- 30/04/2021 - tưởng niệm 46 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Hoài niệm

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          

          

Hoài niệm
__________________
Hoàng Như Hạ




Lời nhắn nhủ làm em chợt nhớ
Những tháng ngày thơ ấu xa xưa
Nhớ màu nắng quê mình quá đỗi
Nhớ Sài Gòn hai mùa nắng mưa

Nhớ một thuở ê a đọc sách
Báo tuổi thơ trang Mai Bê Bi
Rồi võ vẽ Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc
Thiên đường chữ, ôi vui cách gì!

Đã nửa đường tháng Tư rồi đó
Màu nắng Xuân rực rỡ đất trời
Cho nỗi nhớ đầy thêm chút nữa
Cờ vàng bay trường lớp một thời!

Em viết xong bài thơ bảy chữ
Hàn huyên tháng Tư với riêng anh
Vẫn ước mơ ngày không xa lắm
Tự Do - Công Lý mình dạo quanh...



hnh
13.04.2021
          

          

viewtopic.php?p=30932#p30932
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Tháng Tư nhớ Bà

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • Tháng Tư nhớ Bà
    ___________________________
    Quốc Việt






    “Bà dặn con điều này, phải nhớ cho kỹ nhé con, đánh không nổi nữa thì thà tự tử mà chết chứ không để cho chúng nó bắt… Nhớ nhé, nhớ bà dặn nhé, thà tự tử hơn là để chúng nó bắt, nó làm nhục rồi cũng chết đau chết đớn con nhé…”


              

    Vào Nam là chọn Tụ do.
    Nguồn: LIFE

              

    Tôi có 2 bà nội. Một là bà nội cả, người sinh ra bố, chú và cô tôi và hai là bà nội thứ, em ruột bà nội lớn. Bà nội cả tôi không biết mặt vì cụ qua đời lúc 3 anh em bố tôi còn nhỏ, bố tôi hình như mới lên 8 còn cô tôi lúc ấy còn ẵm ngửa. Thương các cháu mồ côi, bà nội thứ bằng lòng về nhà ông nội tôi nuôi các cháu. Nhưng bà thẳng với ông
    • “tôi về đây để nuôi các cháu thay chị tôi chứ không phải về làm vợ ông”.
    Sau này lớn lên tôi nghe mẹ tôi bảo các ông bà trong họ, trong làng kể lại như thế. Và rồi ông tôi cũng bỏ làng đi đâu không rõ, nghe nói có dạo ông vào Nam rồi quay ra Bắc. Bố tôi cũng không biết rõ ông tôi mất bao giờ, ở đâu. Vì thế trong trí nhớ của tôi, từ lúc còn là thằng bé 4 tuổi theo cả nhà di cư vào Nam, cho đến năm bà mất tôi 25 tuổi, chỉ có mỗi bà là bà nội.

    Khi mới vào Nam, bà ở với chú và cô tôi. Còn mẹ con tôi thì theo bố và đơn vị di chuyển vài nơi (Rạch Giá, Ban Mê Thuột, rồi Quán Tre, Xóm Bến Cỏ – Đakao) trước khi về ở chung với bà.

    Tuổi thơ của tôi có bà nội là ở xóm chợ Bàn Cờ.

    Ông nội tôi thứ tư, ở ngoài Bắc người làng, họ hàng vẫn gọi bà tôi là bà Tư. Vào Nam bà sống bằng nghề làm vàng mã nên lối xóm quen gọi là bà Tư vàng mã. Mỗi sáng trước khi đi học tôi dậy sớm, phụ bà mở cửa hàng (gọi là mở cửa hàng nhưng chỉ là tháo mấy tấm phản gỗ đứng làm vách che mặt trước của căn nhà, kê ngang thành kệ, sắp xếp đủ loại giấy tiền, vàng bạc, nhang đèn, treo mấy con ngựa giấy…) Chiều về trước khi ăn cơm tôi lại phụ bà dọn dẹp hàng, đóng cửa.

    Bà tôi vấn tóc, răng đen, ăn trầu và hút thuốc lào. Bà ngồi đâu là phải có chiếc điếu bát kế cận. Thuốc lào của bà hút quanh năm do một ông cụ người Bắc cứ một hai tháng lại từ Cái Sắn, Rạch Giá đem lên giao một lần hàng chục bánh. (Sau năm 1975, khi tôi vào tù, mẹ tôi còn vét được ít bánh tiếp tế cho con mấy kỳ thăm nuôi mới hết. Đám bạn bè đồng tù đứa nào cũng mê thuốc lào mẹ tôi tiếp tế. Tôi bảo “đó là gia tài của bà nội để lại cho cháu đích tôn, hút vào được lộc của bà phù hộ.)

    Bà tôi tính nghiêm khắc, ít cười nhưng như tất cả mọi người, bà thương các cháu nội ngoại hết mực.

    Cô tôi lấy chồng ở xa, mỗi năm chỉ vào dịp Tết mới đem con về thăm bà. Chú tôi ở hẳn nơi tiệm may áo dài của ông, còn con gái chú ở chung nhà với chúng tôi. Nhớ thuở anh em chúng tôi còn bé, lúc nào bà cũng có sẵn những thứ quà vặt cho cháu. Buổi trưa ngủ dậy, nếu không được bà cho vài hào ăn chè thì cũng có cái kẹo lạc hay chiếc bánh ngọt. Sau này lớn lên tôi mới biết, bánh kẹo là do chú tôi thường mua biếu bà, nhưng bà ăn rất ít, còn thì để dành cho lũ cháu. Phần bà, ăn cơm xong thỉnh thoảng quả chuối là xong. Họa hoằn tôi mới được bà sai chạy ra chợ, cách nhà mươi mét, mua cho bà miếng bánh đúc. Ăn cơm, có miếng thịt bà cũng chỉ cắn một miếng, còn lại bỏ bát cho cháu. Bố mẹ tôi mà cằn nhằn:
    • – Bà cứ xơi đi, chúng nó có rồi…

    Bà bảo:
    • – Thịt con gà trong Nam này nó nhàn nhạt thế nào ấy, không như miếng gà ngoài Bắc mình… Cho chúng nó ăn hết đi, tôi chẳng ăn…

    Đó là điệp khúc tôi nghe quen thuộc thuở bé, như thể bao giờ bà cũng chê quả xoài, quả mận trong Nam trông thì to, đẹp nhưng nhất định không bao giờ ngon bằng quả muỗm, quả roi ở quê hương miền Bắc đã xa mù mịt của bà.

    Khi đã đủ lớn, có lần nghe bà nhắc lại câu nói quen thuộc ấy tôi nói với bà:
    • – Cháu nghĩ có lẽ tại ngày xưa như bà kể ở làng mình nhà nghèo, ít khi được ăn thịt nên mỗi lần ăn mới thấy ngon, chứ bây giờ mình ăn lúc nào cũng được nên thấy chán …

    Bà nghiêm mặt mắng:
    • – Cha tiên nhân nhà mày, mày chửi khéo bà đấy à …

    Mãi sau này tôi mới nhớ ra hình như lúc mắng cháu như vậy mắt bà có hơi rơm rớm …




    ***
              

    Tóc vấn, răng đen.
    Nguồn: Skywalkers nhóm Vnphoto tại Hà Nội.

              

    Như tất cả mọi đứa cháu trên đời, tôi thích nhất là nằm nghe bà tôi kể chuyện xưa tích cũ ở làng ngoài Bắc và chuyện xưa, chuyện cổ tích (như chuyện Phạm Công Cúc Hoa, chuyện Cây tre trăm đốt, chuyện Nhị Thập Tứ Hiếu…) Tôi hỏi bà sao bà hay thế, không biết chữ Quốc ngữ mà lại thuộc làu nhiều chuyện như vậy, bà tôi cười bảo hồi bé bà cũng được nghe, cứ nghe mãi thì thuộc chứ có gì là hay…

    Tôi thích nghe nhất là những chuyện bà kể về quê. Bà kể tỉ mẩn, từ bụi tre đầu ngõ, cái ao cạnh nhà, con ngõ dẫn lên đê mà cô tôi hay bế thằng cháu ra xem thả diều khi bố mẹ tôi đưa con về thăm bà… rồi đến họ hàng làng mạc, những ông Tham bà Lý mà Tết năm nào bà cũng dắt tôi đi thăm ở xóm Sáu Lèo gần chợ Thái Bình.

    Bà tôi hay kể về nạn đói năm 1945 ở làng. Bao giờ kể xong bà cũng nhắc đừng bao giờ phí phạm hột cơm, vì đấy là hột ngọc của Giời… ăn cơm phải chậm rãi, từ tốn, ăn cho khéo, đừng để rơi vãi, ăn phải vét bát cho thật sạch , trước khi rửa nồi phải chịu khó nhặt từng hột cơm sót, đừng vứt bỏ phải tội… mai sau chết thế nào cũng sa địa ngục, bị Diêm vương trừng phạt, đói mà không được chết, cứ lây lất như những người đói kém ở làng quê năm Ất Dậu, bò ra nằm la liệt khắp nơi…

    Bà tôi kể chuyện làng quê rất nghèo, cả làng, cả họ chỉ có vài nhà giàu, hoặc có ruộng vườn, đất đai, hoặc có con cái, anh em sống ngoài Hà Nội. Gia đình tôi thì chẳng có gì, vì bà nội Cả của tôi mất sớm, bỏ 3 con thơ cho ông nội xoay sở, khiến bà động lòng thương cháu, chấp nhận về nhà ông để nuôi nấng các cháu, con chị mình.

    Tuy nhiên mãi cho đến khi đã lớn khôn, chưa bao giờ tôi dám hỏi bà chuyện có lần nghe lóm từ mấy ông bà người làng rằng ngày bà bước chân vào nhà, bà bảo thẳng cùng ông tôi rằng
    • “Tôi xin nói cho rõ là tôi về đây vì thương 3 đứa cháu con chị tôi mồ côi mẹ, không ai nuôi nấng, chứ không phải tôi về đây để làm vợ lẽ vợ mọn cho ông đâu nhá. Ông đừng có mơ tưởng mà hòng lem nhem, đừng để đến lúc ấy có gì rồi trách sao tôi không nói trước.”
    Nói xong bà cầm con dao quắm phập một nhát vào cạnh bàn rồi đứng dậy…

    Bà kể chuyện khi bố tôi ra Hà Nội đi lính, gặp mẹ tôi theo chị ra buôn bán ở phố, phải lòng mẹ tôi rồi tự nhờ anh em bạn bè đơn vị về quê của mẹ tôi hỏi cưới rồi 2 người đưa nhau đi cùng đơn vị lên đóng ở Hưng Yên, mãi đến khi sinh con đầu lòng là anh tôi mới đưa nhau về chào bà. Rồi chuyện anh tôi bị sài qua đời lúc chỉ mới hơn 1 tuổi, khi tôi vừa sinh … Rồi chuyện bà cho người tìm nhắn bố tôi phải đưa mẹ con tôi về quê sống với bà nhưng bố tôi không chịu, vì muốn có vợ con đi cùng, vả lại còn sợ bà ghét mẹ tôi thì khổ…

    Bà kể những ngày ấy, trong làng chỉ có mỗi bố tôi đi lính Quốc gia, còn người làng, và cả nhiều họ hàng đều theo Việt Minh. Hết người này đến kẻ khác nhắn nhe, khuyên dỗ bà nên gọi bố tôi bỏ lính về quê, không cần phải theo Việt Minh cũng được. Không có hiệu quả, có lúc bọn họ còn tìm trò này cách khác ngầm dọa bà…

    Tôi hỏi,
    • – Thế bà làm sao, bà có sợ không?

    Bà bảo:
    • – Bà sợ gì chúng nó, đứa nào theo Việt Minh mà chỉ lẩn quẩn ở làng mà bà không biết… Ngữ chúng nó thì như cáy ấy, dọa ai chứ dọa bà sao được.
    Bà bảo với mấy kẻ nhắn nhe kia rằng,
    • “Anh ấy là con tôi nhưng nay khôn lớn, ra đời rồi thì tự lo tự lập, tôi chỉ quanh quẩn ở xó làng này biết gì mà bảo ban, kêu gọi… Tôi chỉ biết nói vậy đấy, ông nào không chịu, đòi thế này thế khác thì mời về hẳn đây nói chuyện tận mặt với gái già này, chứ nhắn nhe bâng quơ thế kia thì chịu, chả biết phải nói thế nào …”


    Ấy thế mà rồi họ cũng đành kệ bà. Cho đến khi có hiệp định Genève.

    Lúc bấy giờ bố tôi đang học dở khóa Sĩ quan ở Bính Động, Hải Phòng và mẹ con tôi cũng ở ngay đấy nên ông chỉ kịp đưa vợ con xuống tàu theo đơn vị di cư sau khi đã gấp rút nhắn được chú tôi – bấy giờ đang học may ở Hà Nội – là phải về làng đưa ngay bà nội và cô tôi lên phố, rồi bằng mọi cách phải theo đoàn di cư, dù thế nào cũng không được nản lòng, bỏ cuộc mà ở lại.

    Bà tôi kể chú tôi lẻn về thế nào, rồi ông trốn đi ngay kẻo bị Việt Cộng bắt, còn bà đã phải thu xếp tính toán thật chi ly rồi nửa khuya về sáng lén dắt cô tôi, băng đồng, vừa đi vừa chạy không kịp thở, toàn bộ tế nhuyễn chỉ có 2 tay nải quần áo đeo vai… Và cuối cùng thì bà, chú và cô tôi cũng kịp theo 1 chuyến bay di cư vào đến Tân Sơn Nhất, được bố tôi đã vào trước, đi tìm, đón đưa về ở trại tiếp cư Bình Đông.

              

    Tìm tự do năm 1954.
    Nguồn: OntheNet

              

    Bao giờ kể chuyện quê xong bà cũng chép miệng:
    • – Chả biết đến bao giờ mới lại về được quê mình, ngữ này thì bà đành bỏ xương nơi đất khách thôi, buồn lắm con ạ…

    Tôi nhớ, năm 7, 8 tuổi, có lần nghe chuyện di cư xong tôi đã hỏi bà:
    • – Tại sao nhà mình phải di cư hở bà?
      – Tại vì không thể sống được với lũ Việt Minh con ạ
    • (đối với bà thì mang tên gì thì chúng nó cũng vẫn là bọn Việt Minh, dối như Vẹm)
      – Tại sao không sống được với Việt Minh hở bà?
      – Tại vì chúng nó tàn ác lắm, mang máu chó chứ không phải máu người con ạ.
      – Như thế thì đi là phải rồi, tại sao bà lại buồn?
      – Tiên nhân nhà mày, bà buồn vì nghĩ đến mồ mả tổ tiên, ông bà bỏ lại bây giờ biết thế nào, có ai hương khói không. Mai này bà chết thì ước gì được chết ở quê hương làng nước cho khỏi phải xa cách ông bà, tổ tiên.

    Lúc bấy giờ thằng nhóc tì tôi chịu không thể nào hiểu được tâm trạng của bà nội, mà theo tôi thật là mâu thuẫn như thế, để mãi đến bây giờ 60 tuổi đầu tôi mới lờ mờ hiểu được tâm trạng của cụ, đi thì phải đi, mà cái buồn vẫn cứ bám mãi cho đến ngày nhắm mắt…





    ***

    Gia đình tôi gốc không hẳn là theo đạo Phật, mà đúng hơn là thờ cúng ông bà tổ tiên nhưng bà nội và mẹ tôi đều có lên chùa quy y. Tôi nhớ hồi bé giao thừa năm nào cũng được theo bà đi lễ chùa đầu năm, hoặc là chùa Từ Quang ở đường Phan Thanh Giản (của cụ Tâm Châu), hoặc chùa Phước Hòa cạnh trường tiểu học Phan Đình Phùng. Đó là các chùa Bắc tông, tuy thỉnh thoảng thấy bà tôi cũng dắt đi lễ ở chùa Kỳ Viên, ngã tư Phan Đình Phùng – Bàn Cờ, là chùa theo hệ phái Nguyên thủy, Theravada… Tính bà tôi về chuyện lễ bái cũng không giống các cụ khác. Bà đến chùa là để lễ Phật, có cúng gì thì cúng, xong là về ngay, không la cà. Bà bảo chùa là để các Sư tu niệm, người thường đến lễ xong thì phải đi về, chớ có lẩn quẩn làm ô nhiễm không khí thanh tịnh thì phải tội…

    Năm 1963 khi nổ ra cuộc tranh đấu của giới Phật giáo chống ông Diệm, với kết cục anh em ông bị các Tướng lãnh đảo chính và sát hại, bà tôi chép miệng:
    • – Cơ mầu này thì chẳng mấy chốc lại tan nát hết, lại chạy thôi con ơi…

    Tiếp theo sau đó là những năm biến động liên tục, hết chỉnh lý đến biểu dương lực lượng, hết sư sãi đến sinh viên học sinh xuống đường đòi hòa giải, hòa bình… Mỗi khi có biến động, có thiết quân luật, giới nghiêm, bà tôi lại chửi đổng:
    • – Chém cha những quân cơm không ăn chỉ muốn ăn c… Làm người không muốn chỉ muốn làm chó…

    Ở cùng bà nội một thời gian, bố mẹ tôi lúc ấy đã thêm con, đến năm 1959 tổng cộng anh em tôi đã 5 đứa, nên không thể tiếp tục chen chúc trong căn nhà gỗ có 1 gác với bà. Bố mẹ tôi dành dụm, vay mượn thêm đi mua 1 căn nhà nhỏ cũng ở cùng khu chợ Bàn Cờ, ở một hẻm kế cách bà vài chục thước.

    Ngày 2 bữa tôi có nhiệm vụ xách cặp lồng đem cơm trưa và chiều mẹ tôi nấu nướng cho bà. Bà ăn một mình nhưng bao giờ cũng cho tôi ăn cùng. Mẹ tôi thì dặn, bà có cho con cũng không được ăn, để mình bà ăn cho đủ no… còn bà thì bảo, ngồi ăn một tí cho bà vui, ăn một mình bà buồn… Tôi bảo mẹ con dặn rồi, không nghe về bị đòn thì bà bảo bà là bà, thế mày nghe bà hay nghe mẹ …

    Mãi đến lớn tôi mới hiểu, bà biết mẹ tôi khi bới cơm, có tí thịt cá thường dọn phần hơn cho bà, còn mấy mẹ con còn gì ăn nấy nên bà cố tình ép tôi phải ngồi ăn, để có được tí thịt tí cá…






    ***

              

    Nhà Thờ Cha Tam ở Chợ Lớn, Tết Mậu Thân 1968.
    Nguồn: OntheNet

              

    Tết năm Mậu Thân cả bố tôi lần chú tôi đều có nhà trong đêm giao thừa. Năm ấy tôi cũng đã lớn (!) Đã biết thuốc lá cà phê, và cũng biết uống bia lai rai … Đêm giao thừa năm ấy cả nhà tôi quây quần, ăn tết lớn … nghe pháo nổ dòn suốt đêm, bà tôi bảo,
    • “Quái, pháo gì mà nghe như tiếng súng ấy nhỉ…”
    Để đến sáng mùng Một khi mọi người sửng sốt với tin Việt Cộng vi phạm hưu chiến, tổng tấn công khắp nơi, bà tôi chẳng kiêng cữ gì cả mà chửi toáng:
    • – Tiên nhân bọn Việt Minh khốn nạn, bà đã bảo, làm sao mà tin được chúng nó…

    Chiến sự lan đến khu Bàn Cờ, lửa cháy mù mịt trong khu Vườn Bà Lớn, bên kia đường Nguyễn Thiện Thuật, bố và chú tôi đều đã gấp rút vào trại, nhà chỉ còn mẹ con tôi và bà. Bà bảo mẹ tôi chuẩn bị sẵn mỗi đứa 1 chiếc tay nải, trong đó gói sẵn mấy bộ quần áo tốt, hễ có chuyện gì là của đứa nào đứa ấy đeo lên vai, quàng qua cổ cho chắc. Riêng tôi bà dặn:
    • – Riêng con hễ thấy chúng nó là mọi cách phải chạy con nhé, kẻo nó bắt mày đi làm bia đỡ đạn đấy con ạ…

    Sau đó khi có tin tức về chiến sự ở mọi nơi, nhất là chuyện tìm thấy những nấm mồ tập thể ở Huế, bà tôi bảo:
    • – Bao giờ thì người trong này họ mới hiểu được Việt Minh, Việt Cộng nó tàn ác dã man thế nào?






    ***

    Năm 1972, khi chiến sự sôi động, đến lượt tôi nhận lệnh động viên nhập ngũ, dĩ nhiên bà tôi cũng buồn. Nhưng bà tôi buồn theo cách của bà, buồn mà không thở than, không rên rỉ. Khi tôi mãn khóa Thủ Đức, tình nguyện về Thủy Quân Lục Chiến, thấy mẹ tôi có vẻ lo lắng bà bảo:
    • – Không việc gì chị phải lo. Sống chết có số cả. Con người ta bao người cũng phải đi lính, cũng phải trận mạc thì sao… Tới số thì ở đâu cũng chết. Có thương thì thắp hương cầu xin Giời Phật, ông bà tổ tiên phù hộ cho nó…

    Thỉnh thoảng về phép, thật sự tôi chỉ ghé về chào, thăm bà một chốc rồi đi ngay, vì tuổi trẻ cón lắm trò vui thú với bạn bè, bia rượu, gái gủng linh tinh chờ đợi… Rồi đến đêm trước ngày lên hậu cứ ra hành quân tôi mới lại ghé lần nữa chào bà. Lần nào bà cũng vừa mắng yêu, vừa chậm nước mắt:
    • – Cha tiên nhân mày, cứ về là đi biệt, bây giờ mới lại thấy mặt…

    Và bà dúi vào tay tôi nắm tiền, bảo để uống cà phê, chứ đừng uống rượu lắm nó háo người…





    ***

    Lần cuối cùng tôi về phép là tháng Mười 1974 khi được đi phép thưởng đặc biệt 5 ngày. Và vẫn không có gì thay đổi, nghĩa là bà nội tôi cũng chỉ gặp mặt thằng cháu đít tôm 2 lần, lúc mới về và khi hết phép. Cả cụ và tôi – như bao nhiêu triệu dân và quân miền Nam – đều không ngờ mấy tháng sau tình hình đột nhiên biến chuyển ngoài trí tưởng tượng.

    Đầu tháng Tư 1975, khi về đến Vũng Tàu, mẹ tôi đi với Liêm và Nguyên -2 thằng bạn cùng Đại đội, cả 2 đều đang dưỡng thương ở Lê Hữu Sanh sau khi bị thương nặng trong trận Phong Điền mấy tháng trước đó, Liêm thì gãy tay, Nguyên thì mất một mắt – ra thăm con. Mẹ tôi kể, mấy ngày liền, từ khi nghe tin bỏ Huế, bỏ Đà Nẵng, bà nội tôi ăn uống thất thường, như người mất hồn, ngóng tin cháu. Đến khi Hạ sĩ Thanh, hậu cứ Đại đội, chạy về báo tin cho nhà biết tôi và đơn vị về đến Vũng Tàu bình an rồi, mới thấy cụ vui được một chút. Tôi chỉ nhắn mẹ về thưa với bà nội là khi nào được tôi sẽ cố xin phép về thăm bà, chứ bây giờ tình hình nhốn nháo thế này không thể đi đâu hết.

    Sau ngày có tin đồn có thể đảo chánh, rồi vụ mấy phi công phản loạn trở cờ lái A 37 ném bom Dinh Độc Lập, TĐ 8 theo Lữ đoàn 258 về vùng Long Thành, nhận trách nhiệm hành quân mở rộng vòng đai an toàn từ huấn khu Long Thành về hướng Đông Bắc… Lúc bấy giờ, mặt trận Long Khánh, Xuân Lộc càng lúc càng căng thẳng. Áp lực mỗi lúc mỗi bắt đầu lan xuống vùng trách nhiệm của Lữ đoàn 258 và của TĐ 8.

    Đại đội 2 của tôi, nói riêng và cánh B Tiểu đoàn 8 nói chung, những ngày này thường xuyên phải tuần tiễu, tảo thanh, lội qua lội lại liên tục.

    Không nhớ rõ chính xác ngày nào, nhưng tôi biết chắc là trước khi mặt trận Long Khánh của Sư đoàn 18 BB vỡ 2 ngày, buổi chiều khi Đại đội tôi kéo sát 1 đường mòn chờ nhận tiếp tế, tôi ngẩn người khi nhận máy từ Tiểu đoàn báo ra điểm tiếp tế gặp thân nhân.

    Tôi hỏi Tánh, âm thoại TĐ có biết ai không, thì Tánh cho hay:
    • – Thằng Đình nhờ tôi báo là nó đưa bà nội lên thăm ông. Ông ráng ra gặp bà cụ rồi cụ theo xe tiếp tế về hậu cứ lại.

    (Đình là Hạ sĩ Tiểu đội trưởng tín cẩn của tôi, từng theo tôi từ ngay tôi mới về đơn vị đến nay, bị thương trúng đạn vỡ bả vai sáng sớm 27/3 trong trận đánh lấy lại chiếc cầu Lăng Cô bị rơi vào tay đặc công VC hôm trước, nhưng không kịp tải thương thì đêm đến Đại đội tôi đã nhận lệnh triệt thoái, bỏ Lăng Cô đi bộ về Nam Ô xuống tàu xuôi Nam. Về đến Vũng Tàu bấy giờ Đình mới được về Lê Hữu Sanh điều trị và đang trong thời gian dưỡng thương.)

    Trời đất, tôi không thể ngờ bà nội lặn lội tìm đủ cách để đến thăm tôi như vậy. Thế là vừa đi vừa chạy, tôi đến được bãi tiếp tế thì thấy trong đám lính tráng súng đạn có bóng 2 phụ nữ áo dài, vấn tóc. Đích thị đó là bà nội cùng đi với cô tôi.

    Tôi la lớn:
    • – Trời ơi bà đi đâu đây?
      – Bà đi thăm mày chứ đi đâu…

    Vừa nói bà vừa bảo cô tôi đưa cho cái túi, mở ra trong đó có chai rượu, cây thuốc Capstan và gói cà phê bột. Xong bà hỏi tôi chậm rãi:
    • – Mày nói thật cho bà biết, tình hình liệu thế nào? Có chạy nữa không con? Bỏ hết cả ngoài kia rồi…

    Đám lính tôi đứng quanh nhao nhao:
    • – Tụi con về đây rồi không chạy đi đâu nữa nội ơi…

    Bà tôi nói rất từ tốn:
    • – Ừ, mấy hôm nay thiên hạ ở Sài Gòn nhốn nháo ra đi nhiều lắm rồi con ơi… người ta theo ông Thiệu, ông Khiêm đi cả rồi… bà tin là con không chạy đi đâu nữa hết. Nhưng bà dặn con điều này, phải nhớ cho kỹ nhé con, đánh không nổi nữa thì thà tự tử mà chết chứ không để cho chúng nó bắt… nhớ nhé, nhớ bà dặn nhé, thà tự tử hơn là để chúng nó bắt, nó làm nhục rồi cũng chết đau chết đớn con nhé…

    Tôi và cả đám lính chẳng biết nói gì, ngay những thằng lính dày dạn, ngổ ngáo của tôi, nghe bà nói thế cũng đứng ngẩn người im lặng. Tôi phải giả lả trấn an bà, cố phá đi không khí nặng nề:
    • – Đừng lo bà ơi, chúng con về đến đây thì chỉ sống mái với chúng nó thôi bà ạ. Bà cứ yên tâm đi về đi kẻo tối.

    Tiếp tế đã xong, tôi thúc Đình đưa bà và cô tôi lên xe về lại hậu cứ và dặn Đình nhớ đi theo bà về đến nhà.





    ***

              

    Miền Nam sụp đổ, tháng 4, 1975.
    Nguồn: Dirck Halstead/Getty Images

              

    Sau đó là đất trời đảo lộn hết mọi sự.

    Trong khi tôi, thằng cháu nội đít tôm của bà cùng đơn vị quần thảo với Cộng quân cho mãi đến đêm 29/4 mới được lệnh mò mẫm cắt hàng rào vòng đai căn cứ Long Bình, tìm cách ra cổng Tam Hiệp để về Sóng Thần vì đường qua ngã 3 Long Thành đã bị cắt … và khi về đến hậu cứ sáng ngày 30 tháng 4 thì vừa lúc nghe lệnh của Tổng thống vài ngày buông súng ở đâu ở đó chờ bàn giao… thì bà nội tôi đêm 27/4 rạng ngày 28/4 đã uống 2 chai dầu nóng quyên sinh, sau khi nhắn nhủ với bố mẹ tôi…
    • “Tôi không thể nào sống được với chúng nó, mà tôi cũng chẳng muốn chạy đi đâu nữa. Năm 54 bỏ làng, bỏ quê chạy 1 lần rồi, tưởng sẽ có ngày trở về, nào ngờ số giời đã định thế này thì thôi tôi không thiết sống nữa… Tôi đã gặp được nó rồi, nhìn được nó còn sống, trông khỏe mạnh như thế là tôi vui… Thôi mọi sự còn lại thì xin phó thác cho Giời đất…”

    Sáng ngày 28/4 bố mẹ tôi bấy giờ cũng cố chạy lo được nhà đòn để cố đưa bà đi chôn ở nghĩa địa Phú Bình nhưng đến gần khu vực giữa Chợ cá Trần Quốc Toản và trường đua Phú Thọ thì đường bị chặn lại phải quay về. Quan tài bà phải đem gửi ở chùa Trấn Quốc nằm trên đường Minh Mạng. Qua sáng ngày 29/4, bố mẹ tôi cùng chú và cô tôi theo quan tài bà trên chiếc xe Lam cuối cùng len lỏi cũng đưa được bà đến nơi an nghỉ ở nghĩa địa Phú Bình.

    Chiều 30/4 về đến nhà, bước qua ngạch cửa, tôi ngỡ ngàng nhìn bố đầu chít khăn tang đang ngồi gục trên bàn Thấy tôi vào, ông chỉ nấc được 1 tiếng,
    • “Bà đi rồi con ơi…”


    Từ đó, kể từ lúc bắt đầu cuộc đời tù đày, cho đến những lần vượt biên bất thành sau đó, cứ mỗi khi gặp nguy khốn, bao giờ tôi cũng lâm râm khấn bà, và chỉ biết kêu bà ơi cứu con… vì tôi vững tin bà rất linh thiêng, lúc nào cũng nghe được tiếng kêu cứu của thằng cháu đít tôm…

    Và cũng như tất cả những đứa cháu vô ơn đáng ghét khác trên cõi đời này thằng cháu này của bà tôi cũng chỉ nhớ bà nó mỗi khi gặp chuyện khó khăn cần kêu cứu, còn thì hầu như nó quên tuốt cả bà (như quên lắm điều mà chính nó đã tự hứa với lòng từ ngày định mệnh 36 năm xưa).

    Tuy nhiên, nói thành thật, thằng cháu bà cũng có thể đáng được châm chế đôi chút để tạm tha thứ cho cái tội ấy, vì hàng năm vào ngày 28/4 nó vẫn còn biết ngậm ngùi nhớ câu dặn dò của bà nội, bà cụ quê mùa răng đen tóc vấn Bắc kỳ, không biết chữ,

    “Bà dặn con điều này, phải nhớ cho kỹ nhé con, đánh không nổi nữa thì thà tự tử mà chết chứ không để cho chúng nó bắt… Nhớ nhé, nhớ bà dặn nhé, thà tự tử hơn là để chúng nó bắt, nó làm nhục rồi cũng chết đau chết đớn con nhé…”


    Và nó vẫn cố, chưa đến nỗi làm phụ lòng bà!




    Tháng Tư 2011 – 36 năm dâu bể





    http://dcvonline.net/2015/10/23/thang-tu-nho-ba/
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Thời Thế, Thiện, Ác và Con Người

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  •           
    Thời Thế,
    Thiện, Ác,
    và... Con Người

    ___________________________
    Vương Mộng Long - K20

              




    Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương.

    Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ vào nhà thương khám lại. Tôi tiếp tục đi hành quân, cho tới một ngày, thấy mủ màu đen bắt đầu nhỉ ra qua một lỗ rò dưới nách, tôi mới đi tái khám.

    Nào ngờ, kết quả lần khám này cho thấy cái mảnh đạn súng cối ấy đã di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn.

    Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.

    Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II. Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7.

    Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh. Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng. Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ.

    Chợt ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương. Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi quen biết. Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng.

    Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư
    • - Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?
      - Có phải người của “moa” đâu? Việt-Cộng đó!
      - Việt-Cộng à?
      - Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari , giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ).
      - Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?
      - “Moa” thấy đùi của anh ta bị quấn “garô” sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.


    Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi.
    • - Hắn thuộc đơn vị nào vậy?
      - Tụi “moa” vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.
      - Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?
      - Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.
      - Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.
      - “Toa” biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi “Xuân ơi! Xuân ơi!” Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm?


    Tôi gật đầu, tán đồng,
    • - Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn.

    Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.

    Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.

    Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.

    Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh. Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp.

    Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã tẩy trùng.

    Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản.

    Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài. Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau. Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên:
    • ” Ối! Ối! Đau! Đau quá!… Ư!… Ư!… ư… ư…”


    Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng, không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành:
    • “Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”


    Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch. Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ.

    Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì.

    Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng bàn tay.

    Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay. Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ “X” xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi. Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng. Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.

    Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.

    Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, “Két! Két! Cột! Cột!” thì điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đã xám xịt như chàm?

    Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.

    Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn may mắn hơn những người này rất nhiều… Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra. Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!

    Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm. “Bục!” thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn. Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể? Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!
    • “Here it is!”

    Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn.

    Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác.

    Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ. Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau.

    Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất. Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.

    Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào. Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà. Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu:
    • “Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby…”


    Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt.

    Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau. Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây. Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người.

    Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi.

    Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ,
    • - Thank you!

    Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói. Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,
    • - Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!
      - Không thèm!
      Nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng.

    Tôi tỉnh như ruồi,
    • - Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.
      - Thuốc của đế quốc, không thèm hút!
      - Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.

    Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho.

    Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay. Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,
    • - Take it! It’s good for you!

    Tôi chêm thêm,
    • - Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!

    Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,
    • - May you tell him to take it?

    Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm,
    • - Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy!

    Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.

    Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe.

    Tôi mồi một điếu Salem , đưa cho tên Việt-Cộng,
    • - Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ.

    Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.
    • - Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị “tó” vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.
      - Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.
      - E mấy?
      - Hăm Tám (28)

    Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,
    • - Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó!
      - Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.
      - Cấp chức gì?
      - Trung úy Đặc-Công.
      - Quê ở đâu?
      - Hải …”Rương”
      - Làng nào?
      - Hỏi gì mà lắm thế?
      - Thôi không hỏi nữa!

    Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.

    Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.

    Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài. Mấy lần y mở miệng gọi tôi:
    • “Này! Này!”

    Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya.

    Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi. Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ,
    • - Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?

    Tôi ngạc nhiên,
    • - Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?

    Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà,

    • - Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn.


    Tôi phì cười,

    • - Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!

    Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm:
    • “Chẳng lẽ chính ủy nói sai?” tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi.
      - Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi dò.
      - Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?

    Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng. Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc.

    Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện. Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng,
    • - Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!

    Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm. Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn. Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh,
    • - Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương…

    Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái,
    • - Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra… các anh có độc ác đâu?

    Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.

    Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh, rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú. Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch.
    • “Don’t throw it away! Keep it for memory!” bà dặn dò.

    Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng.
    • “Take care! Good bye! My son!” phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run.

    Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi:
    • “Her son was a Ranger like you!”

    Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.

    Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào. Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một “Ranger” như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình…






    ***

    Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư,
    • - Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?
      - Đạo lý làm người mà Long! “Moa” cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi.

    Tôi biểu đồng tình,
    • - Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu?

    Tôi hỏi tiếp,
    • - Sau này anh có còn gặp lại y không?
      - Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?

    Tôi nhắc anh Tư,
    • - Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?
      - “Moa” không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.
      - Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam .

    Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp,
    • - Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.

    Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng,
    • - Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy!

    Anh Tư gật gù,
    • - Có khi hai người là bà con cũng nên?

    Tôi cũng gật gù theo,
    • - Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là “cốt nhục tương tàn”.

    Anh Tư phụ họa,
    • - Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản “cội” đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng mình!






    ***

    Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ, thì tôi và anh Tư đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Hòa.

    Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng. Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ.

    Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau. Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là “Dũng Điếu Cày”.

    Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ.

    Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn “lách cách!” vừa gọi nhau ơi ới:
    • “Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!”

    Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác. Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng.

    Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.

    Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh. Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố:
    • “Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân.”

    Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ?

    Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19. Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra.

    Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm,
    • - Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là “Thượng Sĩ Buồn” đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết. Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán.

    Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:
    • - Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!

    “Thượng Sĩ Buồn” là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3. Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là “Thượng Sĩ Buồn”. Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai.

    Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông “Ba Gà Mổ”, tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng “hiền hết xẩy” nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại. Ông “Ba Gà Mổ” có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm,
    • - Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau “ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy!

    Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ “hiền hết xẩy” tôi cũng mừng. Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân, ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.

    Có một vị tù cải tạo nào đó đã “phịa” ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!

    Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta.

    Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh, núp đàng sau một khuôn mặt điển trai. Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?

    Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước. Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng. Lúc đưa “rê” thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói,

    - Từ mai, “moa” bỏ thuốc! “Toa” cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! “Moa” chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả!

    Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố “bỏ thuốc”, chỉ vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại!

    Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm! Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do. Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.

    Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm “garô” cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:
    • “Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”

    Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết. Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.

    Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,
    • - Lẹ lên! Lẹ lên!

    Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc. Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có lính canh.

    Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng. Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.
    • “Ối!…Ối! …Ối!…ôi!…ôi!…ôi!..ư…ư…ư..”

    Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư. Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.

    Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền. Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp. Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên,
    • “Hừ!… Hừ!…hừ! …hừ!…”

    Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:
    • “Hừ!… Hừ!…Hừ!..Hường…ơi!…Hư…ường …ơi!…ực!… ực!…ực!…”

    Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, “Ư! Ử!…Ư! Ử!…ư! ử!…” nhỏ dần.

    Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.

    Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa.

    Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam. Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa. Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi.

    Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.

    Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng. Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17. Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào… đứng một lúc, nghe ngóng … rồi đi vào.

    Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương.
    Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.

    Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Thiếu Tá Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay tại hàng rào, còn anh Thịnh thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi còn là đại đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Thịnh lại là dân cùng ngành Tình-Báo với anh Tư và anh Bé.

    Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt.

    Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, thì trời đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.

    Hiện tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt động của con người dưới trần gian. Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đã động tới lòng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay không? Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt dìu linh hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.

    Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện. Những anh tù đại diện có mặt trong phiên tòa, khi về trại, đã kể lại, việc chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một ngày trước khi có phiên tòa này, thì hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi.



    Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.

    Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay.
              
    Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác.
    Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.

              




    Vương Mộng Long – K20 VBQGVN
    Seattle, tháng 7 năm 2013





    https://hung-viet.org/a17395/thoi-the-t ... -con-nguoi
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

tạp ghi sau 40 năm (kỳ 7)

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • tạp ghi sau 40 năm
              
    (kỳ 7)

    ___________________________
    phi ngọc hùng _ 2015





    Vùng 3 chiến thuật – Quân đoàn III

    Vùng 3 CT từ Bình Tuy đến Tây Ninh.
    (gồm các tỉnh: Long Khánh, Biên Hòa, Bình Dương, v…v…Long An)
    Quân đoàn III có 3 sư đoàn: Sư đoàn 5, Sư đoàn 18 và Sư đoàn 25.




    Xuân Lộc, một chiến thắng ngắn ngủi

    Xuân Lộc là một thành phố chính yếu của tỉnh Long Khánh, có vị trí cách thủ đô Sài Gòn khoảng 60 km về hướng đông bắc. Ở vào thời điểm cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam thì trận đụng độ tại nơi này giữa quân đội Bắc Việt và VNCH được coi như là một trận chiến khốc liệt nhất trước khi miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị thất thủ. Đây là trận chiến duy nhất mang tính cách quy mô toàn diện trong giai đoạn cuối của kế hoạch xâm chiến miền Nam, qua đó quân Bắc Việt đã tận dụng hết toàn bộ lực lượng quân chính quy với những hỏa lực hùng hậu nhất nhằm tấn công triệt để quân đội VNCH hầu tạo thế quyết định chiến trường.

    Nhưng có một điều đau lòng đối với chính quyền Sài Gòn là qua trận chiến ác liệt này mặc dù Sư đoàn 18 của VNCH dưới sự chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo đã chiến đấu thật mãnh liệt và đẩy lui những đợt sóng tấn công ào ạt của địch bảo vệ Xuân Lộc trong một chiến thắng oanh liệt cũng như chiến thắng này đã đưa tên tuổi của tướng Lê Minh Đảo trở thành một vị anh hùng trong quân sử VNCH. Nhưng chỉ một thời gian ngắn ngủi sau đó chính quyền Sài Gòn sụp đổ tan tành. Thành phố Xuân Lộc có khoảng 100 ngàn dân cư, được những đồn điền cao su dày đặc bao bọc xung quanh. Trong thành phố, người ta thấy có rất nhiều tiệm buôn nho nhỏ xen kẽ với nhà cửa dân chúng và sự nổi bật của những ngôi nhà thờ nghiêm trang, cung kính như làm tăng thêm phần thanh nhã, êm đềm vốn là đặc tính của phong cảnh nơi này. Tôi cũng đã có nhiều dịp dùng xe đi ngang thành phố Xuân Lộc mỗi khi phải thực hiện phóng sự tại các tỉnh cao nguyên Trung phần và các thị trấn ven biển của miền Trung.

    Mức độ tấn công của quân Bắc Việt vào Xuân Lộc đã thực sự trở nên ác liệt từ ngày 9-4-1975, tức thời điểm trước khi Sài Gòn thất thủ đúng 3 tuần lễ. Đầu tiên, để uy hiếp và trấn áp tinh thần của Sư đoàn 18 VNCH, quân Bắc Việt đã dùng loại pháo 130 ly liên tục pháo kích vào những cứ điểm đóng quân của sư đoàn này và hầu hết những địa điểm trong ngoài thành phố Xuân Lộc. Loại pháo 130 ly này có xạ trình đến 27 km do Liên Xô và Trung Quốc phối hợp chế tạo và là một trong những vũ khí có sức công phá dữ dội nhất của quân Bắc Việt.

              

    Pháo 130 ly tầm tác xạ từ 15 đến 27 km

              

    Sau khi Sài Gòn bị rơi vào tay quân đội Bắc Việt, tôi đã được chúng kiến tận mắt loại pháo 130 ly này với một số lượng không sao đếm hết. Đồng thời, với kích thước to lớn của nó, cũng đã cho thấy phần nào hỏa lực hùng mạnh của quân Bắc Việt. Qua việc tận dụng cả lực lượng chính quy của Quân đoàn 4 trong mục tiêu đánh chiếm Xuân Lộc đã cho thấy phía Bắc Việt rất coi trọng địa điểm này trong vị trí chiến lược xung yếu. Nếu chiếm được Xuân Lộc thì những lộ quân của Bắc Việt xuất phát từ đây dễ dàng phối hợp cùng những tuyến quân xâm nhập từ phía đông nam để chọc thủng hàng rào phòng thủ cuối cùng quanh thủ đô Sài Gòn. Từ đó, Xuân Lộc đã trở thành mục tiêu hàng đầu trong chiếc lược tấn công của Bắc Việt. Mặt khác, nếu nhìn từ Sài Gòn ta sẽ thấy Xuân Lộc quả thật là một thành trì quan trọng nằm ở hướng đông, có khả năng che chở cho cả thủ đô vì nó là giao điểm của quốc lộ số 1 dọc theo các bờ biển Trung phần và quốc lộ số 2 từ các tỉnh cao nguyên miền Trung. Nếu cho quân thẳng tiến vào Nam thì phải đi theo 2 tuyến đường quốc lộ nói trên nên Bắc Việt phải giải tỏa nút chặn chiến lược trọng yếu Xuân Lộc.

    Sau khi chịu đựng những đợt pháo kích liên tục như bão táp mưa sa của quân Bắc Việt, lực lượng phòng thủ Sư đoàn 18 VNCH với tương quan quân lực kém hẳn địch thủ là 1 đối 3 bắt đầu tổ chức những đợt phản công đánh trả lại một cách hữu hiệu. Và thật đáng kinh ngạc, những chiến sĩ Sư đoàn 18 đẩy lui không biết bao nhiêu đợt tấn công xâm nhập vào Xuân Lộc của địch với gần 1.000 xác quân Bắc Việt và mấy chục chiến xa phải bỏ lại tại thành phố đầy lửa đạn này. Trong tình thế liên tiếp mấy ngày liền bị vây hãm như vậy, chính quyền Sài Gòn đã tăng phái quân tinh nhuệ thuộc sư đoàn nhảy dù lúc đó đang đóng tại phía bắc Sài Gòn, dùng trực thăng đến Xuân Lộc để tiếp ứng. Dưới sự chỉ huy tài tình của tướng Lê Minh Đảo, những chiến sĩ VNCH đã cố thủ cũng như phản công mạnh mẽ.

    Kết quả, sau ba ngày tấn công tới tấp vào Xuân Lộc, quân Bắc Việt đã bị nhiều tổn thất nặng nề nên đành phải ngưng chiến. Liên quan đến sự kiện này, tướng Văn Tiến Dũng của Bắc Việt, tổng tham mưu cuộc tấn công Xuân Lộc, đã viết: Tại Xuân Lộc, lần đầu tiên quân đội ta chạm phải một đội quân quyết tử của địch. Tuy quân ta đã nhiều lần xâm nhập được vào trong thành phố và tạo được thế uy hiếp mạnh mẽ nhưng đều bị đánh lui trở lại. Điều này chứng tỏ Quân đoàn 4 của ta đã không lượng định được chính xác sức đề kháng kiên cường của địch.

    Lúc này, 3 sư đoàn thuộc Quân đoàn 2 Bắc Việt đã từ những vùng ven biển miền Trung kéo quân tiến về Xuân Lộc để tăng cường thế công và tổng cộng có 5 sư đoàn của phía Bắc Việt với quân số đầy đủ vây hãm duy nhất 1 Sư đoàn 18 của VNCH.

    Sau mươi ngày cầm cự, chịu đựng không nổi trước chiến thuật áp đảo của địch, Sư đoàn 18 bắt đầu triệt thoái khỏi thành phố Xuân Lộc vào ngày 20-4-1975. Sau đó, sư đoàn này được tái tập trung và đóng quân phòng thủ ngay sát nách Sài Gòn về phía đông, nhưng đã quá muộn màng vì quân Bắc Việt gỡ được nút chận Xuân Lộc và các tuyến quân Nam tiến của họ đã tựa như thế chẻ tre tiến công ào ạt về Sài Gòn khiến cho quân đội miền Nam bị tan rã thành từng mảnh, từng mảnh. Tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Sư đoàn 18 cùng các binh sĩ của ông chiến đấu đến giờ phút cuối cùng.

    Sau ngày miền Nam sụp đổ, tướng Lê Minh Đảo đã bị cộng sản giam giữ tại các trại tù khổ sai, cưỡng bức lao động. Người hùng Xuân Lộc năm nào nay đã trở thành người hùng cô đơn với nhiều tâm sự mà ít người thấu hiểu.

    (The Fall Of Sai Gon - Komori Yoshihisa)






    Ngày thứ 29 : 7-4-1975

    Bình Dương – Long Khánh

    Ngày 7-4, Bắc quân tiến về gần Bình Dương và Long Khánh.

    Bình Dương có Sư đoàn 5 BB với Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ.
    Long Khánh có Sư đoàn 18 BB với Chuẩn tướng Lê Minh Đảo.
    (SQTB K10B/72)




    Quân sử ngoại truyện

    Ngày 7-4-1975, Ủy viên Bộ chính trị Lê Đức Thọ, thành viên ký Hiệp định Paris đại diện Bắc Việt, bay vào Lộc Ninh để chỉ đạo cuộc xâm chiếm miền Nam.

    Tình hình căng thẳng tại Xuân Lộc khiến Thượng tướng Trần Văn Trà và lãnh đạo lo âu:
    • Trận đánh quá ác liệt, e rằng các đơn vị ta bị thương vong nặng trong thời điểm này không lợi. Vì vậy các anh gợi ý có thể cho anh em rút ra khỏi thị xã… tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi, nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh.

    Tướng Trần Văn Trà nhận định lực lượng VNCH:
    • Chiếm ưu thế so với ta. Ta không còn giữ được yếu tố bất ngờ, vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là không lợi.


    (Chiến tranh Việt Nam toàn tập - Nguyễn Đức Phương)




    12 ngày trận chiến Long Khánh (Xuân Lộc)

    Xuân Lộc là quận châu thành của tỉnh Long Khánh, được thành lập năm 1957, là nơi định cư của đồng bào miền Bắc di cư vào Nam ở thời điểm 1954, gồm cả người Việt lẫn đồng bào sắc tộc như Nùng, Thái, Mường…

    Quận Xuân Lộc nằm dọc trên Quốc lộ 1, từ Gia Rai đến ngã ba Dầu Giây (giáp ranh tỉnh Biên Hoà), do đó Xuân Lộc được coi như vòng đai ngoài bảo vệ phi trường Biên Hòa và Sài Gòn.

    Ngoài ra, Xuân Lộc cũng nằm trên đường giao liên của địch, giữa chiến khu C và D, với mật khu Mây Tào, Xuyên Mộc, Đất Đỏ của tỉnh Phước Tuy, con đường mạch máu mà Bắc Việt dùng để nhận tiếp tế bổ sung quân và tiếp liệu bằng đường biển.

    (ĐBT - Hồ Đinh)






    Ngày thứ 30 : 8-4-1975

    Trận chiến trên Quốc lộ 20

    Bắc quân áp lực nặng phòng tuyến Long Khánh.

    Ngày 8-4, Bắc quân tung lực lượng tiến chiếm một đoạn đường dài trên Quốc lộ 20 và đóng chốt ở ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20.

    Ngày 8-4, để ngăn chận các đợt tấn công của Bắc quân, không quân VNCH đã thực hiện nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của Bắc quân, nhưng đã gặp khó khăn do màn lưới phòng không dày đặc của các trung đoàn pháo binh phòng không của Bắc quân.




    Góp nhặt…ghi chép…

    Theo Sài Gòn thất thủ của Komori Yoshihisa, mặt trận Long Khánh trong những ngày đầu là Quân đoàn 4 do tướng Hoàng Cầm làm tư lệnh, chính uỷ là tướng Hoàng Đình Hiệp. Các đại đơn vị thuộc quân đoàn này gồm có: Sư đoàn 6, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 và các trung đoàn xe tăng, pháo, phòng không…

    Thêm 2 sư đoàn thuộc Quân đoàn 2 Bắc Việt (thuộc Vùng 1 chiến thuật VNCH) đã từ vùng ven biển miền Trung kéo quân tiến đến Xuân Lộc để tăng cường.




    Quân đoàn 4 tại Vùng 3 chiến thuật

    Quân đoàn 4 tức Binh đoàn Cửu Long, quân số 35.000 người.

    Ngoài các Sư đoàn 6 (2.300 người), 7 (4.100 người), 341 (4.500 người), Trung đoàn 26 tăng thiết giáp, Trung đoàn pháo binh 24, Trung đoàn đặc công 429, Trung đoàn phòng không 71, Trung đoàn công binh 25. trung đoàn truyền tin, v…v…
    - : Quân đoàn 4 vừa được thành lập ngày 20-7-1974.
    - : Sư đoàn 341 trừ bị vừa di chuyển từ Thanh Hoá vào để tăng cường.
    - : Tư lệnh Quân khu 7 (hay CT7) là tướng Trần Văn Trà.




    12 ngày trận chiến Long Khánh (Xuân Lộc)

    Chiến tuyến Xuân Lộc được thiết lập dọc theo Quốc lộ 1 dài hơn 10 km. Chiến đoàn 52 và thiết đoàn xe tăng giữ mặt tây tại ngã ba Dầu Giây trên đường đi Đà Lạt, Trung đoàn 48 BB và Liên đoàn 7 Biệt động quân phòng thủ mặt đông từ núi Chứa Chan, Giá Rai đến Xuân Lộc.

    Thị xã Xuân Lộc do Trung đoàn 43 BB và các tiểu đoàn địa phương quân Long Khánh bảo vệ. Tướng Lê Minh Đảo và bộ tư lệnh sư đoàn đóng tại Tân Phong phía nam Xuân Lộc 3 cây số.

              

    Xuân Lộc và các đơn vị VNCH nằm trong vòng đai màu xanh.

              

    Năm giờ sáng 9-4 Bắc quân pháo kích thị xã Xuân Lộc trong 2 tiếng đồng hồ. Pháo vừa ngưng tức thì bộ binh, xe tăng ào ạt tiến vào, quân trú phòng chống trả ác liệt, hơn 10 xe tăng bị bắn hạ sau 6 tiếng đồng hồ giao tranh. Hai tiểu đoàn đặc công bị thiệt hại nặng, hơn 100 tên bỏ xác tại trận, Bắc quân rút lui giữa ban ngày bị máy bay, pháo binh ta truy kích dữ dội.






    Ngày thứ 31 : 9-4-1975

    Trận chiến Long khánh (Xuân Lộc)

    Ngày 9-4, Bắc quân pháo kích như mưa vào Biên Hòa, và căn cứ tiếp vận Long Bình.

    Theo tài liệu ghi trong hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên, ngày 9-4, Bắc quân điều động 3 sư đoàn chính quy trải rộng bao quanh khu vực ngã ba Dầu Giây.

    (SQTB K10B/72)




    Xuân Lộc tháng Tư

    Đầu tháng 4-1975, Quân đoàn II không còn nữa. Vì liên đoàn trưởng và liên đoàn phó vắng mặt, nên tôi được chỉ định nhận nhiệm vụ hướng dẫn Liên đoàn 24 Biệt động quân từ Quảng Đức về sân bay Long Khánh đặt thuộc quyền xử dụng của bộ tư lệnh Sư đoàn 18 BB. Ngày đầu đặt chân xuống phi trường Xuân Lộc (6-4-1975) tôi không hề có ý nghĩ rằng tại nơi này chỉ mấy hôm sau, đơn vị tôi lại có dịp tham dự vào một trận đánh long trời lở đất.

    Rạng đông 9-4 trận Long Khánh bắt đầu. Súng nổ như bắp rang khắp nơi trong thành phố, ngoài vòng đai. Đủ loại đại bác thét gầm, đạn xé gió ào ào tới tấp tưới trên mục tiêu của cả hai phía. Máy truyền tin ơi ới gọi nhau. Những thân hình ngã xuống, những tiếng hô xung phong nghe rợn tóc gáy. Những cánh F5 thét gào, lên, xuống, thả hết đợt bom này tới đợt bom khác lên đầu địch. Những chiếc Khủng Long AC119 bao vùng cả ngày lẫn đêm với những họng đại bác 20 ly gầm rú từng hồi. Đáp lại, địch cũng trả đòn bằng những chùm 100 ly và 57 ly phòng không nở hoa trên mây. Những chiếc T54 hung hãn khạc đạn không ngừng, những cái lô cốt ngả nghiêng vì trúng đạn đại bác 100 ly của xe tank địch.

    Trong những ngày đầu tháng Tư ở Long Khánh, một góc địa cầu đã rung rinh vì bom đạn!

    Địch đông gấp ba, bốn lần quân bạn, được T54 trang bị đại bác 100 ly dẫn đường. Pháo yểm của Bắc quân gồm đủ loại hạng nặng: đại bác 130 ly, 122 ly nòng dài, 105 ly, 75 ly sơn pháo, cối 120 ly, cối 82 ly, và phòng không 100 ly, 57 ly.

    Thậm chí trong ba ngày đầu địch dùng cả phòng không 57 ly để bắn trực xạ vào Trại 181 Pháo binh của Sư đoàn 18, nơi tôi đặt bộ chỉ huy Tiểu đoàn 82 Biệt động quân.

    (Vương Mộng Long)

    Vương Mộng Long, K20 VB, thiếu tá BĐQ.




    Quân sử ngoại truyện

    Ủy viên bộ chính trị Lê Đức Thọ cũng phải công nhận thất bại tại trận Xuân Lộc, Long Khánh:
    • Sau hai lần B2 xin quân thì tôi vào chiến trường gặp lúc hội nghị miền vừa kết thúc. Tôi được nghe anh em báo cáo lại là đã bàn về việc đánh Xuân Lộc. Lúc ấy tôi cũng được biết trước đó, theo chủ trương của Miền, anh em đã đánh Thủ Thừa, đường số 4, nhưng bị thiệt hại nặng nề, không giải quyết được chiến trường. Do đó tôi mới có ý toan bàn với các đồng chí ngưng đánh Xuân Lộc lại. Nhưng nghe anh Dũng nói, tôi cũng nghĩ có thể mình mới vào chưa rõ hết tình hình: Cứ để các đồng chí đánh vậy.
      Kết cục là anh em ta không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng phải rút ra.


    (Chiến tranh Việt Nam toàn tập - Nguyễn Đức Phương)






    Ngày thứ 32 : 10-4-1975

    12 ngày trận chiến Xuân Lộc – Long Khánh

    Sáng 10-4, Sư đoàn 7 và 341 Bắc quân tấn công tuyến phòng thủ Long Khánh. Hai trung đoàn Bắc quân giao tranh ác liệt với chiến đoàn 52, một số tiền đồn các cao điểm trên Quốc lộ 20 bị mất, tuyến phòng thủ của chiến đoàn nay thu ngắn lại còn chừng 10 km.

    Trưa 10-4, Bắc quân di chuyển từ Định Quán xuống bị máy bay L19 phát hiện, không quân liền được gọi tới oanh kích gây nhiều thiệt hại nặng cho địch, hàng chục xe tăng, hằng trăm Bắc quân bị tiêu diệt. Hai trung đoàn Bắc quân từ hướng bắc Long Khánh ồ ạt tấn công vị trí phòng thủ của BĐQ và Trung đoàn 48 BB nhưng bị thảm bại, hàng trăm tên bỏ xác tại trận.

    (Trọng Đạt)




    Góp nhặt…ghi chép…

    Darcourt (1), sử gia người Pháp nhận xét: Trong hai ngày pháo binh Bắc Việt tác xạ hơn 8.000 trái đạn vào các vị trí của Sư đoàn 18. Liên lạc vô tuyến với bộ chỉ huy của tướng Đảo bị gián đoạn rồi lại được tái lập. Quân của ông bám sát trận địa, chiến đấu cực kỳ dũng mãnh và nhất định không lùi, mặc cho những trận mưa lửa cứ trút lên đầu họ.

    (1) “Ngọn đồi cuối cùng" - Pierre Darcourt.




    Xuân Lộc tháng Tư

    Qua hàng chục đợt xung phong, đoàn chiến xa của Bắc quân cũng không làm cách nào vượt nổi cái doanh trại bé tí teo đó để xông thẳng vào tòa hành chánh tỉnh, nơi ông Đại tá BĐQ Phạm Văn Phúc (K10 VB) tỉnh trưởng, đang trợn tròn con mắt theo dõi tên đàn em chơi trò ú tim với xe tank địch. Khi bánh xích của chiếc chiến xa đầu tiên vướng vào cuộn kẽm gai của trại Pháo binh 181 thì cũng là lúc đoàn quân xâm lăng khựng lại vì tiếng thét: "Biệt Động! Sát! ” … “Biệt Động! Sát!”. Lũ cán binh hung hăng không ngờ biệt động quân đang có mặt nơi đây!

    Một quả M72 làm cho chiếc PT76 (*) xấu số cháy bùng, những cán binh Bắc Việt tùng thiết vội vàng chạy trối chết về hướng rừng lau. Ngày nào cũng như này nấy, sau những màn pháo kích như mưa, T54 có bộ binh tùng thiết, lại từng đợt, từng đợt ào ào xung phong vào vị trí tử thủ của chúng tôi. Nhưng những tổ chống tank ba người của TĐ82/BĐQ ẩn hiện như ma trơi, sau ô mối, sau gốc xoài, trong bụi chuối, cứ từ từ rang hết con cua T54 này đến con cua T54 khác.

    Yên chí vì có chỗ dựa lưng là lực lượng bạn ở phía sau, tiểu đoàn tôi đánh vùi với chiến xa địch cả tuần lễ không biết mệt. Toán diệt tank này bị loại, toán khác lên thay. Săn đánh xe tank là cả một nghệ thuật, nó còn là một cái thú nữa, cái thú vui chết người! Hơ hỏng một chút thôi là mất mạng như chơi. Mỗi chiến cụ, mỗi vũ khí đều có chỗ yếu của nó. Cái bộ phận phun khói của xe tank là cái "Gót chân Achilles" của xe tank Bắc quân. Tất cả những chiếc tank địch bị TĐ82 BĐQ tiêu diệt trong trận Xuân-Lộc đều bị bắn từ phía sau đuôi, nơi phun khói.

    Đánh tank cũng có qui luật. Việc đầu tiên là "tỉa" tên xạ thủ 12.8 ly, nó là tai mắt của chiếc tank, nó có một chân trái hoặc phải bị khóa vào dây xích trên ghế phòng không. Việc thứ nhì là "bung" một trái lựu đạn khói hoặc lân tinh làm màn chắn che mắt cái tank bạn của nó ở cách nó không xa, cây phòng không trên chiếc tank thứ nhì là tử thần gọi chết. Việc thứ ba thật là giản dị, cứ đứng xổng lưng bóp cò cây M72 nhắm ngay phần phun khói sau đít cái tank mục tiêu, đây là phần mỏng nhất, dễ bắn thủng nhất của chiến xa. Một tiếng "bùm!" rồi tiếp sau đó là xăng và đạn trong xe cháy nổ "lóc! tóc! ùm! ùm!" ngọn lửa dâng cao, khói dâng cao. Xong!
    (…)




    Góp nhặt sỏi đá

    Lực lượng tăng thiết giáp của Bắc Việt: 320 xe tăng, và xe bọc thép gồm các loại xe tăng T34, T54/55, pháo tự hành SU100 của Liên Xô, xe tăng lội nước PT76, xe thiết giáp BTR40/50/60/152 của Liên Xô, xe tăng chủ lực kiểu 59, xe thiết giáp K63 của Trung Quốc.

    T54 tương đương với M48, nhưng PT76 có hoả lực mạnh hơn M113.
              

    Xe tăng lội nước PT76 do Ba Lan viện trợ

              
    (…)




    Quân sử ngoại truyện

    Văn Tiến Dũng, người chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh đã phải công nhận tinh thần chiến đấu dũng mãnh của quân lực VNCH tại mặt trận Long Khánh như sau…
    • “Các Sư đoàn 7, Sư đoàn 6 và Sư đoàn 341 của ta đã phải tổ chức tiến công nhiều lần vào thị xã, đánh đi đánh lại diệt từng mục tiêu và phải nhiều lần đẩy lùi các cuộc tập kích của địch. Trung đoàn 43 địch bị tổn thất nặng. Pháo binh chiến dịch và pháo binh đi cùng các sư đoàn của ta đã phải dùng thêm cơ số đạn. Xe tăng, xe bọc thép của ta một số bị hỏng, một số phải trở về vị trí xuất phát tiến công để bổ sung xăng dầu, đạn dược. Kế hoạch tiến công Xuân Lộc của Quân đoàn 4 lúc đầu chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch. Tính chất giằng co ác liệt qua trận đánh này không phải trong phạm vi của Xuân Lộc-Long Khánh nữa rồi…"

    (Đại thắng mùa xuân - Văn Tiến Dũng)




    Chuyện của một thời chinh chiến trong quán nhậu

    Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt
    Còn hơn là le lói cả trăm năm




    Người lính giữa tháng tư

    Đạn pháo, hỏa tiễn của binh đoàn quân Bắc Việt (thuần là đơn vị quân đội Hà Nội) đang dội xuống như mưa lũ ở Long Khánh. Cửa ngỏ phía đông-bắc dẫn vào Sài Gòn, nơi bản doanh Sư đoàn 18 do Thiếu tướng Lê Minh Đảo giữ quyền tư lệnh. Vị tướng lãnh thăng cấp cuối cùng (1) của quân lực để chứng thật cùng thế giới và lịch sử: Những người lính đã chiến đấu thực sự. Tuy nhiên tất cả sự sụp vỡ ngày 30-4-1975 hoàn toàn vượt tầm đạn bắn ra từ nòng súng chiến đấu của họ.

    Mặt đối mặt qua bãi lửa:

    Sau thành công đánh chiếm Vùng 2 và Vùng 1 chiến thuật do sự rút bỏ hỗn loạn của quân đội miền Nam, phía Bắc Việt rút kinh nghiệm từ Mậu Thân (1968) và Tổng công kích Xuân-Hè 1972 quyết tâm tiêu diệt miền Nam qua chiến thuật tấn công từ một điểm xong mở rộng ra, tránh giao tranh nếu gặp kháng cự mạnh để tất cả đồng nhất tiến về Sài Gòn. Mục tiêu cuối cùng phải đánh chiếm của cuộc chiến tranh "giải phóng" ngụy danh.

    Trung ương đảng ra lệnh cho Trung ương cục miền Nam cùng tất cả lực lượng vũ trang phải hoàn thành công cuộc giải phóng miền Nam: Xung phong tiến công Sài Gòn, mà hiện tại kẻ thù đang tan rã, không còn sức mạnh chiến đấu. Chúng có năm sư đoàn, chúng ta có mười-lăm sư đoàn, chưa kể đến lực lượng hậu bị chiến lược. Chúng ta phải chiến thắng bất cứ giá nào: Đấy là quan điểm của trung ương đảng. Khi tôi (Lê Đức Thọ) rời miền Bắc, các đồng chí ở bộ chính trị đã nói rằng: Đồng chí phải đoạt thắng lợi, đồng chí chỉ trở về với chiến thắng.

    Chiến dịch Hồ Chí Minh được đặt tên qua công điện 37/TK do chính Lê Đức Thọ, chính ủy chiến dịch phổ biến đến với tất cả lực lượng vũ trang đang có mặt tại miền Nam: Mười lăm sư đoàn quân chính quy Bắc Việt. Những danh xưng nầy cần phải viết đủ để trả lời cho quan điểm chiến lược từ Tòa bạch ốc, Ngũ giác đài, được phổ biến khắp hệ thống truyền thanh, truyền hình thế giới trong bao năm qua:
    • Chiến tranh Việt Nam là do lực lượng Việt cộng (những người "quốc gia yêu nước Miền Nam" hay MTGPMN nổi dậy lật đổ chính quyền VNCH),
      nếu lực lượng của Hà Nội có kể đến chăng thì cũng chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ đóng vai trò "yểm trợ" vì 98% của vấn đề (chiến tranh) là ở miền Nam chứ không là miền Bắc.

    Chúng ta trở lại chiến trường với Tướng quân Lê Minh Đảo và những người lính đang giữa trùng vây của lửa. Ở mặt trận Long Khánh. Ngay từ ngày đầu của năm 1975, Sư đoàn 18 đã phải đối phó với tình trạng căng quân ra giữ vững vùng lãnh thổ trách nhiệm, cùng tập trung lực lượng để chiếm lại phần đất đã bị lấn chiếm. Tiếng gọi là một sư đoàn, nhưng tướng Đảo chưa hề tập trung đủ lực lượng cơ hữu để điều động trong một cuộc hành quân quy mô cấp sư đoàn. Đầu tháng 3-75, Trung đoàn 48 lại tăng phái cho Sư đoàn 25 trách nhiệm mặt trận Tây Ninh, cùng chung Vùng 3 chiến thuật với Sư đoàn 18. Thế nên khi trận chiến bắt đầu 9-4-1975, ông chỉ có một lực lượng sư đoàn (trừ). Trước khi trận chiến bùng nổ lớn, thiếu tướng Đảo yêu cầu tư lệnh quân đoàn, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn hoàn trả lại Trung đoàn 48, khi nhận được trung đoàn này về, tướng Đảo xử dụng đơn vị để trấn giữ mặt đông thị xã, đoạn đường từ Xuân Lộc đến thị trấn Giá Rai. Với quân số như trên, Sư đoàn 18 quả thật đã gánh một nhiệm vụ quá khổ dẫu trong thời bình yên chứ chưa nói về tình thế khẩn cấp của tháng 4-1975. Trước 1972, vùng nầy được tăng cường một lữ đoàn thuộc lực lượng Hoàng gia Úc-Tân Tây Lan, Lữ đoàn 11 chiến xa do đại tá Patton chỉ huy, chưa kể đến Sư đoàn Mãng xà vương Thái Lan tăng phái, trách nhiệm vùng Long Thành, dọc Quốc lộ 15, đường đi Vũng Tàu. Sư đoàn 18 lại là một đơn vị tân lập (chỉ trước Sư đoàn 3 BB của Vùng 1).

    Trận thử sức cuối cùng, tháng 4-1975 tại Xuân Lộc, Long Khánh là một dấu tích sẽ còn lại muôn thuở với lịch sử. Chúng ta không nói điều quá đáng. Hãy nhìn sang phía đối phương để thử tìm so sánh, từ đấy lập nên phần thẩm định chính xác.

    Với ý định vất bỏ Hiệp định Paris, quyết thanh toán miền Nam bằng vũ lực với trận mở màn thử xem phản ứng của chính quyền, quân đội Mỹ: Tấn công Phước Long. Sau lấn chiếm đóng Phước Long mà chính phủ Mỹ hoàn toàn im lặng, Tướng Hoàng Cầm trách nhiệm tấn công Sài Gòn từ mặt đông bắc qua ngõ Long Khánh. Tướng Cầm có dưới tay ba sư đoàn, chưa kể lực lượng địa phương (du kích), tương quan lực lượng coi như 4 đánh 1. Nhưng cũng không hẳn thế, tướng Hoàng Cầm còn được cả một bộ chính trị đảng cộng sản Hà Nội trực tiếp chỉ đạo, yểm trợ và tăng cường với Văn Tiến Dũng, tổng tham trưởng quân đội miền Bắc, Phạm Hùng, bí thư trung ương cục miền Nam, Lê Đức Thọ ủy viên bộ chính trị, bí thư chiến dịch. Tất cả đang có mặt tại Lộc Ninh, nơi chỉ cách chiến trường Xuân Lộc hơn 100 cây số đường chim bay. Thọ vừa đến từ Hà Nội không phải theo “đường mòn Hồ Chí Minh" với ba lô trên lưng như cách "mô tả" thành thạo trong những cuốn sách "nghiên cứu" về chiến tranh Việt Nam, nhưng ông ta đến từ sân bay Nam Vang, đi xe hơi đến biên giới Việt-Miên, xong dùng Honda chở tới Lộc Ninh. Trước những nhân vật kể trên, Trần Văn Trà, tư lệnh khu 7 báo cáo về tình hình quân sự. Phạm Hùng hỏi về tiếp liệu đạn dược, viên cán bộ phụ trách hậu cần trả lời: Báo cáo đồng chí, ta có đủ đạn để bắn (bọn Ngụy) sợ đến ba đời.

    Đấy không phải là lời nói đùa, sau này khi thắng lợi nghiêng về phía VNCH, bộ tư lệnh mặt trận đã cho thay thế tướng Hoàng Cầm bằng Trần Văn Trà, vốn là người chỉ huy chiến trường miền Đông từ chiến tranh 1945-1954; và tăng cường thêm Sư đoàn 325, đơn vị tổng trừ bị quân đội miền Bắc, và Trung đoàn 95B biệt lập từ vùng châu thổ sông Cửu Long kéo lên tăng cường, nâng tỷ số tác chiến (ban đầu) lên thành 5 đánh 1.

    Trận đánh:

    Thiếu tướng tư lệnh Lê Minh Đảo chuẩn bị chiến trường đến mức coi như là toàn hảo. Lấy kinh nghiệm đau thương của những đơn vị bạn thuộc hai Quân khu I và II, ông nhận ra rằng, sở dĩ các đơn vị nầy mất sức chiến đấu mau chóng vì không có người lính nào còn được khả năng chiến đấu khi trong tay họ thay vì nắm chắc vũ khí bấy giờ chỉ để bế đứa con nhỏ, lưng cõng cha, mẹ già. Bằng tất cả mọi phương tiện có được, tướng Đảo cho di tản toàn bộ gia đình binh sĩ về hậu cứ Long Bình, một hậu phương an lành, tương đối đầy đủ cho tất cả. Cất bỏ được nặng gánh gia đình, người lính chỉ còn một hướng trước mặt, hướng địch quân tiến tới.

    Pháo binh là một yếu tố chiếm giữ phần lớn quyết định sự thắng, bại chiến trường. Một khuyết điểm mà quân lực VNCH thường vấp phải là luôn tập trung pháo binh lại một địa điểm để dễ chỉ huy, điều động. Nay tướng Đảo thay đổi chiến thuật, ông phân tán pháo binh lên những cao điểm như Núi Thị (bên cạnh đường 20 lên Định Quán, đi Đà Lạt), (cạnh Quốc lộ 1, đường về Biên Hòa), những cao điểm phía đông và đông nam Xuân Lộc, nơi ngã ba Tân Phong (cũng là một vị trí di động của bộ chỉ huy, phần sau của chiến trận, giai đoạn rút lui về Bà Rịa, Phước Tuy), dọc Tỉnh lộ 2 những vị trí pháo nầy sẽ yểm trợ vô cùng hữu hiệu cho đoàn quân di tản. Tuy phân tán nhưng khi tác xạ, những vị trí pháo cùng bắn một lượt nên tập trung được hỏa lực vào một mục tiêu mà địch không phát hiện được vị trí pháo bắn đi (để phản pháo).

    5 giờ 40 sáng ngày 9-4-1975 - "Giờ H của Ngày N", chiến dịch đánh chiếm Xuân Lộc bắt đầu với một trận mưa pháo 2.000 quả đạn từ nhiều vị trí cùng đổ xuống trung tâm thị xã Xuân Lộc lập lại cảnh tàn sát của một ngày năm 1972, cũng buổi tháng 4 tại An Lộc. Chính xác một giờ sau, 6 giờ 40, tám xe tăng đơn vị tiền phong Sư đoàn 7 tùng thiết xông vào trung tâm thị xã Xuân Lộc, nơi đặt bộ chỉ huy Sư đoàn 18. Bắc quân ngỡ rằng sau đợt pháo hung hãn, và đội hình ào ạt, bề thế của những chiếc T54, thế nào cũng sẽ tràn ngập mục tiêu dễ dàng như đã xẩy ra ở những mặt trận "không cần giao tranh" nơi Vùng 1 và 2 của tháng 3 vừa qua. Nhưng hoàn toàn không phải là như thế, những xe tăng nầy mắc kẹt giữa bãi mìn của một hệ thống tám lớp kẽm gai và mìn bẫy mà thiếu tướng Đảo đã sẵn bố trí, không những chỉ thế, những phi cơ A37 và F5 từ phi trường Biên Hòa được gọi đến chỉ sau ít phút cất cánh, và trên đồng trống, giữa những khu rừng cao su đều đặn, đội hình của toán quân tùng thiết, chiến xa trở nên thành mục tiêu lộ liễu, trần trụi. Nhưng lính bộ binh của Trung đoàn 165 không nhận ra chỉ dấu thất bại, họ tiếp tục tiến lên đợt xung phong thứ hai với những chiến xa còn lại.

    Trung đoàn 48 đã đợi sẵn với “hỏa tiễn 2.75 ly” đặt trên giá hai chân (lưu ý hỏa tiễn 2.75 vốn là vũ khí cơ hữu của trực thăng vũ trang, sau khi quân đội Mỹ rút đi, khối lượng hỏa tiễn nầy trở nên thặng dư, thiếu tướng Đảo biến chế thành vũ khí bộ binh dùng để chống chiến xa bằng cách đặt trên giá tre hai chân, kích hỏa bằng pin) bắn hạ ngay những chiến xa nầy trên tuyến phòng thủ cuối cùng. Mặt đông của thị xã, dọc Quốc lộ 1, Trung đoàn 209 (cũng của SĐ7) số phận cũng không mấy khả quan hơn bởi họ gặp một đơn vị đang cơn uất hận, Tiểu đoàn 82 Biệt động quân của Thiếu tá Vương Mộng Long. Lính biệt động đánh để trả hận lần lui quân bi thảm của tháng trước từ mặt trận Ban Mê Thuột, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 209 bị chôn chân trước tuyến phòng thủ của 82 Biệt động.

    Sau nầy Hoàng Cầm ghi lại trận đánh trong Hồi ký lịch sử quân đội nhân dân:
    • Những đợt xung phong đánh vào sở chỉ huy của Sư đoàn 18 và hậu cứ Trung đoàn 52 ngụy đều không thành công. Chiến sĩ ta giành giựt với địch từng đoạn giao thông hào, qua mỗi căn nhà, căn phố. Điều đáng ngạc nhiên là cuộc tấn công đã bị chận lại không phải chỉ do pháo binh và không quân yểm trợ, hệ thống phòng thủ vững chắc và sức chiến đấu ngoan cố của Trung đoàn 43 ngụy, nhưng điều đáng nói là Đảo đã tổ chức cho từng người lính thuộc sư đoàn mỗi một vị trí chiến đấu…


    Viên tư lệnh Trần Văn Trấn đi theo với Trung đoàn 266, đích thân chỉ huy cuộc tấn công. Tùng thiết thoạt tiên mở được đường qua lớp kẽm gài, mìn bẫy thứ nhất tiến gần đến vùng "Hố Heo Rừng", nơi Quốc lộ 1 chạy một đường quanh gắt trước khi đổ vô thị xã. Nhưng quả như ước tính của tướng Đảo, đại đội trinh sát của Đại úy Đa giăng một hàng lưới lửa bằng đại liên 50 chống chiến xa, hiệp cùng máy bay AC119 Hắc Long tự tầng trời đan kín thêm bằng đại liên minigun bốn nòng chống biển người vô cùng hữu hiệu. Sư đoàn 341 vốn là một sư đoàn tân lập gồm tân binh thiếu kinh nghiệm của đơn vị nầy quá hoảng sợ hỏa lực của đại đội trinh sát, phi cơ Hỏa Long nên cuối cùng đám lính trẻ tuổi của Trung đoàn 266 phải tan hàng, chạy vào lẫn trốn trong khu vực dân cư, bến xe, nhà thờ, trung tâm thị xã. Tổng kết ngày chiến trận đầu tiên, chỉ riêng Sư đoàn 341 đã bị thiệt hại khoảng 600 chết và bị thương, cùng một số tù binh (ba mươi người) bị bắt giữ. Buổi chiều, thiếu tướng Đảo khi đi thanh sát mặt trận bên trong thị xã, ông không quên ra lệnh cho phòng quân tiếp vụ sư đoàn trích một số khẩu phần lương khô để nuôi ăn đám tù binh còn rất mới.

    Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 vẫn không tin quân phòng thủ Xuân Lộc đứng vững sau hai cuộc tấn công. 5 giờ 30 sáng ngày 11, đợt tấn công thứ hai bắt đầu. Sư đoàn 341 tiến chiếm từ hướng tây bắc, Sư đoàn 7 từ mặt bắc đâm thẳng vào thị xã, Sư đoàn 6 từ hướng đông, tất cả ba mũi dùi đồng hẹn ở điểm đến trung tâm thị xã, bộ tư lệnh Sư đoàn 18. Kết quả cũng tương tự như ngày 9, có khác chăng thêm một số chiến xa bị bắn hạ trên tuyến phòng ngự và một số tù binh bị bắt. Những ngày chẳng mấy vinh quang nầy được Hoàng Cầm viết lại trong Lịch sử quân đội nhân dân: Trong ba ngày đầu tiên của chiến dịch, Sư đoàn 7 bị tổn thất 300 chiến sĩ; Sư 341 thiệt hại 1.200. Cụ thể tất cả pháo 85 và 57 ly đồng bị phá hủy. Cùng lúc Văn Tiến Dũng cũng phải thú nhận trong Đại thắng mùa xuân: Từ ngày đầu mặt trận Xuân Lộc đã diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Những sư đoàn của ta. tổ chức nhiều đợt tấn công vào thị xã, đánh đi đánh lại để chiếm từng vị trí, và phải đẩy lui nhiều cuộc phản công của địch.

    Tướng Toàn cố gắng giữ vững Xuân Lộc để có thế đão ngược tình thế. để "B52 có thể trở lại!" Tướng Toàn xử dụng Lữ đoàn 3 Thiết kỵ của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi từ Trảng Bom cố mở đường tiếp cận với cánh quân Xuân Lộc. Tướng Toàn xử dụng Lữ đoàn 1 Nhảy dù được Tiểu đoàn 3 Pháo binh dù trực tiếp yểm trợ. Cuộc hành quân không vận lớn nhất của trận chiến thực hiện trong hai ngày 11, 12 đưa đơn vị tổng trừ bị cuối cùng của miền Nam vào trận. Sự xuất hiện của lực lượng nhảy dù tại trận địa đặt nên vấn đề nghiêm trọng đối với tập thể lãnh đạo bộ tư lệnh chiến dịch. Chiều ngày 11-4, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà duyệt soát lại kế hoạch tấn công theo chiều hướng mới. Dũng có ý kiến: Nếu địch tăng cường lực lượng phòng thủ Xuân Lộc thì ta không cần phải tập trung lực lượng để tấn công chúng nữa. Chúng ta nên xử dụng sức mạnh của mình để đánh những lực lượng ngoại vi (hàm chỉ lữ đoàn dù) trước khi chúng đặt chân xuống đất. Cũng nên dùng pháo tầm xa phá hũy căn cứ Biên Hòa để máy bay chúng không thể cất cánh.

    Tóm lại, bộ tư lệnh chiến dịch quyết định mở một mặt trận giả (để đánh lạc hướng quân phòng thủ) bằng hai cuộc tấn công chính diện vào vị trí đóng quân của Tiểu đoàn 1/43 (có nhiệm vụ giữ thị xã) để phía VNCH nghĩ rằng phía Bắc Viêt vẫn cố công dứt điểm Xuân Lộc theo như kế hoạch ban đầu. Trong khi chuyển hướng tấn công bằng cách đi vòng Xuân Lộc để (thực sự) tiến thẳng về Sài Gòn. Trần Văn Trà thay thế Hoàng Cầm để trực tiếp thực hiện kế hoạch. Ngày 13, Trà họp ban tham mưu Quân đoàn 4 để thông báo về việc thay đổi kế hoạch với luận cứ: Địch tăng cường phòng thủ Xuân Lộc sẽ gây nhiều bất lợi cho ta nếu cứ tiếp tục tấn công thị xã. Thế nên, nếu chúng ta tiến chiếm Dầu Giây (trên Quốc lộ 1, lối về Biên Hòa) thì Xuân Lộc không còn nằm trong tuyến phòng thủ của chúng nữa. Đồng thời ta xử dụng pháo 130 ly pháo sân bay Biên Hòa thì địch sẽ bị hạn chế khả năng cho phi cơ xuất kích yểm trợ.

    Cũng quả thực tướng Đảo không biết được sự thay đổi kế hoạch của Trung ương cục miền Nam chỉ đạo từ Hà Nội. Nhưng ông làm đươc gì hơn với chức vụ tư lệnh một sư đoàn bộ binh trong giờ phút nguy nan nhất của cuộc chiến. Không một ai trong bộ tư lệnh Quân đoàn III ở Biên Hòa, có ý niệm địch sẽ siết chặt Biên Hòa-Sài Gòn với hai gọng kềm (hướng bắc và đông) bằng cách cắt Quốc lộ 1 ở Dầu Giây và Quốc lộ 15 ở Long Thành qua thay đổi quan niệm chiến thuật theo tình hình thực tế nên bỏ qua Long Khánh nơi họ đã thực sự thất bại và biến thất bại nầy thành một kế nghi binh. Kế sách nầy càng thêm hữu hiệu khi mặt trận được tăng cường thêm hai đơn vị mới, Sư đoàn 325, tổng trừ bị quân đội miền Bắc, đơn vị chủ lực trong trận tấn công Nha Trang, Phan Rang ngày đầu tháng 3.

    Chiến trận lắng xuống, các đơn vị Bắc quân dần rút đi, chỉ còn pháo kích cầm chừng vào các vị trí phòng thủ. Ngày 20-4, tướng Toàn đích thân đến giao cho tướng Đảo một lệnh mơ hồ: Rời bỏ Xuân Lộc về bảo vệ mặt trận Sài Gòn. Hoá ra Bắc quân đã hoàn tất kế sách bỏ trống Xuân Lộc từ một tuần trước. Thiếu tướng Đảo phản đối, nhưng viên tướng tư lệnh khẳng định: Đó là lịnh của ông Thiệu! Tướng Lê Minh Đảo chỉ có đúng nửa ngày để hoàn tất một kế hoạch rút quân. Hành quân rút lui là hình thái hành quân khó nhất. Bởi đã mang sẵn mầm thất bại. Những danh tướng của quân sử thế giới mấy ai thực hiện được kể cả Hốt Tất Liệt, Napoléon, Rommel. Nhưng như phép màu, thiếu tướng Đảo đã hoàn tất cuộc lui binh về Bà Rịa, bảo toàn đơn vị, vũ khí, thậm chí đến hai khẩu pháo 175 ly hạng nặng cũng giao lại đủ cho quân đoàn.

    Khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, buông súng, Thiếu tướng (1) Lê Minh Đảo dừng quân trên xa lộ Biên Hòa, nhìn vào hướng trường Bộ binh Thủ Đức, Long Thành, Bà Rịa, và xa kia Xuân Lộc, Long Khánh, gần hơn là nghĩa trang Quân đội. Ông thấy thấp thoáng bức tượng "Tiếc thương" tạc hình "Người lính chờ đợi” in hình trong không gian mờ khói đạn.
    Người lính cuối cuộc chợt thoáng nhớ những lời thơ ngắn,

    • Vì anh là lính áo rằn. (2)
      Ra đi nào biết mấy trăng mới về…


    (Phan Nhật Nam)

    (1) Sau trận Xuân Lộc, tướng Đảo được Tổng thống Trần Văn Hương thăng cắp thiếu tướng.

    (2)Những câu thơ trên của em Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Trung tá Lê Hằng Minh, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 TQLC "Trâu Điên", người lính đã ra đi từ một ngày hè năm 1966 nơi chiến trường ở chân cầu thuộc Phong Điền, Thừa Thiên. (Phan Nhật Nam)






    Ngày thứ 33 : 11-4-1975

    12 ngày trận chiến Xuân Lộc

    Đêm 11-4 Tiểu đoàn 2 của Chiến đoàn 52 đã phục kích đánh tan một tiểu đoàn Bắc quân đang di chuyển trên đường từ đồn điền Bình Lộc về Xuân Lộc. Một đoàn xe 30 chiếc chở đầy bộ đội, đạn dược, lương thực, quân dụng bị lọt ổ phúc kích của Tiểu đoàn 2/52 , hàng ngũ địch bị rối loạn vì chúng bị hoàn toàn bất ngờ. Bắc quân bị bắn chết như rạ ngay khi còn trên xe cũng như nhẩy xuống đất, cả tiểu đoàn bị chận đánh tơi bời, hằng trăm tên bỏ xác tại trận.

    (Trọng Đạt)




    Góp nhặt…ghi chép…

    Nhà báo D,Warner, người Úc, những nhà quân sự ngoại quốc không ngớt lời ca ngợi chiến thắng Long Khánh: Với ba sư đoàn 7, 341 và 6, Văn Tiến Dũng tin tưởng sẽ chiếm được Xuân Lộc một cách dễ dàng. Ông đã lầm, Sư đoàn 18 chưa bao giờ được xem là một sư đoàn thiện chiến của miền Nam VN. Trái lại, có lần sư đoàn này còn được xem là sư đoàn tệ nhất. Vậy mà trong những ngày cuối cùng của chiến tranh VN, sư đoàn này đã chiến đấu một cách dũng cảm. Không những họ đã giữ vững được trận địa mà lại còn phản công mỗi ngày.




    Xuân Lộc tháng Tư

    Một ngày giữa tháng Tư, ngoài vòng đai phòng thủ, một chiếc T54 chạy lạc loài. Cái ống khói của nó lãnh trọn một quả M72 của toán diệt tank của Đại đội 1/TĐ82 BĐQ. Anh binh nhì Phan Thọ trong toán hộ tống của TĐ82 BĐQ cùng với ông phóng viên nhà báo lao vụt về hướng súng nổ. Ít phút sau tôi nghe choang choác, tiếng phòng không 12.8 ly nổ dòn ngoài xa.

    Trong máy PRC25 tiếng Thiếu úy Đặng Thành Học, ĐĐT1/82 BĐQ báo cáo, thằng Thọ bị thương nặng, xin tản thương. Thì ra anh B2 Thọ gan dạ này thấy chiếc T54 đã nằm bất động; anh leo lên gỡ khẩu phòng không đem về cho thầy. Không ngờ còn một chiếc chiến xa T54 khác nằm ẩn trong bụi lau cách đó không xa. Thấy anh đứng nghênh ngang sau pháo tháp, nó quạt cho anh một tràng 12.8 ly. Anh rơi xuống đất như con chim bị ná. Ruột anh đổ ra lòng thòng, máu tuôn như xối. Tôi một mặt lo xin pháo binh trong vòng đai trực xạ vào vị trí chiếc xe tank còn lại, một mặt điều động ĐĐ1/TĐ3/TĐ43BB đánh bọc bên phải tiếp tay cho thiếu úy Học ĐĐ1/82 dùng kẽm gai concertina quây quanh chiếc xe mới bị bắn cháy. Chỉ có concertina mới ngăn cản hữu hiệu được bước tiến của chiến xa địch. Con đường độc nhất để tiến quân bằng xe tank của địch nhắm vào sân bay Long Khánh đã bị đan chằng chịt kẽm gai vòng.

    (…)




    Ngồi ở quán nhậu kể chuyện súng đạn

    Lần ấy, đại đội hắn bị phục kích. Bạn bè chung quanh hắn đều bị bắn gục. Hắn kinh hoàng vùng lên chạy. Ðạn bắn gắt theo sau. Hắn vẫn chạy. Tiếng đạn rượt theo. Véo véo véo. Hắn vẫn chạy. Lâu, thật lâu sau, tiếng đạn thưa dần rồi tắt hẳn. Hắn kiệt sức nằm xoài trên một bãi cỏ, giữa một khu rừng thưa. Trời gần sáng. Chung quanh thật im ắng. Hắn chỉ nghe tiếng hắn thở. Rồi bỗng dưng hắn nghe có tiếng sột soạt trong một bụi rậm phía trước.

    Hắn giật mình, tay ghì chặt khẩu súng, mắt chăm chăm nhìn. Im lặng. Hắn toan gục đầu xuống nghỉ thì lại nghe tiếng sột soạt vang lên. Hắn lại căng mắt ra nhìn. Hình như có bóng người lom khom sau lùm cây. Cái bóng ấy rõ ràng là đang rình hắn. Tiên hạ thủ, ý nghĩ ấy vừa loé lên trong đầu, hắn bóp cò. Ðoành. Tiếng nổ khô, lạnh. Cái bóng nọ gục xuống.

    Chờ một lúc, thấy chung quanh vẫn im tĩnh, và trời lại hừng sáng, hắn mới chồm dậy, chạy lại bụi cây dò xét. Hắn giật mình thấy hắn đang nằm chết, viên đạn xuyên từ trán ra sau ót, nhưng không có một giọt máu nào cả.

    (Website Tiền Vệ - Truyện cực ngắn hay Truyện chớp)




    Góp nhặt…ghi chép…

    Nói về tinh thần chiến đấu của Sư đoàn 18 tại Long Khánh tháng 4-1975, ông Dawson (1), trưởng nhóm phóng viên hãng thông tấn UPI viết:

    Trận đánh kéo dài một ngày nữa, rồi lại một ngày nữa, và cứ thế. Tướng Đảo và binh sĩ của ông đã đánh một trận đánh mà ít người dám nghĩ rằng họ có thể làm được. Bắc quân tung vào Xuân Lộc một sư đoàn nữa. Sư đoàn 18 vẫn tiếp tục chống cự.

    Ngày 10-4. Bắc quân lại đánh vào giữa thị xã và lại bị đẩy lui.

    Ngày 12, Bắc quân vẫn không tiến thêm được chút nào. Hai trung đoàn của quân đội Nam Việt Nam không những đã giữ vững được vị trí mà còn phản công dữ dội hơn… Thêm 2.000 đạn nữa rót vào Xuân Lộc, xé nát mọi vật. Sư đoàn 18 vẫn đứng vững. Tướng Đảo ở lại bên các binh sĩ của ông và tiếp tục chiến đấu…

    (1) Alan Dawson trong tác phẩm Black April: The Fall of South Viet Nam.






    Ngày thứ 34 : 12-4-1975

    12 ngày trận chiến Xuân Lộc

    Ngày 12-4, mặt trận Long Khánh được tăng cường lữ đoàn dù và một tiểu đoàn pháo, cuộc đổ quân bằng trực thăng vận đã được Sư đoàn 3 và 4 Không quân thực hiện đúng thời gian qui định. Lữ đoàn dù đã giao tranh dữ dội với Bắc quân quân để yểm trợ cho các lực lượng trú phòng. Hai tiểu đoàn Bắc quân đã đột nhập thị xã chiếm được một số cơ sở hành chánh quân sự, địa phương quân và Trung đoàn 43 đã dũng cảm đẩy lui địch, nhờ sự chiến đấu anh dũng của các đơn vị trú phòng Xuân Lộc vẫn còn đứng vững.

    (Trọng Đạt)

              

    Ngày 12-4, đồng bào bỏ chạy khi Bắc quân tới Xuân Lộc,
    một người dân gục ngã trong vòng lửa đạn trên Quốc lộ 1

              




    Xuân Lộc tháng Tư

    Tôi không có dịp tham dự vào cuộc phản công tái chiếm chợ Xuân Lộc, khách sạn Long Khánh cũng như những cuộc giao tranh trong khu trung tâm thị xã. Tin tức liên quan đến mặt trận hướng tây tôi hoàn toàn mù tịt. Suốt mười ngày dầu sôi lửa bỏng tháng tư TĐ82 BĐQ chỉ biết có mặt trận đông nam thị xã mà thôi. Bên hướng đông suối Rét là Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh (K15 VB) làm búa. Bên hướng tây suối Rét là cái đe do tôi chỉ huy.

    Giữa tháng Tư, Lữ đoàn 1 Nhảy dù tung ra nhiều đợt tấn công nhắm vào một trung đoàn Bắc quân trong đồn điền chôm chôm hướng đông nam suối Rét. Chúng tôi ở bên này bờ, hào hứng quan sát pháo dù nổ rền trời phía bờ bên kia. Từ nơi đồn điền Thống tướng Lê Văn Tỵ, cán binh từng tốp chạy túa ra bìa rừng, nhảy ùm xuống suối Rét.

    Những tay súng BĐQ nhả đạn từ từ và chính xác. Những người lính Bắc quân bật lên khỏi mặt nước như những con cá trắm cỏ, quẫy mạnh một lần rồi chìm luôn để thành…tử sĩ. Những tiếng hô “Biệt Động! Sát!” hòa lẫn tiếng súng M16, M60 làm cho một số cán binh vừa ló đầu ra đã vội chạy ngược lại phía bìa rừng. Rồi cũng có người cầm cờ trắng chạy từ trong bìa rừng ra bờ suối, súng AK dơ lên cao khỏi đầu: Thế là họ đầu hàng!
    • – Thôi! Vứt súng xuống suối rồi lội sang đây! Vứt súng xuống suối! Dơ tay lên cao khỏi đầu, lội sang đây! Nghe rõ chưa?
      – Dạ cháu nghe rõ ạ!

    Tôi và người phóng viên nhà báo mồi cho ba anh cán binh ba điếu thuốc lá. Họ còn rất trẻ, chỉ độ mười lăm. Bơ phờ mất ngủ, mắt quầng thâm.
    • – Cậu mấy tuổi rồi?
      – Dạ thưa thủ trưởng, cháu lên mười sáu ạ!
      – Sao đi bộ đội sớm thế? Mới mười sáu mà đã đi lính rồi à?





    Chuyện một thời chinh chiến

    • Dép râu dẫm nát đời son trẻ
      Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai
    • – Cháu là thanh niên xung phong. Thủ trưởng của cháu nói rằng miền Nam giải phóng rồi, chúng cháu chỉ vào để tiếp thu thôi ạ!
      – Thế đánh nhau mấy ngày nay cậu thấy thế nào?
      – Thưa thủ trưởng, nhà cháu sợ lắm ạ!
      – Thôi đừng sợ, chốc nữa có người đưa cậu về Sài Gòn. Hết chết rồi, đừng sợ!
      – Thủ trưởng có nói thật không hử thủ trưởng? Nhà cháu sợ chết lắm thủ trưởng ơi!

    Đôi mắt trẻ thơ ngơ ngáo. Ngón tay cậu bé run run cầm điếu thuốc đưa lên môi, chỉ sợ nó rơi…

    (…)

    - : Tiểu đoàn 82 Biệt động quân biên phòng của Thiếu tá Vương Mộng Long. Phải nói qua đơn vị kỳ lạ nầy với sự tồn tại tưởng như huyền thoại. Tiểu đoàn 82 vốn thuộc Quân khu II cao nguyên, khi mặt trận Ban Mê Thuột bị vỡ, thiếu tá Long vừa đánh vừa rút lui xuống đồng bằng. Từ Ban Mê Thuột, thiếu tá Long đưa đơn vị vượt cao nguyên Di Linh băng rừng về Bảo Lộc (nằm trên Quốc lộ 20 khoảng giữa đường đi Đà Lạt), ông tiếp tục băng rừng theo hướng tây nam về Long Khánh. (1)

    Ngày 6-4 (gần một tháng sau trận Ban Mê Thuột), tướng Đảo nhận được công điện khẩn từ tiền đồn. Một đơn vị lạ với quân phục biệt động quân xuất hiện. Sau khi kiểm chứng với bộ chỉ huy Biệt động quân Quân khu III (Biên Hòa), tướng Đảo dùng trực thăng bốc toán quân của thiếu tá Long, một tiểu đoàn biệt động chỉ còn khoảng 200 người. (Nguồn: Phan Nhật Nam)

    (1) Tác giả Vương Mộng Long hướng dẫn Liên đoàn 24 Biệt động quân từ Quảng Đức tìm đường ra biển để bắt tay với quân bạn. Khi liên đoàn được trực thăng vận về Phan Thiết thì Tiểu đoàn 82 Biệt động quân được đưa thẳng về sân bay Long Khánh đặt thuộc quyền xử dụng của Bộ tư lệnh Sư đoàn 18 BB của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo.

    (Nguồn: Vương Mộng Long)




    Quân sử ngoại truyện

    Ngày 13-4-1975, Thiếu tướng Hoàng Cầm bị thay thế, Thượng tướng Trần Văn Trà, tư lệnh quân giải phóng Miền đến sở chỉ huy chiến dịch để chỉ đạo trực tiếp. Sau khi đánh giá tình hình, tướng Trà (1) quyết định thay đổi cách đánh: Không tập trung lực lượng tấn công vào nội ô thị xã mà chuyển sang bao vây, cô lập, cắt rời Xuân Lộc ra khỏi các hành lang giao thông nối vào Biên Hòa, ra Bình Thuận, lên Đà Lạt và xuống Bà Rịa-Vũng Tàu.

    Theo đó, quân giải phóng chỉ giữ lại một bộ phận kìm chế quân địch trong thị xã, điều chỉnh lực lượng, tổ chức tấn công đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, cắt đường số 1, chặn quân địch từ Trảng Bom lên, từ Gia Kiệm về, làm chủ chi khu Tân Phong, cắt đường số 2 đi Bà Rịa.

    (Chiến tranh Việt Nam toàn tập - Nguyễn Đức Phương)

    (1) Sự thay đổi kế hoạch này, không do tướng Trà mà từ tướng Dũng:

    Chiều ngày 11-4, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Trần văn Trà duyệt soát lại kế hoạch tấn công. Dũng có ý kiến: “Nếu địch tăng cường lực lượng phòng thủ Xuân Lộc thì ta không cần phải tập trung lực lượng để tấn công chúng nữa. Chúng ta nên xử dụng sức mạnh của mình để đánh những lực lượng ngoại vi trước khi chúng đặt chân xuống đất (lữ đoàn dù).

    - : Xem "Người lính giữa tháng Tư" của Phan Nhật Nam ở khúc trên.




    Quân sử ngoại truyện

    Ngày 15-5-1975 duyệt binh mừng ngày giải phóng miền Nam và ra mắt Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn-Gia Định. Trong cuộc lễ này, trên khán đài có các thành viên của Bộ chính trị Hà Nội như Lê Duẫn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ… Và các đại biểu Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam là Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình, v.v. Hàng ghế sau dành cho các tướng lĩnh như Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, v…v…

    Khi các đoàn quân lần lượt di quyển qua khán đài, người ta thấy toàn là bộ đội chính quy Bắc Việt, nào đội tên lửa phòng không, chiến xa, pháo binh… với cờ đỏ sao vàng. Còn đại diện quân MTGPMN chỉ có một toán nhỏ nam, nữ du kích, mặc đồ bà ba đen, đội nón tai bèo. Thấy vậy, chủ tịch chính phủ lâm thời Huỳnh Tấn Phát đưa mắt nhìn chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ…Chủ tịch Thọ quay sang Lê Duẩn, hỏi:
    • - Đồng chí tổng bí thư, các Công trường 3, 5, 7 của quân giải phóng đâu cả rồi, sao không thấy xuất hiện?

    Lê Duẫn không trả lời quay ra phía sau nói:
    • - Xin hỏi đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng.

    Văn Tiến Dũng trả lời lạnh lùng:
    • - Quân đội đã sát nhập rồi!

    Nguyễn Hữu Thọ lại hỏi:
    • - Ủa, sát nhập hồi nào sao tôi không hay?

    Văn Tiến Dũng đáp:
    • - Đất nước nay đã thống nhất thì tất nhiên phải thống nhất quân đội,





    Ngọn đồi cuối cùng

    Cứ cách nhau 3 phút là các phóng pháo khu trục cơ cất cánh và đáp xuống phi trường. Trên bãi đáp trực thăng số 42, đang có 4 chiếc gồm 2 chiếc vận tải loại lớn Chinooks CH47C và 2 trực thăng võ trang UH1D đang sắp sửa cất cánh. Nhiệm vụ: Tiếp tế đạn cho một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 48 Bộ binh đang đụng địch ở chân núi Thị, một ngọn núi chế ngự hết cả vùng của đồn điền cao su Xuân Lộc rộng lớn (S.I.P.H.), và đang chuẩn bị chống trả những trận tấn công dữ dội hơn của Bắc quân.

    Thiếu tá Luân, 36 tuổi (với 4.000 giờ bay, 12 huy chương), đã chấp nhận cho tôi cùng bay với ông ta. Chúng tôi sẽ nghỉ đêm tại mỏm núi và sáng sớm ngày mai chúng tôi sẽ bay lượn trên khắp vùng trận địa 60 cây số dàn quân của chiến trường Xuân Lộc trên Quốc lộ 1 và Tỉnh lộ 24.

    Có một số thợ máy mặc quần áo chống cháy đang gắn những tấm lưới thép dưới lườn thực thăng Chinooks CH47C và chất đầy ắp các thùng đạn vào đó. Trong phòng lái là thiếu tá Luân và sĩ quan hoa tiêu. Bên trái của tôi là một sĩ quan pháo binh có cả ống nghe trên mũ và ống nói dưới cằm. Phía sau, hai bên hai ụ súng là hai anh xạ thủ với hai khẩu đại liên 50 chĩa ra ngoài, và dưới lườn trực thăng có hai ống phóng mỗi ống chứa 8 quả rốc kết. Chúng tôi cất cánh lúc 18 giờ 15 phút. Trực thăng lấy cao độ và trực chỉ hướng đông. Xuyên qua các đám mây chúng tôi thấy một đường thẳng dài của Quốc lộ 1, lấm chấm có vài dấu nổ của đạn pháo: Đó là tác xạ ngăn chặn của pháo binh Sư đoàn 5 đang phòng thủ các ngõ vào Trảng Bom.

    Trực thăng sau đó chui qua các đám mây xuống thấp, bay rà rà trên các ngọn cây cao su của hãng S.I.P.H. Trên một con đường mòn thẳng vắt ngang đồn điền cao su, trên 12 xe vận tải molotova chở đầy bộ đội đang chạy rất gần. Thiếu tá bẻ cần quẹo gấp, Luân đưa trực thăng nằm đúng ngay trên trục của đường mòn. Thình lình hai, rồi bốn rung chuyển ngắn làm chấn động chiếc trực thăng. Bốn quả rốc kết đã được Luân phóng đi từ hai ống phóng và nổ đúng vào đoàn xe vận tải của Bắc Việt. Nhiều tiếng nổ dữ dội cho thấy là các quả rốc kết đều trúng mục tiêu. Lửa, khói và miểng đạn bắn ra tung tóe gần như bao trùm chiếc trực thăng, vì nó bay rất thấp. Chiếc trực thăng võ trang UH1D rung lên từng chập. Các đại liên thôi thì thi nhau nhả đạn. Xuyên qua cửa ngang hông được mở toang ra, trong chớp nhoáng tôi thấy một chiếc xe đang cháy và những tên bộ đội bé nhỏ mặc quân phục xanh bị cháy đang nhảy tứ tung như những tia lửa bắn lên tứ hướng từ một cục than hồng. Thế rồi không còn nghe thấy gì nữa cả.

    Chiếc Chinooks CH47C lại bay rà lên trên tấm thảm xanh của rừng cao su, chỉ còn nghe tiếng phành phạch của hai cánh trực thăng. Cuộc tấn công vừa rồi chỉ kéo dài có 20 giây. Sáu phút sau, chúng tôi đã thấy núi Thị. Một mỏm đá với một chòm cây và một gian nhà lớn chỉ còn nửa nóc. Đó là biệt thự của chủ đồn điền cao su. Thiếu tá Luân đáp xuống một bãi đất rộng được đánh dấu bằng mấy trái khói mầu vàng, nằm cao hơn mỏm đá. Một anh thiếu úy đưa chúng tôi đến bộ chỉ huy của trung tá Phát, một phòng lớn ở tầng trệt của biệt thự, có bao cát chung quanh, và một số bàn đầy máy móc truyền tin và điện thoại. Trung tá Phát hớt tóc ngắn, cầm to, tôi có cảm tưởng ông toát ra sức mạnh và nghị lực. Trung tá Phát bắt tay tôi, tay kia đấm Luân một phát, rồi đãi chúng tôi mỗi người một cốc cà phê nóng có chế vào một chút rượu mạnh, xong vùa cười vừa nói:
    • – Các anh đừng lo, căn nhà này chắc lắm, toàn là xi măng cốt sắt. Năm 1947 biệt thự này đã bị cháy và người Pháp đã bỏ đi. Hai chục năm sau người Mỹ lại sửa lại, tăng cường tới nóc nhà bằng các tấm thép. Họ đặt mấy chiếc máy lạnh và sơn phết lại hết, màu xanh lá cây.

    Rồi sau đó ông ta nghiêm sắc mặt lại, nói với thiếu tá Luân :
    • – Tôi đã mang lên được trên ngọn đồi nầy 4 khẩu 105 ly và 3 khẩu 155 ly. Nhưng tôi thiếu đạn, tôi chỉ có 30 quả cho mỗi khẩu. Tôi cần gấp ba lần như thế, và một số đạn bích kích pháo. Anh cố tìm mọi cách mang lên đây cho tôi. Đi làm 6 hay 8 chuyến. Và làm sao để tôi có một chiếc AC-119K trước 12 giờ đêm và cho nó trực thôi, sẳn sàng chờ lệnh, vì bọn Bắc quân chắc chắn sẽ chơi tôi vào lúc 2, 3 giờ sáng.
      – Hai chiếc Chinooks đang mang đến cho anh 3 tấn đạn. Họ sẽ đến đặt trước nhà cho anh trong một vài phút nữa thôi. Về phần còn lại tôi sẽ làm cho anh tối đa.

    Thiếu tá Luân tiến tới một máy truyền tin và gọi Biên Hòa, Trung tá Phát đốt một điếu thuốc, lật bản đồ ra và giải thích cho tôi nghe về tình hình…

    Sư đoàn 18 và Liên đoàn Biệt động quân của đại tá Phước đã đánh nhau với bọn nó trong suốt 12 ngày ở thành phố Xuân Lộc đổ nát nầy. Họ đã lãnh đủ hơn 20.000 quả pháo và rốc kết. Nhưng họ đã bắn sụm 37 chiến xa T54. Thứ hai vừa rồi, Bắc quân đã bọc vòng phía sau thành phố chiếm lại giao lộ Suzannah và sơi luôn một đoàn xe tiếp tế của mình. Sau đó họ bố trí cẩn thận hai bên ngã tư, điều chỉnh sẳn tác xạ và để 2 sư đoàn gần đó trong tư thế chờ đợi, hy vọng đánh tan xác chúng ta khi ta rút quân. Nhưng tướng Đảo đã “chộp” được chúng nó.

    Trưa thứ hai tướng Đảo đã phản công và giải tỏa phần đất chung quanh phi trường trên hơn 2 cây số, đồng thời xin tiếp tế đạn thật nhiều cả bằng trực thăng và thả dù. Sau đó ngày thứ ba, nghĩa là mới hôm qua đây, thay vì lui về ông đã cho cả sư đoàn đi thẳng về phía trước theo trục các đồn điền Courtenay, Xa Bang, Bình Ba, Bà Rịa. Ông đã bất thần phá vỡ vòng vây Bắc quân, mang theo tất cả thương binh, tất cả xe cộ (50 xe vận tải và trên 30 chiến xa). Để giúp cho tướng Đảo thành công trong sự điều quân của ông ta, chúng tôi đã cho 2 tiểu đoàn đánh ngược hướng tiến quân của chúng để cho Bắc quân tưởng rằng chúng ta sẽ rút lui về hướng Sài Gòn theo Quốc lộ 1. Tiểu đoàn dù tình nguyện đâm thẳng vào Gia Kiệm để cầm chân một trung đoàn địch. Tiểu đoàn của tôi đã băng ngang đồn điền S.I.P.H. đánh ngay sau lưng địch, hạ sát trên 300 tên, cắt hết đướng dây điện thoại của chúng, và bất ngờ đã bắn hạ 2 chiến xa T54. Chúng tôi đã lên thẳng trên ngọn đồi nầy vốn chỉ được có một đại đội địa phương quân phòng thủ, và chúng tôi đã mất hết hai ngày hai đêm để tổ chức vị trí phòng ngự. Muốn đuổi chúng tôi ra khỏi đây hả? Chúng cũng phải trả một giá hết sức đắt.

    Thiếu tá Luân đã cất cánh với chiếc trực thăng của ông ta. Đêm đã xuống hoàn toàn. Binh sĩ đã nằm ở vị trí chiến đấu, Và rải rác ở phía bên đường dẫn xuống đồng bằng, giữa những hòn đá, ở những vị trí pháo binh và bách kích pháo, các xạ thủ củng đã sẵn sàng. Dài theo bìa phía đồn điền, là một đại đội biệt động quân với các khẩu trung liên, súng phóng lựu và súng không giật 57 ly. Phải biết chờ đợi và biết giữ yên lặng. Vào lúc 10 giờ đêm, có tiếng phành phạch của trực thăng Chinooks nghe được mỗi lúc một gần. Binh sĩ cho đốt những ngọn đèn mà ánh sáng chỉ có trên không mới nhìn thấy, đánh dấu bãi đáp để nhận hàng tiếp liệu. Những chiếc trực thăng đảo tròn trên bộ chỉ huy, với những kiện hàng nặng trong các lưới thép lòng thòng dưới lườn. Chỉ trong vòng vài phút, họ đã đặt các kiện hàng xuống đất, hệ thống dây bịt thả ra hết và trực thăng lại bay đi. Và họ trở lại hai lần nữa. Từ xa, các tiếng nổ của đại bác gầm thét như những tiếng sấm trong cơn mưa. Nhưng cơn bão mà chúng tôi đang chờ đợi lại không thấy tới. Nằm gọn trong một hốc đá, tôi không tài nào ngủ được. Chỉ nghe tiếng dế gáy liên hồi…

    Nhưng đến 3 giờ sáng thì mọi sự đều biến chuyển. Nhiều chùm lửa đỏ rực của pháo binh Bắc quân bay vào ngọn đồi. Có một số cây bị trốc cả gốc lên. Rồi có một đợt tiếng la vang dội dưới chân các mỏm đá, phía dưới chân đồi. Đó là lệnh xung phong của Bắc quân. Bộ đội Bắc Việt tấn công trực diện dọc theo hai bên con đường. Binh sĩ miền Nam không bắn phát súng nào. Họ chờ cho “bộ đội” đến gần hơn dưới 100 thước. Và lúc đó tất cả các loại súng đều nổ một lượt. Mấy ống bich kích pháo nhắm vào hai bên đường, nã đạn, nòng súng gần như thẳng đứng cho tầm tác xạ ngắn lại. Pháo binh 105 ly tác xạ ở cự ly 0 độ. Thấp hơn phía dưới, về phía bên trái các khẩu trung liên của biệt động quân nổ như bắp rang. Có vài trái sáng được bắn lên xé tan màn đêm tối, cho thấy các bóng người tan tác, ngã lăn oằn oại dưới đất với những tiếng kêu la thảm thiết. Rồi hai chiếc AC119K lại xuất hiện, đang xé gió bay tới…Sau tiếng gầm, lao xuống như hai con chim ưng gặp mồi và dùng các khẩu đại liên điện bắn như mưa xuống đám cán binh Bắc Việt còn sống sót đang tháo chạy tán loạn dưới cánh đồng. Có nhiều tràng pháo 130 ly bắn quá ngắn nên rơi hết xuống đám rừng làm trốc gốc thêm một số cây. Pháo binh 155 ly của miền Nam phản pháo lại cũng dữ dội như sấm sét..

    Đến 5 giờ sáng thì mọi tiếng súng đều ngưng. Lúc trời sáng tỏ binh sĩ mới cẩn thận bước ra khỏi phòng tuyến và đi lần xuống đồi, súng lăm lăm cầm tay sẳn sàng nhả đạn. Trên mặt đất có rất nhiều xác của cán binh Bắc Việt mặc quân phục xanh lá cây, đội nón cối.

    Đại úy Nhân trao cho tôi một ly cà phê nóng và nói:
    • – Đêm rồi mọi việc đều rất tốt. Nhưng mà họ sẽ trở lại. Một tiếng đồng hồ nữa thiếu tá Luân sẽ có mặt ở đây, và anh sẽ về với ông ta.

    Vào 7 giờ sáng tôi lên trực thăng của thiếu tá Luân, và chúng tôi cất cánh, lên cao độ 1200 bộ và bay về hướng bắc. Nhìn từ trên cao, Xuân Lộc chỉ là một đống gạch vụn đầy bụi, duy nhất chỉ còn mỗi lầu chuông của nhà thờ sừng sững như một ngọn hải đăng. Trực thăng đổi hướng về hướng đông và xuống thấp là là trên ngọn cao su. Qua khỏi đồn điền Hàng Gòn, chúng tôi thấy một đoàn xe dài của Bắc Việt, các chiến xa, các xe pháo binh, và xe vận tải chở đầy cán binh đang di chuyển dài trên mấy cây số ngang nhiên như chỗ không người và không thấy có nghi trang. Thiếu tá Luân tạt thật nhanh đi chỗ khác, dùng vô tuyến báo động ngay cho Biên Hòa và vọt thẳng lên cao độ 1500 bộ. Mười phút sau, chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng quá kinh hồn. Hai, rồi bốn, rồi sáu chiến đấu cơ A37 đâm bổ xuống tác xạ từ phía sau của đoàn xe gây nhiều đám cháy, lửa khói mịt mù…

    Vài giây sau đó lại có hai chiếc vận tải cơ C130 thả xuống từ trên cao hai thùng tròn đen, có dù và khi gần chạm đất gây ra hai tiếng nổ thật kinh khủng và phi thường, tiếp theo sau đó là hai lằn ánh sáng ngắn màu xanh kỳ dị. Hai ngọn khói hình nấm tròn bốc lên cao với một luồng gió mạnh phi thường đến nỗi trực thăng của chúng tôi ở cao độ 1500 thước bị lắc lư rung chuyển thật mạnh, rồi rơi tuột xuống một khoảng không như một hòn đá, đến cao độ 800 bộ mới lấy lại được thăng bằng. Khi khói tan mới thấy được con đường ngổn ngang đầy xe cộ bị lật ngã, nghiêng ngữa, tan nát, các khẩu pháo bị tung xuống hố và thây người chết nằm rãi rác trên 200 thước bề ngang, cây cối bị trốc gốc ngã lộn nhào đưa cả rễ lên trời. Thật là một cái nhìn khiếp đảm, cả một sự hủy diệt chỉ trong nháy mắt. Thiếu tá Luân cho trực thăng bay sà xuống đường và bắn hết tất cả rốc kết dọc theo hai bên đường. Không có một tiếng súng bắn trả:

    Thì ra thiếu tá Luân đã bắn vào một đoàn người chết…..!

    Sau khi đáp xuống sân bay Biên Hòa, thiếu tá Luân vừa cởi nón bay ra vừa nói với tôi:
    • – Anh có thấy rõ mức độ thiệt hại không? Hai thùng tròn đen được thả xuống ban nảy là hai trái bom CBU 55. Một đầu đạn được gắn vào phía trước hai thùng đen đó là bộ phận kích hỏa phát nổ gần mặt đất. Như vậy là không có góc độ “tử giác”. Trong vòng 150 thước đường bán kính, không còn một chút không khí nào hết, dĩ nhiên là không còn dưỡng khí ở đâu cả. Cộng thêm với làn sóng cực mạnh của sức nổ. Đây là một loại vũ khí kinh hoàng, chỉ có thể dùng nó khi nào địch quân tập trung đông đảo thì mới có hiệu quả cao.
      – Như vậy họ dùng thuốc nổ loại nào?
      – Tôi cũng không biết chính xác cho lắm. Loại bom nầy đã có từ lâu rồi, nhưng vì sợ dư luận của dân chúng Hoa Kỳ nên người Mỹ chưa bao giờ xử dụng. Khi rời khỏi Việt Nam, họ để lại cho chúng tôi một số loại bom này và có dặn chúng tôi là chỉ nên xử dụng khi nào tối cần thiết, coi như đó là biện pháp sau cùng. Gần như đây là loại vũ khí của "cơ may cuối cùng", chúng tôi đã xử dụng nó trong vòng 3 ngày nay.


    (Pierre Darcourt)






    Ngày thứ 35 : 13-4-1975

    12 ngày trận chiến Xuân Lộc

    Ngày 13-4, lực lượng VNCH vẫn giữ vững vị trí, nhờ sự yểm trợ chính xác của không quân, pháo binh, lực lượng phòng thủ đã gây thiệt hại nặng nề cho Bắc quân.

    (Trọng Đạt)




    Xuân Lộc tháng Tư

    Một hôm, đại tá Hiếu gọi tôi vào máy để “check fire”. Tôi liếc qua nơi cần hỏa tập. Ồ! Cái tọa độ ấy chẳng liên hệ gì tới quân bạn, không trở ngại! Rồi đại tá Hiếu lại gọi tôi vào máy để “check fire”. Rồi tôi lại trả lời: Không trở ngại!, Cứ vậy, ba bốn lần hỏi qua, đáp lại. Chiều hôm ấy tôi nghe một tiếng “ùm!” âm vang hướng đông bắc. Tôi đã từng nghe B52 đánh cận phòng nhiều lần trên chiến trường cao nguyên Vùng 2. Tôi đã nghe quen tiếng những trái bom 500 cân Anh, 300 cân Anh thun thút từ trên mây xanh, những tiếng "ủn!… ủn!" theo đuôi nhau chui trong không khí kiếm mục tiêu. Nghe tiếng bom nổ chùm, tôi có thể phân biệt được đó là Box 3kmx1km, Box 2kmx1km, hoặc Box 1kmxkm. Tiếng "ùm!" lần này có vẻ như âm vang của một Box B52 đánh gọn ô vuông mỗi chiều 1kmx1km ngày nào?

    Tôi thấy một cột bụi đỏ dâng cao dần dần tới mây. Trời cao và mây xanh ngắt. Một chiếc C130 còn lượn trên vùng. Tôi nghĩ, chắc chiếc C130 là tác giả cú "ùm!" vừa qua. Mãi sau này tôi mới biết tiếng "ùm!" đó là một trong hai trái CBU 55 (1) (hay CBU 85) được xử dụng trong trận Xuân Lộc. Một trái được thả xuống vùng Suối Tre hướng tây bắc Long Khánh, tôi không nghe báo cáo, trái thứ nhì thì được thả xuống chận đường kẻ thù đang nhắm tiến vào khu vực phòng thủ của Trung đoàn 43/SĐ18 BB trong đó có Tiểu đoàn 82 BĐQ tăng cường.

    Một sớm mai, từ hướng đông, chiến xa địch dàn hàng tiến về vòng đai phòng thủ Xuân Lộc. Đại tá Hiếu gọi tôi và cho biết lần này bộ binh tùng thiết của Bắc quân có vẻ đông hơn những đợt tấn công trước đây nhiều. Pháo binh bạn đã bắn tối đa để chận địch. Tôi thấy vài cột khói bốc lên từ những chiếc tank bị cháy. Có một chiếc T54 bị bắn đứt xích cách vòng rào trại PB181 không xa lắm. Chúng tôi nghe tiếng búa của bộ đội Bắc quân gõ trên thành xe, chúng đang sửa cái xe tank bị đứt xích! Pháo binh từ trong vòng đai liên tiếp trực xạ hướng vào chiếc T54 bị thương. Địch không phản ứng. Tiếng búa chạm sắt cũng im. Họ án binh chờ lệnh? Rồi bên quân bạn cũng không thấy ai yêu cầu tác xạ thêm, pháo binh của ta cũng tạm ngưng.

    (Vương Mộng Long)

    (1) Theo tướng Lê Minh Đảo, 2 trái bom đó là: BLU 82.




    Quân sử ngoại truyện

    Theo nhận xét của Hà Nội về Trung tướng Hoàng Cầm của họ có đoạn như sau:

    Quân đội đối phương hoàn toàn bị động. Tướng Cầm quá vội vã, muốn thắng mau, nên luôn luôn lúng túng. Họ sử dụng quân lính tân binh nhiều, không có kinh nghiệm chiến đấu.

    Thượng tướng Trần Văn Trà cho pháo tấn công sân bay Biên Hòa, không cho máy bay ném bom từ đấy bay đến yểm trợ Xuân Lộc. Tướng Trà cho chiếm Dầu Giây, và đường 20, áp sát Biên Hòa, là sở chỉ huy Quân đoàn III của tướng Toàn, lúc này, cục diện chiến trường thay đổi, bộ chỉ huy của tướng Toàn bị uy hiếp. Trước đó mấy ngày, tướng Toàn còn cho quân và máy bay, pháo đến yểm trợ tướng Đảo. Thì nay, chính tướng Toàn phải ra lệnh cho tướng Đảo rút khỏi Xuân Lộc, để về cứu nguy cho tướng Toàn. Thế tức là tướng Trà không cần đánh trực tiếp vào Xuân Lộc nữa, mà vẫn đuổi được tướng Đảo ra khỏi Xuân Lộc.

    Đến đây, lại thấy người chỉ huy là rất quan trọng. Nếu quân đội Hà Nội của ta cứ tiếp tục để ông tướng xoàng Hoàng Cầm chỉ huy trận Xuân Lộc, thì có lẽ toàn bộ Quân đoàn 4 của Hà Nội cứ tiếp tục bị cầm chân ở Xuân Lộc, thì có lẽ cục diện chiến tranh cũng sẽ có sự thay đổi lớn. Tướng Trà thay tướng Cầm, nên cục diện chiến trường thay đổi nhanh chóng.

    (Chiến tranh Việt Nam toàn tập - Nguyễn Đức Phương)





    http://chimviet.free.fr/lichsu/phingoch ... Ky07_a.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Xin hãy làm ánh đuốc - Như Hạ & Tư Mã

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

30-4-1975 Ngày Quốc Hận

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          





30-4-1975
Ngày Quốc Hận

__________________
mường giang

gữi phạm ngọc cửu, uyên nguyên nguyên, tâm vô lệ,
sơn cao, mặc nhân thế, phương hồng quế, lê thuận,
cao khắc tiệp, huỳnh văn quý, pháo thủ chupao, trầm kha,
ngô xuân tâm, hung503,thiếu khanh, lê như bái. tô phạm thái





Nó là ai, dám xoá ngày Quốc Hận !
Ngày toàn quân đã rã ngủ tan hàng
Ngày đồng bào cả nước chịu tóc tang
Ngày đất Viêt lọt vào tay Hán tặc

Nó chính nó những thằng theo gót giặc
Đâm sau lưng người chiến sĩ Quốc Gia
Bằng chiêu bài tranh đấu kiểu Tàu-Nga
Mà Việt cộng đã tuyên truyền đầu độc

Nó chính nó những thằng khoe có học
Nhưng trong đầu thì vô cãm vô tri
Chữ “ Ái Quốc “ cũng không hiểu là gì
Vì thực chất chúng chưa hề yêu nước

Nó chính nó nhửng thằng “ Hề “ buổi trước
Giữa chợ đời làm bia miệng ngươi khinh
Sống ký sinh, ích kỷ chỉ riêng mình
Lại kêu gọi hòa bình qua hòa giải

Nó chính nó những thằng mang oan-trái
Đầy nợ nần với Dân Tộc, Quê Hương
Ngay trong ngày “ Quốc Hận “ đẳm tang thương
Khi rợ Bắc từ rừng về phố thị

Nó chính nó, lũ đươi ươi cốt khỉ
Ngồi trên ngai, để bán nước, buôn dân,
Bốn mươi năm theo Lê Mác ngu dần
Chôn người Việt trong thiên đàng xã hội

Nó chính nó những thằng gây tội lỗi
Nên tới ngày Quốc Hận “ Tháng Tư Đen "
Phải đối diện với ác tính, nhục hèn
Cùng tiếng khóc, triệu oan hồn bất hạnh

Nó còn sống thì làm sao trốn lánh
Nên đã tìm đủ trăm kế, ngàn phương
Xóa cho được Ngày tang tóc, đau thương
Do chính nó gây ra cho dân tộc !!!


Xóm Cồn Hạ Uy Di, Tháng Ba, 2015
mường giang



          

http://trachnhiemonline.com/Dien-Dan/DD ... uocHan.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Sẽ không có Ngày Quốc Hận 30-4-1975 nếu VNCH không có Tự Do và Dân Chủ!

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  • Sẽ không có Ngày Quốc Hận 30-4-1975
    nếu VNCH

    không có Tự Do và Dân Chủ!

    ___________________________
    Mường Giang



              

              


    Xã hội Việt Nam, từ sau khi thoát được cùm gông nô lệ của thực dân Pháp vào năm 1955, thực trạng vẫn không có gì thay đổi. Nếu ở miền Bắc dân chúng đã phải ngoi ngóp sống trong địa ngục máu của chế độ toàn trị duy vật cọng sản, thì ở trong Nam dù người dân đã hưởng được các quyền tự do,dân chủ qui định theo hiến pháp nhưng thật sự vẫn còn vướng vít quá nhiều hệ lụy, kể làm sao cho hết được. Đó là chưa nói tới những bóng ma Việt cộng núp lén khắp ngõ ngách cuộc đời, lúc nào cũng nhe răng cười cười vẩy gọi, đón mời những người nhẹ dạ, những kẻ thích “đúng núi này trông núi nọ”.

    Lịch sừ đã minh chứng sự thất bại của các chính khách quốc gia trước đảng cọng sản, vì sự ngây thơ đôn hậu. Những người làm chính trị chuyên nghiệp có tầm vốc lớn trong nước mà còn lầm lạc như thế, thử hỏi các tầng lớp nông dân lao động và giới sinh viên học sinh thơ ngây trong trắng, làm sao và làm thế nào để phân biện nổi cái ranh giới “vô thường vô minh vô trách nhiệm” của tôn giáo và chính trị ?. Phương chi trong giai đoạn lịch sử 1955-1975, tại miền Nam, đâu đâu ta cũng thấy ô nhiểm cái mùi chính trị phảng phát trầm hương kinh điển tôn giáo và ngược lại tại các chốn tôn nghiêm sặc mùi chính trị. Ðiều này cũng dễ giải thích, đối với xã hội miền Nam thuở đó vừa mới ngoi đưọc trong vũng bùn nô lệ, lại bước ngay vào ngưởng cửa phồn hoa, chẳng khác gì cảnh “nhà quê lên tỉnh thành” ngơ ngơ ngáo ngáo trước nổi khát vọng của tự do dân chủ vừa có được trong tầm tay.

    Tất cả coi như là một sự ưu đãi “từ trên trời rốt xuống“ cho nên hầu hết chẳng ai muốn quan tâm gìn giữ cái gia tài quý báu nhất VN mà cha ông ta đã đánh đổi bằng núi xương sông máu suốt 80 năm sống dưới ách nô lê của ngoại bang. Tệ nhất là đám con cháu của giới thượng và trung lưu trong lúc học hành, ngoài cơm ăn áo mặc thừa mứa, họ còn có nhiều thì giờ rong chơi và vô tình lọt vào chốn thiên la địa võng lúc nào không biết.. Tóm lại, chính trị tự bản chất của nó là để kiểm soát đám đông và tính sổ, tính điểm..Các con buôn chính trị miền Nam đã lợi dựng “tự do dân chủ“ phôi thai nhưng có thật của VNCH để làm lợi khí giúp CS Hà Nội, làm sụp đổ chính quyền Quốc Gia vào ngày 30-4-1975.

    .Cũng bởi các sử gia của VN tới nay, vẫn chưa có đủ tải liệu khả thi để dàn dựng lại các giai đoạn lẫn lộn giữa tôn giáo và chính trị, cũng là nguồn gốc để cho Việt Cộng nghênh ngang đánh lận lịch sử như chổ không người. Trước chính biến 1-11-1963 cho tới ngày VNCH bị sụp đổ 30-4-1975, dâu đâu chùa chiền vẫn tiếp tục xây kể cả thánh thất, nhà thờ, nhà nguyện và các am lên đồng, thầy cốt cô cậu, bà chúa thượng ngàn. Các cơ sở tôn giáo nào bị mất đất, thì được chính quyền thường đất khác, cấp tiền để xây cái mới to hơn. Các trường học công tư, Thiện Chúa, Phật Giáo, Cao Đài hay Hòa Hảo.. đâu có dành riêng cho ai, có tiền hay thi đậu thì vào học, ai cần biết ai theo đạo gì ?

    Còn nói học sinh biểu tình, xuống đường, rạch bụng, lốc da để phản đối bắt học sinh tham gia quân sự học đường, kiểm soát hành vi đạo đức của học sinh trong trường, thì thật là hành động bán đưng lương tâm của những kẻ lãnh đạo lúc đó vì mục đích chính trị mà phải vắt óc, mòn trán tìm đủ mọi cách để biến trắng thành đen. Rốt cục sau đó, trừ một số it lãnh tụ đếm trên đầu ngón tay được VC ưu đãi, hầu hết chỉ làm đá lót đường cho đoàn chiến xa T 54, PT 76 nhản hiệu Nga sô, Trung Cộng vào cầy nát miền Nam, để vong linh đồng bào và người lính Quốc Gia không bao giờ nhắm mắt nổi, khi biết Việt Cộng mới chính là kẻ đàn áp tôn giáo, hủy diệt tự do dân chủ của đồng bào và nền độc lập của dân tộc Việt.

              

              

    Như Chánh Ðạo viết trong tác phẩm “tôn giáo chính trị- Phật giáo 1963-1967”, thì kiêu tăng, kiêu binh thời nào cũng có, huống chi thời mạt pháp loan lạc. Hai nghìn năm lịch sử, Phật giáo và dân tộc Việt Nam đã đồng hành trên khắp các nẽo đường đất nước, chiu chung vinh nhục thăng trầm, cho nên sự việc Việt Cộng và bọn Việt gian nằm vùng tại miền Nam VN, dựa vào Phật tính của người dân Việt để chụp mũ hay áp đặt một chủ thuyết huyễn hoặc vu vơ, không bằng cớ, chẳng xác tin, thì chẳng qua cũng chỉ là một pháp nạn, như những thảm trạng mà người Việt nước Việt, phải gánh chịu từ sau tháng 5/1975. Sự chống đối công khai của Phật giáo đồ, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Ðài, Hoà Hảo trong nước. Những cuộc biểu tình gần như liên tục tại Hà Nội, Sài Gòn.. chống đối đàn áp tôn giáo, hủy diệt tự do,cướp của cướp đất đồng bào, khủng bố những người yêu nước tố cáo hành vi công khai bán nước của tập đòan CSVN cho Trung Cộng suốt mấy năm qua, đã thật sự nói lên được cái bản chất vô luân của một chế độ, sắp bị đào thải bởi không còn bất cứ người Việt nào (trừ đồng bọn) chấp nhận. Ngọn lửa đấu tranh vì công lý và chính nghĩa của các vị chức sắc và giáo dân, khởi đầu tại Thái Hà (Hà Nội) lan tới Cồn Dầu (Đà Nẵng), Quảng Bình.. nay đã trở thành một đám cháy rừng, lôi cuốn công luận người Việt trong và ngoài nước vào cuộc “cách mạng” để tiến tới “dân chủ”. Chúng ta phải nương vào cuộc cách mạng đang xãy ra khắp nước, để thực hiện lại nền “dân chủ“ thật sự đã bị VC hủy diệt từ ngày 30-4-1975.

    Lịch sử vẫn là lịch sử dù cho bây giờ chúng ta đang phải đọc những trang ngụy sử của giòng vong quốc sử, trong đó có lịch sử thăng trầm của VNCH. Cũng từ lịch sử trên, chúng ta ngày nay có thể quả quyết với con em mình rằng “Miền Nam có Dân Chủ” nếu dựa trên hai nền móng “Bình Đẳng và Tự Do” của đồng bào được hưởng lúc đó, cho dù chưa có thể so sánh được với các nước tiền tiến Tây Phương nhưng vẫn cao hơn Đại Hàn, Đài Loan, Thái Lan và nhiều nước khác trên thế giới.

              

              

    Bởi có dân chủ nên ai cũng có quyền tự do ngôn luận, biểu tình để hoan hô hay đã đảo theo ý mình. Cũng từ đó khi ngồi đọc lại những trang sử cũ, mới thật sự thấy bùi ngùi, đau xót và càng thương thật nhiều những người lính đã nằm xuống, để bảo vệ sự sống còn cho miền Nam VN suốt 20 năm “đoạn trường máu lệ”, một cách uổng phí xương máu. Có những chuyện khôi hài cười ra nước mắt, như trong lúc VC tổng tấn công cả nước vào dịp Tết Mậu Thân (1968), thì có 65 ông tự xưng là giáo sư đại học, gửi kiến nghị đòi chính quyền kéo dài thời gian hưu chiến và phải tìm cách tiến ngay đến hòa bình thực sự ? (báo Sống Mới 24-1-68).
              
    “rồi hòa bình sẽ đến, đến cho dân tộc Việt
    đôi chim bồ câu trắng rũ nhau về làng xưa..”

              
    Vì giữ nước luôn là mục tiêu tối thượng của dân tộc Việt, nên bao đời đều coi trọng quốc phòng và những lúc quốc biến, nhà cầm quyền phải trưng binh hay hạn chế quyền tự do của người dân trong nước. Tất cả đều là chánh đạo, không có gì là độc tài để người dân phải làm loạn. Hơn nữa trong lãnh vực trị nước suốt bao đời, chưa từng thấy vua chúa Ðại Việt có thái độ thống trị thần dân của mình. Bởi vậy, hầu hết các cuộc rối loạn trong nước, đều không xuất phát từ sự bất mãn của dân chúng như ở bên Tàu, Pháp... mà là do tranh giựt quyền bính ngai vàng, như các thời Cù Thị-Triệu Ai Vương, Lý Phật Tử, Kiều Cộng Tiện, Hồ Quý Ly, Trần Thiểm Bình, Mạc Ðăng Dung, Lê Chiêu Thống... trong quá khứ và hiện nay là tập đoàn CSVN. Rốt cục vì quyền lợi cá nhân, đã cõng rắn về cắn gà nhà, rước voi dầy mã tổ hay chiụ làm tay sai, bán nước cho kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng, để mà giữ đảng, tiếp tục bốc lột và giết hại đồng bào mình.

    Cho nên, dù Cao Bá Quát có là một thiên tài văn chương trác tuyệt, được vua Tự Ðức cũng như người cả nước biết tới nhưng khi đem cái tài văn chương của mình làm loạn, chẳng hạn như đã dùng hai câu thơ “Bình Dương, Bồ Bản, vô Nghiêu Thuấn - Mục Dã, Minh Ðiều, hữu Vũ Thang” để làm khẩu hiệu, giúp giặc Châu Chấu ở Bắc Việt chống lại Nhà Nguyễn, nên đã không làm cho ai động lòng hưởng ứng. Kết quả họ Cao bị chém vì tội làm giặc, liên lụy tới ba họ cũng bị họa lây, mà thê thảm nhất vẫn là cha con Cao Bá Ðạt và Cao Bá Nhạ.

    Trong cuộc chiến VN từ 1960-1975, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng được đánh giá là một thiên tài âm nhạc, rất được nhiều người ngưởng mộ nhưng không ai theo, vì Sơn không có chính nghĩa và trên hết đã đi ngược lại tư cách đạo đức của một trí thức trong thời loạn, phản bội lại quê hương đồng bào mình, khi sáng tạo những ca khúc phản chiến, kêu gọi mọi người cùng mình “yêu nước xã hội xã nghĩa”, chống lại dân tộc Hồng Lạc.

    Cùng trong một sắc thái trên, xã hội Miên Nam VN từ sau cuộc binh biến ngày 1-11-1963 tới cuối tháng 4-1975 đầy biến loạn, không phải vì chính quyền Miền Nam đàn áp hay bóp nghẹt tự do tín ngưởng, ngôn luận hay bất cứ tự do nào khác, mà thực chất do sự tranh chấp quyền lực nội bộ giữa các thế lực chính trị lúc đó. Kết quả VC Hà Nội đã lợi dụng cơ hội trên, để tuyên truyền chia rẽ và xử dụng cái vỏ bọc “cách mạng giải phóng”, đánh lận con đen mờ mờ ảo ảo, giữa sự phản kháng của một vài thành phần đối lập đòi chính quyền thay đổi, biến thành sự lật đổ chính quyền hợp pháp của VNCH như mục tiêu xâm lăng của cọng sản.

    Theo Robert Shapen viết trong “ The lost revolution “ vạch rõ ý đồ xâm lăng Miền Nam VN, của Hồ Chí Minh và đảng VC đã có từ năm 1958, khi Hà Nội ra lệnh cho các cán bộ nằm vùng tại VNCH, khui lại các hầm vũ khí, đã được cán binh chôn dấu trước khi lên tàu tập kết ra Bắc Việt năm 1954, khi đất nước chia hai. Cũng trong năm này, khi Lê Duẩn lén lút vào Nam lượng giá tình hình rồi trở ra Bắc, thì Hà Nội lập tức họp Trung ương đảng lần thứ 15, thành lâp đảng bộ miền Nam tức Mặt Trận Giải Phóng (MTGPMN) vào ngày 20-12-1960, tấn công VNCH bằng hai mặt trận chính trị và võ trang, mà mở đầu là ba cuộc nổi loạn gọi là đồng khởi tại Trà Bồng (Quảng Ngãi), Mõ Cầy (Bến Tre) và Bắc Ruộng (Bình Thuận).

    Tóm lại dù có bị bôi bác đến mức nào chăng nửa, thì sự thật cũng là sự thật. Ðó là sau chín năm hiện hữu của nền đệ nhất Cọng Hòa Miền Nam từ 1955 đến ngày 1-11-1963, đã tạo được một chính quyền hợp hiến và nền an ninh trật tự, suốt từ Bến Hải vào tới Cà Mâu. Ngày nay, ngồi đọc lại những bài báo cũ của Lý Chánh Trung (một giáo sư đại học) đăng rải rác trên các tờ Ðất Mới, Ðối Diện, Ðiện Tín, Tin Sáng, Lập Trường...và được in lại trong hai tập “ ba năm xáo trộn và đối diện với chiến tranh)” xuất bản tại thành Hồ sau 1975, công khai nhục mạ, chống đối chính quyền Miền Nam VN, đồng thời hết lòng trung hiếu, ca tụng Hồ Chí Minh và VC.

    Từ đó ta mới thấy thấm thía về cái giá tự do, mà người VN từ sau ngày 30-4-1975 đã đổi bằng máu lệ, vàng tiền cùng sinh mạng, khi liều chết vượt biển tìm tự do trên biển Ðông. Tất cả đều là tội lỗi oan nghiệt, qua những tiếng khóc nức nở của các nạn nhân chiến tranh trong suốt 20 năm qua. Tất cả đều do Hồ Chí Minh và đảng VC vì tham lợi đảng phái và sự nghiệp cá nhân, mà bất chấp mọi thủ đoạn, gây nên cảnh núi xương sông máu, khiến cho không biết bao nhiêu triệu đồng bào phải vong thân khổ lụy, lôi kéo theo đất nước lạc hậu tới ngày nay, vẫn không ngóc đầu lên nổi, để mà dòm ánh thái dương như vẫn xa tít ở phương nào.

    Sau khi Hiệp định Geneve được ký kết vào năm 1954, tại Huế VC gài lại một số cán bộ nằm vùng làm cơ sở, móc nối dụ dỗ nhiều thành phần khoa bảng, thượng lưu của đất thần kinh vào đảng. Huế muôn đời vẫn còn đó, nên ai làm sao có thể quên được những tên tuổi trí thức đương thời... và Ðai Học Huế, với một số sinh viên theo VC, lợi dụng tự do tín ngưỡng và nền dân chủ pháp trị phôi thai của VNCH, để “dùng chính quả tim mình, làm trái phá mở đường rước xe tăng và bộ đội Hà Nội vào đô hộ dân tộc”.

    Huế những năm chống Mỹ cứu đảng, từ 1964-1967 qua các sinh viên VC nằm vùng trong đại học như Trần Quang Long, Ngô Kha, Phan Duy Nhân, Lê Thanh Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Vàng Sao, Lê Minh Trườngà, Nguyễn Ðắc Xuân... Những người này, đến đại học trốn lính và mượn phương tiện Quốc Gia, để vót nhọn thơ thành chông, xuyên qua gan lính trận đang bảo vệ mạng sống cho mình. Cũng sẽ mài thơ như kiếm sắc, chặt đầu đồng bào Miền Nam theo đạo Thiên Chúa tại Huế, Ðà Nẳng, để đào sâu thêm sự chia rẽ lương giáo. Chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, tên phản tặc sát nhân đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân 1968, đã vênh váo thừa nhận là “bọn chúng chỉ lợi dụng sự học hành, để tranh đấu, nổi loạn, ném lựu đạn đuổi Mỹ, chống Quốc Gia, hoàn thành sự nghiệp rước cọng sản về dầy mã tổ Hồng Lạc” như ngày nay chúng ta đã thấy. Tóm lại sự nhục nhã của một thời loạn lạc, nay đã là một pho sử miệng, muôn đời cười chê đám trí thức no cơm ấm cật, nên không biết làm gì hơn bằng làm tay sai cho giặc, đâm sau lưng chiến sĩ và đồng bào mình.

    Trong bờ khói lửa triền miên, thì ở ngoài biển Ðông qua sự đồng tình của Nixon-Kissinger, cùng với tờ văn tự bán nước của Hồ Chí Minh-Phạm Văn Ðồng ký năm 1958, Trung Cộng xua tàu chiến cưỡng chiếm lãnh thổ của VN tại quần đảo Hoàng Sa ngày 17-1-1974. Tháng 10-1974 quận Thường Ðức (Quảng Nam) bị thất thủ, rồi tiếp tới là tỉnh Phước Long, mở đầu cho cuộc xâm lăng công khai của Bắc Việt, qua cái gọi là Hiệp định ngưng bắn hòa bình mà Mỹ đã dàn dựng với cọng sản quốc tế tại Pháp năm 1973. Máu đổ thành sông, thây cao thành núi, đó cũng là nhờ phần công đức của một ít người miền Nam, ăn cơm Quốc Gia thờ Ma VC, đâm lén những vết dao trí mạng vào hông đồng bào, đồng đội mình.

    Trong lúc cọng sản Bắc Việt đêm ngày tấn công VNCH trên khắp các mặt trận, kể cả tại Sài Gòn cũng như các thành phố lớn khác. Người lính VNCH lúc đó vừa phải trực diện đối mặt với cái chết từng giây phút tại mặt trận, để bảo vệ mạng sống ký sinh cặn bã của bọn phản chiến, thiên cộng, đang ẩn núp khắp nơi ở hậu phương, trong chùa, nhà thờ, tòa soạn, trường học... Bọn này đang sống như người ngoại cuộc, vô cãm dửng dưng trước sự đau khổ chết chóc của đồng bào, dù chúng cũng là người VN, cũng phải ăn và thở để mà sống, nên cũng phải có trách nhiệm làm người.

    Trong lúc cộng sản đang tiến quân như vũ bão, thì hậu phương Miền Nam có những bộ óc hư hoại điên khùng, hết ký giả đi ăn mày, tới biểu tình đòi hòa hợp. Tất cả đang say men phản chiến của đám Hippy nghiện ngập ma túy “The Beatles” đã làm loạn tại Mỹ, của Bertraud Russell, Jean Paul Sartre, Herbert, Marcuse... công khai tán tụng Hồ Chí Minh và cọng sản, hô hào hòa bình, đòi quân dân miền Nam phải buông súng đầu hàng, để chim bồ câu trắng từ Hà Nội bay tới, mang hạnh phúc no ấm, cho đồng bào miền Nam, như trong ca khúc phản chiến của Tôn Thất Lập.

    Tai Hoa Kỳ, Pháp, Nhật... nhiều con ông cháu cha của VNCH, được học bổng du học, vừa có tương lai, lại tha hồ trốn nghĩa vụ quân dịch nhưng nhiều tên no cơm ấm cật, tán tận lương tâm, chạy theo phản chiến chống lại đồng bào mình, trong số trên, hung hăng nhất vẫn là Nguyễn Thái Bình theo học ngành kỹ sư. Tên Việt gian này, vì làm loạn quá tại Mỹ nên bị trục xuất về nước và ngay khi phi cơ vừa đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất-Sài Gòn, đã dở trò không tặc cướp máy bay, nên bị lực lượng an ninh bắn chết năm 1972... Ðồng thời hằng ngày, trên các tờ Hành Trình, Ðối Diện, Ðất Nước, Tin Văn, Vấn Ðề, Ðiện Tín... với Nhất Hạnh, Lý Chánh Trung, Nguyễn văn Trung (chủ biên Hành Trình), Thế Nguyên (Trình bày), Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Trọng Văn (Tin Văn), Lữ Phương, Chân Tín... công khai phỉ báng chính quyền, qua các bài viết ca tụng cọng sản một chiều. Các sự kiện này, nếu xảy ra trên đất Bắc trước đó và tại VN ngày nay, liệu những người này có được toàn mạng trước VC hay không? Ðó mới là chân lý, không có gì bằng độc lập tự do, dù là tối thiểu tại VNCH từ 1955-1975.

              

              

    Sau này khi chiến tranh kết thúc vào tháng 5-1975, tất cả đầu não của VC đã lần lượt thú nhận rằng “không thể chiến thắng Quân đội Hoa Kỳ, Ðồng Minh và VNCH tại chiến trường” nên chỉ còn mong đợi vào mặt trận chính tri, qua các phong trào phản chiến khắp nơi. Cuối cùng CS đã đánh gục đối phương trên bàn giấy, tại các thủ đô Hoa thịnh Ðốn, Ba Lê, Luân Ðôn, Ðông Kinh và Sài Gòn-Huế-Ðà Nẵng...

    Hệ quả thứ hai là những nỗ lực của phản chiến đã làm cho Miền Nam VN rơi vào tay VC, chứ không phải do chiến thắng quân sự mang tới. Quá rõ ràng mà ai cũng thấy được, là Tết Mậu Thân 1968, VC hầu như đã bị tiêu diệt khắp Miền Nam, kể cả thành phố Huế. Sau đó là những cuộc hành quân Toàn thắng của Liên quân Việt-Mỹ, đánh sang lãnh thổ Kampuchia năm 1970, Hạ Lào 1971, cắt đứt, tiêu diệt gần hết các mật khu, căn cứ của Hà Nội đã thiết lập trên đường mòn Hồ Chí Minh, từ Hạ Lào chạy suốt tới hải cảng Sihanouk của Miên, trên vịnh Thái Lan. Sau đó vào mùa hè đỏ lửa 1972, Bắc Việt lại càng thêm đại bại, khắp các Mặt trận Quảng Trị, Kom Tum, Bình Ðịnh, An Lộc...

    Ngay tại Miền Bắc, khắp nơi bị Hoa Kỳ oanh tạc khủng khiếp, sắp kéo cờ trắng đầu hàng... thì Nixon và Kissinger lại bày ra Hiệp định ngưng bắn cuội, giả mạo tại Paris 1973, bỏ lở cơ hội “chiến thắng cuối cùng của quân dân VNCH” trước cọng sản đệ tam quốc tế.

    Nhờ phản chiến, VC đã chiến thắng và có cơ hội đô hộ được cả nước bằng chế độ cọng an toàn trị, bất nhân và dã man nhất trong dòng sử Việt, kể cả 10 thế kỷ bị Bắc thuộc và 100 năm sống dưới gót sắt của thực dân Pháp, vẫn không thể so sánh nổi với cuộc sống tối tăm, đói nghèo, mất tự do tình người và nhân cách VN, suốt mấy chục năm qua, trong địa ngục trần gian, được mệnh danh là Thiên Ðàng Xã Nghĩa VC.

    Nói một cách khác, những người phản chiến bất cứ ở đâu trong cuộc chiến VN vừa qua, đã là thủ phạm chính, cùng với cọng sản quốc tế Bắc Việt, đã gây ra bao cuộc chết chóc thảm khốc cho hằng triệu người, từ lính tới dân của cả hai phía. Nhờ bọn phản chiến đem chiến thắng dâng vào tay VC, cho nên sau đó VC đã có dịp thảm sát hàng trăm ngàn người dân Miền Nam.. Nhờ phản chiến, nên có hàng trăm ngàn người Miền Nam cả dân lẫn lính, người thường và các nhà tu hành, văn nghệ sĩ, bị nhốt vào các nhà tù vĩ đại của VC khắp nước, kể cả vùng biên giới Việt-Hoa-Lào-Kampuchia..

    Phản chiến còn giúp VC trở thành kẻ nắm quyền sinh sát cả nước, ngu dốt qua các kế hoạch kinh tế theo chủ nghĩa điên khùng Mác-Lê-Mao-Hồ, khiến cho dân chúng VN, từ ấy đến nay, sống ngất ngư xác xơ nghèo đói. Cuối cùng nhờ phản chiến, mà VC mới có dịp công khai, đem mảnh giang sơn VN, từng hồi, từng dịp cắt, bán, biếu và dâng hiến cho kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng. Nhờ phản chiến, nên người phụ nữ VN ngày nay, trở thành món hàng không thua súc vật, bị bày bán khắp các nước Á Châu, từ Trung Hoa, Ðài Loan, Hồng Kông, Nam Hàn, Tân Gia Ba, Thái Lan, Mã Lai... Ở đâu họ cũng bị chà đạp, hành hạ thể xác, tinh thần, trơ trọi tủi thân, đâu mấy ai, kể cả bọn phản chiến ngày xưa, nay đang đầy rẩy ở hải ngoại, biết tới nhưng có biết, liệu bọn chúng có dám nhận tội hay ăn năn, sám hối như ký giả Mỹ David Horowitz.

    Nên ta có thể nói được “nếu VNCH không có Dân Chủ-Tự Do” thì Miền Nam VN sẽ vĩnh viễn không bao giờ có Đại Họa 30-4-1975 như tại Đài Loan, Đại Hàn..là những đồng minh Mỹ cũng bị tố cáo là tham nhũng Nhưng các nước này đã tồn tại được tới ngày nay, vì đã biết cách trị nước theo kiểu “đi với Phật thì mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy”.

    Ngày 14/6/2011, Văn Khố Quốc Gia (National Archives) của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, đã phải cho giải mật (declassify) 7000 trang hồ sơ về những vấn đề của Việt Nam và Đài Loan trước 30-4-1975.. Sau đó, National Security Archive tại George Washington University công bố thêm 28,000 trang hồ sơ, trong đó có những mẫu đối thoại chi tiết giữa hai Ngoại Trưởng Henry Kissinger và Chu Ân Lai, càng làm cho hầu như cả thế giới (từng là đồng minh hay chiến hữu của Hoa Kỳ) nhìn ra sự thật phũ phàng, qua việc siêu cường số 1 đứng đầu khối tự do, vì quyền lợi cá nhân đã bán đứng Việt Nam Cộng Hòa và Đài Loan để đổi lấy sự hòa hoản và giao thương với Trung Cộng. Xét cho cùng, việc làm trên chẳng qua cũng chỉ là để xác nhận một cách chính thức những tài liệu ông Daniel Ellsberg tung ra trước đó là chính xác, với hy vọng chấm dứt những thị phi bất lợi về chữ tín của Mỹ trên thế giới, nhất là trong giai đoạn Hoa Kỳ rất cần nhiều đồng minh mới lẫn cũ, khi có ý định trở lại Châu Á-Thái Bình Dương hiện nay, chắc là để cùng Trung Cộng tiếp nối những giao kết bí mật còn dang dỡ của bốn mươi mươi năm về trước ?

    Tài liệu trên đã làm lộ bộ mặt thật của Kissinger, qua nhiều hồi ký đã xuất bản nay không còn giá trị vì nhiều điều viết đều sai với những chi tiết trong tài liệu này. Tóm lại Henry Kissinger viết là để đánh bóng cá nhân và để chạy tội cho bàn thân. Tài liệu lịch sử của Văn Khố cho thấy chính sách của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là đặt quyền lợi nước Mỹ trên hết, bất chấp sự phản bội những đồng minh cũng như đã giấu giếm và lừa đảo cả chính dân chúng và Quốc Hội Hoa Kỳ. Do ác tâm trên, nên từ đầu thập niên 1970, Hoa Kỳ vì cần bắt tay với Trung Cộng đối phó với Liên Xô, nên nhẫn tâm loại Đài Loan ra khỏi Liên Hiệp Quốc và đưa Tàu đỏ vào thay thế vị trí này, đồng thời còn công nhận chỉ có một nước Tàu và Đài Loan chỉ là một tỉnh của Trung Cộng cho đến ngày nay vẫn không thay đổi.

    Tài liệu cũng cho thấy Hoa Kỳ quyết định bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa để mặc cộng sản Bắc Việt chiếm trong lúc Mỹ-Việt đang liên minh quân sự chống kẻ thù chung VC. Quan trọng nhất là Mỹ đã cam kết với Tàu đỏ sẽ phủi tay và bỏ ngõ Đông Nam Á và Biển Đông cho Trung Cộng tạo ảnh hưởng trong vài thập niên. Tài liệu còn ghi rõ vào dịp giáng sinh năm 1972, Bắc Việt rất hổn loạn và đang chuẩn bị đầu hàng vì không chịu nổi B-52 bỏ bom ở Hà Nội, nếu Hoa Kỳ tiếp tục bỏ bom thêm 2 tuần nữa thì VC đã đầu hàng. Nhưng vì đã thỏa thuận với Bắc Kinh nên Henry Kissinger và Tổng Thống Richard Nixon ngưng bỏ bom trong lúc chiến thắng đang gần kề, thay vào đó lại ký hiệp định ngưng bắn 28-1-1973 tại Ba Lê như một văn kiện bán đứng Miền Nam VN cho cộng sản đệ tam quốc tế!

    Nhưng quan trọng nhất trong cái mà người Mỹ gọi là “hậu chứng Việt Nam” có lẽ và chắc chắn không có tài liệu nào xác thực hơn bài báo của ký giả Thomas Fuller.vừa được đăng trên trang nhất của tờ New York Times nhân dịp Quốc Hận 30-4-1975 của VNCH. Ông viết về thực trang của đảng CSVN trên đất Việt từ sau ngày 30-4-1975. Bài báo được viết sau khi người ký giả Mỹ từ VN trở về, qua mắt thấy tai nghe nên đã ghi lại chỉ một phần nhỏ những sự việc qua mắt trần trong đời thực. Nhưng dù chỉ một phần ít ỏi hoàn cảnh xã hội được khai quật, tác giả cũng đã nói lên được “thực chất thiên đàng xã nghĩa VN” sau 38 năm qua. Điều quan trọng nhất là ông đã mạnh dạn lột trần bộ mặt thật của những tên phản chiến trong quá khứ, đã góp phần đưa CSVN cưởng đoạt được VNCH, gây nên cảnh “nhà tan nước mất ngày nay”. Cuối cùng người ký giả Mỹ đề nghị những người này nên tự xữ và phải xin lỗi quốc dân, nếu chúng còn có chút lương tâm!





    Tài Liệu Tham Khảo:
    • - Chín năm máu lửa dưới chế độ NĐD (Nguyệt Đạm-Thần Phong)
      - Trong lòng địch (Trần Trung Quân)
      - Từ áo cà sa đến thập tự giá (Huệ Nhật)
      - Đông Dương 1945-1973 (Nhiều tác giả)
      - Hai ngàn năm VN và Phật Giáo (Lý Khôi Việt)
      - Ton Giáo-Chính Trị 1963-1967 (Chánh Đạo)
      - Đảng Cần Lao (Chu Bằng Lĩnh)
      - Tâm Thư (Đổ Mậu)
      - Ba năm xáo trộn (Lý Chánh Trung)
      - Đối diện chiến tranh (Lý Chánh Trung)
      - Thiên Hùng Ca VNCH (Phạm Phong Dinh)
      - Huế: Thảm sát Mậu Thân 1968 (Liên Thành)
      - Sau bức màn đỏ (Hoàng Dung)
      - Sách Báo trong và ngoài nước...


    Xóm Cồn Hạ Uy Di
    Quốc Hận 30-4-2013

    Mường Giang


    https://hon-viet.co.uk/MuongGiang_SeKho ... DanChu.htm
Ngoc Han
Bài viết: 1582
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Bóng Tối Ngày Ba Mươi Tháng Tư Vẫn Ngập Ngụa

Bài viết bởi Ngoc Han »





Bóng Tối Ngày Ba Mươi Tháng Tư Vẫn Ngập Ngụa
Nguyễn ngọc Già


Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Ngôi mộ hoang và người tình!

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • Ngôi mộ hoang
    và người tình!

    ___________________________
    Lai Khê





    Vào cùng thời điểm nầy năm 1976 khi đang còn trong tù “cải tạo”, tôi bị kiết lỵ không có sức đi lao động nên được điều động vào toán “cải hoạt”. Rất may trong trại có hai ông bác sĩ quân y nên tôi được điều trị tạm ổn. Tuy không có thuốc men gì nhưng hai vị từ mẫu nầy đã chăm sóc cho tôi bằng cách cho uống nước nấu chín pha muối. Vậy mà dần dần lại hết. Cả ngày tôi chỉ lo trồng trọt chung quanh trại như mướp, bầu, bí, rau muống, củ mì, chuối, ... kiếm thêm thức ăn phụ cho phần ăn không có bao nhiêu của mỗi người tù. Mỗi ngày chúng tôi chỉ có khoảng hai chén cơm, thêm chút khoai sắn, rau muống luộc hay bầu bí luột cho đỡ đói. Trong tổ tôi có Phát, Thiếu úy dù, mới cưới vợ được tám tháng là tan hàng. Nó bị thương trong trận rút quân từ vùng I. Đang nằm Tổng y viện Cộng Hòa thì bị đuổi về địa phương trình diện và bị tống vào trại tù “cải tạo” với bọn tôi. Ngày nhập trại ngực nó còn chảy nước vàng, hai ông từ mẫu cũng dùng nước muối rửa vết thương cho nó, vậy mà cũng lành nhưng nó rất yếu. Ban quản giáo cho nó vào chung toán “cải hoạt” với tôi.

    Ngày chúng tôi được cho thăm nuôi lần đầu, Mẹ tôi đến thăm tôi cùng lúc với Chị Phát đến, nên tôi được gặp chị. Đúng là trai tài gái sắc, chị ngày xưa nổi tiếng ở vũ trường Tự Do, thằng Phát thì gan lì trong chiến trận. Chị có nét đẹp liêu trai, không kiêu sa nhưng có cách ăn nói rất hấp dẫn người đối diện. Đêm đó hai thằng thức cả đêm ôn lại thời quá khứ huy hoàng. Nó gặp Hương (Chị Phát) ngày còn trong Thủ Đức. Nó đi phép cuối tuần về Sài Gòn thì gặp Hương, lúc đó mới vào nghề tại vũ trường Tự Do. Ngày nó trình diện Sư đoàn dù cũng là ngày hai đứa mới hứa hôn, một năm sau nó được phép về làm đám cưới. Chưa đầy tám tháng thì vợ phải đi thăm nuôi chồng tù cải tạo.

    Phát vì vết thương ở ngực mà mất sức, cuộc đời tù “cải tạo” thiếu thốn mọi bề làm cho sức cùng, lực kiệt. Đêm nó nhắm mắt lìa đời kế bên tôi, chỉ hổn hển vài lời trăn trối nhờ tôi nhắn lại. Ý nguyện chỉ vỏn vẹn cho Hương nên lập lại cuộc đời chứ đừng vì nó mà sống cảnh góa bụa. Chúng tôi gói xác Phát vào manh chiếu nó ngủ mọi đêm và chọn sườn đồi sau trại làm nơi an nghỉ cuối cùng của một người tù xấu số. Ngày tháng trôi đi, gần một năm sau thì chị Phát trở lại. Nét đẹp tuy vẫn còn trên gương mặt gầy yếu, vài nét nhăn trên khóe mắt vầng đen có lẽ vì thiếu ngủ. Tôi đón chị tại cổng trại sau khi “ban quản giáo” cho phép đưa chị đi thăm mộ Phát. Con đường dẫn đến sườn đồi tuy gần nhưng lúc đó như xa vạn dặm. Một tay tôi dìu chị khập khững bước lên dốc đồi, tay kia thì xách giỏ cho chị. Trong giỏ chỉ vỏn vẹn mấy cây đèn cầy, bó nhang và ít trái cây. Tôi lén nhìn sang chị, khuôn mặt chị lúc ấy rất nghiêm nghị lẫn suy tư như đang nghĩ một chuyện gì rất mông lung, xa vời...

    Khi đến mộ Phát, tôi cố dọn sạch mấy đám cỏ hoang chung quanh, mấy tháng không người chăm sóc nên cỏ mọc um tùm. Tôi phải vất và hơn 15 phút mới tạm ổn, có chỗ cho chị bày nhang đèn hoa quả ra cúng. Tôi bước xuống chân đồi, cố tình để chị có những giây phút riêng tư với Phát. Tôi giữ khoảng cách rất xa, gần cuối chân đồi nhưng tôi vẫn nghe những tiếng khóc nỉ non, âm ỉ những thương nhớ. Dư âm của nó cứ tan đi rồi cuộn lại giữa vùng đồi hoang dại. Lúc não nề ai oán, lúc chùng xuống, dài thê lương. Tôi lén nhìn về hướng chị, tóc chị xõa xuống ngang vai, quì bên ngôi mộ. Vài cơn gió thổi qua đám lau sậy đưa mùi nhang thoảng qua đám cỏ vô tri. Ngôi mộ từ lâu bị bỏ hoang, nay có người dọn dẹp, lung linh ngọn nến vàng cùng nén nhang đang cháy với những đợt khói vòng lên, lan tỏa, quyện lại, chợt biến, chợt tan. Linh hồn Phát nằm dưới đáy mộ như đã an phận nay như sống lại, dật dờ với cỏ cây!

    Tôi không dám động đậy, không dám nhúc nhích, không dám ho cho dù lồng ngực tôi nặng , con tim tôi như bị đè nén, bóp chặt. Chị khóc, khóc chán rồi kể lể như thủ thỉ, nỉ non lời yêu đương, ngọt ngào tình vợ chồng. Như sầu muộn khi đang bơ vơ với cuộc đời lam lũ, như phẫn nộ cho những bất công vây phủ. Tôi muốn quay mình chạy trốn nhưng chân tôi như chôn cứng trên đám cỏ dại, có cái gì như thôi thúc tôi ở lại dể chiêm ngưỡng tình yêu tuyệt vời của chị dành cho Phát. Chị bỗng đứng phắt dậy, vuốt lại quần áo thẳng thớm. Với đôi mắt ráo hoảnh, chị nhìn thẳng vào mộ bia, xong quì xuống lạy và lâm râm khấn vái. Tôi không nghe rõ được lời chị khấn nhưng với cử chỉ của chị, tôi biết chị đã đi đến một quyết định. Một tay chị gom lại bờ tóc xõa, tay kia chị nâng cây kéo đã thủ sẳn trong giỏ. Lọn tóc đen của chị được cắt ngọt theo cánh tay tuy yếu mềm nhưng có đầy đủ nghị lưc. Hai tay chị đỡ lọn tóc lên ngang mặt, lạy trước ngôi mộ Phát rồi đặt lọn tóc lên mộ bia. Chị không còn khóc nữa, tôi chỉ thấy đôi mắt chị nhìn thẳng vào khoảng không như chới với. Chị quay ngang và bước những bước chân lảo đảo xuống chân đồi. Thẫn thờ, lòng tôi vỡ toang từng mảnh vụn. Tôi muốn chạy theo dìu chị, an ủi chị nhưng tôi không biết phải làm sao. Tôi chỉ thấy chung quanh vắng lặng đến rùng rợn, đến rã rời. Tôi không nhúc nhích với cõi lòng trĩu nặng, chìm đắm trong im lặng vô cùng. Làm sao tôi có thể an ủi chị khi cả chính tôi còn không thể nào tự an ủi lấy chính mình.

    Tôi ngồi phịch xuống tảng đá bên đường ôm mặt khóc nức nở!




    Lai Khê

    https://hon-viet.co.uk/LaiKhe_NgoiMoHoa ... oiTinh.htm
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”