi Giáng ngồi trước đó, tươi cười, ung dung, trong cái phong thái của một người nhàn nhã nhất thế giới, chẳng có một dấu vết nhỏ nào của một người viết đang gió táp mưa rơi với ngàn ngàn trang sách. Có như Bùi Giáng trước sau vẫn đang chập chờn với đời như một cánh bướm, lững thững với đời như một áng mây. Có như Bùi Giáng, cái áo vải cũ, râu tóc để mặc, điếu thuốc trên tay, chén trà trước mặt, vẫn chỉ ngồi chơi thảnh thơi ngày ngày với An Tiêm như thế, ngoài mọi mưu sinh, không bao giờ đổi thay. Bề ngoài đích thực là như thế. Sau này, sống với Bùi Giáng nhiều hơn, tôi cũng vẫn chỉ thấy Bùi Giáng như hồi đầu đã thấy ở An Tiêm. Trong một phiêu hốt, một ung dung chưa từng thấy. Có như, trọn một đời cái đầu của thi sĩ không một phút nào dành cho cây bút. Có như trang giấy trắng, mặt bàn viết là những vật thể xa lạ chẳng bao giờ ông biết tới. Vắn tắt là Bùi Giáng chẳng làm gì hết, chẳng ai một lần nhìn thấy Bùi Giáng đang làm gì hết. Mà hoàn toàn phiêu bồng, hoàn toàn rong chơi.

    Vậy mà cái sức viết hồi đó đến như Bùi Giáng là tột đỉnh, là không tiền khoáng hậu. Vậy mà cái lực viết đến như Bùi Giáng và thấy Bùi Giáng là ngàn người không một, là phi phàm, là vô địch rồi.

    Một lần, tôi đem cái điều khó hiểu này ra hỏi một người cũng làm thơ thật nhiều, cũng làm thơ rất đều tay là Thanh Tâm Tuyền. Tác giả Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy lắc đầu cười:
    “Chịu không giải thích được. Chỉ biết Bùi Giáng khác. Với tôi. Với hết thẩy. Là cái chỉ có một. Với tôi là từng bài thơ. Nói đến từng bài thơ Bùi Giáng, bài thơ này, bài thơ kia của Bùi Giáng lại là chuyện tức cười lắm lắm. Bùi Giáng là cái hiện tượng dị thường của một suối thơ ăm ắp không ngừng. Đọc thơ Bùi Giáng cũng phải đọc như thế. Đứng trên đơn vị từng bài. Bùi Giáng đặt tựa cho từng bài là ngắt thơ ra, ngắt chơi ra vậy thôi. Nói đến mấy ngàn bài thơ Bùi Giáng là đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng chỉ có một bài, vô tận vô cùng là đúng hơn. Ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ ra thơ, làm thơ. Ta cứ tạm hiểu cái trạng thái thơ kỳ lạ khác thường ở Bùi Giáng là như vậy.”

    Sự ngược nghịch giữa cái rong chơi một đời của Bùi Giáng với cái lực thơ, cái số thơ, cái lượng thơ khủng khiếp làm ra, tôi đem hỏi thêm nhà xuất bản hằng ngày sống cùng Bùi Giáng, rồi đến chính thi sĩ, cũng không được sáng tỏ gì hơn ngoài suy diễn có tính chất phỏng đoán của Thanh Tâm Tuyền. Thầy Thanh Tuệ cũng chỉ lắc đầu cười. “Tôi cũng lấy làm kỳ”, Thanh Tuệ nói:
    “Anh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Đêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm, bảy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có thì giờ đọc. Điều kỳ lạ là không riêng một thể loại mà thể loại trước tác nào anh cũng có ngay sách, dễ dàng và nhanh mau vô tả. Từ thơ đến văn. Từ một cuốn tiểu luận về Camus đến một cuốn tiểu luận về Nguyễn Du. Từ dịch thuật tiểu thuyết đến phê bình triết học. Tất cả như đùa như chơi vậy.”

    Nhà An Tiêm suốt mấy mùa sách, hầu như không thở được nữa trước cái viết tràn bờ của Bùi Giáng, điều này ai cũng biết.

    Rồi tôi rủ Bùi Giáng tới quán. Đãi ông uống rượu. Vặn hỏi chính thi sĩ. Để cũng chỉ được Bùi Giáng cười cười thích thú trước tìm hiểu có vẻ ngớ ngẩn của tôi. Ông không chịu giải thích, chừng như ông không có gì giải thích, sự thành hình một tác phẩm nơi Bùi Giáng cuối cùng vẫn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã là của nó. Cười cười, ông đốt điếu thuốc, cầm lấy ly rượu: “Vui thôi mà!”. Ừ vui, ba chữ “vui thôi mà” là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của lực thơ và số lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông, cõi thơ vô bờ của ông trăm phương nghìn ngã mênh mông và ông chính là hiện thân của mênh mông nghìn ngã trăm phương ấy.

    Bùi Giáng nói vui thôi mà. Quả vậy, thơ ông vui cực kỳ. Con châu chấu, con chuồn chuồn. Cơn chuồn chuồn, con châu chấu. Rừng Marylin. Biển Brigitte Bardot. Ngành Novak. Đóa John Keats. Ngành Mật Niệm. Đóa U Linh. Hồng Lĩnh Hạc Lâm. Quỳnh Lai Thị Xứ. Thơ đốt pháo bông, ngôn ngữ triệu triệu, chữ như thần diệu:

    • Người nằm ngủ thấy gì?
      Thấy rất nhiều nắng lạ.


    Giấc ngủ đầy nắng, đầy nắng lạ. Bùi Giáng nói vui thôi mà. Thơ ông vui thật. Từ cánh tay áo rộng, thơ bay. Từ trí tuệ gió lộng, thơ phất. Nghìn thu cổ lục. Ngày Hy Ngân. Đêm Bé Chị. Mọi Trên Ngàn. Sóng Hồng Hoang. Thềm Dục Vọng. Thơ ghé thăm đá, thăm bàn ghế, thăm bún bò, thăm lá.

    • Ghé thăm trái mận ban đầu.
      Bình minh bắt gặp nguyên màu ban mai.

    Tiếng thơ sáng rỡ, chói lọi, kỳ ảo, cánh rừng ngôn ngữ ấy suối reo, chim hót, hoa nở, cây ào ào sóng vỗ, sóng từng từng xanh cây, beo gấu giỡn nghịch, con chuồn chuồn hóa thân, con châu chấu suy tưởng, những mọi nhỏ hằng hà, gì cũng là thơ, thảy đều biến dạng. Thơ Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui. Hãy đọc thơ ấy, như cùng ông đi vào một trận vui lồng lộng. Đừng cần tìm hiểu. Đừng cần giải thích. Hãy đọc lại Mưa Nguồn, Bài Ca Quần Đảo:

    • Xin chào nhau, giữa con đường
      Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau


    Sẽ thấy cái vẫy tay chào lấp lánh của thi sĩ. Cái sự “Vui thôi mà” trước sau ông chỉ nói vậy, ba chữ này tôi ao ước được thấy khắc vào mộ chí ông khi ông mất đi, ông và giữa con đường vui, không dưới không trên, không đầu không cuối gì hết. Giữa và mùa xuân phía trước, miên trường phía sau.

    Thơ là người. Ngoài đời Bùi Giáng cũng thật vui. Thời kỳ Thanh Tuệ chấm dứt, nhà xuất bản An Tiêm tạm ngừng hoạt động, Bùi Giáng gặp lại Thanh Nam, Viên Linh, Vũ Khắc Khoan và tôi ở toà soạn tuần báo Nghệ Thuật và những kỷ niệm chúng tôi có với thi sĩ thời gian này vẫn còn là những kỷ niệm vui. Lúc này, thần thái ông không còn được rạng rỡ như mấy năm về trước. Cuộc phiêu bồng qua đời sống của ông kỳ dị và tận cùng hơn. Mái tóc ông đổi màu. Mấy chiếc răng cửa bị gãy, nụ cười vừa trẻ thơ vừa móm mém. Cặp mắt sâu hóm xa khuất dần với mọi hình hài thực tế. Những con đường trên đó ông đi, cái túi vải thời nào, những ngã tư ông ngừng lại, tách thoát với nhân thế, tất cả ở Bùi Giáng phơi hiện dần dần một hủy hoại khô khốc, ấy là tôi chỉ biết nhìn thấy ông một cách “hình hài” như vậy, nhưng “vui thôi mà” thì vẫn là rất vui. Ông vào tòa soạn, ngồi xuống ghế, nhìn mọi người, cười trẻ thơ, thường nói khát quá và xin một chai bia uống. Ông uống từng ngụm nhỏ, nói thích chai bia lớn vì uống được nhiều hơn, châm thuốc hút, những ngón tay vụng về lóng ngóng. Uống cạn chai bia, cái túi vải đeo lên và bỏ đi. Đó là cái đến cái đi êm ả của Bùi Giáng. Nhiều lần không thế.

    Ông ra tắm ở cái máy nước trước tòa soạn, thản nhiên trước người qua kẻ lại, quần áo lướt thướt đi qua đường, một đám con nít tròn mắt đi theo. Một vài lần khác, chúng tôi đi ra ngoài một lát trở về, thấy ông nằm ngủ ngon lành trên hai cái bàn viết kê liền lại. Giấc ngủ dài, quên đời, quên hết, mặc hết, phải đánh thức dậy. Những lần đó, ông ngồi dậy im lặng, bất động, thì thầm câu “Vui thôi mà, vui thôi mà” rồi lặng lẽ bỏ đi, cái bóng dáng gãy đổ, gầy guộc trong chiều xuống.

    Chính là trong cái tình trạng suy nhược đã trầm trọng quá chừng và tiều tụy quá thể này của Bùi Giáng mà chúng tôi bắt đầu cảm thấy quan tâm thật sự đến thi sĩ. Đến sức khỏe ông, ngày mỗi cạn kiệt. Đến cách sống ông ngày mỗi tiều tụy. Đến tâm thức ông, ngày càng bất định. Cuộc vui của Bùi Giáng tuyệt vời nhưng chẳng thể phiêu bồng mãi mãi. Phải làm một cái gì về ông. Để ghi nhận lại. Và thế nào là cái tiếng thơ trác tuyệt của Bùi Giáng, cõi ngôn ngữ đạt tới hoang đường kỳ ảo của Bùi Giáng. Trong khi còn gần ông. Trước khi ông chẳng còn gần, chẳng chịu sống cùng ai nữa.

    Số báo đặc biệt về thiên tài thi ca Bùi Giáng, phải chờ đến hơn một năm sau, tờ Nghệ Thuật đình bản, tôi sang trông coi tờ Văn cùng với Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện được. Cũng nhờ số Văn này mà tôi mới nhìn thấy và hiểu được sự không hiểu của tôi nói ở trên là sự ngược nghịch giữa Bùi Giáng tháng ngày rong chơi với Bùi Giáng một tuần lễ cả ngàn câu thơ, cả ngàn trang sách. Số Văn ấy, phần nhận định nhờ Thanh Tâm Tuyền, Ninh Chữ, Tuệ Sỹ, Trần Tuấn Kiệt... viết. Bài phỏng vấn, Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện. Phần giới thiệu những bài thơ mới nhất của Bùi Giáng là tôi. Chưa biết kiếm tìm Bùi Giáng ở đâu, thi sĩ bất ngờ ghé thăm tòa soạn.

    Ông ấy chỉ còn là da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy. Kéo ông ra trước báo quán chụp chung một tấm hình làm kỷ niệm rồi tôi hỏi xin ông những bài thơ mới nhất. Ông gật. Tưởng lấy ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau. Tất cả đều không đúng. Ông hỏi mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống, và trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ. Ông không chép lại thơ đã làm. Ông làm thơ tại chỗ. Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, xa quá, lâu quá, mà ngay từ đầu ngọn bút từ đầu ngón thôi. Làm thơ ứng khẩu, làm thơ tại chỗ, nhiều người cũng làm được nhưng là thơ thù tạc và chỉ dăm bảy câu và một bài thôi. Bùi Giáng khác.

    Chai bia còn sủi bọt, ông ngồi viết không ngừng, tự dạng nắn nót chỉnh đốn, thấy bài nào cũng khác lạ, cũng thật hay, cũng đích thực là từng hạt ngọc của cái thơ thượng thừa Bùi Giáng. Lần đó, tôi đã hiểu tại sao Bùi Giáng cừ cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi. Đúng là ngủ ra thơ, thở ra thơ, uống la-de, hút thuốc lá ra thơ. Mà thơ không ai sánh bằng, thơ không ai đuổi kịp. Ông uống cạn chai la-de, lập lại ba tiếng bất hủ “Vui thôi mà” rồi đứng lên từ biệt.

    Mấy tháng cuối cùng trước biến cố 1975, tôi không thấy Bùi Giáng trong đời sống tôi nữa. Chỉ thỉnh thoảng nghe thấy ông vẫn lang thang đây đó, một quán này, một bãi hoang kia, ngủ bất cứ ở đâu, dưới trời sao, ở một gầm cầu, dưới một mái hiên. Có lúc thấy nói ông đeo một xâu chuỗi toàn dày dép và quần áo phụ nữ quanh cổ như một vòng gai quái dị, đám con nít reo hò chỉ chỏ người điên, người điên. Có khi nghe thấy, ông ẩn lánh ở ngôi chùa vùng ngoại vi thành phố, ăn chay niệm Phật cả ngày không nói.

    Tới trình trạng này, anh em chúng tôi, những bạn bè một thời thân thiết với Bùi Giáng, từng đã chén tạc chén thù với Bùi Giáng bao lần trên căn gác đường Lý Thái Tổ của nhà xuất bản An Tiêm, nhận sách tặng của Bùi Giáng, ở với ông và trời thơ trác tuyệt của ông, chúng tôi biết chúng tôi chẳng còn làm gì cho Bùi Giáng được nữa. Chẳng phải bỏ ông. Ông cũng không bỏ. Chỉ là ông đã đi khỏi, đi xa, vào một trời đất khác.

    Hai câu thơ hay tuyệt bay vào tập Mưa Nguồn:

    • Xin chào nhau, giữa con đường
      Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau

    đã mang một ý nghĩa khác. Lời chào như một xa cách vĩnh viễn. Một bỏ đi. Một vĩnh viễn. Cái kho tàng chữ nghĩa phong phú vô tận ở đó Bùi Giáng vừa tạo dựng nên cái thế giới ảo huyền của mình vừa phá hủy tan tành cái thế giới ấy, kho tàng ấy thi sĩ không thèm sử dụng nữa, và chúng tôi thì chẳng còn con đường nào tới được với ông.

    Rồi cộng sản tới Saigon. Miền Nam mất. Văn nghệ miền Nam được để yên đúng 11 tháng sau. Sau đó là đàn áp, bắt giữ và đốt sách, là con đường khổ hình và những trại tập trung. Ở chỗ ẩn của mình, tôi được nghe thêm nhiều giai đoạn vừa tức cười vừa thảm não về Bùi Giáng. Như cộng sản đã đầy đặc, mà lượm đâu được cái nón sắt và bộ đồ thủy quân lục chiến, ông mặc hết lên người, làm anh lính thủy đánh bộ đi nghênh ngang giữa đường phố, vừa đi vừa hò hát trái đất đã tới giờ tận thế, khiến dân chúng khiếp đảm chạy dạt, rồi lính tráng cộng sản ào tới đánh đập ông máu me té ngã xuống mặt đường. Như ông, đeo đầy người những vật thể kỳ dị, lững thững vào an ninh đô thành nằng nặc xin đi cải tạo như các anh em văn nghệ khác, bị chửi mắng là thằng khùng thằng điên và bị đuổi đi. Như bạn cũ thấy ông lang thang dưới những bóng cây, giữ lại hỏi thăm, tặng tiền, ông không còn nhận ra ai, cám ơn người bạn cho tiền như cảm ơn một kẻ xa lạ.

    Rồi đâu như Hòa thượng Thích Trí Thủ, mến trọng ông cũng ngang bằng mến trọng nhà thơ Vũ Hoàng Chương, nghe tin ông lang thang bị đánh đập hoài hoài, vội vã cho người đi kiếm ông đưa về chùa Gia Định. Ông chịu ở. Chịu để cho săn sóc, nuôi dưỡng. Nhưng chỉ một thời gian, rồi lại một tinh sương một đêm tối bỏ đi. Những tin tức gần đây nhất mà tôi nhận được về Bùi Giáng qua thư bên nhà gửi sang là Bùi Giáng chưa chết, vẫn còn sống, vẫn kẻ sĩ điên, vẫn một chiều hát ngao một đầu thềm quán chợ, tối ngủ ở một gầm cầu. Đôi khi chợt nhớ tới địa chỉ bạn, ông tìm tới. Nhưng ông lạ lùng quá chừng rồi, vào nhà ai, ông nằm ngửa trên nền nhà, dang rộng tay chân như Chúa trên Thánh Giá, mọi người ngán ngẩm, không ai còn dám tiếp nữa. Những lần sau, đập cửa chán, gọi chán không ai chịu mở, ông chửi toáng một hồi, nói những thằng khốn kiếp này phải để cho cộng sản đưa đi cải tạo nhiều hơn nữa rồi bỏ đi.

    Bùi Giáng đã đem lại cho cuộc đời biết bao nhiêu châu ngọc. Bằng tài thơ trác tuyệt. Bằng cõi ngôn ngữ ảo diệu, không tiền khoáng hậu. Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời. Từ ấy, thi ca mới không cùng không tận. Đọc lại Mưa Nguồn, đọc lại Ngàn Thu Rớt Hột, Bài Ca Quần Đảo, tôi còn muốn bật cười với thơ Bùi Giáng. Vui thôi mà. Đúng vậy, vui thôi, có gì khác đâu. Mất Bùi Giáng, thơ ta lại trở về với những hữu hạn đời đời của thơ. Nhiều người bảo ông chỉ là một thằng điên. Tôi chỉ muốn nghĩ thầm cho tôi là nếu có thêm được ít người điên như Bùi Giáng, thi ca ta văn học ta còn được lạ lùng được kỳ ảo biết bao nhiêu.


    Mai Thảo
    Tạp chí Văn, Số 26 tháng 8.1984


    Nguồn:https://www.banvannghe.com


              
Hình đại diện
Vi
Bài viết: 780
Ngày tham gia: Thứ năm 16/03/17 23:48

Re: Một Vài Kỷ Niệm Với Bùi Giáng

Bài viết bởi Vi »

Tôi biết tin thi sĩ Bùi Giáng mất qua một mẩu tin ngắn trên báo. Dù là tin ngắn mà khá cảm động.

Bài báo nói sơ qua thân thế của Bùi Giáng, ông thọ 73 buổi, tuổi Đinh Dần. Người Sài Gòn ai cũng biết ông: ông điên, cái điên của ông có nhiều dạng, như thật, như giả, như cuồng chữ. Như tác giả bài báo đã nói. Ai cũng nói thế, chung chung là ông điên. Ông điên một mình, chẳng hại đến ai cả. Vì ông có thời gian để điên, để rong chơi với cái điên, cái tâm thần bất ổn của mình, có lần ông đã nói với tôi như vậy. Lần cuối cùng tôi gặp ông, không lâu lắm, thấy ông ngồi giữa đường Lê Quang Định thuộc quận Bình Thạnh (tỉnh Gia Định xưa). Phía trước ngõ vào chùa Già Lam, áng chừng ông tạm trú nơi đó.

Ông vốn là người từ xưa đến giờ chưa biết đến tờ hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân là gì ông là người vô sản chân chính, chẳng thèm bon chen với đời. Điều không ai có thể chối cãi được ông là người trí thức, trí thức hơn nhiều người trí thức khác, ông là người bằng cấp đầy mình cũng được, không cũng chẳng sao. Ông đã từng dạy học, giáo sư Việt văn, cấp trung học và dậy cả đại học. Đại học Vạn Hạnh, thuở thầy Thích Minh Châu làm viện trưởng. Viết sách, dịch thuật làm thơ.

Thuở đó đã lâu lắm rồi, hồi năm 1952 ở Sài Gòn, tôi là học sinh trung học trường Kiến Thiết. Tôi là học trò của thầy Bùi Giáng. Giờ Việt văn, thầy thản nhiên đọc thơ tình, thơ của thầy Bài thơ nào đó ca tụng người vợ đã mất của thầy rồi thầy bỏ lên núi ít năm, núi gì đó ở Quảng Nam, quê hương của thầy.

Khi đó cuối cuộc chiến Việt Pháp, Việt Nam giành Độc Lập. Tình hình thành Phố Sài Gòn sôi động, học sinh các trường đều tham gia, biểu tình, phá rối. Nhiều thế lực chính trị lợi dụng lòng nhiệt tình của tầng lớp trẻ.
Có phá rối, chắc chắn là chính quyền cai trị thuở đó phải đàn áp. Sân trường Kiến Thiết hỗn loạn vì cả trung đội Công An Xung Phong, đội mũ bê rê xanh, Bình Xuyên, của tướng Bẩy Viễn xông vào đàn áp. Các lớp học không thể học được, thầy giáo và học sinh nào không tham dự thì đứng trên hành lang nhìn xuống. Máu tôi cũng sôi lên, tôi đứng cạnh thầy Bùi Giáng. Tôi hỏi thầy:
- Thầy nghĩ sao về bọn công an đàn áp học sinh?

Thầy Bùi Giáng cười, đôi mắt hấp háy sau cặp kính trắng:
- Em muốn tôi cho em một lời khuyên phải làm gì hả?
- Dạ thưa thầy, đúng vậy.

Thầy lại cười, nụ cười dễ chịu và lần này tôi nhìn thấy rõ hơn trên trán thầy có một vết sẹo nhỏ, tóc cắt ca rê, rất ngắn:
- Vậy thì thầy chẳng có lời khuyên nào cả vì thầy đứng ngoài những chuyện này, thầy dạy học, làm thơ và rong chơi bất cứ trong hoàn cảnh nào.

Đúng thế, thuở đó tại trường Kiến Thiết không thiếu gì các thầy đứng lên làm chính trị, không phe này cũng phái kia, nhân danh lòng yêu nước. Học sinh là đối lượng chính của các thầy dùng làm công cụ củng cố cho phe nhóm của mình. Truyền đơn truyền tay nhau rồi học sinh đi thả, đi dán trên tường đường phố. Học sinh bị bắt bớ, bị đánh hộc xì dầu, rồi bị bỏ tù. Bạn tôi, Trịnh Nhiên bị bắt bỏ tù trong tòa Bố Gia Định, nằm đếm lịch tới mùa hè nhìn hoa phượng nở đỏ rực ngoài song cửa tù mà buồn. Tôi nhớ mãi nụ cười hiền lành của thầy, đôi mắt kính trắng, vết sẹo trên trán và mái tóc cắt ngắt.

Năm 1954. Hiệp định Genève, đất nước chia đôi, cuộc di cư ào ạt. Một số bạn bè tôi ở miền Nam tập kết ra Bắc học và làm cách mạng. Tôi ở lại Sài Gòn và tiếp tục thấy thầy Bùi Giáng cho đến tận những ngày cuối cùng của đời thầy. Thấy và nghe nhiều về thầy và chứng điên loạn của thầy. Tôi chẳng biết nói thế nào về thầy cho đúng, mấy ai đã đủ tư cách nói về thi sĩ "điên" Bùi Giáng.

Nay thì trên đường phố Sài Gòn đã vắng bóng lang thang của thi sĩ điên Bùi Giáng. Có phải là một mất mát không, ở một thành phố tự hào có lịch sử 300 năm? Thi sĩ Bùi Giáng cũng là nhân vật của Sài Gòn đó, nói theo lối nói chuyện của cố học giả Vương Hồng Sến.

Một buổi chầu mùa thu ở Sài Gòn, trời cũng khá đẹp mặc dầu báo đài có thông báo cơn áp thấp nhiệt đới như mọi năm. Rồi tai ương đổ xuống. Nắng vàng ánh bạc trên kinh Nhiêu Lộc ở những căn nhà bị giải tỏa nham nhở hai bên bờ. Tôi qua cầu Công Lý xưa, đến chùa Vĩnh Nghiêm, xác của thi sĩ Bùi Giáng quàn ở Vãng Sinh Đường hay nhà Vĩnh Biệt cũng vậy. Ngay trên cửa vào trẹo một tấm "băng đờ rôn " màu đỏ khá lớn, chữ sơn trắng: Lễ truy điệu thi sĩ Bùi Giáng.

Tôi vào nhà rạp. Quan tài thi sĩ Bùi Giáng khá đẹp các sư đang tụng kinh. Khách khứa đến khá đông nhưng tôi thấy lạ hoặc, hoặc tôi kém cỏi ít giao tiếp nên không biết đến các vị ấy, những thi văn nghệ sĩ đương thời, những sao bắc đẩu núi thái sơn, họ lia chia ghi ghi chép chép vào sổ lưu niệm. Tôi thấy cả những bài thơ khóc Bùi Giáng. Tôi tự thấy mình chẳng là cái thá gì mà bon chen ghi sổ. Kìa có hai vị đang ca tụng nhau lời lời châu ngọc. Tôi có điều suy nghĩ về chuyện này, về cả con người của Bùi Giáng. Tấm hình thi sĩ phóng thật to, có nét tiên phong đạo cốt lẩm, nhưng gầy guộc hom hem. Thơ ông đề bên dưới:

Hỏi rằng ông ớ quê đâu
Thưa rằng người ở rất lâu quê nhà


Bên trong, chỗ để quan tài, nơi các nhà sư đang tụng niệm, tôi thấy có người mặc quần áo tang, nhưng tôi không rõ là bà con thế nào với thi sĩ Bùi Giáng. Bên ngoài, tít tận trên cao có hàng chữ đề lớn, viết tháu, kiểu thư họa: "Chúng rồi đã bỏ quên anh "

Một thông báo khác bên cạnh nhắc nhở những người anh em văn nghệ tối hôm ấy đến họp mặt, thơ văn tự do không giới hạn. Tôi dắt xe đạp ra khỏi Vãng Sinh Đường chùa Vĩnh Nghiêm. Tôi quên cả cắm nhang cho ông, tôi cảm thấy lạc lõng.

Trong cái xôn xao của buổi chiều Sài Gòn, tôi còn như thấy bóng hình của thầy Bùi Giáng tưng tưng giữa đời. Trên người thầy đeo đủ thứ quái dị, nhưng mỗi thứ là một biểu tượng đấy tôi suy ra thế.

Người ta nói thầy Bùi Giáng điên, thời thượng thì người ta nói thầy bị bệnh tâm thần, khi điên khi tỉnh, khi thật khi giả. Người bình dân khố rách áo ôm, có dịp gần gũi thầy thì bảo rằng thầy "khùng-điên-ba trợn". Cổ người nói thầy có bệnh cuồng.

Tôi đi theo dòng người, miên man nghĩ về thầy Ngày mai người ta mang xác thấy đi chôn ở Gò Dưa Thủ Đức. Tôi không biết vị Mạnh Thường Quân nào bỏ tiền ra làm đám ma cho thầy. Thời buổi này chết cũng mắc mỏ lắm. Hai mươi triệu đồng Việt Nam cho một đám ma là chuyện thường.

Tôi nghĩ hoài về câu thương tiếc chúng tôi đã bô quên anh. Ai nói câu đó thế?

Nói về những cơn điên loạn của thầy Bùi Giáng thì nhiều lắm. Tôi nghe kể lại về thầy cũng có mà chứng kiến cũng có. Tất cả đều trở thành giai thoại. Có thật và có giả, hay người đời thêm mắm thêm muối ra cũng nên. Nhưng chẳng có giai thoại nào có hại cho thanh danh tư cách của thầy, một người điên hòa nhập với đời sống mà lại là đứng ngoài cuộc đời, sống với đời mà không dính dáng gì cả, bao nhiêu năm qua rồi mà như kẻ bàng quan. Ông thi sĩ điên chứ không phải thằng điên.

Không ai rõ thầy khùng liên từ bao giờ. Những dấu hiệu cho thấy nhưng đôi khi vẫn bị coi là thầy giả vờ, để thi vị hóa cuộc đời mình, mà có lời giải thích nào đâu. Ông thi sĩ Bùi Giáng vẫn rong chơi, vẫn tưng tưng giữa đời bất cứ qua chế độ nào.

Thi sĩ thì phải có cuộc đời tình ái, người ta không biết, do chính thầy "làm" ra hay thầy thấy sao nói vậy. Thuở tôi còn học thầy, tôi nghe thầy đọc bài thơ dài lê thê ca tụng người vợ thầy đã khuất bóng, khi đó thầy còn rất trẻ. Một ngày vào những năm 1963, thi sĩ Viên Linh, bạn tôi nói rằng anh mới đèo xe đạp chở thi sĩ Bùi Giáng đi thăm người tình. Cô ta là ai, Viên Linh không biết, nhưng có chở thầy đến tận nhà cô ta ở Cống Bà Xếp, đường Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng Tám). Thi sĩ Bùi Giáng rất trang trọng trong cuộc đi thăm này. Trước khi đi, ông mặc gần một chục chiếc sơ mi chồng lên nhau, áo sạch giặt ủi đàng hoàng. Ra khỏi cửa ông lột chiếc sơ mi đầu tiên ném xuống đường, hối Viên Linh đi, rồi lần lượt ném gần hết áo, tới trước nhà người yêu ông cởi đến chiếc kế chót, còn lại chiếc chót ông mới bước vào nhà người yêu. Một lúc sau ông trở ra hí hửng. Viên Linh hỏi ông:
- Sao ông mặc nhiều áo thế rồi cứ cởi ra vứt đi vậy?

Tau phải làm thế, đến với người yêu thì phải trong sạch từ tâm hồn đến thể xác. Những chiếc áo bận đi đường bị nhuốm bụi hồng trần, tau đến với nàng phải là chiếc áo tinh khiết nhất như tâm hồn tau vậy...

Nhà văn Cung Tích Biền, người đồng hương với Bùi Giáng kể rằng: Thầy Bùi Giáng được một trường trung học ở Mỹ Tho mời dạy. Trong lớp học, thầy liên miên giảng truyện Kiều. Thầy say sưa giảng dạy, ca tụng nàng Kiều, tự cảm động về số phận nàng, thầy đau xót, thầy bật khóc tu tu trước mặt học trò, đến đỗi thày phải ra sân trường leo lên cây ngồi khóc cho hả cơn thương xót. Rồi thầy bỏ trường đi biến. Hiệu trưởng, học trò nháo lên đi tìm thầy, họ tìm thấy thầy ở Sài Gòn. Hỏi thầy sao bỏ dạy học? Thầy trả lời rất đơn giản là thầy không dậy được vì khi giảng về nàng Kiều thầy xúc động quá, yêu nàng quá, có thế thôi.

Khoảng 1967-68, thuở thịnh thời của nhật báo Sống, do nhà văn Chu Tử làm chủ nhiệm, độc giả rất thú vị và say mê mục Ao Thả Vịt của Chu Tử. Độc giả cười nghiêng ngửa khi ATV loan tin rằng thi sĩ Bùi Giáng yêu say đắm kỳ nữ Kim Cương. Ông yêu đến đỗi phải làm thơ gọi Kim Cương là Mẫu thân. Kỳ nữ Kim Cương cũng phải chới với qua tình yêu mãnh liệt, kỳ quái của thi sĩ Bùi Giáng. Khối tình đó bền bỉ trong Bùi Giáng, có lẽ đến lúc ông nằm xuống. Giã từ cuộc đời rong chơi của ông.

Một thời gian sau tôi thấy thầy Bùi Giáng ở đại học Vạn Hạnh của Phật giáo. Tôi không nhớ thầy có dạy ở đó không, nhưng các thầy rất nể vì sở học của Bùi Giáng.

Thi sĩ Bùi Giáng có một phòng riêng tại viện đại học này. Thầy chuyên ăn khoai lang luộc, những củ khoai mốc xanh mốc đỏ, và thầy có lý luận riêng khi ăn những củ khoai lên men ấy. Cái áo của thầy có rất nhiều túi, mỗi cái túi đựng một chó con, thầy chơi với chúng. Tối, nhiều khi thầy bỏ phòng trong viện đại học ra sạp chợ nằm ngủ với bầy chó con.

Thuở đó nhiều người nói thầy điên rồi, kể cả những bài thơ của thầy cũng kỳ quái, dù rất có duyên, đầy ấp chất Bùi Giáng, điên điên mà phóng khoáng. Khi đó Bùi Giáng làm rất nhiều thơ kể cả dịch thơ của một số thi sĩ nước ngoài. Văn thì dịch Hoàng Tử Bé (Le petit prince) của Saint Exupery. Ông in nhiều tập thơ. Nghe đâu tiền tài trợ in thơ do bác sĩ Bùi Kiện Tín, vị bác sĩ nổi danh bào chế ra dầu gió Khuynh Diệp Bác Sĩ Tín bán chạy trên toàn quốc. Ông bác sĩ này nghe đâu là anh họ của Bùi Giáng.

Sau năm 1975, Sài Gòn kẻ ở người đi, tôi là kẻ sót lại nên gặp lại thầy Bùi Giáng. Thời gian này thầy có vẻ điên dữ. Trong khi đó Sài Gòn sau cơn biến loạn có nhiều người điên, các dạng điên khác nhau.

Bùi Giáng cũng điên, nhưng là cái điên có phong cách riêng của thầy. Tôi muốn nói hình như cái điên của thầy vẫn là nói lên một điều gì ẩn ức. Tất cả những cơn điên của thầy đều là những biểu tượng, mang một ý nghĩa nào đó chỉ có mình thầy biết.

Dân Sài Gòn cũ ùa ra đường kiếm sống, quán cà phê, chợ trời mọc lên khắp nơi để tự cứu mình thuở gạo châu củi quế". Sĩ quan, ngụy quân, ngụy quyền lên đường đi học tập cải tạo, đời sống khó khăn cả vật chất lẫn linh thần. Người ta nói con người đang sống lùi lại thời đồ đá ăn lông ở lỗ.

Thi sĩ Bùi Giáng là dân thành phố, ông sống lang thang và có vẻ điên hơn. Tôi cũng bắt chước mọi người khác kiếm sống, mở một quán cà phê nhỏ ở lề đường, dưới một gốc cây nhìn ra hồ Con Rùa, phía trước Viện Đại Học Sài Gòn. ở đây tôi gặp lại nhiều anh cai cũ, thăm hỏi nhau, ai còn ai mất, ai đi ai ở.

Tôi hỏi về Bùi Giáng, anh em nói ông vẫn còn đó. Vẫn sống như không có chuyện gì xảy ra. Ông đang ở nhờ một ngôi chùa ở đường Lạc Long Quân. Để khỏi làm phiền đến sư cụ trụ trì về vấn đề cư trú ông ra ngoài vườn chùa đào một cái lỗ chui lọt người vào nằm. Ông nói ông đang ăn lông ở lỗ.

Không biết chuyện ấy có thật hay anh em nói chơi, nhưng tôi cứ ghi lại.

Tôi quan tâm đến thầy, tôi thấy chuyện có chất của Bùi Giáng, nên cũng không hỏi lại. Ban ngày Bùi Giáng đi lang thang, ăn mặc rách rưới, làm trò cười cho mọi người để đỡ buồn. Một hôm ông ghé qua quán tôi, gần trần như nhộng, tóc tai bù xù. Cặp kính trắng vẫn ngạo nghễ trên mắt. Ông nói "tau " đang ăn lông ở lỗ.

Có hôm gặp ông ngoài đường. Ông mặc quân phục chế độ cũ, lon lá huy chương đầy mình. Mọi người sợ hết hồn, vì thời gian ấy các sĩ quan chế độ cũ phải lên đường đi học tập cải tạo kẻ nào trốn cũng khó thoát khỏi lưới tình báo nhân dân". Kể cả những anh trước kia đeo lon giả để lòe gái hay trốn lính cũng bị tố cáo. Có anh nằm trong trại tù làm cả chục lá đơn minh oan vẫn chưa được phóng thích. Ông thi sĩ Bùi Giáng lại đâm đầu vào chuyện oan nghiệt ấy, không hề sợ hãi, phom phom nhận mình là sĩ quan quân đội chế độ cũ, sĩ quan cao cấp kia, từng "có nợ máu với nhân dân", bây giờ "ngã ngựa" rồi xin được đi học tập cải tạo để được trở thành người tốt đủ tư cách xây dựng đất nước đẹp bằng mười ngày xưa. Ông lang thang khắp các chợ trời, trên người đeo lỉnh kỉnh đủ các thứ đồ.

Có hôm ông đeo cả mấy chục cái lon đồ hộp trên người. Ông nói ông là người có nhiều "lon" nhất trên đời vậy mà ông vẫn yên ổn. Có hôm ông vào chợ cá Trần Quốc Toán, khi ấy trở thành chợ xe đạp. Ông "thó" một cái ghi đông xe cũ rích, rồi bỏ đi, người ta la lên ông ăn cắp. Ông trả lại liền, càu nhàu:
- Mẹ lụi bay, bị mất tất cả mà phải câm, tau chỉ ăn cắp cái ghi đông mà la rầm trời, có kẻ đang ăn cắp đấy... làm gì nó nào?

Ai mà chấp một người điên, khi biết người đó là thi sĩ Bùi Giáng. Hình ảnh Bùi Giáng trở thành quá quen thuộc với thị dân kể cả những người mới giữ gìn trật tự trong thành phố này. Thời gian này, Bùi Giáng dở chứng nói bậy và nói tục kinh khủng, mà có ai làm gì đâu. Kéo dài cả chục năm hơn, Bùi Giáng vẫn sống nhăn. Ông hiện hữu trong cái bái nháo của đời sống, trong sự chuyển mình của đất nước. Nghe nói ông vẫn làm thơ, chẳng phải để đăng báo, in sách, ông cóc cần điều đó. Những bài thơ ông ghi vội trên một tờ giấy nhàu nát, hoặc một bao thuốc lá.

Uống chén rượu, ăn tô phở ông điên, ông tỉnh, ông làm trò, chẳng một ai đụng đến ông. Tôi biết rõ một điều là ai cũng quí mến và chiều chuộng ông. Ông vẫn chung thủy với mối tình đơn phương dành cho kỳ nữ Kim Cương như thuở nào. Có hôm ông ngất ngưởng ngồi xe xích lô đến tận nhà thăm nàng. Ông sơn móng chân móng tay, đánh phấn thoa son cẩn thận. Gọi cửa nàng không ra, ông lấy đá chọi rầm rầm vào nhà. Nàng phải xuất hiện để ông thấy mặt và ông nói vài lời rồi ông ra đi, chỉ có thế thôi, cũng trữ tình ra phết.

Có một thời Hãng phim Giải Phóng ở thành phố, mời ông đóng phim, làm tài tử "xi la ma". Báo Điện ảnh có đăng tin và in hình ảnh ông. Tôi không biết ông đóng phim gì, nhưng ông có lãnh "cát sê" cẩn thận. Hôm ấy, ông ngồi xích lô đi từ xưởng phim đến đường Bà Huyện Thanh Quan, rải tiền đầy đường, trẻ con, người lớn chạy theo xe ông lượm tiền như một đám rước Bùi Giáng.

Bùi Giáng dừng lại sạp báo của nhà báo Nguyễn Kinh Châu hồi trước. Ông đề vội mấy câu thơ tặng bạn rồi lại ra đi phát nốt số tiền còn lại. Ông tới Hội Văn Nghệ thành phố uống bia say la đà.

Thời mở cửa, kinh tế thị trường mà sao tôi vấn khổ quá vì vấn đề cơm áo.

Gặp thầy Bùi Giáng, khi đó thầy có vẻ tỉnh táo. Tôi tâm sự với thầy về hoàn cảnh của mình, văn chương là nghề chính mà ế ẩm, bút phải gác lên mái lều, làm nghề lao động chân tay để nuôi vợ con, sức khỏe ngày một suy yếu. nghèo rớt mồng tơi. Tôi thật tình muốn điên, muốn tâm thần để kệ mẹ đời.

Tôi hỏi thầy vì thầy có kinh nghiệm điên:
- Em muốn điên thầy ạ!

Thái độ vừa bình ĩlnh vừa chậm rãi:
- Mày muốn điên thật hả?
- Dạ thật!
- Mày chưa đủ tư cách làm người điên vì mày mắc míu nhiều quá. Mày không có thì giờ để điên, lâu mới có thì giờ điên. Tau chửi mày là đồ ngu chứ không chửi mày là đồ điên.

Sau đó thầy Bùi Giáng "xuất chiêu " làm một loạt động tác điên, tôi thất kinh và thấy lời thầy dạy có lý quá. Nếu tôi điên thì "trật giuộc" hết trơn.

Đã nhiều năm tôi tự nguyện xa lánh các cuộc vui tụ tập ăn uống hay đàn ca hát xướng. Ngoài chuyện lo kiếm ăn tự nuôi sống mình và gia đình, tôi ở tịt nhà với vợ con, tôi không đi đến đâu và cũng chẳng gặp gỡ ai. Tôi sợ những chuyện thị phi nơi gió tanh mưa máu. Phải chăng tôi tự cô lập mình? Hay hoàn cảnh bắt buộc như thế?

Tôi không dự đám tang thầy Bùi Giáng sáng ngày hôm sau, nên không biết có bao nhiêu người đưa tiễn thầy?
Người ta không bỏ quên thầy, thế là mãn nguyện lắm rồi. Câu này dành cho những người sống hơn là người chết.

Thi sĩ Bùi Giáng là một con người ngạo mạn với đời. Ông chăng cần lưu danh vì một câu an ủi. Một cuộc đời với hơn năm mươi tác phẩm biên khảo, dịch thuật và hơn mười tập thơ Đó là một gia tài không nhỏ ông để lại cho đời.

(Chương 5 trích từ hồi ký "Giữa Đêm Trường " của Nguyễn Thuỵ Long)
Hình đại diện
Vi
Bài viết: 780
Ngày tham gia: Thứ năm 16/03/17 23:48

Re: Một Vài Kỷ Niệm Với Bùi Giáng

Bài viết bởi Vi »

Mì quảng của Bùi Giáng


Hình ảnh
Ảnh minh hoạ
Lần đầu tôi gặp Bùi Giáng vào năm 1957, tại Sài Gòn. Khi ấy, mỗi chiều tối, gần như thường lệ, Đinh Hùng và tôi gặp nhau ở Câu Lạc Bộ Văn Hóa, đường Tự Do (Cati-nat cũ) để uống bia. Quán này của anh chị Phạm Xuân Thái, thường tụ họp khá đông giới văn nghệ sĩ của thủ đô miền Nam. Anh Phạm Xuân Thái lúc ấy đã rời chức Bộ Trưởng Bộ Thông Tin. Anh đại diện giáo phái Cao Đài trong chính phủ Ngô Đình Diệm.

Quán này có hai tầng tiếp khách. Tầng trên lầu và tầng dưới. Tôi và Đinh Hùng thường ngồi ở cái bàn nơi góc cửa ra vào, tầng dưới. Nhiều khi cùng ngồi với chúng tôi, có nàng thơ bé nhỏ (chừng 16, 17 tuổi) người miền Nam học trường Pháp, Marie Curie. Nàng tên diệu hiền (có lẽ chỉ là bút hiệu). Diệu Hiền có nét đẹp thánh thiện, luôn mặc quần áo trắng, tóc buông lơi ngang lưng, không chút phấn son. Diệu Hiền làm thơ, bằng tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Việt. Trong thơ nàng thường tự xưng là “Người yêu của Chúa” và thường nói với chúng tôi “không thể yêu ai, ngoài Chúa”; gia đình Diệu Hiền theo đạo Công Giáo gốc đã từ mấy đời. Câu chuyện Diệu Hiền, tôi sẽ nói ở một đoạn sau trong hồi ký này.

Trở lại Câu Lạc Bộ Văn Hóa. Tuy làm chủ, nhưng anh chị Phạm Xuân Thái ít khi xuất hiện. Đôi lần, chị Thái từ nhà trong đi ra phố, ngang qua bàn chúng tôi, khẽ mỉm cười, nghiêng đầu chào. Chị có dáng lả lướt, thanh tao, mơ hồ một nét liêu trai. Nếu khách là kẻ đa tình, không thể không ngơ ngẩn nhìn theo. Cái dáng đẹp ấy có thể dìm chết khách vào trong mộng.

Một buổi, Đinh Hùng bảo tôi:
- Bùi Giáng mời tôi với anh trưa mai 12 giờ tới uống rượu ở nhà anh ta, đường Dis-mude (Cô Giang hay Cô Bắc, phường Cầu Muối: Douaumont gì đó).

Tôi đoán chừng: Bùi Giáng mà tôi thấy có thơ đăng lác đác trên vài tờ tạp chí văn học – hẳn là người đã ngưỡng mộ thơ Đinh Hùng nên đã mời Đinh Hùng, chứ không phải mời tôi. Nhưng Đinh Hùng muốn kéo tôi đi cùng cho có bạn, nên đã nói thác ra như vậy.

Tuy nhiên tôi không từ chối mà chỉ ngồi im, suy nghĩ. Ý hẳn Đinh Hùng hiểu tôi ngần ngại nên xác định thêm:
- Tôi có nói với họ Bùi là sẽ đi với Mặc Thu. Anh vui vẻ nói: Thế càng quí hóa. Vậy khoảng 11 giờ trưa mai tôi tới anh rồi ta cùng đi! (Hùng ngại đi một mình và không muốn tôi từ chối). Vả, chính tôi cũng muốn làm quen với nhà thơ họ Bùi.

Lúc đó, gia đình Đinh Hùng ở đường Đinh Công Tráng, Tân Định. Gia đình tôi ở đường Lý Trần Quán cũng Tân Định. Gần nhau có ba bước chân. Chúng tôi cũng thường đi bộ sang nhà nhau. Hồi đó chúng tôi cũng khá rảnh rỗi vì Đinh Hùng và tôi vừa bị loại ra khỏi tờ nhật báo Tự Do, cùng một lượt với các anh Tam Lang, Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan.

Hôm sau, đúng hẹn, chúng tôi tới nhà Bùi Giáng. Họ Bùi ở một ngôi nhà mặt tiền, nhưng là một ngôi nhà cổ, cũ kỹ, rất nhỏ. Nền nhà, thấp dưới mặt đường chừng nửa thước, có bực để bước xuống. Bàn rượu đã thấy bày ở ngoài thềm, có ba ghế đẩu.

Chủ nhân nhanh nhẹn từ trong nhà bước ra tiếp khách. Phía trong nhà khá tối, thấp thoáng có bóng dáng một giai nhân, quần áo lụa là kiểu bà ba, hẳn đương lo việc bếp núc.

Đây là lần đầu tôi gặp Bùi Giáng. Đó là một thanh niên dáng vẻ rất thư sinh, đầu tóc rẻ đầu ngôi, gọn ghẽ, áo sơ mi trắng, quần màu rêu nhạt, mặt sáng sủa, thanh tú, mắt mang kính cận.

Đinh Hùng để cái cặp da xuống cạnh bàn. Ba chúng tôi cùng ngồi, nhắp từng hớp bia. Qua câu chuyện thăm hỏi giữa họ Đinh và họ Bùi, tôi được biết Bùi Giáng đương dạy học ở một trường tư thục nào gần đó. Còn người phụ nữ trẻ trong nhà, thỉnh thoảng bưng ra món này món nọ bày trên bàn, chúng tôi cùng giữ ý, không hỏi nàng là ai. Mà Giáng cũng không nói gì về nàng.

Tôi nhận thấy Giáng rất ít nói. Chỉ nói những khi cần thiết. Nói rất gọn, chỉ cần đủ ý ! Ví dụ:
- Mấy món quê mùa ! Các anh dùng tạm !

Đinh Hùng bỗng nhiên phải đảm nhận vai trò hoạt náo, phải nói nhiều hơn cả. Phần nhiều là nhận xét về thơ của họ Bùi. Tất nhiên, khen nhiều hơn chê. Tôi rất phục Đinh Hùng ở chỗ anh đọc ra trơn tru từng đoạn thơ của Giáng. Họ bùi cúi đầu nghe nhận xét với vẻ cảm động. Kẻ nói, người nghe đều rất thành thực. Câu chuyện ít tánh chất xã giao, gượng gạo, tự nhiên, thân tình.

Bữa ăn hôm ấy đãi chúng tôi gồm có hai phần. Phần đầu một món ăn chơi: bánh hỏi thịt quay. Phần sau, món mì Quảng được người đẹp bưng ra, còn bốc hơi nóng, thơm lừng. Tôi thầm nghĩ hẳn mặt hoa cũng thơm lừng mùi nước dùng.
Bùi Giáng khẽ cười lỏn lẻn, giới thiệu:
- Mì Quảng! Nhà Làm! Xin mời!

Họ Bùi có vẻ đắc ý về món ăn đặc biệt chất quê của anh. Vừa ăn anh vừa ngẩng nhìn bọn tôi, xem ý ra sao. Mặt anh tươi hẳn lên, có lẽ cũng ngang bằng khi anh làm được câu thơ thích thú. Thỉnh thoảng lại hỏi chúng tôi:
- Được chứ ? Rồi lại tự kết luận – Được đấy chứ !

Đây là lần đầu tôi được ăn món mì Quảng. Tôi thấy lạ miệng, và thấy thật ngon. Tô của tôi hết sạch trước hai bạn. Giáng gọi thêm cho tôi một tô “thiếm xực”. Khi ra lệnh, mặt anh càng tươi hơn. Người đẹp bưng ra một tô nữa cho tôi, mặt hoa cũng có chiều tươi tắn, hớn hở. Hớn hở vì món nàng làm được khách ân cần chiếu cố.

Mấy mảnh bánh đa điểm lác đác vừng đen, cõng theo vài hạt đậu phọng giã nhỏ, quyện với nước dùng nâu vàng, ngậy mà thanh, ngọt lịm sao mà ngon đến thế !

Cái món “quê mùa, nhà làm”, hôm ấy, làm tôi quyết đoán: cô gái xinh đẹp, quá trẻ nọ, phải là người cùng quê xứ Quảng với nhà thơ họ Bùi. Chỉ còn không biết người đó là vợ, là người yêu, hay chỉ là học trò cưng của thầy, nhưng thật không tiện hỏi. Mà Giáng cũng chẳng nói. Vừa ăn tôi cũng vừa nghĩ: mỗi đêm nàng Giáng Kiều kia, từ trong tranh bước ra, bưng cho chàng tú tài họ Bùi một tô mì Quảng bốc khói thơm phức trách gì chàng chẳng làm được Thơ đẹp cho đời.

Bữa ăn thanh đạm hôm ấy làm tôi nhớ mãi sau này. Và cũng mãi mấy chục năm sau, tôi mới được biết thêm cái món mì quảng mì Quảng ấy cũng là món ăn thích thú độc nhất của Bùi Giáng. Nó theo anh tới tận những ngày cuối cùng của đời anh.

Từ đấy, đường đời, mỗi người đi mỗi nẻo, tôi không còn có dịp ngồi đối diện đồng ẩm với họ Bùi nữa. Nhưng trong lòng vẫn giữ được hình ảnh đẹp về anh. Tuy nhiên, tôi vẫn theo rõi và thích thú được gặp anh trong thơ anh, những bài đăng trên báo này, báo nọ. Tôi thấy thơ anh cứ chuyển dịch lần, chuyển dịch từ Thực và Ảo. Rồi đất nước cũng chuyển dịch vào cuộc biến “tang điền”. Tôi đi tù (cải tạo) trở về vào năm 1986, lại được nghe tin về Bùi Giáng, qua các bạn trong làng, và qua người cháu của anh: Bùi Ngọc Thơ. Bùi Ngọc Thơ đã là cháu rễ của tôi, Ngọc Thơ kết bạn đời với cháu ngoại của tôi: Chử Mặc Anh Thư.

Nghe người ta nói: Bùi Giáng đã trở nên một cuồng nhân, một cuồng sĩ, suốt năm tháng đi lang thang, vô định, màn trời chiếu đất, với một bầu thơ, đựng toàn cuồng thi bên mình, với một sợi dây dong vài ba con cho lẽo đẽo theo sau…

Một buổi, vào đầu Xuân 1987, tôi đương ngồi uống trà, đọc sách trên căn lầu nhà tôi (94, Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận) bỗng thấy một bóng người nhô lên đầu cầu thang. Người ấy, đầu tóc rối bù, đội chiếc nón rơm te tua, quần áo lụng thụng rách bươm. Nhìn khách thì thấy mặt mũi hốc hác, mồm miệng móm mém, râu ria lởm chởm, giống y như một Lý Thiết Quài. Tôi đương kinh ngạc chưa nhận ra ai thì kịp nhận ra người theo sau là cháu Bùi Ngọc Thơ. Cháu mủm mỉm cười hỏi:
- Ông ngoại không nhận ra ai sao ?

Tôi vội trả lời:
- Nhận ra chứ ! Bạn của ông mà ! Bùi thi sĩ đây chứ ai !

Thì ra đó là Bùi Giáng, bằng xương bằng thịt, người mà tôi vẫn mong được gặp, nhưng hạc nội, mây ngàn, biết đâu mà tìm. Thấy tôi còn nhận ra “người cũ” Bùi có vẻ khoái chí, chưa ngồi xuống ghế đã ghé tai hỏi:
- Đi lâu quá hỉ ? Sao, có khỏe không huynh ?

Cháu Ngọc Thơ nói với tôi:
- Bác Giáng đòi con đưa đi thăm ông ngoại khi biết tin ông ngoại đã được về. Con xin lỗi đã không báo tin trước cho ông ngoại biết vì bác con nói không cần báo trước.

Biết cháu thế nào cũng đã kể lể chuyện đi tù của tôi, nên tôi cũng không nhắc tới chuyện ấy nữa.

Bùi ngồi xuống đã sảng khoái hỏi ngay:
- Nhà có rượu không huynh? Đệ muốn uống một chén tẩy trần, mừng huynh đã về ! Mừng anh em mình hội ngộ.

Tôi thấy Bùi nói năng vẫn duyên dáng, hoàn toàn tỉnh táo, khác hẳn lối phục sức của anh. Bụng đã mừng thầm. May nhà sẵn có vò Mai Quế Lộ mà Đăng Văn Bé (LTS: chủ nhiệm báo Thách Đố)vừa gửi biếu, tôi bèn lấy ra đãi Bùi. Thấy vò rượu dán nhãn đỏ với hàng chữ Hán, anh xoay xoay cái vò nhìn đọc cái nhãn rồi “chậc miệng”:
- Hảo tửu đãi cố nhân... chà, chà, tuyệt hảo !

Anh tự tay mở nút, nghiêng vò rót ra hai chén, đưa mắt cười mỉm có ý mời tôi, rồi nâng chén tợp một hơi cạn. Lại rót thêm chén nữa. Cũng lại tợp một hơi cạn, mà không hề để ý rằng tôi đã có uống hay chưa.

Lấy tay áo quyệt miệng, Bùi lại hỏi:
- Nhà có giấy bút không huynh?

Biết nhà thơ đã nổi hứng, tôi vội đứng lên đi lấy nghiên mực Tàu, cây bút lông và tờ giấy màu vàng.

Bùi dầm ngọn bút lông vào chén rượu của tôi, chấm chấm vào nghiên, phóng tay viết hai câu thơ, chữ nghiêng, chữ ngả, chữ đủ mực, chữ không ra nét. Ý thơ bí hiểm, đượm màu kinh kệ... Rồi dừng bút ngẫm nghĩ, chừng muốn viết thêm. Bỗng ném bút xuống bàn, cười:
- Thôi, đủ ! Nhìn sang Ngọc Thơ ra lệnh: “Ta đi thôi” – ngảnh sang tôi, Bùi khẽ nghiêng đầu: “Đệ xin cáo biệt!

Tôi còn đương ngẩn ngơ, Bùi đã đứng phắt dậy, bước nhanh xuống cầu thang. Ào đến, ào đi, như trận gió thoảng. Phong khí thật... đạo sĩ. Thần thái thật phiêu hốt.

Từ đấy tôi không còn dịp nào gặp lại Bùi Giáng nữa. Ấn tượng lần gặp sau cùng đã in nét đậm trong tôi.

Trước đây, khi hỏi thăm về Bùi, cháu Bùi Ngọc Thơ có kể cho tôi biết nhà thơ họ Bùi vẫn nhận được tiền của thân nhân từ hải ngoại gởi về. Mỗi lần nhận được tiền, Bùi lại chỉ đi tìm ăn mì Quảng. Hoặc nhờ người quen nào đó nấu mì Quảng. Hoặc nhờ người quen nào đó nấu mì Quảng rồi mời cả đám những bọn giang hồ, kể cả đám bạn con nít, lôi thôi lếch thếch tới ăn kỳ đến hết đống tiền “tài trợ” mới thôi. Lại đi, không biết đi đâu, ăn ở đâu, ngủ ở đâu.

Tóm lại, những ngày tháng cuối đời, nhà thơ họ Bùi luôn sống giữa cơn say và cuộc tỉnh, giữa mộng và thực, chuệnh choạng bước giữa hai lằn đường, không biết khi nào tỉnh, khi nào say, khi nào giả, khi nào thực. Có người gặp, kể lại thì Bùi thường hay nói năng lung tung, nhiều khi chỉ nói cho mình nghe. Cũng nhiều khi nói lớn cho người khác nghe như muốn phân bua điều gì. Cũng lắm lúc Bùi “mạ lỵ, phỉ báng” xúc phạm đến nhiều người quyền thế.

Người nghe cảm thấy khó chịu, như chính mình bị xúc phạm thì cũng bỏ qua, cho là lời lẽ của kẻ điên. Người nghe cảm thấy vui thỏa như chính mình được chửi, thì cho rằng đó là lời của người thực tỉnh táo. Thử hỏi mấy ai đã được sống sướng thỏa như nhà thơ Bùi Giáng vào giữa lúc cuộc đời điên đảo như thuở này ?

Khi bác cháu họ Bùi đi khuất, tôi còn mãi ngẩn ngơ, ngồi lại một mình. Bây giờ mới nhớ ra mình chưa hề uống một giọt mai quế lộ. Thế là một mình tự rót, tự mời, độc ẩm, không biết bao nhiêu chén nữa. Rồi viết mấy câu thơ tặng Bùi Giáng. Nhưng thơ này không gửi.

TÁI NGỘ BÙI GIÁNG

(nhân chuyến thăm bất ngờ của nhà thơ họ Bùi 1987)

Đời bảo anh điên! Đâu có điên
Đường thơ anh tới cõi thần tiên
Nói cười dẫu khác người nhân thế
Bởi chẳng cùng chung một hướng duyên
Thôi, hãy cùng ta cạn chén này!
Chuyện đời đâu đáng nửa cơn say
“Trập trùng kim ốc, giai nhân mộng”*
Cũng chẳng hơn gì... hớp rượu cay.

(1987)
(*) Thơ Nguyễn Hoạt (1946)

(trích từ Hồi ký “Một Hạt Đời” của Mặc Thu)
Ngoc Han
Bài viết: 1577
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: Một Vài Kỷ Niệm Với Bùi Giáng

Bài viết bởi Ngoc Han »

Mai Sau Em Về
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi còn gửi đôi giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù?

Những thương nhớ lạnh bao giờ
Đường thu chia ngả chân trời rộng thênh
Đây phồn hoa của thị thành
Đây hồn thuỷ thảo khóc tình ngửa ngang
Càn khôn xưa của riêng chàng
Xưa đài vũ trụ thiếp mang riêng mình
Bây giờ đón bước em xinh
Sầu đau nhan sắc bất bình ra sao
Bàng Dúi tiên sinh.
Ngoc Han
Bài viết: 1577
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: Một Vài Kỷ Niệm Với Bùi Giáng

Bài viết bởi Ngoc Han »

Thi sĩ Bùi Giáng khóc hiền thê Vạn Ninh,

Em chết bên bờ lúa

Để lại trên lối mòn

Một dấu chân bước của

Một bàn chân bé con!

Anh qua trời cao nguyên

Nhìn mây buồn bữa nọ

Gió cuồng mưa khóc điên

Trăng cuồng khuya trốn gió.

Mười năm sau xuống ruộng

Đếm lại lúa bờ liền

Máu trong mình mòn ruỗng

Xương trong mình rả riêng.

Anh đi về đô hội

Ngắm phố thị mơ màng

Anh vùi thân trong tội lỗi

Chợt đêm nào, gió bờ nọ bay sang.
Trả lời

Quay về “câu chuyện thi thơ”