Người xưa rọi soi thói hư tật xấu của người Việt

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Người xưa rọi soi thói hư tật xấu của người Việt

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Người xưa rọi soi thói hư tật xấu của người Việt



    Thỉnh thoảng đọc lại những bài báo cách đây hơn 70 năm mà cảm thấy ngạc nhiên. Hóa ra, những thói hư tật xấu của người mình vẫn tồn tại từ lâu và chưa có dấu hiệu nào sẽ thay đổi. Thời đó, những học giả như Phan Khôi, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Huyên, Phan Châu Trinh, Hoa Bằng, v.v. đã viết nhận ra khá nhiều những thói quen không hay của người mình. Phần lớn là những thói xấu của giới có học.

    Đó là những thói xấu mà chúng ta hay thấy ngày nay. Nào là tình trạng trống vắng của đời sống tinh thần, hám chức danh, trẻ em hỗn láo, khôn vặt, ganh tị và đố kị, v.v. đều được các học giả chỉ ra khá chi tiết. Dưới đây là những sưu tầm của Vương Trí Nhàn, và tôi sắp xếp lại theo chủ đề để dễ theo dõi.

    1. Thiếu giới trí thức elite

    Trí thức là thành phần rất quan trọng của một xã hội, nhưng Việt Nam đã thiếu tầng lớp này từ xưa. Trong bài "Đạo đức và luân lý Đông Tây" (1925), cụ Phan Chu Trinh phê bình giới có học (chứ không phải 'trí thức') như là những kẻ nói dối, hách dịch và kiêu căng với đồng bào, là đạo đức giả (nói một đằng làm một nẻo). Ông viết:
    "Tôi thường thấy ở mình kẻ nào khôn hơn chút đỉnh, giao thiệp với người kém hơn chút đỉnh, thuần chỉ nói dối. [...] Tôi xem thấy lắm người danh dự không bằng ai, học thức không hơn ai, nhắm lại mình chưa khỏi hai chữ 'đầy tớ người' mà khi ra đới với đồng bào đồng chủng đã có ý kiêu căng, bảo là thầy đây! Ta là ông đây! Chứ không có tự nghĩ cho rằng: Thầy đây, ông đây đã làm được điều ích lợi cho bọn chân lấm tay bùn kia chưa? Tôi cũng đã từng thấy nhiều người viết báo than thở rằng đạo đức nước nhà trụy lạc nhưng nói như nước chảy lá môn chẳng có hiệu quả gì. Vì sao vậy? Là vì các ông nói mà các ông ít chịu thực hành thì người ta không giám theo các ông cũng là phải. Huống chi luân lý các ông giảng đó tự tệ tục của chế độ chuyên chế tạo ra, không chính đáng, không hợp thời thì người ta không thèm nghe cũng không có gì là lạ."

    Tại sao? Tại vì, theo Đinh Gia Trinh, giới có học Việt Nam "Coi sự giật bằng là cứu cánh, coi học vấn là phương tiện nên sau khi nhờ bằng cấp đưa nên tài danh vọng, người ta liền vứt sách cho vở. Rồi lâu dần không hấp thụ được sinh khí do kiến văn học thức mới mang lại, óc người sẽ han rỉ, cả cái học vấn khi xưa tích lũy để đi thi cũng tiêu tan mất, để rớt lại họa chăng một mớ danh từ rời rạc và một vài tư tưởng hàm hồ. Người đỗ đạt xưa kia trở lại thành một người tầm thường lạ, có khi lạc xuống dưới cả mức trí thức trung bình nữa." (Học khoa cử, Thanh Nghị, năm 1944).

    Trong một bài viết trên Nam Phong Tạp Chí (1931), học giả Phạm Quỳnh chỉ ra rằng người Việt có thể ham học nhưng chưa thoát ra khỏi tư cách của người học trò. Ông viết như sau: "Nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả nước ví như một cái trường học lớn, cả năm thầy trò chỉ ôn lại mấy quyển sách giáo khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm học trò! Ấy cái tình trạng nước ta, sự học từ xưa đến nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế… Xưa khi học sách Tàu thì làm học trò Tàu, ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà thôi... chưa mấy ai là rõ rệt có cái tư cách - đừng nói đến tư cách nữa, hãy nói có cái hy vọng mà thôi - muốn độc lập trong cõi tư tưởng cả. Như vậy thì ra giống ta chung kiếp chỉ làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại thần trí của ta nó bạc nhược quá không đủ cho ta cái óc tự lập."

    Mà, cái hời hợt trong sự học là rất nguy hiểm. Học không đến nơi đến chốn mà ăn nói lung tung chỉ làm hại mà thôi. Học giả Nguyễn Trọng Thuật, trong "Cùng ai Trong ban Tây học" (Nam phong, năm 1933) nhận xét rằng:
    "Vô luận Tây học hay Nho học, hễ theo học nó mà không thâm đắc được chỗ tinh thần, không suy diễn làm ra của riêng mình, không truyền thụ được cho đất nước, thì đều là hủ bại cả. Mà cái hủ bại ấy mới là hủ bại tày đình, hủ bại cho cả nòi giống."

    2. Kém óc khoa học

    Đó là lời nhận xét và phê bình của cụ Phan Khôi. Trong bài "Người Việt Nam và óc khoa học" (Tao Đàn 1939), ông viết: "Trong lúc nền học thuật nước ta bắt đầu độc lập, tôi thấy như ai nấy có huynh hướng về văn học hơn khoa học. Ấy là cái hiện tượng đáng cho chúng ta không lấy làm mãn ý. Có người đã ví văn học và khoa học như hai anh chim chích một không bay nổi. Chuyện chuộng văn học thì lâu ngày nó sẽ thành ra vô thực dụng, cái gương Hán học hồi trước vẫn còn treo mãi cho chúng ta."

    Thiếu óc khoa học nhưng có xu hướng thực dụng. Học để kiếm tiền và danh, chứ không hẳn vì học thuật. Học giả Đinh Gia Trinh viết (trong bài "Học khoa cử" Thanh Nghị 1944): "Coi sự giật bằng là cứu cánh, coi học vấn là phương tiện nên sau khi nhờ bằng cấp đưa nên tài danh vọng, người ta liền vứt sách cho vở. Rồi lâu dần không hấp thụ được sinh khí do kiến văn học thức mới mang lại, óc người sẽ han rỉ, cả cái học vấn khi xưa tích lũy để đi thi cũng tiêu tan mất, để rớt lại họa chăng một mớ danh từ rời rạc và một vài tư tưởng hàm hồ. Người đỗ đạt xưa kia trở lại thành một người tầm thường lạ, có khi lạc xuống dưới cả mức trí thức trung bình nữa." Tuy ông viết là 'người xưa', nhưng xem ra đây cũng là vấn đề thời sự của 'người nay.'

    3. Người Việt có phần thông minh, nhưng hay khoác lác, trọng hình thức

    Ông Lương Đức Thiệp, trong "Việt Nam tiến hóa sử" (1944), cho rằng người Việt có phần thông minh, nhưng ít ai có trí tuệ lỗi lạc. Người Việt hiếu học không phải để hiểu biết mà để có được chức quyền vì miếng cơm manh áo. viết:
    "Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam phần nhiều là thông minh, song những người có trí tuệ lỗi lạc thì xưa nay vẫn hiếm. Nhiều khi từ thông minh không có chỗ dùng thuận tiện thường lại biến ra não tinh vặt. Trí nhớ của người Việt Nam rất nẩy nở, đến não tường tượng thì hoàn toàn bị não thực tiễn làm tê liệt. Não thực tiễn này mở nguồn cho nhiều đức tính khác, cho nên người Việt Nam hiếu học không phải vì khát hiểu biết mà chỉ vì mong một địa vị ưu thắng trong xã hội: Học đối với người Việt.không phải để thỏa mãn một khát khao trí tuệ, mà chính là để làm kế mưu sinh."

    Sau này, ông Đào Duy Anh bổ sung thêm: "Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lý. Phần nhiều người có tính ham học, song thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thích thành sáo và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động. Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hoà hoãn bớt, cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng mà phán đoán thường có vẻ thiết thực.
    Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh và thích chơi cờ bạc. Não sáng tác thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng , dung hoà thì rất tài. NgườiViệtNam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo."


    4. Nói năng lộn xộn.

    Một biểu hiện ngày nay là không ít những người có học và giới chính trị phát biểu chẳng có đầu đuôi hay logic gì cả. Nhưng đây không phải là hiện tượng mới, vì ngay từ 1922 cụ Phạm Quỳnh đã có nhận xét như thế:
    "Người mình không những nghề diễn thuyết chưa biết, mà đến nói câu chuyện cho có đầu đuôi manh mối cũng ít người nói được. Khi Hội đồng(1) thời(2) chẳng khác gì như họp việc làng, tranh nhau nói, ồn ào lộn xộn mà ít ai nói được câu gì cho có nghĩa lý, chỉ bẻ hành bẻ tỏi nhau những cái vặt vặt chẳng đâu vào đâu. Khi yến tiệc thời đương câu chuyện vui, gặp có tiếng gì buồn cười, nhất là nói tiếng bẩn, ông nào to miệng cả tiếng thở ra một cái cười hà hà, cử toạ đều cười ầm cả lên đến vo đổ nhà, thế là câu chuyện tan. Chỗ công môn thời ông quan nói, muốn ra oai mặt sắt chỉ nói nhát gừng, cách một vài câu lại điểm những tiếng nghe chưa? nghe chưa? thằng dân thưa thốt gãi tai gãi đầu, chỗ nghe những tiếng bẩm bẩm dạ dạ nói không ra lời. Mấy cậu thiểu niên thời toa toa moa moa ngậu xị cả đường phố câu chuyện không những vô vị mà thường bất thành ngôn nữa. Thời buổi nhố nhăng, ngữ ngôn bác tạp, anh bồi chú bếp con bạc làng chơi ả giang hồ cậu công tử, Tây không ra Tây, Tàu không ra Tàu, ta không ra ta, có nhiều cái xã hội không biết họ nói thứ tiếng gì. Thử tìm khắp trong nước được mấy người là biết nói năng lịch sự? Thật ít quá."

    5. Mưu danh bằng cách hạ nhục kẻ khác.

    Một thói quen của giới có chữ ở Việt Nam là hay tìm cách hạ nhục người khác để nâng mình lên. Trong bài "Vài cái liệt điểm" (Tri Tân 1942), học giả Hoa Bằng viết rằng:
    "Lắm kẻ, chỉ vì hám cái phù danh, đang tâm lê gót giày lên trên tình bạn hữu, hạ chân lý xuống tận bùn đen. Tưởng mình như thánh như thần, ngoài ra, nhất là những địch thủ, toàn là đàn chim chưa vờ bọng cả. Chưa đọc hết, có khi không thèm xem qua bài văn của người khác, họ đã dài mồm chê bai. Chưa mở lấy một trang sách, chưa rờ đến một tờ báo của bạn đồng nghiệp, họ đã yên trí là viết không thành câu, hạ ngay những lời mạt sát thậm tệ. Trong khi trò chuyện, chỉ hết sức khoe khoang về mình, còn những người khác dù đã lập được biết bao chiến công trên trận bút trường văn, cũng chỉ đáng một con số không, theo ý họ."

    6. Thiếu sáng tạo cái mới

    Cách đây không lâu, chúng ta đọc báo về những gian hàng triển lãm quốc tế của Việt Nam vừa đơn điệu vừa nghèo nàn. Nhưng đó không phải là điều gì mới, bởi vì từ 1934, Nhà văn Nhất Linh (thủ lãnh của Tự Lực Văn Đoàn) đã viết trên tờ Phong Hóa (số ra ngày 30/11/1934) như sau: "Mấy gian hàng Hải Dương, Nam Định vẫn như mọi năm không có gì tiến bộ.Thăm gian hàng Trung Kỳ, người ta cảm thấy như sống lùi lại mười năm trước bởi chỉ có ít đồ gỗ nét chạm non nớt. Đồ đồng của ta có lẽ nghìn vạn năm nữa không thay đổi. Từ cái thau cái mâm cho đến cái đỉnh thứ nào cũng nguyên như cũ , hình như đổi mới nó đi là một cái tội vậy. Đồ sứ Bát Tràng men trông cũng khéo, chỉ tiếc rằng kiểu không đẹp, phần nhiều là bắt chước Tàu”.

    ***


    Những bài viết và nhận định trên, tuy chưa đủ, nhưng đã vẽ lên chân dung của giới nho sĩ, hay có thể gọi chung là những người 'có chữ', của Việt Nam thuộc vào thế hệ đầu thế kỉ 20. Đó là chân dung của những người kém thông thái, yếu kém về khoa học, nô lệ vào Tàu và Tây về ý tưởng, không sáng tạo ra tri thức mới mà chỉ nhai lại những kiến thức của Tây Tàu, hay nói chung là thụ động. Nhưng họ lại rất kiêu căng, hống hách với đồng bào 'ít học'. Họ cũng tỏ ra rất đố kị, ganh tị với ai có tài hơn họ, và thích hạ nhục người khác để tự nâng mình lên.

    Sự học của họ không phải vì học thuật, mà vì chức danh, quyền, và tiền. Hễ người ta có chức danh thì bị chê là 'nghèo', nhưng nếu người ta giàu thì bị chê là 'dốt'. Họ dành nhiều thì giờ để chê bai và chỉ trích lẫn nhau, nên cuối cùng thì họ chẳng đóng góp gì đáng kể cho nền học thuật, cho khoa học, và cho nền văn học nghệ thuật nước nhà.

    Đó là những nhận định và phác họa chân dung giới có học gần 100 năm trước, nhưng nếu suy ngẫm lại thì thấy rất thời sự tính hiện nay. Đọc để trước là biết chuyện, và sau là để tránh những thói quen không hay của những người đi trước.

    Nguyễn Tuấn


    Nguồn:https://www.facebook.com/t.nguyen.2016



              
Trả lời

Quay về “Nguyễn Tuấn”