- 30/04/2021 - tưởng niệm 46 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2021 - tưởng niệm 46 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Những trại tù học tập cải tạo sau ngày 30-4-1975






    – Hai mươi ngày trước khi Sài Gòn sụp đổ, nhà văn Nga Alexandre Soljenitsyne, giải Nobel văn học năm 1970, tuyên bố trên đài truyền hình Paris rằng “Việt Nam sẽ trở thành một nhà tù khổng lồ.” (Michel Tauriac, Hồ sơ đen Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn Văn dịch, California: Văn Mới 2002, tr. 36.) Alexandre Soljenitsyne (1918-2008) là nhà văn Nga chống chế độ Liên Xô, viết nhiều kịch và tiểu thuyết, nổi tiếng là Một ngày của Ivan Denisovich (1962), Quần đảo ngục tù (The Gulag Archipelago) (tập 1 và 2 năm 1974, tập 3 năm 1976).
    Alexandre Soljenitsyne tiên đoán như trên dựa theo kinh nghiệm bản thân tại quê hương ông là Liên Xô và những diễn tiến tại Đông Âu và Trung Cộng.

    Tại Nga năm 1917, sau khi cầm quyền, CS thiết lập chế độ tù cải tạo vào những năm 1918-1921 và hợp thức hóa bằng luật pháp năm 1933. Tại Trung Cộng, chính sách “lao cải” (lao động cải tạo) được chính thức hóa ngày 26-8-1954 và hội đồng chính phủ chấp thuận thủ tục thi hành chính sách lao cải vào tháng 8-1957. (Phạm Hữu Trác, “Tù cải tạo: Trình bày và phân tích dữ kiện”, đăng trong Vàng, Máu và Nước Mắt, Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do: Canada, 2000, tr. 19.)

    Sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, đại đa số công chức, quân nhân chính thể Quốc Gia Việt Nam di cư vào Nam Việt Nam (NVN). Chỉ một số ít còn lại ở Bắc Việt Nam (BVN), liền bị chế độ cộng sản (CS) bắt giam, tù đày. Chính sách cải tạo do quốc hội BVN chính thức quy định vào năm 1961 trong nghị quyết 49-NQTVQH và thông tư số 121-CP của hội đồng chính phủ đặt ra các biện pháp thi hành nghị quyết nầy. (Phạm Hữu Trác, bài đã dẫn.)

    Năm 1975, trước khi tấn công Sài Gòn, Ban bí thư Trung ương đảng Lao Động từ Hà Nội đưa ra chỉ thị số 218/CT-TW ngày 18-4-1975, quy định chính sách đối với công chức và sĩ quan VNCH bị bắt như sau:
    “Đối với sĩ quan, tất cả đều phải tập trung giam giữ quản lý, giáo dục và lao động; sau nầy tùy sự tiến bộ của từng tên sẽ phân loại và sẽ có chính sách giải quyết cụ thể. Những người có chuyên môn kỹ thuật [kể cả lính và sĩ quan] mà ta cần thì có thể dùng vào từng việc trong một thời gian nhất định, nhưng phải cảnh giác và phải quản lý chặt chẽ, sau nầy tùy theo yêu cầu của ta và tùy theo sự tiến bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các ngành ngoài quân đội. Đối với những phần tử ác ôn, tình báo, an ninh quân đội, sĩ quan tâm lý, bình định chiêu hồi, đầu sỏ đảng phái phản động trong quân đội, thì bất kể là lính, hạ sĩ quan hay sĩ quan, đều phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ riêng ở nơi an toà và quản lý chặt chẽ.” (Huy Đức, Bên thắng cuộc, I: Giải phóng, Saigon – Boston – Los Angeles: Osin Book, 2012, Chương 2: “Cải tạo”, mục “Ngụy quân’, tr. 39.)

    Sau ngày 30-4-1975, nhà cầm quyền mới ở Nam Việt Nam (NVN) là Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam do đảng Lao Động tức đảng CS điều khiển, bắt giam tất cả những sĩ quan, công chức cao cấp của chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) nhằm các mục đích chính: 1) Triệt hạ vĩnh viễn quân đội và chính thể VNCH. 2) Giam giữ, bạo hành, trả thù, làm cho tù nhân sợ hãi, không dám chống đối chế độ mới. 3) Tiêu diệt tiềm lực VNCH, vì những người bị bắt học tập cải tạo ở độ tuổi trung niên để làm việc, sản xuất hay tranh đấu, có trình độ văn hóa trung bình cao so với trình độ văn hóa chung của toàn dân. 4) Bóc lột sức lao động của tù nhân, đưa đi canh tác những vùng đất bỏ hoang thời chiến tranh. 5) Đe dọa, trấn áp những gia đình có thân nhân bị tù. Nếu gia đình chống đối, thì tù nhân khó được trở về đoàn tụ gia đình. 6) Làm gương cảnh cáo dân chúng NVN, nếu vọng động thì sẽ bị số phận học tập cải tạo dài hạn không xét xử, làm ai cũng khiếp sợ.

    Kế hoạch của CSVN nhằm tiêu diệt hoàn toàn quân đội VNCH rất tinh vi, chia thánh hai phần: 1) Thứ nhứt, vào giữa tháng 6-1975, CSVN ra lệnh cho hạ sĩ quan và công chức cấp thấp VNCH học tập tại chỗ các khóa chính trị tử đến 7 hay 10 ngày tùy địa phương. 2) Thứ hai, CSVN ra lệnh sĩ quan VNCH từ cấp thiếu úy trở lên và công chức cao cấp VNCH phải trình diện từ 13-6 đến 16-6-1975 và chuẩn bị lương thực 30 ngày, để học tập chính sách của “chính phủ cách mạng” trong một tháng. (Bác sĩ Trần Vỹ, “Đời sống trong trại giam ở miền Bắc”, đăng trong Vàng, Máu và Nước Mắt, sđd. tt. 239-250.)






    Khi đại đa số sĩ quan, công chức VNCH trình diện, thì tất cả bị đưa đi giam trong các trại tù mà CS gọi là trại học tập cải tạo trên các vùng rừng thiêng nước độc, không tuyên án và không thời hạn. Nếu bỏ trốn, không trình diện mà bị CS bắt, sẽ bị án phạt nặng nề. Sau những tuyên truyền huyễn hoặc thời chiến tranh trước năm 1975, đây là cuộc lừa phỉnh công khai vĩ đại của CSVN sau năm 1975 tại NVN, ghi đậm thành tích lừa dối phỉnh gạt của CSVN.

    Người tù phải học tập chính sách của nhà nước CS, chủ nghĩa Mác-Lê, phải lao động từ sáng đến tối, dọn mìn, phá rừng, sản xuất, trồng trọt, làm gạch ngói, dựng nhà… Người tù đau ốm không thuốc thang, ăn uống thiếu thốn, đói quanh năm, khẩu phần rất thấp, so với khẩu phần của một tù nhân CS dưới chế độ VNCH. (Bác sĩ Trần Vỹ, bài đã dân.)

    Theo bộ Encyclopedia of the Vietnam War, sau năm 1975, số lượng sĩ quan, công chức và cán bộ VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người trên tổng dân số NVN lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó khoảng 500,000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200,000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60,000 người bị giữ lại. (Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Vol. two, Santa Barbara, California: 1998, tr. 602. Sách trích tài liệu của Sagan, Ginette and Stephen Denney, Violations of Human Rights in the Socialist Republic of Vietnam, Palo Alto, California: Aurora Foundation, 1983.)

    Trong số trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù “cải tạo”. (Anh Do & Hieu Tran Phan, “Millions of lives changed forever with Saigon’s fall”, nhật báo Orange County Register, Chủ Nhật, 29-4-2001, phụ trang đặc biệt về ngày 30-4, tt. 2-3.) Cộng sản hứa hẹn sẽ thả ra khỏi tù những ai học tập cải tạo tốt, nhưng không có tiêu chuẩn xác định thế nào là cải tạo tốt, nên chẳng ai hiểu thế nào là học tập cải tạo tốt để được thả ra. Và cứ thế, CS tùy thích giam cầm quân nhân, công chức VNCH không thời hạn theo sáng kiến của CS.

    Kết luận

    Đúng như văn hào Nga Alexandre Soljenitsyne, giải Nobel văn học năm 1970, tiên đoán trước ngày 30-4-1975, “Việt Nam sẽ trở thành một nhà tù khổng lồ.”

    Chuyện sĩ quan, công chức cao cấp Việt Nam Cộng Hòa bị bắt giam, bị đày đọa trong các trại tù học tập cải tạo dưới chế độ CS sau năm 1975 là chuyện dài bất tận, vì đàng sau các sự kiện và số liệu trên đây, là nỗi đau khổ triền miên trong gia đình những tù nhân là những chiến sĩ đã tranh đấu cho sự sống còn của chính chúng ta, cho nền tự do dân chủ chẳng những miền NVN mà cho cả toàn quốc nữa..

    Cuối cùng, để kết luận, xin được phép nhắc lại lời cuối trong bản nhạc “Cơn mê chiều” của nhạc sĩ Nguyễn Minh Khôi về biến cố Tết Mậu Thân năm 1968 tại Huế, qua cách trình bày tha thiết của nữ ca sĩ Thái Thanh, “Và người ơi xin chớ quên, người ơi xin chớ quên….

    Vâng, xin đừng bao giờ quên những đau thương cùng cực của những chiến sĩ VNCH; đừng bao giờ quên lý tưởng tự do dân chủ cao cả mà những chiến sĩ VNCH đã tận tình bảo vệ. Và cũng đừng bao giờ quên tội lỗi của CSVN, một chế độ “tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tân Thủy Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài. Nó tàn phá cả một dân tộc, hủy hoại tinh anh của nhiều thế hệ. Xét đến cùng, đó là tội nặng nhất về sự vi phạm nhân quyền…” (Trần Độ, Nhật ký rồng rắn, trích đăng trên Việt Báo Online (vietbao.com) số 3489 ngày 21-10-2004.) (Nguồn: Chiến tranh 1954-1975, sẽ xuất bản.)


    (Toronto, tháng 4-2021)
    Trần Gia Phụng



    Nguồn:https://vietluan.com.au


              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Bản Tin Cuối Cùng Ngày 29 tháng 4 năm 1975 của Đài Phát Thanh Sài Gòn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          






Bản Tin Cuối Cùng Ngày 29 tháng 4 năm 1975
của Đài Phát Thanh Sài Gòn

          


          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Hòa Giải, cần bất đầu từ đâu ?

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  •           
    Hòa Giải,
    cần bất đầu từ đâu ?

    ___________________________
    J.B Nguyễn Hữu Vinh
              





              

              



    Ngày hôm nay, kỷ niệm lần thứ 46 ngày Việt Nam Cộng Hòa thất thủ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hoàn thành công cuộc cưỡng chiếm một quốc gia được quốc tế công nhận, có một chính quyền do người dân bầu lên, có một nền văn hóa và trình độ xã hội cao hơn hẳn chế độ đi cưỡng chiếm.

    Những người cộng sản gọi đó là “Chiến thắng”. Những người Việt Nam Cộng Hòa gọi là ngày mất nước. Những ẩn ức tâm lý đó đã qua thời gian đến gần nửa thế kỷ.

    Nửa thế kỷ sau khi kết thúc một cuộc chiến mà tên gọi của nó cho đến nay chưa hoàn toàn được đồng ý từ mọi phía. Và do vậy, ngày kết thúc chiến tranh chưa có một cái tên khả dĩ được hầu hết mọi người chấp nhận.

    Nửa thế kỷ sau khi cuộc chiến kết thúc, người cộng sản mới công nhận một tên gọi của một quốc gia là Việt Nam Cộng Hòa, việc công nhận này trong sự khiên cưỡng không thể khác bởi một vài quan chức cộng sản.

    Trong khi đó, rõ ràng Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia theo đúng luật lệ quốc tế, các văn bản chính thức mà chính Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký kết.

    Chỉ riêng điều đó, đủ cho thấy sự “ngạo nghễ” hay “ngạo mạn” bất chấp sự thật của “kẻ chiến thắng”.

    Thật ra, cái gọi là “Chiến thắng” trong cuộc chiến bạo lực, chưa hẳn đã nói lên tính chính nghĩa và đúng đắn của phe chiến thắng. Bởi điều đơn giản nhất, dù bên chiến thắng có cho rằng đó là cuộc “Giải phóng” cho Miền Nam, thì thực tế, đó là việc đưa quân đội vượt giới tuyến để chiếm đóng một quốc gia có chủ quyền, có nhà nước dân chủ và được quốc tế công nhận.

    Cái ngôn từ “Giải phóng” đã dần dần được chỉ rõ ra rằng, chẳng có một trường hợp nào, một ai và một khi nào được gọi là giải phóng khi đem sự man rợ áp đặt vào một khu vực, một lãnh thổ hay một đất nước văn minh bằng súng đạn.

    Và phải gọi đúng tên của nó là một Cuộc xâm lược.

              

              

    Chiến tranh là một nỗi bất hạnh cho mọi đất nước, mọi dân tộc. Một đất nước, chẳng bao giờ mong muốn một cuộc chiến tranh, dù đó là cuộc chiến tranh chính nghĩa. Chỉ có khi dã tâm xâm lược lên đến đỉnh cao, thì một đất nước mới phát động chiến tranh xâm lược một đất nước khác. Hoặc chỉ có khi không thể nào khác, thì một đất nước phải đứng lên cầm súng lao vào cuộc chiến không thể trì hoãn để bảo vệ đất nước mình.

    Sau một cuộc chiến, hầu như, mọi dân tộc, mọi người đều mong mỏi sự bình an, phát triển để xóa đi những ký ức đau thương của cuộc chiến bạo tàn.

    Những người chiến thắng trong cuộc chiến chính nghĩa, phải hiểu rằng dù là ai của bên chiến bại, họ cũng là những người đồng bào, đồng chủng mà có bạo tàn đến đâu cũng không thể tán sát đi tất cả. Và chính những người dân này sẽ góp phần quyết định vào việc có xây dựng được giang sơn tươi đẹp hơn hay không. Nhiều điều có thể giải quyết được trong chiến tranh bằng súng đạn tàn bạo, sẽ không thể giải quyết được trong khi xây dựng trong hòa bình.

    Những người chiến bại trong cuộc chiến tranh bị xâm lược sẽ muốn nhanh chóng quên đi những ký ức đau buồn mà cuộc chiến đem lại cho gia đình, đất nước của họ bên cạnh những ấm ức, những mất mát như những vết thương khó chữa lành.

    Những người chiến thắng trong cuộc chiến chính nghĩa, cần biết xây dựng sự bình an của xã hội, để cùng nhau phát triển đất nước, xây dựng lại cơ đồ.

    Ở đó, không thể thiếu sự hòa giải những mâu thuẫn mà cuộc chiến đã đem lại. Những mâu thuẫn đó, sẽ là cội nguồn cho sự chia rẽ, sự phân hóa, sự hận thù… và chỉ có khi hóa giải được những điều đó, thì chiến thắng mới thật sự có ý nghĩa đúng đắn.

    Và cũng chỉ khi đó, mới tập hợp được sức mạnh toàn dân tộc để đương đầu với mọi thử thách, mọi mưu đồ xâm lấn và khuất phục của kẻ thù chung của dân tộc, của đất nước.





    Người ta thấy điều gì ở nửa thế kỷ sau cuộc chiến ở Việt Nam?

    Sau cuộc chiến, những dòng người bên chiến bại và cả của những người dân bên chiến thắng đã ào ạt bỏ nước ra đi đến bất cứ nơi đâu, bất cứ chỗ nào miễn là thoát khỏi chế độ “Thiên đường” của bên “Chiến thắng”.

    Những cuộc vượt biên ào ạt, bất chấp sóng to, biển lớn và hải tặc mà cái chế cận kề, thậm chí chui vào thùng xe lạnh chấp nhận nguy hiểm để mong được thoát khỏi cái “thiên đường XHCN” mà bên chiến thắng hứa hẹn.

    Và số người Việt Nam buộc phải rời bỏ Tổ Quốc, quê hương nơi chôn rau cắt rốn của mình để lưu vong khắp mọi phương trời trên thế giới với sự ngậm ngùi: “Biết bao giờ trở về Việt Nam”.

    Hẳn nhiên, sự phản kháng của họ cũng sẽ dần tăng lên tỷ lệ với những uất ức, những oan khuất, những cay đắng và mất mát mà họ phải chịu.

    Những cuộc biểu tình phản đối, những hành động chống đối, những cuộc thăm viếng của những nhà lãnh đạo đất nước đến nơi có đồng bào, người dân của mình bị tẩy chay dữ dội và chui cửa hậu, đi lối sau đã trở thành những biểu tượng cho sự hận thù và căm phẫn.

    Và khi đó, những người cộng sản kêu gọi: Hòa giải, hòa hợp dân tộc.

    Nhưng, hòa giải như thế nào?

    Nửa thế kỷ sau chiến tranh, ngày kết thúc chiến tranh hàng năm, vẫn là những dịp kẻ cầm quyền tung hô, hò hét và gợi lại những “chiến công”, những trận đánh, những thái độ của bên chiến bại bằng hệ thống truyền thông khổng lồ.

              

              

    Họ nhảy nhót, reo vui và tung hứng lẫn nhau, đào lại, xới lên những vết thương khó chữa lành, khó hàn miệng của bên chiến bại.

    Họ xới tung, bịa đặt, bêu xấu, làm cho sự nhục nhã của bên chiến bại dâng cao trong lòng mỗi người, chỉ nhằm để thỏa mãn sự kiêu ngạo, sự “tự hào” và che lấp đi sự bất chính, sự tàn bạo đằng sau và thực chất của những “chiến thắng” đó.

    Tất cả chỉ nhằm dựng lại cái “Vinh quang” tưởng tượng mà họ đã đạt được bằng súng đạn, bằng sự tàn bạo và bất nhân, phi nghĩa.

    Và đó cũng là cách họ ăn mày dĩ vãng, sống với ảo ảnh của cái hào quang mà họ đã tạo nên bằng mọi mưu đồ, mọi giá, bằng hàng triệu sinh mạng người dân.

    Nửa thế kỷ sau chiến tranh, những dòng lý lịch, những ngôn từ dùng để chỉ bên chiến bại vẫn cứ ra rả được sử dụng, được dùng để ngăn chặn những sự tiến thân của các thế hệ sau từ bên chiến bại.

    Những cựu chiến binh, những thương phế binh của bên chiến bại vẫn tủi nhục mưu tìm cuộc sống nơi đáy xã hội mà không dám mở miệng kêu la hoặc chỉ là những lời rên rỉ.

    Và từ những đất nước xa xôi, vẫn vọng về quê hương sự cảm thông với thân phận người dân, sự căm phẫn và những lời ai oán về một chính quyền, một nhà nước ngày càng lộ rõ bộ mặt hèn với giặc, ác với dân.





    Người cộng sản phải hòa giải bắt đầu từ đâu?

    Có lẽ, khi nghe nói đến từ hòa giải, nhiều người sẽ chỉ nghĩ rằng người cộng sản Việt Nam hiện nay đang nói về những người phía bên kia của cuộc chiến đã qua, những người thuộc về bên chiến bại, những người đang sống trong hoặc ngoài đất nước nhưng không đồng tình và phản đối quyết liệt chế độ cộng sản ở Việt Nam.

    Và những người cộng sản cũng chỉ nghĩ rằng những lời hoa mỹ rằng hòa giải, hòa hợp dân tộc của họ chỉ nhằm đến những đối tượng ấy, dù họ đã buông ra đủ những từ hoa mỹ như họ là “khúc ruột ngàn dặm” là những kiều bào, con dân giòng giống Việt…

    Thế nhưng, có lẽ người cộng sản không hiểu hết ý nghĩa của từ hòa giải, hòa hợp cần phải sử dụng ở những nơi nào.

    Ngoài những đồng bào của bên chiến bại, bên thua cuộc trong cuộc xâm lược trắng trợn phải ngậm ngùi chấp nhận và thậm chí tâm lý bại trận trở thành phản xạ có điều kiện trong họ. Trong chế độ cộng sản, được hình thành bởi cuộc “Cướp chính quyền” và tồn tại bằng súng đạn,sự tàn bạo và dối trá gần một thế kỷ qua trên đất nước Việt Nam, không chỉ những người đồng bào của Việt Nam Cộng Hòa, mà ngay cả những người dân sinh ra, lớn lên trong chế độ cộng sản miền Bắc, đã dần dần hiểu ra bản chất của chế độ cộng sản.

    Đó không chỉ là cướp chính quyền, mà cướp bằng nhiều cuộc cải cách, bằng nhiều cuộc “cách mạng” mà mọi thứ, từ nhân phẩm, quyền sống, quyền tự do tối thiểu của con người bị tước đoạt.

    Và họ đã lên tiếng, họ đã phản đối.

    Họ phản đối những chính sách bất nhân lấy cướp làm đầu bất chấp nhân nghĩa, công lý, công bằng và sự thật. Họ phản đối một chế độ lấy tham nhũng làm cốt lõi cho sự tồn tại, coi người dân như cỏ rác, mọi hành động và nguồn lực, đều chỉ nhằm củng cố chiếc ghế cai trị trên đầu, trên cổ người dân.

    Họ phản đối một nhà cầm quyền mạo danh “Của dân, do dân và vì dân” nhưng được hình thành và củng cố bởi súng đạn và lừa đảo.

    Họ phản đối những chính sách cho phép họ cướp tài sản, đất đai của họ bao đời xây dựng, chỉ bằng ý thích của một quan chức cộng sản, lập tức bị lực lượng vũ trang tấn công, đàn áp, thảm sát.

    Họ phản đối tài nguyên đất nước bị bóc sạch, đào sạch bán đổ bán tháo nhằm cho đầy túi quan tham trong đảng lãnh đạo.

    Họ phản đối thái độ ươn hèn trước giặc ngoại xâm, thái độ “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về dày mả tổ”, tiếp tay cho ngoại xâm và đàn áp tàn bạo những người yêu nước.

    Và họ được đảng, nhà nước ưu ái dành cho chỗ ở trong nhà tù.

    Nhà cầm quyền cộng sản, muốn có sự hòa hợp, hòa giải, trước hết cần phải hòa giải đối với họ, đối với những tấm lòng yêu nước, vì cộng đồng, vì xã hội mà lên tiếng chứ không cần những lời mỹ miều được nhắc đi nhắc lại rằng: Tôn trọng những ý kiến phản biện nhưng hành động ngược lại. Bởi trong xã hội không có tiếng nói phản biện thì hẳn nhiên mọi sự suy đồi sẽ có cơ hội phát triển.

    Cũng không chỉ là những người dân, những người có thân phận cọng rơm, cái kiến trong xã hội, mà ngay cả những công chức, công an, thậm chí quan chức cấp cao cũng đã bằng cách này hay cách khác thể hiện sự bất mãn rất có lý của họ về hệ thống tham nhũng, hà hiếp người dân, phe cánh và cả những chính sách sai lầm hại nước của nhà cầm quyền hiện nay.

    Và họ được đảng đưa vào lò, thành củi trong những cuộc thanh trừng nội bộ, trong những hành động trù dập, trấn áp.

    Nếu nhận thấy sự hòa giải là cần thiết, nhà cầm quyền cộng sản cần hòa giải với chính họ, chính những công chức trong hệ thống cầm quyền, để họ có thể yên tâm lo lắng cho công việc của họ, hoàn thành trách nhiệm được giao và góp phần xây dựng xã hội, đất nước.

    Thậm chí, không chỉ các quan chức lên tiếng, mà cả những cá nhân đảng viên, quan chức đang im lặng, điều ai cũng biết rằng trong mỗi cá nhân, dù là người cộng sản, cũng chứa một trái tim, và ở trong trái tim đó, có chứa những tình cảm con người, gia đình, bạn bè, xã hội và cộng đồng.

    Những trái tim của họ sẽ không thể nào im lặng trước những chính sách, hành động bất nhân của nhà cầm quyền đối với nhiều vấn đề xã hội và đất nước.

    Vậy nhà cầm quyền cộng sản cần hòa giải thì trước hết, họ cần sự hòa giải với chính tâm hồn của họ, với những tiếng nói lương tâm của họ, với những sự thôi thúc của sự thật, của tính người trong họ.

    Do vậy, chuyện hòa giải của người cộng sản hôm nay, không chỉ là những người Việt ở năm châu, những “khúc ruột ngàn dặm” hay thế lực chống đối, phản biện ở nước ngoài. Mà trước hết, họ cần hòa giải với mọi thành phần xã hội, với những người dân trong nước.

    Và trước hết, là hòa giải với chính tính người, chính lương tri của từng cá nhân trong họ.








    Ngày 30/4/2021
    J.B Nguyễn Hữu Vinh



    https://www.rfavietnam.com/node/6784
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

30/4 dấu mốc không thể quên đối với người Việt bất cứ nơi nào trên thế giới

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  •           
    30/4
    dấu mốc không thể quên
    đối với người Việt bất cứ nơi nào trên thế giới

    ___________________________
    29/04/2021 _ Hà Vũ
              





    Mỗi năm, cứ đến cuối tháng Tư là người Việt Nam ở hải ngoại đều tưởng nhớ đến một cơn đại hồng thủy, một cơn lốc xoáy kinh hoàng làm thay đổi lịch sử mà dấu mốc chính là ngày 30/4/1975, khi Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, Đại tướng Dương Văn Minh, lên tiếng đầu hàng Cộng Sản Bắc Việt.

    Cuộc chiến tranh Việt Nam có lẽ là cuộc chiến gây nhiều tranh cãi nhất với ý nghĩa lịch sử của nó.

    • “Đối với cộng sản Bắc Việt, dù được ngụy trang dưới tên gọi là giải phóng miền Nam, sự thật là xâm lược miền Nam theo chỉ thị và viện trợ dồi dào của Liên Xô, Trung cộng, nhằm bành trướng chủ nghĩa cộng sản ở vùng Đông Nam Á. Đối với Việt Nam Cộng hòa, đây là cuộc chiến đầy chính nghĩa với nhiều hy sinh gian khổ của toàn thể quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa nhằm bảo vệ lý tưởng tự do dân chủ cho miền Nam,”
    ông Lê Văn Quan, cựu Trưởng ty Hành chánh tỉnh Gò Công từng bị tù ‘cải tạo’ gần 6 năm và là một người tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ, nói về ngày 30/4.

    46 năm trôi qua, người Việt tị nạn sinh sống tại Mỹ vẫn truyền tay, truyền khẩu những câu chuyện về ngày 30/4, những câu chuyện từ người thật việc thật, từ trải nghiệm của các gia đình miền Nam phải bỏ nước ra đi, những mảnh ghép chân thực của lịch sử mà không sử sách nào có thể mô tả đầy đủ để thế hệ tiếp nối hiểu đúng về lịch sử và chiến tranh Việt Nam, về làn sóng người Việt lưu vong.

    • “Chỉ có cha mẹ mới nói để con cái hiểu rõ ra. Ngoài ra, cũng có số đã nhận thức được thực chất của cuộc chiến. Họ sẽ nói cho các bạn bè khác về thực chất cuộc chiến của chúng ta,” ông Quan nói.

    Đối với ông Đặng Văn Âu, bút danh Bằng Phong, cựu Thiếu tá Không quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa, thì truyền đạt cho con cháu về lịch sử nguồn cội còn là để khuyến khích thế hệ trẻ đóng góp cho một đất nước Việt Nam tự do-dân chủ thực thụ.

    • “Mình ươm trồng những mầm non cho con cái mình để cho nó không quên được các nghĩa vụ đối với non sông. Giống như người Do Thái, họ lưu lạc bao năm nhưng họ vẫn trở về bởi vì họ truyền thụ lại tất cả những tư tưởng trở về cố hương của những người đi trước,” ông Âu diễn giải.

    Được hỏi về kỳ vọng đối với thế hệ hậu 75 tại Việt Nam, những người sinh trưởng và được đào tạo theo chủ nghĩa cộng sản, ông Quan chia sẻ:
    • “Đối với thế hệ trẻ của Việt Nam hiện nay, tôi không bi quan lắm vì chúng ta thấy rằng hiện nay những tâm lý bài xích Trung Cộng của người dân Việt Nam rất cao. Người dân Việt Nam vẫn chưa quên được mối hận ngàn năm Bắc thuộc. Và hiện nay trong xã hội cộng sản Việt Nam, dù đã dùng bạo lực để thống trị người dân, nhưng vẫn có những cá nhân, những đoàn thể xã hội mạnh mẽ lên tiếng chống đối lại chủ nghĩa cộng sản hiện nay của Việt Nam và sự chống đối này, tôi tin rằng đã được người dân đồng ý. Đối với tôi, tâm lý chống đối cộng sản Việt Nam của người dân rất cao. Tuy nhiên, đa số hãy còn bị nỗi sợ hãi ám ảnh nên họ vẫn lặng yên chưa có phát biểu một cách mạnh mẽ.”

    Hòa hợp và hòa giải dân tộc là một vấn đề thường được nhà cầm quyền Việt Nam nhắc đến bằng chính sách này, nghị quyết kia, nhưng từ bao năm nay vẫn không tiến triển. Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có nhận xét
    • “Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh, khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu.”

    Ông Bằng Phong-Đặng Văn Âu e rằng ông Kiệt chỉ là một cá nhân riêng rẽ.
    • “Ông Võ Văn Kiệt cũng có những động thái như là mời các trí thức ở hải ngoại về để mà bàn, thôi anh em mình hòa giải, nhưng đó là cá nhân ông Võ Văn Kiệt. Khi ông viết bản tường trình để gởi cho Quốc hội và cho Bộ chính trị thì ông bị Bộ chính trị khiền liền, là ông gặp khó khăn. Thậm chí ông Hà Sĩ Phu là người giữ bản báo cáo đó…ông Hà Sĩ Phu chỉ giữ trong cặp của mình bản báo cáo, bản đề nghị đó thì bị công an bắt và cáo buộc Hà Sĩ Phu là người lưu trữ tài liệu nguy hại đến an ninh quốc gia.”

    Ngày 30/4 năm nay do đại dịch COVID nên việc kỷ niệm, tưởng niệm với những ý nghĩa khác nhau không được tổ chức rầm rộ cả trong lẫn ngoài nước. Dẫu vậy, đây vẫn là một ngày lịch sử không thể nào quên được đối với người Việt ở bất cứ nơi nào trên thế giới.





    Hà Vũ


    https://www.voatiengviet.com/a/ba-muoi- ... 71422.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Nửa Hồn Quê Xa

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          





Nửa Hồn Quê Xa
__________________
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích





Tháng Tư nắng Hạ vàng rưng mắt
Loáng ánh trăng liềm thấm lạnh môi
Nghe ấm đất người lòng quặn thắt
Hồn quê rạn vỡ mảnh trời đôi!

Phủ manh áo nửa đời lưu lạc
Dỗ giấc cô miên, nửa mộng sầu
Quê cũ vàng tay trời lửa Hạ
Gương mòn soi tóc đợi mùa ngâu

Đất Mẹ mùa này trời khô hạn
Nứt nẻ tình người khát tự do
Cây cỏ rụi mầm, chim bỏ cội
Con rời vú Mẹ chửa lần no

Đêm đêm ai vỗ bồn ngâm vịnh
Nào phải Trang Chu chốn ngục tù
Tin vợ lìa trần lay dộng cửa
Gọi vầng trăng vỡ khóc ma tru!

Tù điên quên cả trời ly hận
Xé áo tung hô chạy băng đồng
Chân ngủ trong cùm, hồn ớn lạnh
Nhổ nghìn tóc rối hỏi cao xanh

Máu rựng da đầu. Tim đá tạc
Cười trên vành mắt hố quầng sâu
Nghêu ngao bài hát hồn ngơ ngác
Nửa chén lưng cơm cũng nhiệm màu!

Tháng Tư em khóc bên gành đá
Ðợi chị vay từng bữa gạo thưng
Cháo lỏng mỗi ngày thay sữa Mẹ
Chị làm Từ Mẫu sớm còng lưng!

Vu Lan tháng Bảy dậy cô hồn
Ngập nỗi oan cừu thủy mộ chôn
Hương khói đàn tràng mờ biển động
Mã vàng thay lá đổ trường sơn!

Đêm đông đắp nửa phần chăn lạnh
Nửa phía quê nhà, nửa quạnh xa
Em vẫn chờ người bên nửa mảnh.
Chăn mòn. Sao mãi lạnh tình ta!?



Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích



          

http://www.caulacbotinhnghesi.net/index ... Itemid=426
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Núi vẫn xanh

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  •           
    Núi vẫn xanh
    ___________________________
    Hà Kỳ Lam
              



              

              


    Cả bốn tay súng của toán thám sát Biệt Cách Nhảy Dù vẫn bố trí lưng chừng đồi theo hình cánh cung để bảo vệ người toán trưởng và Hiệu thính viên đằng sau lưng họ trên đỉnh đồi từ nãy giờ đang hướng mặt về phía đối diện để quan sát đám người lố nhố dưới kia, trong thung lũng trãi dài hai bên con suối ngoằn ngoèo như con rắn bạc lấp lánh dưới ánh nắng ban trưa chói chan của một ngày đẹp trời tháng tư. Hết quan sát những người xê dịch dưới thung lũng lại cúi nhìn đồng hồ, người trưởng toán có vẻ nôn nóng.

    - Ít nhất là một Tiểu đoàn. Có thể là K 25B Công binh như tin tình báo cho hay. Mẹ kiếp, máy bay lên chậm thế này để chúng di chuyển hết thì hoài công.

    - Không sao đâu, ông thầy. Bọn nầy có vẻ còn ở đây lâu đấy, vì nhiều tên còn đang tắm, thậm chí giặt giũ nữa kia.

    Bỗng Hiệu thính viên Thịnh đưa ống liên hợp cho Thiếu úy Tuấn :

    - Thằng L 19 đang lên vùng và cần gặp ông thầy.

    Tuấn bóp chặt ống liên hợp, đưa lên miệng :

    - Họa Mi đây Thạch Ðộ, trả lời.

    Giọng miền Nam của viên phi công vang lên trong ống nghe :

    - Thạch Ðộ đây Họa Mi, bạn điều chỉnh hướng bay khi bắt đầu thấy tôi để xác định vị trí bạn, trả lời.

    - Họa Mi đây Thạch Ðộ. Tình thế khẩn cấp lắm, tôi sẽ nháy mắt để anh có thể thấy tôi nhanh hơn, trả lời.

    - Tôi nhận bạn năm trên năm, và trực máy.

    Tuấn đưa tay vẫy Tâm, một toán viên dưới lưng chừng đồi đang ngoái đầu nhìn lên anh. Khi người lính vừa bò đến gần Tuấn khẽ ra lệnh :

    - Mày ra chỗ lúc nãy chờ, khi thấy thằng L 19 thì chiếu kiếng cho nó thấy mình.

    Lần hành quân nào cũng vậy, Tuấn chỉ giao công tác chỉ điểm này cho Tâm. Không hẳn vì anh chàng làm công việc này giỏi hơn các toán viên khác - Tuấn có bao giờ sát hạch môn này cho cả toán đâu mà chấm điểm được - nhưng tình cờ một lần giao công việc này cho anh lính và thấy được việc nên Tuấn chẳng muốn “Thay đổi nhân sự”.

    Gài khẩu M 16 vào khoen leo núi móc gần vai bên phải, Tâm bò về phía mõm đồi cỏ tranh cách xa bên trái của Tuấn khoảng một trăm thước. Lúc mọi người vừa thoáng thấy chiếc máy bay quan sát màu trắng ở nẽo xa thì Tâm cũng vừa quỳ tại bải cỏ tranh ngập nắng, rút từ túi áo trên cái kiếng hình chữ nhật chỉ hơi lớn hơn chiếc hộp quẹt Zippo và nâng lên ngang mắt, nhìn từ phía sau kiếng qua lổ nhắm ở trung tâm kiếng để hướng cái chấm đỏ của tia mặt trời nằm thẳng hàng với phi cơ đang bay. Ðoạn anh ta khẽ lắc nhẹ để tạo sự nhấp nháy. Bỗng một tràng tiếng nổ dòn vang lên, cùng lúc Tâm bật ngữa ra sau rồi nằm bất động. Cả toán biết điều không lành đã đến với người đồng đội, ghìm súng ở tư thế đối đầu với mọi hướng. Thịnh nằm cạnh Tuấn khẽ nói :

    - Ð. m tụi nó ở đầy cả rừng rồi !

    Tuấn chưa kịp đáp lời người lính mang máy truyền tin thì những quả đạn sơn pháo 75 ly, đạn cối 82 ly, và những loạt AK 47 thi nhau đổ về phía toán đang bố trí trên đồi. Cành cây, đất đá bắn tung tóe vào thầy trò Tuấn. Không cần lệnh của người toán trưởng, mỗi toán viên nằm thủ tại chỗ. Họ biết trong tình thế loại này tháo chạy hoặc co cụm lại với nhau chỉ tổ lãnh thêm thiệt hại. Tuấn nhìn qua các toán viên và thấy tất cả còn “nguyên”. Thịnh trao ống liên hợp cho Tuấn :

    - L 19 gọi.

    Tuấn chụp máy :

    - Họa Mi đây Thạch Ðộ.

    - Ðây Họa Mi, tôi vẫn chưa thấy bạn nhưng thấy nhiều cột khói và nhiều lằn chớp dưới đó.

    - Ðang bị ném đá. Tôi đang ở hướng ba giờ của anh.

    Sau hai lần “bẻ góc” nữa, chiếc máy bay quan sát từ xa gióng chính hướng ngọn đồi lướt tới. Tuấn cho viên phi công biết đang bay đúng hướng và sẽ báo cho anh ta biết khi nào máy bay vừa ngang qua đỉnh đồi. Súng địch vẫn nổ dòn, mưa đạn vẫn tới tấp đổ về ngọn đồi, khiến công việc điều không của anh càng khó khăn. Nằm dài trên mặt đồi để tránh tầm đạn đi, bên chiếc máy truyền tin, tay cầm ống nói áp sát một bên tai, mắt vẫn ngước lên dõi theo chiếc L 19 trên không đang tiến gần vị trí mình, rồi ngay lúc nó vừa ở trên đầu, Tuấn bóp ống liên hợp, nói như reo :

    - Họa Mi, anh đang ở ngay trên đầu tôi, trả lời !

    - Thạch độ đây Họa Mi. Nhận bạn rõ năm. Rất tốt.

    - Họa Mi đây Thạch Ðộ. Cứ trực máy, tôi sẽ có việc cho anh.

    Tuấn vừa trao ống liên hợp cho Thịnh tiếp tục liên lạc với máy bay để bò gần về phía bìa rừng quan sát trãng cỏ tranh, thì thình lình tiếng súng im bặt. Mấy giây sau cả rừng vang tiếng thét “Xung phong”. Rồi trước mặt Tuấn, từ hướng mõm đồi cỏ tranh nơi Tâm quì chỉ điểm cho Phi cơ vừa rồi, và từ hướng trước mặt toán lố nhố người cứ ùn ùn tiến tới. Hóa ra đợt bắn phá vừa rồi là trò đánh phủ đầu để bộ binh tiến sát. Bóng dáng những bộ quân phục kaki màu lá cây, nón tai bèo cứ xông lên bất kể những tràng đạn M 16 đốn ngã từng đợt người. Khoảng một Trung đội địch tiến hàng ngang đã lên tới đỉnh đồi, cách bọn anh không đến mười thước, với tiểu liên AK kẹp nách bắn xối xả. Một tên địch gần Tuấn hơn ria một tràng đạn về phía anh, nhưng, như một phép lạ, anh vô sự. Thịnh nhanh tay siết cò súng hạ hắn đo đất. Nhiều tràng M 16 đáp lễ ngăn được chốc lát sự “tiếp cận” kia. Lúc này hai chiếc A 37 cũng vừa xuất hiện và bay cao hơn chiếc L 19. Trung sĩ Hiến báo cáo hai sự kiện dồn dập : Châu bị nguyên một tràng đạn AK vào ngực, chết ngay trên đồi, và địch bây giờ tràn lên đông hơn. Tuấn ra lệnh cả toán rút xuống triền dốc về phía thung lũng. Anh biết thung lũng đang có một đơn vị lớn của địch. Anh chỉ muốn bỏ ngọn đồi, men theo triền dốc, rồi xin phi pháo đánh ngay trên đồi để toán tiện bôn tẩu. Nhưng di chuyển một đoạn ngắn thì nhiều tràng AK từ dưới chân đồi khạc đạn xối xả về phía bọn anh. Không xong. Tứ bề thọ địch. Chỉ vỏn vẹn bốn tay súng mà tử thủ với biển người hay liều mạng phá vòng vây trùng trùng của địch thì phỏng ích lợi gì ? Tuấn bấm ống liên hợp :

    - Họa Mi đây Thạch độ.

    Họa Mi nghe. Bạn cho biết cần gì ?

    - Anh cho đánh ngay trên đầu chúng tôi.

    - Không được ! Bạn xác nhận lại, đánh ở đâu ?

    - Tôi, thẩm quyền Thạch Ðộ nhắc lại đánh ngay trên đầu chúng tôi và bất cứ chỗ nào có người. Ðịch tràn ngập rồi, không chần chờ gì nữa. Ðánh ngay đi. Dứt !

    Tuấn trả máy cho Thịnh trước vẻ mặt hốt hoảng của anh này. Không có thì giờ và cũng không cần giải thích về quyết định của mình với người lính truyền tin của toán, Tuấn nép sau một thân cây to để tránh các tràng tiểu liên AK từ dưới chân đồi vẫn không ngừng quạt lên. Trên đỉnh đồi bây giờ đã lố nhố người của đối phương. Bốn người thám sát Biệt Cách Dù chỉ còn biết tử thủ : Hiến và Sắc chĩa súng về hướng đỉnh đồi, còn Tuấn và Thịnh quay súng xuống chân đồi. Cả bốn tay súng chiến đấu trong một ô vuông mỗi cạnh khoảng mười thước. Họ bắn dè xẽn từng ba phát một nhưng rất hiệu quả, và nhờ vậy đã làm chậm bước tiến của địch. Trong khi đó chiếc L 19 vẫn chưa chịu thi hành điều Tuấn yêu cầu, cứ bay lòng vòng bên trên. Anh “thông cảm” cho người Phi công, nhưng không khỏi tức giận vì cảnh dầu sôi lửa bỏng của mình. Anh ta phải xin lệnh từ Trung Tâm Không Trợ về điều yêu cầu “điên khùng” kia, và chắc đang chờ trả lời. Tuấn cũng lấy làm lạ lần này không có biệt đội trưởng hay một Sĩ quan của Liên Ðoàn bay L 19 hay Trực thăng C&C như mọi lần. Thình lình mọi người cùng nghe rõ âm thanh “chéo-éo-éo … đoành !”. Một cột khói trắng bốc cao và cuồn cuộn tỏa ra như một đám mây, vươn lên khỏi tàng cây rừng ngay đỉnh đồi mà toán thám sát vừa rời bỏ. Tuấn biết viên Phi công Quan sát vừa bắn một trái khói chỉ điểm mục tiêu oanh kích. Ðiều yêu cầu của anh đang được đáp ứng. Tuấn vẫn nếp sau thân cây. Rồi anh bỗng thấy hành động nấp sau thân cây rõ lẩm cẩm vì biết bom sẽ rơi hướng nào. Nhưng đành phó mặc cho may rũi, anh cứ ngồi bên gốc cây. Tuấn tưởng chừng như anh đang gồng mình lại, các bắp thịt toàn thân như rắn lại, chờ đợi sấm sét giết người từ trời cao … Chiếc oanh tạc cơ thứ nhất đâm bổ xuống ngay trên đầu Tuấn, rồi hẳn nhiên đã đạt tới một độ thấp vừa đủ, con chim sắt ấy lại vút lên cao vài giây trước khi hai trái bom từ dưới cánh đâm thẳng xuống quả đồi của anh. Tuấn không dám tiếp tục ngẩng nhìn lên trời. Anh nằm cúi mặt xuống, thân chịu trên hai cùi chỏ để tránh áp ngực với mặt đất. Anh thấy vài con kiến ung dung bò trên nền lá khô. Thốt nhiên Tuấn cảm nhận được cái mong manh của thân xác mình lúc này - khác gì những cái kiến kia ! Chỉ có mỗi một khác biệt là anh đau khổ chờ đón cái chết chóc, cái hủy diệt, còn chúng thì không hay biết gì cả, vẫn thản nhiên, vẫn ung dung cho đến khi nào cái chết xảy ra là xong, không còn cảm giác nữa. Chúng hạnh phúc hơn anh trong lúc này. Từng khuôn mặt thân yêu trong gia đình diễn hành nhanh qua trí anh : mẹ anh, các em, và chị. Rồi anh nghĩ đến Trinh thật xa xăm và cũng thật gần. Anh có còn trở lại cổng trường Trưng Vương nữa không ? Rồi bên tai anh nghe mơ hồ giọng một Ca sĩ quen thuộc với “Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại. Xin trả lời mai mốt anh về…” Tuấn lại nghĩ đến tập thể tuổi trẻ Sài Gòn : không có anh trong đó! Và trong cái khoảnh khắc chờ đón một sự hủy diệt khủng khiếp sắp giáng xuống mọi người, một khoảnh khắc rất ngắn nhưng cũng rất thiên thu, giác quan anh đón nhận cả một trình tự ngoại vật lướt qua chóng vánh: âm thanh động cơ phản lực gầm thét qua đầu, tiếng bom xé gió, hàng loạt tia chớp lóe lên, từng tràng tiếng nổ kinh hồn, và mặt đất rung chuyển. Tuấn bị nhiều nguồn lực từ mọi hướng đẩy bật ngữa rồi xô tới trước hoặc xoay vòng; anh có cảm giác ngực bị ai đấm một quả rõ mạnh, tức đến khó thở. Ðất, sỏi ùn lên hắt vào người anh. Khói đen tỏa ra chung quanh, không khí khét lẹt mùi thuốc nổ. Tuấn biết một trái bom đã đáp cách anh không xa, đào một hố rõ to và làm dạt một mớ cây nhỏ bên trái anh, tung tóe đất lên quần áo anh. Riêng thân cây to vẫn đứng vững và hiển nhiên đã hứng hết những mãnh bom, đất đá và sức ép cho anh. Anh sờ khắp người để thấy mình vô sự. Trái bom khác rơi trên đỉnh đồi đã bật gốc một cây cổ thụ, tạo nên một âm thanh phụ nghe đánh ầm và làm trống hẳn một khoảng rừng.

    Tuấn bò qua những cành cây gãy đổ ngổn ngang, tìm Thịnh nhưng không thấy hắn đâu cả. Trong mọi tình huống anh phải có máy bên cạnh mình. Nhưng chiếc A 37 lại đang đâm bổ xuống đầu Tuấn một lần nữa. Anh vội ngồi nấp sau một thân cây. Có lẽ đây là chiếc thứ hai, đang theo gót Phi tuần trưởng của nó vừa rồi. Dù sao thì anh sắp hứng chịu một “trận đòn thù” nữa. Lại “Ầm ! Ầm !” rồi mấy tiếng “Ầm” phụ nổi lên. Tuấn lại bị lộn nhào một lần nữa, và anh giật bắn người khi thấy một cây cổ thụ vừa bật gốc ngã sóng soài cách anh không đầy một thước. Giá mà nó phang ngay anh thì còn gì nữa ! Ngọn đồi bỗng “đổi mới”; cây ngã la liệt. Tuấn vẫn tìm Thịnh, tìm Trung sĩ Hiến - người Toán phó - và Sắc. Toán may ra thì còn được bốn mạng, kể cả anh. Tâm và Châu đã ra đi rồi ! Nhưng sao thế này : im phăng phắc - địch đâu rồi, và ta đâu rồi ? Bỗng lá cây lay động sột soạt sau lưng. Tuấn quay phắt lại, khẩu M 18 dưới nách chỉ thẳng vào bóng người từ trong bụi rậm vừa đứng lên.

    - Sắc đây ông thầy.

    Tuấn thở phào một cách dễ chịu. Anh khẽ nói :

    - Mày không sao chứ ?

    Anh lính khẽ lắc đầu thay lời đáp. Tuấn biết mình vừa hỏi một câu không cần trả lời; nó chỉ có nghĩa của một câu xác định, “À, may quá còn có mày.” Anh đang lo cho số phận của các toán viên.

    - Trung sĩ Hiến và Thịnh có sao không ?

    Sắc vừa nói vừa đưa tay chỉ về hướng hơi chếch đỉnh đồi :

    - Ông Hiến bị thương nằm ở đằng kia. Ổng hỏi thăm ông thầy, và bảo em đi tìm.

    Tuấn muốn đến gặp ngay Trung sĩ Hiến xem tình trạng thương tích của ông ta ra sao, nhưng anh phải tìm Thịnh trước vì máy móc truyền tin là linh hồn của toán. Hai chiếc phản lực bây giờ đang ở tít trên mây; tiếng động cơ của chúng nghe nghe rất xa và đứt đoạn. Chiếc L 19 vẫn quầng trên đầu hai người. Có lẽ viên Phi công đang gọi Thạch Ðộ khàn cả tiếng, Tuấn nghĩ thế. Quái, Thịnh biến đâu mất với chiếc máy truyền tin. Tuấn vẫn nhớ hắn chạy theo sau anh và nấp gần đây trước khi bom rơi. Tuấn bỗng nẩy ra ý nghĩ bới tìm trong mớ cây cối đổ ngổn ngang ngay cạnh hố bom. Và trong lúc hai thầy trò đang len lõi bò vào từng đống cây lá nằm bên trên hoặc bị vùi lấp dưới lớp đất mới thì phía trảng cỏ tranh một tiếng nổ phát ra và một cột khói trắng bốc cao. Anh biết viên Phi công máy bay Quan sát vừa bắn một trái chỉ điểm cho phản lực đánh bom xuống nơi anh ta vừa thấy địch ẩn núp đâu đó.

    Trong tiếng rít của hai chiếc A 37 trên đầu, tiếng rền và chấn động liên hồi của bom, Tuấn chợt nghe giọng gọi đầy khích động của Sắc :

    - Ông thầy ơi.

    Tuấn nguớc nhìn theo ngón tay trỏ của người lính và thấy cách họ vài thước khúc cần ăng-ten của chiếc máy PRC 25 nhú ra khỏi mớ đất vàng tươi mới tinh khôi dưới mấy cành cây phủ lên. Anh lặng người mấy giây, cảm thấy đôi chân như không đứng vững nỗi. Giọng nói Tuấn nghe yếu ớt qua hơi thở :

    - Moi đất ra.

    Hai người hì hục lôi các cành cây bỏ sang một bên, dùng tay bới mớ đất bột lên. Chiếc máy truyền tin bị thủng, móp méo, vỡ nhiều chỗ, từ từ lộ ra, rồi màu áo rằn ri bày ra, dính đất và máu. Tuấn và Sắc cùng nâng người Thịnh đang nằm sấp lên. Xông pha trận mạc đã nhiều, đã trông thấy bao nhiêu xác chết của cả đôi bên, nhưng anh phải nhận chưa bao giờ thấy một xác người như thế này, nói chi xác ấy là đồng đội, là thuộc cấp của mình. Cả người Thịnh từ bụng lên vai bị mất từng mãng thịt lớn, và xương vai một bên bị gãy. Nhưng cái chân, ôi cái chân trái, anh không biết phải nói thế nào … đứt đến trên đầu gối, chỉ còn dính tòn teng với toàn thân bằng một mãnh da rộng bằng một bàn tay, và thịt chỗ hai đầu bị cắt lìa trở nên xám đen giống như vừa bị nướng trên lửa !

    Sắc mở thử máy truyền tin. Chỉ là một cục kim khí im thin thít vô dụng. Chợt nhớ tới Trung sĩ Hiến, hai người thận trọng di chuyển, và Sắc dẫn đường ngược lên đồi. Họ bước qua nhiều xác lính Bắc Việt nằm đủ vị thế - nghiêng, ngữa, sấp, hay cong queo. Tuấn cúi xuống bên người Toán phó, xem xét vết thương ở bụng. Có vẻ một mãnh bom đã cứa một đường dài và sâu trước bụng. Anh thử xốc người thương binh lên nhưng anh ta nhăn nhó một cách đau đớn :

    - Ối, ông thầy để tôi nằm đi.

    - Trước khi bom nổ anh đã rút xuống triền dốc với toán mà sao lại ở đây ?

    Trên gương mặt tái xanh vì mất nhiều máu của Hiến Tuấn thấy một sự cố gắng dùng sức mới bật ra thành tiếng:

    - Tôi chạy lên để.. kéo xác thằng Châu xuống.. kẻo bom dần nát mất nhưng..

    Hiến ngưng nói, vẻ mệt nhọc, đưa lưỡi liếm quanh vành môi tái nhợt và khô khốc. Sắc mở nắp bi-đông, khẽ nâng đầu anh lên và kề miệng bình nước vào môi. Tuấn nhắc:

    - Cho uống ít thôi để giữ cho máu bớt chảy.

    Trong khi tháo cuộn băng cá nhân để băng cho Trung sĩ Hiến, Tuấn vẫn thận trọng quan sát chung quanh. Anh thấy nhiều xác chết đối phương rãi rác khắp nơi. Xác Châu nằm cách Trung sĩ Hiến khoảng năm thước, mắt còn nhìn lên trừng trừng. Anh rón rén bò đến bên người toán viên vẫn hay di chuyển hàng đầu trong các cuộc xâm nhập của toán, đoạn từ từ vuốt cho đôi mắt nhắm lại. Rừng im phăng phắt. Có lẽ chúng chỉ di tản những kẻ bị thương. Những người nằm kia đều “câm nín”. Sau khi đảo lại mấy vòng để bắn rocket và Đại liên mười hai ly bảy xuống một điểm mới dưới thung lũng do Phi cơ Quan sát chỉ điểm, hai chiếc phản lực đã rời vùng. Chiếc L 19 vẫn còn lượn trên không phận hành quân. Tuấn vừa quay sang bảo Sắc lấy chiếc pa-nô tìm cách trãi để ra hiệu cho máy bay biết mình có mặt tại chỗ thì bỗng rừng núi lại rền vang từng tràng nổ. Tuấn nói :

    - Mười hai ly bảy.

    Chiếc L 19 vụt cất cao lên và mất hút vào khoảng không. Tuấn đề nghị khiêng Trung sĩ Hiến men theo triền dốc về hướng Bắc cho xa vùng giao tranh được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Anh đoán địch sẽ chiếm lại đồi này. Bỗng dưng Trung sĩ Hiến quàng một tay ôm chặt chân Tuấn và thều thào nói :

    - Ông thầy đi đâu anh em cũng đi theo ông thầy. Bây giờ ông thầy bỏ anh em …

    Tuấn định thốt một lời an ũi, hay trấn an nhưng bàn tay Trung sĩ Hiến đã buông rơi khỏi cổ chân anh, đầu ngoẹo sang một bên, mắt nhắm nghiền như đi vào một giấc ngủ. Anh lay mạnh vai Hiến:

    - Anh Hiến ! anh Hiến !

    Chỉ có tiếng gió ngàn xào xạt đáp lại. Rừng chiều hửng nắng ở những đồi xa. Sắc bỗng vỗ vào cạnh sườn Tuấn và chỉ về hướng trãng cỏ tranh. Lố nhố một đoàn quân dàn hàng ngang đang tiến lên đồi của anh. Họ vận kaki xanh, nón tai bèo, súng kẹp nách, vai đeo ba lô. Hai thầy trò vội lom khom chạy về phía triền dốc, rồi di chuyển về hướng Bắc men theo sườn đồi.

    Ði được một giờ, vượt qua vài con suối, mấy quả đồi thấp, Tuấn dừng lại xem bản đồ, đoạn bảo Sắc đổi hướng, đi về đông theo phương giác 180 độ Năm giờ chiều. Ðêm rừng bao giờ cũng đến nhanh. Trong ánh sáng nhá nhem hai thầy trò kẻ trước người sau cứ tiếp tục luồn lách qua cây lá, bụi rậm. Rồi sực nhớ phải có một độ quan sát tối thiểu mới có thể chọn một vị trí ngủ đêm an toàn, Tuấn khẽ nói với người toán viên đồng hành :

    - Ta lên đỉnh đồi trước mặt tìm chỗ nghỉ đêm.

    Mới hơn bốn giờ sáng Tuấn đã thức giấc. Bao giờ người lính hành quân cũng thức giấc sớm, vì giấc ngủ đến vào khoảng bảy giờ chiều thay vì một hai giờ sáng ở những “Đêm đô thị”. Trời còn tối mịt. Anh nằm nghe ngóng một lát, đoạn đưa tay sờ lưng võng của Sắc. Một giọng nói rất khẽ :

    - Ông thầy thức rồi hả?

    Rồi ánh sáng nhờ nhờ đổi dần sang trắng đục. Rồi mọi vật bỗng hiện rõ trước một ngày đang lên. Có vài tiếng chim hót. Có vài tiếng hú đâu đó bên một ngọn đồi khác, rồi không biết bao nhiêu tiếng hú cất lên vang cả một vùng đồi núi, cơ hồ như tiếng hú này lây sang tiếng hú khác, và cứ thế truyền đi khắp nơi. Tuấn đã quá quen với các tấu khúc bình minh của rừng núi. Hai người cuốn võng bỏ vào ba lô, dọn dẹp “sạch sẽ” chỗ đất dưới chân, lùa mớ lá cây chung quanh phủ lên, không để lại một dấu vết nào có thể tố cáo sự hiện diện của hai thầy trò. Sắc mở một bịch gạo sấy, rót nước từ bi-đông vào bao làm một bửa ăn sáng. Tuấn chẳng thấy đói, tuy suốt ngày hôm qua anh chỉ ăn có một gói cơm sấy vào buổi sáng. Tâm trí anh quay về với những gì đã xãy ra. Bị lộ, trận oanh kích, những xác đồng đội bị bỏ lại, và bây giờ hai nguời lạc lỏng giữa rừng không máy móc liên lạc để biệt đội biết tung tích. Anh có trách nhiệm gì với những thuộc cấp vừa ra đi vĩnh viễn kia? “Ông thầy đi đâu anh em cũng theo ông thầy. Bây giờ ông thầy bỏ anh em …” Tuấn thấy miệng đắng khi nuốt nước bọt. Anh thèm một điếu thuốc, và một ly cà phê. Anh nhìn Sắc đang ngồi ăn, nhìn xuống khẩu M 18 gác trên đùi mình, ngước nhìn bầu trời xanh biếc ban mai. Sắc vụt hỏi:

    - Bây giờ tính sao, ông thầy ?

    - Không có máy móc, không biết ở nhà thế nào, còn ở nhà cũng chẳng biết mình sống chết ra sao. Cứ tiếp tục đi về hướng Ðông, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, càng gần nhà càng tốt. Có Trực thăng thì trãi pa-nô cho nó thấy mình. Thế nào biệt đội cũng cho máy bay đi tìm.

    - Cha con nó bị thiệt hại nặng. Hai chiếc A 37 đánh hiệu quả thật. Sườn đồi bên kia và trãng cỏ tranh lãnh trọn mấy trái bom. Em thấy chung quanh chỗ ông Hiến nằm ít nhất cũng cả chục xác nằm la liệt. Ông thầy có để ý không ? Ðợt bom đầu tiên chận đứng ngay cuộc tấn công. Em nghĩ có lẽ chúng kêu phòng không đến tiếp cứu sau này, vì suốt trong khi oanh kích đâu có khẩu mười hai ly bảy nào hoạt động đâu.

    Tuấn đồng ý với phần lớn những lập luận của Sắc, nhưng anh chẳng thấy hứng thú bàn luận về chiến trận vừa qua. Tỷ số tử vong của chiến trường và tỷ số tử vong của lòng mình, cái nào làm nên chiến thắng ? Ðợi cho người lính ăn xong và đào đất lấp mọi dấu vết, Tuấn đề nghị lên đường.

    Sang đến ngày thứ ba hai người vẫn tiếp tục băng rừng, ngày đi đêm nghỉ. Còn khoảng hai chục cây số đường chim bay nữa mới về đến Bộ chỉ huy của Liên Ðoàn. Cả hai đều thấy ngao ngán. Hai mươi cây số đường chim bay, điều đó có nghĩa là bốn, năm mươi cây số đường núi, mà tốc độ di chuyển băng rừng - chứ không phải theo theo đường mòn - có nhanh lắm cũng chỉ đạt tới bảy cây số một ngày.

    Nhưng điều bất ổn trong lòng họ không phải đường về dịu vợi, đầy đe dọa, bất trắc, lương thực cạn. Cái bất ổn là không trung vắng lặn. Từ cái buổi sáng đầu tiên sau khi bỏ ngọn đồi và đồng đội ở lại anh và Sắc không hề thấy thấp thoáng, dù xa, bóng dáng một chiếc máy bay. Lạ thật. Không một chiếc trực thăng, không một chiếc L 19, không một chiếc vận tãi, không một chiếc oanh tạc cơ phản lực, thậm chí không một chiếc máy bay dân sự, không có gì ráo trên bầu trời quang đảng. Chưa bao giờ như thế, ít ra từ ngày Tuấn vào lính; chưa bao giờ có một ngày không có một hoạt động nào của không quân. Anh ngồi nghỉ mệt trên một ngọn đồi, tựa lưng vào một thân cây, dựng súng bên cạnh. Sắc ngồi xếp bằng trên mặt đất, cạnh Tuấn. Người lính cảm thấy bồn chồn khi nhìn vẻ tư lự của người chỉ huy. Anh ta không dám hỏi bất cứ điều gì lúc này. Tại sao bầu trời vắng lặng thế này ? Sao không nghe một tiếng đại bác, một tiếng bom nổ xa xa? và vân vân. Cuối cùng, không nén nỗi những băn khoăn trong lòng, Sắc lên tiếng :

    - Em thật không hiểu nổi. Chắc có chuyện gì đây, chứ không thể nào Liên Ðoàn đem con bỏ chợ như thế này.

    - Tao cũng chịu thua, không hiểu nổi. Ðành rằng mình không có phương tiện liên lạc, không biết tình hình ở nhà hay các đơn vị bạn ra sao, nhưng Liên Ðoàn vẫn có thể cho trực thăng đi tìm. Ðằng này bặt vô âm tín. Mà cái điều lạ lùng nhất là không có bóng dáng một chiếc máy bay nào cả, chứ đừng nói trực thăng C&C của biệt đội. Tao cũng nghĩ như mày: chắc có biến cố gì đây. Ðiều cần nhất bây giờ là bằng mọi cách phải gắng về tới bộ chỉ huy Liên Ðoàn. Mầy còn mấy gói gạo sấy?

    - Dạ ba gói, và không tới nửa chai xì dầu.

    - Tao còn năm gói. Tao sẽ đưa thêm cho mày một gói. Mỗi thằng như vậy có bốn gói. Tao ước tính từ đây về tới Liên Ðoàn có thể mất sáu, bảy ngày nữa. Bây giờ tao tạm ấn định kỷ luật dùng lương khô là mỗi thằng chỉ được ăn nửa gói một ngày. Cố gắng chịu đựng như vậy thì mới đủ sức mà lết về tới nhà. Tao nói sáu, bảy ngày là trong giả thuyết di chuyển vô sự, không đụng địch.

    Ðiều Tuấn nói sau cùng nhắc lại sự bất an của hai người. Trong ba ngày qua thầy trò anh đã né tránh mấy đoàn quân dài dằng dặc. Trong đời nhảy toán của mình Tuấn chưa bao giờ thấy địch chuyển quân rầm rộ như thế. Một điều lạ lùng nữa là những đoàn người cứ nườm nượp hướng về Ðông, cùng chiều với anh và Sắc, chỉ khác là họ dùng đường mòn. Tuấn đứng dậy tháo ba lô đặt xuống đất, lôi một gói gạo sấy đưa cho Sắc, đoạn cả hai lên đường.





    * * *
    Tuấn nhìn đồng hồ tay : ba giờ chiều. Tuy gần cuối ngày, cái nắng như nung như đốt của tiết trời miền Nam đầu tháng Năm vẫn chưa dịu đi chút nào. Ðưa bi đông lên miệng tu một ngụm nước xong, anh xoay xoay tấm bản đồ, nhìn thật kỷ những vòng cao độ nâu lẫn xanh nhạt, rồi ngước nhìn địa thế chung quanh. Cho chắc chắn, anh mở cái địa bàn, xoay cho hướng Bắc của bản đồ trùng với hướng mũi tên của địa bàn, đoạn anh đối chiếu chi tiết bản đồ với địa thế một lần nữa. Anh hân hoan nói với Sắc :

    - Tới vùng Tân Uyên rồi !

    - Chắc không, ông thầy ?

    - Bảo đảm !

    Hai thầy trò bỗng thấy khỏe khoắn trong người, mặc dù mới trước đó mấy phút họ cảm thấy gần kiệt sức sau sáu ngày băng rừng lội suối với những cơn đói triền miên làm bủn rủn chân tay, hoa cả mắt. Nhìn lại đoạn đường dài gian nan, hiểm nguy, Tuấn thấy thương hại Sắc. Hắn ta to con, ăn khỏe, nên trong mấy ngày qua quả thật là một chuỗi ngày khốn khổ “tận cùng bằng số” đối với hắn. Tuấn bảo :

    - Bây giờ mày có thể ăn nốt nửa bịch gạo sấy cuối cùng cho đỡ đói. Còn vài cây số nữa là tới chi khu rồi, tha hồ mà gọi mì, phở, hủ tiếu…

    - Lạ thật, không thấy thèm nữa ông thầy ơi. Thôi, mình đi lẹ tới chi khu đặng báo Liên Ðoàn đón.

    Hai người lội qua một con suối, tiếp tục đi về Ðông. Họ bước đi vững vàng hơn những ngày còn lếch thếch giữa rừng. Sau khoảng một tiếng đồng hồ di chuyển, nhìn xuyên qua một khoảng rừng thưa, hai người thoáng thấy mấy nóc nhà lợp tôn của chi khu Tân Uyên ở tít đằng xa, bên kia sông. Cùng với bước tiến của Tuấn và Sắc, mọi vật rõ dần. Rồi lá cờ phấp phới trên trụ cờ tuy vẫn còn mờ mờ trong quãng xa nhưng đã đủ để thấy không phải lá cờ vàng ba sọc đỏ quen thuộc. Hai người không tin nổi mắt mình : làm thế nào mà lá cờ nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao ở giữa lại ngang nhiên tung bay nơi này. Thầy trò nhìn nhau, nhưng mỗi người theo đuỗi những suy nghĩ riêng. Sắc bỗng vỗ vai Tuấn chỉ về phía con sông trước mặt, vẫn ở nẽo xa và chen vào giữa khoảng cách từ chỗ họ đến chi khu: vài chiếc ghe cũng treo loại cờ đó. Nhìn qua mấy mái nhà tranh gần bờ sông cũng lại thấy những lá cờ đó. Sắc khẽ nói:

    - Chắc chúng chiếm vùng Tân Uyên rồi. Không khéo Biên Hòa cũng di tản chiến thuật nốt.

    Tuấn nói, để tự trấn an hơn là làm yên lòng người thuộc cấp :

    - Không thể có chuyện đó được.

    Chợt nhìn bên trái, qua một khoảng rừng chồi lưa thưa, thấy có mấy người nông dân đang cuốc đất trong một thữa ruộng, anh chợt nẩy ra ý nghĩ đến tiếp xúc họ để dò hỏi tình hình. Tiến sát mãnh ruộng, để Sắc ngồi lại trong một bụi cây yểm trợ, Tuấn cầm khẩu M 18 trong tay phải, bước đến bên bốn người đang làm việc đồng áng. Họ ngừng tay, nhìn anh chằm chặp. Tuấn hỏi người lớn tuổi nhất trong nhóm người, một ông già khoảng năm mươi, xương xẩu nhưng còn nhanh nhẹn :

    - Thưa Bác, hình như Chi khu đã rút đi rồi, phải không ạ?

    Gương mặt thoáng bối rối, ông nhìn Tuấn từ đầu đến chân rồi nói rất khẽ :

    - Chú là Biệt kích 81 trong rừng mới ra hả?

    - Dạ phải.

    - Ông Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng từ năm, sáu ngày nay rồi, từ hôm Ba mươi tháng Tư. Ai nấy đều buông súng trở về nhà hết. Chính phủ Cách Mạng chẳng làm khó dễ gì cả. Anh em còn bao nhiêu người ?

    Tuấn chẳng còn nghe rõ ông già hỏi gì nữa. Anh cúi đầu rất lâu. Giòng ý thức của anh bỗng như ngừng lại – không hẳn là nó đặc quánh lại, cũng không hẳn nó trống rổng, chỉ biết nó tuồng như không còn khả năng suy nghĩ rõ ràng, mạch lạc nữa. Tuấn có cảm tưởng sau bao nhiêu suy đoán, thắc mắc, giờ đây được thực tế trả lời, trí não mình bỗng thấy “no” rồi, không đòi hỏi nữa, cũng không nhận dữ kiện nào từ ngoại giới nữa ! Sắc từ trong bụi vội bước ra. Nhìn dáng điệu của người Toán trưởng anh đã đoán tình hình hẳn là rất xấu. Trong ánh mắt ái ngại, ông cụ lặp lại cho người lính thứ hai nghe :

    - Ông Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng hôm Ba mươi tháng Tư rồi. Các chú nên bỏ súng ống đi, trở về gia đình thôi.

    Ðến lược Sắc đứng đờ người ra. Lúc ngồi trong bụi anh đã đoán tình hình phải xấu, anh đã lờ mờ phát họa một vài viễn anh tệ hại, nhưng “xấu” như ông già này cho biết thì thật vượt quá xa dự tưởng của anh.

    Ðột nhiên Tuấn ngước lên chào từ giã :

    - Tụi cháu cám ơn Bác. Thôi, tụi cháu về.

    Tuấn bước đi trước, và Sắc theo sau. Họ tiến về phía bờ sông. Hai người đứng nhìn giòng sông êm ả, trong vắt một hồi lâu. Rồi Tuấn nhìn Sắc, ngập ngừng vài giây, nói với một giọng hơi lạt đi, nhưng không kém dứt khoát :

    - Qua bên kia sông, có thể đi bộ ra đến xa lộ, từ đó đón xe về Sài Gòn. Sắc, thôi thầy trò mình chia tay. Kể từ giờ phút này tao không còn là trưởng toán của mày nữa. Cứ tự do về với gia đình. Tao chỉ muốn nói một điều. Trong những ngày mày theo toán, nếu tao có làm những gì khiến mày buồn lòng, hoặc vì trách nhiệm, hoặc vì sai lầm, tao mong mày bỏ qua cho. Cầu chúc mày thật nhiều may mắn.

    Sắc cố bậm môi để giữ cho miệng khỏi bị méo xệch. Anh ta muốn nói cả nghìn lời nhưng không thốt được một tiếng. Cúi gầm mặt xuống một lúc như cố đè cơn xúc động cứ chực bật ra thành tiếng nấc, cuối cùng anh ta hỏi :

    - Còn ông thầy?

    - Tao không thể bỏ toán còn nằm lại trong đó.

    - Nhưng họ chết hết rồi mà.

    - Chính vì vậy mà tao thấy mình không thể về nhà được. Lời nói sau cùng của Trung sĩ Hiến rất đúng. Tuấn ngập ngừng một lát, định nói thêm điều gì nữa nhưng lại thôi. Anh sẽ mang những đắng cay trong lòng mình vào rừng núi. Có lẽ anh chỉ cần nói điều đó với toán của anh vẫn còn lại trong rừng: người lính ở đâu cũng thế, chỉ là công cụ; thắng bại không phải do họ định đoạt, và vinh quang của chiến thắng cũng không thuộc về họ - có thuộc về họ chăng chỉ là những đau khổ của chiến bại và của hy sinh !

    Tuấn quay lưng đi về hướng khi nãy hai thầy trò từ trong rừng ra. Trong một thoáng cõi lòng Sắc như hứng chịu bão táp tơi bời từ mọi hướng. Tìm về xa lộ sao ngập ngừng bước chân. Anh muốn rão bước theo sau người toán trưởng, nhưng hình ảnh những đường phố Sài Gòn thân thuộc giờ đây không xa lắm như níu chân anh, dù anh nghĩ nơi ấy chắc cũng đang phấp phới những lá cờ này. Rồi hình ảnh mẹ anh hiện ra thật rõ và bao trùm cả không gian. Sắc gọi :

    - Ông thầy !

    Tuấn quay lại. Sắc đứng ở thế nghiêm, đưa bàn tay phải lên ngang mày chào. Tuấn chào đáp lễ, đoạn quay gót tiến bước. Người lính đứng nhìn theo cái dáng gầy, phong sương xa dần rồi khuất sau ngàn lá. Anh ta lại nhìn những dãy núi xa xa ở chân trời.

    Núi ở chân trời bao giờ cũng xanh lơ. Chắc toán của anh đang nằm trên một trong những dãy núi đó. Chắc người trưởng toán lại trèo lên nơi ấy. Sắc không sao ngăn nổi mấy giọt nước mắt từ từ lăn xuống, quyện với mồ hôi làm lưỡi anh mặn chát!




    Hà Kỳ Lam


    http://thatsonchaudoc.com/banviet2/HaKy ... anXanh.htm
Hình đại diện
nắng thủy tinh
Bài viết: 3530
Ngày tham gia: Thứ sáu 15/05/15 06:14

Re: - 30/04/2021 - tưởng niệm 46 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi nắng thủy tinh »

Wow... anh Hoàng Vân hát nhạc bolero cũng đậm chất Lính lắm lắm... :D :applaud: :flwrhrts: :cafe:
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”