Thư kiếm ân cừu lục

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Thư kiếm ân cừu lục

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Thư kiếm ân cừu lục - 書劍恩仇錄 -
    ___________________________
    Nguyên tác: Kim Dung - 金庸 ________ Dịch giả: Đông Hải






              


              

              
    (... tiếp theo ...)



    Cả đàn ngựa tung vó phi nhanh, cát bụi nổi lên mù mịt. Đuổi chừng năm sáu dặm đã thấy một đội nhân mã ở phía trước, lại gần hơn thì nhìn rõ đó là một đội quan quân đang áp tải mấy cỗ xe. Tâm Nghiễn nói với Trần Gia Lạc:
    “Đi thêm sáu bảy dặm nữa mới đến đoàn xe chở Văn tứ gia.”
    Mọi người thúc ngựa vượt qua toán quan quân này, rồi Trần Gia Lạc liếc mắt một cái. Tưởng Tứ Cân và Dư Ngư Đồng quay ngựa lại đứng chặn giữa đường, còn bao nhiêu tiếp tục phi nhanh về phía trước.







    * * *

    Dư Ngư Đồng đợi bọn quan binh đến trước mặt, chắp tay chào hỏi, ăn nói rất văn nhã:
    “Chắc quí vị mệt nhọc rồi. Phong cảnh ở đây thật là đẹp đẽ mà thời tiết hôm nay lại càng tuyệt diệu. Một ngày không nóng không lạnh thế này khó mà gặp được, tốt nhất là chúng ta cùng ngồi đây hàn huyên một chút.”

    Một tên lính Thanh hét lên:
    “Tránh ra! Đây là gia quyến của Lý tướng quân.”

    Dư Ngư Đồng nói:
    “Đã là gia quyến, lại càng nên nghỉ ngơi một tí. Phía trước có một cặp quỷ Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường, đừng để các vị cô nương cùng thái thái hoảng sợ.”

    Một tên quân vung roi ngựa lên, vừa quất vào mặt Dư Ngư Đồng vừa quát:
    “Tên nghèo đói điên khùng này, đứng đây làm gì?”

    Dư Ngư Đồng cười khanh khách, tránh né rồi đáp:
    “Quân tử động khẩu không động thủ. Các hạ thích dùng roi ngựa như vậy, không phải là quân tử rồi.”

    Tướng quân chỉ huy bọn này đã phi ngựa tới nơi. Dư Ngư Đồng chắp tay mỉm cười chào hỏi:
    “Không hiểu tôn tính đại danh của tướng quân là gì, quí quán ở đâu?”

    Tướng quân kia thấy hai người họ Dư họ Tưởng rất đáng nghi ngờ, nên ngần ngừ không đáp. Dư Ngư Đồng bèn lấy cây kim địch ra nói:
    “Tại hạ có biết chút ít âm luật, thường than thở khó gặp tri âm. Đại quan tướng mạo đường đường, chắc chắn không phải người phàm tục. Xin mời xuống ngựa để tại hạ thổi tặng một bài, giải bớt nỗi mệt nhọc đi đường, có được hay chăng?”

    Tướng quân kia chính là người hộ tống gia quyến Lý Khả Tú, tên là Tăng Đồ Nam, vừa thấy kim địch đã giật mình. Hôm trước Dư Ngư Đồng đánh nhau với bọn công sai trong khách sạn, tuy họ Tăng không chính mắt nhìn thấy, nhưng về sau nghe bọn lính và tiểu nhị kể lại, biết người giết công sai cứu khâm phạm là một vị tú tài tay cầm kim địch. Bây giờ gặp chàng ở đây, hắn không biết là có chuyện gì, nhưng thấy đối phương chỉ có hai người nên cũng không sợ lắm, bèn hét lớn:
    “Chúng ta nước sông không phạm nước giếng, ai đi đường nấy. Xin tránh ra nhường bước.”

    Dư Ngư Đồng nói:
    “Tại hạ có mười bài sáo ruột, một là Long Ngâm, hai là Phụng Minh, ba là Tử Vân, bốn là Hồng Hà, năm là Diêu Ba, sáu là Liệt Thạch, bảy là Kim Cốc, tám là Ngọc Quang, chín là Kình Nhật, mười là Lương Tiêu. Bài thì khẳng khái kịch liệt, bài thì uyển chuyển triền miên, bài nào cũng có chỗ hay riêng biệt. Chỉ vì hiếm khi gặp được tri âm nên đã lâu chưa được tấu lên. Hôm nay gặp được cao hiền, ống sáo này đã xôn xao muốn động, tại hạ phải chiều ý nó mà trổi lên từ đầu đến cuối một lần. Đại quan muốn tại hạ nhường đường cũng chẳng khó gì, đợi tại hạ thổi hết mười bài rồi sẽ nghiêng mình cung kính tiễn chân.”
    Nói xong, Dư Ngư Đồng bèn đưa kim địch lên môi, ngón tay máy động. Tiếng sáo thanh thoát lập tức nổi lên, thấu suốt tầng mây, phủ khắp bốn phương.

    Tăng Đồ Nam thấy rõ ràng chuyện này không sao lo liệu được cho ổn thỏa, bèn cử thương lên múa một vòng, bắn ra mấy đóa thương hoa, rồi xuất chiêu Ô Long Xuất Động đâm thẳng vào tim Dư Ngư Đồng. Rõ ràng họ Dư đang dốc hết tinh thần vào tiếng sáo, thế mà khi mũi thương gần đâm trúng thì chàng đột nhiên đưa tay trái chụp lấy, kim địch bên tay phải gõ lên cán thương một cái.

    Tăng Đồ Nam nắm không chặt, để thương rơi xuống đất. Hắn kinh hãi giật ngựa lùi lại mấy bước, đoạt trong tay quân lính một cây đao khác, lại chém tới. Đánh nhau chừng bảy tám hiệp, Dư Ngư Đồng tìm được chỗ sơ hở, chọc kim địch vào vai phải của hắn. Thế là đơn đao của Tăng Đồ Nam cũng tuột khỏi tay.

    Dư Ngư Đồng lên tiếng:
    “Mười bài ca của tại hạ hôm nay đại quan bắt buộc phải nghe. Suốt đời tại hạ hận nhất là bị phá rối cho cụt hứng. Không chịu nghe thổi sáo tức là xem thường tại hạ. Người xưa có nói: “Bẻ cành liễu làm roi quất ngựa. Cầm sáo thổi buồn chết người nghe.” Nhưng thổi sáo là chuyện của tại hạ, còn nghe có buồn đến chết hay không lại là chuyện của đại quan, chắc người xưa chỉ nói phóng đại thế thôi.”
    Nói xong, họ Dư lại đưa kim địch lên môi, tiếp tục thổi.

    Tăng Đồ Nam vẫy tay hô lớn:
    “Tất cả xông lên bắt thằng lỏi này!”
    Hết thảy binh lính cùng quát tháo ào tới.

    Tưởng Tứ Cân tung người nhảy xuống ngựa, cầm thiết trượng ra chiêu Loạn Thảo Tầm Xà, nhẹ nhàng khều vào chân tên lính Thanh chạy đầu. Hắn kêu lên một tiếng, ngã xuống ngửa mặt nhìn trời. Thiết trượng của Tưởng Tứ Cân lại xuất chiêu Phiên Thân Thượng Quyển Trực hất lên, hắn biến thành một con diều bị đứt dây bay tới lưng chưng trời, rồi “Mẹ ơi!” một tiếng, té nhào vào đám đông phía sau.

    Tưởng Tứ Cân bước lên hai bước, lại tiếp tục làm như thế. Thiết trượng như một cái xẻng hốt từng tên lính Thanh hất ngược ra sau. Bọn quân lính đều sợ đến vỡ mật, quay lưng bỏ chạy. Tăng Đồ Nam vung roi ngựa vừa mắng vừa quất loạn xạ, nhưng không sao quản thúc được chúng nữa.

    Tưởng Tứ Cân đang cao hứng thì đột nhiên một cỗ xe lớn vén màn lên, một lằn sáng vọt ra. Khi đến gần, y nhìn rõ đó là mũi nhọn của một thanh kiếm đang đâm thẳng đến trước ngực mình. Tưởng Tứ Cân bèn múa thiết trượng sử chiêu Đao Bạt Thùy Dương hất kiếm ra. Đối phương không đợi trượng bay tới, thanh kiếm đã biến sang chiêu khác, đánh xuống hạ bàn. Tưởng Tứ Cân vội quét ngang thiết trượng. Người kia thấy cây trượng này rất nặng, không dám ngang nhiên đón đỡ, phải lùi mấy bước.

    Tưởng Tứ Cân định thần lại nhìn, thì ra đối phương là một cô gái mặc áo đỏ. Họ Tưởng là người vùng bắc Quảng Đông, nói giọng địa phương rất nặng, ở biên cương tây bắc này ít ai nghe hiểu nên hiếm khi nói chuyện. Bởi thế y không nói năng gì, cứ múa thiết trượng đấu với cô gái này. Được mấy chiêu thấy kiếm pháp nàng tinh diệu, họ Tưởng không nén nổi phải âm thầm khen ngợi.

    Tưởng Tứ Cân đã thấy kỳ lạ trong lòng, Dư Ngư Đồng đứng cạnh lại càng ngơ ngẩn xuất thần. Lúc này chàng quên mất chuyện thổi sáo của mình, chỉ chú ý nhìn kiếm pháp của thiếu nữ. Nàng thi triển trường kiếm mềm mại như những dải tơ lụa phất phơ, uyển chuyển như mặt nước sông gờn gợn, kiếm ý nhẹ nhàng liên tục, đúng là Nhu Vân kiếm thuật chính truyền của bổn môn.

    Cô gái áo đỏ tỉ đấu với Tưởng Tứ Cân, một người lợi về chiêu thức, một người lợi về sức mạnh, nhất thời chưa phân thắng bại. Dư Ngư Đồng vội tung người tới, đưa kim địch ngăn cả cả kiếm lẫn trượng, hô lớn:
    “Dừng tay!”
    Thiếu nữ và Tưởng Tứ Cân đều lùi một bước. Lúc này Tăng Đồ Nam đã lấy một cây thương khác cưỡi ngựa xông lên trợ chiến, còn bọn lính Thanh thì đứng xa xa hò hét trợ oai.

    Thiếu nữ áo đỏ vẫy tay bảo Tăng Đồ Nam lùi lại. Dư Ngư Đồng bèn hỏi:
    “Xin hỏi cao danh quí tánh của cô nương. Không hiểu tôn sư là vị tiền bối nào?”

    Thiếu nữ kia mỉm cười đáp:
    “Huynh hỏi ta ư? Ta không nói đâu. Nhưng ta lại biết huynh đi không sửa họ ngồi chẳng sửa tên, họ Dư tên là Ngư Đồng. Ngư là con cá, Đồng trong câu “quân tử hòa nhi bất đồng”, không phải chữ Đồng như đồng nát sắt vụn. Huynh là hàng nhỏ xíu trong Hồng Hoa Hội, ngồi tận ghế thứ mười bốn.”
    Dư Ngư Đồng và Tưởng Tứ Cân cùng kinh hãi nhìn nhau, sắc mặt thay đổi. Tăng Đồ Nam nhìn thấy tiểu thư đột nhiên mỉm cười với hai tên gian dương đại đạo kia, lại càng kinh ngạc dị thường. Ba nam nhân cứ ngẩn ra nhìn một cô thiếu nữ đang cười khúc khích, không biết phải nói gì mới hợp lý.

    Lúc đó đột nhiên có tiếng vó ngựa gấp rút nổi lên, bọn lính nhà Thanh vội vã né ra nhường lối. Sáu con ngựa tốt từ hướng tây chạy tới, người đi đầu thần sắc thanh tao, râu tóc bạc phơ, chính là bậc danh túc phái Võ Đang, Lục Phi Thanh. Dư Ngư Đồng cùng thiếu nữ kia không hẹn mà cùng tiến lên phía trước, một người gọi sư thúc, một người kêu sư phụ, đều xuống ngựa thi lễ.

    Thì ra thiếu nữ áo đỏ đó chính là nữ đệ tử của Lục Phi Thanh. Năm người phía sau Lục Phi Thanh là Chu Trọng Anh, Chu Ỷ, Từ Thiên Hoằng, Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Cương.

    Hôm trước Lạc Băng nửa đêm ra đi, sáng mai Chu Ỷ thức dậy trách móc Từ Thiên Hoằng:
    “Hồng Hoa Hội các vị đúng là quen xem thường người khác. Sao huynh không đi chung với Tứ tẩu của huynh luôn đi?”

    Từ Thiên Hoằng cố gắng tìm lời giải thích. Chu Trọng Anh bèn nói:
    “Vợ chồng họ còn trẻ, tình cảm nồng nàn chỉ muốn gặp mặt sớm hơn, nóng ruột đi trước một bước cũng là hợp tình hợp lý.”
    Ông còn quay lại mắng Chu Ỷ có thế mà cũng nặng lời.

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Một mình Tứ tẩu lên đường cô thân độc mã, mà bọn ưng trảo cũng từng giáp mặt cô ấy rồi, chỉ biết hy vọng dọc đường đừng xảy ra chuyện gì nữa.”

    Chu Trọng Anh nói:
    “Đúng lắm! Tốt nhất là chúng ta ráng đuổi kịp cô ấy. Trần đương gia đã sắp xếp ta lãnh đạo nhóm này, nếu cô ấy gặp chuyện rủi gì thì mặt mũi ta biết giấu vào đâu?”
    Thế là ba người thúc ngựa chạy nhanh, đến giờ ngọ hôm sau đã đuổi kịp Lục Phi Thanh và hai người họ Mạnh họ An.

    Sáu người đều lo lắng cho Lạc Băng nên hết sức mà đi, dọc đường không trễ nãi chút nào. Lúc họ gặp Chương Tấn ở lại chặn đường ở ngôi miếu cổ, thì cả nhóm Trần Gia Lạc vừa rời khỏi đó không lâu. Nghe nói Văn Thái Lai đang ở phía trước, họ càng giục ngựa chạy nhanh hơn mà đuổi.

    Lục Phi Thanh hỏi:
    “Nguyên Chỉ! Sao con lại ở đây với Dư huynh và Tưởng huynh?”

    Lý Nguyên Chỉ mỉm cười đáp:
    “Vị Dư huynh này bắt con gái nhà người ta phải nghe thổi mười bài sáo, nào là Long Ngâm, nào là Phụng Minh gì gì đó. Con không thích nghe, mà huynh ấy cứ chận đường không cho con đi. Sư phụ xem thử chuyện này có hợp đạo lý hay không?”

    Dư Ngư Đồng nghe Lý Nguyên Chỉ mách với Lục Phi Thanh, không nén nổi phải đỏ mặt lên, nghĩ bụng:
    “Đúng là ta có chặn đường bắt người khác nghe sáo, nhưng đâu phải ta chặn một mình cô nương?”

    Chu Ỷ nghe Lý Nguyên Chỉ nói xong, tức giận liếc qua Từ Thiên Hoằng một cái thầm nghĩ:
    “Thì ra Hồng Hoa Hội các ngươi chẳng có bao nhiêu người tốt.”

    Lục Phi Thanh bảo Lý Nguyên Chỉ:
    “Chuyện xảy ra phía trước rất nguy hiểm, con ở lại đây đừng đi, đừng để phu nhân phải kinh hãi. Giải quyết chuyện đó xong, sư phụ sẽ quay lại đây tìm con.”
    Lý Nguyên Chỉ nghe nói phía trước có náo nhiệt mà sư phụ lại không cho đi, bèn dẫu môi ra vẻ bất mãn. Lục Phi Thanh mặc kệ nàng, cứ gọi mọi người lên ngựa chạy về hướng đông.







    * * *

    Trần Gia Lạc lãnh đạo quần hùng đuổi gấp bọn quan sai, chừng bốn năm dặm đã thấy một dãy người ngựa đi thành đường thẳng ở vùng bình nguyên hoang dã phía trước. Vô Trần đang đi đầu, bèn rút kiếm hô lớn:
    “Đuổi theo!”

    Chạy hơn một dặm nữa, bóng người phía trước càng ngày càng lớn. Con ngựa trắng của Lạc Băng đang cưỡi sải vó như bay, chỉ chớp mắt đã đuổi kịp quân địch. Nàng tuốt song đao ra cầm sẵn, định vượt lên trước rồi sẽ quay lại chặn đường.

    Đột nhiên phía trước vang lên những tiếng ầm ầm, mấy chục con lạc đà và ngựa từ phía đông xung phong về phía tây. Chuyện này thật sự bất ngờ, Lạc Băng bèn kéo dây cương dừng ngựa lại, xem thử đoàn lạc đà và ngựa này là của ai. Lúc này bọn quan sai cũng dừng hẳn lại, có người lớn tiếng quát hỏi, nhưng đội lạc đà phía trước mặt càng chạy càng nhanh, trường đao lấp loáng xông thẳng vào giữa đội ngũ quan sai, hai bên bắt đầu hỗn chiến.

    Lạc Băng kinh ngạc, không hiểu ở đâu xuất hiện đội viện quân này. Chẳng bao lâu nhóm người Trần Gia Lạc từ phía sau cũng chạy tới, cùng đứng theo dõi trận chiến.

    Rồi lại có một con ngựa tốt từ phía trước xuất hiện, vòng qua tránh trận hỗn chiến, phi thẳng đến chỗ quần hùng Hồng Hoa Hội. Gần tới nơi thì nhận ra chính là Vệ Xuân Hoa.

    Chàng chạy tới trước mặt Trần Gia Lạc, lớn tiếng nói:
    “Tổng đà chủ! Đệ và Thập Nhị Lang giữ ở cửa thung lũng, bị nhóm người Hồi này xung phong qua mặt, không sao ngăn cản nổi. Đệ vội vã chạy về bẩm báo, nào ngờ họ lại đánh nhau với bọn ưng trảo kia.”

    Trần Gia Lạc lên tiếng:
    “Đạo trưởng nhị ca, Triệu tam ca, Thường ngũ ca! Bốn vị tiến lên đoạt lấy cỗ xe chở Tứ ca. Còn tất cả khoan hãy ra tay, xem rõ rồi tính tiếp.”
    Bốn người Vô Trần đồng thanh vâng dạ, ruổi ngựa xông lên phía trước.

    Hai tên bộ khoái lớn tiếng hỏi:
    “Bằng hữu phe nào vậy?”
    Triệu Bán Sơn không đáp, phóng ngay hai mũi cương tiêu. Một trúng yết hầu, một trúng bụng dưới, hai tên bộ khoái lập tức nhào xuống ngựa.

    Triệu Bán Sơn mang ngoại hiệu là Như Lai có ngàn tay, vì miệng ông lúc nào cũng cười, khuôn mặt hiền từ, tấm lòng nhân hậu, chiều chuộng người khác vô cùng, nhưng trên người ông lại toàn là ám khí đủ loại, phóng ra vừa nhanh vừa chính xác. Hai bàn tay ông chỉ trong khoảnh khắc là có thể phát xạ rất nhiều loại ám khí, người đứng kế bên cũng đừng hòng nhìn thấy rõ ràng. Phen này Hồng Hoa Hội đem toàn lực cứu người, không ngờ người lập công đầu lại là Thiên Tí Như Lai xưa nay khiêm tốn bình hòa.

    Bốn người phi ngựa đến gần cỗ xe lớn, thí phía trước có một người Hồi đầu quấn vải trắng đưa thương đâm tới. Vô Trần nghiêng người tránh né, không đánh trả mà chạy thẳng tới cỗ xe. Một tiêu sư múa đao chém đến, Vô Trần vung kiếm ra gạt. Lưỡi kiếm nhanh như điện chớp, thuận theo thế đao mà lướt tới đối phương, cắt đứt bốn ngón tay. Rồi ông lại ra chiêu Thuận Thủy Thôi Chu, kiếm đâm trúng vào tim tên tiêu sư đó.

    Vô Trần nghe thấy sau gáy có tiếng gió rít lên, biết có địch nhưng không thèm quay đầu lại. Tay phải ông đảo kiếm chém ra sau, từ dưới hớt lên. Thanh kiếm chém trúng tên địch từ dưới nách phải qua tới vai trái, thế là tên bộ khoái muốn ám toán sau lưng đã bị chém thành hai khúc, máu tươi bắn ra tung tóe.

    Triệu Bán Sơn và Thường Thị song hiệp đứng sau nhìn thấy rõ ràng bèn hoan hô vang dội. Bọn người tiêu cục nhìn thấy kiếm pháp của Vô Trần đều kinh hãi, hai người phe mình sử chưa hết một chiêu đã bị giết rồi. Chúng sợ tới té đái vãi phân, run giọng la lên:
    “Hỏng bét, chuồn thôi!”

    Thường thị song hiệp chạy gần tới cỗ xe lớn, thì bên cạnh lại có bảy tám người Hồi chạy ra, múa trường đao cản trở. Song Hiệp bèn thi triển phi trảo giao đấu với họ.

    Một tên tiêu sư lùn tịt vội kéo con lừa đang kéo cỗ xe lớn đó quay đầu lại, vung roi quất mạnh. Cỗ xe chạy nhanh, còn hắn thì phi ngựa chạy theo sau. Tên này chính là Đồng Triệu Hòa.

    Triệu Bán Sơn và Vô Trần rượt đuổi theo. Triệu Bán Sơn lấy ra một cục phi hoàng thạch, ném trúng gáy Đồng Triệu Hòa nghe bốp một tiếng. Máu tươi chảy ra, hắn la quang quác rồi rút trủy thủ trong ống giày ra, đâm vào mông con lừa kéo xe một nhát. Nó bị đau càng chạy nhanh hơn.

    Triệu Bán Sơn tung người nhảy lên lưng ngựa của Đồng Triệu Hòa, chưa hạ xuống thì tay phải đã nắm chặt cổ tay của hắn, thuận tay vung lên vẽ thành một vòng trong không trung, ném ra phía trước. Đồng Triệu Hòa té ngay lên cổ con lừa đang kéo cỗ xe lớn. Hắn thét lên be be rồi ôm chặt lấy đầu lừa. Con lừa giật mình hoảng sợ, mắt lại bị che kín, bèn hí ầm ĩ nhảy loạn xạ, cuối cùng quay đầu trở lại.

    Vô Trần và Triệu Bán Sơn đã tới nơi, nắm dây giữ con lừa lại. Triệu Bán Sơn túm lấy lưng Đồng Triệu Hòa ném xuống vệ đường. Vô Trần hô lớn:
    “Tam đệ! Tuyệt kỹ dùng người để làm ám khí chỉ có đệ mới sử dụng được.”
    Hai người này không biết Đồng Triệu Hòa, chỉ lo cứu Văn Thái Lai nên không để ý đến hắn nữa.

    Đồng Triệu Hòa lăn mấy vòng dưới đất rồi lọt vào một bụi cỏ. Hắn hoảng sợ quá, lén bò vào bãi cỏ mà nấp.

    Triệu Bán Sơn vạch màn xe ra nhìn vào. Trong xe tối đen không nhìn rõ mặt, ông chỉ thấy một người đang ngồi trong xe, người có phủ chăn, bèn mừng rỡ nói:
    “Tứ đệ! Là đệ phải không? Chúng ta đến cứu đệ đây.”
    Người kia rên lên mấy tiếng.

    Vô Trần bảo:
    “Tam đệ đưa Tứ đệ về trước, để ta đi tìm họ Trương tính nợ đã.”
    Ông chưa nói xong đã tung ngựa chạy ra giữa đường chặn đám đông. Bọn tiêu sư và công sai đang chạy về hướng đông, đột nhiên thấy Vô Trần quay ngựa lại, bèn la hét om sòm rồi chạy trốn về hướng tây.

    Vô Trần quát lớn:
    “Trương Triệu Trọng! Ngươi vác mặt ra đây cho ta.”
    La mấy tiếng không có ai trả lời, ông bèn xông vào giữa đám đông đối phương. Bọn công sai và tiêu sư thấy ông chạy tới, hồn vía bay hết lên trời, xô nhay chạy tán loạn.

    Quần hùng Hồng Hoa Hội thấy Triệu Bán Sơn dẫn cỗ xe lớn trở về đều rất vui mừng, nhanh chân chạy lên đón tiếp. Dĩ nhiên Lạc Băng thúc ngựa chạy tới đầu tiên, dừng lại trước cỗ xe, phi thân xuống ngựa, vén màn xe ra, run rẩy kêu lên:
    “Đại ca!”
    Nhưng trong xe không có tiếng trả lời, Lạc Băng kinh hãi nhảy vào trong xe mở tấm chăn ra. Lúc này quần hùng Hồng Hoa Hội đã chạy đến nơi, vẫn ngồi trên ngựa mà đứng xung quanh nhìn vào.

    Thường Thị Song Hiệp thấy cứu người đã xong, bèn không ham chiến với đám người Hồi lai lịch bất minh nữa. Hai huynh đệ huýt một tiếng sáo, thi triển phi trảo đánh dạt địch thủ ra ngoài, rồi quay đầu ngựa chạy về. Nhóm người Hồi đó hình như chỉ lo việc cản trở người khác đến gần, nhìn thấy hai người rút lui bèn không đuổi theo, chạy trở lại nhóm người đang hỗn chiến.

    Vô Trần đạo trưởng vẫn đang tung hoành giữa đám đông. Một tên chạy hiệu chậm chân một chút, bị ông chém trúng vai té nhào dưới đất. Vô Trần không muốn hại mạng, bèn giật ngựa nhảy qua người hắn, lại lớn tiếng hô:
    “Hoả Thủ Phán Quan đâu rồi? Mau ra đây gặp ta.”

    Đột nhiên có một con ngựa xông lên trước, trên ngựa có một người Hồi thân hình cao lớn, mặt mày râu ria rậm rạp. Y quát hỏi:
    “Đạo nhân này từ đâu đến đây mà la hét loạn xa vậy?”
    Vô Trần xuất chiêu đâm ngay vào mặt, người Hồi bèn đưa mã đao lên cản trở. Vô Trần lại ra hai kiếm liên hoàn, đâm bên trái bên phải nhanh như chớp giật. Cánh tay của người Hồi kia chưa kịp hạ xuống kịp, thanh mã đao vẫn còn trên đỉnh đầu, mà kiếm khí đã ràn rạt rát da, bao trùm cả thân thể. Y bối rối hết đường chống đỡ, vội nghiêng người ngã xuống một bên lưng ngựa, chân phải móc lấy cái để chân, cả thân thể luồn xuống dưới bụng ngựa mới né được hai chiêu kiếm đó.

    Y hoảng sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh đầy người, may mà cưỡi ngựa rất giỏi nên có thể núp dưới bụng ngựa mà giục ngựa chạy trốn. Vô Trần mỉm cười nói:
    “Thoát được ba chiêu kiếm của ta, coi như hảo hán rồi. Tha mạng cho ngươi!”
    Rồi ông lại xông vào giữa đám đông.

    Lúc Thường Thị Song Hiệp từ hướng đông trở về, phía tây cũng có tám con ngựa chạy tới, đó là nhóm người Chu Trọng Anh và Lục Phi Thanh. Hai nhóm từ hai phía còn chưa đến gần cỗ xe lớn, Lạc Băng đã lôi trong xe ra một người quăng xuống đất, quát hỏi:
    “Văn đại gia ở đâu?”
    Nàng chưa hỏi dứt câu, đôi dòng lệ đã tuôn rơi.

    Mọi người đều thấy người này ốm yếu già nua, ăn mặc theo kiểu công sai, tay phải bó lại treo dưới cổ. Lạc Băng nhận ra hắn chính là Hồ Quốc Đống, bộ đầu của Bắc Kinh. Lúc ở trong khách sạn đã bị Văn Thái Lai đánh gãy cánh tay phải. Nàng đá hắn một cước, định hỏi nữa nhưng không nói được ra lời.

    Vệ Xuân Hoa vung câu chỉ vào mắt phải của hắn, gằn giọng:
    “Văn gia ở đâu? Ngươi mà không nói thì ta lập tức lấy cái bóng đèn này trước.”

    Hồ Quốc Đống ra vẻ giận dữ đáp:
    “Thẳng lỏi Trương Triệu Trọng kia đã áp tải Văn… Văn gia đi xa rồi. Tên khốn đó bảo ta ngồi trong xe, ta còn tưởng rằng hắn có lòng tốt cho mình nghỉ dưỡng thương, nào ngờ đó là kế Kim Thiền Thoát Xác. Hắn thí cái mạng già này, còn chính mình thì đi trước đến Bắc Kinh lãnh thưởng. Con mẹ nó, cái đồ lòng lang dạ sói như vậy chắc chắn không được chết toàn thây.”
    Hắn thóa mạ Trương Triệu Trọng nặng lời, có lẽ vì mong thoát chết.

    Trần Gia Lạc bảo Thường Thị Song Hiệp:
    “Ngũ ca, Lục ca! Lúc này vấn đề quan trọng nhất là không biết tên gian tặc Trương Triệu Trọng đã đưa Tứ ca đến đâu. Dù sao thì từ Lương Châu về đến Trung Nguyên, nhất định phải qua Ô Sào Lãnh. Hai vị hãy đi suốt đêm, cố gắng đuổi kịp, đến đó trước để chặn đường. Nếu không chặn nổi thì ít ra cũng điều tra được chúng đi hướng nào, để đại quân theo sau biết đường mà truy đuổi.”
    Thường Thị Song Hiệp gật đầu nhận lệnh rời khỏi đó ngay.

    Bây giờ mọi người đã dồn vào một chỗ, Trần Gia Lạc hạ lệnh:
    “Tất cả chia hai ngả bao vây, bắt hết bọn chó săn ưng trảo và bọn nhãi tiêu cục, không để thoát một tên nào.”

    Thế là Trần Gia Lạc cùng Triệu Bán Sơn, Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Tiền Vọng Thôi, Tâm Nghiễn từ phía nam tiến lên, còn Chu Trọng Anh, Lục Phi Thanh, Từ Thiên Hoằng, Lạc Băng, Dư Ngư Đồng, Chu Ỷ, Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương từ phía bắc dồn xuống, giống như hai gọng kìm sắt bao vây toàn bộ quan quân, bọn tiêu cục và những người Hồi ở giữa.

    Nhóm người Hồi vẫn đang đánh nhau kịch liệt với bọn công sai và tiêu sư. Triệu Bán Sơn vung tay một cái, phóng ra ba loại ám khí. Lập tức có hai tên bộ khoái và một gã tiêu sư té nhào xuống ngựa.

    Nhóm người Hồi đã phân biệt được địch ta, bèn hò reo vang dội. Người Hồi râu rậm khi nãy bèn vụt ngựa chạy ra trước, lớn tiếng hô hoán:
    “Không biết hảo hán lộ nào ra tay trợ giúp, tại hạ xin cảm ơn trước một câu.”
    Y nói tiếng Hán không rõ ràng lắm, nói dứt câu liền vung đao lên chào.

    Trần Gia Lạc cũng chắp tay thi lễ, rồi ngoảnh lại hô:
    “Các vị huynh đệ, cùng tiến lên đi.”
    Quần hùng đồng thanh dạ một tiếng, xông vào vung đao múa kiếm.

    Chỉ một lúc là số hảo thủ trong đám công sai và tiêu sư không chết cũng bị thương gần hết, chỉ còn lại mấy tên tầm thường hết đường chống đối. Chúng quì hết xuống đất, lớn tiếng xin tha, xưng hô loạn xạ, nào là gia gia, nào là tổ tông. Tâm Nghiễn vui vẻ nói với Lạc Băng:
    “Văn tứ phu nhân dự đoán như thần, quả nhiên bây giờ chúng chịu gọi tiểu nhân là gia gia rồi.”
    Trong lòng Lạc Băng đang rất buồn rầu nên lời nói của Tâm Nghiễn không lọt vào tai.

    Đột nhiên Vô Trần đạo trưởng chạy ra khỏi đám đông la lên:
    “Úi chà! Các vị đến đây mà xem, kiếm pháp của con bé này thật không phải thứ thường.”
    Ai cũng biết Truy Hồn Đoạt Mạng Kiếm của Vô Trần đạo trưởng hạng nhất giang hồ, người trong võ lâm đỡ được ba chiêu của ông không phải là nhiều. Thế mà ông lại tán dương kiếm pháp của người khác, mà lại là một cô gái nên mọi người đều nổi dạ hiếu kỳ tới gần coi thử.

    Người Hồi râu rậm lớn tiếng nói mấy câu tiếng Hồi, bảo những người Hồi né ra nhường đường, cùng quần hùng đứng thành một vòng bao vây. Vô Trần đạo trưởng nói với Trần Gia Lạc:
    “Tổng đà chủ! Thằng lỏi kia sử dụng Ngũ Hành Luân cũng không phải tệ.”

    Trần Gia Lạc nhìn vào giữa vòng người, thấy kiếm khí tung hoành, ánh kim của Ngũ Hành Luân chớp nháy. Một cô gái áo vàng đang tỉ đấu kịch liệt với một hán tử rất nhanh nhẹn. Lục Phi Thanh đi đến cạnh Trần Gia Lạc, khẽ nói:
    “Cô gái áo vàng này tên là Hoắc Thanh Đồng, là đệ tử của Thiên Sơn Song Ưng. Còn người sử dụng Ngũ Hành Luân là Diêm Thế Chương trong Quan Đông Lục Ma.”

    Trần Gia Lạc nghe vậy bỗng động tâm. Chàng biết Thiên Sơn Song Ưng gồm Thốc Cưu Trần Chính Đức và Tuyết Điêu Quan Minh Mai, là võ lâm tiền bối vùng Hồi Cương. Hai nhân vật này cùng với sư phụ chàng là Thiên Trì Quái Hiệp xưa nay vốn có hiềm khích, tuy không phải là kẻ thù nhưng cố gắng tránh mặt nhau. Từ lâu chàng cũng đã nghe nói Tam Phân kiếm thuật của Thiên Sơn phái tự lập thành một nhà riêng biệt, bèn lưu tâm quan sát.

    Trần Gia Lạc định thần xem kỹ, thấy cô gái áo vàng sử kiếm tấn công rất lợi hại, nhưng Diêm Thế Chương thi triển song luân cũng gắng gượng chống đỡ được. Nhóm người Hồi hò hét trợ oai, có mấy người dần dần nhích tới gần, lăm le muốn nhảy vào vòng đấu.

    Diêm Thế Chương múa tít cặp vòng, xuất chiêu Chỉ Thiên Hoạch Địa ép Hoắc Thanh Đồng thu trường kiếm về biến chiêu, rồi lùi lại hai bước hét lớn:
    “Khoan đã! Ta có một câu muốn nói!”

    Nhóm người Hồi đã ép lên phía trước, hoa binh khí lên chói mắt. Tình hình lúc này rõ ràng là Diêm Thế Chương sắp bị loạn đao phân thây. Họ Diêm lập tức chuyển hết song luân qua tay trái, tay phải quờ ra sau lưng lấy cái bao vải màu đỏ ra, cầm giơ cao trước mặt, hô lớn:
    “Nếu các ngươi muốn ỷ số đông thủ thắng, thì ta phải băm nát món đồ trong cái bao này trước.”
    Mép của Ngũ Hành Luân chiếu ra những tia bạch quang lấp lánh, sắc bén vô cùng. Nếu hắn dùng song luân chém xuống thì dĩ nhiên cái bao vải nát bươm ra lập tức. Mọi người Hồi đều giật mình thối lui mấy bước.

    Diêm Thế Chương thấy mình vây chặt xung quanh, chỉ dựa vào võ nghệ thì khó mà thoát được.Hắn bèn kêu lên:
    “Các ngươi người nhiều thế mạnh, muốn lấy mạng ta thì dễ như trở bàn tay, nhưng như vậy thì Diêm mỗ chết cũng không phục. Nếu có ai đơn đả độc đấu thắng được song luân, ta sẽ kính trọng là anh hùng hảo hán mà giao cái bọc này ra. Không thì ta quyết cùng sống chết với món vật trong bao, các ngươi đừng hòng lấy được.”

    Người đầu tiên nóng mặt là Chu Ỷ. Nàng nhảy vào vòng chiến, vung thanh nhạn linh đao hét lớn:
    “Được lắm! Chúng ta cứ thử một phen.”

    Chu Trọng Anh vội vã đưa tay kéo con gái lại bảo:
    “Trước mắt có rất nhiều bá bá thúc thúc, toàn là anh hùng hảo hán, cần gì con nha đầu này bêu cái xấu của mình ra?”

    Hoắc Thanh Đồng vẫy tay về phía Chu Ỷ, lên tiếng:
    “Thịnh tình của vị tỷ tỷ này, muội xin đa tạ trước.”

    Chu Ỷ vội đáp:
    “Không có gì.”

    Hoắc Thanh Đồng nói:
    “Muội đánh trận đầu trước, nếu không thắng nổi sẽ xin tỷ tỷ trợ giúp một tay.”

    Chu Ỷ đáp:
    “Cô nương cứ yên tâm. Ta thấy cô là người rất tốt, nhất định sẽ giúp cô.”

    Chu Trọng Anh khẽ bảo:
    “Nha đầu ngốc ơi, võ công của người ta giỏi hơn con nhiều, con không thấy hay sao?”

    Lục Phi Thanh nói xen vào:
    “Trong cái bọc vải đỏ đó là một thứ bảo bối của người Hồi tộc, cô ấy nhất định phải đích thân đoạt lấy.”

    Chu Ỷ gật đầu nói:
    “Thế là phải rồi.”

    Chu Trọng Anh xua tay lắc đầu, vừa buồn cười vừa cảm động. Ông là nhân vật hàng đầu võ lâm, dĩ nhiên võ nghệ tinh diệu hơn người. Chỉ vì tính tình ông hào sảng phóng khoáng, không thích gò ép dạy dỗ nên công phu của đám đồ đệ cùng con gái đều kém ông một khoảng rất xa. Nhưng cô nương bảo bối này của ông lại có tấm lòng nhiệt huyết, gặp chuyện gì cũng muốn xông xáo tiến lên phía trước, bất kể có liên quan đến mình hay không.

    Diêm Thế Chương cột lại bao vải ra sau lưng, cất tiếng hỏi:
    “Người nào lên trước, đã thương lượng xong chưa?”

    Hoắc Thanh Đồng nói:
    “Vẫn là ta muốn tiếp mấy cao chiêu Ngũ Hành Luân của ngươi.”

    Diêm Thế Chương hỏi:
    “Sau khi phân thắng bại thì sao?”

    Hoắc Thanh Đồng đáp:
    “Bất luận thắng bại ra sao, ngươi cũng phải để kinh thư ở lại. Nhưng nếu ngươi thắng thì được đi, nếu thua thì nằm lại ở đây.”

    Nàng nói dứt câu, liền nghiêng kiếm đâm thẳng vào vai trái hắn. Diêm Thế Chương thi triển song luân tiếp đón. Song luân của hắn chiếu theo ngũ hành bát quái, tám lần tám sáu mươi bốn chiêu, chuyên môn đoạt lấy binh khí của địch, phòng thủ rất nghiêm mật. Chớp nhoáng hai người đã đánh được bảy tám chiêu.

    Trần Gia Lạc vẫy tay gọi Dư Ngư Đồng bước tới. Trần Gia Lạc khẽ bảo:
    “Thập tứ đệ! Đệ hãy đi trước điều tra tung tích của Tứ ca, số đông sẽ đi sau.”
    Dư Ngư Đồng dạ một tiếng, lùi ra khỏi vòng người. Chàng quay đầu nhìn về phía Lạc Băng, thấy nàng cúi đầu thờ thẫn, bất giác muốn tới an ủi mấy câu. Nhưng chàng suy nghĩ một lúc, rồi quay đầu vỗ ngựa đi ngay.

    Hoắc Thanh Đồng múa tít trường kiếm, chiêu sau nhanh hơn chiêu trước, kiếm chưa tới nơi đã biến đổi chiêu thức. Diêm Thế Chương muốn dùng song luôn phong tỏa trường kiếm của nàng nhưng không sao khóa được.

    Vô Trần đạo trưởng, Lục Phi Thanh, Triệu Bán Sơn đều là hảo thủ quen sử kiếm, đứng bên chỉ trỏ bàn luận. Vô Trần đạo trưởng nói:
    “Chiêu này đâm vào nách phải nhanh thì có nhanh nhưng chưa đủ dứt khoát.”

    Triệu Bán Sơn mỉm cười nói:
    “Cô bé này làm sao so được với mấy chục năm công lực của huynh? Lúc huynh bằng tuổi với cô ấy bây giờ, thủ pháp có đẹp bằng người ta hay không?”

    Vô Trần đạo trưởng cũng cười:
    “Con bé này thật là khả ái, ai thấy cũng muốn giúp đỡ.”

    Trần Gia Lạc thấy kiếm pháp của Hoắc Thanh Đồng tinh xảo tuyệt diệu, trong lòng cũng âm thầm khen ngợi.

    Đấu thêm hai mươi mấy chiêu nữa, hai má Hoắc Thanh Đồng hơi đỏ lên, trán lấm tấm mồ hôi, nhưng thần sắc vẫn ổn định, khí lực vẫn đầy đủ, thân pháp cùng bộ pháp hoàn toàn không loạn. Rồi kiếm pháp đột nhiên thay đổi, nàng đã dùng tới tuyệt kỹ Hải Thị Thần Lâu của phái Thiên Sơn. Kiếm phong từ mũi kiếm vọt ra, kiếm chiêu nửa hư nửa thật, tưởng là thật mà lại là hư, tưởng là hư nhưng lại là thật. Quần hùng đều nín thở ngưng thần nhìn không chớp mắt.

    Trong quầng kim quang của Ngũ Hành Luân bỗng chớp lên những tia bạch quang của trường kiếm. Diêm Thế Chương bị trúng kiếm vào cổ tay phải, lạc giọng la lên một tiếng, hữu luân tuột tay bay lên trời. Mọi người không hẹn mà cùng hoan hô vang dội.

    Diêm Thế Chương tung người nhảy ra ngoaì một trượng nói:
    “Ta chịu thua rồi. Kinh thư giao cho ngươi.”
    Rồi hắn xoay tay tháo bao vải màu đỏ xuống. Hoắc Thanh Đồng mặt mày rạng rỡ bước lên mấy bước, tra kiếm vào vỏ, hai tay đón lấy quyển kinh Coran mà bộ tộc mình coi là thánh vật.

    Sắc mặt của Diêm Thế Chương đột nhiên lạnh lại, rồi hắn hét lên:
    “Đỡ lấy!”
    Từ bàn tay phải vừa đưa kinh, đột nhiên vọt ra ba mũi phi tiêu bắn đến ngực Hoắc Thanh Đồng. Diễn biến xảy ra đột ngột, Hoắc Thanh Đồng chỉ còn cách nhào ngửa ra sau, dùng thân pháp Thiết Bản Kiều, ba mũi phi tiêu bay sát sạt trên mặt.

    Diêm Thế Chương đã ra tay không dừng được nữa. Lại thêm ba mũi phi tiêu nữa bắn ra như nỏ liên châu. Lúc này Hoắc Thanh Đồng đang nằm ngửa, hai mắt nhìn trời, không sao thấy được đại nạn sắp đến. Mọi người xung quanh vừa kinh hãi vừa giận dữ, tới tấp rút binh khí ra.

    Hoắc Thanh Đồng vừa bật người ngồi dậy đã nghe thấy ba tiếng leng keng, ba mũi phi tiêu đã bị ám kình bắn rơi ngay kế bên mình. Nàng biết nếu không có người ra tay giải cứu thì mình đã bị ba mũi phi tiêu này ghim vào yếu huyệt, bất giác đầy mình toát mồ hôi lạnh, lại tuốt kiếm ra.

    Triệu Bán Sơn mỉm cười. Ông đã lấy ra ba hạt thiết bồ đề, chuẩn bị cứu viện, nhưng thấy có người ra tay trước, bèn cất trở lại vào túi đựng ám khí.

    Diêm Thế Chương phóng người tới, hung hãn như một con cọp điên, Ngũ Hành Luân chém từ trên đầu xuống. Hoắc Thanh Đồng không kịp biến chiêu, chỉ còn cách đưa kiếm lên chống đỡ. Song luân ép xuống, trường kiếm chống lên, hai bên duy trì như thế một lúc. Khí lực của Diêm Thế Chương vốn đã mạnh hơn, lại có thế đè từ trên xuống nên song luân cứ như dần dần ép sát vào đầu Hoắc Thanh Đồng. Những răng nhọn trên mép song luân đã chạm tới cọng lông vũ màu xanh trên mũ của mỹ nhân.

    Quần hùng đang muốn xông vào, đột nhiên một tia sáng xanh nháy động, tay trái của Hoắc Thanh Đồng rút bên hông ra một thanh đoản kiếm, cắm ngay vào giữa bụng Diêm Thế Chương nghe phụp một tiếng. Họ Diêm gào lên một tiếng, ngã ngửa ra sau. Mọi người lại hoan hô vang dội.

    Hoắc Thanh Đồng tháo bao vải đỏ trên lưng Diêm Thế Chương ra. Người Hồi râu rậm tiến lên khen ngợi:
    “Con gái ta giỏi lắm.”

    Hoắc Thanh Đồng dùng cả hai tay đưa bao vải lên, mỉm cười gọi:
    “Gia gia!”
    Người Hồi này chính là cha của nàng tên gọi Mộc Trác Luân, cũng dùng cả hai tay nhận lấy. Mọi người Hồi đều bước lên một bước, tiếng reo hò như sấm dậy.

    Lúc Hoắc Thanh Đồng cúi xuống rút trủy thủ ra thì Diêm Thế Chương đã tắt thở từ lâu rồi. Đột nhiên nàng thấy một thiếu niên chừng mười lăm mười sáu tuổi nhảy xuống ngựa, nhặt ba hạt tròn màu trắng trên mặt đất, rồi cung kính trao cho một thanh niên. Chàng đón lấy cất vào trong bọc.

    Hoắc Thanh Đồng nghĩ bụng:
    “Thì ra chàng chính là người vừa đánh rớt ám khí của gian tặc, cứu được mạng ta.”
    Nàng không khỏi nhìn lâu hơn một chút, thấy chàng thanh niên này phong thái như ngọc, ánh mắt như sao, trường bào phơ phất nhẹ nhàng, trong tay cầm quạt xếp, thần khí phiêu du nhàn nhã. Ánh mắt hai người chạm nhau, người đó mỉm cười với nàng một cái.

    Hoắc Thanh Đồng đỏ mặt cúi đầu, đi đến chỗ phụ thân, ghé tai nói mấy câu gì đó. Mộc Trác Luân gật đầu, bước tới trước ngựa của chàng thanh niên kia, khom người thi lễ. Thanh niên đó cũng vội xuống ngựa đáp lễ. Mộc Trác Luân nói:
    “May mà được công tử ra tay cứu mạng cho tiểu nữ, ta cảm tạ vô cùng. Xin hỏi tôn tánh đại danh.”

    Thanh niên đó chính là Trần Gia Lạc. Chàng lịch sự đáp:
    “Vãn bối họ Trần, tên là Gia Lạc. Bọn tại hạ có một huynh đệ kết nghĩa đã bị bọn ưng trảo triều đình và đám người tiêu cục này bắt đi nên mọi người phải đến đây giải cứu, nhưng lại không thấy huynh đệ của mình ở đâu. Thánh vật của quí tộc đã đoạt lại được rồi, thật là chuyện đáng mừng.”

    Mộc Trác Luân bèn gọi Hoắc Thanh Đồng và con trai là Hoắc A Y đến bái tạ. Trần Gia Lạc thấy Hoắc A Y mặt vuông tai lớn, cũng râu ria đầy mặt, còn Hoắc Thanh Đồng thì thân hình cân đối, tươi tắn như đóa hoa xuân, diễm lệ như ánh chiều tà. Lúc nãy chàng chỉ chú ý nhìn kiếm pháp của nàng, bây giờ đối diện nhìn nhau thì không ngờ trên đời có người đẹp thế này, lập tức tim đập rộn lên.

    Hoắc Thanh Đồng khẽ lên tiếng:
    “Nếu không nhờ công tử trượng nghĩa cứu giúp, tiểu nữ đã bị ám toán rồi. Đại ơn đại đức này, vĩnh viễn không dám quên.”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Từ lâu đã nghe danh hai vị tiền bối Thiên Sơn Song Ưng có tuyệt kỹ Tam Phân kiếm thuật. Hôm nay được thấy thần kỹ của cô nương, thật là danh bất hư truyền. Vừa rồi tại hạ có phần vô lễ, được cô nương không trách đã là muôn phần may mắn rồi, không cần nói lời cảm tạ.”

    Chu Ỷ nghe hai người nói chuyện toàn lời khách sáo, cảm thấy chán tai bèn xen vào nói với Hoắc Thanh Đồng:
    “Kiếm pháp của cô thì giỏi hơn ta, nhưng có một việc ta phải dạy cho cô.”

    Hoắc Thanh Đồng vội đáp:
    “Xin tỷ tỷ chỉ giáo.”

    Chu Ỷ nói:
    “Tên địch thủ ban nãy của cô thật là gian xảo, cô quá tin hắn nên suýt nữa trúng phải độc thủ. Phần nhiều nam nhân đều quỷ kế đa đoan, từ nay về sau cô phải cẩn thận hơn.”

    Hoắc Thanh Đồng nói:
    “Tỷ tỷ nói đúng lắm. Nếu không nhờ Trần công tử trượng nghĩa cứu giúp thì thật không dám nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra.”

    Chu Ỷ nói:
    “Trần công tử nào? À, thì ra cô nói tới tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội. À này, Trần… Trần đại ca! Vừa rồi huynh dùng thứ ám khí gì để đánh rớt phi tiêu vậy, cho ta xem thử có được hay không?”

    Trần Gia Lạc lấy trong bọc ra ba quân cờ rồi nói:
    “Chỉ là mấy quân cờ vây thôi. Ta phóng không giỏi lắm, Chu cô nương đừng có chê cười.”

    Chu Ỷ nói:
    “Ai dám cười huynh? Bản lãnh của huynh không tệ, dọc đường gia gia cứ mãi khen huynh thì ra cũng có phần đúng.”

    Hoắc Thanh Đồng nghe Chu Ỷ nói chàng thanh niên công tử này là tổng đà chủ của bang hội gì đó, cũng hơi ngạc nhiên, bèn nhỏ nhẹ bàn bạc với phụ thân. Mộc Trác Luân gật đầu lia lịa khen phải, rồi quay người lại bước lên mấy bước, nói với Trần Gia Lạc:
    “Được các vị anh hùng ra tay trợ giúp, việc lớn của chúng ta đã xong rồi. Nhưng nghe công tử nói có một vị anh hùng chưa cứu ra được, ta muốn gửi tiểu nhi và tiểu nữ cùng vài người bạn để công tử sao khiến góp sức cứu người. Võ nghệ của chúng không được khá lắm, chắc chắn không thể giao cho việc lớn, nhưng cũng có thể góp công chạy đi chạy lại đưa đón tin tức cho quí vị. Không hiểu công tử có chịu nhận hay không?”

    Trần Gia Lạc mừng rỡ đáp:
    “Như thế thì bọn tại hạ phải thập phần cảm kích.”
    Chàng bèn giới thiệu cho quần hùng biết nhau.

    Mộc Trác Luân nói với Vô Trần đạo trưởng:
    “Kiếm pháp của đạo trưởng nhanh vô kể, bình sinh ta chưa từng gặp. May mà đạo trưởng kiếm hạ lưu tình, nếu không thì… ha ha…”

    Vô Trần đạo trưởng mỉm cười đáp:
    “Không biết nên đắc tội, xin đừng trách!”

    Người Hồi xưa nay rất tôn kính anh hùng, vừa rồi thấy Vô Trần đạo trưởng, Triệu Bán Sơn, Trần Gia Lạc, Thường Thị Song Hiệp hiển lộ thân thủ đều rất khâm phục, bây giờ tới tấp kéo đến thi lễ và tỏ lòng kính mến.

    Trong lúc nói chuyện, tiếng vó ngựa ở phía tây lại gấp rút vang lên. Một người phóng tới gần rồi phi thân xuống ngựa. Thì ra đó là một thiếu niên tuấn tú, hướng về Lục Phi Thanh mà chào:
    “Sư phụ!”
    Đây chính là Lý Nguyên Chỉ, bây giờ đã mặc trang phục nam nhân.

    Nàng nhìn tứ phía mà không thấy Dư Ngư Đồng đâu, chợt thấy Hoắc Thanh Đồng bèn chạy tới nắm tay thân mật mà nói:
    “Đêm đó cô bỏ đi đâu, khiến ta nhớ cô đến chết được. Kinh thư đã lấy lại được chưa?”

    Hoắc Thanh Đồng vui vẻ đáp:
    “Vừa đoạt lại được, xem này.”
    Rồi nàng chỉ vào cái bao vải đỏ đang đeo trên lưng Hoắc A Y.

    Lý Nguyên Chỉ suy nghĩ một chút rồi hỏi:
    “Đã mở ra thử chưa, kinh thư có trong đó hay không?”

    Hoắc Thanh Đồng đáp:
    “Bọn muội phải bái lạy thánh A-la trước để cảm tạ thiên ân, rồi mới được mở thánh kinh ra.”

    Lý Nguyên Chỉ bảo:
    “Tốt nhất là nên mở ra xem thử.”

    Mộc Trác Luân nghe thế bỗng nổi dạ nghi ngờ, liền mở cái bao ra. Thì ra trong bao chỉ có một xấp giấy vụn, đâu phải thánh kinh của họ? Mọi người Hồi nhìn thấy, không ai không tức giận đến phát điên lên. Hoắc A Y xách một tên chạy hiệu của tiêu cục đang nằm dưới đất lên, thuật tay tát cho một phát rồi quát hỏi:
    “Kinh thư ở đâu?”

    Tên chạy hiệu này bật khóc, vừa đưa tay xoa lên bên má bị đánh sưng vù vừa nói:
    “Đây là việc… do tiêu đầu làm… tiểu nhân không biết…”
    Hắn chỉ về phía Tiền Chính Luân đang ôm đầu ngồi một góc.

    Trong lúc hỗn chiến họ Tiền đã bị thương nhẹ mấy chỗ, vừa thấy Tái Vĩnh Minh bỏ mạng là hắn lập tức đầu hàng. Hoắc A Y kéo hắn tới, hỏi:
    “Ông bạn muốn chết hay muốn sống?”
    Tiền Chính Luân nhắm nghiền mắt, không đáp. Hoắc A Y lửa giận bốc tới đầu vung tay định đánh. Nhưng Hoắc Thanh Đồng đưa tay khẽ kéo chéo áo của y một cái, bàn tay vừa đưa lên bỗng từ từ hạ xuống.

    Hoắc A Y tuy tính tình nóng nảy, nhưng đối với muội muội vừa nể phục vừa yêu thương. Em gái lớn là Thanh Đồng, không những giỏi võ công hơn huynh trưởng mà còn túc trí đa mưu, từng đoán trúng nhiều việc. Lần này đi về hướng đông đoạt kinh, mọi việc đều do nàng bày kế hoạch. Còn đứa em út là Kha Tư Lệ thì tuổi còn nhỏ lại không biết võ công nên lần này không đi theo.

    Hoắc Thanh Đồng hỏi Lý Nguyên Chỉ:
    “Sao tỷ biết trong bao này không có kinh thư?”

    Lý Nguyên Chỉ mỉm cười đáp:
    “Lần trước ta đã lừa chúng một lần, nên đoán là chúng đã học mót được chiêu đó rồi.”

    Mộc Trác Luân quát tháo một hồi, nhưng Tiền Chính Luân trước sau chỉ nói là kinh sách đã bị một tiêu sư khác mang đi trước. Mộc Trác Luân bán tín bán nghi, hạ lệnh cho tay chân lùng xét tất cả các bao trên lưng lừa ngựa, nhưng hoàn toàn chẳng thấy đâu. Ông lo rằng thánh vật của bộ tộc mình bị hủy hoại mất rồi, bất giác chau mày phiền não.

    Bây giờ mọi người mới hiểu tại sao Diêm Thế Chương đã thua mà quyết liều mạng, không chịu giao cái bao đó ra. Thì ra hắn cũng biết trong bao không có kinh sách, khi mọi người phát hiện thì mạng mình không sao giữ được.

    Bên này thì Lý Nguyên Chỉ đang hỏi chuyện sư phụ Lục Phi Thanh. Họ Lục bảo:
    “Những chuyện này sau này hãy nói, bây giờ con quay trở lại đi, kẻo mẫu thân lo lắng. Những việc ở đây, con tuyệt đối không được kể với người khác.”

    Lý Nguyên Chỉ đáp:
    “Đương nhiên là con không nói. Sư phụ tưởng con là một đứa bé không biết gì hay sao? Nhưng những người này là ai vậy, sư phụ giới thiệu cho con biết có được không?”

    Lục Phi Thanh suy nghĩ một lúc rồi nói:
    “Ta nghĩ là chưa cần thiết. Con rời khỏi đây đi.”
    Ông nghĩ Lý Nguyên Chỉ là con gái quan đề đốc, đường lối khác hẳn quần hào, không nên để họ quen nhau làm gì.

    Lý Nguyên Chỉ dẩu môi ra nói:
    “Con biết sư phụ không thương đồ đệ bằng sư điệt Kim Địch Tú Tài gì gì đó. Thôi con đi đây.”
    Nàng cúi chào rồi nhảy lên ngựa, chạy đến chỗ Hoắc Thanh Đồng bèn cúi xuống vỗ vai nàng, lại còn kề miệng vào sát tai người đẹp thì thầm gì đó. Hoắc Thanh Đồng cười khúc khích, rồi Lý Nguyên Chỉ ra roi giật cương phi về phía tây.

    Tất cả những chuyện xảy ra, Trần Gia Lạc đều thấy cả. Chàng nhìn Hoắc Thanh Đồng thân mật với thiếu niên tuấn tú kia, bỗng dưng cảm thấy như bị đánh một quyền rất nặng vào giữa ngực. Trong lòng chàng có gì đó cứ trào ngược lên, mặt nóng miệng khô, cứ đứng đó mà ngơ ngẩn xuất thần.

    Từ Thiên Hoằng đi đến cạnh chàng, cất tiếng gọi:
    “Tổng đà chủ! Chúng ta phải thương lượng một chút, bàn việc đi cứu Tứ ca.”

    Trần Gia Lạc giật mình định thần lại nói:
    “Đúng vậy! Tâm Nghiễn, đệ cưỡi con ngựa của Văn phu nhân đi mời Chương thập gia tới đây.”
    Tâm Nghiễn nhận lệnh đi ngay.

    Trần Gia Lạc lại bảo:
    “Cửu ca! Huynh đến cửa thung lũng này gặp Thập Nhị Lang, rồi đi dò xét hành tung bọn ưng trảo xem Tứ ca đi về hướng nào, đêm nay phải về báo tin.”
    Vệ Xuân Hoa cũng tuân lệnh rời khỏi đó.

    Trần Gia Lạc nói với mọi người:
    “Đêm nay chúng ta ngủ lại đây để chờ tin tức của Tứ ca, sáng sớm mai tiếp tục lên đường.”

    Hôm nay mọi người phải phi ngựa gấp nửa ngày nên ai cũng vừa đói vừa mệt. Mộc Trác Luân chỉ huy nhóm người Hồi dựng lều ở bên đường, chia cho quần hùng Hồng Hoa Hội mấy chiếc lều, lại nấu thịt bò thịt dê đem qua mời.

    Mọi người ăn xong, Trần Gia Lạc bèn bắt Hồ Quốc Đống ra tra xét tỉ mỉ. Hồ Quốc Đồng cứ luôn mồm thóa mạ Trương Triệu Trọng, kể rằng Văn Thái Lai từ trước vẫn ngồi trên cỗ xe lớn. Về sau Trương Triệu Trọng phát hiện tung tích địch nhân, đoán sẽ có người đến cướp xe, nên bảo Hồ Quốc Đống ngồi vào trong cỗ xe này để thí mạng.

    Trần Gia Lạc hỏi thêm mấy tên nữa, có cả Tiền Chính Luân nhưng hoàn toàn không có kết quả gì. Từ Thiên Hoằng dẫn bọn bị bắt ra khỏi lều, rồi quay vào khẽ nói với Trần Gia Lạc:
    “Tổng đà chủ! Tên họ Tiền này mục quang rất sáng, thần sắc lại gian xảo. Chúng ta hãy thử một phen.”
    Trần Gia Lạc gật đầu khen phải, rồi hai người hạ giọng bàn bạc với nhau.

    Trời đã tối hẳn mà Vệ Xuân Hoa cùng Thạch Song Anh vẫn chưa trở về báo tin, mọi người đều lo lắng. Từ Thiên Hoằng nói:
    “Không chừng hai huynh ấy đã phát hiện ra tung tích của Tứ ca, đang theo dõi. Nếu thế thì tốt quá.”
    Quần hùng nghe vậy đỡ lo, bàn tán một lúc rồi vào ngủ trong lều. Bọn quan sai và tiêu đầu đều bị trói chặt chân tay để ở ngoài lều, canh đầu thì Tưởng Tứ Cân canh giữ còn canh sau thì Từ Thiên Hoằng canh giữ.

    Trăng đã lên lưng chừng trời, Từ Thiên Hoằng ra gọi Tưởng Tứ Cân vào lều ngủ. Chàng đi rảo quanh một vòng, rồi nằm xuống, lấy chăn phủ kín đầu. Chàng cố ý nằm cạnh Tiền Chính Luân, lúc nằm xuống còn đưa chân đạp mạnh hắn một cái mạnh. Họ Tiền đau điếng tỉnh giấc ngay. Hắn đang muốn ngủ tiếp thì bỗng nghe Từ Thiên Hoằng phát ra tiếng ngáy, hình như ngủ say lắm rồi.

    Tiền Chính Luân mừng thầm trong bụng, thử nhúc nhích hai tay. Sợi dây trói hai cổ tay hắn buộc không chặt lắm, chỉ giãy vài cái đã rút tay ra được. Tiền Chính Luân cố thở nhẹ, đợi một lúc thì nghe thấy tiếng ngáy của Từ Thiên Hoằng càng lúc càng lớn hơn. Hắn bèn nhẹ nhàng tháo sợi dây trói chân ra, xoa xoa cho bớt tê chân rồi từ từ đứng dậy, rón rén ra ngoài. Hắn vòng ra sau lều, tháo dây cương một con ngựa đang buộc ở gốc cây, dặt đi một bước lại dừng một bước.

    Đi đến đường lớn, hắn định thần lắng nghe, nhưng xung quanh hoàn toàn không có chút âm thanh nào, lại càng mừng rỡ. Đi càng xa mấy gian lều, hắn càng sải bước nhanh hơn, tiến đến cỗ xe lớn Hồ Quốc Đống nằm khi nãy. Lúc này con lừa kéo xe đã được thả ra, cỗ xe đổ nghiêng ngả dưới đất.

    Trong gian lều phía tây đột nhiên có một người chạy ra đó chính là Chu Ỷ. Nàng cùng Hoắc Thanh Đồng và Lạc Băng ngủ chung trong một chiếc lều. Hai người kia đều tâm sự nặng nề, trằn trọc mãi không sao ngủ được, còn Chu Ỷ vừa nằm xuống đã ngủ ngon lành. Trong cơn mơ nàng thấy mình rơi xuống một cái hố sâu, giãy giụa thế nào cũng không lên được, rồi lại thấy Từ Thiên Hoằng đứng trên miệng hố nhìn xuống mỉm cười trêu ghẹo nàng. Chu Ỷ nổi giận đang muốn la mắng, đột nhiên Từ Thiên Hoằng nhảy vào trong hố ôm chặt lấy nàng, há miệng cắn vào má nàng, đau không sao chịu nổi.

    Chu Ỷ giật mình tỉnh giấc, cả người ướt đẫm mồ hôi, rồi đột nhiên nghe thấy bên ngoài có tiếng động. Nàng định thần một chút rồi vén lều lên xem, thấy xa xa có một người lén lút đi về phía đường cái, bèn cầm đơn đao ra ngoài lều đuổi theo. Đuổi được mấy bước, nàng toan la lên báo động thì đột nhiên sau lưng có một người âm thầm phóng tới, bịt miệng nàng lại.

    Chu Ỷ giật mình xoay tay đâm lại một đao. Người kia nhanh tay chụp lấy cổ tay nàng, đẩy đao ra rồi khẽ nói:
    “Đừng la! Chu cô nương là ta đây.”
    Chu Ỷ nhận ra thanh âm Từ Thiên Hoằng nên không dùng đao nữa mà chuyển sang đấm đá. Nàng vung tả quyền, dùng hết sức đánh ngay vào ngực phải của chàng. Từ Thiên Hoằng phần thì đau thật, phần thì giả vờ hự một tiếng rồi té ngửa ra sau.

    Chu Ỷ kinh hãi, vội cúi xuống hỏi nhỏ:
    “Huynh… không, không, ai bảo huynh bịt miệng ta? Có người đang chạy trốn, huynh có thấy không?”

    Từ Thiên Hoằng hạ giọng đáp:
    “Đừng lên tiếng! Chúng ta theo dõi hắn.”
    Hai người nằm sát dưới đất từ từ bò tới, thấy rõ Tiền Chính Luân đang lôi một cái ghế ngồi trên xe ra. Rồi lại có tiếng lách cách, hình như hắn nạy một tấm ván sàn xe lên, lấy một cái hộp gỗ ra nhét vào trong người, rồi chuẩn bị lên ngựa.

    Từ Thiên Hoằng vội vã đẩy sau lưng Chu Ỷ một cái, hô lớn:
    “Cản hắn lại!”
    Chu Ỷ phi thân nhảy vọt tới. Tiền Chính Luân chỉ mới đặt chân trái lên vòng để chân, nghe có tiếng người nên hốt hoảng không kịp trèo lên, chân phải đá một cái vào mông ngựa. Con ngựa bị đau, chồm tới một cái xa mấy trượng. Chu Ỷ đề khí đuổi theo gấp rút.

    Tiền Chính Luân lật người ngồi lên lưng ngựa vung tay phải ra hét lớn:
    “Xem tiêu!”
    Chu Ỷ vội dừng bước, nghiên người né tránh phi tiêu. Nào ngờ đó chỉ là hù dọa, ám khí trong người hắn đã bị lục soát tước hết cả rồi.

    Chu Ỷ vừa chậm chân một chút, con ngựa đã chạy thêm một quãng xa, ai cũng thấy nàng không thể đuổi kịp. Tiền Chính Luân khoái chí cười ha hả, nhưng tiếng cười chưa dứt đã lảo đảo người rồi lăn từ trên ngựa xuống.

    Chu Ỷ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, chạy vội tới đạp chân lên lưng hắn, lại chĩa mũi đao vào gáy. Từ Thiên Hoằng cũng đã tới nơi, lên tiếng:
    “Cô xem thử cái hộp trong người của hắn là thứ gì?”

    Chu Ỷ mở hộp gỗ ra, thấy bên trong là một xấp da dê rất dày được đóng lại như quyển sách, bèn giở thử xem. Dưới ánh trăng, nàng thấy văn tự rất kỳ lạ, không hiểu chữ nào, bèn nói:
    “Đây là những thứ cổ quái của Hồng Hoa Hội các vị, làm sao ta biết được.”
    Rồi nàng tiện tay ném cho Từ Thiên Hoằng.

    Từ Thiên Hoằng đón lấy, vừa liếc qua đã mừng rỡ la lên:
    “Chu cô nương! Công lao của cô nương không phải nhỏ, đây có lẽ là kinh sách của người Hồi tộc. Chúng ta mau đi tìm tổng đà chủ đi.”

    Chu Ỷ hỏi:
    “Thật không?”
    Nàng vừa nói xong, Trần Gia Lạc đã bước tới.

    Chu Ỷ kinh ngạc hỏi:
    “Ủa, Trần đại ca! Sao huynh cũng đến đây? Huynh xem đây là thứ gì vậy?”

    Từ Thiên Hoằng đưa hộp gỗ qua, Trần Gia Lạc đón lấy xem thử rồi nói:
    “Đây chắc chắn là bộ kinh sách ấy rồi. May mà cô cản trở được tên này. Mấy chục nam nhân bọn ta cũng chưa sánh kịp với cô.”

    Chu Ỷ được hai người khen ngợi, vui sướng trong lòng. Nàng muốn nói mấy câu khiêm tốn nhưng không biết phải nói thế nào, hồi lâu mới hỏi Từ Thiên Hoằng:
    “Vừa rồi ta đánh huynh có đau không?”

    Từ Thiên Hoằng cười thành tiếng rồi đáp:
    “Công lực của Chu cô nương không phải tầm thường.”

    Chu Ỷ nói:
    “Đó là do huynh không đàng hoàng.”
    Nàng nói xong, quay lại bảo Tiền Chính Luân:
    “Đứng dậy, vào trong lều.”

    Chu Ỷ lỏng chân, lấy đao ra khỏi gáy hắn, nhưng Tiền Chính Luân vẫn không đứng dậy. Nàng giận dữ la lên:
    “Ta đâu có đả thương ngươi? Giả vờ chết làm chi?”
    Rồi nàng co chân tặng hắn một cước, thế mà họ Tiền vẫn không nhúch nhích.

    Trần Gia Lạc đưa tay vỗ dưới nách hắn một cái, rồi quát:
    “Đứng dậy!”
    Lúc này Tiền Chính Luân mới rên hừ hừ lồm cồm bò dậy.

    Chu Ỷ ngẩn ra một chút, dường như nghĩ đến điều gì đó. Nàng nhìn tứ phía rồi nhặt dưới đất lên một quân cờ màu trắng, đưa cho Trần Gia Lạc rồi nói:
    “Đây đúng là quân cờ của huynh. Thì ra các vị hùa nhau đến đây để phỉnh phờ ta. Hừ hừ… Từ lâu ta đã biết các vị không phải là người tốt.”

    Trần Gia Lạc mỉm cười lên tiếng:
    “Ai rảnh mà hùa nhau để dụ dỗ cô? Chính cô nghe thấy tiếng động của tên này mới đuổi ra tới đây. Hơn nữa, nếu không bị cô cản trở thì hắn đâu có hoảng sợ? Trong lòng hắn không hoảng sợ thì đương nhiên có thể né khỏi quân cờ của ta. Hắn lại đang cưỡi ngựa, làm sao chúng ta đuổi kịp được?”

    Chu Ỷ nghe chàng nói rất có lý, lại vui vẻ nói:
    “Thế thì ba người chúng ta đều có công cả.”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Công của cô là lớn nhất.”

    Chu Ỷ khẽ bảo:
    “Chuyện ta đánh huynh một quyền đừng nói cho phụ thân ta biết.”

    Từ Thiên Hoằng bật cười rồi đáp:
    “Nói thì có sao đâu?”

    Chu Ỷ giận dữ đáp:
    “Nếu huynh nói thì ta sẽ vĩnh viễn không nhìn đến huynh nữa.”
    Từ Thiên Hoằng mỉm cười không đáp.

    Chàng cùng Trần Gia Lạc sắp đặt mưu kế này, đã thông báo cho quần hùng là nếu ban đêm nghe thấy tiếng động thì không cần phải chạy ra. Nếu không thì với bản lãnh như Vô Trần đạo trưởng, Triệu Bán Sơn, chẳng lẽ nghe thấy tiếng vó ngựa mà không cảnh giác?

    Ba người áp giải Tiền Chính Luân, cầm theo kinh sách đi đến lều của Mộc Trác Luân. Người Hồi canh gác chạy vào thông báo, Mộc Trác Luân vội vàng mặc áo ra ngoài lều đón họ vào.

    Trần Gia Lạc kể lại sự việc, rồi giao kinh sách cho Mộc Trác Luân. Họ Mộc cả mừng hai tay đỡ lấy, thấy đúng là quyển kinh Coran chép tay mà bộ tộc ông coi là thánh vật. Tin mừng lan đi nhanh chóng, chỉ một lúc sau, Hoắc A Y, Hoắc Thanh Đồng và tất cả người Hồi đều vào hết trong lều, ai cũng chắp tay cúi đầu cảm tạ ba người.

    Mộc Trác Luân mở kinh sách ra, lớn tiếng đọc:
    “Thánh A-la nhân từ tối cao là chủ của mọi lời tán tụng, là chủ tối nhân tối thiện của toàn thế giới, là chủ của ngày phán xét. Chúng con tôn sùng ngài, cầu xin ngài phù trợ, cầu xin ngài hướng dẫn chúng con đi đúng con đường được ngài phù hộ, không lạc vào đường bị khiển trách, không lạc vào đường si mê ngu tối.”
    Hết thảy người Hồi đều nằm rạp dưới đất cầu nguyện chân thành cảm tạ thánh A-la.

    Cầu nguyện xong, Mộc Trác Luân nói với Trần Gia Lạc:
    “Trần đương gia! Huynh đã đoạt lại thánh vật của bộ tộc chúng ta từ tay bọn gian tặc này. Đại ân không dám nói lời cảm tạ, nhưng từ nay về sau nếu Trần đương gia có gì cần sai khiến thì hãy nhắn tin. Dù cách xa thiên sơn vạn thủy chúng ta cũng đến, dù phải vào nước sôi lửa bỏng chúng ta cũng quyết không bao giờ từ chối.”

    Trần Gia Lạc chắp tay cảm tạ. Mộc Trác Luân lại nói:
    “Ngày mai chúng ta sẽ đưa thánh kinh này trở về bộ tộc. Tiểu nhi và tiểu nữ ở lại đây, nhờ Trần đương gia hướng dẫn chỉ huy. Sau khi cứu được Văn tứ gia, hai đứa mới trở về. Nếu khi đó Trần đương gia cùng các vị anh hùng rảnh rỗi xin đến chỗ chúng ta ở lại mấy ngày, để người trong bộ tộc được chiêm ngưỡng phong thái của hào kiệt thời nay.”

    Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi đáp:
    “Bây giờ thánh vật đã trở về chủ cũ, đó là nhờ quí tộc đã được chân thần A-la phù hộ, cùng hồng phước của lão anh hùng. Anh em tại hạ và Chu cô nương chỉ may mà được việc, thật không dám nói là công đức. Xin lệnh lang và lệnh ái cứ đi cùng lão anh hùng về bộ tộc. Phen này bọn tại hạ cảm kích hảo ý của lão anh hùng còn chưa hết nói gì đến việc kinh động đại giá của lệnh lang cùng lệnh ái.”

    Trần Gia Lạc vừa nói dứt câu, ba cha con Mộc Trác Luân đều kinh ngạc nghĩ thầm:
    “Chiều mới khen là phải, sao đêm đã đột nhiên đổi ý?”
    Mộc Trác Luân nói thêm mấy lần, Trần Gia Lạc cũng chỉ từ tạ. Hoắc Thanh Đồng khẽ gọi gia gia, nhè nhẹ lắc đầu tỏ ý không cần nói nữa.

    Lúc này quần hùng Hồng Hoa Hội đều đã vào chúc mừng Mộc Trác Luân. Người quá đông, lều không chứa hết nên đa số người Hồi phải lui ra ngoài.

    Từ Thiên Hoằng thấy Chu Trọng Anh đi vào, bèn lên tiếng:
    “Phen này đoạt lại thánh kinh, công lao của Chu cô nương lớn nhất.”
    Chu Trọng Anh đắc ý trong lòng, nhìn con gái của mình tỏ ý khen ngợi.

    Từ Thiên Hoằng đột nhiên đưa tay đè lên ngực phải, rên mấy tiếng. Mọi người đều chăm chú nhìn chàng. Chu Ỷ kinh hãi trong lòng, thầm nghĩ:
    “Ta vừa đánh hắn một quyền. Nếu hắn kể ra trước mặt mọi người thì ta biết làm sao?”

    Chu Trọng Anh vội hỏi:
    “Sao thế?”

    Từ Thiên Hoằng im lặng không đáp, một lúc lâu mới mỉm cười nói:
    “Không sao cả.”

    Chu Ỷ toát mồ hôi trán, nghĩ bụng:
    “Hay lắm! Thì ra tên tiểu tử này tìm cách trêu ghẹo người ta.”

    Mọi người cáo từ ra ngoài, về ngủ tiếp. Sáng sớm hôm sau, Mộc Trác Luân dẫn toàn bộ người Hồi đến từ biệt quần hào. Tuy rằng hai bên mới chỉ gặp mặt nửa ngày, nhưng qua trận chiến với kẻ thù chung, mọi người đã hiểu nhau, tình cảm nồng nàn.

    Chu Ỷ nắm tay Hoắc Thanh Đồng, hỏi Trần Gia Lạc:
    “Cô nương này rất tốt, võ công lại cao cường. Người ta muốn giúp mình đi cứu Văn tứ gia, sao huynh không đồng ý?”

    Trần Gia Lạc nhất thời không biết nói sao. Hoắc Thanh Đồng bèn lên tiếng:
    “Trần công tử có hảo ý, không muốn bọn muội phải mạo hiểm. Muội rời gia đình đã lâu, nhớ mẫu thân và muội tử lắm rồi, cũng muốn về sớm một chút. Chu tỷ tỷ, chúng ta hẹn gặp lại sau.”
    Nói xong, nàng giật tay về, cho ngựa quay đầu chạy thẳng.

    Chu Ỷ nói với Trần Gia Lạc:
    “Thật không hiểu tại sao huynh không muốn cô ấy đi cùng. Huynh xem, nước mắt người ta sắp chảy ra rồi. Huynh xem thường người ta, đắc tội với người ta… thôi thì mặc kệ huynh.”
    Trần Gia Lạc cứ nhìn theo Hoắc Thanh Đồng không nói tiếng nào.

    Hoắc Thanh Đồng chạy một quãng xa, đột nhiên giật ngựa quay người lại. Nàng thấy Trần Gia Lạc đang ngơ ngẩn nhìn mình, bèn cắn chặt môi rồi vẫy chàng tới.

    Trần Gia Lạc thấy mỹ nhân gọi mình, không tự chủ được, mơ hồ bước tới. Hoắc Thanh Đồng nhảy xuống ngựa. Hai người đối diện cứ thẫn thờ im lặng mãi không ai nói gì.

    Hoắc Thanh Đồng định thần lại, lên tiếng:
    “Tính mạng của muội đã nhờ công tử cứu giúp. Thánh vật của bộ tộc cũng nhờ công tử đoạt về. Bất luận công tử đối xử thế nào, muội cũng không oán trách gì công tử.”
    Nàng tháo thanh đoản kiếm đeo bên hông ra, nói tiếp:
    “Thanh đoản kiếm này là của phụ thân tặng cho muội. Nghe nói bên trong có ẩn chứa một bí mật cực lớn, mấy trăm năm nay truyền đời đồn đại, nhưng mãi đến nay vẫn chưa có ai tìm ra được. Hôm nay tạm biệt, không biết bao giờ mới gặp lại nhau, xin công tử giữ lấy thanh đoản kiếm này. Công tử thông minh tuyệt thế, không chừng sẽ phát hiện ra chỗ ảo diệu bên trong.”

    Nàng nói xong, hai tay đua thanh đoản kiếm này lên. Trần Gia Lạc cũng đón lấy bằng cả hai tay, nói:
    “Kiếm là vật quý, vốn không dám nhận. Nhưng cô nương đã tặng, nếu từ chối thì sợ không cung kính chỉ còn cách hổ thẹn mà nhận lấy.”

    Hoắc Thanh Đồng thấy chàng thần sắc rối bời cũng thấy khó chịu trong lòng. Nàng ngần ngừ một chút rồi nói:
    “Huynh không muốn muội đi cùng cứu Văn tứ gia vì lý do gì, muội đã hiểu rồi. Hôm qua huynh thấy chàng thiếu niên kia thân mật với muội nên coi thường muội. Thật ra y là đệ tử của Lục lão tiền bối Lục Phi Thanh. Y là người như thế nào huynh có thể đi hỏi Lục lão tiền bối. Lúc đó huynh sẽ biết muội có phải là một cô gái tự trọng hay không.”
    Nàng nói xong, lập tức phi thân lên ngựa, ra roi chạy thẳng.

    Trần Gia Lạc được nghe mấy câu tình ý nồng nàn, không nén nổi cả tâm lẫn ý cùng rung động. Nhưng chàng lập tức nghĩ đến dáng vẻ của thiếu niên kia dung mạo tuấn tú, môi đỏ răng trắng, rõ ràng đẹp đẽ hơn mình rất nhiều. Trước nay Trần Gia Lạc vẫn tự phụ mình văn võ toàn tài, gia thế dung mạo đều xuất chúng, hiếm người sánh được. Bây giờ chàng phải tự so sánh với chàng thiếu niên kia, bất giác hơi thẹn trong lòng.

    Phen này đại quân đi cứu Văn Thái Lai, mắt thấy thành công mà lại chẳng được tích sự gì. Trần Gia Lạc vừa nhận chức thống soái đã xuất quân bất lợi, dĩ nhiên trong lòng ấu trĩ. Cũng có lúc chàng muốn chạy theo, nói chuyện thêm với người đẹp mấy câu, nhưng chỉ bước được hai bước đã dừng chân lại.




    (... còn tiếp ...)


          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Thư kiếm ân cừu lục

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Thư kiếm ân cừu lục - 書劍恩仇錄 -
    ___________________________
    Nguyên tác: Kim Dung - 金庸 ________ Dịch giả: Đông Hải






              


              

              
    (... tiếp theo ...)



    Hồi thứ năm

    Ô Sào Lãnh quỉ hiệp chặn đường
    Xích Sáo Độ quan quân trôi dạt




    Trần Gia Lạc tay cầm đoản kiếm, ngơ ngác xuất thần nhìn Hoắc Thanh Đồng mỗi lúc một xa, rồi bộ tộc người Hồi khuất dần trong hoang mạc nơi trời đất gặp nhau. Chàng bỗng mềm lòng, định chạy đi hỏi Lục Phi Thanh về đệ tử của ông, nhưng nhiều suy nghĩ trỗi dậy trong đầu:
    “Về việc kết hôn với người Hán, luật lệ của người Hồi xưa nay rất nghiêm ngặt. Giả tỉ như cô nương Hoắc Thanh Đồng có hảo ý với ta đi nữa, thì cũng bắt ta qui theo Hồi giáo làm người Hồi tộc, không thì hai bên chỉ vướng vít tơ tình, cuối cùng chẳng có kết quả gì. Như thế là tự mình chuốc lấy phiền não về mình. Ta đối với chân thần của Hồi giáo vốn không thật lòng tin kính, nếu vì Hoắc cô nương mà vờ vịt tôn sùng thì rõ ràng là thiếu thành ý. Đó không phải là hành động của người chính nhân quân tử, không khỏi bị thiên hạ khinh rẻ chê cười.”

    Chàng đang nghĩ ngợi thì bỗng nhìn thấy phía trước có một con ngựa chạy tới nhanh như khói tỏa, càng đến gần càng có vẻ nhanh hơn, rồi nhận ra Tâm Nghiễn đã trở về.

    Tâm Nghiễn nhìn thấy Trần Gia Lạc liền vội xuống ngựa từ xa, dắt ngựa tới vui mừng nói:
    “Thiếu gia! Chương thập gia đang đi sau. Chúng ta vừa bắt được một người.”

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Bắt được ai thế?”

    Tâm Nghiễn kể:
    “Tiểu nhân cưỡi con bạch mã chạy đến tòa cổ miếu, thấy Chương thập gia đang tranh cãi với một người. Tiểu nhân lên tiếng gọi, Thập gia bèn bảo người kia đợi một chút. Không ngờ hắn vừa nhìn thấy bạch mã đã mắng tiểu nhân là quân trộm ngựa, rồi vung dao lên chém. Tiểu nhân và Thập gia phải đánh trả. Công phu của hắn rất khá, nhưng không có binh khí nên phải cầm một con dao bổ củi, dĩ nhiên không thuận tay. Được hơn hai mươi hiệp thì Thập gia dùng lang nha bổng đánh văng mất con dao chẻ củi, hắn phải dùng tay không đấu với hai người. Sau đó, tiểu nhân cứ nhặt đá dưới đất ném tới. Hắn lo tránh né, nên sơ ý trúng một bổng của Thập gia, rồi bị bắt.”

    Trần Gia Lạc cười hỏi:
    “Người đó tên là gì?”

    Tâm Nghiễn đáp:
    “Tiểu nhân có hỏi nhưng hắn không chịu nói ra. Thập gia thấy hắn sử toàn chiêu thức của Thiết Tỳ Bà, đoán hắn là người nhà họ Hàn ở Lạc Dương.”

    Không bao lâu Chương Tấn cũng đến nơi, xuống ngựa thi lễ với Trần Gia Lạc, tiện tay xách một người trên lưng ngựa bỏ xuống. Hắn đã bị cột tay chân phải nằm yên một chỗ, nhưng thần thái rất ngạo mạn.

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Chắc các hạ là người Hàn gia ở Lạc Dương. Xin cho biết tôn tánh đại danh.”
    Hắn ngửa mặt nhìn trời không đáp.

    Trần Gia Lạc bảo:
    “Tâm Nghiễn, ngươi cởi trói cho đại gia đi.”
    Tâm Nghiễn bèn rút dao cắt đứt sợi dây trói, rồi cầm dao đứng sau lưng hắn để phòng biến cố.

    Trần Gia Lạc nói:
    “Hai người đã đắc tội với các hạ, xin đừng trách. Mời vào trong lều nói chuyện.”

    Bốn người cùng vào trong lều. Trần Gia Lạc và người kia ngồi xuống đất. Quần hùng lục tục kéo vào, đều đứng sau lưng Trần Gia Lạc.

    Lúc thấy Lạc Băng đi vào, đột nhiên hắn nổi giận nhảy chồm lên, chỉ mặt nàng thóa mạ:
    “Con mẹ ăn cắp ngựa kia! Còn chưa chịu trả ngựa cho ta ư? Không trả thì lão gia quyết không chịu bỏ qua.”

    Lạc Băng cười nói:
    “Ông là Hàn Văn Xung đại gia có phải không? Ta đổi ngựa cho ông, lại còn bù thêm một thỏi vàng. Thế là ông phát tài rồi, làm gì phải nổi nóng nữa.”

    Trần Gia Lạc hỏi nguyên do, Lạc Băng bèn kể lại vụ đoạt ngựa này. Mọi người nghe thấy đều cười rộ lên. Mặc dù hội qui của Hồng Hoa Hội không cấm chuyện trộm cướp, nhưng Lạc Băng biết tổng đà chủ xuất thân từ tể tướng phủ, chắc là con cháu nhà quan không ưa những chuyện cướp bóc trấn lột, nên nàng chưa nói đến lai lịch của con bạch mã.

    Trần Gia Lạc bảo:
    “Nếu thế thì Tứ tẩu trả ngựa lại cho Hàn gia đi. Thỏi vàng kia cũng không cần lấy lại, coi như tiền thuê ngựa, cũng để tỏ lòng kính trọng. Còn vết thương trên chân của Hàn gia chắc không nặng lắm, Tâm Nghiễn mau lấy thuốc kim sang ra băng bó.”

    Hàn Văn Xung thấy Trần Gia Lạc xử lý như thế, cơn giận hơi nguôi. Hắn đang muốn nói mấy câu để kết thúc việc này, thì Lạc Băng bỗng lên tiếng:
    “Tổng đà chủ, chuyện đó không được. Tổng đà chủ biết hắn là ai không? Hắn là người của Trấn Viễn tiêu cục đấy.”

    Trần Gia Lạc hỏi lại:
    “Thật không?”

    Lạc Băng lấy lá thư của Vuơng Duy Dương ra, nói với Trần Gia Lạc:
    “Xin tổng đà chủ xem thử.”

    Trần Gia Lạc cầm thư, mới đọc dòng xưng hô đầu tiên đã gấp lại, trả cho Hàn Văn Xung rồi nói:
    “Đây là thư của Hàn gia, ta không tiện xem.”

    Hàn Văn Xung nghĩ thầm:
    “Dù sao thì đồng bọn của ngươi cũng đã xem rồi, ta chẳng giấu giếm làm chi nữa.”
    Hắn liền nói:
    “Đúng thế, ta là người của Trấn Viễn tiêu cục, nhưng không hiểu ta đã mạo phạm quí vị chuyện gì. Việc này phải thỉnh giáo, Hàn mỗ quang minh lỗi lạc, chưa bao giờ làm những chuyện không minh bạch. Các hạ cứ xem đi.”
    Nói xong, hắn trải lá thư ra, đặt trước mật Trần Gia Lạc.

    Trần Gia Lạc xem lướt qua, chớp nhoáng đã hiểu ý trong thư, bèn nói:
    “Vương lão tiêu đầu Vương Duy Dương oai trấn vùng Hà Sóc, tại hạ đã nghe danh từ lâu, chỉ vi vô duyên nên chưa được làm quen, thật là ân hận. Các hạ là người của Hàn gia Lạc Dương, không biết xưng hô với Hàn Ngũ Nương như thế nào?”

    Hàn Văn Xung đáp:
    “Đó là tiên thẩm nương của tại hạ. Xin thỉnh giáo tôn tánh đại danh, không hiểu các hạ có quen biết tiên thẩm nương hay không?”

    Trần Gia Lạc mỉm cười nói:
    “Cũng chỉ mới được nghe danh mà thôi. Ta họ Trần tên Gia Lạc.”

    Hàn Văn Xung nghe xong lập tức đứng dậy, kinh hãi nói:
    “Ông… ông… là công tử của Trần Các Lão…”

    Thường Hách Chí lên tiếng:
    “Đây là tổng đà chủ Hồng Hoa Hội chúng ta. Ngươi nói chuyện cả nửa ngày mà có mắt không tròng, không thấy Thái Sơn trước mặt.”
    Hàn Văn Xung từ từ ngồi xuống, ngắm nghía chàng thanh niên tổng đà chủ này không nháy mắt.

    Trần Gia Lạc nói:
    “Trên giang hồ, không biết ai đã đồn đại rằng cái chết của bạn đồng môn các hạ có liên quan đến tệ hội. Thật ra việc này chúng ta hoàn toàn không biết chút gì. Ta đã phái một huynh đệ đến Lạc Dương, định nói rõ ràng việc này với quí vị, nhưng dọc đường gặp chuyện khẩn cấp nên y không thể phân thân mà tới. May mà hôm nay Hàn gia lại đến đây. Không hiểu lời đồn đại này phát xuất từ đâu, Hàn gia có thể cho biết hay không?”

    Hàn Văn Xung vẫn lắp bắp hỏi:
    “Ông… ông… thật sự là công tử của Trần Các Lão ở Hải Ninh ư?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Hàn gia đã biết rồi, đương nhiên ta cũng chẳng cần giấu diếm thân thế làm gì.”

    Hàn Văn Xung nói:
    “Từ khi công tử rời nhà, tướng phủ đã cho người tìm kiếm, hứa sẽ trọng thưởng. Suốt mấy năm chẳng có âm tín gì, về sau có người cho biết công tử gia nhập Hồng Hoa Hội, đang ở Hồi Cương. Sư huynh của ta là Tiêu Văn Kỳ được tướng phủ nhờ đến Hồi Cương tìm công tử, nào ngờ y đột nhiên mất tích một cách không minh bạch. Việc đó cách đây đã năm năm rồi. Mãi đến gần đây, có người phát hiện thiết bài cùng tỳ bà đinh của Tiêu sư huynh ở một sơn cốc vùng Thiểm Tây, bọn ta mới biết y bị hại rồi. Tuy rằng y chết không có chứng cớ, cũng không ai chính mắt nhìn thấy y chết, nhưng công tử nghĩ xem, nếu không phải Hồng Hoa Hội thì còn ai đủ bản lãnh giết chết Tiêu sư huynh…”

    Hắn chưa nói hết, Chương Tấn đã hét lên:
    “Sư huynh của ngươi tham tiền bán mạng, chết đi là phải. Nếu Hồng Hoa Hội bọn ta giết hắn, chẳng lẽ lại không dám nhận? Lão gia nói thật cho ngươi biết, bọn ta không giết tên đó. Nhưng nếu các ngươi không tìm được kẻ thù, thì coi như là lão gia giết hắn cũng được. Bình sinh lão gia giết người không phải ít, thêm một mạng Tiêu Văn Kỳ con mẹ nó thì phỏng có chi đáng kể.”

    Hàn Văn Xung liếc y một cái, trong lòng bán tín bán nghi. Vô Trần cũng lạnh nhạt lên tiếng:
    “Thập đương gia Hồng Hoa Hội chúng ta xưa nay nói một là một, nói hai là hai. Ngươi không tin lời nói của y, tức là coi ta không ra gì. Ngươi dám coi ta không ra gì, thì gan ngươi quả không phải nhỏ.”

    Giữa những tiếng la ó hỗn loạn, Lục Phi Thanh kêu lớn lên:
    “Tiêu Văn Kỳ là do ta giết. Ta không ở Hồng Hoa Hội, việc này hoàn toàn không có liên quan gì đến Hồng Hoa Hội cả.”
    Ông bèn đứng dậy, kể lại chuyện năm năm trước Tiêu Văn Kỳ nửa đêm tầm thù ra sao, lấy ba người đánh một ra sao, mình hạ thủ lưu tình rồi bị hắn dùng độc thủ ám toán ra sao, cuối cùng hắn chuốc lấy cái chết ở hoang sơn ra sao.

    Lục Phi Thanh kể rành mạch từ đầu đến cuối, mọi người nghe xong đều lớn tiếng thóa mạ Tiêu Văn Kỳ lưu manh vô sỉ, giết đi là phải. Sắc mặt của Hàn Văn Xung thay đổi hẳn, không nói được lời nào.

    Lục Phi Thanh kết luận:
    “Nếu Hàn gia muốn trả thù cho sư huynh, cứ động thủ ngay bây giờ cũng được. Việc này chẳng liên quan gì đến Hồng Hoa Hội, ai mà giúp ta một quyền một cước thì tức là coi thường lão già này.”
    Rồi ông quay lại bảo Lạc Băng:
    “Văn tứ phu nhân! Trả lại binh khí cho Hàn gia đi.”

    Lạc Băng lấy thiết tỳ bà ra giao cho Lục Phi Thanh. Họ Lục đón lấy rồi nói:
    “Năm xưa Hàn Ngũ Nương sáng lập ra Thiết Tỳ Bà Môn danh chấn giang hồ, có thể gọi là nữ trung hào kiệt. Than ôi…”
    Ông ra vẻ rất cảm khái, vừa nói vừa lặng lẽ vận nội lực. Thiết tỳ bà vốn rỗng ruột, bị ông ấn bẹp thành một miếng sắt phẳng.

    Ông ta lại nói tiếp:
    “Tiêu Văn Kỳ chịu lời của Trần phủ đi tìm Trần công tử thì không sao, nhưng hắn thò tay nhận tiền, lại đến tìm lão già này toan bắt nộp lĩnh thưởng. Chúng ta đều là nhân vật võ lâm, cho dù không thể xả thân báo quốc thì cũng nên trừ bớt bọn cướp Mãn Thanh kia, coi như hành hiệp trượng nghĩa trừ hại cho dân.”
    Nội công của phái Võ Đang rất khác thường, miệng ông cứ nói chuyện mà tay đã cuộn miếng sắt phẳng đó thành một cái ống, rồi bóp vài cái biến thành một cây thiết côn.

    Lục Phi Thanh tiếp:
    “Giả sử võ công không khá cũng nên giữ nhân phẩm một chút. Làm người cũng phải biết giữ chữ tín, phải trung thành với chuyện mình đang gánh vác. Suốt đời Lục mỗ hận nhất là bọn ưng khuyển triều đình, bọn chó má bảo tiêu hộ viện, ỷ vào chút xíu bản lãnh mà nối giáo cho giặc, đàn áp lương dân. Nếu gặp phải bọn này, Lục mỗ quyết chẳng buông tha.”
    Nói đến đây, thanh âm và sắc mặt ông đều rất nghiêm khắc. Cây thiết côn trong tay đã biến thành một cái vòng sắt.

    Mấy câu này làm tim Hàn Văn Xung đập nghe thình thịch. Hắn tưởng võ công mình cao thâm, trước nay vẫn tự cao tự đại, nào ngờ phen này thất bại liên tiếp. Bại dưới tay Lạc Băng, Chương Tấn, Tâm Nghiễn, hắn vẫn còn đổ cho đối phương dùng quỉ kế. Nhưng bây giờ hắn thấy Lục Phi Thanh vừa nói chuyện vừa vo nặn món binh khí thành danh của mình như nặn đất sét, như vo bột mì, thì không tránh khỏi vừa kinh hãi vừa sợ sệt. Hắn cũng biết võ công của Tiêu Văn Kỳ chỉ ngang với mình, đấu với ông lão này thì dĩ nhiên phải chết.

    Tưởng Tứ Cân hứng thú nhìn Lục Phi Thanh chơi đùa cục sắt đó, tính nghịch ngợm bỗng nổi lên. Y đón lấy thiết hoàn, giang tay kéo thẳng ra thành một cây thiết côn trở lại, rồi chính mình cầm một đầu, đưa đầu kia cho Dương Thành Hiệp.

    Dương Thành Hiệp đưa tay nắm lấy, mỉm cười nói:
    “Đấu sức phải không?”
    Tưởng Tứ Cân gật đầu, rồi hai người vận sức mà kéo. Cây thiết côn mỗi lúc một dài ra, mọi người đều cười ha hả.

    Trần Gia Lạc sợ hai người quyết phân thắng bại làm tổn thương hòa khí, bèn mỉm cười nói:
    “Hai vị ca ca thần lực bằng nhau. Đưa thiết tỳ bà cho ta đi.”
    Mọi người nghe chàng vẫn gọi cái que sắt này là thiết tỳ bà, tiếng cười càng vang dội.

    Trần Gia Lạc nhận lấy que sắt, lại nói:
    “Đạo trưởng, Chu lão tiền bối, Dương bát ca, ba vị ở một bên. Triệu tam ca, Tưởng huynh đệ, ba người chúng ta ở một bên. Chúng ta luyện khí thử xem.”
    Bọn Chu Trọng Anh đều mỉm cười đi đến, ba người một bên, xếp chưởng với nhau mà chống đỡ một đầu cái que sắt dài ngoằng.

    Trần Gia Lạc cười bảo:
    “Cây côn này dài quá, chúng ta sửa lại đi. Một, hai, ba!”
    Sáu người cùng vận sức. Kình lực của sáu người này cộng lại, quả là trên đời này hiếm thấy. Cây thiết côn từ từ co rút lại, dày lên và ngắn đi. Mọi người đứng xem đều hoan hô vang dội.

    Sắc mặt Hàn Văn Xung thay đổi hẳn, thầm nghĩ:
    “Thôi rồi! Thế này mới gọi là ngoài trời còn có trời, trên người còn có người. Nếu hôm nay Hàn mỗ giữ được mạng sống, thì ngày mai phải về quê cuốc đất thôi.”

    Trần Gia Lạc hô lớn:
    “Được rồi!”
    Năm người Chu Trọng Anh cười rộ lên rồi dừng tay lại.

    Trần Gia Lạc quay lại nói:
    “Lỡ tay làm hỏng mất binh khí của Hàn gia, thật là áy náy. Xin đừng trách.”
    Hàn Văn Xung mồ hôi đầy đầu, không sao trả lời được nữa.

    Trần Gia Lạc nói:
    “Ta muốn khuyên Hàn huynh một câu, không biết Hàn huynh có đồng ý hay không.”

    Hàn Văn Xung gật đầu:
    “Xin cứ nói.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Có câu oán thù nên giải không nên kết. Lệnh sư huynh mất mạng ở hoang sơn là tự mình chuốc họa, không thể trách Lục lão tiền bối. Mong Hàn huynh nể mặt ta mà xóa bỏ mâu thuẫn này với Lục lão tiền bối, mọi người kết làm bằng hữu có tốt hơn không?”

    Hàn Văn Xung đã sợ quá rồi, làm sao dám động thủ với Lục Phi Thanh nữa. Nhưng nếu bị đối phương hù dọa mà cúi đầu đồng ý ngay, thì không khỏi tỏ ra quá vô dụng. Vì thế nhất thời hắn không nói nên lời, nhưng sắc mặt thì thay đổi lúc xanh lúc trắng.

    Trần Gia Lạc lại nói:
    “Chuyện rủi của Tiêu tam gia, thật ra phát xuất từ ta. Bây giờ để ta viết một lá thư gửi cho huynh trưởng, nói là Tiêu tam gia đã tìm được ta, nhưng ta không chịu về nhà, rồi Tiêu tam gia dọc đường về bất ngờ tạ thế. Nhờ huynh trưởng gửi tiền tử tuất thật là ưu đãi, để gia quyến của Tiêu tam gia được dễ chịu hơn.”
    Hàn Văn Xung trù trừ chưa đáp.

    Trần Gia Lạc dựng cặp lông mày lên nói:
    “Còn nếu Hàn gia nhất quyết trả thù, thì để ta tiếp mấy chiêu thiết tỳ bà thủ của Hàn gia trước.”
    Chàng lập tức vận kình, phóng cây thiết côn cắm thẳng xuống đất. Nó mất hút vào lòng đất trong nháy mắt, không thấy bóng dáng đâu nữa.

    Ruột gan của Hàn Văn Xung vừa lạnh vừa run, không dám nhiều lời nữa, đáp gọn:
    “Mọi việc tùy ý công tử.”

    Trần Gia Lạc khen:
    “Thế mới gọi là hảo hán biết đường tiến thối.”
    Sau đó chàng bảo Tâm Nghiễn lấy văn phòng tứ bảo ra, múa bút như rồng bay phượng múa, thảo lẹ một lá thư.

    Hàn Văn Xung nhận thư rồi nói:
    “Vương tổng tiêu đầu có dặn dò tại hạ giúp đưa một chuyến tiêu đến Bắc Kinh, khi đến kinh thành thì hộ tống một số châu báu của hoàng thượng ban cho quí phủ về lại Giang Nam. Hôm nay nhìn thấy thần kỹ của quí vị, quả là chút xíu bản lãnh của tại hạ chỉ đáng gọi là múa rìu qua mắt thợ mà thôi. Đồ châu bảo của quí phủ, quyết chẳng có ai dám đụng vào. Đã thế tại hạ xin cáo từ.”

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Thì ra món vật mà Hàn huynh chuẩn bị hộ tống là của gia đình ta đó ư?”

    Hàn Văn Xung đáp:
    “Tên chạy hiệu đưa thư cho tại hạ có nói: Hoàng thượng ban bổ thiên ân cho quí phủ hết sức rộng rãi, chỉ vài tháng lại thưởng một món kim ngân châu báu. Bây giờ tích tụ nhiều rồi, cần đưa về quí phủ ở Giang Nam, nên người trong phủ đã nhờ tiêu cục của bọn tại hạ hộ tống. Hôm nay tại hạ thảm bại ở đây, chẳng còn mặt mũi đi kiếm cơm trong chốn giang hồ nữa. Sau khi sắp xếp xong gia quyến của Tiêu sư huynh, tại hạ sẽ về quê cày ruộng săn bắn, nhất quyết không thò mặt ra võ lâm.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Hàn huynh đã chịu nghe những lời vàng ngọc của Lục lão tiền bối, thật không còn gì tốt hơn nữa. Ta nhất định phải kết giao với một người bạn như huynh. Tâm Nghiễn! Ngươi mời các vị ở Trấn Viễn tiêu cục ra đây.”

    Tâm Nghiễn vâng dạ ra ngoài, rồi đưa bọn Tiền Chính Luân vào. Chúng giáp mặt Hàn Văn Xung, hai bên cứ đưa mắt nhìn nhau, đều không nói được lời nào.

    Trần Gia Lạc lên tiếng:
    “Ta nể mặt Hàn huynh, để Hàn huynh dẫn mấy ông bạn này về. Nhưng từ đây về sau, ta không muốn nhìn thấy họ làm việc xấu nữa. Nếu tiếp tục làm điều không tốt, đừng trách chúng ta hạ thủ vô tình.”

    Phen này Hàn Văn Xung bị Trần Gia Lạc sử dụng cả cứng lẫn mềm, cả ân lẫn oai, vừa hiển lộ công phu vừa kết giao tình cảm. Sắc mặt hắn xanh mét như thây ma, câm miệng không nói được tiếng nào. Hắn nhớ Trần Gia Lạc chưa nhắc đến hai chữ “trả ngựa”, nhưng dĩ nhiên không dám mở miệng xin xỏ.

    Trần Gia Lạc lại nói:
    “Chúng ta đi trước một bước, còn quí vị cứ ở đây nghỉ ngơi một ngày, mai hãy khởi hành.”

    Quần hùng Hồng Hoa Hội lập tức lên ngựa ra đi, còn một bầy tiêu sư và quan sai ngơ ngác đứng đó, không hề lên tiếng.

    Được một đoạn đường, Lục Phi Thanh nói với Trần Gia Lạc:
    “Trần đương gia! Bọn nhãi tiêu cục ở lại phía sau, thế thì chẳng bao lâu đồ đệ của ta sẽ gặp phải chúng. Chúng bị bẽ mặt, không biết làm sao cho hả dạ, không chừng sẽ kiếm chuyện với đồ đệ của ta. Ta muốn đi chậm một bước, lo lắng cho nó một chút rồi sẽ theo sau.”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Lục lão tiền bối cứ tự nhiên, tốt nhất là kéo lệnh hiền đồ theo. Thế thì chúng ta lại có thêm một tay giúp sức.”

    Lục Phi Thanh mỉm cười nói:
    “Nó chỉ biết đùa giỡn gây họa, chẳng giúp được gì đâu.”
    Rồi ông chắp tay chào, lập tức quay ngựa chạy ngược lại. Trần Gia Lạc không kịp hỏi kỹ về đồ đệ của ông, trong lòng không khỏi hơi buồn.







    * * *

    Dư Ngư Đồng vâng lệnh đi điều tra tung tích Văn Thái Lai, dọc đường hỏi thăm mãi vẫn cũng chưa tìm ra chút manh mối nào, dần dần đi đến Lương Châu. Thị trấn Lương Châu đã có từ lâu, là một địa điểm quan trọng của Hà Tây, dân chúng giàu có, sản vật lại phong phú. Họ Dư nghỉ lại một khách sạn trên con đường phía nam.

    Chàng lên Tích Thúy Lâu uống rượu một mình, hết nghĩ ngợi lại nhớ nhung tiếng nói giọng cười của Lạc Băng, lòng dạ nổi sóng trùng trùng không sao yên được. Mối tương tư này rõ ràng là vô vọng, cũng là không nên không phải, nhưng kiếm chặt không đứt, sáo thổi không tan. Chàng nhìn thấy trên vách đầy những câu: “Mỗ đã đến đây một lần”, “Mỗ đã du ngoạn qua đây”, bèn nổi hứng thi ca, kêu tiểu nhị đem bút mực đến, viết một bài thơ lên vách:

    Một sáo trải giang hồ trăm trận
    Hiệp nghĩa tâm sống chết coi khinh
    Thế mà chẳng quản được mình
    Con tằm đến thác, tơ tình còn vương.

              Bên dưới ký:
    “Người hữu tình vô nghĩa, cuồng si đệ nhất cổ kim.”

    Vị tú tài này cầm sáo vượt qua trăm trận trong chốn giang hồ, vì hiệp nghĩa coi thường sống chết; nhưng mỗi khi nghĩ đến mối tình với Lạc Băng lại hận mình vô nghĩa với Văn Thái Lai.

    Nhấc chén để tiêu sầu, nhưng sầu lại càng sầu. Dư Ngư Đồng ngâm nga một chập, định gọi thanh toán tiền, thì đột nhiên nghe tiếng bước chân, có hai người đi lên. Cặp mắt sắc bén của chàng đảo qua, thấy người đi trước quen quen.

    Dư Ngư Đồng quay lại bàn, nhớ ra đó là một tên quan sai đã từng giao đấu với mình ở Thiết Đảm Trang. May mà hắn đang say sưa nói chuyện với đồng bọn nên không nhìn thấy chàng.

    Hai tên đó chọn một cái bàn gần cửa sổ, ngay cạnh bàn của chàng. Dư Ngư Đồng nằm gục trên bàn, vờ như đã say mèm.

    Chúng nói mấy chuyện lăng nhăng không quan trọng, rồi bỗng một tên nói:
    “Thoại đại ca! Phen này bắt được yếu phạm, thật là đã lập kỳ công. Không biết hoàng thượng thưởng gì cho huynh đây.”

    Tên họ Thoại nói:
    “Thưởng gì ta cũng không muốn, bây giờ chỉ mong đưa phạm nhân đến Hàng Châu được bình yên. Bọn ta tám người thị vệ cùng lúc rời kinh, bây giờ chỉ còn một mình ta trở về. Không phải ta đề cao địch để giảm oai phong mình, nhưng ngồi đây nghĩ đến trận chiến ở Túc Châu vẫn còn dựng tóc gáy lên.”

    Tên kia nói:
    “Bây giờ các vị cùng đi với Trương đại nhân, chắc đã hết rủi ro rồi.”

    Tên họ Thoại đáp:
    “Nói vậy cũng không sai, nhưng phen này tất cả công lao đều thuộc về ngự lâm quân, còn bọn ngự tiền thị vệ chúng ta mất hết thể diện. Lão Chu này, ta cũng không hiểu tại sao không giải can phạm này về Bắc Kinh, mà lại đưa đến Hàng Châu để làm gì.”

    Tên họ Chu khẽ nói:
    “Anh rể của ta làm việc trong phủ Đại học sĩ, chắc huynh cũng biết. Y đã lén nói với ta là hoàng thượng sắp đến Giang Nam. Đưa can phạm tới Hàng Châu, có thể là hoàng thượng muốn đích thân thẩm vấn.”

    Tên họ Thoại à một tiếng, hớp một ngụm rượu rồi hỏi:
    “Sáu người các vị tuân thánh chỉ đi gấp từ kinh thành đến đây, cũng vì việc này hay sao?”

    Tên họ Chu đáp:
    “Nhất định phải nhờ các vị giúp đỡ. Thế lực của Hồng Hoa Hội ở Giang Nam rất lớn, chúng ta phải cẩn thận đề phòng.”

    Dư Ngư Đồng nghe đến đây giật mình, nghĩ mình may mắn lắm mới tình cờ nghe thấy chuyện này. Chúng đem Tứ ca xuống Giang Nam, mà hết thảy anh em lại chạy lên Bắc Kinh ứng cứu, đúng là đau nam chữa bắc.

    Tên thị vệ họ Chu lại nói:
    “Thoại đại ca! Khâm phạm này rút cuộc đã phạm phải tội gì, tại sao hoàng thượng phải đích thân xét hỏi?”

    Tên họ Thoại đáp:
    “Việc này thì ta làm sao mà biết được? Chỉ biết thượng dụ nói là nếu không bắt được hắn, cả bọn trở về đều bị cách chức điều tra, thủ cấp có ở nguyên chỗ cũ hay không còn phải xem lại. Huynh tưởng là chén cơm ngự tiền thị vệ dễ nuốt lắm hay sao?”

    Tên họ Chu mỉm cười rồi nói:
    “Dù sao thì Thoại đại ca đã lập được công lớn rồi. Ta phải kính huynh ba chén.”

    Rồi hai tên tiếp tục uống rượu, chuyển qua “bình loạn” về nữ nhân, nào là đàn bà phương bắc chân nhỏ dễ thương, nào là đàn bà Giang Nam da dẻ trắng trẻo. Cơm no rượu say rồi, tên họ Thoại thanh toán xuống lầu. Nhìn thấy Dư Ngư Đồng vẫn gục trên bàn, hắn vừa cười vừa chửi:
    “Bọn có học hành đúng là chẳng được tích sự gì. Mới uống có ba chén mà con sâu này đã không bò được nữa.”

    Dư Ngư Đồng đợi chúng xuống lầu, ném ít bạc vụn lên bàn rồi bám đuôi theo gót. Chàng lẫn vào đám đông, thấy hai tên đó đi vào Lương Châu phủ, hơn nửa ngày vẫn không thấy trở ra, chắc là chúng nghỉ lại trong nha môn này, bèn quay về khách sạn nhắm mắt dưỡng thần.

    Trời vừa tối, họ Dư liền thay y phục ngắn màu đen, cài kim địch lên lưng, lén nhảy qua cửa sổ ra ngoài, đi thẳng về hướng nha phủ. Chàng vượt tường vào hậu viện, thấy tứ bề tối mịt, chỉ còn một căn phòng lớn phía đông là có ánh sáng hắt ra cửa sổ. Lẻn lại gần, nghe thấy bên trong có người nói chuyện, chàng thấm chút nước bọt lên đầu ngón tay, nhẹ nhàng khoét một lỗ nhỏ trên giấy dán cửa sổ, vừa nhìn vào bên trong đã không nén nổi phải kinh hãi một phen.

    Thì ra trong sảnh rất đông người. Trương Triệu Trọng ngồi chính giữa, hai bên toàn là thị vệ và công sai. Có một người đứng quay lưng lại chàng đang la mắng dữ dội, nghe kỹ thì đúng là thanh âm của Văn Thái Lai. Dư Ngư Đồng biết trong sảnh đều là cao thủ, không dám nhìn tiếp, bèn khom sát xuống, im lặng lắng nghe.

    Văn Thái Lai quát lên:
    “Bọn bay làm chó săn cho triều đình, chỉ là thân phận đầy tớ. Văn đại gia này lọt vào tay các ngươi, sẽ có người đến trả thù. Ta phải xem thử bọn lòng lang dạ sói chúng bay sẽ có kết cuộc ra sao.”

    Một tên trầm giọng nói:
    “Hay lắm! Ngươi cứ việc chửi mắng cho sướng miệng. Ngươi là Bôn Lôi Thủ, chưởng pháp của ta không lợi hại bằng ngươi, nhưng hôm nay ngươi cũng nên nếm thử cho biết.”

    Dư Ngư Đồng nghe thấy không ổn, nghĩ bụng:
    “Tứ ca sắp phải chịu nhục rồi. Huynh ấy là anh hùng hào kiệt đương thời, làm sao mà chịu nổi bọn nhãi này sỉ nhục.”
    Chàng lại ghé mắt vào lỗ nhỏ nhìn vào, thấy một hán tử trung niên mặc áo bào xanh, thân hình vừa cao vừa ốm, đang vung chưởng tát vào mặt Văn Thái Lai. Sắc mặt hắn rất dữ tợn, miệng cười lạnh lẽo. Văn Thái Lai bị trói chặt hai tay không nhúc nhích được, chỉ giận dữ nghiến răng ken két.

    Tên kia lại đưa chưởng lên toan đánh nữa. Dư Ngư Đồng bèn cắm kim địch vào lỗ cửa, hít hơi phun ra. Một mũi đoản tiễn từ trong kim địch bắn ra, ghim trúng ngay mắt trái của hắn.

    Tên này không phải ai xa lạ, chính là Ngôn Bá Càn, chưởng môn phái Ngôn gia quyền. Công phu của hắn khá cao, nhưng đoản tiễn bay đến quá sức bất ngờ nên không tránh kịp. Hắn trúng tên vào mắt, gào lên một tiếng rồi lăn xuống đất, trong sảnh hỗn loạn cả lên.

    Dư Ngư Đồng bắn thêm một mũi, trúng má phải một tên thị vệ, rồi phóng cước đá bật cửa sảnh, chạy thẳng vào trong hét lên:
    “Hồng Hoa Hội đến cứu người đây.”
    Chàng vung kim địch điểm trúng huyệt đạo hai tên quan sai đang đứng kế cạnh Văn Thái Lai, rồi lấy dưới chân ra một con trủy thủ, cắt đứt dây trói.

    Trương Triệu Trọng tưởng là có đông người đến cứu Văn Thái Lai, nên mặc kệ Văn Dư, rút kiếm xông ra đứng chặn cửa sảnh. Y quyết định như vậy là để bên trong cản trở phạm nhân chạy trốn, bên ngoài chặn đánh cứu binh.

    Văn Thái Lai được cởi trói, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Thấy một tên ngự tiền thị vệ phóng tới, chàng nghiêng người tránh né, xoay tay trái phóng ra một chưởng trúng ngay sườn bên phải của hắn. Những tiếng răng rắc vang lên, rõ ràng mấy dẻ xương sườn đã gãy rồi. Bọn kia bị oai khí của chàng nhiếp phục, nhất thời không dám đến gần.

    Dư Ngư Đồng la lớn:
    “Tứ ca! Chúng ta xông ra ngoài!”

    Văn Thái Lai hỏi:
    “Mọi người đến cả rồi phải không?”

    Dư Ngư Đồng khẽ đáp:
    “Chưa đến, chỉ có một mình tiểu đệ.”

    Văn Thái Lai gật đầu. Vết thương ở tay phải và trên đùi chưa lành, chàng phải tựa vào Dư Ngư Đồng, hai người đi ra cửa. Bốn năm tên thị vệ chạy tới cản trở, Dư Ngư Đồng múa kim địch đánh dạt ra.

    Hai người vừa đến cửa sảnh, Trương Triệu Trọng bước tới một bước quát lên:
    “Ở lại cho ta!”
    rồi phóng trường kiếm ra đâm vào bụng dưới Văn Thái Lai. Chân Văn Thái Lai còn đau nên xoay trở không tiện, phải lấy công làm thủ, dùng ngón trỏ và ngón giữa tay trái đâm thẳng vào cặp mắt địch thủ.

    Trương Triệu Trọng phải thu kiếm về gạt, bất giác hô lên:
    “Hay lắm!”
    Chỉ trong chớp nhoáng, hai người đã qua lại bảy tám chiêu. Văn Thái Lai chỉ dùng được tay trái, đôi chân lại tránh né không linh hoạt, cố được mấy chiêu nữa rồi bị Trương Triệu Trọng đánh một chưởng nặng trúng vai, chân đứng không vững phải ngồi phịch xuống đất.

    Dư Ngư Đồng vừa đánh vừa nghĩ:
    “Hôm trước mình làm bừa làm ẩu có lỗi với Tứ ca, sống thừa trên thế gian chỉ tổ làm bẩn danh tiếng anh hùng của Hồng Hoa Hội. Hôm nay ta phải liều cái mạng này cho bọn ưng trảo giết đi, quyết cứu Tứ ca, để Tứ tẩu biết Dư Ngư Đồng này không phải loại tiểu nhân vô nghĩa. Ta lấy mạng để báo ân, chết không uổng phí.”
    Chàng nghĩ tới đó thì thấy Văn Thái Lai té nhào xuống đất, bèn xoay người lại, múa tít kim địch liều mạng tấn công Trương Triệu Trọng.

    Văn Thái Lai định thần lại, trở mình gượng đứng lên, quát lớn một tiếng. Bọn thị vệ và quan sai đều giật mình, bất giác lui mấy bước.

    Dư Ngư Đồng hô lớn:
    “Tứ ca! Huynh đi trước đi, đệ sẽ theo sau.”
    Rồi chàng vung kim địch tấn công những chỗ yếu hại của đối phương, hoàn toàn không phòng thủ gì nữa. Võ công của chàng và Trương Triệu Trọng chênh lệch rất xa, nhưng một người liều mạng trăm người khó địch. Kim địch xuất toàn những chiêu thức tấn công, chiêu nào cũng thí mạng, quyết chết cùng địch thủ, ít ra cũng bắt địch thủ bị thương. Trương Triệu Trọng tuy kiếm pháp cao cường, nhưng nhất thời cũng bị ý chí quyết tử của chàng đẩy lùi mấy bước.

    Văn Thái Lai thấy chỗ sơ hở bèn lảo đảo chạy ra khỏi sảnh. Bọn thị vệ đều kinh hãi la hét om sòm. Dư Ngư Đồng đứng chặn ở cửa sảnh, trên mình đã trúng hai kiếm, nhưng vẫn không chịu phòng thủ, cứ nhắm mắt tiếp tục tấn công.

    Trương Triệu Trọng quát lên:
    “Ngươi không thiết cái mạng của mình nữa hay sao? Ai dạy ngươi đánh kiểu này?”
    Y thấy võ công của chàng đúng là đích truyền của phái Võ Đang, biết có liên quan gì đó nên chưa muốn hạ sát thủ.

    Dư Ngư Đồng cười thê thảm rồi nói:
    “Tốt nhất là ngươi giết ta đi.”
    Thêm mấy chiêu, vai phải chàng lại trúng một kiếm. Chàng đưa sáo sang tay trái, vẫn tiếp tục tấn công, một bước không lùi.

    Phần lớn bọn thị vệ đã chạy ra ngoài. Dư Ngư Đồng điên cuồng múa tít kim địch, gió thổi qua lỗ sáo rít lên những tiếng u u. Một tên thị vệ vung đao chém tới, họ Dư coi như không thấy, cứ đưa kim địch điểm trúng dưới nách của hắn. Tên đó lập tức ngất xỉu, nhưng cánh tay trái của Dư Ngư Đồng đã trúng đao, máu bắn ra vấy đầy người. Chàng vẫn cầm sáo tung hoành dưới bóng kiếm trùng trùng. Lại nghe một tiếng “cắc”, một tên thị vệ đã bị chàng đánh vỡ xương hàm.

    Lúc này đám thị vệ dồn lại bao vây, đao kiếm roi côn tấn công cùng lúc. Trong trận hỗn chiến đó, chân của Dư Ngư Đồng trúng một côn. Chàng té nhào xuống đất, còn cố múa máy kim địch một lúc rồi mới ngất xỉu.

    Ngoài cửa sảnh bỗng có tiếng quát:
    “Dừng tay!”
    Mọi người quay đầu lại, thấy Văn Thái Lai chậm rãi bước vào. Chàng không thèm nhìn ngó tới ai, cứ đi thẳng đến chỗ Dư Ngư Đồng, thấy thân thể huynh đệ đầy máu me, bất giác không nén nổi mà rơi lệ. Chàng cúi xuống đưa tay sờ thử lên mũi, thấy hơi thở vẫn còn nên cũng hơi yên tâm, bèn đưa tay trái đỡ họ Dư lên rồi hét lớn:
    “Cầm máu, cứu thương, nhanh lên!”
    Bọn thị vệ đều khiếp oai Văn Thái Lai, quả nhiên đã có tên đem thuốc kim sang đến.

    Văn Thái Lai thấy Dư Ngư Đồng đã được băng bó vết thương, khiêng vào nội đường, rồi mới chắp hai tay ra sau lưng, bảo:
    “Trói đi.”
    Trương Triệu Trọng đưa mắt nhìn một tên thị vệ, tên này từ từ bước tới.

    Văn Thái Lai lại quát:
    “Ngươi sợ cái gì? Nếu ta muốn đả thương ngươi thì đã ra tay từ lâu rồi.”
    Tên kia thấy hai tay của chàng thật sự không nhúc nhích, bèn đến trói chàng lại đưa vào trong ngục của nha môn, khóa kỹ. Bọn thị vệ đích thân chia phiên nhau giữ ngục.

    Sáng hôm sau Trương Triệu Trọng đi thăm Dư Ngư Đồng, thấy chàng nằm thiêm thiếp, hỏi người trong nha môn thì biết chúng đã mời đại phu khám rồi cho chàng uống thuốc. Buổi chiều y lại đi thăm, Dư Ngư Đồng đã hơi tỉnh táo.

    Trương Triệu Trọng hỏi chàng:
    “Sư phụ của ngươi họ Lục hay họ Mã?”

    Dư Ngư Đồng đáp:
    “Ân sư của ta là Thiên Lý Độc Hành Hiệp, họ Mã tên Chân.”

    Trương Triệu Trọng nói:
    “Vậy thì đúng rồi. Ta là Trương Triệu Trọng, sư thúc của ngươi.”

    Dư Ngư Đồng khẽ gật đầu. Trương Triệu Trọng hỏi:
    “Ngươi là người của Hồng Hoa Hội phải không?”

    Dư Ngư Đồng lại gật đầu. Trương Triệu Trọng thở dài rồi than:
    “Thanh niên ưu tú như thế này mà lại chui vào một chỗ hạ lưu. Văn Thái Lai là gì của ngươi, mà ngươi phải liều mạng cứu hắn?”

    Dư Ngư Đồng nhắm mắt không đáp, hồi lâu mới nói:
    “Rốt cuộc thì ta đã cứu được Tứ ca ra ngoài, chết cũng có thể nhắm mắt.”

    Trương Triệu Trọng cười gằn:
    “Hừ! Ngươi tưởng đủ sức cứu người trước mặt ta hay sao?”

    Dư Ngư Đồng kinh hãi hỏi:
    “Huynh ấy không chạy được hay sao?”

    Trương Triệu Trọng đáp:
    “Làm sao mà trốn được? Ngươi đừng có nằm mơ nữa.”
    Rồi y tiếp tục xét hỏi, nhưng Dư Ngư Đồng nhắm nghiền cặp mắt không thèm trả lời, chỉ một lúc sau lại ngủ thiếp đi.

    Trương Triệu Trọng mỉm cười, khen:
    “Đúng là người trẻ tuổi quật cường.”
    Rồi y quay người đi ra, gọi Thoại Đại Lâm, Ngôn Bá Càn, Thành Hoàng và sáu tên ngự tiền thị vệ vửa từ kinh thành đến, trong đó có cả Chu Tổ Ấm. Chúng thương nghị gì đó rất bí mật, rồi trở về phòng nghỉ ngơi. Sau giờ cơm tối, chúng lại giải Văn Thái Lai từ trong ngục ra ngoài đại sảnh, giả vờ xét hỏi.

    Hôm qua Trương Triệu Trọng đang hỏi cung thật sự, không ngờ bị Dư Ngư Đồng xông vào phá đám. Đêm nay y bèn bố trí mai phục bên ngoài, sắp xếp đầy cung nỏ xung quanh, định bắt cứu binh của Hồng Hoa Hội. Nào ngờ chúng chờ suốt một đêm, mà chuột cũng không thấy con nào.







    * * *

    Sáng hôm sau có báo cáo là nước sông Hoàng Hà đang dâng lên, phía bắc Hoàng Hà thế nước rất mạnh. Trương Triệu Trọng hạ lệnh khởi hành ngay. Y cáo biệt tri phủ Lương Châu và đám quan địa phương, cho nhốt Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng vào hai cỗ xe lớn.

    Lúc bước ra khỏi cửa, đột nhiên Hồ Quốc Đống, Tiền Chính Luân, Hàn Văn Xung chạy vào nha môn. Trương Triệu Trọng thấy thần sắc ba tên này đầy vẻ bối rối, liền gạn hỏi nguyên do. Hồ Quốc Đống bèn đem mọi chuyện ra kể lại.

    Trương Triệu Trọng nghe xong chỉ nói:
    “Võ công của Diêm lục gia rất vững, làm sao có thể chết dưới tay của một cô nương? Thật là kỳ lạ.”
    Rồi y vẫy tay chào:
    “Hẹn gặp lại trên kinh.”

    Hồ Quốc Đống tức tối nhưng không dám cãi, chỉ cố nuốt cơn giận vào bụng.

    Dù sao thì Trương Triệu Trọng nghe Hồ Quốc Đống kể quần hùng Hồng Hoa Hội bản lãnh ghê gớm, lại có số đông người Hồi tương trợ, cũng phải thầm lo. Tuy bản thân y võ nghệ cao cường mà gan dạ cũng không nhỏ, nhưng dù sao cũng không địch nổi số đông, nên y bèn thương lượng với tổng binh ở Lương Châu, yêu cầu phái thêm bốn trăm tinh binh để giúp sức giải khâm phạm về kinh. Tổng binh thấy chuyện này trọng đại không dám chối từ, lập tức điều động binh mã, lại phái phó tướng Tào Năng và tham tướng Bình Vượng theo áp giải đến tỉnh thành Cao Lang, rồi trên tỉnh lại điều nhân mã khác thay thế. Cả một đạo quân đi về hướng đông, dọc đường thuận tay cướp bóc, bắt gà bắt chó, khiến bá tánh khổ sở kêu trời. Những chuyện đó không cần kể lại làm gì.

    Đoàn quân đi được hai ngày, ghé ăn trưa tại Song Tỉnh Tử rồi đi tiếp hai ba chục dặm, bỗng thấy dọc đường cái có hai hán tử cởi trần ngồi dưới bóng cây, gốc cây có cột hai con tuấn mã. Hai tên lính Thanh nháy mắt với nhau, chạy tới trước la lên:
    “Úi chà! Hai con ngựa này hình như là của quan quân, bị ai trộm đến đây.”

    Một hán tử mặt mày thanh tú mỉm cười đáp:
    “Bọn tiểu nhân là lương dân an phận thủ thường, đâu dám trộm cắp ngựa.”

    Một tên Thanh binh nói:
    “Lão gia đi mệt quá rồi, cho mượn ngựa cưỡi một chút.”

    Hán tử đáp:
    “Được thôi! Nếu đại gia nể mặt muốn cưỡi, thì coi như hôm nay tiểu nhân được quen biết quí nhân.”

    Tên Thanh binh kia mỉm cười nói:
    “Thì ra ngươi biết điều lắm.”

    Hai hán tử cùng đứng dậy, tháo dây cương ngựa ra rồi nói:
    “Hai vị đại gia cẩn thận, đừng để té.”

    Tên kia thóa mạ luôn:
    “Con mẹ nói, chỉ nói bậy! Lão gia cưỡi ngựa mà té thì còn ra thể thống gì.”
    Hắn tà tà bước tới một cách oai vệ, đang thò tay ra đón lấy dây cương thì đột nhiên bị đá một cước vào mông. Còn tên kia thì bị tát cho một chưởng, rồi cả hai bị xách lên quăng ra giữa đường cái. Cả đại đội binh lính lập tức nhốn nháo cả lên.

    Hai hán tử tung mình lên ngựa, chạy đến chỗ cỗ xe lớn. Một hán tử trên mặt có vết sẹo lớn đưa tay trái vén màn xe lên, tay phải lia đao, roạc một tiếng đã cắt đứt tấm màn rồi hỏi:
    “Tứ ca có ở trong đó không?”

    Văn Thái Lai ngồi trong xe kinh ngạc la lên:
    “Thập Nhị Lang!”

    Hán tử mặt sẹo nói:
    “Tứ ca, chúng ta đi đây. Huynh cứ yên tâm, mọi người sắp đến rồi.”

    Thành Hoàng và Tào Năng chạy tới tấn công để giữ cỗ xe, hán tử mặt mày trắng trẻo bèn vung song câu cản trở. Lúc số đông Thanh binh ùa tới, hai người huýt một tiếng sáo rồi vọt người chạy đi. Bọn thị vệ đuổi theo một lúc, thấy địch nhân đã chạy xa nên không đuổi tiếp nữa.

    Đêm hôm đó, đại đội Thanh binh trú lại Thanh Thủy Phố. Sáng hôm sau đột nhiên có tiếng binh lính la hét ồn ào. Tào Năng và Bình Vượng ra ngoài xem thử, thấy mười mấy tên lính Thanh chết ngay tại chỗ ngủ, không biết vì sao mà chết. Binh lính nhốn nháo hẳn lên, nghi là ma quỉ hiện hình.

    Đêm tiếp theo, cả bọn nghỉ lại trấn Hoàng Thạch. Quân lính nhét đầy ba tòa khách sạn, còn phải chiếm dụng thêm nhà cửa của dân. Giữa khuya đột nhiên khách sạn bốc cháy, bốn bề có tiếng la hét om sòm. Trương Triệu Trọng ra lệnh cho bọn thị vệ chỉ lo giữ Văn Thái Lai, còn tất cả những việc khác phải hoàn toàn mặc kệ, đề phòng trúng kế điệu hổ ly sơn của địch.

    Ngọn lửa càng lúc càng bốc cao, rồi Tào Năng chạy vào bẩm báo:
    “Có thổ phỉ đến, đang đánh nhau với binh lính.”

    Trương Triệu Trọng nói:
    “Nhờ Tào tướng quân chỉ huy đốc chiến. Ta phải ở đây, không thể rời khỏi được.”
    Tào Năng vâng dạ rồi chạy ra ngoài.

    Bên ngoài khách sạn vang lên những tiếng kêu la thê thảm, tiếng chân chạy rầm rập, tiếng lửa cháy và tiếng mái nhà sập xuống, lộn xộn cả nửa đêm. Trương Triệu Trọng hạ lệnh cho Thoại Đại Lâm cùng Chu Tổ Ấm canh giữ trên mái nhà, nếu kẻ địch không tấn công vào trong khách sạn này thì không cần phải ra tay.

    May mà đám cháy không lớn lắm nên chẳng bao lâu đã dập tắt được, rồi dứt tiếng ồn ào, yên ổn trở lại. Chỉ còn nghe thấy tiếng vó ngựa rào rào, một nhóm người chạy về hướng đông.

    Tào Năng mặt đầy muội than và máu me chạy vào báo:
    “Bọn cướp đó đã bị đuổi đi hết rồi.”

    Trương Triệu Trọng hỏi:
    “Chúng ta thương vong mất bao nhiêu anh em?”

    Tào Năng đáp:
    “Chưa đếm, nhưng ít ra cũng mấy chục người.”

    Trương Triệu Trọng lại hỏi:
    “Còn cướp thì bắt được bao nhiêu, giết được bao nhiêu?”

    Tào Năng ú ớ không nói được gì. Trương Triệu Trọng hừ một tiếng, không hỏi nữa.

    Hồi lâu Tào Năng mới ấp úng:
    “Bọn cướp này đều bịt kín mặt, tên nào võ công cũng lợi hại. Thật là kỳ lạ, chúng không cướp bóc tiền bạc gì cả, chỉ lo chém giết anh em mình. Trước khi đi chúng còn quăng lại hai trăm lạng bạc cho ông chủ khách sạn này, nói rằng đã đốt nhà của y nên phải đền bù.”

    Trương Triệu Trọng hỏi:
    “Tào tướng quân tưởng chúng là cướp thật ư? Thôi, huynh đi bảo mọi người nghỉ ngơi một chút, sáng sớm mai lên đường ngay.”

    Tào Năng lui ra, lập tức đi tìm ông chủ khách sạn, trách cứ y cấu kết với thổ phỉ giết hại quan quân. Ông chủ khách sạn sợ quá, quì xuống dập đầu lia lịa, rốt cuộc hiểu ra bèn hai tay dâng lên hai trăm lạng bạc, lại còn hứa sẽ lo việc chôn người chết, chữa trị thương binh. Lúc đó Tào Năng mới chịu thôi.

    Sáng hôm sau, đại đội Thanh binh nhốn nháo loạn xạ, đến khoảng giờ Ngọ mới khởi hành được. Dọc đường phong cảnh thật đẹp, núi non xanh rì cây cỏ. Đi được khoảng hai giờ, con đường bắt đầu lên dốc, hai bên đều là núi cao.

    Không bao lâu, phía trước bỗng có một con ngựa từ trên núi chạy xuống, đến cách đại đội hơn mười bước thì dừng lại. Người ngồi trên ngựa hô lớn:
    “Này! Bọn rùa kia nghe đây! Các ngươi đã gặp phải ác quỉ rồi, mau mau quay về thì còn đường sống, nếu đi tiếp về hướng đông thì chết uổng mạng từng con rùa một.”

    Người kia mặc y phục may bằng vải bố, ngang lưng thắt một sợi dây kết bằng cỏ, da mặt vàng khè, lông mày dựng ngược, hoàn toàn giống hệt quỉ truy mạng vô thường thờ trong miếu, nên ai cũng rùng mình dựng tóc gáy. Y nói xong bèn phi ngựa xuống núi, chạy nhanh qua mặt đại đội nhân mã.

    Đột nhiên tên Thanh binh đi cuối cùng hét lên một tiếng, ngã lăn xuống đất, lập tức chết ngay. Cả đám kinh hãi chạy đến xem, thấy trên người hắn không có thương tích lại càng kinh ngạc, bàn tán xôn xao.

    Tào Năng phái hai tên lính ở lại mai táng, còn đại đội tiếp tục lên núi. Chẳng bao lâu, phía trước lại có một con ngựa chạy nhanh tới, cũng chính là người vừa gặp. Y cũng lớn tiếng hô:
    “Này! Bọn rùa kia nghe đây! Các ngươi đã gặp phải ác quỉ rồi, mau mau quay về thì còn đường sống, nếu đi tiếp về hướng đông thì chết uổng mạng từng con rùa một.”

    Ai cũng phải hoảng sợ. Rõ ràng y vừa xuống núi, bây giờ lại xuất hiện ở đây. Không có con đường nào đi vòng trở lại lên núi, mà nếu có thì cũng không thể nhanh như thế được. Chẳng lẽ y bay lên trời hay chui xuống đất?

    Người kia nói xong, lại phi ngựa chạy xuống núi. Toàn bộ binh lính đều như gặp ác quỉ, dạt hết ra xa.

    Chu Tổ Ấm xông đến, đưa đơn đao ra cản trở, hô lên:
    “Ông bạn, khoan đã!”

    Người kia làm như không nghe thấy gì, đưa tay phải vỗ nhẹ lên vai Chu Tổ Ấm, thanh đơn đao loảng xoảng rơi ngay xuống đất. Y không quay đầu lại, cứ cho ngựa chạy nhanh xuống dưới núi. Lúc y vừa qua khỏi đại đội, tên lính đi cuối cùng của đoàn Thanh binh này lại kêu lên một tiếng thê thảm, rồi ngã lăn xuống đất mà chết. Bọn lính đều kinh hoảng, đứng ngẩn ra mà nhìn.

    Trương Triệu Trọng hạ lệnh cho thị vệ canh giữ cỗ xe lớn, rồi đích thân tới nơi xem xét. Chu Tổ Ấm hỏi:
    “Trương đại nhân! Rút cuộc thì tên đó là người hay là quỉ?”
    Hắn xoa xoa bên vai bị thương, sắc mặt tái hẳn đi.

    Trương Triệu Trọng bảo hắn cởi áo ra, thấy vai phải đen cả một vùng, hơi sưng lên. Họ Trương chau mày, lấy trong bọc ra một lọ thuốc, cho hắn nuốt một viên, rồi hạ lệnh cho binh lính cởi quần áo tên Thanh binh đã chết ra xem. Vết tử thương giống hệt như của họ Chu, sau lưng có một vùng da bị bầm xanh, rõ hình bàn tay năm ngón.

    Binh lính nhốn nháo hẳn lên, kêu la:
    “Quỉ sờ vào rồi! Ma sờ vào rồi!”
    Bình Vượng sai hai tên lính ở lại mai táng người chết, nhưng hai tên này thà chết chứ không chịu ở lại một mình. Trương Triệu Trọng cũng không làm gì được, đành phải cho cả đại đội dừng lại, đợi chôn xác xong mới tiếp tục lên đường.

    Thoại Đại Lâm hỏi:
    “Trương đại nhân! Tên này thật là kỳ lạ, sao vừa rời khỏi đã quay ra phía trước được?”

    Trương Triệu Trọng cũng hoang mang không hiểu, suy nghĩ hồi lâu mới nói:
    “Chu huynh đệ! Đệ và hai tên lính kia rõ ràng bị thương vì Hắc Sa Chưởng. Trên giang hồ đâu có bao nhiêu hảo thủ về môn Hắc Sa Chưởng, sao ta lại không nhận ra được?”

    Thoại Đại Lâm nói:
    “Nói về Hắc Sa Chưởng, đương nhiên Huệ Lữ đạo nhân của phái Thanh Thành là số một giang hồ. Nhưng Huệ Lữ đã chết lâu rồi, chẳng lẽ hồn ma của ông ấy xuất hiện hay sao?”

    Trương Triệu Trọng vỗ đùi kêu lên:
    “Đúng rồi, đúng rồi! Đây là đồ đệ của Huệ Lữ đạo nhân, người ta gọi là Thường thị huynh đệ, Hắc Vô Thường Bạch Vô Thường. Ta cứ nghĩ là một người, bây giờ mới nhớ ra. Thì ra đôi huynh đệ song sinh này giả làm ma quỉ dọa người. Được, chúng ta sẽ đấu với cặp quỉ này một trận.”

    Bọn chúng đều không biết Thường thị huynh đệ là nhân vật trong Hồng Hoa Hội. Thoại Đại Lâm, Thành Hoàng đã nghe danh tiếng Tây Xuyên Song Hiệp từ lâu, bây giờ đột nhiên gặp ở vùng tây bắc này. Chúng không biết mình đắc tội với họ từ lúc nào, mà vừa gặp nhau đã hạ sát thủ, nên trong lòng đều âm thầm nghi hoặc kinh hãi. Không tên nào muốn tỏ ra yếu kém, nên đều im lặng không lên tiếng.

    Đêm đó nghỉ lại Hắc Tùng Tảo, Tào Năng phái binh lính tuần tra xung quanh, phòng thủ nghiêm mật. Sáng sớm hôm sau, hắn không thấy tên lính tuần nào trở về báo cáo, bèn cho người đi tìm. Thì ra toàn bộ binh lính tuần tra đã chết ngay tại chỗ, cổ mỗi tên quăng một xâu tiền. Thanh binh đều sợ đến vỡ gan vỡ mật, mười mấy tên đã lén bỏ trốn khỏi đại đội.

    Hôm đó phải đi qua Ô Sào Lãnh. Đó là nơi hiểm trở nhất trên con đường từ Cam Túc về Lương Châu. Tào Năng cho binh lính nghỉ ngơi ăn uống no nê, để lấy sức trèo lên đỉnh núi. Đi được nửa ngày thì càng lúc càng lạnh, đường càng lúc càng hiểm trở. Lúc này mới đầu mùa thu, thế mà trên núi đã có tuyết rơi.

    Một bên là vách núi cao, bên kia là thung lũng sâu thẳm không nhìn thấy đáy, đường trơn trợt vì tuyết. Bọn lính sắp hàng mà đi, nắm chặt tay nhau, sơ ý một chút là rơi ngay xuống thung lũng, xương cốt cũng không còn. Bọn thị vệ cũng xuống ngựa, bảo vệ cỗ xe lớn có Văn Thái Lai rất cẩn thận.

    Mọi người đang thận trọng mà đi, dồn hết tinh thần vào đoạn đường vượt núi, đột nhiên nghe thấy sau ngọn núi phía trước phát ra những tiếng u ú như tiếng ma khóc quỉ gào. Một lúc sau, tiếng hú đó lại vang lên thảm thiết, vọng qua vọng lại trong thung lũng, ai nghe cũng dựng tóc gáy lên. Binh sĩ dừng chân lại hết.

    Bây giờ tiếng hú nghe rất rõ ràng:
    “Đi tới phải gặp diêm vương… quay về có con đường sống…”
    Cứ thế lặp đi lặp lại liên hồi. Không tên lính nào dám tiến về phía trước.

    Bình Vượng dẫn mười mấy binh sĩ xuống ngựa, xung phong tiến lên. Vừa qua khỏi eo núi, bỗng trước mặt có cung tên bắn tới. Một tên lính lập tức trúng tên vào ngực, kêu lên một tiếng rồi rơi xuống vực. Bình Vượng dẫn binh sĩ xông lên, nhưng đối phương bắn phát nào cũng trúng, lại thêm mấy người trúng tên mất xác.

    Bọn lính Thanh phải nằm rạp xuống đất để tránh tên. Sau đó từ eo núi có một người bước ra, hú lên bằng giọng âm u lạnh lẽo:
    “Đi tới phải gặp diêm vương… quay về có con đường sống…”
    Bọn lính đều thấy đây chính là con quỉ vô thường ngày hôm qua, chỉ nhấc tay là giết được người. Mấy tên nhát gan nhất bỗng la lên một tiếng, quay người chạy trốn.

    Tào Năng hô hoán om sòm, nhưng không thể nào quản thúc chúng được. Bình Vượng vung đao lên chém chết ngay một tên, bọn còn lại mới không dám chạy nữa. Sáu bảy tên chạy trước, chỉ chốc lát đã mất hút chẳng thấy đâu.

    Trương Triệu Trọng bảo Thoại Đại Lâm:
    “Các ngươi canh giữ cỗ xe, để ta đi gặp anh em họ Thường.”

    Rồi y tách ra khỏi đám đông, tiến lên phía trước, nói dõng dạc:
    “Phía trước có phải là Thường thị song hiệp đấy không? Tại hạ Trương Triệu Trọng xin thi lễ. Hai bên xưa nay chưa từng quen biết, không oán không thù, tại sao các vị mấy lần trêu ghẹo chúng ta?”

    Người kia cười nhạt, lên tiếng:
    “Ha ha! Hôm nay đúng là song quỉ gặp phán quan rồi.”
    Y cất bước đến gần, vù một tiếng, tay phải phóng ra một chưởng.

    Nơi này địa thế rất hẹp, Trương Triệu Trọng không có chỗ tránh né, liền vận nội lực vào tay trái đón tiếp phát chưởng, còn tay phải thủ thế. Hai chưởng gặp nhau nghe bùng một tiếng, thì ra nội lực hai bên không phân biệt là bao. Trương Triệu Trọng dùng chân trái ra chiêu Hoành Vân Đoạn Phong quét lên phía trước. Người ấy né không kịp, bèn nhảy xổ tới, hai chưởng vỗ mạnh vào huyệt Thái Dương hai bên của Trương Triệu Trọng.

    Họ Trương nghiêng mình, chân trái lập tức co lại, bước lên hai bước. Người đó cũng nghiêng người bước lên phía trước, thế là hai bên bước chéo qua mặt nhau trên con đường chật hẹp này. Hai bên đều dùng song chưởng công kích đối phương, bốn bàn tay chạm nhau trên không, mỗi người phải lùi mấy bước. Bây giờ vị trí đã thay đổi, Trương Triệu Trọng ở phía đông, người kia ở phía tây.

    Hai người định thần một lúc, lại tiếp tục đấu chưởng. Bình Vượng đã chuẩn bị cung tên, nhắm người kia bắn ra một mũi. Người kia dùng tả chưởng chống đỡ một chưởng của Trương Triệu Trọng, tay phải chụp được mũi tên, ném ngược ra sau về phía Bình Vương. Bình Vượng cúi đầu tránh né, một tên lính Thanh thét lên một tiếng, bị tên ghim trúng vào vai.

    Trương Triệu Trọng lên tiếng tán dương:
    “Thường thị song hiệp danh bất hư truyền!”
    Miệng khen, nhưng tay hắn vẫn không chậm lại chút nào. Đột nhiên hắn nghe sau lưng mình có tiếng vù vù, một chưởng đã đánh tới.

    Trương Triệu Trọng đảo người tránh né, nhìn lại thì thấy một gã ốm yếu mặt vàng khè, diện mạo giống hệt người trước mặt. Hai con quỉ múa tít song chưởng, đánh nhanh như gió, ép phán quan vào giữa.

    Thành Hoàng, Chu Tổ Ấm cũng chạy lên, thấy ba người ác chiến trên con dường chỉ rộng vài thước, bên bờ vực sâu thăm thẳm. Họ đứng sát người nhau mà đánh, hoàn toàn không còn chỗ để xoay chuyển. Lúc này hai trăm mấy chục người bọn Thành Hoàng có cũng như không, chẳng có cách nào bước lên trợ giúp một quyền một cước, chỉ còn biết hò hét trợ oai.

    Ba người càng đánh càng khẩn trương, Trương Triệu Trọng thấy bốn bàn tay của địch thủ phát ra tiếng gió vù vù thanh thế kinh người, phải hết sức định thần chống đỡ từng chiêu một. Bỗng dưng một phát chưởng đánh lệch hướng, đập trúng vào vách núi làm đất đá rung chuyển rơi xuống. Một tảng đá lọt xuống vực sâu thăm thẳm, rất lâu tiếng vọng mới truyền lên.

    Ác chiến hồi lâu, một người bên địch nghiêng vai huých vào Trương Triệu Trọng, hắn phải đảo người tránh né. Địch thủ kia tìm được một khoảng trống, bèn đứng tựa lưng vào vách đá hét lên một tiếng, phóng hữu chưởng ra.Đồng thời người kia cũng phóng chân trái lên, hai người sử dụng cả quyền lẫn cước muốn ép họ Trương rơi xuống vực sâu.

    Trương Triệu Trọng thấy địch phóng cước đá tới, vội lùi lại nửa bước, chỉ còn nửa bàn chân đặt trên mép đường, còn nửa bàn chân đã lơ lửng ngoài bờ vực. Bọn Thanh binh đều kinh hãi kêu lên.

    Lúc này phát chưởng kia đã ép sát tới mặt. Trương Triệu Trọng không còn chỗ để lùi, cũng không dám đón đỡ, nghĩ bụng: “Chưởng lực hai bên tương tự nhau, nếu đối chưởng thì đối phương chỉ tựa lưng vào vách đá là xong, còn mình chắc chắn sẽ rơi xuống vực sâu.”
    Trong lúc gấp rút hắn nảy ra một ý, liền thi triển cầm nã thủ pháp, xoay lẹ tay trái lại, bắt được cổ tay của đối phương, rồi hét một tiếng nhấc địch thủ lên. Người kia cũng lật tay lại chụp lấy cổ tay của Trương Triệu Trọng, nhưng vì hai chân đã bị nhấc lên khỏi đất nên không thể vận kình. Trương Triệu Trọng dùng hết sức giật mạnh, thế là một người rơi xuống vực sâu. Đó là thường Hách Chí trong Thường thị song hiệp. Quan binh nhà Thanh hoan hô rầm rĩ.

    Thường Hách Chí thân thể lơ lửng giữa trời nhưng tâm trí vẫn không loạn, giữa không trung vội co hai chân lại, lộn đi một vòng cho thế rơi xuống chậm lại bớt. Mới lộn được nửa vòng, Thường Hách Chí đã lấy được phi trảo sau lưng ra, vẫy tay một cái hất phi trảo vọt thẳng lên. Lúc này phi trảo của Thường Bá Chí cũng đã vung ra, hai phi trảo quấn chặt lại như hai bàn tay nắm lấy nhau.

    Thường Bá Chí không đợi anh trai rơi hết đà, vội giật mạnh một cái. Thường Hách Chí bay thẳng lên, rơi lại trên đường núi, cách đó mười mấy trượng. Đây là một kỹ xảo mà anh em họ đã rèn luyện từ hôi nhỏ.

    Thường Bá Chí quay người lại, chắp tay nói:
    “Hỏa Thủ Phán Quan võ nghệ cao cường, thật là đáng phục!”
    Không ai thấy y khom lưng vận sức gì, thế mà thân thể bỗng bắn vọt lên không, nhảy lùi mấy trượng nắm lấy tay Thường Hách Chí, rồi hai anh em chạy đi mất hút. Sau đó Thường thị song nghiệp vẫn bám theo Trương Triệu Trọng, đến đâu cũng để lại ký hiệu, báo cáo tin tức của Văn Thái Lai cho các huynh đệ cùng biết.

    Cả đội quan quân xúm lại, người thì khen ngợi Trương Triệu Trọng võ công tuyệt diệu, người thì luyến tiếc không ném chết được Thường Hách Chí. Trương Triệu Trọng không nói tiếng nào, tựa vào vách đá từ từ ngồi xuống.

    Thoại Đại Lâm bước tới khen:
    “Võ công của Trương đại nhân tuyệt vời quá.”
    Rồi hắn hỏi nhỏ:
    “Trương đại nhân có bị thương hay không?”

    Trương Triệu Trọng không trả lời ngay, cố gắng điều khí hồi lâu mới nói:
    “Không việc gì.”
    Hắn nhìn lại cổ tay mình có năm dấu ngón tay tím bầm khảm vào da thịt, giống như bị dây buộc chặt hay bị phỏng, bất giác run sợ trong lòng.

    Thế là cả đoàn người kéo nhau qua khỏi Ô Sào Lãnh. Đêm đó lại thêm ba bốn chục tên lính bỏ trốn.

    Trương Triệu Trọng thương nghị với Thoại Đại Lâm:
    “Trước mặt đã là thành Lan Châu, nhưng nhất định bọn kia không chịu cam lòng, còn gây nhiều phiền phức. Tốt nhất là bây giờ chúng ta đi đường nhỏ đến Hồng Thành, rồi qua sông ở Xích Sáo Độ để chúng không biết đường nào mà theo nữa.”

    Tào Năng chỉ mong đi đến tỉnh thành để trút được gánh nặng này. Nghe Trương Triệu Trọng nói vậy, hắn rất muốn phản đối, nhưng không dám.

    Trương Triệu Trọng nói thêm:
    “Dọc đường đã tổn thất nhiều binh lính. Khi trở về Tào đại nhân có thể báo cáo là anh em vì trung dũng mà tuẫn nạn, ta sẽ viết giấy chứng nhận cho.”

    Tào Năng nghe vậy cả mừng. Theo lệ trong Binh Bộ, chiến sĩ trận vong đều được nhận tiền tử tuất. Số bạc này không có người nhận, đương nhiên sẽ lọt vào túi của quan thống binh.

    Cả bọn đi về hướng sông Hoàng Hà, từ xa đã nghe tiếng nước chảy ầm ầm, mất nửa ngày nữa mới đến Xích Sáo Độ. Ở khúc sông Hoàng Hà này, hai bên bờ toàn là núi đá đỏ ngầu như máu, nên mới có địa danh đó. Lúc này trời đã tối, trong âm u vẫn thấy được nước sông Hoàng Hà cuồn cuộn đổ về đông, sóng vỗ ầm ầm vào bờ, nước sông đục ngầu, sùng sục như nồi canh nấu sôi.

    Trương Triệu Trọng nói:
    “Đêm nay chúng ta phải qua sông. Tình thế rất hung hiểm, để chậm trễ chỉ sợ có chuyện không hay.”

    Thượng nguồn sông Hoàng Hà nước chảy rất mạnh, không thể đi bằng thuyền gỗ được. Muốn vượt qua bến sông này, chỉ có thể dùng loại thuyền bằng da cừu. Quân lính đã để ý tìm cả nửa ngày mà không thấy chiếc thuyền da nào, bây giờ trời tối sẫm lại càng khó kiếm. Trương Triệu Trọng đang lo lắng, đột nhiên thấy trên thượng du có hai chiếc thuyền da cừu băng xuống nhanh như tên bắn. Bọn binh lính lớn tiếng hò hét, hai chiếc thuyền từ từ đi chậm lại rồi ghé sát bờ.

    Bình Vượng hô lớn:
    “Này, thuyền phu! Ngươi đưa chúng ta qua sông, sẽ có trọng thưởng.”

    Trên thuyền có một đại hán đứng lên, vẫy tay một cái.

    Bình Vượng hỏi:
    “Ngươi bị câm hả?”

    Người kia mắng:
    “Con mẹ nó. Bọn bay muốn lên thì lên cho nhanh, không lên thì thôi, ta mặc kệ.”
    Y nói thổ âm Quảng Đông nên không ai hiểu gì cả.

    Bình Vượng cũng mặc kệ, mời Trương Triệu Trọng cùng bọn thị vệ áp tải Văn Thái Lai lên thuyền trước.

    Trương Triệu Trọng nhìn người chèo thuyền, thấy đầu y trơn tru chẳng có bao nhiêu sợi tóc, nón sụp xuống che khuất nửa mặt, không nhìn rõ diện mạo. Thân hình y chắc nịch, thế đứng rất vững vàng, chứng tỏ sức lực không yếu. Mái chèo trong tay y lại đen thui, trông như thiết trượng chứ không giống gỗ.

    Họ Trượng bất giác nghĩ bụng:
    “Mình không biết bơi, tốt nhất là cẩn thận một chút.”
    Hắn bèn nói:
    “Bình tham tướng! Huynh dẫn mấy tên lính qua đó trước đi.”

    Bình Vượng dạ một tiếng rồi lên thuyền. Chiếc thuyền kia cũng có bảy tám tên lính leo lên. Thế nước chảy rất gấp, nên hai chiếc thuyền phải chèo ngược lên phía thượng du, được mấy trượng rồi mới xoay hướng ra giữa dòng sông. Hai gã chèo thuyền này rất quen sông nước, đưa bọn quan quân yên lành đến bờ bên kia rồi quay lại đón người khác. Lần này đến lượt Tào Năng, dẫn theo nhiều binh lính hơn.

    Thuyền vừa rời khỏi bờ, đột nhiên phía sau vang lên một tiếng huýt sáo dài. Trương Triệu Trọng lập tức hạ lệnh cho binh sĩ tản ra, vây chặt quanh cỗ xe lớn, hết sức cảnh giác. Bây giờ mặt trăng mới nhô lên khỏi chân trời, cả một vùng lờ mờ dưới ánh trăng. Từ ba phía đông tây bắc, thưa thớt có mấy chục con ngựa chạy tới.

    Trương Triệu Trọng giục ngựa tiến ra, quát hỏi:
    “Làm gì thế?”

    Đối phương xếp thành hình chữ nhất, từ từ tiến đến gần. Một thanh niên rẽ đám đông bước lên, tay không cầm binh khí, chỉ phe phẩy một chiếc quạt màu trắng, dõng dạc hỏi:
    “Có phải Hỏa thủ phán quan Trương Triệu Trọng đấy không?”

    Trương Triệu Trọng đáp:
    “Chính là tại hạ. Các hạ là ai?”

    Người kia mỉm cười nói:
    “Tứ ca của chúng ta đã được các hạ hộ tống đến đây. Bây giờ không dám làm phiền nữa, xin được đón về.”

    Trương Triệu Trọng hỏi:
    “Các ngươi là người của Hồng Hoa Hội phải không?”

    Người kia lại mỉm cười:
    “Người trong giang hồ chỉ tán tụng Hỏa Thủ Phán Quan võ công cái thế, nào ngờ còn liệu sự như thần. Đúng thế, chúng ta là nhân vật Hồng Hoa Hội.”

    Nói đến đây, đột nhiên chàng huýt một tiếng sáo. Trương Triệu Trọng giật mình, rồi nghe hai gã đang chèo thuyền da cừu huýt sáo đáp trả.

    Tào Năng ngồi trên thuyền lơ lửng giữa dòng, thấy địch nhân xuất hiện trên bờ đã hoảng hốt không biết làm gì, bây giờ nghe tiếng huýt sáo của người chèo thuyền thì sợ hãi đến mức mặt cắt không ra máu.

    Người chèo thuyền đó quạt thiết trượng xuống sông, dừng thuyền lại rồi quát lên:
    “Con mẹ nó. Ta phải cho bọn chó má này xuống sông hết.”

    Tào Năng nghe không hiểu tiếng Quảng Đông, chỉ biết giương mắt lên nhìn.

    Thuyền bên kia cũng có thanh âm nữ nhân dõng dạc cất lên:
    “Thập tam đệ, ra tay đi!”

    Người chèo thuyền bên này đáp gọn:
    “Được!”

    Tào Năng liền múa thương đâm tới. Người chèo thuyền vung thiết trượng gạt ra, rồi trở trượng lại đập cho Tào Năng một phát, lọt xuống sông Hoàng Hà chìm nghỉm.

    Hai người chèo thuyền cùng huy động binh khí, đánh rớt hết quan quân xuống sông, rồi quay thuyền vào bờ. Bọn Thanh binh tới tấp bắn tên, nhưng khoảng cách còn xa, trong đêm tối không sao bắn trúng được.







    * * *

    Trương Triệu Trọng âm thầm sợ hãi, tự khen mình cẩn thận, nếu không thì bây giờ đã biến thành con ma chết trôi sông Hoàng Hà rồi. Hắn cố gắng định thần rồi hét lên:
    “Bọn ngươi dọc đường sát hại nhiều binh lính, phạm tội ác không thể dung tha, bây giờ tự đến đây nộp mạng là hay lắm. Các ngươi là gì trong Hồng Hoa Hội?”

    Người đối diện hắn chính là Trần Gia Lạc, tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội. Chàng mỉm cười đáp:
    “Các hạ không cần hỏi tên của ta làm gì. Chỉ cần nhận ra món binh khí này sẽ biết ta là ai.”

    Rồi chàng quay lại gọi:
    “Tâm Nghiễn! Lấy ra đây.”
    Tâm Nghiễn bèn mở bao, lấy hai món binh khí trao vào tay Trần Gia Lạc.

    Mỗi khi quần hùng Hồng Hoa Hội gặp phải quan quân, theo thường lệ thì Chương Tấn và Vệ Xuân Hoa đi tiên phong đánh trận đầu. Nhưng phen này cứu người là gấp, phải đánh cho nhanh. Hơn nữa võ công Trương Triệu Trọng rất cao, anh em ai cũng muốn thử, nên Trần Gia Lạc phải đích thân ứng chiến. Chủ soái đã cho ngựa lên trước, bọn Vô Trần phía sau không tiện tranh giành nhau nữa.

    Trương Triệu Trọng phi thân xuống ngựa, rút kiếm ra tay tiến lên mấy bước. Đột nhiên sau lưng y có một người bước lên nói:
    “Trương đại nhân! Để thuộc hạ đấu với hắn trước.”

    Trương Triệu Trọng nhìn lại thấy ngự tiền thị vệ Chu Tổ Ấm, nghĩ bụng:
    “Cũng nên để hắn đánh thử một trận, xem thực hư của địch thế nào.”
    Y bèn lùi lại hai bước, bảo:
    “Chu huynh đệ phải cần thận.”

    Chu Tổ Ấm xông lên quát lớn:
    “Cuồng phỉ cả gan, dám mạo phạm khâm sai.”
    Rồi hắn vung đao chém vào chân Trần Gia Lạc.

    Trần Gia Lạc nhẹ nhàng nhảy xuống ngựa, tay trái cầm thuẫn bài cản trở. Dưới ánh trăng, Chu Tổ Ấm thấy kẻ địch sử dụng binh khí rất kỳ lạ. Trên cái thuẫn bài đó có khảm chín cái móc ngược sáng loáng, nhọn hoắt. Nếu để đơn đao chạm vào thuẫn bài, chắc chắn sẽ bị những cái móc đó khóa chặt, nên họ Chu trong lòng âm thầm kinh sợ, vội vã thu đao về. Thuẫn bài của Trần Gia Lạc nửa công nửa thủ, thuận thế đẩy tới. Chu Tổ Ấm xoay đao chém vào cánh tay trái địch thủ. Thuẫn bài của Trần Gia Lạc lật nghiêng lại, đưa những cái móc nghiêng cắt tới, Chu Tổ Ấm phải lùi lại hai bước.

    Tay phải của Trần Gia Lạc vung lên, năm sợi dây đánh thẳng vào mặt địch thủ, ở đầu mỗi sợi dây có treo một quả cầu bằng thép. Chu Tổ Ấm cả kinh, biết lợi hại nên tung người định chạy, nào ngờ đã bị quất trúng sau lưng. Hắn thấy huyệt Chí Đường ở hậu tâm nhói lên một cái, thầm la: “Không xong!” rồi ngã xuống, đôi chân đã bị mấy sợi dây trói lại.

    Trần Gia Lạc giật một cái nhấc bổng hắn lên, rồi thuận thế vung tay ra. Chu Tổ Ấm bay vèo ra phía trước, rõ ràng sắp đập đầu vào một tảng đá bên đường.

    Trương Triệu Trọng vừa thấy thân pháp của địch nhảy xuống ngựa đã biết Chu Tổ Ấm không phải là đối thủ, nhưng không ngờ tên này mới hai chiêu ba thức đã bị quăng ra. Y vội nhảy tới chặn trước tảng đá, vung tay trái ra chộp được tóc của Chu Tổ Ấm, xách cổ hắn lên, vỗ vỗ lên đan điền và ngựa, giải huyệt đạo rồi nói:
    “Chu huynh đệ lùi lại, nghỉ ngơi một chút.”
    Chu Tổ Ấm đang sợ đến vỡ gan vỡ mật, ngẩn ngơ không nói được tiếng nào.

    Trương Triệu Trọng rút cây Ngưng Bích Kiếm ra, tung người nhảy đến trước mặt Trần Gia Lạc rồi nói:
    “Không ngờ ngươi còn trẻ mà công phu đã đến thế này. Sư phụ của ngươi là ai?”

    Tâm Nghiễn đứng cạnh la lên:
    “Không ngờ ngươi đã già mà công phu còn được thế này. Sư phụ của ngươi là ai?”

    Trương Triệu Trọng giận dữ quát:
    “Con nít không biết gì, đừng ăn nói bừa bãi.”

    Tâm Nghiễn nói:
    “Thì ra ngươi không biết binh khí của công tử nhà ta. Ngươi cúi đầu lạy ta ba cái, ta sẽ dạy cho ngươi biết.”

    Trương Triệu Trọng không lý gì đến cậu bé nữa, vung kiếm đâm véo một tiếng vào bên phải Trần Gia Lạc. Mấy sợi dây trong tay Trần Gia Lạc vung ngược lên quấn lấy lưỡi kiếm, thuẫn bài bên tay trái đưa ra đẩy vào mặt hắn. Trương Triệu Trọng dùng Ngưng Bích Kiếm thi triển Nhu Vân kiếm thuật. Kiếm chiêu của hắn rất mềm mại, lấy ngắn chống dài, có công có thủ, kịch đấu với hai món binh khí kỳ lạ của đối phương.

    Lúc này hai người chèo thuyền đã lên bờ, tiến sát tới bọn lính nhà Thanh. Bọn lính Thanh bắn tới rất nhiều, nhưng đều bị hai người gạt ra hết. Người đi trước chính là Đồng đầu ngạc ngư Tưởng Tứ Cân. Người đi sau đã cởi nón bỏ áo tơi, để lộ bộ y phục trắng, tay cầm Uyên Ương song đao, chính là Lạc Băng.

    Tưởng Tứ Cân múa cây thiết trượng xung phong vào giữa đám quan binh, Lạc Băng tiến sát theo sau, chạy thẳng đến cỗ xe lớn. Hai tên đứng đầu đã bị thiết trượng đánh văng óc ra ngoài, bọn còn lại đều dạt ra nhường lối. Thành Hoàng vội xách cây tề mi côn chạy tới ngăn trở, đánh nhau với Tưởng Tứ Cân.

    Lạc Băng chạy tới bên chiếc xe lớn, vén màn xe kêu lên:
    “Đại ca, huynh ở đây phải không?”

    Nào ngờ trong chiếc xe này là Dư Ngư Đồng đang bị trọng thương. Chàng mơ hồ nghe thấy âm thanh của Lạc Băng như từ xa vẳng tới, cho rằng mình đã chết rồi nên mới được gặp nàng ở âm phủ, bèn mừng rỡ hỏi: “Tỉ cũng đến đây rồi ư?”

    Lạc Băng nghe thanh âm không phải của chồng, nhưng cũng hơi quen thuộc. Nhưng nàng đang vội nên không kịp suy nghĩ kỹ, lại chạy tới cỗ xe lớn tiếp theo. Nàng đang đưa tay định vén màn xe lên, bỗng một lưỡi đao răng cưa từ bên tay phải bất ngờ chém tới. Lạc Băng vội dùng đoản đao bên tay phải cản lại, còn trường đao bên tay trái liên tiếp xuất hai chiêu chém vào vai phải và chân phải của đối phương.

    Đao pháp của nàng tương truyền được truyền lại từ Hàn Thế Trung đời nhà Tống. Mỗi khi Hàn tướng quân ra trận đại chiến với Kim binh, tay phải cầm trường đao, tay trái cầm đoản đao, quân Kim chết dưới tay ông nhiều không sao đếm xuể. Nhưng tay trái của Lạc Băng linh hoạt hơn tay phải, nên phụ thân nàng là Thần đao Lạc Nguyên Thông hoán đổi hai thanh đao để dạy cho nàng.

    Trường đao bên phải của nàng vừa nặng nề vừa ác hiểm, sử những chiêu thức của đơn đao bình thường. Còn đao bên tay trái lại biến hóa vô cùng khiến người ta khó mà lường biết được, đáng gọi là tuyệt kỹ của võ lâm Giang Nam.

    Dưới ánh trăng Lạc Băng đã nhìn rõ diện mạo của kẻ địch, chính là một trong tám tên thị vệ đã vây bắt chồng mình ở Túc Châu. Trong lòng nàng giận dữ vô cùng, thế đao càng gấp rút. Thoại Đại Lâm cũng đã từng mục kích tuyệt kỹ phi đao của nàng, vội vã múa tít cây đao răng cưa chiêu sau nhanh hơn chiêu trước, quyết không để nàng rảnh tay phóng phi đao. Giao đấu một lúc thì có hai tên thị vệ đến trợ chiến, rồi quan binh tứ phía đều ùa tới bao vây Tưởng Tứ Cân và Lạc Băng vào giữa.

    Một tiếng huýt sáo vang lên, bốn con ngựa từ phía đông bắc phi thẳng tới. Người chạy đầu chính là Cửu mạng cẩm báo tử Vệ Xuân Hoa, theo sau là Chương Tấn, Dương Thành Hiệp và Chu Ỷ.

    Vệ Xuân Hoa múa song câu bảo vệ trước mặt, ruổi ngựa chạy đến rất gấp. Dưới ánh trăng mờ, con huyền mã như một luồng khói đen phi thẳng vào giữa trận quân Thanh, bất chấp cơn mưa tên bắn tới. Nó trúng tên vào cổ, đau quá điên cuồng phóng tới, chân trước đã xéo lên ngựa một tên lính. Vệ Xuân Hoa bèn tung người xuống ngựa, song câu tới đâu thì ở đó có tiếng kêu la thảm thiết vang lên, trước ngực hai tên thị vệ đã thấm ướt máu tươi.

    Song câu của Vệ Xuân Hoa đâm đến sau lưng Thoại Đại Lâm, hắn đành bỏ Lạc Băng để quay lại đón đỡ. Tiếp theo Chương Tấn cũng chạy tới nơi. Bọn quan binh không sao chống đỡ nổi, bị ba người đánh chạy tứ tán.

    Trong lúc hỗn chiến bỗng thấy một cây tân thiết côn bay lên trời. Thì ra Tưởng Tứ Cân đánh nhau với Thành Hoàng một hồi bất phân thắng bại, trong lòng đã bực bội. Y thấy Thành Hoàng đánh một côn xuống đầu mình, bèn dùng toàn lực vung thiết trượng quạt ngược lên. Côn trượng chạm nhau, cổ tay của Thành Hoàng rung động muốn gãy. Côn thì rời khỏi tay, người thì quay lưng chạy trốn.

    Tên thị vệ đang giao đấu với Lạc Băng đã bị đoản đao đâm trúng hai nhát, nhưng chưa chịu chạy mà còn ác chiến. Đột nhiên hắn nghe thấy sau gáy có tiếng gió vội quay đầu lại, thấy một cây cương tiên đánh từ trên đầu xuống, liền đưa đao cản trở. Không ngờ lực đạo của đối phương quá trầm trọng làm đao dội lại, cả đao và tiên đánh xuống mặt mình. Hắn vội lộn ra ngoài thoát được, nhưng sau lưng đã bị đá cho một cước rất nặng.

    Lạc Băng rảnh tay thoát ra khỏi vòng chiến, vội chạy đến chiếc xe lớn thứ hai, mở màn xe lên. Nàng đã thất vọng mấy lần, lần này không dám lên tiếng nữa. Nhưng người ngồi trong xe lại kêu lên: “Ai vậy?”, thanh âm ấm áp ngọt ngào không thể nào diễn tả được. Câu này vừa lọt vào tai Lạc Băng, nàng đã lập tức chui vào trong chiếc xe, ôm lấy cổ của Văn Thái Lai khóc nức nở, không nói nên lời.

    Văn Thái Lai đột nhiên thấy mặt vợ yêu, vô cùng mừng rỡ, chỉ hiềm hai tay bị trói nên không cách nào ôm lấy nàng vỗ về an ủi. Hai người ở trong xe quên mất thời gian, chỉ mong đất trời cứ thế không bao giờ thay đổi. Tiếng hò hét chém giết, tiếng va chạm binh khí bên ngoài hoàn toàn không khiến họ bận tâm.

    Qua một hồi cỗ xe bỗng nhúc nhích, Chương Tấn thò đầu vào trong gọi:
    “Tứ ca! Bọn đệ đón huynh về.”

    Văn Thái Lai kêu lên:
    “Mau đi cứu Thập tứ đệ.”
    Chương Tấn như không để ý, cứ leo lên ghế đánh xe, nhanh chóng cho xe chạy về hướng bắc. Mấy tên thị vệ liều chết xông tới nhưng bị bốn người Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Tưởng Tứ Cân, Chu Ỷ ngăn cản đành phải lùi về, hô hào phóng tiễn. Mấy chục tên lính Thanh dương cung tên, trong đêm tối Dương Thành Hiệp bỗng kêu lên một tiếng, vai trái đã trúng tên.

    Vệ Xuân Hoa giật mình hỏi:
    “Bát ca làm sao rồi?”

    Dương Thành Hiệp dùng răng cắn chặt đuôi tên, tay trái hất mạnh một cái đã nhổ được tên ra, giận dữ thét:
    “Giết hết bọn nô tài này đi.”
    Y mặc kệ vết thương đang chảy máu, vung cương tiên lên cao xông thẳng vào trận lính Thanh.

    Vệ Xuân Hoa cũng hô lên:
    “Hay lắm! Giết nữa đi!”
    Hai người sát cánh tiến lên, chỉ chốc lát đã có bảy tám tên lính Thanh bị cương tiên và song câu đả thương, số còn lại chạy tứ tán. Hai người giết từ đông qua tây, Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Cương cũng đến nơi tiếp ứng. Một loạt đạn Mạnh Kiện Hùng bắn ra là mười mấy tên lính Thanh sưng mắt sưng mũi, kêu khổ vang trời.

    Tưởng Tứ Cân cùng Chu Ỷ lo bảo vệ cỗ xe lớn. Chương Tấn dong xe đến bên một quả đồi nhỏ thì dừng lại, chăm chú xem Trần Gia Lạc đấu với Trương Triệu Trọng.

    Văn Thái Lai hỏi:
    “Bên ngoài đánh nhau thế nào rồi?”

    Lạc Băng đáp:
    “Tổng đà chủ đang tỉ đấu với Trương Triệu Trọng.”

    Văn Thái Lai hết sức kinh ngạc hỏi:
    “Tổng đà chủ nào?”

    Lạc Băng đáp:
    “Thiếu đà chủ của chúng ta đã nhận chức tổng đà chủ rồi.”

    Văn Thái Lai mừng rỡ nói:
    “Vậy thì hay lắm. Gã Trương Triệu Trọng này võ công rất cao cường, đừng để tổng đà chủ thiệt thòi.”
    Lạc Băng thò đầu ra ngoài xe, dưới ánh trăng chỉ thấy hai người xoay qua chuyển lại, ác chiến chưa phân cao thấp.

    Văn Thái Lai hỏi liên tục:
    “Tổng đà chủ có đối phó được không?”

    Lạc Băng nói:
    “Binh khí của tổng đà chủ rất lợi hại. Tay trái cầm thuẫn bài, trên thuẫn có những móc nhọn hướng ngược. Còn tay phải cầm năm sợi dây, đầu dây còn có năm quả cầu thép. Huynh nghe đi, có tiếng dây rít vù vù đó.”

    Văn Thái Lai hỏi:
    “Trên đầu dây có cương cầu, thế thì tổng đà chủ có thể dùng dây đả huyệt hay sao?”

    Lạc Băng đáp:
    “Đúng thế. Trương Triệu Trọng đang bị năm sợi dây bao vây bốn phía.”

    Văn Thái Lai lại hỏi:
    “Tổng đà chủ còn sung sức hay không? Nghe âm thanh thì hình như mấy sợi dây đó chậm lại rồi.”

    Lạc Băng không đáp ngay, đột nhiên nhảy chồm lên kêu lớn:
    “Hay lắm! Trường kiếm của Trương Triệu Trọng đã bị thuẫn bài khóa chặt rồi. Úi chà! Hắn không sao thoát khỏi sợi dây này được nữa rồi. Trời ơi! Hỏng bét! Hỏng bét!”

    Văn Thái Lai vội hỏi:
    “Cái gì hỏng bét?”

    Lạc Băng nói:
    “Thì ra hắn dùng một thanh bảo kiếm, chém đứt hai cái móc trên thuẫn bài rồi. Không xong! Sợi dây cũng bị bảo kiếm cắt đứt rồi! Tổng đà chủ tay không đánh với Trương Triệu Trọng thì không được, hắn quả thật hung hãn. Hay lắm! Vô Trần đạo trưởng tiến lên rồi, tổng đà chủ đã lùi ra.”

    Văn Thái Lai đã biết kiếm pháp của Vô Trần đạo trưởng lợi hại vô cùng, độc nhất vô nhị, bây giờ mới yên tâm hơn nhưng lòng bàn tay đã đẫm mồ hôi lạnh. Nghe thấy mọi người hô vang lên, Văn Thái Lai lại hỏi:
    “Sao rồi?”

    Lạc Băng nói:
    “Đạo trưởng thi triển Truy Hồn Đoạt Mạng Kiếm cực kỳ mau lẹ, Trương Triệu Trọng phải liên tiếp lùi bước.”

    Văn Thái Lai hỏi:
    “Muội xem có phải chân hắn đang chạy theo phương vị bát quái hay không?”

    Lạc Băng đáp:
    “Hắn từ cung Ly đạp vào cung Càn, bây giờ lại đi vào cung Khảm, đạp qua cung Chấn. Không sai! Ca ca, làm sao mà ca ca biết được?”

    Văn Thái Lai nói:
    “Người này võ công hết sức cao cường, ta đoán hắn không phải bị bức phải rút lui đâu. Nghe nói trong Nhu Vân Kiếm Pháp của phái Võ Đang có một đường kiếm chuyên về thế thủ, làm tiêu giảm sức tấn công lợi hại của địch trước rồi mới phản kích sau. Khi thi triển lộ kiếm pháp này thì chân phải đi đúng hình bát quái. Đáng tiếc, đáng tiếc!”

    Lạc Băng hỏi:
    “Đáng tiếc chuyện gì?”

    Văn Thái Lai đáp:
    “Tiếc là ta không được thấy. Người rất giỏi võ công mới hiểu lộ kiếm pháp này, mà họ phải gặp cường địch thật sự mới đem ra sử dụng. Vì thế mà đường kiếm đó ít ai được thấy hai lần.”

    Lạc Băng tìm lời an ủi:
    “Lần sau muội sẽ xin Lục lão tiền bối tỉ kiếm với đạo trưởng một trận, để huynh xem một cách rõ ràng.”

    Văn Thái Lai cười ha hả:
    “Họ đâu có trẻ con như muội.”

    Lạc Băng đưa hai tay quàng qua cổ Văn Thái Lai, đột nhiên kêu lên:
    “Đạo trưởng đã sử dụng chân rồi. Liên Hoàn Mê Tung Thối của đạo trưởng cực kỳ xảo diệu.”

    Văn Thái Lai nói:
    “Đạo trưởng đã mất cánh tay trái, nên công phu ở chân phải luyện đến mức xuất thần nhập hóa để bổ sung cho khiếm khuyết trên tay. Năm xưa ông ấy chỉ sử dụng đôi chân cũng đủ thu phục Thanh Tỳ Bang.”

    Thời trẻ Vô Trần đạo trưởng lăn lộn trong chốn lục lâm, cướp giàu giúp nghèo gây ra vô số vụ án lớn. Võ công của ông cao cường, huynh đệ dưới tay lại rất đông, quan phủ không làm gì được. Có lần ông gặp một tiểu thư con nhà quan, rồi đem lòng luyến ái. Tiểu thư không thực lòng với Vô Trần, lại bị cha xúi giục, nên một đêm Vô Trần lén lút tới gặp, cô ả đã nói:
    “Huynh đối với muội chỉ là đùa cợt mà thôi, chẳng thành tâm chút xíu nào.”
    Vô Trần lập tức nặng lời thề thốt. Cô ả nói:
    “Nam nhân các người ai cũng nói miệng là giỏi. Lâu lắm huynh mới đến thăm muội một lần, muội thấy huynh không đủ thành ý. Nếu huynh thật sự yêu muội thì hãy chặt đứt một cánh tay cho muội xem. Có cánh tay của huynh lúc nào cũng kề cận bên mình, thì muội sẽ không cảm thấy cô đơn nữa.”
    Vô Trần không nói tiếng nào, rút kiếm chặt đứt cánh tay trái của mình. Không ngờ trên lầu của tiểu thư đã có rất nhiều quan binh mai phục, lập tức ùa tới. Vô Trần đau quá ngất xỉu dưới đất, không sao chống đỡ được nữa.

    May mà anh em dưới tay của Vô Trần phá vỡ được thành trì cứu ông ra, rồi lại bắt hết gia đình tiểu thư này để ông xử lý. Mọi người cứ tưởng Vô Trần sẽ giết sạch bọn chúng, chỉ để lại tiểu thư làm vợ. Nào ngờ khi nhìn thấy người đẹp ông lại mềm lòng, bảo mọi người thả cả cô ả lẫn người nhà, còn chính mình thì bỏ đi ngay trong đêm đó, xuất gia làm đạo sĩ.

    Tuy đã xuất gia mà bản tính ông vẫn không thay đổi, phóng khoáng hành hiệp giang hồ, rồi được lão đương gia Vu Vạn Đình của Hồng Hoa Hội mời về làm phó thủ. Có lần Hồng Hoa Hội cùng Thanh Tỳ Bang tranh chấp một việc, về lý thì hai bên không ai nhường ai, chỉ còn cách dựa vào vũ lực mà quyết định. Có người trong Thanh Tỳ Bang chê cười Vô Trần chỉ có một cánh tay, ông bèn giận dữ nói:
    “Cho dù ta không có tay đi nữa, thì chín mười người như ngươi ta cũng không coi vào đâu.”

    Vô Trần liền lấy dây tự trói cánh tay phải còn lại ra sau lưng, thi triển Liên Hoàn Mê Tung Thối đá té nhào mấy đương gia của Thanh Tỳ Bang. Mọi người trong Thanh Tỳ Bang đều tâm phục khẩu phục, tham gia vào Hồng Hoa Hội. Thiết tháp Dương Thành Hiệp vốn là bang chủ Thanh Tỳ Bang, vào Hồng Hoa Hội được ngồi ghế thứ tám.

    Lạc Băng nói:
    “Thế thì hay quá! Huynh xem kìa, bộ pháp của Trương Triệu Trọng bị đạo trưởng đá cho loạn xạ rồi, không đạp chuẩn phương vị bát quái nữa.”

    Văn Thái Lai mừng rỡ nói:
    “Từ khi đạo trưởng thành danh tới nay chưa từng gặp địch thủ. Lần này phải để Trương Triệu Trọng biết mùi lợi hại của Hồng Hoa Hội.”

    Chàng chưa nói dứt câu, đột nhiên Lạc Băng khẽ kêu một tiếng, Văn Thái Lai vội hỏi:
    “Lại có chuyện gì thế?”

    Lạc Băng đáp:
    “Đạo trưởng đang vội né tránh. Không biết Trương Triệu Trọng đã phóng ra ám khí gì, hình như rất nhỏ, trong bóng tối nhìn không rõ.”

    Văn Thái Lai định thần lắng tai, chỉ nghe những tiếng vi vu nhỏ xíu bèn trả lời:
    “Đây là Phù Dung Kim Châm, ám khí lợi hại nhất của phái Võ Đang.”
    Lúc này cỗ xe lớn đã lùi thêm mấy bước.

    Lạc Băng nói:
    “Đạo trưởng múa kiếm đến mức gió mưa cũng khó lọt vào, bảo vệ toàn thân nên kim châm bị đánh bay tứ tán, mọi người đều phải lùi ra sau tránh né. Hình như kim châm đã hết phóng rồi, hai người lại đánh với nhau. Đạo trượng vẫn ở thế thượng phong, nhưng Trương Triệu Trọng phòng thủ nghiêm mật nên đánh mãi không thắng.”

    Văn Thái Lai bảo:
    “Mau cởi trói cho ta.”

    Lạc Băng mỉm cười nói:
    “Đại ca xem đó, muội mừng quá thành hồ đồ mất rồi.”
    Nàng liền lấy dao cắt đứt dây trói, rồi nhẹ nhàng xoa xoa cổ tay của chàng cho máu lưu thông.

    Đột nhiên ở phía ngoài vang lên những tiếng tinh tang, tiếp theo là những tiếng hét dữ dội. Lạc Băng thò đầu ra ngoài, cũng kêu lên:
    “Hỏng rồi! Thanh kiếm của đạo trưởng đã bị đối phương chặt đứt. Kiếm của tên họ Trương tốt quá. Đại ca, muội đã cướp được một con ngựa rất tốt, sau này sẽ tặng cho huynh cưỡi.”
    Tình hình rối ren thế này mà nàng cũng đột nhiên nghĩ đến con ngựa trắng đó.

    Văn Thái Lai cười:
    “A đầu ngốc này, gấp gì chuyện đó. Mau mau xem đạo trưởng thế nào rồi.”

    Lạc Băng đáp:
    “Bây giờ thì yên rồi. Đạo trưởng đá trúng hắn một cước rồi lùi ra. Triệu tam ca xông vào.”

    Văn Thái Lai nghe Vô Trần đạo trưởng thóa mạ ầm ĩ, dùng toàn những lời thô tục thì cười nói:
    “Đạo trưởng là người xuất gia, không ngờ đến lúc tức giận vẫn lớn tiếng như thế. Muội thử dìu ta ra ngoài, để ta xem Tam ca thi triển ám khí.”

    Lạc Băng đưa tay đỡ chồng dậy, nào ngờ vết thương trên đùi và trên vai của chàng rất nặng, vừa động đậy một chút đã đau dữ dội, không nhịn nổi phải rên lên một tiếng. Lạc Băng bảo:
    “Ca ca cứ nằm yên ở đây, để muội nói cho ca ca nghe.”

    Nghe những tiếng rú rít liên hồi, Văn Thái Lai bèn nói:
    “Đây là tụ tiễn, phi hoàng thạch… Ám khí gì cũng sử dụng hết rồi. Cái gì? Trương Triệu Trọng cũng dùng tụ tiễn và phi hoàng thạch ư? Vậy thì lạ quá!”

    Lạc Băng nói:
    “Hắn dùng tay đón bắt ám khí của Triệu đại ca, rồi phóng trả lại. Úi chà, hay quá! Giống như trời mưa vậy, không hổ danh Thiên Tí Như Lai. Cương tiêu, thiết liên tử, kim tiền tiêu… muội nhìn không rõ nữa, nhiều quá. Gã họ Trương kia đón bắt không kịp, nhưng tiếc là hắn vẫn tránh được.”

    Đột nhiên nghe vèo một tiếng, một mũi xà dương tiễn sáng loáng khác thường bắn về phía Trương Triệu Trọng, ánh sáng chiếu cả vào thùng cỗ xe lớn. Văn Thái Lai thoáng thấy khuôn mặt ửng hồng của vợ, sung sướng không sao tả xiết. Chàng động lòng khẽ gọi:
    “Muội muội!”
    Lạc Băng quay đầu lại mỉm cười, nụ cười chưa dứt ánh sáng đã vụt tắt.

    Triệu Bán Sơn thừa lúc ánh sáng soi rõ Trương Triệu Trọng mà phóng liền hai loại độc môn ám khí, Hồi Long Bích và Phi Yến Ngân Thoa.

    Triệu Bán Sơn là người Ôn Châu tỉnh Triết Giang. Thời thiếu niên, ông đã từng theo cha chú đi buôn bán vùng Nam Dương, thấy dân ở đó sử dụng một loại khí giới cực kỳ xảo diệu để săn bắn, sau khi ném ra có thể bay ngược trở về. Sau này ông vào học nghệ ở Thái Cực Môn nhà họ Vương ở Ôn Châu, đặc biệt xuất sắc về môn ám khí. Một hôm ông nhớ lại hồi nhỏ được thấy món vũ khí phóng ra có thể bay về, tự nghĩ có thể biến nó thành một loại ám khí kỳ diệu. Qua rất nhiều lần thí nghiệm và luyện tập, ông chế được một loại phi tiêu bằng thép tinh luyện, cong cong như thước thợ, đặt tên là Hồi Long Bích.

    Phi Yến Ngân Thoa cũng là một loại độc môn ám khí do họ Triệu sáng chế. Cao thủ nào cũng phải nghiên cứu tỉ mỉ về phương pháp phóng ám khí và tránh ám khí, những loại ám khí bình thường khó mà đả thương họ được. Nhưng Phi Yến Ngân Thoa lại có chỗ xảo diệu bên trong.

    Trương Triệu Trọng đưa kiếm sang tay trái để gạt các loại ám khí nhỏ như thiết liên tử, bồ đề tử, kim tiền tiêu, còn tay phải lia lịa đón bắt những loại ám khí lớn hơn như cương tiêu, tụ tiễn, phi hoàng thạch để ném trả lại. Dĩ nhiên hắn còn cúi xuống nhảy lên, né trái tránh phải, thứ nào bay đến không tránh kịp mới đón lấy. Trong lòng hắn cũng âm thầm kinh hãi:
    “Không biết người này có bao nhiêu loại ám khí, phóng mãi không hết. Thật là lợi hại!”

    Trong lúc tay chân họ Trương luống cuống, đột nhiên có một mũi tiêu trắng xóa cong cong bay tới, tiếng rít gió rất lạ tay. Hắn sợ trên mũi ám khí này có độc nên không dám chụp ngay, đưa tay nhằm bắt lấy đuôi của nó. Không ngờ Hồi Long Bích giống như một con vật sống, lượn ra khỏi tay hắn rồi bay ngược trở về. Triệu Bán Sơn đón lấy, lại phóng qua tiếp. Trương Triệu Trọng đang hoảng hồn không dám đón bắt nữa, dùng Ngưng Bích Kiếm gạt đi.

    Đột nhiên hắn lại nghe thấy tiếng gió, hai mũi ngân thoa chia hai bên tả hữu đánh tới. Trương Triệu Trọng nhìn chuẩn đường đến, tung người nhảy lên một trượng cho hai chiếc ngân thoa bay qua dưới chân. Không ngờ lại nghe hai tiếng keng keng, phần đuôi ngân thoa rơi xuống đất, lò xo bên trong bật ra làm mũi thoa khởi động lại. Ngân thoa đột nhiên chuyển hướng giữa không trung, bắn thẳng lên.

    Trương Triệu Trọng thầm kêu: “Không xong!” rồi vội đưa tay chắn dưới bụng, đón được một chiếc ngân thoa. Hắn vận nội lực cho lòng bàn tay hơi co lai, thế ngân thoa đã yếu nên không làm tổn thương da thịt. Còn mũi ngân thoa kia thì không tài nào tránh được, cuối cùng cũng đâm thủng chân hắn. Trương Triệu Trọng khẽ la lên một tiếng.

    Triệu Bán Sơn thấy đối thủ đã bị thương, lập tức vung kiếm tấn công. Trương Triệu Trọng đưa kiếm cản trở. Triệu Bán Sơn biết cây Ngưng Bích Kiếm của y là lợi khí, không để hai lưỡi kiếm chạm nhau mà xoay nghiêng kiếm của mình đi, ép vào thân của Ngưng Bích Kiếm, vận dụng quyết chữ Miên trong Thái Cực Kiếm kéo thanh Ngưng Bích Kiếm lệch đi mấy tấc.

    Trương Triệu Trọng lại giật mình:
    “Người này ám khí đã lợi hại mà kiếm pháp cũng điêu luyện không kém.”
    Trong lòng hắn đã có phần sợ sệt.

    Hắn định trông vào võ nghệ cao cường của mình để đánh bại hết đối thủ, nào ngờ liên tiếp gặp phải kình địch. Nếu không nhờ báu kiếm trong tay, thì chỉ riêng đạo nhân cụt tay hắn cũng không sao địch nổi. Lúc này chân hắn đã bị thương không dám ham chiến, đảo mắt nhìn quanh chỉ thấy đám thị vệ và quan binh chạy tứ tán, cỗ xe lớn nhốt Văn Thái Lai cũng bị đoạt mất rồi.

    Hắn vội vã xuất luôn ba chiêu liên hoàn ép Triệu Bán Sơn lùi mấy bước, rồi nhổ ngân thoa cắm dưới chân phóng trả ông. Triệu Bán Sơn cúi đầu né tránh, họ Trương tranh thủ vọt thẳng đến chỗ chiếc xe lớn.

    Lạc Băng thấy Trương Triệu Trọng bị ám khí của Triệu Bán Sơn đánh cho luống cuống tay chân, mừng rỡ đến mức nhảy múa trong xe. Văn Thái Lai hỏi:
    “Thập tứ đệ đâu? Y bị thương có nặng lắm không? Mọi người mau mau đi cứu Thập tứ đệ!”

    Lạc Băng hỏi lại:
    “Thập tứ đệ bị thương rồi ư?”
    Nàng hỏi chưa xong, Trương Triệu Trọng đã chạy đến nơi. Lạc Băng quát một tiếng, đưa song đao ra cản trở trước xe. Quần hùng thấy Trương Triệu Trọng đến gần, liền kéo đến vây chặt.

    Chu Trọng Anh chạy ra cản giữa đường, vung cây kim bối đại đao hét lên:
    “Tên tặc tử này dám đến Thiết Đảm Trang bắt người, chẳng nể mặt lão phu chút nào. Món nợ này hôm nay phải tính toán cho xong.”

    Trương Triệu Trọng thấy ông đầu tóc bạc phơ, khí độ hào sảng, qua khẩu khí biết đó là Thiết đảm Chu Trọng Anh, nhân vật lãnh tụ của võ lâm tây bắc. Hắn không dám chậm trễ, phóng kiếm đâm tới ngay. Chu Trọng Anh xoay ngược đại đao đỡ lấy nhát kiếm. Trương Triệu Trọng chỉ nhẹ nhàng chém xuống, thế mà sống đao đã mẻ một đường sâu đến hơn một tấc.

    Lúc này Chu Ỷ, Chương Tấn, Từ Thiên Hoằng và Thường thị song hiệp đều cầm vũ khí bao vây bốn mặt. Trương Triệu Trọng thấy đối phương đông người, bèn vung Ngưng Bích Kiếm ra chiêu Vân Hoành Tần Lĩnh, vạch một đường tròn trên không trung. Mọi người kiêng nể thanh báu kiếm của y, đều rút binh khí lại.

    Trương Triệu Trọng quyết định tấn công vào chỗ yếu, bèn nhắm thẳng Chu Ỷ xông tới. Chu Ỷ vung đao chém từ trên đầu xuống, tay trái của Trương Triệu Trọng vừa đưa ra đã nắm được cổ tay nàng, xoay một cái đoạt được thanh nhạn linh đao của Chu Ỷ.

    Chu Trọng Anh kinh hãi, bắn ngay hai viên thiết đảm tới sau lưng Trương Triệu Trọng. Ngay lúc này ba con cờ vây của Trần Gia Lạc cũng bay vèo tới, đánh vào ba huyệt Thần Phong, Quan Nguyên, Khúc Trì của Trương Triệu Trọng.

    Trương Triệu Trọng nghĩ thầm:
    “Không ngờ trời tối như mực mà đối phương vẫn nhận huyệt chính xác như thế.”
    Hắn vẫy kiếm gạt bay cả ba quân cờ, rồi lại nghe tiếng gió gấp rút, thiết đảm đã đến gần.

    Trương Triệu Trọng nghe tiếng biết được phương hướng, xoay người toan chụp lấy viên thiết đảm tới trước. Nào ngờ bụp một tiếng, ngực hắn đã bị viên thiết đảm kia bắn trúng. Tuy hắn biết Chu Trọng Anh thành danh nhờ thiết đảm, nhưng chưa rõ lắm về độc môn công phu này. Hai viên thiết đảm bắn ra, viên trước thế đi chậm rãi còn viên sau lại bay tới gấp rút. Nhìn thì thấy một viên trước một viên sau, không ngờ viên bắn sau lại đến trước. Địch đang lo tránh né viên thiết đảm đi trước, thì viên đi sau đột ngột tăng tốc bay tới, không sao trở tay kịp.

    Trương Triệu Trọng bất ngờ thấy trước ngực đau nhói, thân hình lắc lư một cái, không dám thở mạnh. Hắn buông cổ tay Chu Ỷ, vung hai tay hai bên gạt Chương Tấn và Từ Thiên Hoằng phía trước tránh ra, rồi nhảy xổ tới cỗ xe lớn.

    Lạc Băng thấy hắn chạy tới, liền cầm trường đao chém vào chân. Kiếm chiêu của Trương Triệu Trọng mau lẹ khác thường, keng một tiếng đã chặt đứt trường đao. Hắn thừa thế nhảy lên xe, nắm lấy vai phải của Lạc Băng.

    Lạc Băng bị nắm chặt vai phải nên không sử dụng được đoản đao, cố dùng tả quyền đánh vào mặt hắn. Quần hùng kinh hãi, tới tấp chạy tới cứu viện. Trương Triệu Trọng túm lấy lưng Lạc Băng, ném về phía Thường thị song hiệp và Chu Trọng Anh. Thường thị song hiệp sợ nàng bị thương, vội vàng đỡ lấy.

    Đột nhiên Trương Triệu Trọng hự lên một tiếng, thì ra sau lưng đã bị trúng chưởng của Văn Thái Lai. Văn Thái Lai đang bị trọng thương nên công lực giảm đi rất nhiều, dù vậy Trương Triệu Trọng vẫn tối sầm trước mắt, đau thấu tâm can. Hắn không kịp quay người, xoay tay trái giật cái chăn đang đắp trên người Văn Thái Lai để cản trở chưởng thứ hai, còn tay phải túm lấy huyệt Thần Tàng của Văn Thái Lai, kéo chàng đến cửa xe hét lên:
    “Văn Thái Lai ở đây! Ai dám lên đây thì ta phải giết hắn trước.”
    Thanh Ngưng Bích Kiếm tỏa kiếm khí lạnh ngắt ép người, nhấp nháy ngay trên cổ Văn Thái Lai.

    Lạc Băng vừa khóc vừa gọi:
    “Đại ca!”
    , bất chấp mọi chuyện cứ xông lên, Lục Phi Thanh phải nắm tay nàng kéo lại.

    Trương Triệu Trọng còn muốn nói mấy câu, nhưng bỗng cảm thấy trong cổ họng có cái gì đó ngòn ngọt, rồi ọe một cái đã nhổ ra một búng máu tươi.

    Lục Phi Thanh bước tới một bước, lên tiếng:
    “Trương Triệu Trọng! Ngươi xem thử ta là ai.”

    Trương Triệu Trọng đã lâu không gặp ông, dưới trăng mờ nhìn không rõ. Lục Phi Thanh bèn lấy Bạch Long Kiếm ra, dùng tay uốn cong mũi kiếm về với chuôi kiếm thành một vòng tròn, rồi buông tay ra. Nghe keng một tiếng, lưỡi kiếm bắn ra lại thẳng tắp, chỉ hơi rung một chút.

    Trương Triệu Trọng hừ một tiếng rồi nói:
    “À, thì ra là Lục sư huynh. Chúng ta đã ân đoạn nghĩa tuyệt từ lâu, bây giờ còn đến đây làm gì?”

    Lục Phi Thanh nói:
    “Ngươi bị thương rồi. Anh hùng Hồng Hoa Hội ở cả đây, lại thêm Chu lão anh hùng ở Thiết Đảm Trang ra tay trợ giúp. Hôm nay ngươi muốn sống sót thật sự không dễ. Tuy ngươi vô tình, nhưng ta không thể vô nghĩa. Niệm tình xưa kia cùng học một thầy, ta muốn chỉ cho ngươi một con đường sống.”

    Trương Triệu Trọng lại hừ một tiếng, không nói năng gì.







    * * *

    Đột nhiên từ phía đông truyền đến tiếng quân reo ngựa hí ồn ào, dường như thiên quân vạn mã đang xông tới. Quần hùng Hồng Hoa Hội kinh nghi chưa biết thế nào. Trương Triệu Trọng càng kinh hãi hơn, nghĩ bụng:
    “Hồng Hoa Hội thật không phải tầm thường. Ở vùng tây bắc này mà chúng cũng tập hợp được lực lượng hùng hậu như thế.”

    Lục Phi Thanh lại nói:
    “Ngươi cứ thả Văn Thái Lai ra tử tế, ta sẽ yêu cầu các vị anh hùng ở đây nể mặt mà cho ngươi một con đường sống quay về. Nhưng ngươi phải thề một chuyện.”

    Trương Triệu Trọng thấy cường địch vây kín xung quanh, cũng tự biết hôm nay mình phải chết, khó mà sống sót trở về. Nghe Lục Phi Thanh nói vậy, hắn cũng không nén nổi phải động tâm hỏi lại:
    “Chuyện gì thế?”

    Lục Phi Thanh nói:
    “Ngươi phải thề rằng từ nay về sau rời khỏi quan trường, không được làm ưng khuyển cho bọn cẩu quan kia nữa.”

    Trương Triệu Trọng là con người tham công danh lợi lộc, mấy năm nay gặp nhiều chuyện đắc ý, thăng quan như diều gặp gió. Nếu bắt hắn từ quan thì thà lấy mạng hắn còn hơn. Hắn nghĩ bụng:
    “Ta cũng có thể lập thệ lung tung để giữ được mạng sống, nhưng để mất khâm phạm thì Hoàng thượng và Phúc thống lãnh chắc chắn sẽ bắt tội. Như vậy thì cuộc đời ta chẳng còn gì nữa. May mà bọn chúng cũng có phần kiêng kỵ, vậy ta phải liều mạng một trận thì hơn.”

    Tính toán xong, họ Trương hét lên:
    “Các ngươi lấy nhiều thắng ít, Trương mỗ dù bại cũng không mất thể diện. Hôm nay ta quyết cùng Văn Thái Lai đồng qui ư tận, để lại danh tiếng đời sau. Sau này anh hùng thiên hạ biết được chuyện này, xem thử Hồng Hoa Hội các ngươi phải giấu mặt mũi vào đâu.”

    Dương Thành Hiệp lớn tiếng kêu:
    “Hạng người cam tâm làm chó săn cho giặc, làm gì có thể diện mà dám nói những lời như thế?”

    Trương Triệu Trọng ngọng miệng không biết đáp sao, bèn thả Văn Thái Lai xuống sản xe, lấy chân đạp lên, rồi nắm lấy dây cương ngựa, thúc xe chạy về phía trước.

    Quần hùng cũng muốn xông lên cướp người, nhưng sợ hắn ở vào cảnh chó chạy cùng đường sẽ động thủ sát hại Văn Thái Lai thật sự, nhất thời không biết phải làm sao.

    Lạc Băng thấy chồng mình bị uy hiếp, nhìn cỗ xe lớn chạy xa dần, đau lòng khôn xiết. Nàng buột miệng kêu lên:
    “Ngươi cứ thả Văn tứ gia, chúng ta để ngươi đi, cũng không bắt ngươi thề bồi gì nữa.”
    Trương Triệu Trọng không lý gì tới nàng, tiếp tục ruổi xe chạy về đại đội quân Thanh.

    Bọn thị vệ và lính Thanh chạy một lúc, thấy địch không truy đuổi nữa bèn từ từ tập hợp lại. Lúc này Thoại Đại Lâm thấy Trương Triệu Trọng đưa cỗ xe lớn trở về, bèn hạ lệnh cho quân lính chuẩn bị cung tên, chờ lệnh mà bắn.

    Tiếng người ngựa xa xa chạy tới càng lúc càng gần. Cả Hồng Hoa Hội và quân Thanh binh đều kinh hãi nghi ngờ, sợ đó là viện binh của đối phương.

    Trần Gia Lạc lớn tiếng hô:
    “Cửu ca, Thập tam đệ, Mạnh đại ca, An đại ca! Bốn vị xông vào làm tán loạn bọn ưng trảo kia.”

    Vệ Xuân Hoa lập tức cầm binh khí, chạy thẳng về phía quân Thanh. Đột nhiên một thiếu niên đứng sau Lục Phi Thanh chạy ra nói:
    “Ta cũng đi”
    , rồi đuổi theo họ Vệ. Trần Gia Lạc thấy đó chính là đồ đệ Lý Nguyên Chỉ của Lục Phi Thanh, bất giác chau mày.

    Hôm trước Lục Phi Thanh đi lùi lại sau để đợi, đến chiều thì gặp Lý Nguyên Chỉ. Cô nương này được xem đánh nhau ác liệt mấy ngày liên tiếp, ngứa tay không nhịn nổi nữa, nhất quyết đòi sư phụ dẫn đi tham gia cứu Văn Thái Lai. Lục Phi Thanh không sao từ chối được, đành bắt nàng thề không được làm bừa. Lý Nguyên Chỉ thấy sư phụ nhượng bộ, lập tức vui vẻ nở mày nở mặt, thề thốt một loạt:
    “Nếu con không nghe lời sư phụ, thì phải bị đậu mùa để biến thành người mặt rỗ, hoặc phải rụng hết tóc đi trở thành một tên trọc xấu xí.”

    Lục Phi Thanh nghĩ thầm:
    “Con gái ai chẳng thích đẹp, con bé này thề như thế thì so với chết dưới đao kiếm còn nặng hơn nhiều”
    , bèn mỉm cười đồng ý. Lý Nguyên Chỉ lập tức viết thư cho mẹ, nói rằng đi chậm thế này thật là buồn chán, nên nàng lên đường trước để sớm đến Hàng Châu gặp cha. Nàng biết nhất định thế nào cũng bị cằn nhằn mấy tháng, nhưng khổ nỗi những trận chiến thú vị phía trước là cơ duyên khó gặp, bèn mặc kệ sau này tới đâu thì tới.

    Hai thầy trò nhanh chóng đuổi kịp quần hùng Hồng Hoa Hội, rồi biết Trương Triệu Trọng phải qua sông ở Xích Sáo Độ. Trận chiến đêm nay Lục Phi Thanh quyết không để Lý Nguyên Chỉ tham dự. Nàng xem quần hùng ác đấu với Trương Triệu Trọng, võ công người nào cũng hơn mình không biết mấy lần, chỉ biết lè lưỡi mà nhìn. Bây giờ thấy Vệ Xuân Hoa đi giết quân Thanh binh, cô nàng bèn mặc kệ cha mình làm chức quan gì, chỉ nổi hứng là chạy theo xung phong. Trong lòng nàng nghĩ:
    “Lần này mình không xin phép nên sư phụ không kịp cản trở. Sư phụ không nói gì, thì không phải mình cãi lời thầy.”

    Trần Gia Lạc lên tiếng dặn dò, quần hùng gật đầu phụng mạng. Triệu Bán Sơn là người đầu tiên xông lên, tay ông vừa giơ lên là hai cây tụ tiễn đã ghim vào cặp mắt của con lừa đang kéo cỗ xe lớn. Con lừa hí dài một tiếng, cất cao hai vó trước lên.

    Chương Tấn chạy theo sau xe, vận thần lực cố kéo lại. Cỗ xe lập tức dừng lại như bị đóng đinh xuống đất, hoàn toàn không chuyển động nữa. Anh em Thường Hách Chí, Thường Bá Chí chạy đến hai bên trái phải cỗ xe, quăng hai cái phi trảo đến đánh Trương Triệu Trọng.

    Trương Triệu Trọng vừa vung kiếm ra chống đỡ, Dương Thành Hiệp đã hét lớn một tiếng, nhảy lên xe toan cướp lấy Văn Thái Lai. Trương Triệu Trọng đánh thẳng một quyền vào mặt, họ Dương nghiêng người tránh, đưa vai trái hứng quyền, hai tay cứ ôm lấy Văn Thái Lai.

    Vô Trần và Từ Thiên Hoằng nhảy lên sau xe, chui vào phục kích sau lưng Trương Triệu Trọng.

    Trần Gia Lạc bảo Tâm Nghiễn:
    “Lên đi.”
    Hai người cùng sử dụng khinh công Yến Tử Xuyên Vân phi thân lên nóc xe, khom lưng đánh xuống.

    Trương Triệu Trọng đánh trúng vai Dương Thành Hiệp một quyền, thấy y trúng đòn mà không tổn thương gì, trong lòng cũng thấy kinh ngạc, nhưng trong lúc hỗn loạn không có thời gian suy nghĩ. Hắn thấy Văn Thái Lai bị cướp, vội vung tay trái nắm lấy lưng họ Dương. Lúc này phi trảo của Thường thị huynh đệ từ hai bên chụp xuống, Trương Triệu Trọng đưa kiếm cản trở, rồi xuất chiêu Đảo Đệ Kim Chung ném thân hình to lớn của Dương Thành Hiệp xuống khỏi xe.

    Hỏa Thủ Phán Quan mắt nhìn bốn phương tai nghe tám hướng, phía trước lo cản trở kẻ địch tấn công mà sau lưng cũng nghe thấy có địch nhân tập kích. Hắn cúi về phía trước, tay trái lấy ra một nắm Phù Dung kim châm, người hơi nghiêng một cái đã phóng kim châm lên nóc xe và phía sau.

    Trần Gia Lạc thấy họ Trương vẫy tay, biết hắn phóng ám khí bèn đưa ngay thuẫn bài cản phía trước. Nghe keng keng, mấy mũi kim châm rơi xuống đất. Chàng đưa tay phải đẩy mạnh vào vai Tâm Nghiễn một cái, hất cậu xuống khỏi nóc xe. Tuy thủ pháp của chàng đã cực kỳ mau lẹ, nhưng Tâm Nghiễn cũng la lên một tiếng. Trần Gia Lạc biết Tâm Nghiễn trúng ám khí rồi, liền vội nhảy xuống ứng cứu.

    Vô Trần và Từ Thiên Hoằng tấn công từ phía sau cũng bị kim châm phóng tới. Vô Trần công lực thâm hậu, ngửa người nhảy ngược ra phía sau. Thân hình ông như một mũi tên bắn vù đi, kim châm cũng không đuổi kịp. Từ Thiên Hoằng không có công phu như thế, vội vã giật bừa cái chăn trên xe để che người, chỉ hở cánh tay trái. Ngay lúc đó chàng bị một mũi kim châm phóng trúng, vai tê rần rồi lọt xuống dưới xe.

    Chương Tấn chạy tới, dìu Từ Thiên Hoằng dậy hỏi:
    “Thất ca sao rồi?”
    Y hỏi chưa dứt câu đã thấy lưng đau nhói, trúng một mũi tên.

    Loáng thoáng nghe tiếng Trần Gia Lạc hô hoán:
    “Các vị ca ca! Mọi người tập hợp qua đây!”
    Bây giờ tên từ phía sau đã rào rào bắn tới như ong. Tay trái của Chương Tấn vịn lên vai Vô Trần, còn tay phải huy động lang nha bổng không ngớt gạt tên.

    Vô Trần bảo:
    “Thập đệ đừng nhúc nhích, trấn tĩnh lại đi.”
    Rồi ông đè chặt mạch máu của họ Chương, nhẹ nhàng nhổ mũi tên ra, rồi xé một góc trường bào cột vết thương lại.

    Đại đội Thanh binh từ phía đông đang ào tới đen đặc một vùng, thiên binh vạn mã khí thế hơn người. Quần hùng cũng dần dần tụ tập, Vệ Xuân Hoa đã quay trở lại. Trần Gia Lạc lên tiếng:
    “Hai vị ca ca nào xông lên phía trước, cản trở chúng một lúc.”
    Vô Trần và Vệ Xuân Hoa lập tức tình nguyện bước ra.

    Trần Gia Lạc lại bảo:
    “Mọi người mau mau phân tán ra, lùi đến chân đồi phía sau.”
    Mọi người vâng dạ. Trần Gia Lạc tiếp:
    “Tam ca, Ngũ ca, Lục ca! Chúng ta tiếp tục.”
    Rồi bốn người lại chia ra tấn công vào cỗ xe lớn.

    Vệ Xuân Hoa cầm song câu đi dưới mưa tên, giết tới trước trận quân Thanh. Vô Trần tay không, chụp lấy một mũi tên trên không, dùng tên gạt tên đi theo Vệ Xuân Hoa, chớp mắt hai người đã xông vào trong trận. Vô Trần đoạt lấy một thanh đao, dùng đao làm kiếm đâm chém tứ phương. Thế của quân Thanh rất lớn, hai người không sao cản trở nổi. Chỉ chốc lát là đám quân tiên phong đã gần tới chỗ quần hùng.

    Trương Triệu Trọng thấy viện binh đã đến, mừng rỡ vô cùng. Hơi thở của hắn đã nặng hơn, tự biết vết thương của mình không nhẹ. Hắn thấy bốn người Trần Gia Lạc tấn công lên xe, không dám đón đánh, bèn túm lấy Văn Thái Lai đưa lên đỡ gạt. Chỉ chốc lát, mấy chục kỵ binh đã phi tới nơi, vung mã đao lên tấn công Trần Gia Lạc.

    Trần Gia Lạc nhận xét tình hình, biết rằng muốn đoạt lại Văn Thái Lai chỉ tổ làm tổn thương đến sinh mạng Tứ ca. Chàng bèn huýt một tiếng sáo, cùng Triệu Bán Sơn và Thường thị song hiệp chạy lên đồi.

    Bốn người chạy tới, thấy mọi người đã tập hơp, bèn kiểm điểm nhân sự. Vô Trần và Vệ Xuân Hoa xông vào trận địch chưa thấy trở về, ngoài ra còn thất lạc Từ Thiên Hoằng, Chu Ỷ, Lý Nguyên Chỉ, Chu Trọng Anh, Mạnh Kiện Hùng năm người.
    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Có ai thấy Thất ca và Chu lão anh hùng không?”

    Chương Tấn đang nằm dưới đất, ngóc đầu lên nói:
    “Thất ca đã bị thương còn thất lạc ư? Để ta đi tìm.”
    Y bèn đứng dậy xách lang nha bổng định chạy ra ngoài, nhưng trên lưng trúng tên rất nặng, người lảo đảo đứng còn không vững.

    Thạch Song Anh nói:
    “Thập ca đừng đi. Để đệ đi.”

    Tưởng Tứ Cân cũng nói:
    “Ta cũng đi.”

    Trần Gia Lạc hạ lệnh:
    “Thập tam ca! Huynh cùng Tứ tẩu mau chạy đến bờ sông, chuẩn bị thuyền bè tử tế.”
    Tưởng Tứ Cân vâng lệnh chạy đi. Lạc Băng đang thương tâm quá độ, trong lòng trống rỗng, mơ hồ đi theo Tưởng Tứ Cân.

    Thạch Song Anh cầm đơn đao phi người lên ngựa, đi vòng qua một ngọn đồi nhỏ. Lúc này đại đội Thanh binh đã tràn ngập vùng hoang dã này. Họ Thạch giục ngựa lên cao, đưa mắt nhìn quanh quất cũng không thấy Từ Thiên Hoằng đâu, chỉ còn cách xung phong vào trận địch mà tìm kiếm.

    Chẳng bao lâu Chu Trọng Anh cùng Mạnh Kiện Hùng hai người đã chạy tới. Trần Gia Lạc vội hỏi:
    “Có thấy Chu cô nương không?”
    Chu Trọng Anh ruột nóng như sôi, lắc đầu lia lịa.

    Lục Phi Thanh nói:
    “Tiểu đồ đệ của lão cũng không biết ở đâu. Lão phu phải đi tìm.”

    An Kiện Cương nói:
    “Để tại hạ cùng đi với tiền bối.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Ở đây loạn tiễn rất nhiều, mọi người hãy nhặt lấy. Ta đi đoạt mấy cây cung.”
    Chàng nói xong, lên ngựa phóng thẳng vào đội cung tên nhà Thanh. Sợi dây vừa vẫy ra ngoài đã đánh ngã hai tên cung thủ, cuộn ngược trở lại đã lấy được hai cây cung rơi dưới đất. Quân Thanh hô hoán om sòm, bốn năm cây thương đâm tới. Trần Gia Lạc vung tít sợi dây, đao thương của đám lính lập tức tuột khỏi tay.

    Trong chốc lát Trần Gia Lạc đã lấy được tám cây cung, bèn cho ngựa quay đầu. Chàng định rút lui thì đột nhiên nhìn thấy quân Thanh bị rẽ ra hai bên, ở giữa có mấy kỵ sĩ chạy ra ngoài. Người đầu tiên chính là Vô Trần đạo nhân, phía sau là An Kiện Cương nắm lấy hai tay Vệ Xuân Hoa.

    Trần Gia Lạc thấy Vệ Xuân Hoa máu me đầy mình, kinh hãi lập tức xông lên phía trước để ngăn cản quân lính đuổi theo. Quân Thanh thấy mấy người này hung hãn khác thưởng cũng không dám cản trở, cứ để họ rút lui.

    Trần Gia Lạc giao mấy cây cung đoạt được cho Triệu Bán Sơn rồi chạy đến xem xét vết thương của Vệ Xuân Hoa. Vô Trần nói:
    “Cửu đệ mệt quá nên tâm trí hơi mơ hồ, cũng không đáng ngại lắm.”

    Vệ Xuân Hoa vẫn tiếp tục reo hò:
    “Giết hết bọn quan binh chó má này đi.”

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Có thấy Thất ca và Thập nhị ca không?”

    Vô Trần đáp:
    “Để ta đi kiếm.”

    Trần Gia Lạc tiếp:
    “Còn Chu cô nương và đồ đệ của Lục lão tiền bối nữa.”

    Vô Trần gật đầu, lập tức lên ngựa cầm đao xung phong vào trận Thanh binh. Một tên thiên tổng cầm thương bay ngựa tới, Vô Trần nghiêng người tránh mũi thương rồi vung đao đâm vào lưng hắn. Tên thiên tổng đó lập tức ngã ngựa nhào xuống đất, binh lính dưới quyền hắn cùng la lên một tiếng rồi chạy tứ tán.

    Vô Trần chỉ nhằm vào những chỗ đông người, đao đến đâu là quân Thanh ngã gục đến đó. Ông xung phong một đoạn đường, đột nhiên nhìn thấy một đám lính vây tròn hò hét, giữa đám người còn phát ra tiếng binh khí loảng xoảng. Ông liền giục ngựa chạy thẳng tới đó, thấy Thạch Song Anh đang cầm đơn đao một mình đấu với ba viên võ tướng, bốn phía còn bị lính Thanh cầm đao thương tấn công.

    Họ Thạch dường như chống cự không nổi nữa, nhưng thấy Vô Trần chạy đến vẫn mừng rỡ kêu lên:
    “Đã tìm được Thất ca chưa?”

    Vô Trần hô lớn:
    “Mau chạy về phía trước. Đừng lo phía sau!”
    Thạch Song Anh nghe lời, vung đao giục ngựa tấn công tới trước. Y nghe thấy sau lưng liên tiếp vang lên những tiếng kêu gào thê thảm, rồi tiếng bọn Thanh binh kinh hãi la lên, dạt hết ra xa.

    Thạch Song Anh quay đầu lại nhìn, thấy ba tên võ tướng đã bị giết hết. Y vừa ác chiến với ba tên đó hơn nửa ngày trời, biết võ công chúng không phải tầm thường, nào ngờ vừa quay lưng là Vô Trần đã lo liệu xong xuôi. Quỉ Kiến Sầu không nén nổi, vô cùng khâm phục vị Nhị ca này.

    Hai người chạy trở lên đồi, vẫn chưa thấy tung tích Từ Thiên Hoằng đâu cả. Một tên võ tướng thống lĩnh mấy chục binh sĩ xung phong tới đây. Triệu Bán Sơn, Thường thị song hiệp, Mạnh Kiện Hùng đều giương cung lắp tên chờ đợi, mỗi phát hạ một người. Mấy tên Thanh binh đi đầu ngã xuống, rồi chỉ chốc lát là mười mấy tên bỏ mạng. Số còn lại phải lùi ra sau hò hét, không dám lại gần nữa.

    Trần Gia Lạc giục ngựa lên đồi, bảo An Kiện Cương:
    “An đại ca! Nhờ huynh lo liệu giùm một lát, phòng hờ cung tên bắn lén.”
    An Kiện Cương gật đầu, đứng cạnh con ngựa. Trần Gia Lạc tung người nhảy lên lưng ngựa, đứng trên yên nhìn ra xa, thấy đại đội quân Thanh đi về hướng tây.

    Đột nhiên có tiếng tù và vang dội, một con rồng lửa uyển chuyển chạy tới, thì ra là một đội Thanh binh cầm đuốc. Ánh đuốc soi rõ một lá cờ lớn tung bay trước gió. Trần Gia Lạc định thần nhìn kỹ, thấy trên cờ thêu mấy chữ: “Định biên tướng quân Triệu.” Đội Thanh binh này cưỡi ngựa to cao, tay cầm mâu dài kích lớn, di chuyển phát ra những tiếng chói tai. Dường như đây là quân thiết giáp.

    Vô Trần lo lắng nói:
    “Để ta đi tìm Thất đệ và mấy huynh đệ kia.”

    Thường Hách Chí lên tiếng:
    “Đạo trưởng cứ nghỉ ngơi một chút, để anh em đệ đi.”
    Y chưa nói xong, Vô Trần đã xông ra. Hai chân ông kẹp cứng xương hông con ngựa, nửa thân trên nghiêng ra phía trước, vung đao mở đường máu. Mặc cho quân Thanh la hét om sòm, Vô Trần ngựa không ngừng vó cứ chạy vòng vòng giữa đại đội nhân mã. Ông giết mười mấy tên, trở đi trở lại tìm kiếm khắp nơi mà vẫn không thấy tung tích Từ Thiên Hoằng đâu cả.

    Quần hùng đều lo lắng, e rằng Từ Thiên Hoằng và các huynh đệ đã bỏ mạng trong đám loạn quân. Mọi người đều nghi hoặc, nhưng chưa ai dám mở miệng. Đột nhiên xa xa trong đám bụi mù có một con ngựa phi nhanh tới, gần sát mọi người mới nhìn rõ là Tưởng Tứ Cân. Y kêu lớn:
    “Lùi nhanh lên, bọn quân thiết giáp xung phong đến đây rồi.”

    Trần Gia Lạc ra lệnh:
    “Mọi người lên ngựa chạy đến bờ sông.”
    Quần hùng đều đồng thanh vâng dạ. Chu Trọng Anh nóng lòng lo lắng cho con gái, nhưng trong đám thiên quân vạn mã biết đâu mà tìm?

    Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương, Thạch Song Anh chia nhau dìu những người bị thương Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn… cứ một ngựa hai người. Mọi người vừa lên ngựa thì đội quân thiết giáp đã chạy tới trong ánh lửa.

    Thường thị song hiệp thấy khí thế của đội kỵ binh này rất hung hãn, bèn dẫn mọi người vòng qua bên phải. Thường Hách Chí nói:
    “Bọn rùa bọc sắt này sử dụng thần kiên cung, sức bắn rất mạnh. Bây giờ chúng ta chui vào đám rùa mềm kia mà tránh né là hay nhất.”

    Thường Bá Chí khen:
    “Phải lắm.”
    Hai người lập tức xông vào giữa đại đội quân Thanh, quần hùng nối tiếp chạy theo sau. Thường thị song hiệp biết dùng phi trảo tấn công thì không tiện lắm nên cất vào trong người. Một người đoạt lấy đại đao, một người giật được trường mâu, đao chém, mâu đâm mà mở một con đường máu tiến thẳng đến bờ sông Hoàng Hà.

    Quân thiết giáp thấy quần hùng chạy vào giữa trận Thanh binh, trong đêm không dám bắn tên vì sợ làm quân ta bắn quân mình, chỉ truy đuổi phía sau. Lúc này người ngựa hai phe lẫn lộn thành một đám bên bờ sông Hoàng Hà.

    Quần hùng không để rời nhau, trong lúc hỗn loạn vẫn chạy đến bờ sông một lượt. Tưởng Tứ Cân cắm thiết trượng xuống bãi cát, rồi nhảy xuống sông kéo thuyền vào. Lạc Băng dùng chèo đưa thuyền da cừu vào bờ, đưa anh em bị thương cùng Chương Tấn xuống ghe.

    Trần Gia Lạc giục:
    “Mọi người nhanh chóng lên ghe. Đạo trưởng, Tam ca, Chu lão anh hùng, bốn người chúng ta sẽ lên sau.”
    Nói chưa dứt lời, thần kiên cung đã bắn tới rào rào.

    Vô Trần la to:
    “Tiến lên.”
    Thế là cả bốn quay mặt lại, tiến lên ngăn cản truy binh. Thanh đao của Vô Trần đưa trúng ngay yết hầu của một tên thiết giáp, nào ngờ chém không vào được. Thì ra thanh đao này giết nhiều người quá, lưỡi đã cùn mẻ hết. Một cây trường thương đâm tới, Vô Trần ném đao đi, đưa cánh tay gạt ngang qua, cây trường thương kia bay tuốt lên trời.

    Chu Trọng Anh múa kim đao chém mấy tên lính Thanh rơi xuống ngựa. Triệu Bán Sơn lấy một mũi cương tiêu bắn ngay vào huyệt Đản Trung của một tên. Chỉ nghe keng một tiếng, tên Thanh binh đó chẳng sứt mẻ gì, cứ phi ngựa thẳng tới trước mặt ông. Thì ra đám quân này toàn thân có giáp sắt bảo vệ, không bị ám khí đả thương. May mà Vô Trần đã cướp được một cây thiết thương, đâm thẳng vào giữa mặt hắn.

    Triệu Bán Sơn phóng phi tiêu liên tục, nhằm bắn vào tròng mắt quân địch. Tuy rằng trong đêm khó mà phân biệt rõ ràng, nhưng ông vẫn đánh mù được năm sáu tên, khiến chúng đau đớn đưa tay cào loạn lên mặt mình. Lúc này ngoài bốn người Trần Gia Lạc ra, còn lại đều đã xuống thuyền.

    Đội quân thiết giáp này được huấn luyện rất tốt, tuy thấy đối phương hung hãn vẫn không nao núng, cứ xung phong tới. Trần Gia Lạc thấy một tên tướng đang cưỡi ngựa vung mã đao chỉ huy, chàng bèn dùng thân pháp Yến Tử Tam Sao Thủy lộn người đến trước mặt hắn. Tên tướng kia liền vung đao chém xuống, nhưng mới được nửa đường đột nhiên cảm thấy cổ tay đau dữ dội, mã đao đã lọt vào tay của địch thủ. Tiếp theo cánh tay hắn tê chồn, thân hình bị kéo lọt xuống ngựa, rồi kẹp lại chạy đến bờ sông. Quân Thanh thấy chủ tướng bị bắt, nhao nhao chạy tới toan đoạt lại, nhưng không dám bắn tên nữa.

    Giữa tiếng quân Thanh la ó, Trần Gia Lạc nắm lấy bím tóc tướng quân kia chạy đến bên mép nước, cùng Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Chu Trọng Anh tung người lên thuyền. Tưởng Tứ Cân nhổ thiết trượng lên, cùng Lạc Băng phóng ra hai chưởng, đưa thuyền ra giữa dòng.

    Thế nước sông Hoàng Hà rất lớn, cuồn cuộn chảy ào ào, đẩy hai chiếc thuyền da cừu này trôi xuống hạ lưu nhanh như tên bắn. Đội quân thiết giáp càng lúc càng nhỏ lại, qua một hồi nhìn lại phía sau chỉ còn thấy những đốm lửa nhấp nháy. Tiếng người ngựa ồn ào cũng lấp giữa tiếng nước chảy, không còn nghe thấy nữa.

    Quần hùng bình tĩnh lại, lo lắng cho anh em bị thương. Thần trí của Vệ Xuân Hoa dần dần tỉnh táo lại, xem kỹ thì trên người y không có vết thương nào. Triệu Bán Sơn rất giỏi về trị các vết thương do tên đạn, lo băng bó vết thương cho Dương Thành Hiệp và Chương Tấn. Vết thương của Chương Tấn tương đối nặng hơn, nhưng cũng không nguy hiểm lắm.

    Tâm Nghiễn trúng mấy mũi kim châm, đau đớn kêu la không ngớt. Thủ pháp của Trương Triệu Trọng rất nặng, kim châm ghim tới tận xương. Triệu Bán Sơn lấy trong túi thuốc ra một miếng nam châm, hút từng mũi kim ra rồi bó thuốc lên vết thương cho Tâm Nghiễn.

    Lạc Băng nắm chặt mái chèo, không nói tiếng nào. Trận đấu này chưa cứu được Văn Thái Lai, ngược lại Từ Thiên Hoằng, Chu Ỷ và thầy trò Lục Phi Thanh bốn người không biết đi đâu, ngay cả Dư Ngư Đồng cũng không biết đang ở nơi nào.

    Trần Gia Lạc than thở:
    “Khi nãy Trương Triệu Trọng đã là cá nhốt trong chậu, khó bề chạy trốn. Nào ngờ đại đội Thanh binh lại đi ngang đúng lúc. Biết thế thì từ đầu chúng ta đã hợp sức tấn công để băm vằm tên gian tặc họ Trương ra, cứu Văn tứ ca cho sớm thì kết quả đã tốt hơn.”
    Chàng càng nói càng thấy ân hận. Mọi người cũng đang ủ rũ, ai cũng im lặng.

    Trần Gia Lạc giải huyệt đạo cho tên tướng Thanh rồi hỏi:
    “Tại sao các ngươi phải hành quân suốt đêm như thế, có việc gì?”
    Tên tướng kia hôn mê mới tỉnh, nhất thời chưa kịp nói gì. Dương Thành Hiệp vung chưởng lên tát ngay vào mặt, quát hỏi:
    “Ngươi có nói không?”

    Hắn ôm lấy má, lắp bắp:
    “Tiểu nhân nói… tiểu nhân nói… Nói cái gì?”

    Trần Gia Lạc hỏi lại:
    “Tại sao đại quân của các ngươi phải đi đêm như thế?”

    Hắn đáp:
    “Định Biên tướng quân Triệu Tuệ đã phụng thánh chỉ, phải đánh chiếm bộ tộc người Hồi càng sớm càng tốt. Ông ấy sợ chậm trễ thời hạn, lại sợ người Hồi biết được tin tức mà phòng bị, nên phải hành quân cả ngày lẫn đêm.”

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Người Hồi đàng hoàng tử tế như thế, sao phải đi đánh họ?”

    Hắn ấp úng trả lời:
    “Cái này… cái này thì tiểu nhân không biết.”

    Trần Gia Lạc lại hỏi:
    “Các ngươi muốn đi Hồi Cương, sao lại nhúng tay vào việc của chúng ta?”

    Hắn nói:
    “Triệu đại tướng quân nghe tin cấp báo có một nhóm thổ phỉ đang quấy nhiễu, liền sai tiểu tướng đến đây giúp đỡ, còn đại quân thì không dừng lại.”

    Chưa dứt câu, Dương Thành Hiệp lại đánh thêm một quyền, hét lên:
    “Con mẹ mày mới là thổ phỉ!”

    Hắn hoảng sợ đáp:
    “Vâng, vâng! Tiểu nhân nói lộn, các vị đều là anh hùng hảo hán.”

    Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc, rồi hỏi tường tận về quân số của Triệu Tuệ tướng quân, đường hành quân và lương thực. Có mấy vấn đề gã kia không biết rõ, còn biết gì thì khai hết, không dám giấu giếm.

    Trần Gia Lạc bèn hạ lệnh:
    “Cho thuyền cập vào bờ.”
    Lạc Băng và Tưởng Tứ Cân cho thuyền ghé vào, mọi người lên bờ. Lúc này thế nước càng lớn hơn, tiếng sóng vỗ ào ào inh tai nhức óc.

    Trần Gia Lạc bảo Dương Thành Hiệp cởi trói cho tên tướng, rồi nói với Thường thị song hiệp:
    “Ngũ ca, Lục ca! Hai vị ca ca thử quay lại xem Tứ ca, Thất ca, Thập tứ đệ, Chu cô nương và Chu lão anh hùng ra sao rồi. Chỉ mong họ không gặp phải chuyện gì. Nếu họ lọt vào tay của quan quân, thì nhất định sẽ bị đưa về Bắc Kinh. Chúng ta sẽ tiếp ứng ở phía trước, tìm cách cứu lại.”
    Thường thị song hiệp nhận lệnh đi về phía tây.

    Trần Gia Lạc bảo Thạch Song Anh:
    “Thập nhị ca! Đệ muốn nhờ huynh giúp một việc.”

    Thạch Song Anh nói:
    “Xin tổng đà chủ dặn dò.”

    Trần Gia Lạc lấy trong cái bao trên lưng Tâm Nghiễn ra văn phòng tứ bảo, dưới ánh trăng viết một lá thư rồi nói:
    “Nhờ huynh đưa lá thư này đến lão anh hùng Mộc Trác Luân ở Hồi tộc để thông báo tin tức. Tuy rằng họ với chúng ta chỉ gặp nhau một lần, nhưng đã phơi bày hết gan ruột, có thể nói là mới gặp nhau đã có nghĩa tri âm. Bạn bè gặp nạn, chúng ta không thể phủi tay đứng nhìn. Tứ tẩu, phiền Tứ tẩu cho Thập nhị ca mượn tạm con bạch mã đi một chuyến.”

    Thì ra trong lúc hỗn loạn mọi người đều bỏ ngựa lại trên bờ, chỉ có Lạc Băng vì yêu con ngựa trắng của mình, lại muốn để tặng phu quân, nên dắt nó xuống thuyền. Thạch Song Anh cưỡi bạch mã đi gấp về phía Hồi Cương, dự tính chỉ một ngày là đuổi kịp Mộc Trác Luân, thông báo cho người Hồi kịp thời phòng bị.

    Sắp đặt xong xuôi, Trần Gia Lạc bảo Tưởng Tứ Cân trói tên tướng kia lại, bỏ lên thuyền rồi thả trôi theo dòng nước. Hắn sống hay chết hoàn toàn trông vào vận số.




    (... còn tiếp ...)


          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Thư kiếm ân cừu lục

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Thư kiếm ân cừu lục - 書劍恩仇錄 -
    ___________________________
    Nguyên tác: Kim Dung - 金庸 ________ Dịch giả: Đông Hải






              


              

              
    (... tiếp theo ...)



    Hồi thứ sáu

    Lâm hoạn nạn nảy sinh tình nghĩa
    Cướp quân lương cứu tế dân nghèo







    Chu Ỷ lạc mất mọi người trong đám loạn quân, thấy xung quanh toàn là lính Thanh. Nàng thuận tay đánh ngã mấy tên đứng gần, nhưng từ bốn phương tám hướng đều có binh lính ùa tới. Chu Ỷ bối rối vô cùng, giục ngựa chạy loạn xạ một lúc lại gặp một đội quân khác. Nàng không dám nghênh chiến, vội quay đầu lại, chỉ muốn mau mau rời khỏi đó. Trong đêm tối, không biết con ngựa vấp phải vật gì mà đột nhiên quỵ xuống. Lúc này nàng vừa mệt mỏi, vừa sợ hãi nên té nhào xuống đất, đập gáy vào một vật cứng nào đó ngất xỉu tại chỗ. May mà trời tối nên quân Thanh không phát hiện ra.

    Chu Ỷ mê man không biết bao lâu, rồi đột nhiên thấy trước mắt lóe sáng. Sau đó tai nàng nghe tiếng sấm nổ, rồi trên mặt mát lạnh như bị nước dội vào. Nàng mở to đôi mắt thì thấy bầu trời tối mịt, mây đen bao phủ, mưa to đang ào xuống, bèn kêu lên một tiếng nhảy chồm dậy. Đột nhiên Chu Ỷ thấy cạnh mình cũng có một người ngồi dậy, bèn kinh hãi nhặt lấy đơn đao rơi kế bên định chém. Bất giác cả hai đều kinh ngạc la lên, thì ra người kia chính là Từ Thiên Hoằng.

    Từ Thiên Hoằng hỏi lớn:
    “Chu cô nương! Tại sao cô cũng có đây?”

    Chu Ỷ lạc trong đám loạn quân, phụ thân cũng không biết ở đâu, bây giờ lại gặp phải oan gia. Trước giờ nàng vẫn không ưa anh chàng này, hai bên cứ có dịp là khích bác lẫn nhau, nhưng dù sao cũng là người phe mình. Cô nàng Tiêu Lý Lục vốn gan dạ khí phách không kém gì nam tử hán đại trượng phu, mà lúc này cũng không nén nổi muốn rơi nước mắt. Nàng cắn chặt môi lại, ráng nhịn khóc để hỏi:
    “Gia gia ta đâu?”

    Từ Thiên Hoằng bỗng vẫy tay bảo nàng nằm xuống, nói nhỏ:
    “Có lính tới.”
    Chu Ỷ liền phục sát xuống đất. Hai người từ từ bò đến núp sau một mô đất, thò đầu nhìn ra ngoài.

    Trời đã gần sáng. Thấp thoáng mấy chục tên Thanh binh đang chôn cất bọn tử trận dưới cơn mưa lớn, vừa đào huyệt vừa luôn miệng cằn nhằn. Hồi lâu, đa số tử thi đã được mai táng sơ sài. Một tên quan lớn tiếng ra lệnh:
    “Trương Đắc Tiêu, Vương Thanh! Nhìn quanh xem còn cái xác nào không?”

    Hai tên này vâng lệnh, trèo lên một cái gò cao nhìn tứ phía. Chúng thấy hai người nằm dưới đất liền kêu lên:
    “Đằng kia còn hai xác chết.”

    Chu Ỷ nghe chúng gọi mình là xác chết, tức điên lên chỉ muốn nhảy tới đánh cho một trận. Từ Thiên Hoằng phải vội kéo nàng lại, bảo:
    “Đợi chúng tới gần đã.”

    Hai tên lính đó cầm xẻng đi tới, Chu Ỷ và Từ Thiên Hoằng cứ nằm bất động giả chết. Khi chúng đến gần thò tay định kéo, hai người mới đột ngột vung đao đâm vào bụng. Hai gã không kịp kêu một tiếng, chết ngay tại chỗ.

    Tên võ quan kia đợi mất nửa ngày vẫn không thấy hai tên lính quay về, mà mưa lại to thêm. Hắn nóng ruột tức giận thóa mạ lung tung, cưỡi ngựa chạy tới xem xét. Từ Thiên Hoằng khẽ nói:
    “Đừng lên tiếng, phải đoạt lấy được ngựa của hắn.”

    Tên quan đến gần, thấy hai tên thuộc hạ nằm chết duới đất thì giật mình kinh hãi, há mồm toan kêu lính tới. Từ Thiên Hoằng bật dậy nhanh như chớp, chạy tới vung đao chém ngay. Hắn không cầm binh khí, đành giơ roi ngựa lên cản. Nhát đao của Từ Thiên Hoằng chém đứt cả roi lẫn cổ, đầu tên kia rơi từ trên ngựa xuống đất. Từ Thiên Hoằng túm lấy dây cương, kêu lớn:
    “Lên ngựa mau.”
    Chu Ỷ nhảy lên lưng ngựa, Từ Thiên Hoằng sải bước chạy theo.

    Quân Thanh phát hiện tung tích hai người, lớn tiếng kêu vang, cả bọn cầm vũ khí đuổi theo. Từ Thiên Hoằng chạy được mấy chục bước thì chỗ vai trái trúng Phù Dung kim châm càng lúc càng đau không chịu nổi, choáng váng mặt mày ngã khuỵu xuống đất. Chu Ỷ quay đầu lại thấy Từ Thiên Hoằng té xuống, vội dừng ngựa lui lại, khom người đưa tay nhắc chàng đặt lên lưng ngựa. Nàng trở chuôi đao thúc vào lưng ngựa, nó liền chạy như bay. Quân Thanh la ó ỏm tỏi nhưng không sao đuổi kịp.

    Chu Ỷ thấy đã bỏ xa bọn Thanh binh mới cất đao vào lưng. Nàng thấy Từ Thiên Hoằng hai mắt nhắm nghiền, mặt mày trắng bệch, hơi thở rất yếu thì sợ hãi không biết phải làm sao, chỉ còn cách dựng chàng ngồi thẳng trên yên ngựa, tay trái vòng ôm qua hông để chàng khỏi ngã, cố gắng chọn những con đường mòn hoang vắng mà đi. Chạy được một lúc, Chu Ỷ thấy phía trước là một khu rừng rậm bèn thúc ngựa chạy vào. Nàng nhìn xung quanh thấy cây cối um tùm rậm rạp, lúc này mới tạm yên tâm.

    Mưa đã tạnh, Chu Ỷ nhảy xuống dắt ngựa đi tìm một chỗ tương đối rộng rãi thoáng mát. Thấy Từ Thiên Hoằng thần trí vẫn còn mơ hồ, nàng suy nghĩ một lúc rồi ôm chàng đặt xuống một bãi cỏ, mình thì ngồi bên cạnh nghỉ ngơi, thả cho ngựa ăn cỏ. Một cô nương chưa tới hai mươi tuổi, cô đơn ngồi trong rừng hoang, trước mắt chỉ có một người chưa biết sống chết ra sao. Nàng hoàn toàn không biết phải làm gì, bất giác đau lòng ôm đầu khóc, nước mắt nhỏ xuống mặt Từ Thiên Hoằng.

    Từ Thiên Hoằng nằm dưới đất một lúc, thần trí đã tỉnh táo trở lại. Chàng tưởng trời lại mưa nên khẽ mở mắt nhìn, bỗng thấy một khuôn mặt đẹp đẽ, một đôi mắt to tròn khóc đến sưng lên, nước mắt từng giọt rơi vào mặt mình. Rồi chàng lại thấy vai trái đau không chịu nổi, khẽ rên lên.

    Chu Ỷ thấy Từ Thiên Hoằng tỉnh dậy cả mừng, nhìn lại thấy nước mắt mình rơi ngay khóe miệng chàng liền lấy khăn tay định lau, nhưng vừa giơ tay lên đã hổ thẹn rụt lại, lên tiếng trách:
    “Sao huynh lại nằm trước mặt ta, không chịu tránh đi chỗ khác?”

    Từ Thiên Hoằng thở dài một tiếng, gắng gượng định ngồi dậy thật. Chu Ỷ vội nói:
    “Thôi được, cứ nằm đây đi. Chúng ta phải làm gì bây giờ? Huynh tự xưng là Gia Cát Lượng kia mà, gia gia vẫn khen huynh đa mưu túc trí.”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Vai ta đang đau dữ dội, không suy nghĩ được chuyện gì khác. Cô nương! Nhờ cô xem vết thương giùm ta.”

    Chu Ỷ bĩu môi nói:
    “Ta không muốn xem!”
    Miệng thì nói vậy, nhưng nàng vẫn cúi người xem xét, nhìn một lúc rồi nói:
    “Đâu có sao đâu? Hoàn toàn không chảy máu, da thịt vẫn nguyên mà.”

    Từ Thiên Hoằng ráng ngồi dậy, tay phải dùng mũi đơn đao khều một chỗ rách trên vai áo, nghiêng mắt nhìn rồi nói:
    “Chỗ này trúng phải ba mũi kim châm.”
    Ba mũi châm tuy nhỏ nhưng ghim sâu vào thịt, tới sát tận xương, khiến chàng đau đớn chẳng khác gì bị chém ba đao.

    Chu Ỷ hỏi:
    “Làm sao bây giờ? Hay chúng ta vào thị trấn tìm đại phu?”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Chuyện đó không được. Trận đánh đêm qua, cả vùng không ai không biết. Chúng ta ăn mặc thế này đi tìm đại phu trị thương thì chẳng khác gì tự chui vào lưới. Ba mũi kim đó đáng lẽ phải dùng nam châm để hút ra, nhưng lúc này không sao tìm được nam châm. Phiền cô lấy dao xẻ thịt để rút chúng ra vậy.”

    Chu Ỷ vừa ác chiến quá nửa đêm, giết không ít quan quân mà sắc mặt vẫn không thay đổi, nhưng bây giờ nghĩ tới chuyện cầm dao xẻ vào da thịt Từ Thiên Hoằng thì không khỏi chần chừ.

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Ta chịu được mà, cô cứ ra tay đi... Khoan đã, chờ một lát.”

    Chàng xé một miếng vải áo mình ra, đưa cho nàng rồi hỏi:
    “Cô có mang theo mồi lửa không?”

    Chu Ỷ sờ vào bọc rồi nói:
    “Có! Huynh làm gì vậy?”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Phiền cô đi lượm một ít cành cây và cỏ khô đốt lên thành tro. Sau khi rút kim châm ra, lấy tro phủ lên vết thương rồi dùng mảnh vải này buộc chặt lại.”

    Chu Ỷ theo lời, đốt một đống tro lớn rồi hỏi đủ chưa. Từ Thiên Hoằng mỉm cười đáp:
    “Chừng đó đủ để bó một trăm vết thương.”

    Chu Ỷ giận dữ nói:
    “Ta chỉ là thứ nha đầu ngu ngốc. Huynh tự mình làm đi.”

    Từ Thiên Hoằng mỉm cười:
    “Ta lỡ lời, mong cô nương đừng giận.”

    Chu Ỷ hừ một tiếng:
    “Người như huynh mà cũng biết mình sai hay sao?”
    Tay phải nàng xách đơn đao lên, tay trái ấn lên vai Từ Thiên Hoằng gần chỗ vết thương. Khi ngón tay chạm vào da thịt chàng, nàng bất giác xấu hổ rụt tay lại, mặt mũi nóng bừng.

    Thấy nàng đột nhiên đỏ mặt, Từ Thiên Hoằng tuy mang ngoại hiệu Võ Gia Cát mà cũng không hiểu chuyện gì, phải hỏi:
    “Cô nương sợ hay sao?”

    Chu Ỷ khẽ đáp:
    “Ta mà sợ gì? Chính huynh mới sợ đó. Quay đầu chỗ khác đi, đừng nhìn.”
    Từ Thiên Hoằng nghe lời quay đi. Chu Ỷ bóp chặt chỗ trúng kim châm, đưa đao chích vào thịt rồi nhẹ xoay mũi đao một chút, máu tươi lập tức trào ra. Từ Thiên Hoằng cắn chặt răng không để bật lên tiếng kêu nào, nhưng những giọt mồ hôi lớn như hạt đậu đã tuôn ướt đẫm đầu. Chu Ỷ phanh vết thương ra để lộ đuôi kim châm, kéo áo Từ Thiên Hoằng lau bớt máu tươi cho dễ nhìn, rồi đưa hai ngón tay kẹp chặt, dùng sức rút ra.

    Sắc mặt Từ Thiên Hoằng trắng bệch, nhưng vẫn cố mỉm cười:
    “Tiếc là loại kim này không có lỗ xâu chỉ, không thì có thể tặng cho cô nương thêu thùa.”

    Chu Ỷ đáp:
    “Ta không biết thêu thùa gì cả. Mấy năm trước mẹ có bắt thử ta thêu, nhưng mới được mấy đường ta đã làm gãy kim, hỏng luôn cả khung thêu. Mẹ mắng, ta bèn nói: “Mẹ! Con thêu không được. Mẹ dạy cho con đi.” Huynh đoán xem mẹ ta nói gì?”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Chắc phu nhân gọi cô nương tới để dạy.”

    Chu Ỷ nói:
    “Sai rồi! Bà nói lúc này không rảnh. Sau này ta mới nghĩ ra, thì ra bà cũng không biết thêu thùa.”
    Từ Thiên Hoằng cười ha hả. Trong lúc nói chuyện, nàng lại rút một cây kim châm nữa ra.

    Chu Ỷ mỉm cười nói tiếp:
    “Ta vốn cũng không thích học thêu, nhưng khi biết mẹ cũng không hiểu chuyện thêu thùa thì ta lại một mực đòi bà dạy ta. Bà bị quấy rầy không sao chịu nổi bèn nói: “Thôi thôi! Nếu con làm phiền ta nữa, thì ta sẽ mách cha mắng con đấy.” Bà lại nói: “Nếu con không chịu học thêu thùa thì sau này...” Nói đến đây, nàng đột nhiên dừng lại. Rõ ràng lúc đó Chu phu nhân nói là: “Sau này thử xem con có lấy được chồng hay không.”

    Từ Thiên Hoằng hỏi kỹ:
    “Sau này thì sao?”

    Chu Ỷ gắt:
    “Ta không muốn nói chuyện đó nữa, huynh đừng lải nhải.”

    Miệng nói chuyện nhưng tay nàng vẫn không dừng, mũi kim châm thứ ba đã được rút ra. Sau đó nàng lấy tro đắp lên vết thương, rồi lấy vải buộc chặt lại.

    Chu Ỷ thấy Từ Thiên Hoằng máu me đầy mình mà vẫn nói chuyện vui vẻ, không khỏi phục thầm:
    “Tên này tuy thấp lùn, nhưng xem ra cũng là một nhân vật anh hùng. Nếu người ta xẻo vào thịt mình, chắc mình phải la hét ầm ĩ, kêu cha gọi mẹ.”
    Nghĩ đến song thân, nàng không khỏi chạnh lòng. Lúc này nàng thấy tay mình đầy máu, bèn nói:
    “Huynh nằm đây đừng nhúc nhích, để ta đi tìm một ít nước uống.”

    Chu Ỷ quan sát địa thế một lúc rồi chạy ra khỏi khu rừng, được vài trăm bước thì thấy một con suối nhỏ. Mưa to mới dứt, nước suối còn chảy rất mạnh. Nàng rửa sạch máu trên tay rồi cúi người xuống suối, đột nhiên thấy bóng mình dưới nước, đầu tóc bù xù, y phục ẩm ướt nhăn nheo, mặt đầy bùn đất, nhìn không ra con người nữa. Nàng bất giác nghĩ:
    “Hỏng bét! Hắn đã thấy bộ dạng tiều tụy của mình rồi.”

    Chu Ỷ lập tức soi mình dưới suối để rửa mặt sạch sẽ, dùng mười ngón tay làm lược cào sơ lại mái tóc, thắt bím đàng hoàng. Sau đó nàng vốc ít nước uống, tự nhủ:
    “Chắc hắn cũng đang khát nước.”
    Nhưng không có gì để đựng, nàng chần chừ một chút rồi nghĩ ra, lấy trong bao lưng ra một cái áo, giặt giũ sạch sẽ rồi thấm ướt sũng, xách chạy về.

    Lúc nãy Từ Thiên Hoằng ráng chịu đau để làm bộ tươi cười trò chuyện với Chu Ỷ, bây giờ thì không sao chống đỡ nổi nữa. Lúc nàng quay lại, chàng đang đau đến chết đi sống lại. Chu Ỷ thấy chàng như vậy mà vẫn cố giả vờ không sao, không khỏi thương xót trong lòng. Nàng kêu chàng há mồm, vắt nước trong áo vào cho, rồi hỏi:
    “Huynh đau lắm phải không?”

    Xưa nay Từ Thiên Hoằng vẫn coi cô nương này là một đối thủ đấu trí, hoàn toàn không có tình cảm nam nữ gì. Không ngờ khi chàng bị thương, nàng lại là bằng hữu duy nhất chăm sóc cho mình, nên những nghi kỵ trước đây hoàn toàn quên hết. Lúc này Chu Ỷ lại lộ vẻ quan tâm chàng tha thiết. Cả đời chàng lăn lộn giang hồ không màng sống chết, đối mặt với biết bao âm mưu quỉ kế, chưa bao giờ được nghe những lời dịu dàng như vậy. Họ Từ không nén nổi cảm động, ngẩn ra nhìn nàng không biết nói gì.

    Chu Ỷ thấy chàng ngơ ngác, tưởng thần trí chàng vẫn còn mơ hồ liền hỏi:
    “Sao rồi? Huynh thấy sao rồi?”

    Từ Thiên Hoằng định thần đáp lại:
    “Đỡ hơn rồi, cảm ơn cô!”

    Chu Ỷ hừ một tiếng:
    “Ta không cần huynh cảm ơn.”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Chúng ta ở đây không tiện, nhưng cũng không thể vào thành, chắc phải tìm một nông gia ở chỗ tương đối hoang vắng. Chúng ta cứ nói mình là huynh muội...”

    Chu Ỷ tán đồng:
    “Ta sẽ gọi huynh là Từ ca ca.”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Lúc nào cô cũng thấy ta lớn tuổi, vậy gọi ta là thúc thúc đi.”

    Chu Ỷ cãi:
    “Huynh đâu có già quá, kêu huynh là ca ca được rồi. Nhưng chỉ trước mặt người khác thôi, lúc không có ai thì ta không gọi như vậy đâu.”

    Từ Thiên Hoằng cười nói:
    “Được rồi, không gọi thì không gọi. Chúng ta nói với họ là dọc đường gặp phải đại quân, hành lý bị người ta cướp hết, lại còn bị đánh một trận nữa.”

    Hai người bàn bạc xong xuôi, Chu Ỷ bèn dìu chàng dậy. Từ Thiên Hoằng bảo nàng:
    “Cô cưỡi ngựa đi. Chân ta không bị thương, đi lại chẳng trở ngại gì.”

    Chu Ỷ quát:
    “Mau lên ngựa đi! Huynh quá coi thường nữ nhân rồi đó.”
    Từ Thiên Hoằng không còn cách nào khác, đành phải nghe lời. Hai người ra khỏi rừng, tìm một con đường nhỏ nhắm hướng mặt trời mà đi.

    Tây Bắc là vùng hoang vu, không giống miền nam Trung Quốc chỗ nào cũng đông dân nhiều ruộng. Hai người đi hơn một canh giờ, vừa đói vừa mệt, khó khăn lắm mới nhìn thấy một làn khói mỏng manh, đến gần mới biết đó là một căn nhà vách đất. Từ Thiên Hoằng xuống ngựa gõ cửa, hồi lâu mới có một bà lão bước ra. Bà cụ thấy trang phục hai người lôi thôi lếch thếch, không khỏi tần ngần. Từ Thiên Hoằng đem những chuyện đã bàn tính trước nói qua, rồi hỏi xin bà cụ chút gì ăn lót dạ.

    Bà lão kia than thở:
    “Quan quân chỉ giỏi tàn hại dân chúng. Xin hỏi khách quan họ gì?”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Cháu họ Chu.”
    Chu Ỷ liếc chàng một cái, nhưng im lặng không nói. Từ Thiên Hoằng nhìn lại nàng, cũng không nói.

    Bà lão dẫn họ vào nhà, lấy cho mấy cái bánh. Hai người đói bụng đã lâu, tuy bánh làm bằng lúa mạch vừa đen vừa xấu, rất thô kệch, nhưng vẫn cảm thấy hương vị ngọt ngào.

    Bà lão nói mình họ Đường, chỉ có một đứa con trai. Một hôm con bà vào thị trấn bán củi bị chó cắn, giận dữ lấy đòn gánh phang chết con chó, không may đó là chó nhà giàu. Con trai bà bị tên nhà giàu đó kêu gia đinh đánh cho một trận, về nhà vừa đau vừa tức, chẳng bao lâu thì qua đời. Cô con dâu còn trẻ tuổi, nhất thời suy nghĩ nông cạn, giữa đêm thắt cổ chết theo chồng, để lại một mình bà lão cô đơn.

    Bà lão vừa kể vừa chảy nước mắt, Chu Ỷ nghe xong nổi giận, hỏi ngay tên nhà giàu tên là gì, ở đâu. Bà lão nói:
    “Tên sát nhân đó cũng họ Đường. Trước mặt thì người ta gọi là Đường Lão Gia, Đường Tú Tài, còn sau lưng thì gọi là Đường Thạch Tín. Lão ở trong thị trấn, tòa nhà lớn nhất thị trấn này chính là nhà lão.”

    Chu Ỷ hỏi:
    “Không hiểu đó là thị trấn gì, ở hướng nào?”

    Bà lão trả lời:
    “Từ đây đi về hướng bắc khoảng năm dặm đường, qua khỏi ngọn đồi là ra đường cái, đi thêm về hướng đông hai mươi dặm nữa là tới. Thị trấn đó tên là Văn Quang trấn.”

    Chu Ỷ đứng dậy, cầm đơn đao lên nói với Từ Thiên Hoằng:
    “Ca ca! Muội phải ra ngoài một chút. Ca ca cứ ở đây nghỉ ngơi.”

    Từ Thiên Hoằng nhìn mặt là biết nàng muốn đi giết tên thạch tín bọc đường đó, vội ngăn cản:
    “Muội muốn ăn kẹo phải không? Để tối nay hãy ăn.”
    Chu Ỷ ngẩn ra một chút, hiểu ý chàng liền gật đầu ngồi xuống.

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Bà bà! Cháu đang bị thương đi lại không tiện, muốn xin bà bà cho nghỉ lại một đêm.”

    Bà lão chậm rãi đáp:
    “Ở lại thì không sao, nhưng gia đình nghèo quá chẳng có gì tiếp đãi, khách quan đừng chê cười.”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Bà bà chịu cho chúng cháu nghỉ lại là cảm kích lắm rồi. Muội muội cháu ướt hết, bà bà có quần áo cũ không? Phiền bà bà cho mượn một bộ để thay.”

    Bà lão đáp:
    “Con dâu lão còn để lại y phục, nếu cô nương không chê thì mặc thử xem sao, chắc cũng vừa.”
    Chu Ỷ liền đi thay quần áo, lúc trở ra đã thấy Từ Thiên Hoằng nằm ngủ trên giường của con trai bà lão rồi.

    Đến xế chiều, Từ Thiên Hoằng bắt đầu nói năng lảm nhảm. Chu Ỷ sờ trán thấy chàng sốt cao, đoán là vết thương phát tác. Nàng biết tình trạng nguy hiểm mà không biết phải làm sao, không khỏi hoảng hốt. Nàng hết giận Từ Thiên Hoằng lại đến giận mình, vung đao chém loạn xạ xuống đất, một lúc thì bật khóc. Bà lão vừa thương vừa sợ, không dám khuyên can.
    Chu Ỷ khóc một hồi rồi hỏi:
    “Trong trấn có đại phu không?”

    Bà lão trả lời:
    “Có! Tào Tư Bằng là đại phu giỏi nhất vùng này. Nhưng ông ấy rất phách lối, xưa nay không chịu đến những nơi thôn dã như thế này để khám bệnh. Khi con lão bị thương nặng, lão đã cùng con dâu lạy ông ấy mười bảy mười tám cái, nhưng năn nỉ thế nào, van xin thế nào, ông ấy cũng không chịu đến đây...”

    Chu Ỷ không đợi bà lão dứt lời, lau nước mắt mà nói:
    “Bây giờ cháu đi mời ông ấy. Nhờ bà bà chăm sóc giùm ca ca của cháu.”

    Bà lão nói:
    “Cô nương cứ yên tâm mà đi. Chỉ e Tào đại phu không chịu đến đây thôi.”

    Chu Ỷ mặc kệ, giấu đơn đao vào yên ngựa, phi một mạch đến trấn Văn Quang thì trời đã nhá nhem tối. Đi qua một quán cơm có bán rượu, mùi rượu bay tới khiến nàng không nén nổi cơn thèm, nhưng lại nghĩ:
    “Ta phải mời đại phu về trị thương cho huynh ấy trước đã. Ngày tháng còn dài, lo gì sau này không có rượu uống.”
    Nàng thấy phía trước có một người đi tới, liền hỏi rõ nơi ở của Tào Tư Bằng rồi đi thẳng đến đó.

    Chu Ỷ tới nhà họ Tào, gõ cửa mất nửa ngày mới có một gia nhân đi ra. Hắn lớn tiếng hỏi:
    “Trời tối mịt rồi còn gõ cửa ầm ĩ như vậy làm gì? Báo tin người chết hay sao?”

    Chu Ỷ giận dữ nhưng nghĩ mình đến đây là để cầu xin người ta, nên không tiện nổi xung ngay. Nàng nhẫn nhịn nói:
    “Ta đến mời Tào đại phu đi khám bệnh.”

    Hắn nói luôn:
    “Không có nhà “,
    rồi không hỏi han gì nữa, quay lưng đóng cổng.

    Chu Ỷ vừa giận dữ vừa lo lắng, lập tức túm lấy vai gã xách ra ngoài cửa, rút đơn đao ra hỏi:
    “Tào đại phu có nhà không?”

    Hắn hoảng sợ đến nỗi hồn lìa khỏi xác, run rẩy nói:
    “Thật mà... không có nhà thật mà.”

    Chu Ỷ lại hỏi:
    “Đang ở đâu? Nói nhanh lên.”

    Hắn đáp:
    “Lão gia đến chỗ Tiểu Mai Quế rồi.”

    Chu Ỷ liếc đao vào mũi hắn, hét lên:
    “Tiểu Mai Quế là cái gì, ở đâu?”

    Hắn đáp:
    “Tiểu Mai Quế là một người...”

    Chu Ỷ quát luôn:
    “Nói bậy! Làm gì có ai tên là Tiểu Mai Quế?”

    Hắn hoảng sợ lắp bắp:
    “Đại... đại vương cô nương! Tiểu Mai Quế là một cô gái lầu xanh.”

    Chu Ỷ giận dữ hỏi:
    “Ta nghe nói lầu xanh là chỗ đê tiện. Lão gia ngươi đến đó làm gì?”

    Tên gia nhân kia nghĩ thầm:
    “Con nhãi này hung hãn bá đạo, nhưng chẳng hiểu việc đời gì cả.”
    Hắn muốn cười nhưng không dám cười, chỉ còn cách im lặng.

    Chu Ỷ giận dữ hỏi tiếp:
    “Ta hỏi ngươi, tại sao ngươi không nói?”

    Hắn đành kiếm cách trả lời:
    “Cô ấy là tình nhân của lão gia.”

    Chu Ỷ bây giờ mới hiểu, thở ra một hơi rồi ra lệnh:
    “Dẫn ta đi ngay, đừng có lảm nhảm nữa.”

    Tên kia ấm ức nghĩ:
    “Ta lảm nhảm hồi nào, chuyện gì cũng do ngươi hỏi mà!”
    Nhưng lưỡi đao lạnh ngắt đang kề cổ, dĩ nhiên hắn không dám không nghe lời.

    Hai người đi đến trước cửa một ngôi nhà nhỏ, tên gia nhân nói:
    “Đến nơi rồi.”

    Chu Ỷ bảo:
    “Ngươi gõ cửa đi, kêu đại phu ra đây.”

    Tên kia ngoan ngoãn làm theo. Tú bà bước ra mở cửa, hắn nói:
    “Có người đến tìm lão gia khám bệnh, tiểu nhân nói là lão gia không rảnh, nhưng cô ấy không tin, ép tiểu nhân dẫn đến đây tìm.”
    Mụ tú bà liếc xéo hắn một cái rồi đóng sầm cửa lại.

    Chu Ỷ đứng sau lưng muốn chạy lên ngăn cản nhưng không kịp. Nàng đập cửa ầm ầm như đánh trống, nhưng bên trong chẳng có ai trả lời. Nàng giận dữ đá vào lưng tên kia một cước, hét lên:
    “Cút mau! Đừng láng cháng trước mặt làm bổn cô nương nổi nóng.”
    Hắn bị đá nhào sấp xuống đất như chó ăn phân, lẩm bẩm thóa mạ rồi bò lê bò càng chạy biến.

    Chu Ỷ đợi hắn đi xa mới tung người nhảy vào trong sân, nhìn thấy một căn phòng có ánh đèn hắt qua khung cửa sổ giấy, liền nhẹ nhàng cúi người đi tới. Nàng nghe bên trong có tiếng hai nam nhân thì cả mừng, chỉ lo tên đại phu kia đang làm chuyện bậy bạ với ả Tiểu Mai Quế thì mình không biết phải hành động ra sao. Chu Ỷ thấm nước bọt ướt đầu ngón tay, chọc thủng giấy dán cửa sổ, ghé mắt nhìn vào.

    Nàng thấy trong phòng có hai nam nhân đang ngồi trên giường nói chuyện, một tên thân hình to lớn, còn tên kia ốm yếu dài ngoằng. Một cô nàng yểu điệu đang đấm bóp cho tên ốm yếu. Chu Ỷ muốn quát gọi Tào Tư Bằng ra ngoài, nhưng bỗng thấy hán tử to cao phẩy tay một cái. Cô ả kia đứng dậy, mỉm cười nói:
    “Hai vị đại ca lại muốn thương lượng những chuyện hại người nữa rồi phải không? Lo mà tích đức cho con cháu đi, nếu không sau này đẻ con không có hậu môn thì khốn đấy!”

    Hán tử cao to vừa cười vừa mắng:
    “Về mà ngửi cái hậu môn thúi của mẹ cô đi.”
    Cô ả cũng cười, ra ngoài đóng chặt cửa lại, đi ra nhà sau. Chu Ỷ nghĩ bụng:
    “Ả này chắc là Tiểu Mai Quế. Thật là đồ mặt dày, nhưng kể ra ả nói cũng có lý.”

    Trong phòng, hán tử to cao lấy ra bốn thỏi bạc đặt trên bàn rồi nói:
    “Tào lão ca, đây là hai trăm lượng bạc. Chúng ta đã thương lượng lâu rồi, vẫn giá cũ nhé.”

    Gã ốm đáp lời:
    “Đường lục gia! Mấy ngày nay quân binh đi qua huyện thành chúng ta, Lục gia được giao cung ứng quân lương, thế là phát tài thêm một món nữa rồi.”
    Chu Ỷ nghe mấy câu này vừa mừng vừa giận. Nàng mừng là cái tên thạch tín bọc đường cũng ở đây, không cần phải vất vả đi tìm nữa. Còn giận là vì đạo quân kia đã làm mình cực khổ như vậy, mà tên này còn giúp đỡ chúng hãm hại người khác.

    Hán tử cao to nói:
    “Bọn dân đen cũng láu cá lắm. Huynh tưởng là chúng ngoan ngoãn nộp lương thảo cho đệ hay sao? Mấy ngày nay đệ chạy đông chạy tây, mệt chết cả người.”

    Tên ốm nói:
    “Lão đệ mang hai gói thuốc này về, tha hồ mà khỏe lại. Gói giấy đỏ thì cho con nhỏ kia uống, chỉ chốc lát là bất tỉnh nhân sự. Lúc đó lão đệ muốn làm gì thì làm, không cần ta chỉ bảo nữa.”
    Hai gã phá lên cười khả ố.

    Tên ốm lại tiếp:
    “Còn gói giấy đen thì cho thằng lỏi kia uống. Lão đệ nói là thuốc trị thương cho hắn, nhưng hắn uống vào thì vết thương sẽ chảy máu đến chết. Người khác nghĩ là vết thương vỡ miệng làm chết người, chứ không ai nghi ngờ là lão đệ hạ thủ. Lão đệ thấy ta tính toán thế nào?”

    Gã kia lập tức tán dương:
    “Cao minh, cao minh!”

    Tên ốm nói:
    “Lục gia! Lão đệ phen này được cả gái lẫn tiền mà chỉ cho ta có hai trăm lạng bạc, hình như hơi ít đấy.”

    Gã kia nói:
    “Tào đại ca! Huynh đệ chúng ta là người tử tế, không nói lời ám muội. Con nha đầu kia thật là xinh đẹp, nó ăn mặc như đàn ông mà ta còn dằn lòng không nổi, huống chi sau này được nhìn thấy nó cởi đồ. Ha ha, thịt mỡ đưa đến miệng, không biết hưởng thụ thì người ta sẽ lôi tổ tông mười tám đời nhà họ Đường ra mà chửi không biết dạy con cháu. Còn thằng nhãi kia thì thật sự chẳng có bao nhiêu tiền bạc, chỉ vì hai đứa đi chung, đã muốn chiếm lấy con nha đầu kia thì không thể cho hắn sống.”

    Gã ốm hỏi:
    “Không phải lão đệ nói hắn có một cây sáo đúc bằng vàng hay sao? Chỉ cây sáo đó thôi, ít ra cũng được mấy cân rồi chứ?”

    Hán tử cao to đáp:
    “Được rồi, được rồi! Tiểu đệ chồng thêm cho huynh năm chục lạng.”
    Hắn nói xong, đặt thêm một thỏi bạc lên bàn.

    Chu Ỷ càng nghe càng giận, phóng cước đá bật cửa phòng chạy thẳng vào trong. Hán tử to cao kêu lên một tiếng, phóng cước đá vào cổ tay cầm đao của nàng. Chu Ỷ xoay đơn đao lại, thuận tay chặt gãy chân phải hắn, rồi trở mủi đao đâm một nhát thấu tim.

    Gã ốm ngồi bên hoảng sợ ngẩn người, thân mình run rẩy, hai hàm răng va vào nhau lập cập. Chu Ỷ rút đao ra khỏi xác chết, lau sạch vết máu, rồi đưa tay trái nắm lấy ngực áo gã ốm quát hỏi:
    “Ngươi chính là Tào Tư Bằng phải không?”

    Đầu gối gã ốm kia nhũn ra, quì dưới đất nói:
    “Xin... Xin cô nương tha mạng... tiểu nhân không dám nữa.”

    Chu Ỷ nói:
    “Ai thèm lấy mạng ngươi? Đứng dậy!”

    Tào Tư Bằng run rẩy đứng dậy, nhưng hai chân bủn rủn đứng không nổi lại khuỵu xuống. Chu Ỷ lấy hai gói thuốc và năm thỏi bạc cất vào bọc rồi bảo:
    “Đi ra.”

    Tào Tư Bằng không biết nàng muốn gì, nhưng cũng chỉ còn cách từ từ đi ra ngoài, mở cửa lớn. Tú bà nghe tiếng động trong phòng, hỏi Tào Tư Bằng nhưng hắn không dám lên tiếng. Chu Ỷ kèm hắn đi lấy ngựa, rồi hai người lên ngựa chạy ra khỏi thị trấn.

    Chu Ỷ nắm dây cương ngựa hắn, gằn giọng:
    “Nếu ngươi dám kêu một tiếng, thì ta lập tức cắt cái đầu chó ngươi rớt xuống.”

    Tào Tư Bằng vội đáp:
    “Không... không dám!”

    Chu Ỷ giận dữ nói:
    “Ai nói ta không dám? Ta cắt cho ngươi coi.”
    Nói xong nàng rút đơn đao ra.

    Tào Tư Bằng run rẩy nói:
    “Không... Không... Không phải cô nương không dám... Là... Là tiểu nhân không dám.”

    Chu Ỷ bật cười, cất đao vào bọc nghĩ bụng:
    “Quả thực ta không dám cắt cái đầu chó của ngươi. Cắt rồi thì ai trị bệnh cho huynh ấy đây.”

    Không đầy hai canh giờ, hai người đã về đến nhà bà lão. Chu Ỷ đến bên giường Từ Thiên Hoằng, thấy chàng vẫn nằm thiêm thiếp, mặt mũi đỏ bừng, người nóng hầm hập. Nàng đẩy Tào Tư Bằng tới, nói:
    “Vị ca ca này đã bị thương. Ngươi mau trị bệnh cho huynh ấy đi.”

    Tào Tư Bằng biết đối phương muốn nhờ mình trị bệnh, bấy giờ mới yên tâm trở lại, không đến nỗi kinh tâm động phách như trước. Hắn bắt mạch cho Từ Thiên Hoằng, rồi cởi băng vải trên vai chàng ra xem. Khám xong, hắn nhìn sắc mặt chàng lắc đầu quầy quậy rồi nói:
    “Huyết khí vị gia gia này rất yếu, hư hỏa đã bốc lên...”

    Chu Ỷ ngắt lời:
    “Ai cần ngươi nói mấy chuyện đó? Chỉ cần trị bệnh huynh ấy cho tốt, trị không lành thì đừng hòng rời khỏi chỗ này.”

    Tào Tư Bằng nói:
    “Để tiểu nhân về thị trấn lấy thuốc, không có thuốc thì chẳng làm được gì cả.”

    Bấy giờ Từ Thiên Hoằng đã tỉnh lại một chút, nằm nghe hai người cãi vã. Chu Ỷ hỏi:
    “Ngươi tưởng ta là con nít ba tuổi hay sao? Ngươi kê toa đi, để ta đi bốc thuốc.”

    Tào Tư Bằng không làm gì được, đành chịu thua:
    “Vậy nhờ cô nương đi lấy bút mực để tiểu nhân kê toa.”

    Nơi hoang dã nghèo nàn này kiếm đâu ra bút mực. Chu Ỷ chau mày không biết phải làm sao. Tào Tư Bằng đắc ý nói:
    “Bệnh tình vị gia gia này không thể chờ đợi thêm nữa. Cứ để tiểu nhân về thị trấn lấy thuốc là tốt nhất.”

    Từ Thiên Hoằng lên tiếng:
    “Muội muội! Muội lấy một cây củi đốt thành than, viết lên giấy bản. Không có giấy thì viết lên ván gỗ cũng được.”

    Chu Ỷ mừng rỡ:
    “Ca ca đúng là lắm mưu nhiều kế.”
    Nàng theo lời Từ Thiên Hoằng đốt một miếng than, rồi xin bà lão được một tờ giấy vàng dùng để thắp hương cúng Phật. Tào Tư Bằng đành phải kê toa.

    Chu Ỷ đợi hắn viết xong, rồi tìm một sợi dây trói ngược cả tay chân hắn vào cạnh giường. Nàng để đơn đao của Từ Thiên Hoằng cạnh gối chàng, rồi dặn bà lão:
    “Cháu vào thị trấn bốc thuốc. Nếu tên cẩu đại phu này muốn chạy trốn thì bà gọi ca ca của cháu dậy, chặt đầu hắn trước rồi tính sau.”

    Chu Ỷ cưỡi ngựa vào thị trấn, tìm được một tiệm bán thuốc. Nàng gọi cửa, hốt mười mấy thang thuốc tổng cộng là một lạng ba tiền. Lúc sờ vào túi, nàng mới biết là vội vã quên cả mang tiền, năm thỏi bạc đã để ở nhà bà lão, liền nói:
    “Cho ta nợ, lát nữa đem tiền tới trả.”

    Người giúp việc trong tiệm lo lắng kêu lên:
    “Cô nương, không được đâu. Cô không phải là người vùng này, huống chi bổn tiệm vốn liếng cũng eo hẹp lắm.”

    Chu Ỷ giận dữ nói:
    “Thế thì chỗ thuốc này coi như ta mượn, sau này ngươi bệnh ta sẽ đem trả cho ngươi.”

    Người giúp việc nói:
    “Đây là thuốc trị thương. Tiểu nhân đâu có bị thương bao giờ?”

    Chu Ỷ lại càng giận dữ:
    “Chẳng lẽ ngươi bị đao chém cũng bình an vô sự hay sao?”
    Nàng rút đơn đao nghe soạt một tiếng, hét lên:
    “Ta thử thí nghiệm một đao xem ngươi có bị thương hay không.”
    Gã kia thấy lưỡi đao sáng loáng trước mặt, hai chân bủn rủn ngồi bẹp xuống đất, rồi chui ngay vào gầm bàn.

    Chu Ỷ là thiên kim tiểu thư con nhà gia thế, khác hẳn Lạc Băng. Hôm nay nàng dùng vũ lực ép người lấy thuốc là chuyện bất đắc dĩ. Đây là lần đầu tiên trong đời nàng làm thế, nên cảm thấy rất khó chịu trong lòng, im lặng lấy thuốc rồi lên ngựa. Lúc này trời đã sáng dần, dọc đường đầy bọn quan sai địa phương qua lại tuần tra. Chu Ỷ biết vụ án giết thạch tín bọc đường đã bị phát giác, bèn nép vào một góc chờ vắng người mới cho ngựa chạy thật nhanh, về tới nhà bà lão thì trời sáng hẳn. Nàng cùng với bà lão sắc thuốc, rót vào cái chén mẻ mang tới bên giường Từ Thiên Hoằng, gọi chàng dậy uống thuốc.

    Từ Thiên Hoằng thấy đầu nàng vừa đen bồ hóng vừa đẫm mồ hôi, tóc vương đầy cỏ thì nghĩ thầm:
    “Chắc nàng chưa bao giờ phải làm những việc đun nấu thế này.”
    Chàng không nén nổi cảm kích, ngồi dậy đón lấy chén thuốc, nhưng chợt nảy ra một ý, liền đẩy chén thuốc đến trước mặt Tào Tư Bằng nói:
    “Ngươi uống hai hớp trước đi.”

    Tào Tư Bằng hơi chần chừ. Chu Ỷ chưa hiểu ý Từ Thiên Hoằng, nhưng cũng hùa theo:
    “Đúng, đúng, bắt hắn uống trước là phải. Huynh chưa biết đâu, tên này tồi tệ lắm.”

    Tào Tư Bằng chỉ còn cách mở miệng uống hai hớp thuốc. Từ Thiên Hoằng nói:
    “Muội muội! Muội ngồi nghỉ một chút, thuốc này lát nữa hãy uống.”

    Chu Ỷ hỏi:
    “Tại sao vậy?”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Xem thử hắn có chết hay không.”

    Chu Ỷ đồng tình:
    “Đúng vậy. Nếu hắn chết thì thuốc này không uống được.”
    Nàng bèn cầm đèn dầu rọi vào Tào Tư Bằng, trừng mắt nhìn chằm chặp xem hắn có chết hay không.

    Tào Tư Bằng cười khổ nói:
    “Đã là đại phu thì phải có tấm lòng cắt thịt chữa người, sao có thể hại người được?”

    Chu Ỷ giận dữ nói:
    “Ngươi lén lút thương lượng với Đường Thạch Tín mưu hại cô nương nhà người ta, mưu lấy kim địch của người ta, những chuyện này ta nghe thấy hết. Bây giờ lại còn oai phong lỗ miệng ư?”

    Từ Thiên Hoằng nghe thấy hai chữ “kim địch”, vội vàng hỏi rõ. Chu Ỷ kể lại mọi chuyện, cả chuyện mình giết gã thạch tín bọc đường kia. Nói đến đây, nàng sực nhớ liền chạy ra ngoài thuật lại với bà lão chuyện mình vừa trả thù cho con trai và con dâu bà. Bà lão nước mắt giọt ngắn giọt dài, vừa khóc vừa cảm ơn, miệng không ngừng niệm phật.

    Từ Thiên Hoằng đợi Chu Ỷ quay vào mới hỏi Tào Tư Bằng:
    “Người cầm ống sáo vàng trông như thế nào? Còn nữ nhân cải nam trang kia là ai?”

    Chu Ỷ rút đơn đao ra uy hiếp:
    “Nếu ngươi không nói rõ ràng thì lưỡi đao này kết liễu ngươi ngay.”

    Tào Tư Bằng cực kỳ sợ hãi nói:
    “Tiểu... tiểu nhân nói thật... Hôm qua Đường lục gia đến tìm tiểu nhân, nói rằng trong nhà hắn có hai người đến tá túc, một người bị thương nặng, người kia là một thiếu niên tuấn tú đẹp trai. Hắn không muốn giữ họ lại, nhưng thấy thiếu niên kia đẹp kỳ lạ nên mới cho nghỉ nhờ một đêm. Sau này nghe thiếu niên đó ăn nói nhỏ nhẹ dịu dàng, cử chỉ thần sắc giống như con gái, lại không chịu ở cùng phòng với hán tử bị thương, nên hắn mới đoán là nữ cải nam trang.”

    Chu Ỷ nói:
    “Vì thế mà hắn đến mua thuốc của ngươi phải không?”

    Tào Tư Bằng ấp úng:
    “Tiểu nhân đáng chết.”

    Từ Thiên Hoằng hỏi:
    “Hán tử kia dáng vẻ như thế nào?”

    Tào Tư Bằng đáp:
    “Đường lục gia có gọi tiểu nhân xem thử. Người đó khoảng hai ba hai bốn tuổi, ăn mặc kiểu văn sĩ, trên người bị đao và côn đả thương bảy tám chỗ.”

    Từ Thiên Hoằng lại hỏi:
    “Bị thương có nặng lắm không?”

    Tào Tư Bằng đáp:
    “Hơi nặng nhưng đều là ngoại thương cả, không có vết thương nào trí mạng.”

    Từ Thiên Hoằng cảm thấy không hỏi thêm gì được, bèn đưa tay bê chén thuốc uống. Không ngờ chàng yếu quá, tay run rẩy làm thuốc sánh ra ngoài. Chu Ỷ thấy vậy liền giành lấy chén thuốc, kề lên miệng chàng. Từ Thiên Hoằng uống hết chén thuốc rồi nói:
    “Đa tạ.”

    Tào Tư Bằng nghe vậy nghĩ thầm:
    “Hai tên này không phải là huynh muội. Làm gì có ông anh nào đa tạ vì em gái mình sắc thuốc?”

    Từ Thiên Hoằng uống hết chén thuốc rồi ngủ một giấc, mồ hôi toát ra đầm đìa. Đến chiều chàng lại uống thêm một chén nữa. Nhân phẩm Tào Tư Bằng tuy tồi tệ nhưng y thuật lại khá cao minh, quả nhiên chữa được bệnh cho chàng. Sáng hôm sau Từ Thiên Hoằng đã có thể bước xuống giường.

    Lại thêm một ngày nữa, Từ Thiên Hoằng nghĩ mình đã ráng cưỡi ngựa được, liền nói với Chu Ỷ:
    “Người cầm kim địch chính là Thập tứ đệ của ta, không biết tại sao lại lạc vào nhà tên ác bá đó. Tuy hắn đã bị cô giết chết, trước mắt không có gì đáng lo ngại, nhưng ta vẫn không yên tâm. Tối nay chúng ta đi thám thính một chút xem sao.”

    Chu Ỷ hỏi:
    “Người đó là Thập tứ đệ của huynh hay sao?”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Y đã từng tới Thiết Đảm Trang, cô cũng gặp rồi. Đó chính là người đầu tiên mà tổng đà chủ của ta phái đi thám thính tin tức.”

    Chu Ỷ nói:
    “À ra thế! Nếu biết trước là huynh ấy thì ta đã đón đến đây dưỡng thương cùng huynh rồi. Như vậy không phải tốt hơn hay sao?”

    Từ Thiên Hoằng mỉm cười, một lúc bỗng trầm ngâm tự hỏi:
    “Nữ nhân cải nam trang đó là ai nhỉ?”

    Đến xế chiều, Chu Ỷ tặng cho bà lão hai thỏi bạc, bà cảm ơn cả ngàn lần rồi mới chịu nhận lấy. Sau đó Chu Ỷ nhấc bổng Tào Tư Bằng lên, đưa đao xẻo vành tai phải của hắn rơi xuống đất, hét lớn:
    “Vì ngươi đã chữa trị cho ca ca ta nên ta mới tha cái mạng chó này. Nếu sau này ngươi tiếp tục làm chuyện bậy bạ thì cứ nhìn gương gã thạch tín bọc đường, một đao là mất mạng.”

    Tào Tư Bằng đưa tay bịt vết thương, rên rỉ luôn mồm:
    “Không dám.”

    Chu Ỷ nạt:
    “Ai nói ta không dám?”

    Tào Tư Bằng xua tay lia lịa:
    “Không phải! Không phải cô nương không dám mà là tiểu nhân không dám.”

    Từ Thiên Hoằng lên tiếng:
    “Ba tháng sau chúng ta sẽ quay lại đây, khi đó sẽ đến bái phỏng Tào đại phu.”

    Tào Tư Bằng lại nói:
    “Không dám! Không dám! À không phải! Không phải đại gia không dám bái phỏng, mà tiểu nhân không dám, không dám không đón tiếp.”

    Chu Ỷ bảo:
    “Huynh lấy ngựa hắn mà cưỡi, chúng ta đi thôi.”

    Hai người lên ngựa đi về hướng Văn Quang trấn. Dọc đường Chu Ỷ hỏi:
    “Ba tháng sau chúng ta trở lại đây để làm gì?”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Ta gạt tên đại phu đó để hắn khỏi làm khó dễ lão bà.”

    Chu Ỷ gật đầu, đi thêm một đoạn lại hỏi:
    “Tại sao lúc nào huynh cũng xảo quyệt lừa gạt người khác? Ta chẳng thích như vậy chút nào.”

    Từ Thiên Hoằng không đáp ngay được, hồi lâu mới nói:
    “Cô nương chưa biết, nhân vật giang hồ lòng dạ xảo trá khó lường. Đối với bạn bè thì đương nhiên phải lấy nhân nghĩa làm đầu, nhưng đối với tiểu nhân mà cô nương thật lòng thì chỉ tổ chuốc lấy thiệt thòi, bị lừa mất mạng cũng nên.”

    Chu Ỷ nói:
    “Gia gia ta vẫn dạy, thà mình chịu thiệt thòi một chút chứ không được hiếp đáp người khác.”

    Từ Thiên Hoằng gật gù:
    “Đó chính là điểm hơn người của gia gia cô nương. Vì thế mà trong giang hồ bất kể hắc đạo hay bạch đạo, bất kể quan lại hay lục lâm, không ai không coi Thiết đảm trang Chu lão gia là anh hùng hảo hán đại nhân đại nghĩa, mọi người đều muôn phần thán phục.”

    Chu Ỷ hỏi:
    “Sao huynh không học theo gia gia ta?”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Chu lão gia tử bản tính nhân hậu. Con người tính tình xảo quyệt cổ quái như ta làm sao mà học được?”

    Chu Ỷ nói:
    “Ta ghét nhất là tính khí xảo quyệt cổ quái như huynh. Gia gia vẫn nói, chỉ cần mình đối xử tốt với người ta là đương nhiên người ta cũng đối xử tốt với mình.”

    Từ Thiên Hoằng ngẫm nghĩ, nhất thời không biết nói gì. Chu Ỷ hỏi:
    “Sao? Huynh không vui rồi hả? Lại muốn tìm cách trêu ghẹo ta phải không?”

    Từ Thiên Hoằng bắt chước giọng lưỡi Tào Tư Bằng:
    “Không dám! Không dám! Là tiểu nhân không dám, không phải cô nương không dám.”

    Chu Ỷ phì cười:
    “Người tốt không chịu học, lại đi học tên cẩu đại phu kia.”

    Từ Thiên Hoằng mỉm cười:
    “Cẩu đại phu là gì? Chó có biết làm đại phu đâu?”

    Chu Ỷ cười đắc ý:
    “Không phải chó làm đại phu, mà là đại phu trị bệnh cho chó.”

    Hai người dọc đường đùa giỡn, không lúc nào rầu rĩ. Sau phen hoạn nạn này đương nhiên Từ Thiên Hoằng cảm kích Chu Ỷ vô cùng, còn Chu Ỷ sợ vì mình có ân huệ nên người ta phải cố ý nhẫn nhịn, nên lúc nào cũng ráng khiêm nhường một chút. Nàng nói:
    “Trước đây ta cứ nghĩ rằng tính xấu của huynh đã ăn vào đến xương tủy. Nào ngờ...”

    Từ Thiên Hoằng hỏi:
    “Nào ngờ cái gì?”

    Chu Ỷ tiếp:
    “Bây giờ ta nghĩ, trước đây huynh chỉ cố ý giả vờ xảo quyệt. Tại sao lúc nào huynh cũng một mực chống đối ta? Con người như ta ai nhìn thấy cũng phải tức, có phải vậy không?”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Người tốt hay xấu, khi mới quen biết vẫn thường lầm. Lúc đầu ta đâu có biết bụng dạ cô tốt như thế này?”

    Chu Ỷ hỏi lại:
    “Lúc đó huynh nghĩ ta là con nha đầu vừa kiêu ngạo vừa nhỏ mọn có phải không?”
    Từ Thiên Hoằng cười cười không đáp.

    Hai người đợi trời tối hẳn mới vào Văn Quang trấn, tìm đến nhà Đường Thạch Tín, tung người nhảy qua tường vào trong thám thính. Từ Thiên Hoằng bắt một tên tuần canh hăm dọa, hỏi tung tích Dư Ngư Đồng. Hắn nói:
    “Đường lục gia bị đại phu Tào Tư Bằng giết chết ở nhà Tiểu Mai Quế, trong nhà rối loạn lung tung. Sáng hôm sau hai người tá túc đó đã bỏ đi rồi.”

    Chu Ỷ đề nghị:
    “Chúng ta đuổi theo họ đi.”







    * * *

    Không đầy một ngày hai người đã đi qua Cao Lan. Đi thêm hai ngày nữa thì Từ Thiên Hoằng phát hiện dọc đường có ký hiệu Trần Gia Lạc để lại, cho biết mọi người đến Khai Phong, hẹn gặp nhau tại nhà Mai Lương Minh, liền nói với Chu Ỷ. Chu Ỷ nghe tin mọi người vô sự, hết sức mừng rỡ. Bây giờ nàng mới yên tâm, hết lo lắng cho gia gia bèn đi mua ba cân rượu uống một bữa thoải mái.

    Lúc này vết thương trên vai Từ Thiên Hoằng đã lành hẳn, sức lực hồi phục. Hai người vừa đi đường vừa nói chuyện, Từ Thiên Hoằng kể mấy giai thoại võ lâm, rồi mang một số điều cấm kỵ trên giang hồ ra giải thích tường tận. Chu Ỷ nghe rất thích thú, cứ cằn nhằn sao họ Từ không nói những chuyện đó sớm hơn mà cứ lo chặn họng, gây sự với người ta.

    Chẳng bao lâu đã đến Đồng Quan. Hai người tìm chỗ nghỉ ngơi, biết Duyệt Lai khách điếm là chỗ đàng hoàng hơn cả, nhưng đến đó hỏi mới biết chỉ còn một phòng tốt. Từ Thiên Hoằng lấy một xâu tiền nhét vào tay tiểu nhị, bảo hắn tìm cách kiếm thêm một phòng nữa. Tiểu nhị lắc đầu hỏi lại:
    “Những phòng khác đã có người trọ hết rồi. Chẳng hay đại gia cùng vị cô nương này xưng hô thế nào?”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Đó là tiểu muội ta.”

    Tiểu nhị nói:
    “Đã là huynh muội thì ở chung một phòng đâu có sao.”

    Chu Ỷ giận dữ gắt:
    “Không được nói nhiều.”

    Chưa nói dứt, Từ Thiên Hoằng đã khẽ giật chéo áo nàng rồi nói:
    “Được, một phòng thì một phòng.”
    Dọc đường Chu Ỷ thấy chàng hết sức giữ lễ với mình, thật sự là một nam tử hán đường hoàng. Thế mà bây giờ chàng đòi ở cùng phòng, nàng không khỏi vừa xấu hổ vừa nghi ngờ, nhưng trước mặt tiểu nhị không sao lên tiếng được.

    Vừa bước vào phòng, Từ Thiên Hoằng lập tức đóng cửa. Chu Ỷ đỏ mặt, định chất vấn, Từ Thiên Hoằng liền ra hiệu cho nàng đừng lên tiếng rồi thì thầm:
    “Vừa rồi cô có nhìn thấy tên khốn kiếp ở Trấn Viễn tiêu cục không?”

    Chu Ỷ giật mình hỏi lại:
    “Cái gì? Cái gã dẫn người đến bắt Văn tứ gia và hại chết em trai ta ư?”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Lúc đó ta liếc qua thấy hình như là hắn, cũng không chắc lắm, vì ta sợ bại lộ hành tung nên phải nhanh chóng về phòng. Lát nữa sẽ thăm dò lại.”

    Tiểu nhị đem trà vào, hỏi hai người cần ăn uống gì không. Từ Thiên Hoằng dặn dò xong xuôi bèn hỏi:
    “Mấy vị đại gia ở Trấn Viễn tiêu cục Bắc Kinh cũng ở đây phải không?”

    Tiểu nhị nói:
    “Đúng thế. Mỗi lần đi ngang Đồng Quan họ đều trọ lại đây.”

    Từ Thiên Hoằng đợi tiểu nhị ra ngoài mới nói:
    “Tên Đồng Triệu Hòa này hết sức ác ôn. Tối nay chúng ta làm thịt hắn trước để trả thù cho tiểu đệ cô và Tứ ca ta.”

    Chu Ỷ nghĩ đến em mình chết thảm, nghĩ đến Thiết Đảm Trang cháy trụi, giận dữ xung thiên. Nếu Từ Thiên Hoằng không ráng sức khuyên ngăn thì nàng đã xách đao xông ra rồi. Từ Thiên Hoằng khuyên:
    “Cô nên nghỉ ngơi trước đã. Hãy chuẩn bị tinh thần, nửa đêm chúng ta ra tay cũng không muộn.”

    Chàng nói xong gục đầu lên bàn mà nghỉ, không nhìn Chu Ỷ cái nào nữa. Chu Ỷ cũng bình tĩnh lại, lên giường ngồi điều tức. Khó khăn lắm nàng mới chờ được đến canh hai, không nhịn nổi nữa liền rút đao ra nói:
    “Đi thôi.”

    Từ Thiên Hoằng nói nhỏ:
    “Bọn chúng người đông thế mạnh, e rằng không ít cao thủ. Ta nên thám thính trước, tìm cách dụ tên khốn đó ra ngoài rồi tính sổ với hắn.”
    Chu Ỷ gật đầu đồng ý.

    Hai người ra sân quan sát, thấy căn phòng hướng đông có ánh đèn. Từ Thiên Hoằng vẫy tay ra hiệu, hai người nhẹ nhàng tới đó. Chu Ỷ tìm thấy một khe hở trên cửa sổ, liền ghé mắt nhìn vào bên trong.

    Từ Thiên Hoằng nắm chặt binh khí đứng phía sau canh chừng, thấy nàng đột nhiên đứng bật dậy, phóng chân trái đá vào cánh cửa sổ. Chàng giật mình, vội lạng người ra cản trước mặt Chu Ỷ. Nàng vội co chân lại để khỏi đá trúng ngực Từ Thiên Hoằng. Đòn cước này lực đạo rất mạnh, Chu Ỷ phải cố hết sức mới thu lại được, không đứng vững phải lùi mấy bước.
    Từ Thiên Hoằng nhảy tới giữ nàng lại, hỏi nhỏ:
    “Cái gì thế?”

    Chu Ỷ giục:
    “Ra tay nhanh lên! Mẹ ta đang bị bọn chúng trói trong đó.”

    Từ Thiên Hoằng kinh hãi nói:
    “Mau về phòng thương lượng.”

    Về tới phòng, Chu Ỷ giận dữ hỏi:
    “Còn thương lượng gì nữa? Mẹ ta bị bọn khốn đó bắt rồi.”

    Từ Thiên Hoằng tìm lời trấn an:
    “Cô nên bình tĩnh, ta đảm bảo sẽ cứu được mẹ cô. Trong phòng có bao nhiêu người?”

    Chu Ỷ đáp:
    “Khoảng sáu bảy người.”

    Từ Thiên Hoằng nghiêng đầu suy nghĩ một lúc. Chu Ỷ tức tối lên tiếng:
    “Việc gì phải sợ? Huynh không đi thì ta đi một mình.”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Không phải ta sợ, mà đang nghĩ cách để vừa cứu được mẹ cô vừa giết được tên gian tặc đó. Hai việc này phải chu toàn một lúc mới khỏi uổng công.”

    Chu Ỷ nói:
    “Cứu mẫu thân là gấp, còn thằng khốn kia giết muộn một chút cũng chẳng hề gì.”

    Ngay lúc đó có tiếng bước chân vọng tới, Từ Thiên Hoằng vội đưa tay ra hiệu cho nàng im lặng. Có người đi ngang cửa phòng, trong miệng lẩm bẩm oán trách:
    “Nửa đêm rồi, không ngủ thẳng cẳng đi còn rượu chè cho lắm vào. Con mẹ nó! Bồ tát hiển linh xin trừng phạt bọn bảo tiêu này, dọc đường gặp cường địch cướp sạch tiêu ngân.”

    Từ Thiên Hoằng nghe tên tiểu nhị trù ẻo, đoán là đám tiêu sư bắt hắn kiếm rượu giữa đêm khiến hắn tức tối. Chàng suy nghĩ một chút rồi hỏi Chu Ỷ:
    “Tên cẩu đại phu kia có hai gói thuốc, cô có đem theo hay không? Trong đó có một gói mà hắn nói là uống vào bất tỉnh nhân sự, mau đưa cho ta.”

    Chu Ỷ không hiểu ý chàng, nhưng cũng lấy ra rồi hỏi:
    “Huynh định làm gì vậy?”
    Từ Thiên Hoằng không đáp, vẫy nàng một cái rồi nhảy ra ngoài cửa sổ. Chu Ỷ vội vã chạy theo.

    Từ Thiên Hoằng chạy vòng ra hành lang, nói nhỏ:
    “Cúi xuống, đừng nhúc nhích.”
    Chu Ỷ nghi ngờ trong bụng, không hiểu chàng định bày trò gì. Nàng đợi mãi không thấy gì lạ, đang muốn hỏi thì bỗng thấy ánh sáng le lói, thì ra tên tiểu nhị đang cầm nến bưng một cái khay đi tới.

    Từ Thiên Hoằng lượm một hòn đá nhỏ ném tới, ngọn nến tắt phụt. Tên tiểu nhị kinh hãi la lên:
    “Đúng là gặp ma rồi. Chẳng có chút gió nào mà nến lại tắt.”
    Hắn để chiếc khay xuống đất, quay về tìm lửa.

    Từ Thiên Hoằng đợi hắn đi khuất, nhảy lẹ ra, đập đá lửa chiếu sáng. Chàng thấy trong khay có hai bình rượu, liền chia gói thuốc đó làm hai phần đổ vào hai bình, rồi bảo Chu Ỷ:
    “Tới chỗ bọn chúng đi.”

    Hai người vòng ra phía sau phòng bọn tiêu sư ngồi đợi. Từ Thiên Hoằng nhìn vào cửa sổ, quả nhiên thấy một phụ nữ trung niên bị trói hai tay đặt ngồi dưới đất. Hai người ngồi bên bàn đàm luận gì đó, một là Thiết tỳ bà thủ Hàn Văn Xung, một là Tiền Chính Luân. Ngoài ra còn có Đồng Triệu Hòa và bốn tiêu sư chàng chưa biết mặt.

    Đồng Triệu Hòa đang nói đến chỗ cao hứng:
    “Nhắc đến Thiết Đảm Trang thì giang hồ đều coi là chỗ tường đồng vách sắt, nào ngờ lão tử chỉ dùng một ngọn đuốc mà đốt sạch sành sanh. Vậy mới gọi là Đồng Triệu Hòa đốt cháy Thiết Đảm Trang, Chu Trọng Anh khóc như mưa lụt đất.”

    Chu Ỷ đứng ngoài cửa sổ, tận tai nghe rõ hắn huênh hoang. Từ Thiên Hoằng sợ nàng nổi giận, phải quay đầu lại ra hiệu đừng manh động.

    Hàn Văn Xung cũng bực mình, quay lại bảo:
    “Lão Đồng! Ngươi đừng ngồi đó mà khoác lác. Lão Chu Trọng Anh kia ta đã từng gặp, nếu mặt đối mặt giao đấu thì bảy người chúng ta hợp sức chưa chắc là đối thủ của lão. Sẽ có lúc lão tìm đến tiêu cục, lúc đó ngươi sẽ biết thế nào là khóc như mưa lụt đất.”

    Đồng Triệu Hòa nói:
    “Cứ chờ xem, chúng ta đang có phước tinh hộ mạng. Con mụ này tự chuốc họa vào thân. Mụ nằm trong tay chúng ta, để coi lão dám làm gì.”
    Nói đến đây, tiểu nhị đã bưng rượu vào phòng.

    Bọn tiêu sư bày tiệc đánh chén no say. Hàn Văn Xung chẳng cao hứng gì, nhưng Đồng Triệu Hòa không ngừng mời mọc:
    “Hàn đại ca! Hảo hán cũng không địch nổi đông người, huynh thua bọn chúng một trận cũng đâu phải là chuyện lớn? Lần sau chúng ta hẹn ước đường hoàng, lấy một chọi một với Hồng Hoa Hội để phân cao thấp một phen.”

    Một tên tiêu sư cười hỏi:
    “Chúng ta một đối một thì tạm được, còn lão Đồng thì đấu với ai?”

    Đồng Triệu Hòa đáp:
    “Ta đi tìm vợ con chúng...”
    Hắn nói chưa dứt câu, đột nhiên lăn ra đất. Bọn kia giật mình tới dìu hắn dậy, nhưng tay chân cũng bủn rủn hết, từng tên gục xuống.

    Lúc này Từ Thiên Hoằng mới lấy đơn đao đâm vào khe cửa sổ, nạy cửa ra nhảy vào trong phòng. Chu Ỷ theo sau chàng, chỉ mới gọi một tiếng
    “Mẫu thân!”
    là mắt đã có ngấn nước. Nàng cắt hết dây trói tay mẹ. Chu phu nhân nhìn thấy con gái mà tưởng đang nằm mơ, không nói được lời nào.

    Từ Thiên Hoằng nhấc Đồng Triệu Hòa lên, bảo Chu Ỷ:
    “Chu cô nương! Hãy trả thù cho tiểu đệ cô đi!”
    Chu Ỷ vung đao đâm xuyên qua ngực Đồng Triệu Hòa, hắn mất mạng ngay lập tức. Tên gian ác này suốt đời làm việc thất đức, thọc gậy không biết bao nhiêu bánh xe, hại không biết bao nhiêu người, rốt cuộc đã tán mạng dưới tay Từ Thiên Hoằng và Chu Ỷ.

    Chu Ỷ muốn giết sạch bọn tiêu sư, nhưng Từ Thiên Hoằng ngăn lại:
    “Bọn này tội chưa đáng chết, tha chúng một lần đi.”
    Chu Ỷ vâng lời thu đao lại.

    Chu phu nhân biết con gái mình xưa nay ngang bướng, đã quyết định làm gì thì không ai cản nổi. Chỉ có Chu Trọng Anh còn đôi lúc khuyên được nàng, còn người khác thì đừng hòng. Bây giờ bà thấy con gái nghe lời Từ Thiên Hoằng, không khỏi thấy kỳ lạ.

    Từ Thiên Hoằng lục soát trên người bọn tiêu sư, tìm được mấy lá thư. Chàng không kịp đọc, nhét hết vào bọc rồi giục:
    “Chúng ta mau về phòng thu dọn đồ đạc, đi ngay thôi.”

    Ba người nhảy ra cửa sổ trở về phòng. Từ Thiên Hoằng thu dọn hành lý, đặt ít bạc vụn lên bàn coi như trả tiền ăn nghỉ, rồi đến chuồng ngựa dắt ba con ngựa ra. Ba người chạy về hướng đông







    * * *

    Chu phu nhân thấy con gái mình đi chung với Từ Thiên Hoằng, lại ngủ chung một phòng, nên càng lúc càng thấy nghi ngờ. Bà cũng là một nữ nhân tính khí nóng nảy, không nhịn được hỏi ngay:
    “Gia gia ngươi đâu? Gã này là ai? Sao ngươi lại đi chung với y? Không biết gia gia hay nổi nóng hay sao?”

    Chu Ỷ đáp:
    “Mẹ mới là người nổi nóng rời bỏ gia gia. Mẹ chờ một lát rồi hỏi có được không?”
    Hai mẹ con đều nóng tính, mới nói hai câu đã lớn tiếng ngay. Từ Thiên Hoằng tìm lời khuyên giải, Chu Ỷ bực tức nạt luôn:
    “Mọi chuyện đều tại huynh cả. Huynh còn muốn nói gì nữa?”
    Từ Thiên Hoằng cười khổ, quất ngựa chạy trước. Hai mẹ con cũng im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.

    Đêm đó họ tá túc ở nhà một nông dân. Hai mẹ con ngủ chung một phòng, Chu Ỷ bèn kể lại tình hình. Nàng không khéo nói chuyện, lại thêm Chu phu nhân tính tình bộp chộp hỏi vặn lung tung, nên hai người lúc khóc lúc cười, người thì tức tối nghẹn lời, người thì la mắng con mình không biết lễ nghi, mất nửa đêm mới hiểu được tình hình từ lúc rời nhau.

    Thì ra Chu phu nhân vì thương xót con trai mà bi phẫn bỏ nhà ra đi, đến nhà bà con họ Hứa ở Cao Lan. Mặc dù chủ nhân tiếp đón ân cần, nhưng bà đang đau khổ, ở không lại càng rầu rĩ, chẳng bao lâu đã rời khỏi đó. Hôm đó bà đến Đồng Quan, trú tại khách sạn Duyệt Lai.

    Bà nhìn thấy tiêu kỳ của Trấn Viễn tiêu cục, nhớ đến đại đệ tử Mạnh Kiện Hùng từng nói người khiến con trai mình chết thê thảm là Đồng Triệu Hòa, tiêu đầu Trấn Viễn tiêu cục. Thế là đêm đó bà nhảy vào dò xét. Nghe bọn tiêu sư nói chuyện, biết tên Đồng Triệu Hòa cũng ở trong đó, bà không nhịn được, xông vào động thủ. Nhưng song quyền khó địch bốn tay, rút cuộc bà bị chúng bắt. Bà đã nghĩ mình chắc chắn không thoát chết, nào ngờ con gái đột nhiên xuất hiện.

    Chu Ỷ kể lại chuyện báo thù và cứu mẹ hoàn toàn do Từ Thiên Hoằng sắp đặt, Chu phu nhân vô cùng cảm kích.

    Ngày hôm sau, dọc đường Chu phu nhân hỏi thân thế Từ Thiên Hoằng. Họ Từ kể:
    “Vãn bối người Thiệu Hưng tỉnh Triết Giang. Năm mười hai tuổi cả nhà bị quan phủ hại chết, chỉ một mình vãn bối chạy thoát.”

    Chu phu nhân hỏi:
    “Tại sao quan phủ lại hại gia đình các hạ?”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Tri phủ Thiệu Hưng thấy tỉ tỉ vãn bối vừa mắt, muốn lấy tỉ tỉ làm vợ bé. Nhưng tỉ tỉ đã đính ước với người khác từ lâu rồi, đương nhiên gia gia vãn bối không đồng ý. Hắn lập tức buộc tội gia gia cấu kết với thổ phỉ, nhốt gia gia, má má và ca ca vào ngục, rồi sai người đi tìm tỉ tỉ vãn bối, nói là chỉ cần tỉ tỉ gật đầu là tha gia gia lập tức. Tỉ phu tương lai của vãn bối biết chuyện, liền đi hành thích tri phủ. Sự việc bại lộ, tỉ phu bị bọn bổ khoái đánh chết. Tỉ tỉ hay tin liền nhảy xuống sông tự tử. Thế là gia gia, má má và ca ca vãn bối không còn đường sống nữa.”

    Chu Ỷ nghe đến đó, giận dữ hỏi:
    “Huynh đã trả thù chưa?”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Khi ta lớn lên học được võ công, quay về tìm tên tri phủ đó thì hắn đã thăng quan tiến chức, điều động đến nơi khác rồi. Mấy năm nay ta tìm kiếm khắp nơi, nhưng chưa có tin tức gì.”

    Chu Ỷ hỏi:
    “Tên cẩu quan đó tên là gì? Ta quyết không tha cho hắn.”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Chỉ biết hắn họ Phương, hình như tên là Phương Hữu Đức hay Phương Vô Đức gì đó. Má trái hắn có một cái bớt đen, nhìn thấy là nhận ra ngay.”

    Chu Ỷ hừ một tiếng. Chu phu nhân lại hỏi chàng đã kết thân với ai chưa, bôn ba giang hồ nhiều năm như thế chẳng lẽ chưa gặp cô nương nào ưng ý. Chu Ỷ mỉm cười nói:
    “Con người huynh ấy điêu ngoa xảo trá, đâu có cô nương nào chịu thích?”

    Chu phu nhân vừa cười vừa mắng nàng:
    “Con gái lớn rồi mà ăn nói bừa bãi, thật chẳng ra làm sao.”

    Chu Ỷ cười khúc khích rồi trêu:
    “Mẹ muốn làm mai cho huynh ấy có phải không? Cô nương nhà nào thế? Có phải muội muội nhà họ Hứa không?”

    Đêm hôm đó họ nghỉ lại khách sạn. Chu phu nhân trách con:
    “Con là khuê nữ mà ngủ chung phòng với nam nhân, làm sao lấy người khác được?”

    Chu Ỷ cãi:
    “Huynh ấy bị thương, con cứu huynh ấy là sai hay sao? Huynh ấy tuy quỉ kế đa đoan nhưng đối với con hết sức đàng hoàng.”

    Chu phu nhân nói:
    “Việc này con biết, hắn biết, mẹ tin, gia gia con tin, nhưng người khác có tin hay không? Nếu sau này con bị chồng nghi ngờ, thì muốn làm người tốt cũng không được nữa. Đó chính là nỗi khổ nhất đời của nữ nhân chúng ta.”

    Chu Ỷ nói:
    “Thế thì suốt đời con không lấy chồng là xong.”

    Hai người càng nói càng lớn tiếng, tranh chấp căng thẳng. Chu phu nhân nói:
    “Gã họ Từ ở ngay cạnh phòng này, để hắn nghe thấy thì không hay chút nào.”

    Chu Ỷ gắt:
    “Nghe thì đã sao? Con có làm điều gì quấy đâu mà sợ người ta nói này nói nọ?”

    Sáng hôm sau hai mẹ con thức dậy, tiểu nhị đem vào một lá thư rồi nói:
    “Từ gia ở phòng bên bảo tiểu nhân đem đến cho phu nhân.”

    Chu Ỷ liền hỏi:
    “Huynh ấy đâu?”

    Tiểu nhị nói:
    “Từ gia nói là có việc cần phải đi trước một chút, sáng sớm đã cưỡi ngựa đi rồi.”

    Chu Ỷ lập tức túm lấy cổ áo hắn, quát:
    “Tại sao ngươi không báo cho chúng ta biết ngay?”

    Tiểu nhị hoảng sợ đáp:
    “Từ gia nói là không cần thông báo, mọi chuyện đều viết trong thư.”

    Chu Ỷ buông hắn, mở thư ra đọc:
    “Chu phu nhân! Chu cô nương! Tại hạ bị thương, rất may được Chu cô nương cứu mạng, đại ân không thể cảm tạ bằng lời. Bây giờ hai người đã đoàn tụ, từ đây đến Khai Phong không còn xa nữa, Thiên Hoằng đi trước một bước mong hai vị đừng trách. Việc Chu cô nương cứu giúp, tại hạ suốt đời không quên. Ơn này ghi nhớ trong lòng, nhất định không nói với ai một câu một chữ, xin hai vị yên tâm. Từ Thiên Hoằng kính bút.”

    Chu Ỷ đọc xong, ngơ ngẩn một hồi rồi quăng lá thư đi, về phòng lăn lên giường nằm thẳng cẳng. Chu phu nhân gọi nàng dậy ăn cơm, nàng cũng chẳng nói năng gì, mặc kệ bà. Chu phu nhân lo lắng hỏi:
    “Đại tiểu thư! Bây giờ chúng ta không ở Thiết Đảm Trang, sao con cứ mang tính đỏng đảnh ra dọa người ta thế?”

    Chu Ỷ vẫn mặc kệ. Chu phu nhân lại hỏi:
    “Con trách Từ gia bỏ đi không nói năng gì phải không?”

    Chu Ỷ tức giận đáp:
    “Huynh ấy làm thế là vì con, sao lại trách huynh ấy được.”

    Chu phu nhân hỏi:
    “Vậy là con đang trách mẹ phải không?”
    Chu Ỷ lăn người quay mặt vào trong, kéo chăn trùm kín đầu lại. Chu phu nhân lại hỏi:
    “Con trách mẹ chuyện gì chứ?”

    Chu Ỷ ngồi bật dậy:
    “Những gì tối qua mẹ nói, nhất định huynh ấy nghe hết rồi. Huynh ấy sợ người ta đàm tiếu hại thanh danh con, khiến con không lấy được chồng, nên mới một mình đi trước. Chẳng phải huynh ấy viết trong thư nhất định không nói với ai một câu một chữ hay sao? Chuyện con có lấy được chồng hay không, mẹ có lo lắng thì kệ mẹ. Con nhất định không nghe, nhất định không lấy ai cả.”

    Chu phu nhân thấy nàng vừa nói vừa ứa lệ, biết nàng đã có tình cảm với Từ Thiên Hoằng. Chính bản thân nàng cũng chưa hiểu, nhưng trong lúc vô tình đã để lộ hết tâm sự mình ra. Chu phu nhân bèn an ủi:
    “Mẹ chỉ có một đứa con gái, chẳng lẽ không thương yêu hay sao? Bây giờ chúng ta đến phủ Khai Phong gặp gia gia con, bảo ông ấy đứng ra gả con cho Từ gia. Con yên tâm đi, mọi chuyện mẹ sẽ lo liệu chu toàn.”

    Chu Ỷ vội cướp lời:
    “Ai nói là con cần lấy huynh ấy? Có gì mà không yên tâm chứ? Lần sau đừng nói là bị thương, cho dù huynh ấy chết ngay trước mặt con, con cũng không thèm cứu.”

    Đêm qua Từ Thiên Hoằng ở khách sạn, đem mấy lá thư lấy được trên người bọn tiêu sư ra xem. Chàng ngồi dưới đèn đọc tỉ mỉ, chỉ có một lá thư do tổng tiêu đầu Vương Duy Dương của Trấn Viễn tiêu cục viết cho Hàn Văn Xung, giục họ Hàn về kinh gấp để hộ tống báu vật về Giang Nam, ngoài ra không có gì quan trọng nữa. Từ Thiên Hoằng vốn cũng không để ý đến chuyện tranh cãi của hai mẹ con họ Chu ở phòng bên cạnh, nhưng mấy lần nghe nhắc đến tên mình nên phải lắng tai nghe kỹ. Chàng nghe rõ rồi áy náy không yên, tự nghĩ Chu Ỷ vì cứu mình mà mang tiếng thì có lỗi với nàng, bèn viết thư để lại rồi sáng sớm bỏ đi trước.

    Chàng vào tỉnh Hà Nam, thấy dân chúng ven sông Hoàng Hà lo lắng vì thấy nước lũ dâng cao. Từ Thiên Hoằng thấy họa lũ sắp đến, âm thầm than thở:
    “Tuy lũ sông Hoàng Hà là thiên tai, nhưng nếu kẻ cầm quyền dốc lòng hết sức vì dân lo liệu thì chưa chắc không cứu được. Nhưng bọn làm quan đều coi việc trị thủy Hoàng Hà là chùm khế ngọt, hễ lên nhậm chức là ra sức vơ vét chia nhau ngay. Có tên nào xem thiên tai là việc cấp bách phải lo đâu?”

    Chàng theo ký hiệu, đến Khai Phong tìm nhà Mai Lương Minh gặp lại quần hùng. Mọi người thấy chàng trở về bình yên đều vô cùng mừng rỡ. Mai Lương Minh thiết yến chiêu đãi. Lúc này vết thương của Chương Tấn, Vệ Xuân Hoa, Tâm Nghiễn đều đã lành hẳn. Thạch Song Anh về Hồi Cương đưa thư chưa trở lại, Thường thị song hiệp còn đang thám thính tung tích Văn Thái Lai, Tưởng Tứ Cân thì đến bờ sông Hoàng Hà xem tình hình nước lũ dâng cao.

    Từ Thiên Hoằng hoàn toàn không nhắc đến Chu phu nhân và Chu Ỷ trước mặt Chu Trọng Anh, nghĩ họ cũng sắp đến đây rồi. Chàng sợ ông hỏi tỉ mỉ khó mà trả lời, chỉ nói với quần hùng là dọc đường có nghe tin tức Dư Ngư Đồng, biết chàng bị trọng thương và đi chung với một thiếu nữ cải nam trang không biết là ai. Mọi người bàn tán xôn xao, rốt cuộc cũng không ai đoán được, đều đem lòng lo lắng. Họ chỉ hy vọng Dư Ngư Đồng xưa nay tinh minh lanh lợi, chắc chắn có cách dưỡng thương và tránh địch.

    Sáng hôm sau Chu Ỷ tìm đến Mai gia, gặp mọi người và phụ thân mình, ai cũng hân hoan mừng rỡ. Chào hỏi xong xuôi, Chu Ỷ lén gọi Từ Thiên Hoằng:
    “Huynh qua đây, muội có mấy câu muốn nói.”

    Từ Thiên Hoằng hơi ngại, nghĩ rằng cô nương này nhất định sẽ trách mình bỏ đi mà không nói lời từ biệt, sẽ lớn tiếng chửi mắng mình một trận. Chàng bèn quyết định mặc kệ nàng muốn chửi sao thì chửi, mình không nói lại câu nào là xong, rồi đi từ từ đến trước mặt nàng.

    Chu Ỷ khẽ nói:
    “Má má không chịu đến gặp gia gia. Lát nữa huynh nghĩ cách giúp muội.”

    Từ Thiên Hoằng yên tâm bèn nói:
    “Thế thì mời gia gia muội đi gặp bà ấy.”

    Chu Ỷ nói:
    “Má má cũng không chịu, hễ mở miệng là nói gia gia muội không có lương tâm.”

    Từ Thiên Hoằng suy nghĩ một lúc rồi bảo:
    “Được, huynh có cách rồi.”

    Chàng dặn dò mấy câu, Chu Ỷ hỏi lại:
    “Liệu như thế có được không?”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Nhất định là được. Muội đi trước đi.”

    Từ Thiên Hoằng đợi Chu Ỷ ra ngoài rồi hàn huyên với huynh đệ một hồi, hỏi Mai Lương Minh về địa phương này. Chàng cho rằng thời cơ đã đến, bèn nói riêng với Chu Trọng Anh:
    “Chu lão gia! Nghe nói tửu gia Tư Trúc Viên ở cạnh Thiết Tháp Tự có rượu rất ngon, nổi danh nhất tỉnh Hà Nam này. Nhất định phải đến đó uống thử một lần.”

    Nghe tới rượu ngon, Chu Trọng Anh cao hứng cười nói:
    “Được, được! Để ta làm chủ, mời mọi người đến đó say sưa một phen.”

    Từ Thiên Hoằng cản:
    “Thành này tai mắt bổ khoái rất nhiều, chúng ta đi đông e rằng không tiện. Bây giờ tổng đà chủ với tiểu điệt hai người đi trước với lão gia, có được hay không?”

    Chu Trọng Anh tán thưởng:
    “Hay lắm! Lão đệ suy nghĩ thật là chu toàn.”
    Ông bèn hẹn với Trần Gia Lạc, ba người đến Thiết Tháp Tự.

    Tư Trúc Viên quả là nơi thanh nhã, ly tách tinh khiết gọn gàng, phòng ốc sáng sủa. Từ Thiên Hoằng nhìn quanh tìm một chỗ tương đối yên tĩnh, ba người vừa uống rượu vừa than thở chuyện dân sông Hoàng Hà chết lụt.

    Bàn đến những chuyện thiết đãi bạn bè, Tín Lăng Quân năm xưa nghênh đón Hầu Doanh, Trần Gia Lạc than thở:
    “Thành Đại Lương bây giờ vẫn đó, anh hùng liệt sĩ không biết đâu rồi. Tín Lăng Quân một kiếp anh hùng, không ngờ rút cuộc say sưa mà chết dưới tay nữ nhân. Đến nay Biện Lương chỉ còn lại một miếng đất Di Sơn mà thôi.”

    Sau vài tuần rượu, chuếnh choáng hơi men, Trần Gia Lạc gõ bình rượu ngâm nga:

    Rảnh lại nhớ Tín Lăng tìm đến;
    Gươm gác đùi chuốc chén đầy vơi;
    Này nem này rượu khuyên mời;
    Bên thời Châu Hợi, bên thời Hầu Doanh;
    Ba chén cạn, thân mình sá kể,
    Năm núi cao, xem nhẹ lông hồng;
    Mắt hoa mặt đã nóng bừng;
    Khí hùng bay bổng lên từng mây xanh…


    Chu Trọng Anh và Từ Thiên Hoằng không hiểu chàng hát bài gì.
    Đến khi ba người đã say đến năm phần, Từ Thiên Hoằng nâng chén lên gọi Chu Trọng Anh:
    “Chu lão gia! Hôm nay cha con đoàn tụ, tiểu điệt xin kính lão gia một chén.”

    Chu Trọng Anh cạn chén, thở dài một tiếng. Từ Thiên Hoằng bèn hỏi:
    “Chu lão gia không được vui, có phải đang tiếc Thiết Đảm Trang bị cháy hay không?”

    Chu Trọng Anh đáp:
    “Tiền bạc là vật ngoại thân, một Thiết Đảm Trang có gì đáng tiếc?”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Thế thì nhất định lão gia đang nghĩ đến mấy vị công tử đã qua đời.”

    Chu Trọng Anh không đáp, thở dài sườn sượt. Trần Gia Lạc vội nháy mắt lia lịa, ra hiệu bảo Từ Thiên Hoằng đừng nói động chạm đến nỗi đau của ông ấy nữa. Từ Thiên Hoằng vờ như không biết, cứ đổ thêm dầu vào lửa:
    “Hôm đó tiểu công tử còn nhỏ không biết gì, lỡ nói ra nơi ẩn giấu Tứ ca, nên Chu lão gia mới giận dữ mà xử phạt. Về phần lão gia thì đó là giữ đạo nghĩa giang hồ, nhưng bọn vãn bối thì không sao yên lòng được.”

    Trần Gia Lạc vội giục:
    “Thất ca! Chúng ta đi thôi. Tửu lượng của ta sắp hết rồi.”

    Từ Thiên Hoằng cứ hỏi tiếp Chu Trọng Anh:
    “Không biết Chu phu nhân vì lý do gì mà rời khỏi gia trang?”

    Chu Trọng Anh than thở:
    “Bà ấy trách ta về chuyện giết đứa con trai. Than ôi, không biết bây giờ bà ấy đơn thân lưu lạc nơi nào. Đứa con này bà ấy yêu quí như tính mạng, ta thật sự có lỗi với bà ấy. Thật ra ta chỉ lỡ tay trong cơn thịnh nộ, đâu phải chủ tâm giết nó? Sau khi chúng ta cứu được Tứ gia, dù phải đi đến chân trời góc bể ta cũng quyết tìm bà ấy trở về. Ta tuổi tác đã cao, người thân trên thế gian này chỉ còn hai người là bà ấy và đứa con gái mà thôi.”

    Ông nói đến đây đột nhiên rèm được vén lên, Chu phu nhân và Chu Ỷ bước vào. Chu phu nhân lên tiếng:
    “Những lời của lão gia, thiếp ngồi bên kia nghe thấy hết rồi. Lão gia chịu nhận lỗi là xong, thiếp trở về đây, không cần đi tìm đâu nữa.”
    Chu Trọng Anh nhìn thấy vợ vừa bất ngờ vừa mừng rỡ, nhất thời xúc động không nói nên lời.

    Chu Ỷ nói với Trần Gia Lạc:
    “Trần đại ca, đây là mẫu thân của muội.”
    Rồi nàng quay lại nói với mẹ:
    “Má má, đây là Trần tổng đà chủ Hồng Hoa Hội.”
    Hai người nhìn nhau thi lễ.

    Chu Ỷ gọi tửu bảo chuyển chén bát phòng bên cạnh qua đây, rồi nói với Chu Trọng Anh:
    “Gia gia, phen này thật là may mắn. Con nghe nói rượu ở đây rất ngon, nhất định phải đến thưởng thức một lần. Má má không chịu nhưng con một mực kỳ kèo bắt tới, nào ngờ lại ngồi giáp vách gia gia.”
    Năm người cười rộ lên, thoải mái say sưa, rồi nhắc đến những chuyện trong lúc xa nhau.

    Chu Ỷ thấy cha mẹ đoàn tụ nồng nàn trở lại, vui sướng không nén nổi nên quên cả giữ lời, cao hứng nhắc đến vụ giết Đồng Triệu Hòa trả mối thù giết em trai và đốt Thiết Đảm Trang. Từ Thiên Hoằng nháy mắt liên hồi bảo nàng đừng nói tiếp, nhưng nàng không thấy nên vẫn tiếp tục:
    “Mưu kế của huynh ấy thật là hiệu quả. Sau khi mấy tên tiêu sư hôn mê, con phá cửa sổ nhảy vào cứu mẹ rồi túm lấy gã họ Đồng, đích thân cho tên cẩu tặc đó một đao.”

    Chu Trọng Anh cùng với Trần Gia Lạc, Từ Thiên Hoằng đang mời rượu nhau. Chu Trọng Anh bèn nói:
    “Lão đệ đã cứu thê tử lại giúp báo thù thì lão phu thực sự cảm kích.”

    Từ Thiên Hoằng khiêm nhượng mấy câu:
    “Lão gia quá lời rồi, đây đều là công lao của Chu cô nương cả.”

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Làm sao hai vị gặp nhau dọc đường vậy?”

    Từ Thiên Hoằng ấp úng, Chu Ỷ âm thầm than khổ:
    “Chết rồi, hỏng bét! Mình lỡ kể chuyện cùng huynh ấy giết Đồng Triệu Hòa, thế thì những việc trước đây làm sao mà giấu giếm người khác nữa?”
    Đột nhiên nàng đỏ mặt cúi đầu, thần trí hỗn loạn, tay chân lóng ngóng. Chén đũa rơi vỡ xoang xoảng, cô nàng lại càng thêm phần bối rối.

    Trần Gia Lạc thấy vậy biết ngay việc giữa hai người này không chỉ có bấy nhiêu. Lại nghe Chu Ỷ mỗi khi nhắc đến Từ Thiên Hoằng thì không gọi tên mà cứ huynh ấy thế này, huynh ấy thế kia, chàng đoán biết được sáu bảy phần. Về tới Mai phủ, chàng bèn gọi Từ Thiên Hoằng tới hỏi:
    “Thất ca! Huynh thấy Chu cô nương thế nào?”

    Từ Thiên Hoằng vội đáp:
    “Tổng đà chủ! Vừa rồi lời nói của Chu cô nương trên tửu lâu, xin tổng đà chủ đừng kể với ai. Cô ấy là người trung hậu chất phác, quang minh lỗi lạc, nhưng nếu người khác nghe thấy thêm bớt mấy câu xằng bậy thì chúng ta sẽ có lỗi với Chu lão anh hùng.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Đệ biết con người Chu cô nương rất tốt nên muốn làm mai cho huynh. Huynh thấy thế nào?”

    Từ Thiên Hoằng giật nảy người đáp:
    “Tuyệt đối không được! Thuộc hạ sao có thể sánh với nàng?”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Thất ca không nên quá khiêm tốn. Huynh là Võ Gia Cát trí dũng song toàn, lừng danh trên giang hồ. Mỗi khi Chu lão anh hùng nhắc đến huynh đều tỏ ra thán phục.”

    Từ Thiên Hoằng ngẩn ra hồi lâu không đáp. Trần Gia Lạc liền hỏi gặng:
    “Thế nào?”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Tổng đà chủ chưa biết đâu, Chu cô nương không thích thuộc hạ.”

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Làm sao mà huynh biết?”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Chính miệng nàng nói vậy. Nàng ghét loại người xảo quyệt cổ quái như thuộc hạ đến tận xương tủy. Hôm trước đi chung, dọc đường nàng cứ tìm lời chặn họng thuộc hạ.”

    Trần Gia Lạc cười ha hả:
    “Thế là huynh chịu rồi chứ gì?”

    Từ Thiên Hoằng ngập ngừng nói:
    “Tổng đà chủ đừng uổng công lo lắng làm gì. Chúng ta không nên suy nghĩ những việc vô bổ như thế.”

    Đột nhiên một gia nhân của Mai phủ đi vào phòng gọi:
    “Trần thiếu gia! Chu lão gia ở bên ngoài, muốn nói chuyện với thiếu gia.”

    Trần Gia Lạc mỉm cười với Từ Thiên Hoằng rồi ra khỏi phòng. Chàng thấy Chu Trọng Anh chắp tay sau lưng đi tới đi lui ngoài hành lang, liền bước tới nói:
    “Chu lão gia có việc gì dặn dò thì cứ sai người đi gọi vãn bối là được, hà tất phải đích thân đến đây.”

    Chu Trọng Anh vội đáp:
    “Không dám!”
    Ông kéo tay chàng đến hoa sảnh, mời ngồi rồi nói:
    “Lão có một chuyện muốn hỏi ý Trần đương gia.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Xin lão gia nói thẳng, tiểu điệt sẽ đích thân lo liệu.”

    Chu Trọng Anh nói:
    “Tiểu nữ năm nay đã mười chín tuổi rồi, tuy tính hơi ngang bướng nhưng cũng có thể gọi là thuần hậu. Chỉ vì lão phu có dạy nó một chút võ nghệ, nên nó không để hạng tầm thường lọt vào mắt, vì thế mới chậm trễ, đến nay vẫn chưa thành thân...”
    Ông nói đến đây, ngần ngừ một lúc mới tiếp:
    “Từ thất đương gia của quí hội được cả giang hồ ngưỡng mộ, trí dũng có thừa, nhân phẩm hơn người. Lão phu muốn nhờ Trần đương gia làm mai gả tiểu nữ cho Từ gia. Chỉ sợ tính khí tiểu nữ không được tốt, không dám trèo cao như vậy.”

    Trần Gia Lạc nghe vậy cả mừng, liền vỗ ngực nói:
    “Việc này để tiểu điệt lo. Chu lão gia là thái sơn bắc đẩu của võ lâm, được lão gia tin yêu như thế, anh em Hồng Hoa Hội bọn tiểu điệt thấy vinh dự vô cùng. Tiểu điệt đi ngay đây!”

    Trần Gia Lạc chạy thẳng đến phòng Từ Thiên Hoằng kể lại, khiến anh chàng mừng rỡ đến nỗi tim đập loạn xạ. Trần Gia Lạc nói thêm:
    “Thất ca! Đệ coi sắc mặt Chu lão anh hùng thì dường như ông ấy còn một chuyện không tiện nói ra. Đệ đoán thế này, nhưng không biết huynh có chịu hay không.”

    Từ Thiên Hoằng hỏi:
    “Có gì mà không chịu?”

    Trần Gia Lạc mỉm cười nói:
    “Đệ cũng nghĩ là huynh sẽ ưng thuận. Hai người con trai lớn của Chu lão anh hùng đã mất cả rồi, còn đứa con trai út cũng chết vì Hồng Hoa Hội chúng ta. Trước mắt thì hương hỏa Chu gia đã dứt, nên đệ muốn ủy khúc Thất ca một chút, không những làm con rể Chu lão anh hùng mà còn phải làm con trai ông ấy.”

    Từ Thiên Hoằng hỏi:
    “Tổng đà chủ muốn thuộc hạ ở rể nhà họ Chu phải không?”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Không sai! Sau này huynh sinh con trai, thì con trai cả sẽ mang họ Chu, con trai thứ mới mang họ Từ. Cổ nhân có câu: Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại. Chúng ta làm như thế, coi như đã báo đáp một phần ân nghĩa của Chu lão anh hùng.”
    Từ Thiên Hoằng nghĩ tới ân đức cứu mạng của Chu Ỷ, bèn mau lẹ đồng ý.

    Hai người quay về phòng Chu Trọng Anh, mời Chu phu nhân qua nói chuyện. Chu Ỷ không hiểu chuyện gì, cũng chạy vào phòng. Chu Trọng Anh nhìn mặt hai người Trần Từ, biết việc đã thành bèn mỉm cười bảo:
    “Ỷ nhi! Con ra ngoài kia chơi đi.”

    Chu Ỷ tức tối nói:
    “Lại có việc gì giấu giếm con rồi phải không? Không được! Con nhất định phải nghe.”
    Nói thì nói vậy, nhưng nàng vẫn quay người đi ra ngoài.

    Trần Gia Lạc nói lại ý định gửi rể vừa rồi, Chu phu nhân hoan hỉ quá, ngoác miệng ra cười đến nỗi không ngậm lại được. Chu Trọng Anh cũng cả mừng:
    “Đâu dám như thế? Đâu dám như thế?”

    Từ Thiên Hoằng quì xuống thi lễ, Chu Trọng Anh vội đỡ dậy, mỉm cười nói:
    “Chúng ta ra ngoài, không mang theo vật gì đáng giá. Chuyện thế này mà không có lễ kiến diện thì... Lát nữa ta sẽ dạy cho Thất gia phép đánh thiết đảm, Thất gia thấy thế nào?”

    Chu phu nhân cười bảo:
    “Lão này già quá, lẩm cẩm mất rồi. Sao lại gọi con là Thất gia?”
    Chu Trọng Anh cười ha hả.

    Từ Thiên Hoằng biết công phu thiết đảm là tuyệt nghệ thành danh của ông, hôm nay đúng là phúc vô đơn chí, đã được vợ đẹp lại gặp danh sư, chàng vội quỳ xuống khấu đầu bái tạ, hai người gọi nhau bằng phụ tử.

    Tin vừa truyền ra, mọi người tới tấp kéo đến chúc mừng. Đêm đó Mai Lương Minh mở đại tiệc khoản đãi, Chu Ỷ trốn chui trốn lủi. Lạc Băng cố gắng thế nào cũng không kéo được nàng ra ngoài.

    Giữa tiệc, Thạch Song Anh về đến, nói với Trần Gia Lạc:
    “Tổng đà chủ! Thư của đà chủ đã đưa tới nơi. Đây là hồi âm của lão anh hùng Mộc Trác Luân.”

    Trần Gia Lạc đón lấy, đáp lời:
    “Thập nhị ca bôn ba vạn dặm thật là cực khổ. Nhanh lên, qua đây uống một chén...”

    Lời nói chưa dứt, Tưởng Tứ Cân bỗng chạy vào, lớn tiếng hô:
    “Hoàng Hà vỡ đê rồi.”

    Mọi người nghe vậy đứng cả dậy, hỏi tình hình tai nạn ra sao. Tưởng Tứ Cân nói:
    “Từ Mạnh Tân đến Đồng Quả Thương đã bị vỡ đến bảy tám chỗ, rất nhiều địa phương không còn đường tới nữa.”
    Mọi người nghe xong đều nóng ruột lo âu, dân chúng đã khốn đốn gặp phải chuyện này càng khổ sở hơn. Thường thị song hiệp đến giờ vẫn chưa có hồi báo gì, không biết tình hình Văn Thái Lai thế nào.

    Trần Gia Lạc lớn tiếng:
    “Các vị ca ca! Chúng ta đã đợi ở đây mấy ngày rồi, mà Ngũ ca, Lục ca vẫn chưa có tin tức. Chắc là tình hình đã thay đổi, lại e nước lũ cản đường làm lỡ mất đại sự. Mọi người suy nghĩ xem nên làm thế nào.”

    Chương Tấn hô to:
    “Chúng ta đừng đợi nữa, mau mau kéo hết về Bắc Kinh. Cho dù Tứ ca bị nhốt ở thiên lao, mọi người cũng phải cướp Tứ ca về.”
    Vệ Xuân Hoa, Dương Thành Hiệp, Tưởng Tứ Cân đều đồng thanh phụ họa.

    Trần Gia Lạc cùng Chu Trọng Anh, Vô Trần, Triệu Bán Sơn khẽ bàn bạc mấy câu rồi nói:
    “Việc không nên chậm trễ, chúng ta phải khởi hành ngay.”
    Mọi người cảm tạ Mai Lương Minh vì quấy nhiễu bấy lâu, rồi lập tức khởi hành đi về hướng đông.

    Dọc đường Trần Gia Lạc đọc thư của Mộc Trác Luân. Trong thư mấy lần cảm tạ việc Hồng Hoa Hội báo tin, cho biết đã triệu tập mọi người chuẩn bị lừa ngựa binh khí, quyết chiến đến cùng với cường địch. Mặc dù địch đông ta ít, tình thế khó mà thắng được, nhưng già trẻ lớn nhỏ toàn tộc thà hi sinh cũng nhất định không khuất phục.

    Lời lẽ trong thư đượm màu bi tráng, Trần Gia Lạc bất giác thay đổi sắc mặt, hỏi Thạch Song Anh:
    “Lão anh hùng Mộc Trác Luân còn dặn dò gì nữa không?”

    Thạch Song Anh đáp:
    “Ông ấy hỏi đã cứu được Tứ ca hay chưa. Nghe nói không thành công, ông ấy ra vẻ lo lắng.”
    Trần Gia Lạc khẽ “À” một tiếng.

    Thạch Song Anh lại nói:
    “Hồi tộc đối với chúng ta bằng tình sâu nghĩa nặng. Nghe nói thuộc hạ là sứ giả của tổng đà chủ phái đi, họ đối xử rất ân cần.”

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Huynh có gặp gia đình của lão anh hùng Mộc Trác Luân hay không?”

    Thạch Song Anh đáp:
    “Gặp cả phu nhân, con trai và hai cô con gái. Con trai ông ấy thì tổng đà chủ đã gặp rồi, y hỏi thăm tổng đà chủ có được an khang không.”

    Trần Gia Lạc ngừng lại một lúc, ngập ngừng hỏi:
    “Không ai nói gì nữa ư?”

    Thạch Song Anh suy nghĩ rồi đáp:
    “Lúc thuộc hạ rời khỏi, Hoắc Thanh Đồng cô nương hình như muốn nói gì đó nhưng rốt cuộc không nói, chỉ hỏi han về tình hình cứu Tứ ca.”

    Trần Gia Lạc im lặng, đưa tay nắm chặt thanh đoản kiếm mà Hoắc Thanh Đồng đã tặng. Lưỡi thanh kiếm này chỉ dài có tám tấc, ánh sáng chói mắt. Chuôi kiếm quấn bằng chỉ vàng đã mòn nhiều chỗ, xem ra đây là cổ vật đã mấy trăm năm. Ngày ấy Hoắc Thanh Đồng đã nói: “Xưa nay vẫn tương truyền trong kiếm có ẩn giấu một bí mật lớn, nhưng tìm hiểu tỉ mỉ đến đâu cũng không thấy điểm nào khác lạ.” Chàng quay đầu nhìn về hướng tây chỉ thấy một trời sao sáng, không như hôm gặp nhau ở vùng đại mạc, mặt trời lấp lánh rọi lên chiếc lông vũ màu xanh phỉ thúy, ánh xuống chiếc áo màu vàng nhạt.




    (... còn tiếp ...)


          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Thư kiếm ân cừu lục

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Thư kiếm ân cừu lục - 書劍恩仇錄 -
    ___________________________
    Nguyên tác: Kim Dung - 金庸 ________ Dịch giả: Đông Hải






              


              

              
    (... tiếp theo ...)



    Mọi người đi suốt đêm, sáng sớm đã gần đến đê sông Hoàng Hà, thấy nước sông đục ngầu ào ào chảy xiết. Đi thêm vài giờ nữa thì thấy một vùng bình nguyên giờ đã thành biển cả, nhà cửa, ruộng nương, những chỗ thấp trũng đều chìm trong nước lũ. Dân chúng chạy hết lên đồi núi, chịu cảnh màn trời chiếu đất. Cũng có một số kẹt lại, bám trên mái nhà hay những cành cây. Một vùng nước rộng mênh mông, hoàn toàn không có khói bếp, khắp nơi vang lên những tiếng kêu cứu bi ai. Lác đác có những thi hài bập bềnh theo dòng nước, cùng mấy cái rương hòm bằng gỗ lênh đênh trôi dạt về đông.

    Dọc đường quần hùng cũng cứu mấy người bị nạn, vòng lên chỗ cao mà đi về hướng đông, đêm đó ngủ lại trên vùng núi. Hôm sau họ phải đi vòng một vòng lớn mới đến Đỗ Lương Trại, dọc đường thấy chỗ nào cũng có những cảnh bi ai thê thảm, khó mà chịu nổi.

    Chu Ỷ vẫn đi chung với Lạc Băng, nhưng lúc này nhịn không nổi nữa liền đi nhanh tới chỗ Từ Thiên Hoằng, hỏi:
    “Ca ca quỉ kế nhiều như vậy, cố tìm cách cứu dân chúng đi chứ?”

    Từ hôm đính ước, đôi vợ chồng chưa cưới này cứ tránh mặt nhau. Hai ngày nay chưa nói câu nào, không ngờ câu đầu tiên nàng mở miệng lại đặt cho chàng một vấn đề khó giải quyết như vậy. Từ Thiên Hoằng không khỏi khó xử, bèn đáp:
    “Muốn thì muốn vậy, nhưng nạn dân nhiều như thế, ca ca thật không có cách gì.”

    Chu Ỷ nói:
    “Nếu muội có cách thì cần gì phải hỏi ca ca nữa?”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Ngày mai ca ca sẽ xin mọi người đừng gọi mình bằng cái ngoại hiệu Võ Gia Cát nữa, để khỏi bị muội lúc nào cũng làm khó dễ.”

    Chu Ỷ dỗi ngay:
    “Muội mà lúc nào cũng làm khó dễ ca ca ư? Lúc nào muội cũng nói không đúng, thế có được không? Muội xin lỗi là xong chứ gì?”
    Rồi nàng bĩu môi không nói gì nữa.

    Từ Thiên Hoằng dỗ dành:
    “Muội muội, bây giờ chúng ta đã là người một nhà rồi, không nên gây chuyện nữa.”
    Chu Ỷ cứ mặc kệ.

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Ca ca sai rồi. Muội muội tha cho ca ca lần này, cười một cái đi.”
    Chu Ỷ quay đầu lại nhưng vẫn nhăn mặt.

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “À, muội muội không dám cười, thì ra tân nương xấu hổ với tân lang.”

    Chu Ỷ không nhịn nổi nữa, bật cười khúc khích rồi giơ roi ngựa lên nói:
    “Ca ca nói bậy nữa đi, xem muội có dám đánh đòn ca ca không?”

    Lạc Băng chậm rãi đi sau hai người, vì xót con bạch mã vừa phải chạy xa vạn dặm từ Hồi Cương về mới hai ngày. Nàng nhìn Chu Ỷ và Từ Thiên Hoằng ngây thơ đùa giỡn, nghĩ đến chồng càng thấy nhớ nhung sầu khổ hơn.

    Khoảng giờ Mùi mọi người đã đến Triệu Thảo Doanh, là một thị trấn lớn nằm ven sông Hoàng Hà. Dân chúng bị nạn lũ lụt quanh vùng chạy đến thị trấn này rất đông. Lạc Băng lấy hết vàng trong mình đem đổi lấy bạc, mua lương thực phân phát. Nạn dân chạy ào ào đến, chỉ một lúc đã hết sạch, cứu trợ chưa tới một phần mười.

    Khi mọi người rời khỏi thị trấn, rất nhiều dân đói dắt díu nhau đi theo, chỉ mong được phát cho chút ít lương thực. Quần hùng không phải nhẫn tâm, nhưng làm sao cứu tế được nhiều như thế, chỉ biết cắn răng lên ngựa rời khỏi đó.

    Dọc đường đầy những nạn dân đùm đề con cái, vừa đi vừa khóc lóc. Đột nhiên phía trước có một người cưỡi ngựa phi tới rất gấp. Đường núi chật hẹp mà tên kia cứ lạng ẩu lách bừa, chỉ chốc lát đã đụng vào một thiếu phụ đang ẵm con, làm đứa bé rơi xuống nước. Tên kia cứ mặc kệ, cho ngựa phóng như bay. Quần hùng giận dữ, Vệ Xuân Hoa vọt ngay tới, túm lấy chân trái lôi hắn xuống, nện cho một quyền. Hắn ọe một cái, nhổ ra một vũng máu lẫn ba chiếc răng cửa.

    Thì ra đó là một tên công sai. Hắn vừa đứng dậy đã ngoác mồm ra thóa mạ:
    “Con mẹ nó, đám thổ phỉ lưu manh này! Lão gia đang có việc gấp, lát nữa mới quay lại tính sổ với bọn bay.”

    Hắn leo lên ngựa tính đi tiếp, nhưng Chương Tấn đứng bên kia lại túm chân phải lôi hắn xuống ngựa, quát to:
    “Việc gì mà gấp? Ở lại đây chờ một lát đã.”

    Trần Gia Lạc bảo:
    “Thập ca, tìm trên người hắn xem có gì không?”
    Chương Tấn lục soát, lấy ra một công văn giao cho Trần Gia Lạc.

    Trần Gia Lạc thấy văn thư đó có cắm lông gà, một góc cháy sém, rõ ràng là loại công văn khẩn cấp mà dịch trạm phải chạy suốt ngày đêm. Trên phong bì ghi là gửi gấp cho Định biên đại tướng quân Triệu ở cách xa sáu trăm dặm. Chàng bèn tiện tay xé niêm phong, rút công văn ra xem.

    Gã công sai thấy công văn bị xé, kinh hãi kêu lên:
    “Đây là việc quân cơ mật, ngươi không sợ bị chém đầu hay sao?”

    Tâm Nghiễn cười hỏi lại:
    “Ngươi không sợ bị chém đầu hay sao?”

    Trần Gia Lạc đọc thấy công văn ký tên quan tổng binh vận lương Tôn Khắc Thông, bẩm cho Triệu Tuệ biết là lương thảo của đại quân mới vận chuyển đến Lan Phong, vì lũ sông Hoàng Hà nên kẹt lại ở đó, chậm trễ mấy ngày. Trần Gia Lạc giao công văn cho Từ Thiên Hoằng, nói:
    “Không liên can gì đến chúng ta, cũng chẳng liên can gì đến Tứ ca.”

    Từ Thiên Hoằng xem xong, mặt mày hớn hở nói:
    “Tổng đà chủ! Đây là vận may lớn của chúng ta. Tương trợ Mộc lão anh hùng, cứu tế dân chúng gặp nạn lũ Hoàng Hà, mọi việc đều nhờ vào tờ công văn này.”

    Họ Từ lập tức xuống ngựa, xé nát công văn trước mặt tên công sai rồi cười hỏi:
    “Bây giờ ngươi đến chỗ Triệu Tuệ hay về Lan Phong? Làm mất công văn là phạm vào tội chém phải không? Ta khuyên ngươi, muốn giữ mạng thì tự mình chạy trốn là hơn.”

    Tên công sai vừa tức vừa sợ, im lặng suy nghĩ thì thấy câu đó không sai, mình không làm gì được. Hắn đành cởi bộ quân phục trên người quăng xuống nước, rồi lẩn vào đám dân chúng đang chạy nạn.

    Trần Gia Lạc đã hiểu ý Từ Thiên Hoằng, bèn nói:
    “Cướp lương cứu nạn thật là một công đôi việc. Có điều lương thảo của đại quân chắc chắn phải có trọng binh hộ tống, chúng ta lại ít người. Việc này thành bại thế nào, hoàn toàn trông vào diệu kế của Thất ca.”

    Từ Thiên Hoằng ghé tai nói nhỏ mấy câu, Trần Gia Lạc mừng rỡ thốt lên:
    “Hay lắm! Cứ làm như thế!”
    Chàng lập tức phân phối nhân mã. Mọi người nhận lệnh, lo cải trang và tung tin đồn.

    Sáng sớm hôm sau mấy vạn nạn dân rủ nhau kéo vào thành Lan Phong, hỗn loạn vô cùng. Tri huyện Vương Đạo thấy tình hình khác lạ, bèn sai bộ khoái bắt mấy nạn dân đến hỏi. Họ đều khai rằng nghe nói hôm nay quan phủ mở kho phát chẩn, nên đến đây để nhận lương thực. Vương Đạo liền hạ lệnh đóng chặt cửa thành, nhưng một đồn mười, mười đồn trăm, nạn dân kéo về đông đúc, trong thành ngoài thành đầy ắp những người. Vương Đạo vội ra thông báo là không có chuyện này, nhưng họ đâu có chịu tin?

    Vương Đạo thấy nạn dân càng lúc càng đông thì vô cùng hốt hoảng, đích thân đến Thạch Phật Tự ở đông thành bái kiến tổng binh Tôn Khắc Thông đang trú ở đó, nhờ họ Tôn điều binh trấn áp dân chúng trong thành.

    Tôn Khắc Thông nói:
    “Tiểu tướng phụng tướng lệnh của Triệu tướng quân, trong vòng mấy ngày phải đưa quân lương đến Hồi Cương, nếu có sai sót phải bị chém đầu. Không phải tiểu tướng không chịu giúp, mà thật sự là việc quân trọng đại, xin Vương đại nhân tha thứ.”

    Vương Đạo cầu khẩn liên tục nhưng Tôn Khắc Thông nhất quyết không nghe, không làm gì được đành cáo biệt. Dọc đường về, hắn thấy vô số dân chúng gặp thiên tai láo nháo khắp nơi.

    Trời sắp tối, đột nhiên huyện nha, nhà tù và những tiệm buôn trên mấy con đường lớn đồng thời bốc cháy, Vương Đạo liền đốc thúc nha dịch bộ khoái cứu hỏa. Trong lúc lộn xộn, một tên công sai chạy tới thở hổn hển nói:
    “Đại... đại lão gia! Không hay rồi! Cửa tây thành đã bị nạn dân mở ra, cả ngàn cả vạn người đang tiến vào thành.”

    Vương Đạo kêu khổ, không biết phải làm gì. Hắn sai lấy ngựa, rồi dẫn bọn nha dịch đi xem xét phía tây thành. Mới được nửa đường chúng đã bị nạn dân cản lại, không tiến lùi gì được, rồi nghe thấy có người trong đám đông kêu lên:
    “Thạch Phật Tự tại đông thành chuẩn bị phát lương tiền. Mọi người mau mau đến Thạch Phật Tự mà nhận.”

    Dân chúng chạy ào ào về hướng đông, cản đường Vương Đạo. Hắn giận dữ hét lên:
    “Tên nào dám tung tin đồn nhảm, mau bắt đến cho ta thẩm vấn.”
    Hai tên nha dịch vâng dạ, lấy xích sắt ra toan trói một người thân hình ốm yếu đang đứng hò hét nạn dân đi lãnh đồ cứu trợ.

    Người này chỉ khẽ vung tay đã đoạt được sợi xích, rồi quật gãy sống lưng một tên nha dịch, lớn tiếng kêu:
    “Chúng ta đi xin cơm, có vi phạm vương pháp gì đâu?”

    Vương Đạo thấy không êm lập tức quay đầu ngựa, vòng qua cửa nam, nhưng trước mặt lại có một đoàn nạn dân chạy tới. Hắn nghĩ phải trốn đến chỗ Tôn tổng binh may ra mới được an toàn, nhưng đến đó thì thấy binh lính tuần tra trong thành cũng đang chạy trốn láo nháo. Một đạo sĩ cụt tay cầm trường kiếm, một người mập mạp xách cây roi sắt, một người gù múa lang nha bổng, một đại hán cầm thiết trượng đang chạy tới reo hò giết chóc.

    Vương Đạo chạy lẫn trong đám binh sĩ, thúc ngựa hướng về Thạch Phật Tự. Cửa chùa đã đóng chặt, nhưng binh sĩ gác cửa nhận ra tri huyện đại nhân nên cho y vào. Lúc này phía ngoài chùa nạn dân bao vây tầng tầng lớp lớp. Giữa đám đông có tiếng kêu la:
    “Tiền bạc và lương thực triều đình đưa xuống để cứu tế thiên tai đều bị bọn cẩu quan này ăn chặn hết rồi. Phát tiền phát lương đi! Phát tiền phát lương đi!”

    Nạn dân đồng thanh hô theo, chấn động rung chuyển cả mái chùa. Vương Đạo run rẩy không ngừng, lắp bắp:
    “Tạo phản rồi, tạo phản rồi!”

    Tôn Khắc Thông dù sao cũng là võ quan, gan dạ hơn nhiều. Hắn bảo binh sĩ bắc thang, trèo lên đầu tường lớn tiếng kêu:
    “Ai là lương dân an phận thủ thường thì mau mau lui ra khỏi thành, đừng nghe tin đồn nhảm. Không lùi lại thì quân lính phải bắn tên.”
    Lúc này hai tên du kích(7) đã dẫn bọn cung thủ lên đầu tường.

    Nạn dân nhốn nháo, Tôn Khắc Thông bèn ra lệnh:
    “Bắn!”
    Một loạt tên phóng ra, mười mấy người dân ngã lăn xuống đất. Những người khác kinh hãi quay người bỏ chạy, giẫm đạp lên nhau. Người kêu mẹ, kẻ gọi con, loạn xạ cả một vùng.

    Tôn Khắc Thông đứng trên đầu tường cười ha hả. Tiếng cười chưa dứt thì trong đám đông bỗng có hai mảnh đá bắn lên. Tôn Khắc Thông né được một viên, còn một viên sượt vào bên má. Hắn đau đớn vô cùng, đưa tay sờ lên thấy toàn là máu, không nén nổi giận dữ bèn hô lớn:
    “Bắn! Bắn chết hết cho ta!”

    Bọn cung thủ bắn thêm một loạt, lại có mười mấy người bỏ mạng. Nạn dân kêu la thảm thiết. Đột nhiên có tiếng gió rít, hai người vừa cao vừa ốm nhảy vọt lên tường, tay vừa vung ra đã hất mấy tên cung thủ lộn nhào xuống đất. Nạn dân tức giận vì bị bắn tên, liền ào lên đè chúng xuống. Đàn ông thì đấm đá, đàn bà thì cào cấu cắn xé.

    Thì ra quần hùng Hồng Hoa Hội đã cải trang lẫn vào đám đông người bị thiên tai đó. Từ Thiên Hoằng cố ý để bọn quan binh tác oai tác quái một hồi khiến dân chúng giận dữ đến mức không nhịn được nữa, rồi mới tấn công vào chùa. Đột nhiên quần hùng thấy Thường thị song hiệp xuất hiện, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng.

    Lạc Băng múa song đao nhảy lên đầu tường, đến bên Thường Hách Chí hỏi:
    “Ngũ ca! Có gặp Tứ ca hay không? Huynh ấy thế nào rồi?”

    Thường Hách Chí nhìn thấy Lạc Băng, kinh ngạc hỏi:
    “Úi chà! Tứ tẩu cũng đến đây rồi à? Đã gặp Tứ ca rồi, Tứ tẩu yên tâm đi.”

    Lạc Băng nghe vậy, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Nàng hoan hỉ quá độ khiến sát khí biến đi đâu hết, ngồi thụp xuống tường, hai tay ôm đầu. Chương Tấn và Tâm Nghiễn vội vàng chạy tới hỏi:
    “Sao rồi? Bị thương rồi à?”

    Lạc Băng cười đáp:
    “Ta không sao cả! Ngũ ca đã gặp Tứ ca rồi.”

    Trên đầu tường Vệ Xuân Hoa, Dương Thành Hiệp, Chu Ỷ, Mạnh Kiện Hùng ác đấu với bọn quan binh. Chỉ một lúc sau cửa chùa đã được mở ra. Tưởng Tứ Cân và Mạnh Kiện Hùng từ trong chùa chạy ra, vẫy tay với đám nạn dân, kêu lớn:
    “Mọi người vào trong này lấy lương thực.”

    Dân chúng ùa vào như kiến. Quan binh trong chùa lúc đầu còn vung binh khí chém giết loạn xạ, về sau thấy dân chúng càng lúc càng đông, lại có một nhóm người võ công cao cường, trong khi đó bọn thống binh đã bị giết mấy người, nên sợ đến loạn cả tay chân. Tuy nhiên quan binh khá đông lại có vũ khí, nên nạn dân cũng không dám tới gần.

    Tôn Khắc Thông múa đại đao dẫn mấy tên Thanh binh chiến đấu trên đầu tường, vừa đánh vừa lùi. Đột nhiên bên tai hắn rít lên một cơn gió, rồi sau lưng tê liệt, lỏng tay buông đại đao rớt nghe loảng xoảng. Hai tay hắn bị bẻ ra sau lưng, một thanh âm vang lên sau gáy:
    “Con rùa kia! Mau mau ra lệnh cho đám rùa thuộc hạ của ngươi buông vũ khí xuống, lùi ra khỏi chùa.”

    Tôn Khắc Thông chần chừ một lúc, chợt thấy gáy mình đau nhói lên. Thì ra con dao đang kề vào cổ bị người ta nhẹ nhàng kéo một đường, hớt mất một miếng da. Đến nước này thì Tôn Khắc Thông không dám không nghe lời, chỉ còn cách lớn tiếng truyền lệnh. Quan binh đều thấy thượng cấp bị một người trông như ma quỉ bắt lấy, chủ tướng đã có lệnh thì hà tất phải thí mạng nữa, nên chúng cùng buông binh khí xuống, lùi ra ngoài chùa. Dân chúng đồng thanh hoan hô vang dội.

    Trần Gia Lạc tiến vào, thấy đại điện rộng khoảng năm gian nhà bình thường, chất đầy những túi lương thực và tiền bạc.
    Thạch Song Anh lôi Vương Đạo vào trong điện, Trần Gia Lạc cười hỏi:
    “Ngươi là tri huyện đại nhân phải không?”

    Vương Đạo run rẩy đáp:
    “Vâng… vâng… đại vương…”

    Trần Gia Lạc ngắt lời:
    “Ngươi thấy ta có giống đại vương không?”

    Vương Đạo nói:
    “Tiểu nhân tội đáng muôn chết. Dám hỏi công tử tôn tánh đại danh là chi?”

    Trần Gia Lạc mỉm cười, không đáp mà hỏi lại:
    “Ngươi có phải xuất thân đầu bảng hai lần không?”

    Vương Đạo vội nói:
    “Không dám, không dám.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Có gì mà không dám? Ngươi đã là tiến sĩ thì chắc hẳn không ít chữ nghĩa. Ta ra một câu đối cho ngươi.”
    Chàng phẩy quạt, cười cười nói tiếp:
    “Nếu ngươi đối được thì ta tha mạng, còn đối không được thì ta không khách sáo nữa.”

    Dân chúng gặp thiên tai vừa nghe quần hùng Hồng Hoa Hội tuyên bố lát nữa sẽ phân phát lương tiền, nên tất cả đều yên tâm trở lại. Bây giờ họ nghe nói tri huyện bị bắt, tổng đà chủ Hồng Hoa Hội thi thố tài năng với hắn, đều cảm thấy hiếu kỳ. Họ đứng thành một vòng ở ngoài, cả ngàn cặp mắt đều dồn vào mặt Vương Đạo.

    Trần Gia Lạc nói:
    “Ngươi nghe đây! Câu đối là: Sông có đục có trong, quan có trong có đục, sông trong dễ hay quan trong dễ?”

    Lúc này Vương Đạo sợ quá, mồ hôi vã ra đầy người. Bao nhiêu chữ nghĩa của hắn đều theo mồ hôi mà trôi ra biển hết, suy nghĩ cả nửa ngày rồi đành nói:
    “Công tử! Vế đối của công tử khó quá, tiểu nhân sức học có hạn, tiểu nhân… tiểu nhân… đối không nổi.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Được, không đối cũng được. Vậy ta hỏi ngươi, nước sông Hoàng Hà dễ trong sạch hay quan lại dễ trong sạch?”

    Vương Đạo đột nhiên phúc khởi tâm linh, đáp ngay:
    “Theo tiểu nhân nghĩ, nếu quan lại khắp thiên hạ đều trong sạch, ắt hẳn nước sông Hoàng Hà cũng trong sạch theo.”

    Trần Gia Lạc cười lớn:
    “Nói hay lắm! Ta giữ lời, tha mạng cho ngươi. Mau triệu sai dịch đến đây, lấy tiền và lương thực phát cho dân chúng bị thiên tai. À, phiền quan tổng binh cũng giúp cho một tay.”

    Tôn Khắc Thông cùng Vương Đạo nhìn nhau khó xử, mất quân lương đã mang tội chém đầu, sao còn chính tay phân phát được? Nhưng không nghe lệnh thì tán mạng ngay tức khắc, phải dập lửa cháy lông mày trước đã. Chúng trăm ngàn lần khó xử cũng chỉ còn cách đốc thúc binh lính nha dịch, lấy quân lương quân hướng phát cho dân chúng bị thiên tai.

    Muôn dân hoan hô vang dậy một vùng, hết lời cảm tạ quần hùng Hồng Hoa Hội. Người nào vào lãnh tiền lãnh lương cũng cười với Tôn Khắc Thông và Vương Đạo một cái. Cái cười đó đương nhiên là cười chê cười mỉa, nhưng quan văn quan võ đành coi như không biết không hay.

    Trần Gia Lạc dõng dạc lên tiếng:
    “Các vị phụ lão, huynh đệ, tỉ muội nghe đây! Sau này nha môn xét hỏi, thì quí vị cứ nói là quan tổng binh và tri huyện đích thân cấp phát.”
    Dân chúng reo hò khen phải, nhất định sẽ nói đúng như vậy.

    Quần hùng giám thị đến khuya, lương tiền mới phát xong. Từ Thiên Hoằng lên tiếng:
    “Quí vị phụ lão! Quí vị hãy đem binh khí về cất trong nhà. Nếu bọn cẩu quan này biết tốt xấu thì thôi, còn nếu sau khi bọn tại hạ rời thành má chúng ép quí vị giao trả quân lương, thì mọi người hãy thí mạng với chúng một phen.”

    Lúc này đúng là Hồng Hoa Hội nói sao nạn dân nghe vậy. Những thanh niên trai tráng lập tức tới lượm hết đao thương của bọn binh lính rơi vãi dưới đất. Bọn chúng thấy dân chúng đông đúc, quan tổng binh lại đang bị khống chế, dĩ nhiên không dám ho he.

    Trần Gia Lạc đứng dậy nói:
    “Việc lớn đã xong! Các vị ca ca, chúng ta đi thôi.”
    Quần hùng ép Tôn Khắc Thông cùng đi, ra khỏi Thạch Phật Tự rồi lên ngựa rời thành giữa tiếng hoan hô của mấy vạn nạn dân.

    Đi được mười mấy dặm, Trần Gia Lạc mới đẩy Tôn Khắc Thông xuống ngựa rồi nói:
    “Tổng binh đại nhân! Đa ta lương thực và ngân lượng của ngươi, chúng ta còn ngày tái ngộ. Lần sau nếu ngươi có áp tải quân lương đi đâu, nhớ báo tin cho ta biết.”
    Chàng vừa chắp tay chào vừa cười ha hả, dẫn quần hùng rời khỏi đó.

    Chạy hơn một dặm, Trần Gia Lạc mới hỏi Thường thị song hiệp:
    “Hai vị có tin tức Tứ ca hay không?”

    Thường Hách Chí nói:
    “Đã gặp dấu hiệu Thập tứ đệ để lại, Tứ ca bị đưa đi Hàng Châu.”

    Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi:
    “Đưa đi Hàng Châu làm gì? Tại sai không đi Bắc Kinh? Không phải tên cẩu hoàng đế muốn đích thân thẩm vấn hay sao?”

    Thường Bá Chí đáp:
    “Bọn thuộc hạ cũng cảm thấy kỳ lạ, nhưng Thập tứ đệ xưa nay hành sự tỉ mỉ tinh tế, tin này nhất định là xác thực.”

    Trần Gia Lạc gọi mọi người xuống ngựa, ngồi quây lại thương nghị. Từ Thiên Hoằng nói:
    “Tứ ca đã đi Hàng Châu, thì chúng ta về Giang Nam tìm cách cứu Tứ ca. Hàng Châu là địa bàn của chúng ta, tai mắt triều đình không linh hoạt bằng ở Bắc Kinh, cứu Tứ ca sẽ dễ hơn. Nhưng vẫn phải nhờ một vị ca ca đi Bắc Kinh thám thính tin tức, phòng hờ vạn nhất.”
    Mọi người đều cho là phải.

    Trần Gia Lạc quay sang Thạch Song Anh nói:
    “Lại làm phiền Thạch ca một phen cực khổ nữa rồi.”

    Thạch Song Anh lắc đầu đáp:
    “Chẳng hề gì!”

    Thương nghị xong xuôi, một mình Thạch Song Anh đi về hướng bắc, còn quần hùng khởi hành về phương nam.

    Trần Gia Lạc hỏi tiếp về tình hình vết thương của Dư Ngư Đồng, Thường thị song hiệp trả lời là chưa có tin tức. Hai người vừa thấy ký hiệu là lập tức trở về báo tin, khi đi qua Lan Phong thấy dân chúng bị thiên tai tập hợp đông đúc liền đi theo đến Thạch Phật Tự để xem náo nhiệt. Lúc bọn quan binh bắn tên, hai người nhịn không nổi nhảy lên tường động thủ với chúng, không ngờ quần hùng cũng có mặt ở đó.

    Tuy Văn Thái Lai chưa thoát hiểm, nhưng mọi người đã biết tin tức Văn, Dư bình an vô sự, đều cảm thấy vui mừng, nhắc lại vụ cướp lương cứu nạn vừa rồi thật là thống khoái. Chu Ỷ nói:
    “Đại quân mất hết lương thảo, nhất định không thắng được Hoắc Thanh Đồng tỉ tỉ.”

    Vô Trần cười nói:
    “Con bé đó kiếm pháp rất khá, nhân phẩm lại phi phàm, ai cũng muốn giúp đỡ. Mong sao nó đánh một trận cho oanh liệt, để mọi người được tới chung vui.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Cũng nhờ Thất ca thần cơ diệu toán. Vụ này đúng là một công đôi việc.”

    Chu Ỷ nghe tổng đà chủ khen ngợi Từ Thiên Hoằng, thầm mừng rỡ liếc nhìn, ánh mắt lấp lánh như biết nói biết cười. Từ Thiên Hoằng lè lưỡi nhìn nàng, nháy nháy mắt trả lời.







    Hồi thứ bảy

    Đàn ngâm réo rát như phượng gáy
    Kiếm khí âm trầm tựa rồng gầm





    Chưa đầy một ngày quần hùng đã đến Từ Châu. Đà chủ phân đà Hồng Hoa Hội nơi đó thấy tổng đà chủ và các vị hương chủ nội hương đường ngoại hương đường đột ngột đến cả đây, lập tức cung kính đón tiếp, không khỏi bận rộn suốt ngày. Hội chúng vùng Giang Bắc này do Dương Thành Hiệp thống lĩnh, y hạ lệnh cho phân đà chủ không được bày vẽ rườm rà, cũng không cần phải thông báo cho anh em trong hội đến tham kiến tổng đà chủ.

    Quần hùng chỉ nghỉ một đêm, rồi đi miết về hướng nam. Mọi bến đò vượt sông đều có đầu mục hay phân chi Hồng Hoa Hội, nhưng quần hùng muốn giữ cơ mật nên không kinh động ai cả, chỉ nhanh chóng vượt qua. Mấy ngày sau mọi người đã đến Hàng Châu, nghỉ tại nhà Mã Thiện Quân là chủ phân đà Hàng Châu. Gia trang nhà họ Mã tọa lạc dưới chân núi Cô Sơn ở Tây Hồ. Nơi này sản vật phong phú, cảnh trí tuyệt vời, lại vô cùng yên tĩnh.

    Mã Thiện Quân chuyên nghề buôn bán vải vóc, làm chủ hai xưởng dệt tơ lụa khá lớn. Tính ông hiếu võ nên kết giao với Vệ Xuân Hoa, rồi được họ Vệ giới thiệu vào Hồng Hoa Hội. Mã Thiện Quân thân hình mập mạp, tuổi trạc ngũ tuần, thường mặc áo bào bằng tơ lụa in bông lớn, ngoài khoác thêm áo ngắn màu đen. Nhìn y chẳng khác gì một vị đại gia sống trong nhung lụa, nào ngờ cũng là hiệp khách phong trần.

    Đêm đó đón tiếp quần hùng trong hậu sảnh, mọi người bàn đến việc cứu Văn Thái Lai. Mã Thiện Quân nói: “Để thuộc hạ lập tức cho người đi điều tra xem Tứ đương gia bị nhốt trong lao nào, rồi chúng ta theo tình hình mà hành sự.” Y bèn lệnh cho con trái Mã Đại Đình ra ngoài sắp xếp mọi chuyện.

    Sáng hôm sau Mã Đại Đình về báo:
    “Đã cho huynh đệ đi thám thính khắp các nha môn phủ Hàng Châu, huyện Tiền Đường, huyện Nhân Hòa, kể cả doanh trại của tướng quân trú phòng, thủy lục đề đốc, nhưng không có tin tức gì của Văn tứ đương gia.”

    Trần Gia Lạc triệu tập quần hùng nghị sự. Mã Thiện Quân nói:
    “Trong nha môn quan phủ, doanh trại tướng quân đều có huynh đệ chúng ta nằm vùng, nếu Văn tứ đương gia bị giam trong nhà lao của quan sai thì chắc chắn sẽ tìm được. Chỉ sợ Tứ đương gia gây trọng án nên chúng phải nhốt riêng, vậy thì khó mà xoay xở.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Bước đầu chúng ta phải điều tra cho được Tứ ca đang ở đâu. Phiền Mã đại ca tiếp tục cử các huynh đệ đắc lực đi tìm kiếm, thám thính lại các nơi quan phủ. Đêm nay mời đạo trưởng, Ngũ ca, Lục ca đến dinh tuần phủ xem thử. Quan trọng nhất là đừng đánh cỏ động rắn, bất kể thế nào cũng không nên động võ.”
    Bọn Vô Trần vâng lệnh, hỏi tỉ mỉ Mã Thiện Quân về đường đi nước bước và tình hình trong ngoài dinh tuần phủ.

    Giờ tí đêm đó ba người xuất phát, hai canh giờ sau về báo cáo. Dinh tuần phủ canh gác nghiêm mật khác thường, hàng ngàn binh lính đèn đuốc sáng trưng canh giữ suốt đêm, rất nhiều quan quân tuần tra thuộc hàng nhị phẩm tam phẩm đội nón đỏ. Họ không dám xông vào, nấp ngoài chờ đợi hồi lâu. Đơi mãi vẫn thấy chúng chẳng có vẻ gì lơi lỏng, ba người đành phải trở về.


    Quần hùng đều kinh ngạc, không sao ngờ đến cục diện này. Mã Thiện Quân nói:
    “Mấy ngày nay trong thành Hàng Châu nơi nào cũng tra xét cẩn mật. Ngay cả chốn lầu xanh, thậm chí thuyền bè qua lại trên sông cũng bị quan sai xét hỏi. Rất nhiều người vô cớ bị bắt đi. Chẳng lẽ những việc đó có liên quan đến Văn tứ gia hay sao?”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Chắc không phải vậy. Không chừng có khâm sai đại thần gì đó từ kinh đến đây, nên quan lại địa phương mới hao công tốn sức như thế.”

    Mã Thiện Quân nói:
    “Nhưng lại không nghe nói có quan khâm sai nào đến Triết Giang.”
    Mọi người bàn luận khá lâu, cuối cùng cũng chẳng được gì.

    Hôm sau Chu Ỷ nũng nịu bắt cha mẹ đi chơi hồ với nàng, Chu Trọng Anh đồng ý. Chu Ỷ nháy mắt với Từ Thiên Hoằng, muốn chàng cùng đi. Họ Từ không dám mở miệng, làm như chẳng biết gì.

    Nhưng người xưa có nói, biết con không ai bằng cha. Chu Trọng Anh hiểu tâm sự của nàng, cười bảo:
    “Hoằng nhi! Chúng ta chưa đến Hàng Châu bao giờ. Con đi chung với chúng ta, đừng để ông bà già cả này lạc mất đường về.”

    Từ Thiên Hoằng vâng dạ. Chu Ỷ khẽ trách:
    “Gia gia kêu thì ca ca đi, còn muội kêu thì ca ca không chịu.”
    Từ Thiên Hoằng mỉm cười không nói. Chàng từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, phiêu bạt điêu linh, bây giờ đột nhiên được vợ chồng Chu Trọng Anh coi mình như con ruột, lại thêm hôn thê ngây thơ khả ái, đối với chàng thân mật muôn phần, trước mặt người khác cũng không chút e dè. Không những bản thân chàng hoan hỉ, mà các huynh đệ cũng thấy vui lây.

    Trần Gia Lạc cũng dẫn Tâm Nghiễn đi dạo cảnh hồ. Dạo qua Tô Đê, Bạch Đê, chàng lên cầu ngồi nhìn về ngọn núi xa xôi. Không mưa mà vẫn um tùm cây cối xanh xanh trùng điệp, không khói mà vẫn nhòa nhạt những đỉnh núi hùng vĩ thấp thoáng trong mây. Trần Gia Lạc nghĩ:
    “Người xưa lần đầu đến Tây Hồ đã ví mình như Tào Thực kiến diện nữ thần sông Lạc, vừa ngẩng đầu lên đã thấy ngợp mắt lạc thần, quả thật không sai.”

    Trần Gia Lạc đã đến Tây Hồ mấy lần, nhưng lúc đó còn nhỏ không hiểu được cái đẹp của cảnh sắc thiên nhiên. Lần này chàng quay lại mới hiểu được thế nào là sơn dung thủy ý, hoa thái liễu tình. Chàng say mê thưởng ngoạn hơn nửa ngày rồi mới thuê xe ngựa vào chùa Linh Ẩn để thăm Phi Lai Phong.

    Ngọn núi này cao hơn năm mươi trượng, từ chân lên tới đỉnh toàn là đá, dưới những khe đá mọc nhiều cây cối cành lá xum xuê. Trên cao có những tảng đá lởm chởm, chông chênh như chỉ chực rơi xuống dưới. Trần Gia Lạc cao hứng, bảo Tâm Nghiễn:
    “Chúng ta lên đó xem thử.”
    Vốn không có đường lên đỉnh núi, nhưng hai người ỷ vào khinh công phi phàm, vừa nói chuyện vừa bước nhẹ như không.

    Nhìn về phía Tam Thiên Trúc thấy phong cảnh thanh nhã thoát tục, Trần Gia Lạc bèn nói:
    “Bên kia lại càng tuyệt đẹp.”
    Hai người bèn chậm rãi xuống núi, tiến đến Tam Thiên Trúc.

    Được mười mấy trượng thì có hai đại hán mặc trường bào màu lam đi qua mặt, nhìn hai thầy trò tỉ mỉ, sắc mặt lộ vẻ kinh ngạc. Tâm Nghiễn khẽ nói:
    “Thiếu gia, hai người này biết võ công.”

    Trần Gia Lạc cười đáp:
    “Nhãn lực của ngươi không tệ.”
    Chưa dứt câu, trước mặt lại có hai người đi tới, phục sức giống hai người trước, ra vẻ đang thưởng ngoạn phong cảnh, khẩu âm như người Mãn Thanh. Cứ thế, rải rác dọc đường lên núi có tới ba bốn chục người biết võ công mặc trường bào màu lam. Nhìn thấy Trần Gia Lạc, chúng đều lộ vẻ khác thường.

    Tâm Nghiễn hoa cả mắt, Trần Gia Lạc cũng phải ngạc nhiên thầm nghĩ:
    “Chẳng lẽ có bang hội hay võ phái nào hội họp ở đây hay sao? Nhưng Hàng Châu là địa bàn của Hồng Hoa Hội, nếu vậy thì nhất định họ phải thông báo cho mình biết. Hơn nữa, những người này nhìn mình rất lạ, hẳn phải có lý do.”

    Thầy trò đi qua một khúc quanh, sắp lên tới Quan Âm Miếu trên Tam Thiên Trúc thì đột nhiên bên trên vọng xuống tiếng đàn thánh thót ngân vang, nghe như tiếng thác nước đổ từ trên núi. Tiếng nhạc ngân nga ca ngợi Thanh triều giang sơn cẩm tú, nhờ hoàng ân mà lê dân được sống an bình, thôn xóm nào cũng có nhà dựng cờ bán rượu.

    Trần Gia Lạc nghĩ:
    “Tiếng đàn bình hòa nhã nhặn, thế mà ca từ lại đầy vẻ nịnh bợ, thật không tương xứng. Nhưng bảy chữ An đỗ thôn thôn dương tửu kỳ quả nhiên xuất sắc. Nếu thôn xóm nào trên thiên hạ cũng có tửu gia, thì dĩ nhiên là lê dân bá tánh được sống vui vẻ rồi.”

    Nhắm hướng tiếng đàn đi tới, chàng thấy giữa tòa núi đá có một thư sinh trạc tứ tuần đang ngồi đánh đàn, bên cạnh có hai người áo lam đứng hầu, một ông lão gầy ốm và một đại hán thấp lùn. Trong lòng Trần Gia Lạc đột nhiên phát sinh cảm giác mình với người đang chơi đàn đã quen biết lâu rồi. Y có dáng vẻ thanh tú, cốt cách cao quí, chàng càng nhìn càng thấy quen thuộc nhưng mãi không sao nhớ được đã gặp ở đâu. Trong phút chốc, đầu óc chàng mơ hồ như đang nằm mộng, cảm thấy người này đối với mình hết sức thân cận mà cũng rất đỗi xa xôi.

    Lúc đó, hai người áo lam kia cũng chăm chú quan sát Trần Gia Lạc và Tâm Nghiễn, hình như muốn bước tới nói hỏi han. Thư sinh bỗng đưa ba ngón tay chặn lên dây đàn, âm thanh vụt tắt. Trần Gia Lạc tiến lên hai bước, chắp tay nói:
    “Vừa rồi mạo muội trộm nghe nhân huynh tấu nhạc, ca từ mới lạ tân kỳ. Chẳng hay bài ca đó có phải của nhân huynh vừa phổ nhạc hay không.”

    Người kia cười đáp:
    “Đúng vậy! Bài Cẩm tú càn khôn này do tại hạ phổ nhạc gần đây. Các hạ quả nhiên là bậc tri âm, xin được nghe chỉ giáo.”

    Trần Gia Lạc khen:
    “Cao minh, cao minh. Câu An đỗ thôn thôn dương tửu kỳ quả thật tuyệt vời.”

    Người kia lộ vẻ hân hoan nói:
    “Huynh đài mới nghe mà đã nhập tâm như vậy! Xin mời đến đây đàm đạo.”

    Trần Gia Lạc nghĩ:
    “Nhưng mấy câu kia thì sặc mùi bợ đít triều đình, ngươi cũng chỉ vào hạng tầm thường.”
    Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng không biết vì sao chàng lại có ý muốn thân cận với người này, bèn tới thi lễ rồi ngồi xuống. Người kia nhìn kỹ dung mạo Trần Gia Lạc, cũng ra vẻ ngơ ngác hồi lâu.

    Trần Gia Lạc cười nói:
    “Dọc đường lên núi gặp rất nhiều du khách, người nào gặp tiểu đệ cũng để lộ sắc thái khác thường như vậy. Vừa rồi huynh đài cũng thế, chẳng lẽ mặt mày tiểu đệ có gì cổ quái hay sao? Mong được chỉ giáo.”

    Người kia mỉm cười đáp:
    “Huynh đài không hiểu cũng phải. Tại hạ có một người thân thích, tướng mạo rất giống huynh đài. Những du khách đó đều là bằng hữu của tại hạ, nên họ mới ngạc nhiên như vậy.”

    Trần Gia Lạc cười nói:
    “Thì ra là thế. Tiểu đệ cũng thấy tướng mạo nhân huynh rất quen thuộc, hình như đã gặp ở đâu nhưng tiểu đệ ngu muội không sao nhớ nổi. Không biết nhân huynh nghĩ thế nào?”

    Người kia cười rộ lên:
    “Chúng ta thật hữu duyên. Xin hỏi cao danh quý tánh nhân huynh?”

    Trần Gia Lạc danh tiếng lẫy lừng trong giang hồ, không muốn nói thật bèn đáp bừa:
    “Tiểu đệ họ Lục, tên Gia Thành.”
    Đây chỉ là ba chữ Trần Gia Lạc đọc ngược lại. Rồi chàng cũng hỏi:
    “Xin hỏi tôn tánh huynh đài?”

    Người kia suy nghĩ một lúc rồi nói:
    “Tại hạ họ kép là Đông Phương, tên chỉ có một chữ Nhĩ, là người Trực Lệ. Nghe khẩu âm thì hình như huynh đài là người địa phương này?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Tiểu đệ đúng là người ở đây.”

    Đông Phương Nhĩ nói:
    “Từ lâu đã nghe nói phong cảnh Giang Nam thiên hạ vô song, hôm nay đến đây quả nhiên danh bất hư truyền. Không những nơi này núi non hùng vĩ, lại còn địa linh nhân kiệt. Tại hạ gặp rất nhiều nhân vật, đa số là học sĩ tài ba.”

    Trần Gia Lạc nghe y nói chuyện phong thái bất phàm, lại thấy đại hán và ông lão kia đối với y mười phần cung kính, thõng tay đứng hầu không chút trễ nãi. Chàng thật sự không biết người này là nhân vật thế nào, bèn nói:
    “Huynh đài đã yêu thích Giang Nam tại sao không định cư hẳn nơi đây, để tiểu đệ thường xuyên được nghe lời dạy bảo?”

    Đông Phương Nhĩ cười lớn:
    “Tranh thủ nửa ngày nhàn hạ, đi chơi một buổi ở đây đã là quá lắm rồi. Người tục lụy như tại hạ đây, phước phận như lúc này không phải hễ muốn là được. Huynh đài hiểu được tiếng đàn của tại hạ, nhất định là bậc cao nhân. Xin huynh đài tấu thử một khúc, có được hay không?”
    Nói xong, y khẽ đẩy cây thất huyền cầm đến trước mặt Trần Gia Lạc.

    Trần Gia Lạc thử đưa ngón tay lướt nhẹ, thấy tiếng đàn thanh thoát tuyệt diệu. Chàng nhìn kỹ cây đàn thấy trên đầu có buộc chùm tua xen kẽ sợi vàng thắt thành hai chữ triện Lai Phượng, còn chất liệu và hoa văn thì tuyệt hảo, giống như cổ vật cả ngàn năm. Chàng âm thầm kinh hãi, biết cây đàn này là bảo vật vô giá, không biết người này có được từ đâu, bèn nói:
    “Tiểu đệ mạn phép tấu đàn trước mặt cao nhân, mong huynh đài đừng có chê cười.”

    Trần Gia Lạc gảy một bài Bình Sa Lạc Nhạn, Đông Phương Nhĩ chăm chú ngồi nghe. Nghe xong y hỏi:
    “Chắc hẳn huynh đài đã từng đến vùng biên ải?”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Đúng là tiểu đệ vừa từ Hồi Cương trở về, không hiểu sao nhân huynh biết được?”

    Đông Phương Nhĩ đáp:
    “Tiếng đàn của huynh đài đạm bạc mà khoáng đạt mênh mông, phong cảnh hùng vĩ nơi đại mạc thể hiện rõ ràng trong đó. Nghe tiếng đàn của huynh phải nhớ tới bài từ của Tân Gia Hiên: Say rượu khêu đèn ngắm kiếm, Nhớ về những tháng năm xưa, Biếm ra ngoài tám trăm dặm, Tai nghe đàn năm mươi dây, Tiếng đàn ngoại tộc vùng biên ải, Tưởng trống điểm binh chốn sa trường. Tại hạ đã nghe khúc Bình Sa Lạc Nhạn này mấy chục lần, nhưng chưa từng thấy khí tượng bát ngát xung thiên như tiếng đàn của huynh đài.”
    Trần Gia Lạc thấy y quả đáng mặt tri âm của mình, không khỏi cao hứng.

    Đông Phương Nhĩ lại nói:
    “Tại hạ còn một việc không rõ, muốn thỉnh giáo huynh đài. Nhưng vừa mới quen nhau, giao thiệp còn nông cạn, mở lời không khỏi e ngại.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Rất mong được nghe tôn ý huynh đài.”

    Đông Phương Nhĩ nói:
    “Trong tiếng đàn của huynh đài còn chất chứa can qua, như ẩn tàn mười vạn binh giáp bên trong. Nhưng nhìn dáng vẻ huynh đài lại như một công tử quí phái, văn nhã ôn hòa, chắc chắn không phải là đại tướng thống binh. Thật sự tại hạ không hiểu ra sao.”

    Trần Gia Lạc cười nói:
    “Tiểu đệ chỉ là một kẻ thư sinh lang bạt giang hồ. Lời nói của huynh đài khiến đệ nghe mà xấu hổ.”

    Dường như Đông Phương Nhĩ không tin lắm, lại hỏi tiếp:
    “Cũng có thể huynh đài xuất thân thế gia con nhà đại tướng. Không biết tôn đại nhân bây giờ làm đến chức quan nào, còn công danh huynh đài ra sao?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Tiên phụ bất hạnh đã tạ thế từ lâu. Còn tiểu đệ tài sơ trí thiển, hoàn toàn vô duyên với công danh lợi lộc.”

    Đông Phương Nhĩ lại hỏi:
    “Chỉ nghe lời đàm luận đủ biết huynh đài tài ba lỗi lạc. Chẵng lẽ huynh đài không đặt mục đích kiến thân lập nghiệp hay sao?”

    Trần Gia Lạc lắc đầu đáp:
    “Chuyện đó thì không phải.”

    Đông Phương Nhĩ nói:
    “Tuần Phủ Triết Giang là chổ tri giao của tại hạ. Ngày mai huynh đài thử dời gót đến gặp ông ấy, không chừng sẽ có một phen hạnh ngộ.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Hảo ý của huynh đài đệ xin cảm tạ, nhưng thật sự đệ không có ý làm quan.”

    Đông Phương Nhĩ hỏi:
    “Chẳng lẽ huynh đài cam chịu để tài năng mai một suốt đời như vậy sao?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Trước mặt bình dân bá tánh mà lộ vẻ anh hùng, chẳng khác gì hành vi bỉ ổi.”
    Đông Phương Nhĩ nghe xong câu này, bất giác nét mặt thay đổi. Hai người áo lam thấy vậy đều bước lên một bước.

    Đông Phương Nhĩ im lặng một lát rồi nói:
    “Huynh đài là bậc cao nhân nhã trí, đương nhiên những kẻ phàm tục như tại hạ không sao sánh kịp.”

    Hai bên quan sát lẫn nhau, đều cảm thấy đối phương là nhân vật không phải tầm thường, mà trong sự đề phòng lại không nén nổi phát sinh cảm giác thân tình. Đông phương Nhĩ lại cất tiếng:
    “Huynh đài đi từ Hồi Cương đến tận Giang Nam này, dọc đường chắc hẳn đã thưởng ngoạn rất nhiều cảnh đẹp.”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Thần Châu vạn dặm, thắng cảnh sông núi đương nhiên không sao xem hết được. Nhưng thấy Hoàng Hà lũ lụt, dân tình khắp nơi thê thảm bi ai, tiểu đệ chẳng còn tâm trí đâu du ngoạn nữa.”

    Đông Phương Nhĩ nói:
    “Nghe nói dân chúng bị thiên tai ở Lan Phong đã cướp hết quân lương của đại quân tây chinh. Dọc đường huynh đài có nghe thấy vụ này hay không?”

    Trần Gia Lạc giật mình nghĩ:
    “Tin tức của người này tại sao mau lẹ đến thế? Chúng ta cướp lương xong là đi thẳng Giang Nam, ngày đêm không dừng bước, mà y đã biết rồi.”
    Chàng bèn đáp:
    “Đúng là có chuyện đó, nhưng thiết nghĩ nạn dân không có cơm ăn áo mặc, thế mà quan phụ mẫu không thương xót chút nào. Họ chỉ vì muốn sống mà gây ra chuyện đó, về tình thì có thể tha thứ được.”

    Đông Phương Nhĩ chậm rãi lắc đầu, từ từ nói:
    “Xem ra sự việc không đơn giản như vậy. Vụ này là do Hồng Hoa Hội xách động nạn dân phạm thượng làm loạn.”

    Trần Gia Lạc vờ hỏi:
    “Hồng Hoa Hội là cái gì vậy?”

    Đông Phuơng Nhĩ trả lời:
    “Đó là một bang hội mưu đồ tạo phản trên giang hồ. Huynh đài chưa từng nghe thấy hay sao?”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Tiểu đệ đắm mình trong cầm kỳ, đối với chuyện thế gian không hiểu là mấy. Nói ra xấu hổ, một bang hội danh tiếng lẫy lừng như thế mà đến hôm nay tiểu đệ mới nghe thấy lần đầu.”
    Chàng dừng lại một chút rồi tiếp:
    “Triều đình nghe tin này, chắc chắn sẽ nghiêm phạt Hồng Hoa Hội.”

    Đông Phuơng Nhĩ nói:
    “Đó là lẽ đương nhiên, một nhúm phản tặc đó không đủ trở thành đại họa.”

    Trần Gia Lạc không phản đối, chỉ hỏi:
    “Huynh đài căn cứ vào đâu mà nói thế?”

    Đông Phương Nhĩ đáp:
    “Đương kim thiên tử là bậc thánh minh, chỉ cần phái một hai nhân vật tài cán hơn người, Hồng Hoa Hội sẽ bị tiêu diệt trong chốc lát.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Tiểu đệ không rõ về triều chính, nếu ăn nói hoang đường mong nhân huynh đừng cười là ngu muội. Tiểu đệ cho rằng trong triều chỉ có hạng giá áo túi cơm, chưa chắc làm nổi việc gì.”
    Câu này vừa thốt ra, Đông Phương Nhĩ và hai kẻ hầu cận áo lam đều biến sắc.

    Đông Phương Nhĩ nói:
    “Huynh đài nói như vậy, thật không ngoài cách nghĩ của học trò. Chưa cần nhắc đến vô số danh tướng cùng hiền sĩ trong triều, chỉ riêng mấy bằng hữu của tại hạ đây cũng không phải tầm thường. Chỉ tiếc huynh đài là hạng thư sinh, không thì có thể bảo họ thi triển mấy chiêu. Nếu huynh đài biết võ công, sẽ hiểu lời nói của tại hạ không phải là vô căn cứ.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “ Tiểu đệ trói gà không chặt, nhưng đã từng đọc Du Hiệp Liệt Truyện của Thái Sử Công, bản thân cũng rất thán phục các bậc anh hùng hiệp sĩ. Không hiểu huynh đài là tôn chủ phái nào, các vị đây có phải là đệ tử quí phái hay không? Cảm phiền huynh đài mời họ biểu diển môt vài tuyệt kỹ cho tiểu đệ được mở rộng tầm mắt.”

    Đông Phuơng Nhĩ bảo hai người áo lam:
    “Các ngươi thử làm trò để ra mắt Lục gia.”

    Trần Gia Lạc đưa tay mời, nghĩ bụng:
    “Chỉ cần bọn bay xuất thủ là ta biết ở phái nào ngay.”

    Gã đại hán bước lên nói:
    “Con sẻ trên cành cây kia ồn ào đáng ghét quá. Để tiểu nhân lôi nó xuống đây cho nhĩ căn được thanh tịnh hơn.”
    Hắn nói xong vẫy tay, một mũi tụ tiễn bắn về phia con chim sẻ đang đậu trên cành. Nào ngờ tụ tiễn đến gần thì đột ngột rẽ sang bên, bay lạc mất.

    Đông Phương Nhĩ thấy hắn không đánh trúng thì rất bất ngờ. Đại hán kia xấu hổ đỏ mặt tía tai, lại vung tay, một mũi tụ tiễn nữa bắn lên. Lần này mọi người nhìn thấy rõ ràng, khi tụ tiễn tới gần con sẻ thì khống biết từ đâu có một viên đất bắn tới làm tụ tiễn bay lệch đi. Ông lão gầy ốm đứng bên Đông Phuơng Nhĩ thấy tay phải Tâm Nghiễn hơi rung động, biết cậu là thủ phạm bèn lên tiếng:
    “Không ngờ tiểu huynh đệ này công phu không tệ. Chúng ta làm quen một tý!”
    Lão bèn đưa năm ngón tay ra thành cương trảo, giống như móc sắt móc vào tay Tâm Nghiễn.

    Trần Gia Lạc thấy ông lão này sử dụng Đại Lực Ưng Trảo Công của phái Tung Dương, xuất thủ không nhanh mà bàn tay đã có tiếng gió rít lên. Chàng thầm kinh hãi, nghĩ bụng:
    “Võ công người này có thể gọi là cao thủ đệ nhất trên giang hồ, nếu không phải là tôn chủ một phái thì cũng là tiền bối võ lâm. Sao lão lại chịu làm nô bộc cho gã Đông Phương Nhĩ này?”

    Chàng nghĩ vậy, vội phẩy cây quạt xếp trong tay một cái, xòe ra cản giữa ông lão và Tâm Nghiễn. Ông lão lập tức rút tay về, nghĩ thầm:
    “Chủ nhân vừa đối xử với gã này như bằng hữu, nếu phá hủy đồ vật của hắn thì thật vô lễ.”
    Lão nhìn chằm chằm Trần Gia Lạc từ trên xuống dưới xem thử chàng có biết võ công hay không, nhưng chỉ thấy chàng đưa quạt nhẹ nhàng như không chú ý, hình như lần can thiệp vừa rồi chỉ là may mắn.

    Đông Phương Nhĩ nói:
    “Tiểu huynh đệ này tuổi tác còn nhỏ mà võ nghệ cao cường. Huynh đài tìm đâu ra thư đồng như vậy?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Nó không biết võ đâu. Chỉ vì từ nhỏ nó thích bắt sâu bắt chim, nên ném đất cũng khá chính xác.”

    Đông Phuơng Nhĩ thấy chàng đáp không thật lòng nên không hỏi vặn. Y nhìn cây quạt xếp trong tay chàng, hỏi:
    “Không hiểu cây quạt xếp trong tay huynh đài có bút tích của ai, có thể cho xem một lát không?”
    Trần Gia Lạc bèn đưa cây quạt xếp qua.

    Đông Phuơng Nhĩ cầm xem, thấy trên quạt có thủ bút bài từ Kim Lũ Khúc của Nạp Lan Tính Đức là một thi nhân tiền triều, ý tứ cao siêu, bút phong tuấn nhã. Y bèn nói:
    “Nạp Lan là công tử nhà tướng quốc nên viết thi từ rất có khí phách, sánh được Tô Đông Pha thời xưa. Triều đình lúc ấy chỉ có một mình ông đáng nói. Thư pháp này theo kiểu Chư Hà Nam, cũng ẩn tàng đôi chút phong thái vương tôn. Chiếc quạt và bài từ này có thể gọi là song bích, rất hợp với nhau, không phải là cao nhân thì chắc chắn không có duyên sử dụng. Không hiểu huynh đài từ đâu có được?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Tiểu đệ tình cờ dùng mười lạng vàng mua được trong kho sách cũ.”

    Đông Phương Nhĩ nói:
    “Nếu đắt gấp mười, bỏ trăm lạng vàng mua được cây quạt này cũng là quá rẻ. Đa số văn vật kiểu này chỉ truyền đời trong nhà thế gia, huynh đài mua được trong kho sách cũ thì quả là kỳ ngộ hiếm thấy trên đời.”
    Y nói xong cười rộ, Trần Gia Lạc biết y tỏ ý không tin nhưng cứ mặc kệ, mỉm cười bỏ qua.

    Đông Phương Nhĩ lại nói:
    “Nạp Lan công tử tài hoa tuyệt diệu, tự thị là anh kiệt trong đám thư sinh. Huynh đài xem, trong bài từ của ông ấy có mấy câu:

    Mày ngài có ngày nhăn nhíu,
    Từ xưa ai cũng ngại ngùng,
    Cuộc thế đáng gì mà hỏi,
    Chỉ nên cười nhạt mà thôi.


    Con người tự cao sinh ra kiêu ngạo, không tránh khỏi đoản mạng, bài từ này đã nói quá rõ ràng.”

    Y nói xong, trừng mắt nhìn Trần Gia Lạc, ra ý thiếu niên cậy tài kiêu ngạo như ngươi thì chưa chắc có kết cuộc tốt đẹp gì.
    Trần Gia Lạc cười cười, cũng dẫn ra một bài từ của Nạp Lan:

    “Cười rộ phất ống tay áo,
    Công danh phú quí đáng gì,
    Ngắm danh hoa say mỹ tửu,
    Chuyện đời gác bỏ ngoài tai.


    Con người được như Nạp Lan công tử, dĩ nhiên không để lọt tai những gì bọn giá áo túi cơm bình phẩm.”

    Đông Phương Nhĩ thấy chàng khí khái ngông cuồng, lắc đầu lia lịa. Nhưng y không nỡ rời chàng ngay, muốn thử khí độ ra sao, bèn lật quạt lại xem, thấy phía sau không có thư họa gì liền nói:
    “Tại hạ rất thích cây quạt này, dám xin huynh đài tặng cho, không biết có được hay không?”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Vật mọn đã lọt vào mắt xanh bậc cao nhân, tiểu đệ không chút ngần ngại tặng ngay.”

    Đông Phương Nhĩ chỉ vào mặt quạt còn trống, nói:
    “Xin huynh đài viết mấy câu vào mặt này, để ngày sau có thể trông vật nhớ người. Không biết huynh đài đang ngụ ở đâu, ngày mai tiểu đệ cho người đi lấy có được hay không ?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Nếu huynh đài không chê món quà nhỏ mọn, thì tiểu đệ lập tức viết ngay.”
    Nói xong, chàng gọi Tâm Nghiễn mở bao lấy văn phòng tứ bảo ra, suy nghĩ một chút rồi thảo ngay một bài thất ngôn tứ cú:

    Gươm đàn nửa gánh dạo sơn hà,
    Biển xanh núi thẳm ấy nhà ta,
    Sa mạc gió tây lay thúy vũ,
    Giang Nam trăng tỏ rọi quế hoa.


    Lão già giỏi Ưng Trảo Công đứng bên thấy chàng đi chơi mang theo bút mực, lại văn tài nhạy bén, nên không nghi ngờ chàng biết võ công nữa.

    Đông Phương Nhĩ nhận lấy cây quạt, buông lời cảm kích:
    “Tại hạ cũng có vật này xin tặng huynh đài.”
    Y hai tay bưng chiếc cổ cầm đặt trước mặt Trần Gia Lạc, nói:
    “Bảo kiếm cho người cháng sĩ, cổ cầm tặng khách tri âm. Cây đàn này phải của huynh đài mới đúng.”

    Trần Gia Lạc biết đây là một bảo vật hiếm có trên đời, thế mà mới gặp lần đầu người này đã đem tặng cho mình, không biết có dụng ý gì. Nhưng chàng là con nhà tể tướng, trân bảo đã gặp rất nhiều nên không coi là đặc biệt lắm, bèn chắp tay cảm tạ rồi bảo Tam Nghiễn nhận lấy.

    Đông Phương Nhĩ cười hỏi:
    “Huynh đài từ Hồi Cương đến tận Giang Nam, chỉ vì thích hoa quế thôi sao?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Một người bạn có chút việc cần, nên tiểu đệ phải gấp đến đây lo liệu.”

    Đông Phương Nhĩ hỏi:
    “Nhìn sắc mặt huynh đài thì hình như không nhàn hạ lắm, còn lo lắng rất nhiều. Phải chăng việc của quí hữu vẫn chưa xong?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Đúng vậy.”

    Đông Phuơng Nhĩ nói:
    “Không hiểu quí hữu gặp khó khăn thế nào? Ở đây tại hạ có rất nhiều bằng hữu, có thể giúp đỡ được chút gì chăng?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “ Chỉ vài ngày sau là xong rồi, đa tạ hảo ý của huynh đài.”

    Hai người nói chuyện gần nửa ngày mà vẫn chưa hiểu người đối diện là nhân vật thế nào. Đông Phương Nhĩ nói:
    “Ngày sau nếu huynh đài có điều gì cần giúp đỡ, có thể cầm đàn này đến Bắc Kinh tìm tại hạ. Bây giờ chúng ta hạ sơn thôi.”
    Trần Gia Lạc gật đầu ưng thuận, rồi hai người dắt tay nhau cùng xuống núi.

    Khi đến Linh Ẩn, đột nhiên phía trước có mấy người bước tới. Người đi đầu mặt đẹp như ngọc, mình khoác cẩm bào, tướng mạo rất giống Trần Gia Lạc, tuổi tác cũng không chênh lệch mấy. Y tuấn tú tiêu sái còn hơn cả Trần Gia Lạc, nhưng về chí khí anh hùng hào sảng không thể sánh bằng. Hai người đối diên, nhìn nhau ngơ ngác.

    Đông Phương Nhĩ cười nói:
    “Lục huynh! Người này có giống huynh đài không? Y là cháu họ của tại hạ. Khang nhi! Mau qua đây bái kiến Lục thế thúc.”
    Người ấy bước tới thi lễ. Trần Gia Lạc không dám nhận vai trưởng bối, vội trả lễ ngay.

    Đột nhiên xa xa vẳng tới một thanh âm nữ nhân rất quen thuộc. Trần Gia Lạc giật mình quay lại, thấy Chu Ỷ cùng song thân từ chùa Linh Ẩn bước ra, bên cạnh đó còn có Từ Thiên Hoằng. Chàng sợ nàng đột nhiên nhìn thấy hai Trần Gia Lạc sẽ kinh ngạc la lên, nên quay đi coi như không thấy. Từ Thiên Hoằng khẽ bảo Chu Ỷ:
    “Mình qua hướng khác đi.”

    Đông Phương Nhĩ nói:
    “Lục huynh! Hai ta vừa gặp mà đã thân thiết như bằng hữu lâu năm. Hôm nay tạm biệt ở đây, mai này có ngày gặp lại.”
    Rồi hai người chắp tay cáo biệt, mấy chục đại hán áo lam vây quanh hộ vệ trước sau Đông Phương Nhĩ mà đi.

    Trần Gia Lạc quay lại khẽ gật đầu, hất hàm một cái. Từ Thiên Hoằng hiểu ý ngay, bèn xin phép Chu Trọng Anh:
    “Nghĩa phụ! Tổng đà chủ sai hài nhi đi lo việc. Nghĩa phụ, nghĩa mẫu và muội muội ở đây chơi thêm một chút.”
    Chu Ỷ trề môi tỏ ý không vui, nhưng Từ Thiên Hoằng cứ đi theo bọn đại hán vào thành.

    Xế chiều, Từ Thiên Hoằng trở về bẩm báo:
    “Người đó dạo chơi nửa ngày trên hồ, sau đó về dinh tuần phủ.”




    (... còn tiếp ...)


          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Thư kiếm ân cừu lục

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Thư kiếm ân cừu lục - 書劍恩仇錄 -
    ___________________________
    Nguyên tác: Kim Dung - 金庸 ________ Dịch giả: Đông Hải






              


              

              
    (... tiếp theo ...)



    Trần Gia Lạc Kể lại chuyện hồi sáng. Hai người suy nghĩ một hồi, đoán rằng Đông Phuơng Nhĩ chắc chắn là nhân vật không đơn giản, nếu không phải khâm sai đại thần bí mật từ kinh thành đến đây điều tra xét hỏi thì cũng là vương thân tôn thất. Y nhìn không giống người Mãn Thanh, chắc là khâm sai. Lão già gầy ốm có võ công cao như thế lại là thuộc hạ của y, vây y không phải quan lại bình thường.

    Trần Gia Lạc nói:
    “Chẳng lẽ người này đến đây vì việc Từ ca hay sao? Tối nay ta muốn đích thân đi dò xét.”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Đúng thế! Tốt nhất là gọi một vị ca ca cùng đi, để tiếp ứng lẫn nhau.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Để ta mời Triệu tam ca đi. Tam ca là người Triết Giang, rất quen thuộc khu vực Hàng Châu này.”

    Vào canh hai, Trần Gia Lạc và Triệu Bán Sơn khởi hành, thi triển khinh công chạy về hướng dinh tuần phủ. Hai người đi trên mái nhà, hoàn toàn không phát ra tiếng động. Trần Gia Lạc nghĩ:
    “Xưa nay vẫn nghe nói võ công nội gia Thái Cực Môn ảo diệu, khinh công của Triệu tam ca quả nhiên cao siêu. Khi nào rảnh rỗi ta phải thỉnh giáo thêm ông ấy mới được.”

    Triệu Bán Sơn cũng âm thầm thán phục tổng đà chủ. Lúc thí võ với Thiết Đảm Chu lão anh hùng, mọi người đã mục kích võ công chàng tinh diệu, nào ngờ khinh công chàng cũng phi phàm chẳng kém. Không hiểu sư phụ chàng là Thiên Trì Quái Hiệp làm sao mà dạy được học trò giỏi giang đến thế chỉ trong mười năm ngắn ngủi.

    Chỉ một lúc đã đến gần tuần phủ nha môn. Hai người đồng thời phát hiện trên mái nhà phía trước có chỗ khả nghi, lập tức khom xuống nấp. Đúng là có hai người đang tuần tra trên mái nhà. Triệu Bán Sơn đợi chúng quay lưng bèn vung tay lên, một viên thiết liên tử bắn vào một cành cây cách đó mấy trượng. Hai tên kia nghe tiếng động ở cành cây liền phi thân qua đó để xem xét. Trần Gia Lạc cùng Triệu Bán Sơn thừa cơ vọt nhanh lên mái nha môn, lập tức tránh vào một góc tối.

    Họ chờ một hồi không thấy động tĩnh gì mới từ từ ngẩng đầu lên nhìn tứ phía, không nén nổi giật mình kinh hãi. Thì ra dưới sân đèn đuốc soi sáng tựa ban ngày, mấy trăm cung thủ sẵn sàng, tên lắp trên cung, đao tuốt khỏi vỏ, phòng thủ cảnh giới vô cùng nghiêm mật. Lại còn mấy tên võ tướng đi tới đi lui đốc thúc. Thật kỳ lạ, binh tướng ra vào đều hít thở nhẹ nhàng, bước chân rón rén, hoàn toàn không phát ra tiếng động. Tuy có cả ngàn người tụ tập mà nơi đây tĩnh mịch phi thường, nghe được cả tiếng dế kêu nơi góc tường. Chỉ đôi lúc mời có vài tiếng đuốc nổ lép bép.

    Trần Gia Lạc thấy không có cách nào vào được, bèn đưa tay ra hiệu cho Triệu Bán Sơn cùng lui ra ngoài, tránh bọn lính tuần tra tên mái nhà, đứng sau góc tường thương lượng kế sách. Trần Gia Lạc nói:
    “Chúng ta không nên vạch cỏ động rắn, bây giờ tốt nhất là quay về tìm cách khác.”

    Triệu Bán Sơn gật đầu, đang định phi thân chạy đi thì đột nhiên cánh cửa dinh tuần phủ ken két hé mở, một tên võ quan đi ra, phía sau là bốn tên Thanh binh. Năm người đi dọc theo con đường chừng vài chục trượng lại quay trở lại, thì ra chúng tuần tra cả bên ngoài. Hai người thấy khí thế như vậy, không khỏi thầm kinh hãi.

    Đợi năm tên đó quay trở ra, Trần Gia Lạc khẽ nói:
    “Đánh ngã!”
    Triệu Bán Sơn hiểu ý, bắn ra ba chiếc kim tiền tiêu, ba tên Thanh binh lập tức ngã xuống đất. Trần Gia Lạc cũng bắn hai quân cờ vây, đánh trúng tên võ quan và tên lính còn lại. Hai người nhảy xổ đến, điểm huyệt rồi kéo năm tên vào một chỗ tối, lột quân trang của chúng mặc vào mình, rồi lôi bọn chúng vào giấu sau góc tường.

    Hai người chờ bọn tuần tra trên mái nhà quay lưng lại, rồi nhảy qua tường, đàng hoàng đi vào trong sân dưới ánh đuốc sáng trưng. Trong sân có cả ngàn quan binh, làm sao biết được đã có kẻ địch trà trộn vào? Họ đi sâu vào, thấy bọn tuần tra bên trong đều là võ quan cao cấp, chỉ có điều nhân số ít hơn bên ngoài.

    Hai người đi đến sát tường nội điện, tìm được chỗ sơ hở, nhún người vọt lên nấp dưới mái hiên, nép vào một cây cột lớn nín thở không động đậy. Hồi lâu, Trần Gia Lạc thấy chưa lộ hành tung, bèn dùng hai chân móc lấy xà nhà treo người xuống, bôi nước bọt làm thủng giấy cửa sổ rồi dán mắt nhìn vào. Triệu Bán Sơn canh giữ sau lưng chàng, mắt nhìn bốn bên tám hướng đề phòng kẻ địch. Hai người này võ nghệ cao cường lại to gan lớn mật. Chỗ được canh phòng nghiêm mật như thế mà dám thám thính tình hình, thật là nguy hiểm đến cực điểm.

    Trần Gia Lạc thấy bên trong là một đại sảnh rộng khoảng ba gian nhà bình thường, có năm sáu người đứng, đều mặc phục sức đại quan. Có một người ngồi quay lưng ra ngoài nên không nhìn rõ mặt, chỉ thấy bọn quan lại kia đối với y thần sắc rất cung kính, mắt không dám nhìn nghiêng.

    Bên ngoài có một tên quan đi vào, hướng về người ngồi mà hành lễ, dập đầu chín cái. Trần Gia Lạc kinh hãi nghĩ thầm:
    “Đây là nghi lễ tham kiến hoàng đế. Chẳng lẽ hoàng đế đã vi hành đến Hàng Châu hay sao?”

    Chàng đang phân vân thì nghe tên quan đó nói:
    “Thần là Y Chương Cai, Bố chánh Triết Giang, khấu kiến Hoàng thượng.”

    Trần Gia Lạc nghe rất rõ ràng bèn nghĩ:
    “Quả nhiên là đương kim hàng đế Càn Long, không trách chúng canh phòng đến thế.”

    Hoàng đế “hừ” một tiếng, nghiêm giọng nói:
    “Ngươi to gan lắm!”

    Y Chương Cai lột mão đặt dưới đất, dập đầu lia lịa không dám nói tiếng nào. Lát sau hoàng đế mới nói tiếp:
    “Ta phái binh chinh phục Hồi Cương, nghe nói ngươi không đồng ý?”

    Trần Gia Lạc lại giật mình nghĩ:
    “Thanh âm của tên hoàng đế này nghe rất quen thuộc.”

    Y Chương Cai vừa dập đầu vừa nói:
    “Tội thần đáng chết! Thần không dám!”

    Hoàng đế nói:
    “Ta hạ lệnh cho Triết Giang chuyển gấp mười vạn thạch lương thực để cung ứng quân nhu, sao ngươi dám kháng chỉ?”

    Y Chương Cai đáp:
    “Thần có chết muôn lần cũng không dám kháng chỉ. Thật sự là năm nay tỉnh Triết Giang mất mùa, bá tánh cực khổ, trong thời gian ngắn không sao tập trung cho đủ quân lương.”

    Hoàng đế cười nhạt:
    “Bá tánh cực khổ! Hừ, ngươi đúng là quan tốt, thương dân như con.”

    Y Chương Cai lại dập đầu:
    “Tội thần đáng chết! Tội thần đáng chết!”

    Hoàng đế nói:
    “Theo ngươi thì phải làm sao? Quân lương không đủ, tình hình gấp như lửa cháy, chẳng lẽ bắt đại quân chết đói ở Hồi Cương hay sao?”

    Y Chương Cai vẫn dập đầu:
    “Thần không dám nói”

    Hoàng đế bảo:
    “Có gì mà không dám nói? Ngươi nói đi.”

    Y Chương Cai nói:
    “Đức vạn tuế thánh minh, ơn khắp lê dân. Hồi Cương là vùng di địch, thật ra không cần phiền vương sư viễn chinh như thế. Chỉ cần phái một đại thần đến thi ân bố đức là dân chúng vùng biên cương này tự nhiên qui thuận.”
    Hoàng đế “hừ” một tiếng không nói gì.

    Y Chương Cai lại nói:
    “Người xưa cũng nói: Việc binh là chuyện dữ, thánh nhân chẳng muốn dùng. Nếu thánh thượng bãi bỏ cuộc viễn chinh này, cả thiên hạ đều cảm ân cảm đức.”

    Hoàng đế cười nhạt:
    “Ta nhất định phái binh chinh phạt, thế thì cả thiên hạ đều oán thán phải không?”

    Từ nãy Y Chương Cai vẫn dập đầu liên tục, trên trán đã đầy máu tươi. Hoàng đế cười khẩy:
    “Đầu ngươi chưa cứng lắm, thế mà dám chống đối với trẫm hay sao?”
    Y quay người lại.

    Lần này Trần Gia Lạc càng kinh hãi hơn. Thì ra hoàng đế chính là Dông Phương Nhĩ mà mình vừa gặp sáng nay tại Tam Thiên Trúc chùa Linh Ẩn. Trần Gia Lạc kiến thức rộng rãi, gặp việc rất trấn tĩnh, nhưng lúc này không sao nén nổi mồ hôi lạnh toát ra đầy người.

    Hoàng đế Càn Long lại nói:
    “Đi ra đi! Để mão quan lại đây.”
    Y Chương Cai dập đấu mấy cái nữa rồi mới đứng dậy, để đầu trần lùi ra ngoài cửa.

    Càn Long quay sang mấy vị đại thần kia nói:
    “Tên họ Y này hành sự bất lực, chắc bên trong còn uẩn khúc gì. Các khanh hãy điều tra rõ ràng vụ này rồi trình tấu, không được vì tình riêng mà bao biện, nếu không sẽ bị xử cùng một tội.”
    Bọn đại thần vâng dạ liên hồi.

    Càn Long lại bảo:
    “Các ngươi lui ra đi. Lập tức tập hợp đầy đủ mười vạn thạch quân lương, vận chuyển đi Hồi Cương gấp.”
    Bọn kia liên tiếp vâng dạ rồi mới khấu đầu lui ra.

    Càn Long hạ lệnh:
    “Gọi Khang nhi vào đây.”
    Một tên nội thị vén màn ra ngoài, dẫn một thiếu niên vào. Trần Gia Lạc thấy đó chính là người có diện mạo giống mình. Y đứng bên Càn Long ra vẻ thân mật, không nơm nớp sợ hãi như mấy vị đại thần kia.

    Càn Long lại truyền:
    “Gọi Lý Khả Tú”

    Nội thị truyền chỉ ra ngoài, một võ tướng tiến vào khấu kiến:
    “Thần là Triết Giang thủy lục đề đốc Lý Khả Tú, khấu kiến thánh giá.”

    Càn Long hỏi:
    Tên phỉ đồ họ Văn của Hồng Hoa Hội như thế nào rồi?”
    Trần Gia Lạc nghe nhắc đến Văn Thái Lai lại càng chú ý lắng nghe.

    Lý khả Tú nói:
    “Tên giặc này hung hãn chống trả, đã bị thương rất nặng. Thần đang cho đại phu chẩn trị, phải đợi thần trí hắn hồi phục lại mới thẩm vấn được.”

    Càn Long bảo:
    “Nếu thế càng phải cẩn thận lưu ý.”

    Lý Khả Tú đáp:
    “Thần không dám sơ xuất chút nào.”

    Càn Long bảo:
    “Đứng dậy đi.”
    Lý Khả Tú khấu đầu lùi ra.

    Trần Gia Lạc khẽ nói:
    “Chúng ta đi theo hắn.”
    Hai người nhẹ nhàng tuột xuống, nhưng chân vừa chạm xuống thì trong đại sảnh có người phát giác la lên:
    “Có thích khách!”
    Trần Gia Lạc cùng Triệu Bán Sơn chạy ngay ra sân ngoài, trà trộn vào giữa đám binh sĩ đông đúc.

    Lúc này bốn bề tiếng mõ tre vang dội. Trần Gia Lạc thấy ông lão gầy ốm vừa gặp trên Tam Thiên Trúc dẫn rất đông đại hán áo xanh tuần tra tứ phía. Ánh mắt lão này rất tinh tường, đảo nhìn khắp chốn. Trần Gia Lạc quay lưng lại, từ từ bước ra phía cổng.

    Lão kia bỗng hét lên:
    “Ngươi là ai?”
    , rồi đưa tay chộp vào Triệu Bán Sơn. Triệu Bán Sơn vung song chưởng xuất chiêu Như Phong Tự Bế gạt trảo của lão ra, tung người vọt đi. Lão gấp rút đuổi theo, phóng chưởng đánh theo sau lưng. Bấy giờ Triệu Bán Sơn đã ra đến cổng, nghe sau lưng có tiếng gió liền vội cúi mình, vận sức đánh trả lại. Trần Gia Lạc đã cởi áo lính ra, xoay tay chụp vào đầu lão già đó. Lão đưa tay cản lại, hai người vừa kéo một cái, áo đã rách toạc làm hai mảnh.

    Trần Gia Lạc vận kình vào nửa chiếc áo, quật veo véo lên người lão già gầy ốm đó. Chân chàng không dám dừng nửa bước, cứ chạy thẳng ra ngoài. Lão cũng không vừa, vung trảo chộp nửa cái áo đó rách bươm ra, đuổi sát theo như hình với bóng.

    Giữa cổng có một tên lính xớ rớ chạy tới, Triệu Bán Sơn liền tóm lấy ném ngược lại sau. Lão già đưa tay trái chụp được, để hắn qua một bên rồi mới đuổi tiếp. Vì thế mà lão chậm một bước, thích khách đã chạy ra khỏi dinh tuần phủ. Hai ba chục tên thị vệ từ phía sau chạy tới, ào ào như ong vỡ tổ.

    Lão già hét lên:
    “Bảo vệ hoàng thượng quan trọng hơn! Năm người các ngươi theo ta truy lùng thích khách.”
    Rồi lão vẫy năm tên thị vệ, thi triển khinh công rượt đuổi. Chúng còn kịp thấy hai bóng người chạy trốn trên mái nhà.

    Lão cũng tung người lên mái, nhảy một hơi qua mấy chục gian nhà, khoảng cách cũng có rút ngắn lại. Lão đang muốn quát hỏi thì đột nhiên phía dưới có tiếng sáo nổi lên, hình như địch thủ đã có người tiếp ứng. Lão thấy hai người phía trước nhảy xuống đứng lại giữa đường, lập tức nhảy xuống theo, bắt tréo hai tay toan vồ lấy Trần Gia Lạc đứng trước mặt.

    Trần Gia Lạc không lùi lại mà cũng không chống đỡ, cười ha hả nói:
    “Ta là bạn tốt của chủ nhân ngươi. Lão già này dám vô lễ hay sao?”

    Dưới ánh trăng ông lão đã nhìn thấy rõ diện mạo đối phương, kinh hãi thu trảo về nói:
    “Quả nhiên ngươi không phải là hảo nhân! Mau theo ta đi gặp thanh thượng.”

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Ngươi dám làm gì ta nào?”

    Lão chần chừ một lúc, năm tên thị vệ phía sau đã chạy tới nơi. Trần Gia Lạc cùng Triệu Bán Sơn bỗng phi thân về phía tây.
    Lão già bèn hô lớn:
    “Đuổi theo!”

    Phía Tây Hồ là nơi trú phòng của Kỳ Doanh, quân đội chính qui của Thanh triều. Lão già nghĩ bụng:
    “Đó là chỗ quan binh hùng hậu nhất, hắn dám chạy đến bờ hồ đó tức là tự đi vào chỗ chết”
    , bèn yên tâm đuổi theo.

    Đến bờ hồ, hai người Trần Gia Lạc nhảy lên một chiếc thuyền, thuyền phu lập tức khua mái chèo, đưa thuyền tách bờ mấy trượng. Lão già hét theo:
    “Bằng hữu kia! Rốt cuộc ngươi là nhân vật thế nào, hãy để lại tên tuổi.”

    Triệu Bán Sơn dõng dạc đáp:
    “Tại hạ là Triệu Bán Sơn ở Ôn Châu. Các hạ ở phái Tung Dương phải không?”

    Lão già gầy ốm kinh ngạc:
    “Úi chà! Có phải Triệu lão sư, giang hồ gọi là Thiên Tí Như Lai đó không?”

    Triệu Bán Sơn nói:
    “Không dám, đó là bằng hữu vui miệng mà gọi thế, thật hổ thẹn không dám nhận. Xin thỉnh giáo tên các hạ?”

    Lão kia đáp:
    “Tại hạ họ Bạch, tên Chấn.”
    Vừa dứt lời, Triệu Bán Sơn cùng Trần Gia Lạc đều kinh hãi. Bạch Chấn có ngoại hiệu Kim Trảo Thiết Câu, là một đệ nhất cao thủ phái Tung Duơng, ba mươi năm về trước đã thành danh về môn Đại Lực Ưng Trảo Công. Lão biệt tích giang hồ đã lâu, không ai hiểu được hành tung, nào ngờ đã làm thị vệ bên mình hoang đế.

    Triệu Bán Sơn chắp tay nói:
    “Thì ra là Kim trảo thiết câu Bạch lão tiền bối, chẳng trách công lực phi phàm như thế. Bạch lão tiền bối ép người quá đáng như vậy, không biết có điều chi chỉ giáo?”

    Bạch Chấn nói:
    “Nghe nói Triệu lão sư là Tam đương gia của Hồng Hoa Hội, thế còn vị kia là ai?”
    Nói đến đây lão bỗng nghĩ ra, bèn hỏi:
    “Chẳng lẽ là Trần công tử, tổng đà chủ của quí hội?”

    Triệu Bán Sơn không đáp mà hỏi lại:
    “Bạch lão tiền bối muốn gì?”

    Trần Gia Lạc xòe cây quạt ra, dõng dạc nói:
    “Gió mát trăng trong, cảnh khuya như vẽ thế này, chẳng hay Bạch lão tiền bối có bằng lòng tới đây uống một chén với ta không?”

    Bạch Chấn nói:
    “Các hạ giữa đêm xông vào dinh tuần phủ làm kinh động thánh giá, chuyện này đâu thể giải quyết ở đây một cách dễ dàng? Tại hạ buộc lòng phải mời các vị đi gặp chủ nhân, không thì trở về không biết đường nào phúc đáp. Bản chủ nhân rất tốt với các hạ, chắc không làm khó các hạ đâu.”

    Trần Gia Lạc cười nói:
    “Chủ nhân của ngươi không phải hạng người phàm tục. Ngươi hãy về nói cho ông ấy biết, mặt hồ lúc này đầy mùi hương hoa quế và ánh trăng rực rỡ. Nếu ông ấy có nhã hứng thì xin mời tới đây uống mấy chén hàn huyên tâm sự, ta sẽ ở đây chờ đợi.”

    Sáng nay Bạch Chấn đã tận mắt thấy hoàng thượng rất chiếu cố người này, ân sủng lạ thường. Nếu lão đắc tội với chàng, không chừng sẽ bị hoàng thượng trách mắng. Nhưng chàng giữa đêm dám kinh động thánh giá, không bắt về thì không sao kết thúc vụ này. Dù sao thì quanh đây không có thuyền bè nên lão chẳng có cách nào truy đuổi, đành quay về bẩm báo lên hoàng đế.

    Càn Long suy nghĩ một lát rồi nói:
    “Y đã hứng thú như vậy, mà ngắm trăng trên hồ cũng không phải là tồi. Ngươi đi nói với hắn là ta sẽ đến ngay.”

    Bạch Chấn khuyên can:
    “Bọn đó toàn là đồ liều mạng, hoàng thượng nên bảo trọng long thể. Theo ngu ý của hạ thần thì hoàng thượng nên cẩn thận, không đi là tốt nhất.”

    Càn Long bảo:
    “Ngươi mau thi hành mệnh lệnh!”

    Bạch Chấn không dám nhiều lời, liền cưỡi ngựa chạy đến bờ hồ. Lão thấy tên thuyền phu khi nãy đang ngồi đợi tin, bèn lớn tiếng nói:
    “Về nói với thiếu gia nhà ngươi, chủ nhân chúng ta sắp đến cùng hắn đàm luận thưởng trăng. Các ngươi chuẩn bị nghênh giá đi.”

    Bạch Chấn quay về bẩm báo, mới đến giữa đường đã thấy Kiêu Kỵ Doanh, Hộ Quân Doanh, Tiền Phong Doanh của ngự lâm quân đang tiến đến bờ hồ. Chạy thêm một đoạn, thấy Kỳ Doanh và quân thủy sư trú phòng ở Hàng Châu cũng đang đến. Bạch Chấn nghĩ thầm:
    “Không hiểu sao hoàng thượng lại thích thằng lỏi đó, chỉ vì ngắm trăng với hắn mà phải điều động bao nhiêu binh lính đi hộ giá.”
    Lão vội vã chạy về để còn lo bố trí thị vệ.

    Càn Long đang cao hứng cười đùa, có Lý Khả Tú thủy lục đề đốc tỉnh Triết Giang hầu hạ kế bên. Càn Long hỏi:
    “Chuẩn bị xong cả rồi sao? Đi thôi.”
    Càn Long thay thường phục, bọn thị vệ hộ giá cũng mặc y phục bình dân, tất cả đi ngựa đến bờ hồ.

    Đến bên bờ hồ, Càn Long chậm rãi nói:
    “Hắn cũng biết ta là ai rồi, nhưng các ngươi cứ giữ lễ như kẻ sĩ thăm nhau.”
    Lúc này góc hồ nào cũng có mai phục ngự lâm quân. Còn thân binh của Kỳ Doanh, Thủy Sư và Lý Khả Tú thì bố trí vòng ngoài, vây chặt Tây Hồ mấy lớp.

    Trên hồ bỗng có ánh đèn lay động, năm chiếc thuyền chèo tới. Một người đứng ở mũi thuyền đầu tiên, bộ tấn chắc chắn, khí thế bất phàm, dõng dạc hô lớn:
    “Tiểu nhân phụng mệnh Lục công tử, cung thỉnh Đông Phương tiên sinh ra giữa hồ ngắm trăng.”
    Nói xong y nhảy lên bờ, chắp tay vái chào Càn Long. Đây chính là Vệ Xuân Hoa.

    Càn Long gật đầu khen:
    “Hay lắm!”
    rồi bước lên thuyền đó. Lý Khả Tú, Bạch Chấn và ba bốn chục thị vệ chia nhau lên bốn chiếc thuyền còn lại. Trong đám thị vệ có mười mấy tên đặc biệt tinh thông thủy tánh, Bạch Chấn dặn dò chúng đặc biệt cẩn thận, dù mất mạng thành ma cũng phải lo bảo vệ thánh giá.

    Năm chiếc thuyền chèo ra giữa hồ thì thấy đèn đuốc sáng trưng, rất nhiều du thuyền thắp đèn khiến Tây Hồ rực rỡ như trời sao sáng. Khi đến gần, bỗng có tiếng sáo trúc nổi lên từ mặt nước, một chiếc thuyền con lướt tới như bay, một người ở đầu mũi thuyền kêu lớn:
    “Đông Phương tiên sinh đã đến rồi ư? Lục công tử đợi khá lâu rồi.”
    Vệ Xuân Hoa đáp:
    “Đến rồi, đến rồi!”

    Thuyền nhỏ quay đầu dẫn đường, một chiếc thuyền lớn đối diện từ từ đến gần. Bạch Chấn và bọn thị vệ thấy khí thế đối phương như thế không khỏi e dè. Tuy đã triệu tập đại đội nhân mã để phòng hờ bất trắc, nhưng chúng vẫn không tự chủ được phải thầm kinh hãi, bất giác sờ tay vào binh khí đang giấu trong người.

    Bỗng nghe Trần Gia Lạc bên thuyền bên kia hô lớn:
    “Đông Phương tiên sinh quả nhiên cao hứng. Xin mời qua bên này.”

    Hai chiếc thuyền tiến lại gần nhau, bắc ván làm cầu nối. Càn Long, Lý Khả Tú, Bạch Chấn và mấy thị vệ cao cấp đạp lên tấm ván bước qua. Thấy trong thuyền chỉ có hai người là Trần Gia Lạc và thư đồng, bọn Bạch Chấn mới yên tâm trở lại.

    Chiếc thuyền hoa đó rất rộng rãi, vách có vẽ tranh, mạn thuyền được điêu khắc tinh xảo. Trên bàn đặt giữa thuyền đã bày sẵn chén bát, rượu, trái cây và các loại thức ăn. Trần Gia Lạc lên tiếng:
    “Nhân huynh hạ cố đến đây, tại hạ thật vinh hạnh khôn xiết.”

    Càn Long đáp:
    “Huynh đài đã mời, lẽ nào ta không tới?”
    Hai người nắm tay nhau cười rộ rồi ngồi đối diện, Lý Khả Tú và Bạch Chấn đứng sau lưng Càn Long.

    Trần Gia Lạc cười với Bạch Chấn một cái rồi bỗng im bặt. Chàng đột nhiên thấy sau lưng Lý Khả Tú có một thiếu niên tuấn tú, rõ ràng là đồ đệ của Lục Phi Thanh. Tại sao hắn lại ở giữa đám quan tướng triều đình này, thật là kỳ lạ! Trần Gia Lạc ngạc nhiên không nén nổi, phải nhìn thêm cái nữa. Lý Nguyên Chỉ mỉm cười, nháy mắt với chàng, tỏ ý bảo đừng nhận người quen.

    Tâm Nghiễn bước lên rót rượu. Trần Gia Lạc sợ Càn Long nghi ngờ, bèn tự uống trước một chén rồi gắp thức ăn nếm trước. Càn Long chỉ lựa mấy món mà Trần Gia Lạc đã nếm, gắp mấy đũa rồi dừng lại không ăn nữa. Một chiếc thuyền kế bên có tiếng sáo vang lên, thổi bài Nghinh Gia Tân.

    Càn Long cười nói:
    “Huynh đài thật là người tao nhã, chỉ chớp mắt đã sắp xếp mọi việc chu đáo thế này.”

    Trần Gia Lạc cảm tạ rồi nói:
    “Đã có rượu thì không thể không có nhạc. Tại hạ nghe nói Ngọc Như Ý là đệ nhất ca nữ vùng này, nên cố ý mời đến để phục vụ huynh đài.”

    Càn Long vỗ tay khen ngợi rồi quay lại hỏi Lý khả Tú:
    “Ngọc Như Ý là người như thế nào”

    Lý Khả Tú đáp:
    “Đó là một danh kỹ ở Hàng Châu. Nghe nói nàng rất kiêu ngạo, nếu nàng không vừa ý thì bỏ ra mười lạng hoàng kim cũng đừng hòng thấy mặt, đừng nói đến ca hát hay mời rượu.”

    Càn Long cười hỏi:
    “Ngươi đã gặp nàng chưa?”

    Lý Khả Tú hoảng sợ đáp:
    “Tiểu… tiểu nhân không dám.”

    Càn Long cười nói:
    “Thế thì hôm nay ngươi được mở rộng tầm mắt rồi.”

    Trong lúc hai người nói chuyện, Vệ Xuân Hoa đã sang chiếc thuyền kia dẫn Ngọc Như Ý qua. Càn Long thấy cô gái này trắng trẻo nhỏ xinh, tướng mạo diễm lệ phi thường, cặp mắt lanh lợi chỉ nhìn thoáng một cái đã thân mật chảo hỏi hết mọi người.

    Nàng uyển chuyển thân hình, cúi chào Trần Gia Lạc rồi cất giọng oanh thỏ thẻ:
    “Lục công tử hôm nay thật cao hứng.”
    Thanh âm êm dịu phi thường.

    Trần Gia Lạc đưa tay về phía Càn Long, nói:
    “Vị này là Đông Phương lão gia”
    Ngọc Như Ý quay sang Càn Long chào hỏi, rồi ngồi xuống cạnh Trần Gia Lạc

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Nghe nói cô nương hát rất hay, có thể cho chúng ta thưởng thức một chút hay không?”

    Ngọc Như Ý cười đáp:
    “Nếu Lục công tử muốn, tiểu nữ có thể hát ba ngáy ba đêm cho công tử nghe. Chỉ sợ công tử phát chán mà thôi.”

    Có người đưa đàn tỳ bà đến, Ngọc Như Ý đưa tay vẫy nhẹ, bắt đầu cất giọng. Bài đầu tiên là tiểu khúc Nhất Bán Nhi:

    Ngoài rèm thấy gã oan gia,
    Quì xin về lại nếp nhà phu thê,
    Miệng ta mắng kẻ bội thề,
    Lòng ta thì lại đê mê chẳng đành.


    Trần Gia Lạc vỗ tay khen hay. Càn Long nghe tiếng đàn thánh thót, giọng điệu ôn nhu cũng bất giác thấy tinh thần hưng phấn.

    Ngọc Như Ý nghiêng mặt nở một nụ cười, đưa tay vuốt lên chiếc đàn tỳ bà, quay lại nhìn Càn Long hát tiếp:

    Lắm khi đùa muốn đánh chàng,
    Suy đi nghĩ lại kỹ càng lại thôi,
    Nhẹ tay chàng tưởng xua ruồi,
    Nặng tay chàng tưởng gặp nòi sát phu,
    Thôi thì hẹn trước một câu,
    Đánh xong rồi thưởng, lỡ đau hôn đền.


    Càn Long nghe vậy, quên mất mình là ai, lớn tiếng kêu lên:
    “Cô nương muốn đánh thì đánh ta trước đi.”
    Trần Gia Lạc lớn tiếng cười ha hả. Lý Nguyên Chỉ núp sau lưng cha bĩu môi ra. Lý Khả Tú, Bạch Chấn và bọn thị vệ thì cố nghiêm mặt nhịn cười. Ngọc Như Ý thấy mọi người lúng túng thì bật cười khúc khích.

    Càn Long sống trong chốn thâm cung, phi tần mỹ nữ tuy nhiều nhưng ai cũng khiếp sợ hoàng đế, cười một tiếng cũng không dám. Y chưa bao giờ gặp danh kỹ Giang Nam thế này, thấy nàng đầu mày cuối mắt lúng liếng đong đưa, bộ điệu lả lướt đầy vẻ phong tình, lời ca uyển chuyển đàn gảy du dương. Thêm vào những đợt hương hoa trên hồ bay đến, y như đi vào cõi mộng trong ánh trăng lồng sóng nước, dần dần quên mất mình đang đối điện với bọn giang dương đại đạo.

    Ngọc Như Ý rót rượu mời, Càn Long và Trần Gia Lạc mỗi người cạn liền ba chén. Nàng cũng uống một chén. Càn Long tháo chiếc vòng ngọc bích trên tay, thưởng cho Ngọc Như Ý rồi bảo:
    “Nàng hát một bài nữa đi.”

    Ngọc Như Ý cúi đầu mỉm cười, trên má lộ ra hai lúm đồng tiền vừa nhu mì vừa ranh mãnh, càng lộ vẻ phong tình khiến trái tim Càn Long phải nhũn ra. Nàng nhoẻn một nụ cười rồi nói:
    “Tiểu nữ sợ bài hát này Đông Phương lão gia không thích, nổi giận mất vui.”

    Càn Long cười ha hả nói:
    “Bài nào cô nương hát ta cũng thích, sao có thể nổi giận được?”

    Ngọc Như Ý liếc Càn Long một cái, rồi lại đưa mấy ngón tay mềm mại gảy đàn. Lần này khúc điệu nhẹ nhàng thánh thót, âm hưởng vui tươi phong phú. Càn Long vừa nghe tiếng dạo đàn đã gật đầu khen ngợi. Rồi giọng hát nàng cất lên, kể về một anh chàng kiết xác chỉ mơ được ăn no, ăn ngon lại nghĩ đến mặc, có áo gấm lại chê nhà thấp, xây lầu cao lại đòi vợ đẹp, cưới vợ bé lại đòi ngựa cưỡi, mua ngựa lại nghĩ thiếu tùy tùng, thuê mấy chục người hầu lại trách mình là thường dân dễ bị ức hiếp, may được làm tri huyện thì oán trách chức quan nhỏ mọn, làm đến thượng thư thì ngày đêm mơ tưởng chuyện lên ngôi báu…

    Càn Long vừa nghe vừa cười, cảm thấy lời ca khôi hài thú vị, nhưng đến câu cuối cùng đột nhiên biến sắc.

    Ngọc Như ý hát tiếp:
    “Một hôm hắn quay mặt về nam làm thiên tử, chinh đông chinh tây đánh man di, tứ hải vạn quốc đều thần phục. Hắn muốn đánh cờ với thần tiên, Lã Động tân vội xuống hầu cờ, hắn lại sai bắc thang để leo lên trời. Thang bắc chưa xong, Diêm Vương đã cho quỉ lại câu hồn. May mà đại hạn lâm đầu, không thì hắn leo lên còn chê trời thấp, nếu được làm Ngọc Hoàng Đại Đế chắc còn chê thiên cung kém phần sang trọng.”

    Trần Gia Lạc mỉm cười đắc ý, còn Càn Long càng nghe sắc mặt càng thay đổi.Y nghĩ:
    “Không chừng cô ả này đã biết thân phận của ta, cố ý hát bài này trêu ghẹo.”

    Ngọc Như Ý hát xong, chậm rãi đặt đàn tỳ bà xuống cười nói:
    “Bài ca này chê cười những kẻ nghèo hèn mà ưa mơ tưởng. Đông Phương lão gia và Lục công tử đều là bậc đại gia phú quí, lầu cao gác tía, thê tử đề huề, đương nhiên không thích loại người này.”

    Càn Long cười ha hả, sắc mặt đã bình thường trở lại. Y liếc nhìn Ngọc Như Ý thấy nàng thần sắc nhu mì, trong lòng rất ưng ý, bèn tính chuyện bảo Lý Khả Tú đưa nàng về hoàng cung. Nhưng việc này phải tuyệt đối bí mật để tránh người đời dị nghị thiên tử háo sắc, làm bại hoại thanh danh.

    Đột nhiên Trần Gia Lạc lên tiếng:
    “Có câu Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc, Đường Huyền Tông quả là bậc thiên tử phong lưu. Phong lưu cũng không sao, nhưng để giang sơn suýt lọt vào tay rợ Hồ An Lộc Sơn thì là sai lầm rất lớn.”

    Càn Long nói:
    “Buổi đầu Đường Huyền Tông cũng là đấng minh quân, chỉ những năm cuối đời hư hỏng như thế. Nhưng nói sao thì nói, ông ấy cũng không thể sánh kịp tổ tông là Đường Thái Tông.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Đường Thái Tông tài ba quán thế. Huynh đài nhất định rất khâm phục ông ấy phải không?”

    Suốt đời Càn Long tôn sùng nhất là Hán Vũ Đế và Đường Thái Tông, hai vị hoàng đế có sự nghiệp mở mang bờ cõi, danh tiếng lẫy lừng tận chốn xa xôi. Càn Long từ lúc lên ngôi đã muốn kế thừa cơ nghiệp hai vị vua này, nên mới đưa binh lính viễn chinh đến Hồi Cương. Y nghe Trần Gia Lạc hỏi đúng vào việc mình đang suy nghĩ, bèn nói:
    “Đường Thái Tông thần võ anh minh, di địch nghe tên là vỡ mật, văn tài võ lược đều đáng mặt kỳ nhân, thế gian ngàn năm có một.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Tiểu đệ đọc sách đến chỗ ghi lại kim ngôn của Đuờng Thái Tông như bài Trinh Quán Chính yếu, thấy có mấy câu hữu lý.”

    Càn Long cả mừng hỏi lại:
    “Là những câu nào?”
    Từ lúc y gặp Trần Gia Lạc, tuy rất thích chàng nhưng hai người nói chuyện không được tâm đầu ý hợp. Bây giờ y thấy chàng cũng tôn sùng Đường Thái Tông, vui mừng là phải.

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Đường Thái Tông đã nói: Dân chúng như nước chảy, nước có thể đỡ thuyền, cũng có thể đắm thuyền. Lại còn nói: Thiên tử hữu đạo thì mọi người suy tôn làm chủ, vô đạo thì mọi người cười là vô dụng.”

    Càn Long chưa nói gì, Trần Gia Lạc đã tiếp:
    “Ví dụ thế này, chúng ta đang ngồi trên thuyền, nếu thuận theo dòng nước thì ngồi rất yên ổn. Nhưng nếu khuấy động lung tung, muốn chèo nhanh hơn thiên lý mã, hoặc chèo ngược thế nước ào ào thì không khỏi lật thuyền.”

    Chàng nói mấy câu này trên mặt hồ, rõ ràng là có ý cảnh cáo. Không những chàng miệt thị hoàng đế, nói là bá tánh bất cứ lúc nào cũng có thể lật đổ y, mà ngữ điệu cũng có phần uy hiếp, như thuyền sắp bị lật xuống Tây Hồ thật sự.

    Suốt đời Càn Long chỉ sợ tổ phụ Khang Hy và cha mình là Ung Chính, ngoài ra chưa bị ai uy hiếp khinh thường như thế. Y không nén nổi nộ khí xung thiên, nhưng lập tức tự kiềm chế, nghĩ thầm:
    “Cứ để ngươi đắc ý nói cho sướng miệng. Lát nữa gông cổ ngươi lại, xem ngươi có quì xuống xin ta tha mạng hay không. Ngự lâm quân và binh lính Kỳ Doanh đã vây kín hồ này. Thị vệ của ta đều là hảo thủ võ công tuyệt thế, tuyển lựa vạn người lấy một. Một bang hội giang hồ nhỏ xíu thì tác oai tác quái được bao lâu?”
    Y bèn cười nói:
    “Khổng tử có viết: Đế vương thọ mệnh trời đất mà thống lĩnh muôn loài. Lập luận của huynh đài không khỏi trái ngược với lời cổ nhân dạy bảo.”

    Trần Gia Lạc rót ra một chén rượu rồi nói:
    “Ở tỉnh Triết Giang bọn tại hạ có bậc hương hiền là Hoàng Lê Châu tiên sinh. Ông ấy đã nói mấy câu rất đúng: Hoàng đế muốn lên ngôi thì phải hại mạng thiên hạ rất nhiều, bắt nhân dân đồ thán để giành lấy sản nghiệp cho mình. Lên ngôi rồi thì bóc lột thiên hạ rất nhiều, bắt nhân dân đồ thán để cung phụng cho mình, lại coi đó là việc đương nhiên. Mấy câu này không thể đúng hơn được nữa, chúng ta nên theo đó mà suy nghĩ lại. Huynh đài, xin mời!”
    Nói xong chàng nâng chén lên uống cạn.

    Càn Long nghe xong không nhẫn nhục được nữa. Y vung tay đập cái chén xuống đất, toan nổi cơn thịnh nộ. Chén rơi chưa tới ván thuyền, Tâm Nghiễn đã nghiêng người đưa tay chụp được, rượu còn lưng chén. Tâm Nghiễn quì xuống, hai tay dâng lên:
    “Đông Phương lão gia! May mà chén chưa bị vỡ.”

    Cậu bé làm Càn Long ngẩn người, xanh mặt “hừ” một tiếng. Lý Khả Tú nhận lấy cái chén rồi quay lại nhìn y chờ lệnh.
    Càn Long cười ha hả rồi nói:
    “Lục nhân huynh! Tiểu quản gia của nhân huynh tay chân thật là nhanh nhạy.”
    Y quay đầu lại bảo một tên thị vệ:
    “Ngươi thử tranh tài với vị tiểu quản gia này một phen. Nhớ đừng để nó đánh gục nhé. Ha ha!”

    Tên thị vệ đó tên là Phạm Trung Ân, sử một đôi phán quan bút. Hắn vừa nghe hoàng thượng ban lệnh lập tức đảo người sang một bên, chĩa đôi phán quan bút ra chia hai đường điểm vào huyệt đạo của Tâm Nghiễn. Tâm Nghiễn vội lộn người nhảy ngược ra sau nửa truợng.

    Tâm Nghiễn tuổi còn nhỏ, công phu có hạn, nhưng đã học được khinh công chân truyền của Thiên trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu. Câu thấy đôi phán quan bút của Phạm Trung Ân mười phần hung dữ, biết nếu công nhiên tỉ thí thì mình không phải là đối thủ của hắn, bèn nhanh chóng né tránh.

    Phạm Trung Ân múa bút như gió, tiếp tục tấn công. Tâm Nghiễn đề khí nhảy lên đứng trên mui thuyền cười nói:
    “Bây giờ chúng ta chơi đuổi bắt một chút. Khi nào ông bắt được thì ta thua, phải đuổi bắt lại ông.”

    Phạm Trung Ân đánh hai lần không trúng đã bắt đầu tức tối, chấm chân xuống đất nhảy vọt lên mui thuyền. Tâm Nghiễn bèn sử chiêu Nhất Hạc Xung Thiên, như một con chim lớn bay qua con thuyền nhỏ neo bên trái. Phạm Trung Ân cũng đuổi theo, hai người cứ thế cứ rượt qua đuổi lại trên mười mấy chiếc thuyền.

    Phạm Trung Ân không sao đến gần Tâm Nghiễn, đã lo thầm trong bụng. Chạy thêm một vòng nữa, trước mặt có ba chiếc thuyền nhỏ xếp thành hình tam giác. Tâm Nghiễn dợm chân vờ nhảy lên thuyền bên trái, nhưng vừa cười nhạo vừa nhảy lên thuyền bên phải. Nào ngờ Phạm Trung Ân đoán biết bèn tương kế tựu kế, cũng vờ nhảy về bên trái rồi lập tức nhảy qua phải. Hai người đối diện nhau, hắn múa tả bút điểm tới trước ngực Tâm Nghiễn.

    Tâm Nghiễn muốn tránh nhưng không kịp nữa. Trong lúc nguy cấp, nó vội nhảy tới trước phóng chưởng đánh vào bụng Phạm Trung Ân. Phạm Trung Ân đưa tả bút chống đỡ, hữu bút điểm vèo xuống hậu tâm đối phương. Chiêu này vừa nhanh vừa chuẩn, Tâm Nghiễn nhìn thấy nhưng không sao tránh kịp.

    Đột nhiên Phạm Trung Ân nghe thấy sau lưng có tiếng gió, một món binh khí rất trầm trọng đánh tới. Hắn phải lo cứu mình trước, xoay hữu bút lại gạt món binh khí đó.
    “Choang” một tiếng, lửa bay tứ tán. Binh khí kia chỉ hơi nghiêng đi một chút, rồi lại đập ngang eo lưng hắn. Hắn vội nhảy lên để tránh.

    Tưởng Tứ Cân giải nguy cho Tâm Nghiễn xong, thấy Phạm Trung Ân tung người lên liền đưa thiết trượng khuấy mạnh xuống nước để thuyền xoay nửa vòng tròn. Khi Phạm Trung Ân rơi xuống, thuyền không còn ở vị trí cũ nữa. Hắn rơi bõm xuống nước, há mồm chưa kịp la lên đã bị nước hồ tràn vào lấp kín. Tâm Nghiễn vỗ tay reo hò:
    “Chúng ta chơi đuổi bắt chứ có thi bơi đâu?”

    Trên thuyền Càn Long, hai tên thị vệ biết thủy tính vội vàng nhảy xuống nước. Chúng sắp sửa bơi tới chỗ Phạm Trung Ân thì Tưởng Tứ Cân thò thiết trượng xuống nước. Họ Phạm đang quơ tay quơ chân loạn xạ dưới nước thì quơ đụng cây thiết trượng, bất kể đó là cái gì cũng vội vàng níu lấy. Tưởng Tứ Cân bèn vung trượng hất hắn bay qua thuyền Càn Long, hét lớn:
    “Đón lấy!”

    Sư thúc Phạm Trung Ân là Long Tấn cũng là ngự tiền thị vệ, vội bước ra mũi thuyền đưa tay đón lấy. Phạm Trung Ân làm hoàng thượng mất mặt, dĩ nhiên sẽ bị nghiêm trị nên vừa tức tối vừa lo lắng. Người hắn còn ướt đẫm, nhưng cứ đứng yên không dám động đậy, nước trên người nhỏ lộp bộp xuống ván thuyền.

    Long Tấn đã nghe chuyện Tâm Nghiễn bắn đất cho tụ tiễn lệch đường trên Tam Thiên Trúc, làm mất mặt ngự tiền thị vệ, bây giờ lại thấy cậu trêu cợt sư điệt hắn. Đợi Tâm Nghiễn quay lại đứng sau lưng Trần Gia Lạc, hắn bèn đứng dậy trầm giọng nói:
    “Nghe nói vị tiểu huynh đệ này có công phu ám khí rất cao minh, tại hạ xin thỉnh giáo mấy chiêu.”

    Trần Gia Lạc nói với Càn Long:
    “Hai ta gặp nhau vì nghĩa tri âm, đừng để thuộc hạ tranh chấp nhau làm tổn thương hòa khí. Vị này đã là danh gia ám khí, chúng ta hãy để y biểu diễn bắn bia, đề phòng thư đồng của tiểu đệ không đón được phải bị thương. Huynh đài thấy có được không?”

    Càn Long nghe chàng nói rất có lý, đành phải đáp:
    “Được lắm, dĩ nhiên phải làm như thế. Nhưng lúc bất ngờ không kịp chuẩn bị, làm sao có bia mà bắn?”

    Tâm Nghiễn tung người nhảy qua thuyền Dương Thành Hiệp nói nhỏ mấy câu. Dương Thành Hiệp gật đầu rồi vẫy tay gọi, Chương Tấn từ thuyền bên cạnh nhảy qua.

    Dương Thành Hiệp bảo:
    “Nắm lấy đuôi thuyền kia.”

    Chương Tấn vâng lời nắm lấy đuôi chiếc thuyền mình vừa ngồi, còn Dương Thành Hiệp nắm vào mũi thuyền. Hai người quát một tiếng
    “Lên!”,
    con thuyền lập tức bị nhấc lên khỏi mặt nước, còn thuyền hai người đang đứng thì chìm xuống một đoạn. Mọi người thấy thần lực kinh hồn như thế, không khỏi vừa kinh ngạc vừa thán phục, đồng thanh hoan hô ầm ĩ.

    Lạc Băng cao hứng cũng nhảy lên thuyền của hai người, cười nói:
    “Cái bia này tuyệt đẹp!”
    Rồi nàng chèo đến cạnh chiếc thuyền hoa.

    Tâm Nghiễn hỏi:
    “Thiếu gia! Bia thế này có được hay không? Xin thiếu gia vẽ giúp hồng tâm.”

    Trần Gia Lạc nâng chén rượu lên ngửa cổ uống cạn. Chàng vẫy tay một cái, chén rượu bay tới đáy thuyền. Nghe “phập” một tiếng, đáy chén khảm vào bằng mặt ván thuyền, cái chén còn nguyên không vỡ. Mọi người vỗ tay reo hò vang dội.

    Bọn cao thủ bên Càn Long, như Bạch Chấn và Long Tấn, nhìn thấy Dương Thành Hiệp và Chương Tấn nâng thuyền lên cũng hơi e ngại, nhưng nghĩ là cái dũng của thất phu không đáng sợ lắm. Đến khi nhìn thấy Trần Gia Lạc vận nội lực gắn chén vào đáy thuyền như phóng phi tiêu, chúng mới chau mày, cảm thấy người này khó mà đối phó.

    Trần Gia Lạc cười nói:
    “Hãy xem cái chén này là hồng tâm, mời vị huynh đài này thử thi triển ám khí.”

    Long Tấn không nói tiếng nào, phóng ra liên tiếp năm chiếc độc tật lê. Nghe tiếng loảng xoảng, mảnh sành bay tứ tung, chung rượu khảm vào đáy thuyền đã bị đánh vỡ vụn ra. Tâm Nghiễn từ sau thuyền chui ra, lên tiếng hoan hô:
    “Quả nhiên chính xác!”

    Long Tấn nổi lòng độc ác, lại bắn ra năm chiếc độc tật lê, lần này nhắm vào Tâm Nghiễn. Dưới ánh trăng mọi người nhìn thấy rõ ràng, đều la lên kinh hãi. Công phu ám khí của Long Tấn thật sự lợi hại, tay vừa đưa lên là ám khí đã tới ngay trước mặt. Năm chiếc độc tật lê nhằm vào năm chỗ yếu hại khác nhau, Tâm Nghiễn kinh hãi nhào xuống sàn thuyền. Lạc Băng ném ra hai mũi phi đao, gạt hai chiếc độc tật lê rớt xuống hồ. Tâm Nghiễn lăn người né được hai chiếc, còn một chiếc trúng vào vai trái.

    Tâm Nghiễn cảm thấy vai mình hơi tê, không đau lắm nên đứng dậy ngay, cất tiếng thóa mạ. Quần hùng Hồng Hoa Hội giận dữ xung thiên, tất cả thuyền nhỏ đều chèo ào ào đến, muốn trị tội Long Tấn một phen.

    Ngay cả bọn thị vệ cũng cảm thấy vụ này quá ư nham hiểm. Trước mặt hoàng đế cùng đông người như thế mà dùng thủ đoạn bỉ ổi ám toán một cậu bé, thật đáng xấu hổ, không sao tránh được miệng đời cười chê phỉ nhổ. Dù sao thì thấy quần hùng Hồng Hoa Hội phô trương thanh thế ào ào lướt tới, chúng cũng vội vàng lấy binh khí giấu trong trường bào ra chuẩn bị ứng phó. Lý Khả Tú đưa kèn hiệu lên miệng, định triệu tập binh sĩ.

    Trần Gia Lạc kêu lớn:
    “Các vị ca ca! Đông Phương tiên sinh là khách quí, chúng ta không nên vô lễ. Mọi người lùi ra đi.”
    Quần hùng nghe lệnh tổng đà chủ, bèn chèo thuyền ra xa mấy trượng.

    Lúc này Dương Thành Hiệp và Chương Tấn đã buông chiếc thuyền làm bia trở xuống nước. Lạc Băng xem xét vết thương Tâm Nghiễn, Từ Thiên Hoằng cũng nhảy tới hỏi han. Tâm Nghiễn nói:
    “Tứ phu nhân, Thất gia! Các vị yên tâm đi, vãn bối không đau lắm, chỉ thấy ngứa ngáy quá chừng.”
    Nói xong, cậu muốn đưa tay lên gãi.

    Lạc Băng và Từ Thiên Hoằng nghe mà kinh hãi, biết trên ám khí có tẩm chất độc lợi hại, liền nắm chặt tay cậu. Tâm Nghiễn kêu lớn:
    “Ngứa quá! Thất gia! Thất gia buông tay ra đi.”
    Cậu vừa kêu vừa giãy giụa.

    Từ Thiên Hoằng lo lắng trong lòng, nhưng mặt không động sắc, chỉ nói:
    “Ngươi ráng chịu đựng một chút!”
    Rồi quay lại bảo Lạc Băng:
    “Tứ tẩu! Mau đi mời Tam gia đến đây.”

    Lạc Băng gật đầu đi ngay. Nàng vừa rời khỏi thì một chiếc thuyền con bay đến như tên bắn, trên mũi thuyền là Mã Thiện Quân, tổng đầu mục Hồng Hoa Hội ở Hàng Châu. Họ Mã nhảy lên thuyền Từ Thiên Hoằng, khẽ nói:
    “Thất đương gia! Xung quanh hồ đầy nghẹt quân Thanh, có cả mấy doanh ngự lâm quân.”

    Từ Thiên Hoằng hỏi:
    “Tổng số bao nhiêu?”

    Mã Thiện Quân đáp:
    “Khoảng bảy tám ngàn, chưa kể quân lính Kỳ Doanh tiếp ứng vòng ngoài.”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Huynh lập tức triệu tập tất cả huynh đệ trong ngoài thành Hàng Châu đến bờ hồ chờ lệnh, tuyệt đối đừng để quan phủ phát giác. Mỗi người chuẩn bị một đóa hoa đỏ.”
    Mã Thiện Quân gật đầu nhận lệnh.

    Từ Thiên Hoằng lại hỏi:
    “Nếu triệu tập lập tức thì được bao nhiêu huynh đệ?”

    Mã Thiện Quân nói:
    “Kể cả công nhân hai xưởng của thuộc hạ thì trong thành có khoảng hai ngàn anh em. Sau một canh giờ, huynh đệ ngoài thành đến kịp thì được hơn một ngàn nữa.”

    Từ Thiên Hoằng nói:
    “Huynh đệ chúng ta ít ra cũng có thể lấy một chọi năm. Ba ngàn người đối phó được một vạn rưỡi Thanh binh, nhân số thế là đủ rồi, huống chi trong lục doanh cũng có huynh đệ chúng ta. Huynh đi sắp xếp đi.”
    Mã Thiện Quân nhận lệnh đi ngay.

    Triệu Bán Sơn chèo thuyền tới xem xét vết thương Tâm Nghiễn, chau mày một cái rồi nhẹ nhàng khều chiếc độc tật lê trên vai cậu ra, lấy trong túi ra một viên thuốc nhét vào miệng Tâm Nghiễn. Sau đó ông quay người lại, nói thầm với Từ Thiên Hoằng:
    “Thất đệ! Hết cứu rồi!”

    Từ Thiên Hoằng giật mình hỏi:
    “Làm sao bây giờ?”

    Triệu Bán Sơn khẽ nói:
    “Chất độc trên ám khí này vô cùng lợi hại, ngoài chủ nhân ám khí ra thì chẳng ai giải được.”

    Từ Thiên Hoằng hỏi:
    “Tâm Nghiễn còn duy trì được bao lâu?”

    Triệu Bán Sơn đáp:
    “Ít nhất cũng ba giờ.”

    Từ Thiên Hoằng bèn nói:
    “Tam ca! Chúng ta đi bắt tên đó về, ép hắn giải cứu.”

    Câu nói này đã cảnh tỉnh Triệu Bán Sơn. Ông lấy trong bọc ra một cái bao tay bằng da nai, đeo vào rồi tung người nhảy lên, chỉ nhấp nhô ba cái đã đến trước mặt Trần Gia Lạc và Càn Long rồi mở miệng hô:
    “Lục công tử! Thuộc hạ muốn thỉnh giáo thủ đoạn của vị danh gia ám khí này.”

    Trần Gia Lạc thấy Long Tấn đả thương Tâm Nghiễn thì cực kỳ phẫn nộ, thấy Triệu Bán Sơn khiêu chiến rất hợp ý mình, bèn nói với Càn Long:
    “Vị bằng hữu này của tiểu đệ cũng có thể gọi là cao thủ về ám khí. Hai người tỉ thí một trận, chắc hẳn sẽ rất hào hứng.”

    Dĩ nhiên là Càn Long tán thành. Tỉ thí càng nguy hiểm thì y càng thấy hứng thú, bèn quay đầu lại bảo Long Tấn:
    “Đi đi! Nhớ đừng làm mất mặt ta.”

    Long Tấn tuân lệnh bước ra. Bạch Chấn dặn với theo:
    “Người đó là Thiên Tí Như Lai, Long hiền đệ nhớ cẩn thận một chút.”

    Long Tấn đã nghe đại danh Thiên Tí Như Lai từ lâu, không khỏi giật mình kinh hãi. Nhưng hắn tự nghĩ công phu ám khí của mình xưa nay chưa gặp địch thủ, nếu hôm nay đả bại Thiên Tí Như Lai danh chấn giang hồ thì oai phong biết mấy. Vì thế, hắn hiên ngang đến trước mặt Triệu Bán Sơn, chắp tay nói:
    “Tại hạ là Long Tấn, xin thỉnh giáo cao chiêu của tiền bối.”

    Triệu Bán Sơn hừ một tiếng rồi đáp:
    “Quả nhiên là ngươi! Người khác chắc chắn sẽ không sử dụng thủ đoạn đê tiện đến thế, không dùng loại ám khí tổn âm đức đến thế.”

    Long Tấn cười nhạt, lên tiếng mỉa mai:
    “Ta chỉ có hai cánh tay. Mời người có ngàn tay xuất chiêu xem thử.”

    Triệu Bán Sơn xoay người lại, nhảy ra xa rồi gọi:
    “Qua đây đi.”

    Long Tấn nói:
    “Ta chỉ so tài với một mình các hạ thôi.”

    Triệu Bán Sơn giận dữ nói:
    “Chẳng lẽ bọn ta thèm ám toán ngươi hay sao?”

    Long Tấn nói:
    “Được lắm! Ta chỉ đợi câu nói này thôi.”
    Hắn thấp thoáng thân hình một cái, đã nhảy lên mui một con thuyền nhỏ. Mọi người trên thuyền đều là cao thủ bậc nhất của Hồng Hoa Hội. Tuy Triệu Bán Sơn đã nói là không ai ám toán, nhưng Long Tấn vừa dùng thủ đoạn đê tiện để đả thương một cậu thiếu niên, hắn sợ đối phương sẽ hạ độc thủ trả thù nên không dám bước xuống mũi thuyền hay khoang thuyền chỗ có người.

    Triệu Bán Sơn đợi hắn đứng chân, vẫy cả hai tay phóng ra ba chiếc kim tiền tiêu, ba mũi tụ tiễn. Rồi ông cúi đầu xuống, từ sau lưng lại có một mũi tên bay ra. Long Tấn không ngờ nổi chỉ trong chớp mắt mà ông phóng ra tới bảy món ám khí. Hắn sợ đến dựng tóc gáy, không màng đến thể diện mà nhào xuống nằm rạp dưới đáy thuyền. Nghe một loạt những tiếng bục bục, bảy món ám khí ghim hết lên ván thuyền. Có tiếng người phía đuôi thuyền quát mắng:
    “Đồ con rùa! Nam tử hán đại trượng phu mà nằm dài như chó liếm phân, thế thì còn tỉ đấu gì nữa? Con mẹ nó!”

    Long Tấn nhảy lên, nhìn rõ Triệu Bán Sơn đứng dưới ánh trăng, liền ném ra một hạt bồ đề tử. Triệu Bán Sơn nghe tiếng gió biết không phải độc tật lê, bèn nghiêng người tránh né. Ông vừa nhích qua bên phải thì ba chiếc độc tật lê đã bay đến trước mặt.

    Triệu Bán Sơn ngả người theo thế Thiết Bản Kiều cho ba chiếc độc tật lê bay xẹt qua mặt, hô lớn:
    “Hay lắm!”
    Ông vừa đứng dậy, lại thấy ba chiếc nữa đánh dưới hạ bàn. Thế là trong chớp mắt Long Tấn cũng phóng ra bảy món ám khí, gọi là liên hoàn tam kích.

    Triệu Bán Sơn chưa đứng thẳng dậy, tay trái đã bắn ra một viên phi hoàng thạch, tay phải bắn ra một viên thiết liên tử, đánh hai chiếc độc tật lê rơi xuống nước. Ông đợi chiếc độc tật lê ở giữa bay tới, bèn đưa tay có đeo bao bắt lấy.

    Triệu Bán Sơn thấy thủ đoạn phóng ám khí của hắn quả nhiên có chỗ khác thường, thầm nghĩ:
    “Tên này nham hiểm độc ác, nhất định có nhiều quỉ kế. Ta không nên tỉ đấu dằng dai, dễ bị mắc lừa.”
    Ông bèn nhấc tay lên, ba chiếc kim tiền tiêu phóng vào huyệt Thành Đỉnh ở thượng bàn, huyệt Thiên Trì ở giữa ngực, huyệt Huyết Hải ở hạ bàn Long Tấn. Hắn vội tung người lên, nhảy qua một chiếc thuyền khác.

    Triệu Bán Sơn nhắm thẳng vào chỗ hắn sắp hạ xuống, phóng một cây tụ tiễn. Long Tấn đưa tay đón bắt, thì bỗng thấy một món ám khí kỳ lạ lượn vòng vòng bay đến, bèn vội vã cúi đầu xuống tránh. Hắn chưa hết ngạc nhiên thì ám khí đó tự quay trở về tay Triệu Bán Sơn, ông bắt lấy rồi tiếp tục ném ra.

    Xưa nay Long Tấn chưa hề nghe đến loại ám khí độc môn Hồi Long Bích này nên vô cùng kinh hãi, tâm thần rối loạn không đề phòng gì được nữa. Hắn lập tức bị hai viên bồ đề tử đánh trúng vào huyệt Dương Bạch ở cạnh lông mày trái và huyệt Cước Bàn ở cánh tay trái, thân hình bủn rủn rồi ngã quỵ trên mui thuyền.

    Bọn thị vệ thấy hắn té nhào, đều la lên kinh hãi. Một tên thị vệ lừng danh khắp đại nội, giữ chức ngang với Long Tấn là Nhất vĩ độ giang Trừ Viên vội nhảy qua cứu viện. Hắn múa kiếm che trước mặt, tung người về phía Long Tấn, nhưng chưa kịp đáp xuống thì đã thấy một người cầm kiếm nhảy tới cản trở.

    Trừ Viên xuất phát trước nên đáp xuống mui thuyền sớm hơn nửa bước. Hắn cung tay trái giữ kiếm quyết, tay phải rung kiếm thành một đóa hoa phong tỏa vùng ngực người đang xông tới, tin chắc ép được đối phương rơi xuống nước. Không ngờ người đó còn lơ lửng giữa trời mà mũi kiếm đã chĩa thẳng vào cổ tay phải Trừ Viên, đúng theo nguyên tắc lấy công làm thủ. Chiêu kiếm này vừa thần tốc vừa chính xác, chỉ trong chớp nhoáng đã lấy lại thế thượng phong.

    Trừ Viên vội vã rút tay về, hướng kiếm đâm xuống chân địch thủ. Đây là chiêu Hư Thức Phân Kim trong Đạt Ma kiếm pháp. Người kia khẽ nhích chân trái, hất chân phải đá vào cổ tay cầm kiếm của Trừ Viên. Trừ Viên lại phải thu chiêu, chưa kịp biến thức lần nữa thì đối thủ đã đáp xuống đứng ở đầu thuyền. Ánh trăng soi rõ người này mặc áo bào đạo sĩ, cánh tay áo bên trái trống rỗng giắt vào thắt lưng.

    Trừ Viên vốn là hòa thượng pháp danh Chí Viên, về sau phạm phải thanh qui nên bị thu hồi độ điệp, trục xuất khỏi chùa. Hắn tức giận bèn để tóc hoàn tục, đổi tên thành Trừ Viên, rồi dựa vào môn Đạt Ma kiếm pháp đã luyện đến chỗ tinh diệu mà tiến thân, làm đến chức thị vệ bên mình hoàng đế.

    Hồi nhỏ hắn sống trong chùa, khi hoàn tục lại vào cấm thành nên không hiểu chuyện giang hồ lắm. Mắt thấy kiếm pháp của địch nhân mau lẹ ít thấy trên đời, mà hắn cũng không biết đó là Thất Thập Nhị Thủ Truy Hồn Đoạt Mệnh Kiếm độc bộ thiên hạ của Vô Trần đạo nhân, phải thét hỏi:
    “Ngươi là ai?”

    Vô Trần mỉm cười hỏi lại:
    “Ngươi cũng sử kiếm, sao lại không biết ta?”

    Trừ Viên bèn xuất chiêu Kim Cang Phục Hổ, tiếp đến là chiêu Cửu Phẩm Liên Đài, một kiếm chém xuống một kiếm hất lên. Vô Trần mỉm cười nói:
    “Kiếm pháp không tệ! Sao không mau dùng chiêu Kim Châm Độ Kiếp đi.”

    Ông chưa dứt lời thì Trừ Viên đã xuất chiêu Kim Châm Độ Kiếp. Hắn kinh ngạc tự hỏi:
    “Sao y lại biết?”

    Vô Trần lại mỉm cười, vung kiếm đâm hai nhát hai bên trái phải, miệng hét lên:
    “Ngươi sử Phù Khưu Áp Trục, rồi Hồng Nhai Phá Kích.”
    Trừ Viên quả nhiên nghe theo răm rắp, sử dụng hai chiêu này. Tình hình không giống như tỉ đấu, mà giống sư phụ đang chỉ dẫn đồ đệ luyện kiếm hơn.

    Trước nay Trừ Viên khá tự phụ, nhưng sử xong hai chiêu này thì hắn lùi lại hai bước, ngẩn ra nhìn đối phương, hai phần xấu hổ, hai phần giận dữ, còn tới sáu phần sợ hãi. Thì ra Vô Trần cũng biết Đạt Ma kiếm pháp là lợi hại, ông thấy kiếm pháp Trừ Viên không phải tầm thường nên mới sử dụng tiểu xảo, ra chiêu bắt hắn phải xuất những chiêu thức mà mình nói, đồng thời hô tên của chiêu thức đó lên trước. Đó là kế Tiên Thanh Đoạt Nhân, khiến cho Trừ Viên mất hết cả nhuệ khí.

    Lạc Băng khua mái chèo, mỉm cười đưa thuyền tới gần thuyền của Trần Gia Lạc và Càn Long, để hoàng đế nhìn rõ thuộc hạ mất mặt thế nào.

    Lúc này Triệu Bán Sơn đã bắt được Long Tấn, Từ Thiên Hoằng ép hắn giao thuốc giải nhưng hắn cứ nhắm mắt lặng thinh. Từ Thiên Hoằng kề đao vào cổ mà uy hiếp, hắn cũng mặc kệ, trong lòng đã có chủ ý:
    “Ta thà chết không chịu khuất phục, lúc về nhất định hoàng thượng sẽ trọng thưởng. Nếu ta tỏ ra khiếp sợ, làm mất mặt hoàng thượng, thì tương lai coi như bị hủy ngay lập tức. Trước mặt hoàng thượng, chắc bọn thổ phỉ này không dám giết ta.”

    Vô Trần bỗng hét lên:
    “Ta ra chiêu Tiên Nhân Chỉ Lộ, ngươi mau dùng chiêu Hồi Đầu Thị Ngạn mà chống đỡ.”

    Trừ Viên hạ quyết tâm không sử dụng chiêu thức đối phương đã nói, nào ngờ lưỡi kiếm của Vô Trần cứ đâm thẳng vào má phải hắn. Trừ Viên đã khổ luyện hai mươi mấy năm trời, tâm kiếm hợp nhất, Đạt Ma kiếm pháp đã ăn sâu vào máu thịt. Thấy kiếm của địch nhân đâm đến như vậy, thân hình hắn tự động lách sang trái, tay cầm kiếm vạch ngang một đường để gạt, mũi kiếm hướng xéo từ trên trời xuống dưới đất. Chiêu này chính là Hồi Đầu Thị Ngạn.

    Vô Trần ra chiêu Tiên Nhân Chỉ Lộ ép Trừ Viên dùng chiêu Hồi Đầu Thị Ngạn mà chống đỡ, còn có ý nghĩa nếu ngươi phản tỉnh thì ta chỉ điểm cho một con đường sáng, ngươi mau chịu thua mà quay đầu trở lại.

    Trừ Viên sử dứt chiêu thì thấy Vô Trần thu trường kiếm về, đưa ánh mắt như điện chiếu thẳng vào mình. Hắn không dám tấn công nữa, nhưng cũng không dám lùi về, thật mười phần khó xử.

    Vô Trần lại hét lên:
    “Ta ra chiêu Đương Đầu Bổng Hát, ngươi mau sử chiêu Hoành Giang Phi Độ!”
    Ông vừa dứt lời, trường kiếm đã đưa ra trước mặt rồi chém sả từ trên đầu xuống. Trừ Viên bất giác chuyển mình nương theo thế kiếm, hoành kiếm gạt ngang, chuôi kiếm bảo vệ khuỷu tay bên trái. Nếu chiêu này không phải là Hoành Giang Phi Độ trong Đạt Ma kiếm pháp thì là gì nữa?

    Càn Long chỉ biết chút ít võ nghệ nhập môn, nhưng trong đại nội có rất nhiều kỳ tài ẩn sĩ, nên kiến thức y khá uyên bác. Y thấy Vô Trần dạy sao Trừ Viên làm vậy, vừa tức giận vừa buồn cười, nhưng cũng phải kinh hãi nghĩ thầm:
    “Trong đám thị vệ đại nội thì Trừ Viên đã là cao thủ bậc nhất, không ngờ khi tỉ thí với bọn phỉ đồ này lại bị chúng đùa giỡn như con khỉ làm trò. Nếu thật sự giao tranh, đối phó với đám giặc này thật không phải dễ.”

    Y chưa biết là kiếm pháp của Vô Trần trong võ lâm không còn địch thủ. Trừ Viên gặp phải ông, dĩ nhiên không làm gì được. Đêm nay Càn Long may mắn được mở rộng tầm mắt, chứng kiến kiếm pháp đệ nhất thiên hạ này. Y vẫn cho rằng đám giặc cỏ này không có nhân tài, bây giờ mới biết mình lầm.

    Càn Long xem thêm mấy chiêu, không nhẫn nại được nữa bèn bảo Bạch Chấn:
    “Kêu hắn về đi.”

    Bạch Chấn vội vàng hô lớn:
    “Trừ huynh! Chủ nhân gọi huynh về!”

    Trừ Viên mong nhất là câu đó, vì quân pháp Mãn Thanh cực kỳ nghiêm ngặt, lâm trận bỏ chạy phải bị xử tử. Hắn đang bất lực, tiến thoái lưỡng nan mà nghe thánh chỉ gọi về thật chẳng khác gì nắng hạn gặp mưa rào, liền thu kiếm hộ thân muốn nhảy ra khỏi vòng chiến.

    Bỗng Vô Trần hét lên:
    “Vừa rồi ta muốn ngươi lui mà ngươi không chịu, bây giờ ngươi muốn lui thì ta không chịu nữa.”
    Trường kiếm của ông chớp lên, Trừ Viên cảm thấy bốn phía đều bị kiếm khí bao trùm, không biết né đâu, đành nhắm mắt đứng yên. Rồi hắn cảm thấy một luồng hơi lạnh tràn tới, như một lưỡi dao rất bén đang cạo khắp người mình.

    Bạch Chấn thấy Trừ Viên không lùi ra được, bèn tung người vào trận. Hắn đưa song trảo ra chụp vào trường kiếm của Vô Trần. Vô Trần thấy hắn hung hãn như thế, bèn xoay lưỡi kiếm lại nửa vòng, đâm xuống hạ bàn. Võ nghệ của Bạch Chấn cao hơn Trừ Viên rất nhiều, chỉ dùng hai ngón tay trái kẹp lấy lưỡi kiếm, còn tay phải phóng chưởng đánh vào vai trái đối phương.

    Vô Trần chỉ có một cánh tay, không khỏi bị thiệt thòi. Mỗi khi địch tấn công vào bên trái, ông chỉ có cách tránh né chứ không đỡ gạt được. Ông đảo người sang một bên, thần tốc phóng kiếm đâm vào yết hầu của kẻ địch. Bạch Chấn cũng nhanh không kém, nghiêng người tránh kiếm rồi tay phải lại phóng ra một chưởng, tiếp tục đánh vào vai trái đối phương.
    Vô Trần phải lùi một bước, cổ tay phải đã bị Bạch Chấn nắm lấy. Triệu Bán Sơn, Từ Thiên Hoằng, Lạc Băng đều nhìn thấy rõ ràng, không khỏi kêu khổ thầm trong bụng.

    Giữa kiếm quang lấp loáng, Vô Trần đột nhiên phóng chân trái đá lên, trúng ngay vào đùi phải đối phương. Bạch Chấn nghiêng người qua trái, vẫn cố giữ cổ tay cầm kiếm. Nhưng chân trái của Vô Trần chưa chạm đất, chân phải đã đá ra. Bạch Chấn không sao ngờ nổi cước pháp của ông nhanh đến thế, có thể nói là tiền vô cổ nhân hậu vô lai giả. Hắn gấp rút buông tay địch thủ, lùi về phía sau.

    Chân phải của Vô Trần đá vào khoảng trống, chân trái lại phóng lên. Lần này thì Bạch Chấn không còn cách nào tránh né được nữa, mông trúng một cước nặng nề, loạng choạng suýt nhào xuống hồ. May mà hạ bàn của hắn rất vững nên giữ được thăng bằng trở lại, lảo đảo một chút rồi đứng vững trên thuyền, thò hai ngón tay ra móc vào cặp mắt của Vô Trần.

    Vô Trần nghiêng đầu tránh né, liền trúng một chưởng vào vai. Ông lớn tiếng thóa mạ rồi lại dùng bộ pháp Liên Hoàn Mê Tung Thối, cước sau nhanh hơn cước trước, liên tục không dứt, chân trước chưa thu về chân sau đã phóng ra. Bạch Chấn lập tức thay đổi thế đánh, thấy đối phương phóng chân đá tới, cũng tung người lên cao. Thân pháp hai đại cao thủ lúc này như thỏ nhảy chim đậu, như quả bóng đang tung hứng, biến hóa không ngừng làm khán giả nhìn hoa cả mắt.

    Lạc Băng ngồi ở đuôi thuyền, thấy Bạch Chấn nhảy lên bèn đưa mái chèo gỗ tạt nước qua. Bạch Chấn đang định đáp xuống đầu thuyền, dùng tay không đấu với trường kiếm của Vô Trần thì đột nhiên thấy những tia nước trắng xóa bắn lên, bèn vội lộn trên không trung một vòng, lui về chiếc thuyền hoa. May mà thân thủ của lão khá nhanh, nhưng nửa người phía dưới vẫn ướt đẫm, trông thật là thảm hại.

    So với Bạch Chấn thì Trừ Viên còn thảm hại hơn nhiều. Hắn được đồng bọn cứu viện nên thoát khỏi lưỡi kiếm của Vô Trần, kinh hồn táng đởm nhảy về chiếc thuyền hoa. Hắn đứng sau lưng Càn Long, vừa trấn tĩnh lại thì bỗng thấy Ngọc Như Ý cười khúc khích, Càn Long chau mày, còn Trần Gia Lạc muốn nhịn cười mà không nhịn nổi. Thấy thần sắc mọi người kỳ lạ, hắn cũng hơi ngơ ngác.

    Một cơn gió nhẹ thổi qua, hắn thấy hơi lạnh, nhìn xuống thân mình thì vô cùng kinh hãi. Thì ra y phục của hắn đã bị đối phương cắt nát vụn ra, tả tơi phấp phới chẳng ra gì nữa. Hắn lại thấy trên đầu hơi rát, đưa tay sờ thử mới biết bím tóc và chân mày vừa bị gọt mất, nham nhở lôi thôi. Đột nhiên quần hắn tụt xuống, thì ra dây lưng quần cũng bị cắt đứt rồi. Hắn hoảng hồn dùng cả hai tay kéo lưng quần lên nhanh như chớp, buông cả trường kiếm trong tay rơi tõm xuống hồ.

    Càn Long thấy ba tên thị vệ giỏi nhất của mình đều bị đánh cho thê thảm, biết rằng tỉ thí tiếp chỉ tổ thêm bất lợi, bèn nói với Trần Gia Lạc:
    “Mấy vị bằng hữu của Lục huynh quả nhiên võ nghệ kinh người. Sao họ không cùng Lục huynh ra sức giúp triều đình, sau này làm rạng rỡ cho tổ tông, vinh hoa cho thê tử? Như thế mới không uổng phí một thân võ nghệ cao cường. Bây giờ lưu lạc giang hồ làm thân thảo khấu, há chẳng đáng tiếc hay sao?”
    Kể ra Càn Long cũng là một ông vua sáng suốt, không giận dữ mà còn có lòng ưu ái hiền tài, muốn họ dốc sức cho mình.

    Trần Gia Lạc mỉm cười đáp:
    “Mấy vị bằng hữu đó chẳng khác gì kẻ gàn này, chỉ thích khoái hoạt ung dung, tiếu ngạo giang hồ. Hảo ý của huynh đài, chúng ta chỉ có thể cảm kích trong lòng mà thôi.”

    Càn Long nòi:
    “Đã vậy thì ta không còn gì để nói. Đêm nay quấy rầy đã lâu, bây giờ xin cáo biệt.”
    Nói xong, y nhìn qua Long Tấn đang bị giữ trên thuyền của Triệu Bán Sơn.

    Trần Gia Lạc hô lớn:
    “Triệu tam ca! Mau thả tùy tùng của Đông Phương tiên sinh về đây.”

    Lạc Băng kêu lên:
    “Không được! Tâm Nghiễn đã trúng độc tật lê của hắn, mà hắn không chịu trao thuốc giải.”
    Nàng nói xong, chèo thuyền đến gần hơn.

    Càn Long nói nhỏ với Lý Khả Tú rồi quay lại bảo Long Tấn:
    “Đưa thuốc giải cho họ.”

    Long Tấn sợ hãi đáp:
    “Thuộc hạ đáng chết, thuốc giải để ở Bắc Kinh, không mang theo người.”

    Càn Long chau mày, không nói gì nữa. Trần Gia Lạc bảo:
    “Thôi, Triệu tam ca thả hắn đi đi.”

    Triệu Bán Sơn nghĩ bụng:
    “Chắc tổng đà chủ chưa biết độc tật lê lợi hại ra sao. Lúc này ta không tiện công khai tra khảo, mà tên này hung hãn nham hiểm như thế, e rằng tra khảo cũng vô dụng. Giả tỉ khám trên người hắn tìm được thuốc giải, mà không hiểu cách dùng thì chỉ uổng công. Bây giờ nếu thả hắn ra, muốn bắt lại chắc chắn không phải dễ. Tính mạng Tâm Nghiễn đang như chỉ mành treo chuông, không thể chậm trễ được.”
    Nhưng lệnh của tổng đà chủ thì không thể không tuân, họ Triệu chỉ biết chau mày ngần ngừ đứng đó.

    Từ Thiên Hoằng lên tiếng:
    “Tam ca! Đưa hai cái độc tật lê đó cho đệ.”

    Triệu Bán Sơn không hiểu dụng ý của chàng nhưng vẫn lấy trong bọc ra hai chiếc độc tật lê, một chiếc rút từ vai Tâm Nghiễn ra, một chiếc chụp được trong lúc tỉ thí ám khí. Từ Thiên Hoằng nhận lấy, vung tay trái xé áo trước ngực Long Tấn, nghe soạt một tiếng, phơi ra bộ ngực đầy lông lá. Tay phải chàng đưa lên, dùng độc tật lê dùi sáu cái lỗ nhỏ vào giữa ngực hắn.

    Long Tấn thét lên một tiếng, sợ toát mồ hôi lạnh đầy đầu. Từ Thiên Hoằng trả lại độc tật lê cho Triệu Bán Sơn, rồi lớn tiếng gọi Trần Gia Lạc:
    “Lục công tử! Phiền công tử rót rượu cho. Long gia muốn uống mấy chén kết tình bằng hữu với bọn thuộc hạ, rồi mới về sau.”

    Trần Gia Lạc gật đầu, Ngọc Như Ý vội rót đầy ba chén rượu. Trần Gia Lạc gọi:
    “Tam ca, rượu đây!”
    Chàng cầm chén ném ra, cái chén bay là là từ thuyền hoa qua đó. Triệu Bán Sơn đưa tay nhẹ nhàng đón lấy, một giọt rượu cũng không rớt ra ngoài. Giữa tiếng hoan hô của mọi người, hai chén rượu kia cũng lần lượt bay tới tay Triệu Bán Sơn.

    Từ Thiên Hoằng cầm một chén, nói:
    “Long gia! Chúng ta cạn chén.”
    Vết thương của Long Tấn đã thấy vừa tê vừa ngứa, hắn biết rượu vào là huyết khí đi nhanh hơn, kịch độc phát tác lập tức mất mạng. Hắn nhìn chén rượu mà như nhìn rắn rết bò cạp, kinh hãi muôn phần, vội mím miệng nghiếng răng chặt lại.

    Từ Thiên Hoằng mỉm cười:
    “Uống đi, đừng khách sáo.”
    Chàng dùng ngón cái và ngón trỏ bóp chặt mũi hắn, hai ngón khác vận sức vành miệng hắn ra. Miệng Long Tấn vừa há ra, Từ Thiên Hoằng đã đổ luôn ba chén rượu vào trong.

    Long Tấn vừa nuốt rượu trôi xuống bụng, lập tức cảm thấy trước ngực tê liệt, một mảng da ngực đã đổi màu xanh đen, chuyện sống chết chỉ còn gang tấc. Hắn biết độc tính của loại độc tật lê này hơn ai hết, không sao ngang bướng được nữa. Nghĩ lại thấy công danh phú quí chỉ là phù phiếm, tính mạng quan trọng hơn nhiều, hắn bèn run rẩy nói:
    “Giải huyệt đạo cho ta! Ta… ta… ta sẽ lấy… lấy… thuốc giải.”

    Triệu Bán Sơn cười rộ, vừa xoa vừa vỗ nhẹ nhàng giải huyệt đạo cho hắn. Long Tấn nghiến răng, lấy trong bọc ra ba gói thuốc, gắng gượng nói:
    “Uống gói đỏ, thoa gói đen để hút chất độc, rắc gói trắng để lành vết thương.”
    Nói được tới đó, hắn ngất xỉu.

    Triệu Bán Sơn vội lấy gói thuốc màu đỏ đổ vào chén, hòa với nước hồ cho Tâm Nghiễn uống. Ông thoa gói thuốc đen lên vết thương, chỉ một lúc máu đen đã từ vết thương chảy ra ngoài. Lạc Băng lấy vải thấm cho, máu đen tím dần rồi chuyển sang màu đỏ. Tâm Nghiễn đã thều thào được mấy tiếng kêu đau. Lúc đó Triệu Bán Sơn mới lấy gói thuốc màu trắng rắc lên vết thương, băng bó rồi mỉm cười:
    “Giữ được cái mạng nhỏ xíu này rồi.”

    Từ Thiên Hoằng hận Long Tấn ác độc không chịu giao thuốc giải, bèn lớn tiếng nói:
    “Nghe nói Long gia để thuốc giải ở Bắc Kinh, bây giờ về lấy vẫn còn kịp chán.”
    Triệu Bán Sơn thấy thảm trạng của Long Tấn lại không nhẫn tâm, bèn lấy thuốc từ tay Từ Thiên Hoằng qua chữa thương cho hắn.

    Trần Gia Lạc nói với Càn Long:
    “Mấy vị bằng hữu của tiểu đệ đều là những kẻ thô hào không biết lễ nghĩa, xin huynh đài đừng trách.”

    Càn Long rặn ra mấy tiếng cười, đưa tay lên nói:
    “Hôm nay tại hạ thật sự mở rộng tầm mắt. Bây giờ xin cáo biệt.”

    Trần Gia Lạc hô lớn:
    “Đông Phương tiên sinh muốn về, mau đưa thuyền vào bờ.”

    Bọn thuyền phu dạ ran, đưa chiếc thuyền hoa từ từ áp vào bờ. Mấy trăm chiếc thuyền con hộ vệ hai bên, thuyền nào cũng thắp đèn lồng. Vầng trăng sáng trên trời soi xuống mặt nước hồ xanh thẳm như ngọc bích, trăng trời trăng nước chỉ cách nhau một mặt hồ mà vời vợi muôn trùng. Trần Gia Lạc nhìn cảnh hồ quang nguyệt sắc, nghĩ thầm:
    “Diện tích hồ này phải hơn ngàn mẫu. Xưa đã có kẻ hiền tài làm thơ vịnh cảnh trăng Tây Hồ: Sóng lạnh xô xô, ruộng vàng nghìn khoảnh; Khí thiêng bốc bốc, bảo ngọc một mâm.(8) Tả cảnh như thế tưởng không phải là quá đáng.”









    Hồi thứ tám

    Thiên quân không dám vây hồ rộng
    Thần triều hung hãn khiếp chí tôn





    Một lúc sau, mọi thuyền trên hồ đã cập hết vào bờ. Lý Khả Tú nhảy lên trước, đưa hai tay dìu Càn Long lên bờ, bọn thị vệ vây quanh thành nửa vòng tròn, hộ vệ ba mặt. Trần Gia Lạc cũng lên theo.

    Lý Khả Tú lấy tù và ra thổi ba tiếng tu tu, mấy trăm ngự lâm quân Kiêu Kỵ Doanh vội vàng chạy tới. Một tên thị vệ dắt bạch mã đến, quỳ chân phải xuống đỡ Càn Long lên ngựa. Quân sĩ bốn phía từ từ tiến lại, bao vây anh em Hồng Hoa Hội và Trần Gia Lạc vào giữa.

    Càn Long nháy mắt ra hiệu, Lý Khả Tú liền gân cổ lên quát mắng quần hào Hồng Hoa Hội:
    “Bọn ngươi thật là lớn mật! Nhìn thấy hoàng thượng mà dám không thi lễ ư?”

    Từ Thiên Hoằng vẫy tay, cha con Mã Thiện Quân, Mã Đại Đình lập tức lấy pháo lưu tinh ra phóng veo véo lên trời. Mấy ngôi sao băng vừa rơi trở xuống mặt Tây Hồ, bốn phương tám hướng lập tức nổi lên tiếng reo hò vang dội. Dưới tán cây, dưới mái nhà, dưới gầm cầu, người nào cũng đầu cắm hoa hồng, tay cầm binh khí.

    Từ Thiên Hoằng lớn tiếng hô:
    “Các vị huynh đệ! Tồng đà chủ Hồng Hoa Hội đã đến đây, huynh đệ mau mau tiến lên tham kiến.”
    Hội chúng Hồng Hoa Hội cất tiếng hoan hô như sấm động, mỗi người bước lên một bước.

    Binh sĩ Kỳ Doanh và ngự lâm quân vội lắp tên vào cung, rút đao khỏi vỏ, đề phòng mọi người xông đến. Hai bên đối địch với nhau, đều đứng yên không động đậy. Lý Khả Tú lại thổi tù và, tiếng vó ngựa rộn rã nổi lên xen lẫn tiếng người hô ngựa hí, thì ra binh sĩ Kỳ Doanh và Lục Doanh đang trú phòng ở Hàng Châu cũng đến rồi. Lý Khả Tú lên ngựa chỉ huy binh mã bao vây quần hào Hồng Hoa Hội, chỉ chờ Càn Long ra lệnh là động thủ bắt người.

    Trần Gia Lạc không nói tiếng nào, từ từ bước tới bên một tên lính ngự lâm quân, đưa tay đón lấy cương ngựa đang nắm trong tay hắn. Tên lính này bị oai khí của chàng nhiếp phục, không tự chủ được bất giác giao cương ngựa. Trần Gia Lạc nhảy lên ngựa, lấy trong người ra một đóa hoa hồng cài lên ngực. Đóa hoa này to bằng miệng chén, kết bằng chỉ vàng và vải nhung, lại dùng bảo thạch khảm lên, sáng lấp láng dưới ánh đuốc. Đây chính là phù hiệu tổng đà chủ Hồng Hoa Hội, giá trị như soái kỳ trong quân đội vậy. Hội chúng Hồng Hoa Hội chưa từng gặp mặt đại thủ lĩnh, người nào cũng phấn chấn hẳn lên, cúi mình thi lễ, hoan hô như sấm động.

    Kỳ Doanh và Lục Doanh vốn đang xếp hàng tể chỉnh, đột nhiên có một số binh lính bỏ hàng ngũ chạy ra. Đám quân này chạy đến trước mặt Trần Gia Lạc, bắt chéo tay trước ngực, khom lưng thi hành đại lễ bái kiến tổng đà chủ. Trần Gia Lạc chắp tay đáp lễ.

    Đám quân phía trước thi lễ xong chạy về đội ngũ, lại có một đám khác phía sau chạy ra thi lễ. Nhóm này rút về nhóm kia lại đến, hồi lâu mới hết. Thì ra thế lực của Hồng Hoa Hội ở Giang Nam rất lớn, nhiều binh sĩ trong Kỳ Doanh và Lục Doanh cũng nhập hội rồi. Số người Hán trong Kỳ Doanh và Lục Doanh không phải là ít.

    Càn Long thấy binh sĩ của mình chạy ra thi lễ với Trần Gia Lạc, không khỏi giật mình kinh hãi. Nếu đêm nay động võ, y chỉ có thể dựa vào mấy doanh ngự lâm quân hộ giá đến đây, nhưng trong đó chưa chắc không có đệ tử Hồng Hoa Hội. Dù sao thì cũng không nắm chắc phần thắng, mà bản thân mình lại đang ở trong hiểm địa, nên rút lui ổn thỏa mới là thượng sách.
    Y bèn nhìn Lý Khả Tú, lạnh nhạt nói:
    “Ngươi dạy lính tốt quá nhỉ?”

    Lý Khả Tú đang kinh hãi ngẩn ngơ, nghe Càn Long mắng bèn lật đật nhảy xuống ngựa, quì mọp dưới đất vừa dập đầu lia lịa vừa nói:
    “Thần đáng chết, thần đáng chết!”

    Càn Long nói:
    “Bảo chúng lùi lại đi.”

    Lý Khả Tú dạ dạ, rồi dứng lên lớn tiếng ra lệnh cho binh lính lùi ra hết.

    Từ Thiên Hoằng thấy thân binh rút lui bèn hô lớn:
    “Các vị huynh đệ! Mọi người đã mệt mỏi rồi, hãy trở về đi!”

    Hội chúng Hồng Hoa Hội đồng thanh đáp:
    “Tổng đà chủ, các vị đương gia! Xin tạm biệt!”
    Tiếng hô như sấm sét, đứng bên bờ hồ cũng thấy đầu người nhấp nhô tản ra khắp bốn phương tám hướng.

    Càn Long từ nhỏ đã được phụ vương là Ung Chính giáo dục văn tài võ lược, có thể gọi là nhân tài số một trong hoàng tộc. Y rất hâm mộ Thái Tông Thái Tổ của mình năm xưa đông chinh tây phạt, tấn công thành trì chiếm đoạt đất đai. Hai vị tiên đế đều từng mạo hiểm thân chinh. Quân đội Mãn Châu chia làm bát kỳ, thống binh của mỗi kỳ đều là thân vương, quận vương hay bối lặc. Thống binh ra trận mà lùi bước thì bị cách chức ngay, binh mã bốn kỳ chia cho bảy kỳ còn lại. Vì thế người nào cũng cố gắng đốc thúc chỉ huy, đánh đâu thắng đó.

    Từ khi Càn Long đăng quang đến nay, trong bờ ngoài cõi đều được bình yên, nên y không có đất dụng võ để tỏ chí anh hùng. Hôm nay nghe Trần Gia Lạc mời mình thưởng trăng uống rượu giữa hồ, y nghĩ năm xưa Thái Tổ Thái Tông từng múa đao xông trận giữa chốn thiên binh vạn mã, chẳng lẽ mình không dám mạo hiểm đôi chút hay sao. Nào ngờ đêm nay làm gì cũng bị người ta khắc chế.

    May mà Càn Long rất hiểu đại thể, biết rằng không nhịn được viện nhỏ thì sẽ hư việc lớn. Y bèn vẫy tay nói với Trần Gia Lạc:
    “Cuộc du ngoạn trên hồ hôm nay quả là khoái hoạt. Tưởng đã thỏa mãn lắm rồi, đa tạ hiền chủ nhân nhiệt tình thết khách. Bây giờ xin tạm biệt, hẹn ngày gặp lại.”
    Nói xong, y quay về tuần phủ nha môn, binh tướng vây quanh bảo vệ.




    (... còn tiếp ...)


          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Thư kiếm ân cừu lục

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Thư kiếm ân cừu lục - 書劍恩仇錄 -
    ___________________________
    Nguyên tác: Kim Dung - 金庸 ________ Dịch giả: Đông Hải






              
              
              
    (... tiếp theo ...)



    * * *

    Trần Gia Lạc lớn tiếng cười ha hả, trở xuống thuyền say sưa một bữa với quần hùng.

    Đêm nay Hồng Hoa Hội đánh tơi tả bọn thị vệ triều đình, cuối cùng Từ Thiên Hoằng và Mã Thiện Quân bố trí lại càng toàn mỹ, hoàng đế nắm trọng binh mà vẫn không dám hạ lệnh tấn công. Tung tích Văn Thái Lai cũng rõ rồi, nên người nào cũng vui vẻ mà ăn uống.

    Từ Thiên Hoằng nói với Mã Thiện Quân:
    “Mã đại ca! Hôm nay hoàng đế thua thiệt trở về, nhất định không chịu buông tay. Huynh nhớ dặn dò mọi huynh đệ ở Hàng Châu phải thận trọng đặc biệt, nhất là huynh đệ trong Kỳ Doanh và Lục Doanh phải đề phòng ám toán. Nếu chúng điều đại quân đến đây thì mọi người hãy lui về phòng thủ Thái Hồ.”
    Mã Thiện Quân gật đầu khen phải, uống cạn một chén rồi xin rút trước, dẫn con trai đi bố trí.

    Trần Gia Lạc cạn chén, gõ nhịp hát mấy câu. Chàng thấy trăng tỏ rọi mặt hồ, bóng trăng lấp lánh giữa những lá sen trông như bạc vụn, đột nhiên giật mình hỏi Từ Thiên Hoằng:
    “Hôm nay ngày bao nhiêu rồi? Mấy hôm nay bận rộn, ngày tháng cũng quên mất.”

    Từ Thiên Hoằng đáp:
    “Hôm nay mười bảy. Chẳng phải hôm kia chúng ta đã ăn tết trung thu hay sao?”

    Trần Gia Lạc suy nghĩ một chút rồi nói:
    “Chu lão tiền bối, đạo trưởng, các vị ca ca! Hôm nay chúng ta bận rộn suốt đêm không hề mất mặt, Văn tứ ca cũng có tin tức rồi. Bây giờ mọi người về nghỉ ngơi thôi. Này mai tại hạ có chút việc riêng, ngày mốt chúng ta sẽ bắt đầu lo cứu Tứ ca.”

    Từ Thiên Hoằng hỏi:
    “Tổng đà chủ có cần huynh đệ nào cùng đi không?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Không cần. Chuyện này chẳng có gì nguy hiểm, ta muốn yên tĩnh một mình để suy nghĩ mấy việc.”

    Mọi người đưa thuyền vào bờ rồi tạm biệt Trần Gia Lạc trở về nghỉ ngơi. Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn, Tưởng Tứ Cân đã nửa tỉnh nửa say, giữa đêm bá vai nhau nghênh ngang ca hát trên phố xá Hàng Châu, tựa như nơi đây không phải là đất của triều đình vậy.

    Trần Gia Lạc nhìn theo mọi người đi xa rồi nhảy lên một chiếc thuyền con. Chàng nhẹ khuấy mái chèo cho thuyền từ từ lướt trên mặt hồ sáng như gương. Ra đến giữa hồ, chàng dừng chèo rồi ngơ ngẩn nhìn trăng, bất giác tuôn đôi dòng lệ. Thì ra ngày mai đã là mười tám tháng tám, sinh nhật của Từ Thị, mẫu thân chàng.

    Mười năm trước chàng rời nhà ra đi, bây giờ trở về Giang Nam thì mẹ đã mất rồi. Từ nay âm dương cách trở, nhớ đến nụ cười và vẻ mặt hiền từ của mẹ, chàng không nén nổi bi ai. Vừa rồi nghe Từ Thiên Hoằng nhắc đến ngày tháng, chàng cố nhẫn nại. Bây giờ mọi người đi hết, Trần Gia Lạc mới cho phép mình buông tiếng khóc.

    Xen giữa tiếng than khóc bi ai, đột nhiên truyền đến tiếng cười khe khẽ dịu dàng. Trần Gia Lạc lập tức ngưng khóc, quay đầu nhìn lại thấy một chiếc thuyền con đang từ từ chèo tới. Dưới ánh trăng thấy rõ một người đứng ở lái thuyền, mặc trường bào xám nhạt, chắp tay thi lễ:
    “Trần công tử ở đây ngắm trăng một mình đấy ư?”

    Trần Gia Lạc nhận ra anh chàng tuấn tú này là đồ đệ của Lục Phi Thanh, vừa rồi còn đứng sau lưng Lý Khả Tú. Chàng không biết y một mình đến đây có việc gì, liền lau nước mắt, chắp tay trả lễ:
    “Lý huynh tìm ta có việc gì không?”

    Lý Nguyên Chỉ nhẹ nhàng tung người lên, đáp xuống mũi thuyền Trần Gia Lạc rồi mỉm cười nói:
    “Có tin tức của Kim Địch Tú Tài. Huynh muốn biết không?”

    Trần Gia Lạc ngẩn ra một chút rồi nói:
    “Mời huynh ngồi đây nói chuyện.”
    Lý Nguyên Chỉ mỉm cười ngồi xuống, đưa tay khuấy nhẹ mặt hồ, làm vỡ vụn bóng trăng trong.

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Huynh đã gặp Dư huynh đệ của ta hay sao? Xin hỏi huynh ấy đang ở đâu?”

    Lý Nguyên Chỉ mỉm cười đáp:
    “Dĩ nhiên là ta biết, nhưng ta lại không muốn nói với huynh.”

    Trần Gia Lạc lại ngẩn ra, thầm nghĩ:
    “Thằng lỏi này thật là kỳ lạ, nói chuyện cứ như con gái làm điệu vậy.”
    Bỗng dưng trước mắt chàng lại hiện lên hình ảnh Lý Nguyên Chỉ quàng vai Hoắc Thanh Đồng mà thân thiết cười đùa. Trần Gia Lạc đột nhiên thấy chán ghét người này, cảm giác khó mà diễn tả được.

    Lý Nguyên Chỉ nghịch nước một lúc rồi giơ bàn tay ướt đẫm lên trời. Dưới ánh trăng nàng thấy Trần Gia Lạc khóe mắt đỏ hoe, má vương dấu lệ, bèn ngạc nhiên hỏi:
    “Úi chà! Huynh mới khóc hay sao? Ta vừa nghe thấy tiếng khóc, thì ra là huynh…”

    Trần Gia Lạc quay mặt đi, không lý gì đến nàng. Lý Nguyên Chỉ cảm thấy mềm lòng, bèn dịu dàng nói:
    “Có phải huynh đang lo lắng cho Tứ ca và Thập Tứ đệ hay không? Huynh đừng buồn nữa, ta có thể nói với huynh là hai người đó còn sống đàng hoàng.”

    Trần Gia Lạc muốn hỏi tỉ mỉ, nhưng nghe nàng nói chuyện bằng giọng khuyên dỗ trẻ nít, bèn tức giận nghĩ:
    “Dù ngươi không báo tin, chúng ta vẫn có thể điều tra được.”
    Chàng im lặng, không lên tiếng.

    Lý Nguyên Chỉ lại hỏi:
    “Sư phụ của ta đâu? Ông ấy cũng đến Hàng Châu rồi phải không?”

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Sao? Lục lão tiền bối không cùng đi với huynh hay sao?”

    Lý Nguyên Chỉ đáp:
    “Đúng thế. Sau đêm đại loạn ở bến Hoàng Hà, ta không gặp lại sư phụ nữa.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Lục lão tiền bối võ công trác tuyệt, chắc chắn không gặp sơ suất gì đâu. Huynh cứ yên tâm đi.”

    Lý Nguyên Chỉ hỏi:
    “Hồng Hoa Hội của các vị thế lực lớn, tại sao không phái người đi tìm sư phụ ta?”

    Trần Gia Lạc nghe nàng càng nói càng vô lễ, không khỏi bực mình. Nhưng dù sao chàng vẫn dày công phu hàm dưỡng, bèn đáp:
    “Lý đại ca nói phải. Ngày mai ta sẽ cử người đi thám thính.”

    Hồi lâu Lý Nguyên Chỉ mới nói:
    “Ta nghe Dư sư ca nói võ công của huynh là vô địch, ta không tin. Huynh ấy còn nói, huynh có thể làm sư phụ của ta được. Chẳng lẽ võ công của huynh còn cao hơn cả sư phụ của ta hay sao?”

    Trần Gia Lạc nghe anh chàng này nói chuyện không biết nặng nhẹ ra sao, bèn mỉm cười đáp:
    “Lục lão tiền bối là cao thủ trên đời. Giả tỉ ta muốn bái ông ấy làm sư phụ, lão nhân gia chưa chắc đã chịu thu nhận. Đồ đệ ông ấy nhất định phải có tư chất cực tốt.”

    Lý Nguyên Chỉ cười:
    “Úi chà! Huynh đừng nịnh bợ trước mặt người ta như vậy nữa. Vừa rồi ta có thấy huynh ném mấy chung rượu, nội kình rất tốt. Nhưng không hiểu sao người Hồng Hoa Hội lại phục tùng huynh sát đất, cung kính hơn cả phụ thân. Điểm này thì ta có phần không phục.”

    Trần Gia Lạc khẽ hừ một tiếng, nghĩ bụng:
    “Muốn được người khác kính phục, không chỉ dựa vào võ công mà được. Điểm này mà ngươi không hiểu, thì ta chẳng cần nói hiều với ngươi cho tốn hơi.”
    Chàng thấy anh chàng này vừa ấu trĩ vừa vô lễ, không biết đối phó cách nào bèn nói:
    “Trời sắp sáng rồi, ta phải lên bờ. Xin tạm biệt!”

    Nói xong chàng đưa mái chèo lên, ra vẻ đợi nàng nhảy khỏi thuyền mình. Lý Nguyên Chỉ bất mãn nói:
    “Ai phục huynh thì phục, nhưng huynh không nên kiêu ngạo với ta như thế.”

    Trần Gia Lạc nghe câu này, nộ khí muốn nổi lên nhưng chàng lập tức nghĩ lại, mình đang lãnh đạo quần hào, là người đứng đầu Hồng Hoa Hội, không thể tùy tiện giận dữ được. Tên họ Lý này nhỏ tuổi hơn mình, bây giờ lại không có người thứ ba ở đây làm chứng. Nếu mình nặng tay sẽ bị trách là lấy lớn hiếp nhỏ, huống chi sư phụ của y lại có tình sâu nghĩa nặng với bản hội. Chàng nể mặt Lục Phi Thanh, bèn nén giận đưa mái chèo lên chèo thuyền.

    Lý Nguyên Chỉ từ nhỏ quen được người ta chiều chuộng, thấy mặt Trần Gia Lạc hầm hầm với mình cũng không khỏi tức tối. Nhưng nàng vẫn ngồi yên trên mũi thuyền, nhất thời không biết phải làm gì.

    Lúc thuyền đến gần Tam Đàn Ấn Nguyệt, Lý Nguyên Chỉ cười nhạt nói:
    “Huynh không cần ra vẻ ta đây như thế. Nếu huynh thật sự có bản lĩnh thì đâu có trốn ở trong này mà khóc?”

    Trần Gia Lạc vẫn mặc kệ. Lý Nguyên Chỉ lớn tiếng nói:
    “Này! Ta đang nói chuyện với huynh! Chẳng lẽ huynh bị điếc rồi hay sao?”

    Trần Gia Lạc thở hắt ra một hơi, đảo mắt nhìn nàng nghĩ bụng:
    “Thằng lõi này không biết tốt xấu gì cả. Ngay cả sư phụ ngươi cũng phải giữ lễ với ta, mà ngươi lại dám quát nạt ta như vậy hay sao?”

    Lý Nguyên Chỉ tiếp tục gắt gỏng:
    “Người ta có lòng tốt đến đây báo tin cho huynh biết, thế mà huynh lại mặc kệ người ta. Không có ta giúp đỡ, xem thử huynh có cứu được Văn tứ ca hay không?”

    Trần Gia Lạc chau mày, rồi trề môi ra nói:
    “Chẳng lẽ huynh lại có bản lãnh đến thế?”

    Lý Nguyên Chỉ nói:
    “Huynh xem thường người khác quá lắm. Thế thì chúng ta phải tỉ thí một phen.”
    Nàng nói dứt câu, lập tức xoay tay rút trường kiếm đeo sau lưng ra.

    Trần Gia Lạc nể mặt Lục Phi Thanh nên mới nhẫn nhịn được tới lúc này. Bây giờ thấy đối phương đột nhiên rút kiếm, chàng lại phải thay đổi suy nghĩ. Vừa rồi chàng thấy người này đứng hầu phía sau Càn Long, ra vẻ thân mật với đề đốc thống binh. Chẳng lẽ y là địch hay sao?

    Trong lòng Trần Gia Lạc bỗng phát sinh cảm giác khó chịu khôn tả. Chàng tự trách mình, tại sao bình thường khí độ ung dung mà lại tự dưng chán ghét người này như thế. Nhìn y mi thanh mục tú, dung nhan tuấn mã, nhất thời chàng không biết rốt cuộc đây là nhân vật thế nào, bèn hỏi:
    “Vừa rồi thấy huynh đứng hầu sau lưng hoàng đế, là giả bộ đầu hàng hay đã có quan chức trong triều?”

    Lý Nguyên Chỉ đáp:
    “Cả hai đều không phải.”

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Chẳng lẽ trong bọn chó săn của triều đình lại có thân nhân của huynh?”

    Lý Nguyên Chỉ mắng cha mình là chó săn, lập tức nổi giận phóng kiếm đâm ra, quát lên:
    “Tiểu tử kia! Tại sao ngươi cứ mở miệng là thóa mạ người ta bừa bãi?”

    Trần Gia Lạc thấy đối phương động thủ thật sự, nghĩ thầm:
    “Quả nhiên tên này có quan hệ với Thanh triều.”
    Chàng không trách sáo nữa, hét lên:
    “Hay lắm! Vụ này ta phải đi hỏi sư phụ của ngươi.”

    Trần Gia Lạc nghiêng người né kiếm, vừa thẳng người dậy thì Lý Nguyên Chỉ đưa kiếm đâm thẳng vào ngực. Trần Gia Lạc không thèm tránh né, đợi mũi kiếm chạm đến ngực áo mới đột ngột ép khí thổi ra, lồng ngực thõm vào ba tấc. Chiêu kiếm của Lý Nguyên Chỉ đã hết đà, nên chỉ cách ba tấc mà mũi kiếm không sao đâm thủng ngực chàng nữa. Sợ bị trả đòn, nàng vội vã nhún chân nhảy ngược ra sau, đứng trên một bệ đá của Tam Đàn Ấn Nguyệt. Bệ đá đó cách thuyền khá xa, lại nhẵn nhụi trơn trượt mà nàng vẫn đứng được vững vàng.

    Trần Gia Lạc định dùng tay không tỉ thí, nhưng thấy nàng thi triển thượng thừa khinh công của phái Võ Đang nên không dám khinh địch. Chàng từng quyết đấu với Trương Triệu Phong, biết võ công của phái Võ Đang lợi hại, bèn tung người lên bẻ một cành liễu rồi nhảy tới đứng trên một bệ đá.

    Lý Nguyên Chỉ thấy thân pháp của chàng cực kỳ nhanh chóng, không khỏi âm thầm kinh hãi. Nhưng đến nước này, nàng chỉ còn cách nhắm mắt đánh liều một trận, bèn nói yếu xìu:
    “Xem chiêu!”
    Nàng đưa tả chưởng hộ thân, tung người bay tới bệ đá Trần Gia Lạc đang đứng, kiếm nghiêng một bên đâm vào tay trái của chàng.

    Tam Đàn Ấn Nguyệt là ba cái bệ đá nhỏ trên mặt nước Tây Hồ. Người Hàng Châu có tập tục hễ đêm trung thu là lấy giấy ngũ sắc bịt những cái lỗ trên bệ đá lại. Bây giờ trung thu đã qua nhưng giấy dán vẫn còn. Ánh trăng rọi qua lỗ trên bệ đá chiếu xuống mặt hồ, bị đổi màu ngũ sắc tạo nên một vẻ đẹp kỳ lạ, dường như dưới hồ này lại còn hồ khác. Bây giờ lại thêm một bóng xám tro bay lượn trên mặt hồ như chim, kiếm quang nháy động cũng in bóng xuống đáy hồ đầy màu sắc.

    Trần Gia Lạc đảo những tránh né, đưa cành liễu phất vào sau lưng đối thủ. Lý Nguyên Chỉ ra chiêu không trúng, chân phải đạp lên bệ đá, dùng thân pháp Phượng Đỉnh Đầu né cành liễu đang đánh tới, rồi hất kiếm đâm chéo lên. Sau đó nàng nhảy qua một cái bệ khác, sử chiêu Ngọc Đới Vi Yêu, trường kiếm xoay quanh mình liên hồi bất tận. Đây chính là một chiêu tinh diệu trong Nhu Vân kiếm pháp.

    Lý Nguyên Chỉ vừa xoay kiếm vừa nhảy lên phía trước, nghĩ bụng:
    “Phen này chắc chắn hắn bị ta ép nhảy qua bệ đá bên trái.”
    Nhưng Trần Gia Lạc vẫn không lùi. Đợi nàng nhảy tới, thân thể chàng đột nhiên bắn lên cao, lộn nửa vòng trên không, đầu chúc xuống dưới chân chĩa lên trời, chụp cành dương liễu xuống đầu Lý Nguyên Chỉ.

    Lý Nguyên Chỉ đưa kiếm lên đỡ, nào ngờ cành dương liễu lướt theo sống kiếm mà lượn xuống, vẩy trúng mặt nàng một cái. Lý Nguyên Chỉ trúng đòn, không đau lắm nhưng hổ thẹn đỏ mặt lên. Nàng không kịp nghĩ gì, cúi đầu nhảy qua bệ đá tay trái. Khi nàng đứng vững, nhìn qua thấy Trần Gia Lạc đã đáp xuống rồi, trường bào phất phơ trong gió, đung đưa cành liễu nhẹ nhàng, dáng vẻ thật là tiêu sái.

    Lý Nguyên Chỉ tức giận chuyển kiếm qua tay trái, tay phải lấy trong bọc ra một nhúm Phù Dung kim châm. Nàng vẫy tay ba cái, kim châm chia làm ba đường trên dưới bắn tới Trần Gia Lạc.

    Trần Gia Lạc đang đứng trên bệ đá nhỏ, không có chỗ tránh né. Chàng vội tung cả hai chân lăn thân mình ngã ra khoảng không, ngang bằng với mặt hồ. Tay trái cũng đưa thỏng ra, chỉ còn tay phải ấn lên đỉnh bệ đá. Ba làn kim châm bay veo véo ngang qua, rồi rơi hết xuống hồ.

    Chàng lại vận sức vào tả chưởng, uốn người nhảy trở lên bệ đá, người không dính chút xíu nước hồ nào.

    Lý Nguyên Chỉ đánh ba chiêu vẫn không ép được chàng rời khỏi bệ đá, tự hiểu mình không phải là đối thủ, bèn hô lớn:
    “Xin tạm biệt, hẹn ngày gặp lại.”
    Nàng toan chuồn vào ngôi đình nhỏ Tiểu Doanh Châu trên hồ.

    Trần Gia Lạc kêu lên:
    “Ngươi cũng xem chiêu!”
    Lời chưa dứt người đã nhảy lên, cành liểu vẫy lên mặt nàng. Lý Nguyên Chỉ đã nếm đòn này, vội vung kiếm gạt ra trước mặt, muốn chặt đứt cành liểu của chàng. Nào ngờ cành liễu bỗng biến chiêu, quấn lấy lưỡi kiếm. Nàng cảm thấy một luồng lực đạo muốn giật kiếm đi, đồng thời tay trái của đối phương ấn tới trước ngực của mình. Lý Nguyên Chỉ nghe ngực nóng ran, vừa kinh hãi vừa xấu hổ, chỉ còn cách buông chuôi kiếm, dùng tả chưỡng đỡ lấy tay trái đối phương, mượn sức nhảy qua bệ đá bên tay phải. Trường kiếm của nàng bay tuốt lên trời, khi rơi xuống, Trần Gia Lạc giơ tay đón lấy.

    Lý Nguyên Chỉ hổ thẹn mắng luôn:
    “Đồ vô liêm sĩ, dám dùng chiêu thức hạ lưu!”

    Trần Gia Lạc ngẩn ra hỏi lại:
    “Ngươi nói bậy! Hạ lưu ở chỗ nào?”

    Lý Nguyên Chỉ cũng hiểu đối phương không biết mình là nữ nhân, chiêu đó chỉ là vô tình. Nàng không nói gì nữa, lập tức đề khí tung người nhảy qua đình Tiểu Doanh Châu. Thân pháp của Trần Gia Lạc nhanh hơn nhiều, cũng tung người bay theo.

    Lý Nguyên Chỉ tới nơi, nhìn thấy Trần Gia Lạc đang đứng trước mặt, hai tay cầm trường kiếm đưa qua. Nàng bĩu môi nhận lấy, tra kiếm vào vỏ rồi quay đầu đi ngay.

    Trần Gia Lạc tỉ thí chiếm được thượng phong, lẽ ra phải thấy vui vẻ mới đúng. Nhưng sao đột nhiên trong lòng chàng lại nổi lên bóng dáng Hoắc Thanh Đồng.


    (... còn tiếp ...)





          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Thư kiếm ân cừu lục

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Thư kiếm ân cừu lục - 書劍恩仇錄 -
    ___________________________
    Nguyên tác: Kim Dung - 金庸 ________ Dịch giả: Đông Hải






              
              
              
    (... tiếp theo ...)



    Lúc này trời đã gần sáng. Trần Gia Lạc tháo đóa hoa trên ngực cất vào trong bọc, từ từ đi về phía đông thành. Cửa thành đã mở, người lính giữ cửa nhìn Trần Gia Lạc một cái rồi bắt chéo tay trước ngực khom mình thi lễ. Thì ra y là người của Hồng Hoa Hội.

    Trần Gia Lạc gật đầu một cái, đi ra khỏi cửa thành. Người lính Thanh cất tiếng hỏi:
    “Tổng đà chủ ra khỏi thành, có cần ngựa hay không?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Thế thì hay quá.”

    Người lính cả mừng chạy đi, chỉ chốc lát đã dẫn một con ngựa tốt đến, lại còn dẫn theo hai võ quan cấp thấp. Họ khom mình thi lễ với Trần Gia Lạc, có cơ hội phục vụ tổng đà chủ là cảm thấy muôn phần vinh dự.

    Trần Gia Lạc lên ngựa chạy đi. Nhờ ngựa tốt nên ba mươi mấy dặm đường mà chàng chỉ tốn hai giờ, giờ tỵ đã đến An Túc Môn, cửa tây của thành Hải Ninh.

    Mười năm chàng mới trở về mái nhà xưa, thế mà cảnh sắc không có gì thay đổi, vẫn hệt như hồi chàng còn nhỏ leo lên tường thành đùa giởn. Ngay cả những ngọn cỏ vẫn xanh như thế, cứ như những ngọn cỏ chàng đã nghịch ngợm khi xưa.

    Chàng sợ gặp phải người quen, bèn quay ngựa đi ra ngoại thành phía bắc chừng năm sáu dặm đường. Chàng ghé vào một nông gia để nghĩ ngơi, ăn cơm bữa trưa, ngủ một giấc ngon lành, đợi khuya sẽ vào thành.

    Vợ chồng nông gia đó thấy chàng ăn mặc như công tử mà lại nói tiếng địa phương, nên tiếp đãi rất ân cần, xế chiều còn làm thịt gà khoản đãi. Trần Gia Lạc hỏi tình hình mấy năm nay, người nông dân ấy nói:
    “Ba năm nay hoàng thượng đã hạ chỉ giảm thuế cho toàn huyện Hải Ninh, nói là nể mặt Trần Các Lão.”

    Phụ thân Trần Gia Lạc đã tạ thế nhiều năm. Chàng nghĩ mãi không ra tại sao hoàng đế đặc biệt ân sủng quê hương như thế. Ăn cơm tối xong, chàng để lại mấy lạng bạc, cảm tạ nông gia rồi lên ngựa vào thành.

    Chàng đến cửa nam, ngồi trên con đê chắn sóng nhìn ra biển cả. Nhớ lại ngày xưa nhiều lần được mẹ dẫn ra đây ngắm thủy triều, khóe mắt chàng không khỏi rưng rưng. Chàng ở Hồi Cương mười năm, ngày nào cũng thấy cát vàng vô tận, bây giờ gặp lại thủy triều và sóng biển, trong lòng sảng khoái vô cùng.

    Trần Gia Lạc ngồi hứng gió nhìn ra biển cả, mọi kỷ niệm hồi còn niên thiếu dần dần hiện lại trong trí. Thấy trời đã tối dần, sóng biển trắng xóa đã mơ hồ, chàng mới cột ngựa vào một cây liễu bên đê chắn sóng, rồi rảo bước nhắm hướng tây bắc, về nhà mình.

    Mới đến cửa nhà, Trần Gia Lạc đã thấy có chỗ khác lạ. Dinh thự này vốn có tên là Ngẫu Viên, bây giờ tấm biển cũ đã bị tháo ra, thay vào biển mới có viết ba chữ An Lạc Viên, bút pháp chính là ngự bút của Càn Long. Bên cạnh nhà cũ lại có nhiều tòa mới, đình đài lầu các không sao đếm xuể. Chàng ngạc nhiên không hiểu, bèn nhảy vào trong tường.

    Chàng đi vào trong, thấy ngay một cái đình, trong đình có dựng một tấm bia đá lớn. Dưới ánh trăng, chàng thấy tấm bia này rất mới, khắc sáu bài thơ ngũ ngôn, cũng là bút pháp của Càn Long. Mấy bài thơ này ngụ ý quan tâm đến chuyện an nguy sướng khổ của bá tánh, ca tụng công danh sự nghiệp của Trần gia. Trần Gia Lạc thấy thơ tuy không hay lắm, nhưng đầy vẻ tôn trọng gia đình mình, nên không khỏi vui mừng đôi chút.

    Theo một hành lang dài đi về phía tây, qua khỏi ba khoảnh sân nhỏ mới đến Hoài Bích Đường. Trần Gia Lạc thấy trong sảnh có treo một tấm biển mới, ghi ba chữ Ái Nhật Đường, cũng do Càn Long viết. Chàng nghĩ:
    “Hai chữ Ái Nhật thường để chỉ sự hiếu thảo với cha mẹ, nguồn gốc từ lời người xưa cảm thán ngày tháng phụng sự cha mẹ không được lâu dài, đoàn tụ thêm nmột gày là mừng rỡ một ngày, vì thế ngày nào cũng nên quyến luyến. Hai chữ này nếu do ta viết mới hợp lý, sao hoàng đế lại đích thân viết ở chỗ này? Chẳng lẽ học vấn của y lại mơ hồ đến thế?”

    Ra khỏi sảnh đường này, chàng qua Cửu Khúc Kiều đi về phía bắc, vào một rừng trúc râm mát mới đến Huân Hương Quán, nơi mẫu thân cư ngụ khi xưa. Trước quán cũng có một tấm biển mới, ngự bút ghi ba chữ Xuân Huy Đường. Chàng thấy trong lòng chua xót, ngồi bên hòn non bộ thầm nghĩ:
    “Đây là chữ trong bài thơ Du Tử của Mạnh Giao: Thùy ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy.”
    Bài thơ này thật đúng tâm sự, chàng nhìn vào ba chữ lại càng thương nhớ mẫu thân, lệ lại tiếp tục rơi.

    Đột nhiên chàng giật mình một cái, nhảy chồm dậy, trong lòng nghĩ:
    “Hai chữ Xuân Huy là điển cố chỉ đứa con lưu lạc cảm niệm mẫu ân, ngoài ra không còn ý nghĩa gì khác. Tại sao hoàng đế lại treo tấm bia này trên lầu của mẹ mình? Càn Long không thể hồ đồ bừa bãi đến thế. Chẳng lẽ y đoán rằng mình sẽ về tảo mộ, nên cố ý viết sẵn mấy tấm biển để lấy lòng hay sao?”

    Trần Gia Lạc suy nghĩ hồi lâu vẫn chưa hiểu được dụng ý của Càn Long, bèn nhẹ nhàng bước lên lầu. Chàng nép vào một góc, thấy trong phòng không có ai, bố trí vẫn hệt như khi mẹ mình còn sống. Cái tủ lớn bằng gỗ đỏ, giường cham hoa văn, rương viền vàng đựng quần áo vẫn để ở chỗ mà mười mấy năm xưa chàng từng thấy. Trên bàn vẫn có một cây nến đang thắp sáng. Đột nhiên có tiếng bước chân ở phòng bên, rồi có người đi vào.

    Đó là một nữ nhân lớn tuổi. Chàng thấy sau lưng, nhịn không nổi chỉ muốn gọi to. Đó là một cô nha hoàn đã theo mẹ chàng từ thời khuê nữ, tên là Thụy Phương. Bà đã nuôi nấng Trần Gia Lạc tử nhỏ cho đến mười lăm tuổi, là người thân thiết nhất trong số gia nhân.

    Thụy Phương vào phòng, cầm giẻ chậm rãi lau chùi đồ vật trong phòng. Bà ngồi trên ghế ngơ ngẫn một hồi, rồi lấy dưới gối ra một cái nón trẻ con, vừa mân mê vừa thở dài thở ngắn. Đó là một cái nón đoạn thêu hoa, có đính một miếng ngọc xanh, quanh miếng ngọc là ba hạt châu rất lớn. Đây chính là cái nón mà Trần Gia Lạc đội hồi còn nhỏ. Chàng không nhẫn nại được nữa, chạy ra giữa phòng ôm lấy bà ta.

    Thụy Phương kinh hãi định la lên. Trần Gia Lạc vội đưa tay bịt miệng bà, khẽ nói:
    “Con đây, dì đừng la.”

    Thụy Phương nhìn chàng, hoảng sợ đến mức không nói được tiếng nào. Trần Gia Lạc rời nhà từ lúc mười lăm tuổi, mười năm không gặp tướng mạo đã khác nhiều. Hơn nữa, đối với nữ nhân đã ngoại ngũ tuần thì mười năm chỉ chớp mắt là đã qua.

    Trần Gia Lạc lại nói:
    “Dì Thụy Con là Tam Quan đây, dì không nhận ra hay sao?”

    Thụy Phương mơ hồ hỏi lại:
    “Ngươi… ngươi là Tam Quan? Công tử về rồi đấy ư?”

    Trần Gia Lạc mỉm cười gật đầu. Thần trí của Thụy Phương dần dần tỉnh táo lại, hình như bà đã nhận ra trên mặt Trần Gia Lạc những nét của cậu bé Tam Quan nghịch ngợm khi xưa. Đột nhiên bà đưa hai tay ra ôm choàng lấy chàng, khóa òa lên.

    Trần Gia Lạc vội nắm tay bà nói:
    “Dì đừng khóc nữa, đừng để người khác biết con đã về đây.”

    Thụy Phương Đáp:
    “Không sao đâu. Họ đi qua tân viên hết rồi, ở đây không còn ai cả.”

    Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi:
    “Tân viên là sao?”

    Thụy Phương đáp:
    “Tân viên mới xây nửa năm nay, tốn không biết bao nhiêu vàng bạc. Nô tì cũng không biết xây để làm gì.”

    Trần Gia Lạc biết bà không hiểu được những chuyện như vậy, bèn hỏi:
    “Má má con bị bệnh ra sao mà phải từ trần?”

    Thụy Phương lấy khăn ra lau mắt rồi kể:
    “Hôm ấy không biết tại sao tiểu thư rầu rĩ vô cùng, ba ngày không ăn không uống rồi ngã bệnh, mười mấy ngày sau thì qua đời.”
    Nói đến đây bà khóc thút thít. Những tiểu thư nhà giàu Ở Giang Nam khi xuất giá đều đem theo mấy ả nha hoàn về nhà chồng. Mặc dù theo thời gian tiểu thư trở thành thái thái, rồi bà bà, nhưng những nha hoàn đó vẫn gọi chủ nhân của mình là tiểu thư như thời con gái.

    Bà vừa khóc vừa nói:
    “Lúc tiểu thư qua đời vẫn nhớ đến công tử, luôn miệng hỏi: Tam Quan đâu? Tam Quan chưa về hay sao? Ta muốn gặp Tam Quan! Tiểu thư gọi hoài như vậy hai ngày trước khi chết.”

    Trần Gia Lạc cũng thút thít nói:
    “Ta thật là bất hiếu! Mẫu thân sắp chết muốn gặp ta lần cuối mà cũng không được gặp!”
    Chàng lại hỏi:
    “Mộ phần của má má ở đâu?”

    Thụy Phương đáp:
    “Ở phía sau tòa Hải Thần Miếu.”

    Trần Gia Lạc hỏi:
    “Hải Thần Miếu?”

    Thụy Phương đáp:
    “Cũng mới xây mùa xuân năm nay, là ngôi miếu rất lớn ở cạnh đê chắn sóng.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Dì Thụy, con phải qua đó một chút.”

    Thụy Phương vội cản:
    “Không… không được.”
    Nhưng chàng đã bay ra khỏi cửa sổ rồi.

    Đường từ nhà đến đê chắn sóng là con đường mà chàng quen thuộc nhất trên đời, nhắm mắt cũng chạy tới nơi. Thấy ở phía tây có mấy tòa lầu cao ngất trời mà hồi nhỏ mình chưa từng thấy, chàng đoán chắc đó là Hải Thần Miếu, bèn rảo bước đến gần.

    Đột nhiên nghe tiếng bước chân rất nhẹ, chàng vội lùi lại, núp mình sau một gốc liễu. Mỗi bên miếu có hai đại hán áo đen bước ra, bốn người gặp nhau trước cửa miếu bèn đưa tay chào nhau, nhưng chân vẫn không dừng lại, tiếp tục tuần tra quanh miếu. Trần Gia Lạc rất ngạc nhiên, thầm nghĩ:
    “Hải Ninh chỉ là một huyện ven biển nhỏ xíu. Bốn người này võ công không tệ, không hiểu chúng đến đây âm mưu chuyện gì?”

    Chàng đang muốn theo dõi thì lại nghe tiếng bước, bốn người nữa đi vòng từ sau miếu ra ngoài, phục sức giống hệt bốn người vừa rồi. Chàng càng kinh ngạc hơn, đợi bốn người này đi chéo qua nhau rồi đề khí nhảy lên, nằm trên đỉnh tường thò đầu nhìn xuống.

    Khắp nơi tổng cộng có hơn bốn chục người, chia từng tốp bốn người đi vòng quanh Hải Thần Miếu tuần tra chăm chú, hoàn toàn không lên tiếng. Võ công của chúng đều không phải tầm thường, cứ như giáo phái nào đó tiến hành tế lễ, hay một nhóm hải tặc hay bang hội gì đó đang tụ tập chia chác, sợ người ta phát hiện nêm mới tuần tra nghiêm mật như thế. Nếu Trần Gia Lạc khinh công không cao, thân thủ không nhanh thì chàng đã bị chúng phát giác rồi. Lòng hiếu kỳ nổi lên, chàng nhẹ nhàng nhảy xuống nấp vào mé tường, tiến lần vào trong đại điện xem xét.

    Phía đông điện thờ Việt vương Câu Tiễn, phía tây điện thờ hai vị trung thần Ngũ Tử Tư và Văn Chủng. Chàng vào trung điện, thấy khói nhang đang tỏa, đèn nến đang thắp sáng trưng, tự hỏi không biết ở đây thờ vị thần nào. Khi ngẩn đầu lên, Trần Gia Lạc bất giác giật bắn người.

    Thì ra tượng thần ở giữa điện có vẻ mặt thanh tú, cằm lưa thưa râu, giống hệt phụ thân chàng Trần Các Lão lúc sinh tiền. Chàng càng nghĩ càng thấy lạ, nhưng nghe ngoài điện có tiếng bước chân nên vội ẩn mình vào phía sau một cái chuông lớn. Lát sau thì có bốn người đi vào trong điện. Chúng cũng mặc đồ đen, tay cầm binh khí, rảo một vòng trong điện rồi trở ra ngoài.

    Bên trái Trần Gia Lạc có một cánh cửa đang mở. Chàng rón rén tới đó nhìn ra ngoài, thấy ngoài cửa là một con đường lát đá trắng rất dài, chạy thẳng ra xa tít trông rất hùng vĩ. Trần Gia Lạc nghĩ:

    “Mình mà đi trên con con đường đá trắng này chắc chắc sẽ bị phát giác.”
    Chàng bèn nhảy lên mái của hành lang, chạy một hơi đến đầu bên kia, nhìn qua nhìn lại thấy bên dưới không một ai, liền nhẹ nhàng nhảy xuống.

    Trước mặt lại là một tòa thần điện nữa, trước cửa ghi ba chữ Thiên Hậu Cung. Cửa điện không đóng, chàng liền đi vào để chiêm ngưỡng thần tượng. Phen này chàng còn kinh hãi gấp mấy lần vừa rồi. Tượng Thiên hậu này khuôn mặt tròn trịa, mắt hơi xếch lên, giống hệt mẫu thân của mình là Từ Thị.

    Trần Gia Lạc càng lúc càng mơ mịt, như người bị rơi vào giữa năm dặm sương mù. Chàng quay lưng chạy ra ngoài, định đi tìm mộ phần của mẹ mình, nhưng lại thấy phía sau Thiên Hậu Cung này có một dãy liều bằng vải vàng, nối nhau liên miên bất tận. Chàng bèn ẩn mình vào góc tường nhìn chăm chú ra ngoài, nhìn đâu cũng thấy bọn đại hán áo đen đang tuần tra quanh những căn liều màu vàng đó.

    Đêm nay đúng là Trần Gia Lạc gặp toàn những chuyện không ngờ. Tuy bọn này cảnh giới nghiêm ngặt, nhưng chàng ỷ mình tài cao mật lớn, quyết tâm thám thính rõ ràng. Chàng nằm rạp xuống sát đất, trườn đến cửa lều, đợi hai tên áo đen vừa quay lưng lại là lập tức vạch lều ra chui vào trong.

    Chàng cứ nằm sát đất không động đậy gì để nghe ngóng bên ngoài, biết mình chưa bị phát giác mới quay lại nhìn. Trong lều trống rỗng không có đồ vật gì mà cũng chẳng có ai, nhưng mặt đất đã được tu sửa chỉnh tề, một ngọn cỏ cũng không có. Dãy lều này liền sát vào nhau, gìống như một cái dãy hành lang dẫn thẳng về phía sau. Mỗi căn lều đều thắp hai ngọn đèn dầu lớn, soi sáng như ban ngày. Nhìn dọc theo hành lang, hai dãy đèn trông như hai con rồng lửa dài vô tận.

    Trần Gia Lạc không khỏi mơ hồ, vừa kinh hãi vừa sợ sệt, nghĩ mãi cũng không hiểu chuyện gì. Chàng cứ từng bước từng bước đi sâu vào, như người mộng du vậy.

    Bốn bề vắng lặng, chỉ đôi lúc có tiếng lửa đèn nổ lép bép. Chàng cố gắng hít thở nhẹ nhàng lấy lại dũng khí, đi được vài chục bước thì đột nhiên nghe thấy phía trước có tiếng áo quần loạt soạt, bèn vội nép sang một bên tránh né. Hồi lâu không thấy động tĩnh gì, chàng lại đi thêm mấy bước nữa. Dưới ánh đèn đã thấy phía trước có hai ngôi mộ rất lớn nằm sát nhau, lại có một người đang ngồi trước mộ.

    Trước mỗi ngôi mộ có một tấm bia ghi chữ lớn màu đỏ. Một tấm bia viết: Hoàng Thanh thái tử thái phó, Vân Uyên Các đại học sĩ, Công bộ thượng thư Trần, Văn Cần Công, Thế Quan chi mộ. Tấm kia viết: Hoàng Thanh nhất phẩm phu nhân, Trần mẫu Từ phu nhân chi mộ.

    Dưới ánh nến, Trần Gia Lạc nhìn thật rõ ràng, trong lòng đau xót, thì ra song thân mình yên nghỉ nơi này. Chàng bất kể xung quanh nguy hiểm trùng trùng, định chạy tới khóc lóc lạy một lần. Vừa bước lên một bước, thấy người đang ngồi trước mộ đột nhiên đứng dậy, Trần Gia Lạc liền dừng lại. Người kia đứng trước mộ phần ngần ngừ một lúc rồi bỗng quỳ xuống, lạy mấy cái rồi nằm luôn dưới đất không đứng dậy. Sau lưng y nhấp nhô, hình như đang khóc.

    Thấy cảnh tượng này, Trần Gia Lạc không lo lắng đề phòng nữa. Người này đang khóc lạy trước mộ song thân mình, nếu không phải là thân thuộc thì cũng là học trò hay bạn cũ của phụ thân. Chàng thấy y khóc lóc bi thương, bèn nhẹ nhàng bước tới vỗ vai nói:
    “Thôi, đứng dậy đi.”

    Người kia giật mình một cái rồi đứng bật dậy, nhưng không quay người lại, lớn tiếng hỏi:
    “Ai đó?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Ta cũng đến đây bái mộ.”
    Chàng không để ý đến người kia nữa, cứ quỳ xuống. Nghĩ đến công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ lúc sanh tiền, chàng không nén nổi nước mắt tuôn xuống như mưa, thút thít nói:
    “Gia gia! Má má! Tam Quan đến trễ rồi, không sao gặp gia gia má má được nữa.”

    Người đứng bên “à” một tiếng, rảo bước toan chạy ra ngoài. Trần Gia Lạc vội đứng dậy, nhảy ngược ra sau hai bước, cản trước mặt y. Hai người vừa nhìn rõ nhau dưới ánh đèn, đều kinh hãi lùi lại.

    Thì ra người đang khóc lạy trước mộ song thân Trần Gia Lạc lại là Càn Long, đương kim hoàng đế Mãn Thanh.

    Càn Long lắp bắp hỏi:
    “Ngươi… tại sao giữa đêm tới đây?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Hôm nay là sinh nhật của mẹ ta, nên ta đến đây bái mộ. Còn huynh đài thì sao?”

    Càn Long không đáp, lại hỏi:
    “Ngươi… ngươi là con trai của Trần Thế Quan ư?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Không sai! Trong giang hồ rất nhiều người biết chuyện này, chắc huynh đài cũng biết.”

    Càn Long lắc đầu:
    “Ta chưa từng nghe.”
    Thật vậy, gần đây Càn Long sủng ái đặc biệt Trần gia ở Hải Ninh, bọn triều thần dù biết tân thủ lĩnh của Hồng Hoa Hội là con út của Trần Các Lão, nhưng không tên nào dám nhắc đến. Chúng đều biết Càn Long hoàng đế hỉ nộ khó lường, mình mà nhiều chuyện chưa chắc đã có thưởng, lại không chừng mang họa rơi đầu.

    Lúc này Trần Gia Lạc không đề phòng nữa, nhưng phần nghi hoặc tăng lên. Chàng nghĩ:
    “Ngoài kia cảnh giới nghiêm mật đến thế, thì ra là để bảo vệ hoàng đế đến đây tảo mộ. Tảo mộ giữa đêm, đường đến phần mộ lại được che kín bằng vải vàng, hiển nhiên y không muốn người ta biết. Tại sao hoàng đế lại lén lút đến đây cúng tế đại thần? Hoàng đế có thể vì sủng ái đại thần mà có ý tưởng niệm sau khi chết, nhưng chắc chắn không thể quỳ lạy khóc lóc trước mộ người ta như thế. Chuyện này thật là khó nghĩ.”

    Chàng kinh nghi chưa dứt, Càn Long cũng tỉ mỉ nhìn chàng từ đầu đến chân, sắc mặt thay đổi mấy lần. Hồi lâu y mới lên tiếng:
    “Ngồi đây nói chuyện đi.”
    Hai người bèn sánh vai ngồi xuống, trước hai ngôi mộ.

    Đây là lần thứ ba hai người gặp mặt. Lần đầu gặp ở Tam Thiên Trúc chùa Linh Ẩn, hai bên vừa nghi ngờ lẫn nhau vừa có ý làm quen. Lần thứ hai gặp nhau giữa hồ âm thầm tranh đấu, thế thành địch thủ. Lần này gặp nhau ý thù địch đã hết. Tấm lòng thân cận tự nhiên nảy sinh.

    Càn Long nắm tay Trần Gia Lạc nói:
    “Ngươi thấy ta tế mộ giữa khuya thế này, nhất định có phần kỳ lạ. Lệnh tôn hồi sinh tiền đã có ơn với ta. Năm xưa vì chuyện tranh ngôi mà ta bị hoàng huynh âm mưu gia hại, may mà được lệnh tôn xả thân bảo vệ. Ngày hôm nay ta được ở ngôi đại bảo, công lao của lệnh tôn là lớn nhất. Sẵn dịp tuần tra phía nam, đêm nay ta đặc biệt đến đây bái mộ.”

    Trần Gia Lạc bán tín bán nghi “à” một tiếng. Càn Long lại nói:
    “Việc này mà đồn đại ra ngoài thì rất bất tiện. Chắc ngươi cũng không muốn tiết lộ chứ?”

    Trần Gia Lạc thấy y tôn kính song thân mình, rất cảm kích nên khẳng khái nói ngay:
    “Huynh đài cứ việc yên tâm. Tiểu đệ thề trước mộ phần phụ mẫu, việc xảy ra đêm nay quyết không nhắc với bất kỳ ai một câu một chữ.”

    Càn Long biết chàng là một nhân vật thủ lĩnh võ lâm, rất trọng chữ tín, huống hồ lại thề trước mộ song thân. Y lập tức yên tâm, ra vẻ hoan hỉ.

    Hai người nắm chặt tay nhau ngồi trước mồ, một người là đương kim hoàng đế chí tôn, một người là thủ lĩnh bang hội lớn nhất giang hồ. Hai người đều im lặng suy nghĩ, nhất thời không ai nói tiếng nào.

    Hồi lâu, đột nhiên xa xa vọng về tiếng sấm ì ầm. Trần Gia Lạc nghe thấy trước, bèn nói:
    “Triều lên rồi, chúng ta đến đê chắn sóng xem nhé. Tiểu đệ đã hơn mười năm nay không thấy cảnh này.”

    Càn Long nói:
    “Hay lắm!”
    Y vẫn nắm tay Trần Gia Lạc, cùng ra khỏi dãy lều.

    Trần Gia Lạc nói:
    “Mười tám tháng tám hàng năm là ngày sóng triều lớn nhất. Mẫu thân tiểu đệ cũng sinh vào ngày đó, nên…”
    Chàng nói đến đây, bỗng dừng lại giữa câu.

    Càn Long lộ vẻ quan tâm, hỏi ngay:
    “Lệnh đường ra sao?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Vì thế nên tên chữ của mẫu thân tiểu đệ là Triều Sinh.”
    Nói xong câu này, chàng hơi thấy hối hận trong lòng, nghĩ bụng:
    “Tại sao mình lại đem khuê danh của mẹ ra nói với hoàng đế?”
    Thực ra lúc đó chàng buột miệng nói ra rất tự nhiên.

    Mặt hoàng đế hơi đổi sắc, nhẹ nhàng nói:
    “À, thì ra…”
    Hình như y nuốt lại nửa câu sau vào bụng, bàn tay đang nắm tay Trần Gia Lạc hơi run rẩy.

    Nhìn thấy hoàng đế đi ra, bọn thị vệ đang tuần tra liền bước tới để bảo vệ. Chúng thấy bên cạnh hoàng đế lại có thêm một người, tên nào cũng kinh hãi nhưng không ai dám lên tiếng. Bạch Chấn, Trừ Viên là hai thị vệ lại càng sợ hãi. Có người chui vào trong lều mà mình không phát hiện, lỡ hắn đã mạo phạm đến thánh giá thì mình không sao thoát tội. Đến gần hơn, nhận ra người đứng bên hoàng đế lại là tổng đà chủ Hồng Hoa Hội, nỗi kinh hãi này mới thật không sao lường nổi. Tên nào cũng thấm đẫm mồ hôi lạnh.

    Khi thị vệ dẫn ngự mã tới, Càn Long bèn bảo Trần Gia Lạc:
    “Ngươi cưỡi con ngựa của ta đi.”
    Thị vệ vội dẫn thêm một con ngựa nữa tới, hai người cùng lên ngựa đi về phía cửa Xuân Hy Môn.

    Tiêng ì ầm như sấm động càng lúc càng nghe dữ dội, liên miên bất tận. Đứng ở Xuân Hy Môn tai chỉ nghe tiếng sóng vỗ ầm ầm, nhưng đưa mắt nhìn ra biển khơi lại rất phẳng lặng. Khoảng bảy tám trượng gần bờ, mặt biển được ánh trăng chiếu mờ mờ như dát bạc.

    Càn Long nhìn ra biển xuất thần, hồi lâu mới nói:
    “Ngươi và ta rất có duyên với nhau. Ngày mai ta quay lại Hàng Châu, ba ngày nữa sẽ về Bắc Kinh. Ngươi cùng đi với ta có được không? Tốt nhất là từ đây về sau ngươi hãy thường xuyên kề cận ta. Ta nhìn thấy ngươi, giống như được nhìn thấy lệnh tôn vậy.”

    Trần Gia Lạc hoàn toàn không ngờ y có thể nói những lời thân thiết ôn hòa như vậy, nên nhất thời ngẩn ra không biết cách trả lời.

    Càn Long lại nói:
    “Ngươi văn võ toàn tài, sau này làm đến chức vị như lệnh tôn không phải là khó, so với bôn ba trong giang hồ thì cao hơn gấp vạn lần.”
    Câu này của hoàng đế chính là hứa hẹn sẽ phong chàng làm Điện Các Đại Học Sĩ. Thanh triều không có tể tướng, đại học sĩ là chức vị cao nhất, chỉ dưới một người mà trên vạn người. Y ngỡ rằng chàng sẽ mừng rỡ khấu đầu lạy tạ, nào ngờ Trần Gia Lạc nói:
    “Hảo ý của huynh đài, tiểu đệ rất cảm tạ. Nhưng nếu tiểu đệ ham mê phú quý thì chắc chắn không rời nhà Các Lão để đơn thân lưu lạc giang hồ.”

    Càn Long hỏi:
    “Ta muốn hỏi, sao ngươi không chịu làm thế gia công tử mà lại bôn tẩu giang hồ để làm gì? Chẳng lẽ lệnh tôn không dung thứ hay sao?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Không phải thế. Tiểu đệ làm vậy là phụng mạng mẫu thân. Phụ thân và ca ca của tiểu đệ hoàn toàn không biết, đã tốn rất nhièu công sức tìm kiếm khắp nơi. Mãi đến bây giờ ca ca của tiểu đệ vẫn còn phái người đi tìm kiếm.”

    Càn Long nói:
    “Thì ra mẫu thân ngươi bảo ngươi rời khỏi gia đình. Lạ thật, tại sao lệnh đường lại làm như vậy?”

    Càn Long nói:
    “Trần gia ở Hải Ninh của ngươi đời đời trâm anh, khoa danh thịnh vượng, khắp thiên hạ không có gia đình nào sánh được. Ba trăm năm nay, một nhà mà có hai trăm mấy chục tiến sĩ, ba vị ở ngôi tể phụ, lại còn mười một thượng thư, thị lang, bố chánh. Con số đó thật là kỳ lạ. Lệnh tôn Văn Cần Công làm quan thanh minh liêm chính, thường khóc lóc cầu xin cho dân trước mặt hoàng đế. Có mấy lần làm phụ vương ta bãi triều xong, lớn tiếng cười ha hả nói: Hôm nay Trần Thế Quan lại vì bá tánh mà khóc ngập cả sân chầu, ta chỉ còn cách đồng ý với hắn mà thôi.”

    Trần Gia Lạc nghe Càn Long kể sự tích của phụ thân mình, vừa thương tâm vừa vui mừng nghĩ bụng:
    “Cũng suốt đời vì bá tánh, nhưng gia gia vì bá tánh mà khóc lóc với hoàng đế, còn ta vì bá tánh mà cướp quân lương của hoàng đế. Phương pháp khác nhau, nhưng mục đích lại là một.”

    Lúc này tiếng hải triều càng vang dội, lấn át dần tiếng nói của hai người. Nhìn ra xa, thấy rõ một vạch trắng đang từ từ dịch vào dưới ánh trăng.

    Trong chốc lát gió mạnh ập tới, vạch trắng ở phía trước đã đến gần bờ, tiếng ầm ầm còn vang hơn tiếng sấm. Âm thanh vang dội như trăm vạn đại quân đang xung phong giữa vô số trống đập rầm rầm hiệu lệnh, có tiến không lùi.

    Tay trái Càn Long nắm tay Trần Gia Lạc cùng đứng trên con đê chắn sóng, tay phải nhẹ nhàng phẩy cây quạt xếp. Y nhìn thấy hải triều mãnh liệt xông tới, không khỏi kinh hãi đôi chút. Tay phải vừa lỏng ra, cây quạt xếp đã rơi ra ngoài đê, vướng lại trên những bậc thang. Đây là cây quạt xếp mà Trần Gia Lạc đã tặng cho y.

    Càn Long “úi chà” một tiếng. Bạch Chấn lập tức nhảy tới, đầu chúc xuống đất, chân ngược lên trời, nhào xuống con đê để nhặt. Tay trái hắn ấn lên một tảng đá của con đê, tay phải đã chụp trúng cây quạt xếp.

    Nhưng hải triều càng gần càng nhanh, bức tường nước vĩ đại dựng thẳng lên chạy tới sắp đập vào đê. Rõ ràng Bạch Chấn sắp bị sóng thần cuộn vào lòng biển, bọn thị vệ đồng thanh la lên kinh hãi. Bạch Chấn tập trung hết thần khí, thi triển khinh công tột mức, trèo lên thang cấp của con đê. Nhưng hắn mới đến nửa chừng, hải triều đã đập xuống đầu.

    Trần Gia Lạc thấy nguy bèn cởi ngay trường bào, xẻ đôi rồi nhanh tay thắt lại cho dài hơn, ném xuống đầu Bạch Chấn. Bạch Chấn nhảy lên một cái cuối cùng, đưa tay túm được một đầu của áo bào, lúc đó nước đã ập tới chân hắn. Trần Gia Lạc vận lực giật mạnh, kéo được hắn lên bờ đá. Lúc đó Càn Long và bọn thị vệ thấy thế triều cực lớn, đã lùi vào cách bờ đê mấy trượng.

    Bạch Chấn lên được mặt đê thì hải triều sắp phủ qua đê. Trần Gia Lạc từ nhỏ đã chơi ở đây, nên rất quen thuộc sức nước ở con đê chắn sóng này. Chàng vừa giật Bạch Chấn lên vừa tức tốc nhảy lùi mấy bước. Khi Bạch Chấn rơi xuống đất thì mực nước ở mặt đê đã sâu mấy thước rồi. Trần Gia Lạc hất tay phải một cái, ném cây quạt xếp về phía Trừ Viên. Sau đó chàng dùng cả hai tay ôm lấy Bạch Chấn, chạy tới một cây liễu mọc phía trong đê.

    Dưới ánh trăng lấp lánh, mặt biển long lanh như dát bạc, bọt sóng tung lên trắng xóa tựa tuyết rơi, những đợt sóng nối nhau như ngàn mây cuộn. Sóng đập vào bờ đá rầm rầm như ngàn kỵ mã phi nước đại, chỉ trong chốc lát đã xéo lên Bạch Chấn. Hắn ngập chìm dưới làn sóng dữ, lại không biết thủy tính nên chỉ còn biết nín thở mà chờ.

    Bạo phát bạo tàn, sóng biển dâng lên nhanh thì rút cũng nhanh, chỉ khoảnh khác nước đã rút hết ra ngoài đê chắn sóng. Từ nãy Bạch Chấn cứ ngậm miệng nín thở mà ôm gốc liễu, mười ngón tay như mười cái đinh sắt cắm chặt vào thân cây. Đợi nước triều rút đi, hắn mới buông tay rồi lùi lại phía sau.

    Càn Long hoan hỉ nhận lại cây quạt xếp từ tay Trừ Viên. Thấy Bạch Chấn trung thành anh dũng, y bèn hứa khi về sẽ thưởng cho một cái áo ngắn màu vàng. Bạch Chấn còn ướt đẫm người, vội quì xuống đất khấu đầu tạ ơn.

    Càn Long quay lại nói với Trần Gia Lạc:
    “Người xưa từng so sánh ngọn triều này với mười vạn quân, thập vạn quân thanh bán dạ triều. Cảnh sắc như thế này có thể gọi là thiên hạ kỳ quan.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Tiên vương từng sai ba trăm cung thủ bắn hải triều, nhưng hải triều có suy giảm chút nào đâu? Phải thuận theo đại thế tự nhiên, ráng sức cản trở thật không có lợi.”

    Càn Long nghe chàng ám chỉ đến những lời đã nói ở Tây Hồ, biết chàng nhất định không chịu vào triều làm quan, bèn nói:
    “Mỗi người đều có chí riêng. Ta không thể cưỡng ép ngươi, nhưng muốn khuyên ngươi một câu.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Xin thỉnh giáo.”

    Càn Long nói:
    “Hồng Hoa Hội của các ngươi đã có nhiều hành vi phản nghịch. Những gì đã qua, ta có thể không truy cứu. Nhưng từ đây về sau, tuyệt đối không được làm những việc vô pháp vô thiên như thế nữa.”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Những việc chúng ta đã làm và sẽ làm đều vì nước vì dân, chỉ cần tự thấy yên lòng là được.”

    Càn Long thở dài:
    “Đáng tiếc, đáng tiếc!”
    Hồi lâu y mới nói tiếp:
    “Nhưng vì một đêm tri ngộ thế này, sau này tiêu diệt Hồng Hoa Hội ta sẽ tha chết cho ngươi một lần.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Nếu thế thì khi huynh đài lọt vào tay Hồng Hoa Hội, chúng ta cũng sẽ không hại mạng huynh đài.”

    Càn Long cười ha hả, lớn tiếng nói:
    “Trước mặt hoàng đế mà ngươi cũng không chịu thua thiệt chút nào. Hay lắm! Đại trượng phu một lời đã nói bốn ngựa khó theo. Bây giờ chúng ta vỗ tay thề thốt, sau này không được hại nhau.”

    Hai người liền vỗ tay nhau ba cái. Bọn thị vệ thấy hoàng đế nghe Trần Gia Lạc ăn nói đại nghịch bất đạo mà không nổi giận, lại còn kích chưởng lập thệ với chàng, đều hết sức kinh ngạc.

    Càn Long lại nói:
    “Thủy triều cứ tràn vào mãi thế này, nếu không nhanh chóng sửa chữa con đê cho kiện cố, ruộng nương phần mộ bá tánh nhất định có ngày bị cuốn trôi. Chắc ta phải xuất tiền công quỹ hạ lệnh xây dựng lại con đê chắn sóng này để bảo vệ sinh linh.”

    Trần Gia Lạc thẳng người cung kính nói:
    “Đây là đại nghiệp yêu dân, bá tánh Giang Nam sẽ cảm kích vô cùng.”

    Càn Long gật đầu rồi nói:
    “Hơn nữa lệnh tôn có công với nước, dĩ nhiên ta không nỡ thấy phần mộ của ông ấy bị nước biển phạm vào.”
    Y quay lại bảo Bạch Chấn:
    “Ngày mai truyền dụ cho tổng đốc Cao Tấn và tuần vũ Trang Cửu Cung, lập tức đến Hải Ninh toàn lực thi công.”

    Biển đã lặng trở lại, mặt biển nhấp nhô những gợn sóng nhỏ như nồi canh đang sôi. Càn Long lại nắm tay Trần Gia Lạc dắt đến bờ đê. Bọn thị vệ định đi theo, nhưng Càn Long vẫy vẫy tay ra lệnh bảo chúng dừng lại.

    Hai người đi dọc theo bờ đê được vài chục bước, Càn Long nói:
    “Lúc nào ta cũng thấy sắc diện của ngươi có ý không vui. Ngoài chuyện tưởng nhớ song thân ra, chắc hẳn trong lòng ngươi còn điều gì chưa giải quyết được. Ngươi không chịu ra làm quan thì thôi, nhưng có yêu cầu gì cứ nói cho ta biết.”

    Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói:
    “Tiểu đệ chỉ muốn xin một việc, nhưng sợ huynh đài không đồng ý.”

    Càn Long nói:
    “Chỉ cần ngươi muốn, không gì là không được.”

    Trần Gia Lạc mừng rỡ hỏi:
    “Thật thế ư?”

    Càn Long dõng dạc đáp:
    “Quân vô hí ngôn.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Tiểu đệ muốn xinh huynh đài thả nghĩa huynh Văn Thái Lai của tiểu đệ ra.”

    Càn Long khẽ giật mình. Y không ngờ Trần Gia Lạc xin việc này, nên nhất thời không trả lời ngay.

    Trần Gia Lạc bèn hỏi:
    “Rốt cuộc thì nghĩa huynh của tiểu đệ đã đắc tội với huynh đài ở điểm nào?”

    Càn Long nói:
    “Người này nhất định không thể thả, nhưng ta hứa với ngươi thì không thất tín. Thôi, ta không giết hắn là được rồi.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Vậy thì bọn tiểu đệ chỉ còn cách động thủ để cứu nghĩa huynh. Tiểu đệ xin huynh thả, không phải sợ cứu không nổi, chỉ sợ động đao thương làm tổn thương hòa khí giữa hai người chúng ta.”

    Hôm qua Càn Long đã nhìn thấy thanh thế của Hồng Hoa Hội, biết câu nói của chàng không phải là khoe khoang lỗ miệng. Y liền nói:
    “Hảo ý thì ta nhận. Nhưng nói thật với ngươi, ta quyết không để người này thoát khỏi tay mình. Ngươi đã quyết ý phải cứu, thì ta chỉ còn cách đem hắn ra giết.”

    Trần Gia Lạc gằn giọng:
    “Nếu Văn tứ ca của tiểu đệ bị giết, e rằng từ nay huynh đài ngủ không yên giấc, ăn không ngon miệng được nữa.”

    Càn Long lạnh lùng đáp:
    “Nhưng nếu không giết hắn, ta lại càng ăn không ngon, ngủ không yên.”

    Trần Gia Lạc nói:
    “Nếu vậy thì ngôi chí tôn của huynh đài không tiêu diêu tự tại bằng con người mây ngàn hạc nội như tiểu đệ.”

    Càn Long không muốn nhắc đến Văn Thái Lai nữa, bèn hỏi sang chuyện khác:
    “Năm nay ngươi bao nhiêu tuổi rồi?”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Hai mươi lăm.”

    Càn Long thở dài:
    “Ta không so bì với cách sống nhàn vân dã hạc của ngươi, nhưng phải so bì với cái thanh xuân tuổi trẻ của ngươi. Ôi, bất kể sự nghiệp lẫy lừng cái thế đến đâu, khi tuổi thọ đã hết thì cũng phải trở về cát bụi mà thôi.”

    Hai người dạo bước một lát nữa, Càn Long bỗng hỏi:
    “Ngươi có mấy vị phu nhân rồi?”
    Không đợi chàng trả lời, y lấy trong người ra một miếng ngọc rồi nói:
    “Miếng bảo ngọc này có thể gọi là trân quí hiếm có trên đời, ngươi cầm về mà tặng cho phu nhân.”

    Trần Gia Lạc không nhận, đáp:
    “Tiểu đệ chưa thành hôn.”

    Càn Long cười rộ lên:
    “Thì ra ngươi nhìn cao quá, đến nay vẫn chưa có ý trung nhân. Thôi thì miếng bảo ngọc này để ngươi dành tặng cho ý trung nhân tương lai, coi như vật đính ước cũng được.”

    Mảnh ngọc này sắc óng ánh, dưới ánh trăng phát ra ánh sáng dịu dàng. Trần Gia Lạc đa tạ rồi nhận lấy, cầm vào tay lập tức cảm thấy ấm áp. Thì ra đó là một miếng noãn ngọc trân quí lạ thường. Trên ngọc lại dùng chỉ vàng khảm bốn hàng chữ chìm rất nhỏ:
    “Tình sâu quá chẳng bền. Cương cường quá tất nhụt. Khiêm hòa như quân tử. Ôn nhuận như bảo ngọc.”

    Càn Long thấy thần sắc Trần Gia Lạc lạnh nhạt không chút tình thân mật, nhưng y vẫn nói rất dịu dàng:
    “Ta biết ngươi trách người Mãn Châu chúng ta chiếm cứ giang san người Hán, nên trong lòng ôm hận, luôn luôn chống đối. Nhưng ta với ngươi, tuy một Mãn một Hán mà vẫn có thể thân tình như huynh đệ. Thánh tổ hoàng đế đã có di chiếu, Mãn Hán phải là một nhà, không chia cương vực. Tiên đế đã lập trọng thệ Vĩnh bất gia phú, vĩnh viễn không tăng thuế người Hán. Ta đây đảm đương quốc sự, nhất định sẽ yêu dân như con cái. Về điểm này, ngươi có thể yên tâm.”
    Nói xong, y đưa tay phải ra nắm chặt lấy tay trái Trần Gia Lạc.

    Trần Gia Lạc nói:
    “Nếu từ nay về sau có thể Hán Mãn nhất gia thật sự, thì còn hơn cả ước mong. Hung Nô xâm phạm nhà Hán, Đột Quyết tàn sát dân Đường, mà hôm nay cũng đã thành người một nhà rồi.”

    Càn Long hoan hỉ nói:
    “Đây là ý nguyện chung của hai ta, nhất định mãi mãi không quên.”

    Trần Gia Lạc cất miếng ôn ngọc vào bọc rồi nói:
    “Đa tạ vì hậu lễ, xin hẹn ngày gặp lại.”
    Chàng chắp tay từ biệt.

    Càn Long vẫy tay nói:
    “Ngươi nhớ bảo trọng.”

    Trần Gia Lạc quay đầu đi về phía trong thành. Bạch Chấn vội chạy đến trước mặt chàng, lên tiếng:
    “Vừa rồi may được các hạ cứu cho tính mạng, thật cảm kích vô cùng. Chỉ sợ ân này khó mà báo đáp.”

    Trần Gia Lạc đáp:
    “Bạch lão tiền bối nói gì vậy? Chúng ta là võ lâm đồng đạo, lâm nguy giúp nhau tí chút phỏng có chi đáng kể!”






    * * *

    Trần Gia Lạc chạy trở vè phủ Các Lão, nhảy vào trong tìm gặp Thụy Phương rồi nói:
    “Ca ca của con chắc đang ở tân viên. Y cứ bận rộn hoài, lát nữa con sẽ tìm gặp sau. Dì Thụy! Dì có tâm niệm gì thì nói với con, nhất định con sẽ làm được cho dì.”

    Thụy Phương đáp:
    “Nô tì chỉ cầu mong công tử được bình yên, sau này cưới được vợ hiền rồi sinh mấy đứa con kháu khỉnh.”

    Trần Gia Lạc mỉm cười đáp:
    “Chuyện này sợ không phải dễ. Hai cô Tình Họa Vũ Thi đâu, dì gọi họ đến cho con gặp một chút.”
    Tình Họa và Vũ Thi là hai tiểu a đầu phục vụ Trần Gia Lạc hồi nhỏ.

    Thụy Phương nói:
    “Vũ Thi chết năm ngoái rồi. Tình Họa vẫn còn ở đây. Để nô tì đi kêu nó đến.”
    Bà đi chưa được bao lâu, Tình Họa đã chạy lên lầu.

    Trần Gia Lạc thấy nàng đã trở thành thiếu nữ đàng hoàng, nhưng vẫn nhút nhát hay thẹn như hồi còn nhỏ. Nhìn thấy Trần Gia Lạc, nàng đỏ mặt gọi một tiếng “Tam Quan” rồi lập tức khóe mắt mọng lên.

    Trần Gia Lạc nói:
    “Cô đã lớn đến thế rồi! Vũ Thi làm sao mà chết?”

    Tình Hoa buồn bã đáp:
    “Nhảy xuống biển mà chết.”

    Trần Gia Lạc kinh hãi hỏi:
    “Tại sao phải nhảy xuống biển?”

    Tình Họa nhìn quanh một vòng, rồi khẽ nói:
    “Nhị gia muốn lấy tỷ ấy làm hầu thiếp, tỷ ấy không chịu.”

    Trần Gia Lạc “à” một tiếng. Tình Họa vừa khóc vừa kể tiếp:
    “Chuyện tỷ muội nô tì không muốn giấu giếm công tử. Vũ Thi và gia nhân Tấn Trung trong phủ thương nhau. Hai người cố gắng dành dụm, đợi đủ tiền sẽ xin thái thái cho nàng chuộc mình để kết làm phu phụ với Tấn Trung. Nào ngờ một hôm nhị gia say rượu nhìn thấy tỷ ấy, rồi gọi tỷ ấy vào dọn phòng. Hôm sau Vũ Thi khóc lóc với nô tì, nói là có lỗi với Tấn Trung. Nô tì cũng cố khuyên giải, nói thân phận chúng ta chỉ như con sâu cái kiến, bị người chà đạp thật chẳng có cách gì. Nào ngờ tỷ ấy nghĩ không thông, nửa đêm nhảy xuống biển tự trầm. Tấn Trung vớt được thi thể, ôm khóc một hồi rồi đập đầu vào con sư tử đá trước cửa chết theo.”

    Trần Gia Lạc nghe mà đau nhói tâm can, kêu lớn:
    “Không ngờ ca ca của ta lại là loại người như thế. Ta định gặp y một chút để thỏa tình thủ túc, nhưng bây giờ không cần gặp nữa. Mộ của Vũ Thi ở đâu, cô dẫn ta đi xem.”

    Tình Họa đáp:
    “Ở bên cửa Tiên Đức, sáng mai nô tì sẽ dẫn Tam Quan đi.”

    Trần Gia Lạc bảo:
    “Bây giờ đi ngay.”

    Tình Họa hỏi:
    “Bây giờ cửa phủ chưa mở, làm sao ra ngoài được?”

    Trần Gia Lạc khẽ mỉm cười, quàng tay trái ôm lưng cô gái. Tình Họa xấu hổ đến đỏ mặt tía tai, ấp úng chưa nói được gì thì thân thể đột nhiên như biết lướt gió cưỡi mây, qua cửa sổ bay tới mái nhà. Trần Gia Lạc cắp nàng chạy trên mái nhà, đến chỗ không còn nhà cửa gì nữa mới nhảy xuống đi bộ dưới đất, khoảnh khắc đã đến Tuyên Đức Môn.

    Dừng lại lâu rồi mà Tình Họa mới định thần được, kinh hãi hỏi:
    “Tam Quan! Tam Quan đã học được phép tiên hay sao?”

    Trần Gia Lạc mỉm cười không đáp, hỏi lại:
    “Cô có sợ không?”

    Tình Họa cũng mỉm cười không đáp, dẫn Trần Gia Lạc đến mộ của Vũ Thi. Đó chỉ là một nấm đất vàng. Trần Gia Lạc nghĩ đến tình nghĩa khi xưa mà không nén nổi thê lương, chắp tay vái lạy trước mộ ba lần.

    Tình Họa bật khóc, lên tiếng:
    “Tam Quan! Nếu Tam Quan ở nhà, chắc nhị gia không dám làm chuyện đó.”

    Trần Gia Lạc lặng lẽ gật đầu, rồi ngẩng đầu lên nhìn thấy trăng đã xế tây, sao đã nhạt dần. Chàng liền nói:
    “Chúng ta về đi! Ta còn có việc gấp phải quay lại Hàng Châu.”

    Hai người trở về Trần phủ. Trần Gia Lạc đang định nhảy ra cửa sổ, Tình Họa bỗng nói:
    “Tam Quan! Nô tì xin Tam Quan một việc.”

    Trần Gia Lạc bảo:
    “Được, cô nói đi.”

    Tình Họa nói:
    “Nô tì muốn được chải tóc Tam Quan một lần.”

    Trần Gia Lạc suy nghĩ một chút rồi nói:
    “Được.”

    Chàng ngồi xuống ghế. Tình Họa vui vẻ chạy ra ngoài, chỉ một lúc đã bưng khay bạc đi vào, đặt trước mặt chàng. Trên khay có hai cái chén sứ nho nhỏ, một chén đựng canh quế hoa mộc nhĩ, còn chén kia đựng bốn miếng xôi ngọt.

    Trần Gia Lạc xa nhà đã mười năm, ở miết trong sa mạc hoang vu. Hôm nay cầm thìa bạc múc canh bách hợp, thưởng thức lại mùi vị những món ăn của gia đình phú quí Giang Nam, chàng tưởng mình đã qua kiếp khác. Tình Họa tháo bím tóc của chàng ra, bôi dầu rồi cầm lược chải. Chàng lấy đũa gắp xôi ngọt, tự mình ăn một miếng, rồi gắp một miếng đút cho Tình Họa. Nàng mỉm cười nói:
    “Tam Quan vẫn hệt như xưa.”

    Khi thắt bím xong thì chàng cũng vừa ăn hết điểm tâm. Tình Họa hỏi:
    “Tại sao ngay cả trường bào mà công tử cũng không chịu mặc? Lỡ bị cảm lạnh thì sao?”

    Trần Gia Lạc mỉm cười nghĩ bụng:
    “Chẳng lẽ cô tưởng ta vẫn còn là chú nhóc yếu ớt mười năm về trước hay sao?”

    Tình Họa đi ra ngoài, đem vào một tấm trường bào màu xanh nhạt, đưa cho Trần Gia Lạc rồi nói:
    “Đây là áo của nhị gia, hơi rộng một chút, Tam Quan mặc tạm.”
    Rồi nàng giúp chàng khoác trường bào, lại cúi người xuống cài khuy cho.

    Trần Gia Lạc thấy nàng nhỏ lệ tí tách trên tấm trường bào, cảm thấy động lòng. Chàng lấy hết mấy thỏi vàng trong bọc ra, đặt vào tay nàng rồi nói:
    “Cô đưa cái này cho gia gia, bảo ông ấy chuộc cô về, rồi lựa một gia đình đàng hoàng mà lấy chồng. Ta đi đây!”
    Rồi chàng nhún chân một cái, thân hình đã vọt qua cửa sổ ra ngoài.

    * * *


    (... còn tiếp ...)





          
Trả lời

Quay về “Kim Dung”