Tuệ Sỹ, viễn mộng mấy khung trời

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Tuệ Sỹ, viễn mộng mấy khung trời

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Tuệ Sỹ, viễn mộng mấy khung trời




    Thiền sư Tuệ Sỹ



    Có người yêu thơ và hay tập tành làm thơ, sau khi đọc một tác phẩm “Tô Ðông Pha, những phương trời viễn mộng” của một người làm thơ viết về một người làm thơ khác (Tuệ Sỹ viết về Tô Ðông Pha) đã cảm khái:

    • “nghe từ thiên cổ
      lời ru mênh mang
      bước vào cuộc Lữ
      mấy chuyến đò ngang.
      Tà dương có khóc
      Nắng ngả ánh vàng
      Mưa bay thoảng chốc
      Thiên địa hoang tàn
      Một người đọc thơ
      Nhìn trăng vừa khuyết
      Sinh tử đâu chờ
      Vòng quay nhật nguyệt.
      Ði vào đất trích
      Quanh quẩn nhân gian
      Cho tròn vai kịch
      Giây phút muộn màng
      Phương trời viễn mộng
      Sẵn lúc chào đời
      Bốn bề gió lộng
      Người ơi, Thơ ơi!!”




    Viết về Tô Ðông Pha, mà nghe như viết cho chính mình. Tuệ Sỹ, trong cái quay cuồng của lịch sử, đã nhìn vào chặng lữ hành của lịch sử để tìm vào cõi sâu kín của vòng chuyển dịch. Ông, không phải trong vai trò thiền sư để đi tìm cái uyên áo mà, với thái độ mơ mộng lãng mạn đi tìm cho riêng mình một cõi thơ riêng. Ông viết:

    “Thơ vẫn là một cuộc lịch nghiệm Riêng và Chung, của Thời Ðại và Lịch Sử. Từ cuộc Riêng, Thơ nương theo cánh của Thi và Dịch để đi về nơi Hoằng Viễn, dẫn Lịch Sử Uyên Nguyên tụ hội với Thời Ðại. Hình như những sự này tôi nghe được từ nơi thơ của Tô Ðông Pha, nhưng có nghe lộn hay không thì không biết…”

    Kinh Thi và Kinh Dịch là những trầm lắng suy tư của người xưa, theo Tuệ Sỹ là hai cánh chim lớn của con thần nhạn chuyên chở định mạng của dân tộc Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Ðông. Thi và Dịch, là suy ngẫm để tìm đến đích đến rốt ráo của Chân Lý. Và, cũng là những phiến gương soi để tìm lại những bóng hình vẫn còn hiện hữu dù đã xa xôi những không gian, thời gian muôn trùng…

    Có những câu thơ, của thấp thoáng tình Riêng trong Ý chung. Thấp thoáng nỗi niềm của Tuệ Sỹ trong ngôn ngữ một thuở Thịnh Ðường. Dù thơ lục bát, của ngữ ngôn thuần túy Việt Nam, nhưng giấc mộng vẫn vút cao

    • “Ðồi mai ngơ ngác nụ cười
      cánh hồng lả mộng của đời lưu ly
      tồn sinh thấp thoáng nẻo về
      dấu trơ bãi tuyết, ngoài tê cánh hồng
      Sư già, tháp mới, hồn không
      Tường rêu đổ xuống đâu đồng vọng Thơ
      Gập ghềnh năm tháng, hay chưa?
      Ðường dài người mỏi, gót lừa kêu đau…”


    Ôi, những phương trời viễn mộng, của những kiếp nhân sinh trôi nổi theo dòng thời thế, của nỗi niềm người tha hương lưu lạc ngay trong chính đất nước mình. Những canh trường mộng, những lời nỉ non nghe vẳng lại từ hai bờ tịnh không của cảm xúc. Vẫn, vần lục bát, lời của Tuệ Sỹ, làm vẳng nhớ đến Tô Ðông Pha thuở nào xa xưa:

    • “Ðá mòn phơi nẻo tà dương
      nằm nghe bước lũ khóc chừng Cuộc Chơi
      nghìn năm vang một nỗi đời
      gió đưa cuộc lữ lên lời Viễn phương
      đan sa rũ mộng phi thường
      đào tiên trụi lá bên đường Tử Sinh
      đồng hoang mục tử chung tình
      Ðăm chiêu dư ảnh nóc đình hạc khô”


    Viết về bài thơ, viết về cái tâm tình của bờ biển lớn, của cõi hoang vu mà thiên nhiên là đại dương bí ảo để, ở đó những dấu chân tỏ mờ trong ngã về hoang lộ. Tuệ Sỹ viết:

    “… Người đã lãng phí trọn vẹn tinh thể của người, để cho thiên nhiên tỏ bày ân tình trơ trọi, như viên sỏi bên đường lây lất với nắng và gió. Nắng lên cùng với dấu hiệu của hao mòn và sụp đổ. Gió lên cùng với những ước nguyện thiên thu phảng phất ra ngoài khung trời Hoằng viễn và Tịch nhiên. Mộng Phi Thường được ký thác trong đan sa trong dấu hiệu của trường sinh bất tử, nhưng đường Sinh tử đi trong cõi Hoằng viễn Tịch nhiên, ấy thế mà không bao giờ dừng bước cho Lữ Khách một lần ngụ cư ở đó. Sống và Chết vẫn còn như một nỗi đời hư huyễn, vẫn rầm rộ như một cuộc chơi. Giữa khoảng đồng rộng, đồng trống, đồng không mông quạnh. Mục tử đăm chiêu tư lự những chuyện đường đời. Và Lịch sử qua bóng dáng con Hạc gầy, rồi tự hỏi; Ðâu là Cõi Mộng Thiên Thu?..”

    Ðọc “Tô Ðông Pha, những phương trời viễn mộng” của Tuệ Sỹ để thấy từ một người hậu sinh sau những thế kỷ dài đã chia sẻ với Người Thơ những nỗi niềm của những người tri kỷ. Thời thế có khác, đất nước có khác, nhưng chất Thơ vô cùng bát ngát của những phương trời mở ra mênh mông những cánh vỗ để đi vào cái tận cùng của ngữ ngôn, để bay vào cái vô tận của ý tưởng. Viết về thơ đã khó, giải thích thơ lại khó hơn nhưng tái tạo lại không gian thơ, lại khó bội phần. Thơ ở trong thơ, không chỉ là cái khám phá hời hợt bên ngoài, mà, Thơ có tham vọng đi sâu vào cõi vô thủy vô chung của những nốt lặng của một bản trường ca chưa hoàn tất. Chinh cái dở dang ấy, là thái độ của người thơ, dù trong hoàn cảnh lao lung cấm cố, bốn bề là những bức tường đá lạnh lùng, mà, hồn vẫn thoát đi, bay bổng, không có gì ngăn chắn được. Thơ, là thái độ sống, là sự thản nhiên của người hiểu biết được cái vô cùng nhỏ nhoi nhưng cũng vô cùng lớn lao của tâm thức con người…



    Một buổi tối, đọc lại tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn. Không dừng lại được, ngồi dậy bật máy, viết… Những tâm cảm đón nhận được từ những câu thơ. Như những làn sóng lan tỏa từ mặt nước yên tịnh. Ngoài trời chắc khuya lắm thì phải. Và những giọt mưa, mù mịt đất trời. Sắc không, còn mất, có lúc như hơi thở nhẹ. Lắng nghe từ vô thức, tôi đọc…

    Có những điều, nói nhiều mà chẳng đủ. Cũng như có những việc, nói ít mà vẫn thừa. Chuyện thi ca, có khi chỉ một giây phút, hiểu rồi, sẽ bất khả tư nghị. Tôi không dám làm người vẽ rắn thêm chân, vẽ rồng thêm cánh. Mà, tôi chỉ diễn tả cái tâm chân thực của mình. Ðọc rồi cảm, cái quá trình ấy phải chăng là lúc này, khi mọi lắng đọng đã theo giấc ngủ ngon vút mất. Thơ như cáinh tay lay động, thức tỉnh ngũ quan..

    Ðóng lại tập thơ. Với bài thơ cuối. Những câu lục bát đơn sơ. Như một lời nhắn nhủ. Có thể với chính mình nhưng cũng có thể là một ai khác, cùng mang khắc khoải trong lòng. Một chút vỗ về, một chút xao động thoảng qua. Bước chân ai, đi về, biền biệt.

    • “Khói ơi, bay thấp xuống đi
      Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân
      Ta đi trong cõi Vĩnh hằng
      Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần ra hoa.”


    Tại sao lại nhớ những lần cây nhỏ ra hoa? Có phải vì ý niệm thời gian? Tôi nghĩ là không phải. Mổi lần ra hoa, là một lần sự phát triển đến mức tuyệt đối. Trong hành trình của con người, có phải là đi tìm một cái gì tuyệt đối mà chẳng bao giờ nắm bắt được. Cõi vĩnh hằng, có khi là khói sương, là những mong manh vô định….

    Giấc mơ Trường Sơn – Những bài thơ có man mác ý tình, của cái tâm như biển động lúc nào cũng trào khơi theo ngàn sóng vỗ. Không nói đến thời thế mà quê hương vẫn hiển hiện trong thơ. Những nhọc nhằn của một thời đại nhiều máu lệ. Những giấc mơ của những người tham dự vào lịch sử một cách bất đắc dĩ. Những người nhìn thấy Trường Sơn vòi vọi nhân chứng.

    Quê hương, những bước chân đi của mười năm, những mốc thời gian đau đớn.

    • “Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
      Nhìn quê hương qua dấu tích điêu tàn
      Triều Ðông Hải vẫn thầm thì cát trắng
      Truyện tình người và nhịp thở Trường Sơn.
      Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
      Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
      Tay anh với trời cao chim chiều rủ rỉ
      Ðời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
      Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
      Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang
      Chiều khói nhạt như lòng ai còn hận tủi
      Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
      Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
      Ðôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
      Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
      Bản tình ca vô tận của Ðông phương
      Và ngày ấy anh trở về phố cũ
      Giữa con đường còn rợp khói tang thương
      Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
      Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương”

    Có phải đó là tự truyện của một người Việt Nam? Ở bên kia? hay bên này? Của chiến tuyến đã vạch sẵn từ bao nhiêu năm nay. Dường như đó là nỗi niềm chung mang của cả một thế hệ? Ở phố thị, lầm lì với những tâm tình khó ngỏ thành lời. Trời thì cao mà bàn tay thì khó với tới những ước nguyện và chim trời thì lênh đênh những cánh nhỏ ngơ ngác bên đường. Mười năm rồi tiếp mười năm, quê hương vẫn chỉ là những con sông huyết lệ. Ngày trở về phố cũ vẫn man mác nỗi hờn thiên cổ, của những người hình như mất mát một quê hương.

    Thơ Tuệ Sỹ, trong ngôn ngữ bình dị có những suy tư thâm trầm. Xúc cảm hình như cố gắng để lắng đọng lại và ý tưởng cũng được trình bầy một cách gián tiếp để trong màn sương mờ ảo ấy, thấy được cái lẽ xoay vần của thời thế.

    Thi sĩ cũng làm thơ tù. Cũng những ngày biệt giam, cũng những bức tường cao nhưng sao lồng lộng gió và đầy trăng sao. Cái thong dong của tâm thể đã vượt quá cái cùm gông của thân xác …

    • “…Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa ám khói
      Ép thời gian thành rượu máu trong xanh
      Rượu không nhạt mà thiên tài thêm cát bụi
      Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh
      Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị
      Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao
      Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy
      Ðổi hình hài con mắt vẫn đầy Sao.”

    Viết ở trại giam Phan Ðăng Lưu mà tưởng đến quán trọ của ngàn sao, có lẽ chỉ có một mình Tuệ Sỹ! Sự tưởng tượng ấy như cánh buồm đưa con thuyền ra khơi về chân trời nào mênh mông chỉ có được từ những hồn thơ trải theo muôn dặm bát ngát. Thơ, vô úy, thong dong. Thơ, như trèo qua được con dốc thực tại để đến một nơi, rộng khắp bao la

    • “Mắt em quán trọ của ngàn sao
      Ngọt ngất hoang sơ ánh rượu đào
      Pha loãng nắng tà dâng cát bụi
      Ấm lòng khách lữ bước lao đao
      Mắt huyền thăm thẳm mượt đêm nhung
      Mưa hạt long lanh rọi nến hồng
      Sương lạnh đưa người xanh khói biển
      Bình minh quán trọ nắng rưng rưng.”


    Có những vần thơ ngưng đọng, xót xa. Như những thề nguyền, hứa hẹn cho những bước chân lên đường. Những hùng tráng trộn lẫn với bi thương.

    • “… Ta đã hát những bài ca của suối
      Gã anh hùng bẻ vụn mặt trời
      Gọi quỷ sứ từ âm ty kéo dậy
      Ngập rừng xanh lấp lánh ma trơi
      Ðêm qua chiêm bao ta thấy máu
      Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
      Bà mẹ soi tim con thành lỗ
      Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời.”

    Những câu thơ diễn tả tâm trạng của một người muốn làm chuyện đội đá vá trời. Ta đã hát những bài ca của suối. Gã anh hùng bẻ vụn mặt trời… Lời suối thầm thỉ muôn năm. Hát bài ca đó, có phải là từ thiên thu vọng lại. Gã anh hùng? Ta? Hay kẻ khác? Bẻ vụn mặt trời, để đêm tối kéo về, để quỷ sứ từ âm ty kéo dậy, để hãi hùng rừng núi những ánh ma trơi…

    Một bài thơ viết giữa những ngày tháng tư năm 75 ở Nha Trang, lúc tình trạng đất nước nghiêng ngửa thẳm đen. Bài thơ, như một mốc dấu tích cho những ngày tháng không thể xóa nhòa trong tâm khảm những người dân Việt.

    • “Phố trưa nắng đỏ cờ hồng
      Người yêu cát bụi đời không tự tình
      Sầu trên thế kỷ điêu linh
      Giấc mơ hoang đảo thu hình tịch liêu
      Hận thù sôi giữa ráng chiều
      Sông tràn núi lở nước triều mênh mông
      Khói mù lấp kín trời đông
      Trời ơi tóc trắng rủ lòng quê cha
      Con đi xào xạc tiếng gà
      Ðêm đêm trông bóng Thiên Hà buồn tênh
      Ðời không cát bụi chung tình
      Người yêu cát bụi quê mình là đâu?”


    Cát bụi, từ ngữ được nhắc đi nhắc lại một cách cố tâm. Người yêu cát bụi đời không tự tình. Rồi Ðời không cát bụi chung tình. Người yêu cát bụi quê mình là đâu? Cát bụi, hình ảnh của hỗn loạn, của những lênh đênh ngày tháng. Bài thơ diễn tả nỗi niềm của một người ngơ ngác giữa vần xoay của thời cuộc… Tháng tư năm 75, những ngày tháng chẳng thể nguôi quên. Dù là một thiền sư cố giữ lòng không vọng động. Mà sao vẫn ầm vang thác lũ nỗi niềm.

    Thơ Tuệ Sỹ có lúc cô đọng đến chẳng thể ngắn gọn hơn. Như những hé mở, để ở đó tầm nhìn bị kích thích để trải dài tới sâu xa rộng khắp hơn. Không phải thơ haiku của những cây trồng ép mình trong chậu bonsai mà ở đây tự nhiên sống đời thảo mộc trong khổ hạnh chịu đựng náu thân vào ngôn ngữ.

    • Bứt cọng cỏ
      Ðo bóng thời gian
      Dài mênh mang”
    Hay:

    • “Gió cao bong bóng vỡ
      Mây sương rải kín đồng
      Thành phố không buồn ngủ
      Khói vỗ bờ hư không”


    Buổi sáng tập viết chữ thảo, có một chút mênh mang thời cũ nhưng cũng có những khắc khoải bây giờ. Ban mai là lúc tấm lòng mở ra, vô tận. Thơ, cũng phơi phới, an nhiên vô ngại:

    • “Sương mai lịm khói trà
      Gió lạnh vuốt tờ hoa
      Nhè nhẹ tay nâng bút
      Nghe lòng rộn âm ba”


    Tụê Sỹ. Thiền sư khổ hạnh. Hay một nghệ sĩ phiêu bồng. Hay là chiến sĩ tranh đấu cho dân tộc cho đất nước với sự sắt son kim cương vô hoại. Thơ cũng trong những góc cạnh ấy để có một đời sâu sắc phong phu mà ngôn từ bình dị như thanh kiếm gỗ của Ðộc Cô Cầu Bại trong tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung sắc bén hơn vạn lần bảo kiếm. Thơ Tuệ Sỹ, ngôn ngữ đời thường để biểu hiện tấm lòng bồ tát…

    Trong cuộc hành trình, đời sống mở ra những cảm xúc. Tuệ Sỹ làm thơ trong cái phơi phới của thiên nhiên, của núi cao mây trắng, của bến cũ neo thuyền, của mặt biển khơi xao động. Bài thơ “Một Bước Ðường”, không có phong vị của một bài hành nhưng sao nghe như có một điều gì bừng dậy của tâm tư, của những tâm can bừng bừng ngữ ngôn:

    • “Một bước đường thôi nhưng núi cao
      trời ơi mây trắng đọng phương nào?
      Ðò ngang neo bến chờ sương sớm
      Cạn hết ân tình nước lạnh sao
      Một bước đường xa xa biển khơi
      Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
      Thuyền chưa ra biển bình minh đó
      Nhưng mấy ngàn năm tống biệt rồi
      Cho hết đêm hè trong bóng ma
      Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
      Trời không ngưng gió chờ sương đọng
      Nhưng mấy ngàn sau ố nhạt nhòa
      Cho hết mùa thu biệt lữ hành
      Rừng thu mưa máu dạy lều tranh
      Ta so phấn nhụy trên màu áo
      Trên phím dương cầm hay máu xanh…”


    Giấc mơ Trường Sơn, một tập thơ mỏng nhưng chứa đựng nhiều biển trời và đại dương như thi sĩ Bùi Giáng đã nhận xét khi đọc một bài thơ trong đó. Và tôi xin được trích dẫn lại thay cho lời kết bài viết này:

    “… Thi nhân đã mấy phen ngồi ngắm trăng tàn. Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp với chân trời xa xôi đại hải?

    Ðỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Ðỉnh đá quy tụ về mọi hướng màu trời mây rừng rú.Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Ðó là cái bất tận của tâm tình đứng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du. Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ từ Ðường thi Trung Hoa đến siêu thực Tây phương…”

    Nguyễn Mạnh Trinh


    Nguồn:https://sangtao.org


              
Trả lời

Quay về “Nguyễn mạnh Trinh”