Xuân .. Xuân .. Xuân Tân Sửu ...

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân Tân Sửu ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           



    Mùa xuân chín
    - bức tranh xuân
    của đời người

    _________________________
    Thanh Phong _ 01/01/21




              

              



    ...chỉ với Mùa Xuân chín, Hàn Mặc Tử đã luôn là một nỗi nhớ khôn nguôi của người yêu thơ, yêu cái đẹp khi xuân về.

    • Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
      Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
      Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
      Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.

      Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
      Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
      Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
      Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…

      Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
      Hổn hển như lời của nước mây,
      Thầm thì với ai ngồi dưới trúc,
      Nghe ra ý vị và thơ ngây…

      Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
      Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
      “Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
      Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”


    Có một chàng thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ 20 ở Nam Trung Bộ. 16 tuổi, chàng đã làm bài thơ đầu tiên. Chàng đã sống, đã đi, đã yêu tha thiết và đã đau đớn cùng cực. Rồi khi ra đi ở tuổi 28, di sản chàng để lại không chỉ đơn thuần là các tập thơ, kịch thơ và văn xuôi... mà là cả một thế giới tinh thần mênh mông như lời bình của nhà phê bình Hoài Thanh:
    • “Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh...”.
    Chàng thi sĩ ấy có bút danh là Hàn Mặc Tử. Nhưng Mùa xuân chín lại là một thi phẩm hoàn toàn khác với cái chất “điên”, chất “cuồng”, chất “đắng” của Hàn Mặc Tử… nó đẹp bình dị, như mơ như thực, khiến đa phần chúng ta có thể cảm được, hiểu được, yêu được.
              

    Hàn Mặc Tử (1912 - 1940)

              
    Muốn hiểu Mùa xuân chín tường tận hơn, tưởng cũng cần nhắc lại một chút về hoàn cảnh ra đời của nó. Theo lời nhà văn, nhà phê bình Trần Thanh Mại, thì:
    • “Qua cái năm bệnh hoạn đầu, nghĩa là vào cuối năm 1937, Hàn Mặc Tử gom góp xong tập thơ làm trên giường bệnh, theo một thể tài mới mà chàng gọi Thơ Điên”.


    Có nghĩa là bài thơ Mùa xuân chín nằm trong tập Thơ Điên, được viết ra khi Hàn Mặc Tử đang phải vật lộn với căn bệnh hủi – thời ấy đang bị người ta ghê sợ và xa lánh lắm.

    Hoài Thanh, Hoài Chân viết trong Thi nhân Việt Nam:
    • “Tôi nghĩ đến người đã sống trong một túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựt trình che mái nhà cho đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao nhiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích. Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn cả thể phách lẫn linh hồn cùng tan rã...”


    Một người thường rơi vào hoàn cảnh của nhà thơ đã đau đớn lắm. Một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và lãng mạn; một con người tài hoa đang tuổi xuân xanh mà bị dày vò, hắt hủi như Hàn Mặc Tử có lẽ còn đau đớn gấp bội. Vậy mà con người bao nhiêu năm “bó tay nhìn cả thể phách lẫn linh hồn cùng tan rã” ấy lại có lúc viết ra được những câu thơ đẹp kỳ lạ như thể thôi miên thế này:

    • Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
      Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
      Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
      Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.


    Cảnh quê đấy, vừa dung dị gần gũi, lại như sương khói mờ ảo, ẩn hiện long lanh như ở miền cổ tích. Có lẽ đó là những câu thơ viết giữa những cơn đau bệnh. Đoán chừng như có một hôm, khi bệnh tật đã chán hành hạ và tạm buông tha cho người thơ, khiến người hơi hồi tỉnh một chút để rời khỏi cái xó nhà hôi hám và ẩm thấp; người chống gậy lần ra trước hiên nhà, bắt gặp cảnh xuân đang đến và họa lại nó không chỉ bằng một hồn thơ tinh mỹ mà còn bằng những nét vẽ bậc thầy.
              

              
    Bức họa ấy có “làn nắng” ửng hồng. Sao không phải “tia nắng” hay “hạt nắng” hay “ánh nắng”? Bởi “làn nắng” mới khiến nắng mong manh, trong suốt và mỏng tang như lụa, làn nắng ấy mới đủ nhẹ nhàng vương vấn, quấn quýt với sương khói lãng đãng đang tan dần. Nắng cứ khiến khói ửng lên và khói lại khiến nắng thêm phần lấp lánh, còn non tơ, e ấp và mơn man hơn cả nắng và khói trong Vọng Lư Sơn bộc bố của Lý Bạch, vì nó chính hợp với cảnh đồng quê bình dị, không phải cảnh hùng vĩ và nguy nga của:

    • “Nắng rọi Hương Lô, khói tía bay
      Xa trông dòng thác trước sông này
      Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
      Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây”


      (Vọng Lư Sơn Bộc Bố - Lý Bạch)


    “Lấm tấm vàng” có nghĩa là những hạt màu vàng nhỏ li ti nằm rải rác đều đặn trên mái nhà. Màu vàng này từ đâu ra? Không rõ, nhưng trong nắng ửng hồng, trong khói sương mơ màng, nó có khác gì những hạt bụi vàng ròng lấp lánh rơi trên mái? Được đặt trong khung cảnh thần tiên ấy, mái nhà tranh vốn bình dị nơi quê nghèo, lại trở nên như mơ như thực. Xuân đến lặng lẽ và dịu dàng trong làn nắng ửng, trong sương khói mờ ảo, trong gió xuân nhè nhẹ tinh nghịch và trên giàn thiên lý xanh mướt, khẽ khàng như người tình bé nhỏ tiến vào phòng rồi ngồi xuống chống cằm, âu yếm nhìn ta đang say ngủ, ta chỉ có thể cảm nhận thấy sự hiện diện của nàng. Cũng như xuân tới lặng lẽ đến nỗi ta chỉ nhìn thấy ‘bóng xuân sang” mà thôi.

    • Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
      Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
      Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
      Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…



    Từ khung cảnh gần với mái nhà tranh, giàn thiên lý, ánh mắt nhà thơ nhìn ra xa tít tắp với đồng cỏ xanh mênh mông dập dờn trong gió. Câu thơ gợi nhớ đến cảnh mùa xuân trong Đoạn Trường Tân Thanh của thi hào Nguyễn Du: “Cỏ non xanh rợn chân trời...” Gió xuân đang đùa với cỏ biếc, các thôn nữ cũng đang đùa vui trong mùa xuân của cuộc đời. Ta tưởng như nghe thấy tiếng cười trong vắt, lảnh lót của các cô từ trên đồi xa văng vẳng tới, khiến thi nhân cũng đắm mình trong xuân ý triền miên. Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang, khi người thơ đang lây trong niềm vui ngây ngất thì nỗi chạnh lòng lại chợt lẻn đến. Thi nhân tiếc nuối cho tuổi xuân ngắn ngủi, tiếc cho hạnh phúc vô thường, chỉ đáo qua đời ta một đôi lần. Có 4 câu thơ nhưng dường như ta thấy cả cảnh xuân đến xuân đi, thấy cả tình người đang vui say sưa lại thoắt buồn tư lự.

    • Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
      Hổn hển như lời của nước mây,
      Thầm thì với ai ngồi dưới trúc,
      Nghe ra ý vị và thơ ngây…


    Một tiếng hát của tuổi xuân xanh mà lại diễn hóa ra bốn trạng thái cảm xúc. Nó cất lên từ đâu đó ở lưng chừng núi, trong sáng và hồn nhiên lắm, hồn nhiên và lạc quan như tâm hồn tuổi trẻ với cả khung trời hoa mộng, còn chưa hề vương dù chỉ một chút sầu thương của cuộc đời. Ta như nghe thấy khúc Sơn ca Phúc Kiến: “chị em lên núi hái chè” mà Nhạc Linh San cao giọng véo von giữa chập trùng mây núi khi nàng đang bồng bềnh say đắm trong tình yêu với Lâm Bình Chi. (Độc giả nào đã từng đọc tiểu thuyết Tiếu Ngạo Giang Hồ có lẽ không thể quên chi tiết đầy biểu cảm này). Chắc hẳn tiếng ca ấy phải trong và cao lắm mới có thể đập vào các vách núi, vang chỗ nọ, vọng chỗ kia, khiến ta khó có thể xác định được người hát đang ở đâu. Vậy nên nhà thơ gọi là “vắt vẻo” chăng? Tiếng ca ấy lại hổn hển, náo nức như nhựa sống căng tràn trong cơ thể thiếu nữ. Nó khiến cho người ngồi dưới trúc – biểu tượng của người quân tử đoan trang – cũng phải thấy lòng rộn ràng với chút tình ý thơ ngây. Nhưng trên tất cả, những âm sắc và tình cảm phong phú ấy chẳng chút toan tính, chẳng đượm mùi tục lụy, không cố gieo tình mà lại đầy ý vị. Và trong trắng như tuổi thanh xuân.

    • Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
      Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
      “Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
      Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”

              

              
    Thi nhân có hai lần sực nhớ:
    • lần thứ nhất người sực nhớ tới ngày tan tác ngay trong lúc hội ngộ của những kẻ đầu xanh;
    • lần thứ hai giữa mùa xuân đất khách, người sực nhớ tới làng quê cũ, tới hình bóng người xưa.
    “Chị ấy” là ai? Chẳng biết. Có lẽ ngày xưa lúc xuân xanh, “chị ấy” cũng từng là một trong các cô thôn nữ hát trên đồi. Còn nay thì không biết người xưa đang tần tảo gánh thóc nhà ai? gánh thóc năm này qua năm khác dọc những bờ sông nắng cháy. Đặc biệt, cái ánh nắng chang chang, gay gắt đến trắng cả bờ sông ấy là hình ảnh đối lập với “làn nắng ửng” nhẹ nhàng, mơn man ở đầu bài thơ. Đó là lúc mà xuân xanh đã chuyển sang xuân chín, là lúc “sóng xuân cỏ biếc” với những cô thôn nữ hát trên đồi trở thành người phụ nữ tần tảo gánh thóc dọc bờ sông nắng cháy. Cái ngày mai có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi đã là quy luật của hợp tan tan hợp trong đời người. Dẫu biết thế, nhưng ai mà chẳng bâng khuâng, chẳng ngậm ngùi trước mùa xuân tuổi trẻ duy nhất đã đi qua không bao giờ trở lại?





    Có ai đó nói rằng: Mùa xuân chínĐây thôn Vĩ Dạ là những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử. Vì đâu mà hay? Phải chăng một phần vì cái cảm giác khi chìm giữa vườn thơ của người với những cảm xúc quằn quại, hoang vu, đáng sợ, với những “máu cuồng”“hồn điên” thật xa lạ, ta lại bắt gặp những câu thơ vô cùng đẹp, dễ thương và nhất là quen thuộc với tâm hồn ta. Ta lại nảy lòng thương xót với con người tài hoa bạc mệnh, sở dĩ làm thơ điên chỉ vì thân xác đang đau đớn và hồn đang rên xiết vì bị vứt vạ vật bên lề của cuộc đời. Còn khi người ấy tạm thời hồi tỉnh, thì ta lại có Mùa Xuân chín, lại có Đây thôn Vĩ Dạ. Có phải thế chăng? Thôi thì dẫu sao, chỉ với Mùa Xuân chín, Hàn Mặc Tử đã luôn là một nỗi nhớ khôn nguôi của người yêu thơ, yêu cái đẹp khi xuân về.





    Thanh Phong




    https://www.ntdvn.com/van-hoa/mua-xuan- ... -7461.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân Tân Sửu ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           



    Cơm Chiều 29
    _________________________
    Tưởng năng Tiến _ 6/2/2021




              

              




    Dường như tôi không hợp lắm với không khí gia đình, nhất là cảnh gia đình xum họp hay đầm ấm. Ngay lúc thiếu thời, vào những chiều giáp Tết, thay vì quanh quẩn ở nhà – phụ cha lau chùi lư hương; giúp mẹ bầy biện mâm cơm cúng cuối năm – tôi hay lặng lẽ tìm lên một ngọn đồi cao nào đó (lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang) với tâm cảm của một … kẻ giang hồ, đang trên bước đường phiêu bạt.

    Ôi! Tưởng gì chứ chuyện “phiêu bạt” thì nào có khó chi, khi sinh trưởng trong một đất nước chiến tranh và ly loạn. Muốn là được liền thôi. Trời – đôi khi – cũng chiều lòng người, và chiều tới nơi tới chốn!

    Những tháng ngày niên thiếu vụt qua như một cánh chim. Tôi bước vào tuổi đôi mươi, đúng vào Mùa Hè Đỏ Lửa, cùng với lệnh Tổng Động Viên. Thế là tôi “xếp bút nghiên để theo việc đao cung.” Hay nói một cách ít kiểu cọ hơn là tôi đi lính.

    Sau lính đến tù, với tội danh (nghe) hơi nặng là “cầm súng chống lại nhân dân.” Ra tù, vừa lếch thếch về đến nhà chiều hôm trước, ngay sáng sớm hôm sau ông công an khu vực đã vội vã ghé “thăm” và “nhắc nhở” đôi điều cần thiết:
    • Vì không có hộ khẩu ở thành phố nên tôi sẽ phải đi kinh tế mới.
    • Trong khi chờ đợi, bắt đầu từ ngày mai, tôi phải sắm “một cuốn sổ đi lại.” Khi đi đâu phải ghi ngày giờ khởi hành với chữ ký xác nhận của tổ trưởng dân phố, và đến đâu gặp ai cũng phải có sự xác minh của viên chức chính quyền ở nơi đó.
    • Mỗi tuần phải mang sổ lên phường để công an kiểm tra.
    • Mỗi tháng phải đọc kiểm điểm trước tổ dân phố để nhân dân nhận xét và phê bình ưu/khuyết điểm.

    Nghe xong, mẹ tôi lặng lẽ móc túi đưa cho thằng con mấy tờ giấy bạc cùng lời căn dặn:
    • _Thế thì mua luôn cái bút nữa con ạ. Đi đâu, đến đâu cũng phải nhờ người ký thì dắt viết theo luôn cho nó đỡ phiền.
      _Dạ.

    Tôi cầm tiền bước ra khỏi nhà, ghé vào cái quán nhỏ bên đường mua một ly rượu trắng và mấy điếu thuốc lẻ. Ực xong ly rượu, tôi châm thuốc hút rồi lủi thủi bước đi, vừa đi vừa lầm bầm mấy câu thơ của Thâm Tâm (Mẹ thà coi như chiếc lá bay/ Chị thà coi như là hạt bụi/ Em thà coi như hơi rượu say) và đi luôn cho tới bây giờ.

    Mấy chục năm qua, không ít lúc, tôi cũng nhớ nhà mà chả rõ nhớ ai. Bố mẹ đã từ trần từ lâu. Anh chị em thì kẻ mất người còn nhưng đều tứ tán cả rồi. Tôi nhớ quê chứ không phải nhớ nhà, chắc vậy.






    Tôi nhớ Đà Lạt cùng tiếng mưa đêm rầm rì, thầm thì qua mái ngói. Nhớ những bữa cơm chiều và món cơm cá nục hấp (chiên vàng rồi mới kho chung với tóp mỡ) cùng những lát ớt đỏ tươi. Nhớ những buổi sáng sớm tuy vẫn còn nằm trong chăn ấm (lắng nghe tiếng chim sẻ ríu rít trên mái ngói) nhưng biết được rằng cơn bão rớt đã qua, hôm nay trời sẽ nắng tươi vàng.

    Đôi khi, tôi cũng nhớ Rạch Giá vào những ngày biển động. Trời sụt sùi mưa, mây mù thấp xám, sóng dạt bờ kè tung tóe. Tôi lần dò đến thành phố này với hy vọng tìm được đường chui, dù chả quen biết một ai và cũng không một đồng xu dính túi.

    Ban đêm, tôi thường nằm quấn mình trong một tấm vải nhựa ở chân cầu Đúc. Ngày thì hay đi loanh quanh trong chợ Nhà Lồng. Lòng buồn, bụng đói, dạ hoang mang nhưng mắt vẫn không rời những chiếc bàn ăn với ước mong có thể kiếm được chút gì còn sót lại trong tô hay trên dĩa. Niềm mong ước rất mỏng manh vì vào thời gian này (những năm cuối của thập niên 1970 – khi phong trào vượt biên đang lên tới đỉnh) thì gần như mọi người đều đói cả, chứ chả mấy kẻ no.

    Rạch Giá có một tiệm ăn nổi tiếng (Tây Hồ) ở số 6 đường Nguyễn Du. Tôi thường thập thò trước cửa nhưng không mấy khi chạy vội vào bên trong, ngay khi thực khách vừa buông đũa. Tôi ngượng, đã đành; điều khó đành hơn là ánh mắt thèm thuồng của mấy đứa bé bẩn thỉu, gầy gò đứng cạnh bên. Chúng cũng đang chầu chực “khẩn trương” chả khác chi mình.

    Cả đám – chắn chắn – đã không đến nỗi này, nếu tôi không phải là một kẻ bại trận trong cuộc chiến vừa qua. Tôi vẫn nghĩ thế nên cái mặc cảm của kẻ có lỗi đã luôn giữ chân tôi lại, với không ít buồn rầu!

    Có lẽ nhờ chút sĩ diện (còn sót) này mà tôi đã được những người chạy bàn “đối đãi cách riêng.”
    Họ cho tôi cái đặc ân quí giá là được sớt vô lon guigoz ít thức ăn thừa, vào giờ đóng cửa.

    Nhờ thế mà tôi biết canh chua cá chẻm của quán Tây Hồ ngon lắm, canh chua cá lóc còn ngon hơn nữa, còn cá rô kho tộ (có lần tôi được hưởng gần cả nguyên con) thì ngon hết biết luôn. Nó ngon đến độ khiến tôi suýt hóc xương chỉ vì nhai vội quá!

    Nhiều người nói là ở Mỹ muốn ăn thứ gì cũng có – bất kể là món của Tây, Tầu, Cận Đông, Trung Đông, Viễn Đông hoặc Phi Châu lục địa. Tôi đã lê la qua hàng ngàn quán ăn ở đất nước này nhưng không tìm đâu ra được canh chua cá lóc và cá rô kho cả.

    Từ California, muốn tìm lại được hai thức ăn này, phải mất đến hơn 20 giờ bay lận! Xin ghi địa chỉ đây cho người đồng điệu, khi cần: Nhà Hàng Ngon (Preah Sihanouk Blvd 274, Tonle Bassac) Phnom Penh – Cambodia.
              

              
    Tôi mới ghé đây chiều qua, chiều 29 Tết. Không thể đến vào ngày mai vì 30 quán đóng. Tôi đã bỏ cái thói quen thập thò trước tiệm ăn tự lâu rồi. Bây giờ tôi đàng hoàng thong thả bước vào bên trong, cười đùa thân thiện với những nhân viên (đứng chào khách ngay tận cửa) và không quên đút nhẹ vào túi trên của họ mấy tờ giấy bạc lì xì.

    Dù chỉ có mặt xuân thu nhị kỳ, tôi không phải là khách lạ vì khó ai quên được một ông già Á Châu nhưng không nói được tiếng Tầu (tiếng Thái hay tiếng Miên cũng nỏ) luôn vui vẻ đùa cợt, và lúc nào cũng chỉ gọi một thứ thức ăn duy nhất: cá rô kho.

    Tôi luôn được tiếp đón hơi quá nồng hậu vì có thói quen over tipping, không bỏ sót một cô hay cậu chạy bàn nào đang có mặt, và cũng không quên người đứng bếp. Chắc các em nghĩ là tôi giầu có và hào phóng, chứ đâu có biết rằng tôi buộc phải trả thêm tiền cho những gô cơm (ngon tuyệt vời) mà mình vẫn còn thiếu nợ ở quán Tây Hồ, từ mấy mươi năm trước.

    Phải mất gần nửa tiếng món ăn ruột của tôi mới được dọn ra. Mấy chú cá rô bé bỏng chỉ bằng ba ngón tay thôi, tiêu đen rắc lấm tấm trông giống như mè, thơm phức. Cơm trắng cũng ngạt ngào hương gạo mới nhưng tôi không cảm thấy đói, dù đã uống “khai vị” hơi nhiều.

    Ơ cá chiều nay – không dưng – khiến tôi hơi nghèn nghẹn, dù tuổi già hạt lệ như sương. Lại nhớ nhà chăng? Tôi không nhớ nồi cá nục kho vào những chiều mưa Đà Lạt khi mình còn thơ ấu (và còn được sống trong yên ấm) nhưng nhớ những ngày biển động ở Rạch Giá, và lũ trẻ thơ bất hạnh năm nào.

    Đứa bé nhất thì nay cũng đã đến tuổi ngũ tuần rồi. Cũng sắp xong một kiếp người đen đủi. Đúng như ước mơ của thời niên thiếu, nửa thế kỷ rồi, tôi “được giang hồ phiêu bạt” qua rất nhiều nơi (những vùng đất văn minh phú túc, cùng những xứ sở lạc hậu nghèo nàn) nhưng
              
    chưa thấy đâu mà kiếp nhân sinh lại
    nhọc nhằn,
    cay đắng,
    cơ cực


    tủi nhục
    như ở cái phần quê hương khốn khổ khốn nạn của mình.

              




    Tưởng năng Tiến




    https://www.rfavietnam.com/node/6672
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân Tân Sửu ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           

              
              
    Du xuân



              

              

    Hibari yori
    sora ni yasurau
    tōge kana

    Matsuo Basho

              
    (cao hơn chim
    nằm nghỉ bên trời
    con đường núi)

              

    Đèo cao lơ lửng giữa trời
    Én bay chưa tới ta ngồi cùng mây

    Quỳnh Chi phóng dịch
    ( 31/1/2008)




              


              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân Tân Sửu ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          







Hạnh phúc đầu xuân
Minh Kỳ - Lê Dinh - Hoàng Như Hạ


viewtopic.php?p=23159#p23159

          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân Tân Sửu ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          







          


https://en.calameo.com/read/0065845989b54d34ae432
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân Tân Sửu ...

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           



    Lá Thư Ngày Tết Của Thiện Thệ Tử Thích Tuệ Sỹ






    Kính đảnh lễ Chư Tôn Trưởng Lão,
    Kính gởi Huynh đệ Bốn chúng,


    Ngày đầu xuân, kính gởi đến Đại chúng niềm vui trong Chánh pháp, cùng chia sẻ Pháp lạc trong Giáo pháp hiện thế của Đức Thích Tôn, cùng hướng đến Giáo nghĩa đương lai của Đức Từ Tôn Vô Năng Thắng.


    Trong những chu kỳ thành-trụ-hoại-không của thế giới, trong cái cộng nghiệp và biệt nghiệp của mỗi chủng loại, của mỗi dân tộc, nhân loại đã và đang trải qua những biến đổi trong thế giới tự nhiên, những biến động trong xã hội loài người, làm thay đổi tư duy của con người từ giáo nghĩa, giáo điều, tín lý của các tôn giáo, các hệ tư tưởng, gây nên những thế kỷ xung đột, bạo hành, chiến tranh, giữa các dân tộc, các tôn giáo.


    Trong những cộng nghiệp và biệt nghiệp ấy, dân tộc Việt Nam cũng đang trải qua những biến đổi trầm trọng, từ hình thái tổ chức xã hội cho đến định hướng tư duy. Phật giáo Việt Nam cũng đã và đang chịu những thử thách lớn của thời đại, không chỉ xuất hiện những hình thái sinh hoạt biến đổi theo cơ cấu tổ chức của một xã hội tiêu thụ, mà chính trong tư duy cũng biểu hiện những giá trị lệch hướng, định hướng theo thị hiếu quần chúng, thỏa mãn nhu cầu tri thức thấp kém, những giá trị thế tục phù phiếm.


    Khi mà những người học Phật bị mê hoặc bởi các giá trị thế tục, diễn giải giáo nghĩa theo kiến thức nhặt lượm từ những thành tựu vụn vặt trong xã hội tiêu thụ, chánh kiến mờ nhạt dần, và Chánh pháp được thay thế bằng tượng pháp; vàng thật được thay thế bằng vàng giả, như Đức Phật đã giải thích cho Tôn giả Đại Ca-diếp: Khi vàng giả xuất hiện trong thị trường tiêu thụ, vàng thật biến mất. Đây là quy luật cần được hiểu theo ý nghĩa kinh tế học. Do bản thân vàng giả không hàm chứa giá trị nội tại, người tiêu thụ dễ dàng phung phí. Từ đó, tạo ra ảo tưởng về một xã hội phồn vinh, mà nhất định nó sẽ dẫn đến sự sụp đổ. Cũng vậy, những giá trị phù phiếm của tượng pháp vẽ ra ấn tượng hư cấu về một thời kỳ hưng thịnh của Chánh pháp, đồng thời cũng hàm chứa tín hiệu cho sự suy tàn tất yếu.


    Phật giáo Việt Nam, trong hiện tại đang chứng kiến hiện tượng trăm hoa đua nở, mà bất cứ ai, có trí hay không có trí, có học hay không học, có đạo hay vô đạo, đều có thể phát ngôn tự ý và tự gán cho đó là Phật ngôn mà không thể tìm thấy bất cứ đâu trong kho tàng Thánh điển; được diễn giải tùy tiện nhằm thỏa mãn thị hiếu vật dục thấp hèn. Như một dự ngôn đã báo trước bằng ẩn dụ: đem vàng đi đổi củi; mang giáo nghĩa giải thoát cao thượng đổi lấy những giá trị thế tục được cho là giá trị văn minh thời đại.


    Quả thực, với những hiểu biết giáo lý nông cạn không được thực chứng qua công phu tu tập, tu trì nghiêm mật, giữa thời đại mà nhiễu loạn thông tin đang là công cụ đắc lực cho các tham vọng quyền lực, đam mê tài sản, hấp dẫn tiêu thụ, thật khó mà phân biệt thật với giả, chánh tín với tà tín và cuồng tín. Đó là hiện tượng mà ngày nay nó được gọi là sự nhiễu loạn thông tin qua các mạng truyền thông xã hội.


    Nhiễu loạn thông tin, tuyên truyền phổ biến những giá trị hư cấu, có thể nói, cũng được tìm thấy, từ xa xưa, như là tín hiệu xã hội cho các giai đoạn thăng trầm của các cộng đồng dân tộc và tôn giáo. Những giá trị hư cấu được phổ biến gây nên ảo giác về một xã hội phồn vinh; cũng vậy, Phật ngôn hư cấu tác thành vọng tưởng về sự hưng thịnh của Chánh pháp, và lịch sử quá khứ cũng như hiện tại đã và đang chứng kiến sự suy thoái đạo đức trong các chúng đệ tử Phật.


    Tuy nhiên, như mặt trời giữa hư không, sau những lúc bị mây mù, khói bụi che khuất, rồi cũng xuất hiện tỏa sáng thế gian. Cũng vậy, mặt trời trí tuệ, vốn là Giác tính uyên nguyên của mọi loài chúng sinh, trong sinh tử trường kỳ bị che lấp bởi khách trần phiền não, rồi cũng sẽ bừng sáng khi nhân duyên hội đủ. Đạo Phật Việt Nam, kể từ thời dựng nước, độc lập và tự chủ, đã dung hội giác tính trong nhất thể dân tộc, trải qua những thăng trầm, vinh nhục của lịch sử, vẫn tự tin và đứng dậy từ những sụp đổ đau thương.


    Vũ trụ xoay vần trong các chu kỳ thành-trụ-hoại-không, thiên nhiên xoay vần trong bốn mùa xuân-hạ-thu-đông, những người con Phật, qua các giai đoạn thịnh suy, bĩ thái của dân tộc và nhân loại, vẫn hướng đến tương lai trong ánh sáng Từ bi và Trí tuệ, trong ngày Xuân Di-lặc, trong nụ hoa vi tiếu của Đức Từ Tôn Vô Năng Thắng.


    Kính chúc đại chúng ngày Xuân tăng ích và an lạc trong Chánh Pháp.


    Nam-mô Đương lai Thế Tôn Từ Thị Vô Năng Thắng.


    Phật lịch 2564, Xuân Tân Sửu, 2021
    Thiện Thệ Tử Thích Tuệ Sỹ



    Nguồn:https://vietbao.com/a306883/la-thu-ngay-tet-cua-thien-the-tu-thich-tue-sy



              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân Tân Sửu ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           

              
              
    Thiên Lý Độc Hành






    1.

    Ta về một cõi tâm không
    Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn
    Còn yêu một thuở đi hoang
    Thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya

    2.

    Ta đi dẫm nắng bên đèo
    Nghe đau hồn cỏ rủ theo bóng chiều
    Nguyên sơ là dáng yêu kiều
    Bỗng đâu đảo lộn tịch liêu bến bờ
    Còn đây góc núi trơ vơ
    Nghìn năm ta mãi đứng chờ đỉnh cao

    3.

    Bên đèo khuất miễu cô hồn
    Lưng trời ảo ảnh chập chờn hoa đăng
    Cây già bóng tối bò lan
    Tôi ôm cỏ dại mơ màng chiêm bao

    4.

    Đã mấy nghìn năm đợi mỏi mòn
    Bóng người cô độc dẫm hoàng hôn
    Bởi ta hồn đá phơi màu nắng
    Ôm trọn bờ lau kín nỗi buồn

    5.

    Từ thuở hồng hoang ta ở đâu
    Quanh ta cây lá đã thay màu
    Chợt nghe xao xuyến từng hơi thở
    Thấp thoáng hồn ai trong khóm lau

    6.

    Trên đỉnh đèo cao bát ngát trông
    Rừng, mây, xanh, ngất tạnh, vô cùng,
    Từ ta trải áo đường mưa bụi
    Tưởng thấy tiền thân trên bến không

    7.

    Khi về ngả nón chào nhau
    Bên đèo còn hẹn rừng lau đợi chờ
    Trầm luân từ buổi ban sơ
    Thân sau ta vẫn bơ vơ bụi đường

    8.

    Bóng tối sập mưa rừng tuôn thác đổ
    Đường chênh vênh vách đá dọa nghiêng trời
    Ta lầm lũi bóng ma tròn thế kỷ
    Rủ nhau đi cùng tận cõi luân hồi
    Khắp phố thị ngày xưa ta ruổi ngựa
    Ngang qua đây ma quỷ khóc thành bầy
    Lên hay xuống mắt mù theo nước lũ
    Dẫm bàn chân lăn cát sỏi cùng trôi
    Rồi ngã xuống nghe suối tràn ngập máu
    Thân là thân cỏ lá gập ghềnh xuôi

    Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu
    Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi

    9.

    Gởi lại tình yêu ngọn cỏ rừng
    Tôi về phố thị bởi tình chung
    Trao đời hương nhụy phơi hồn đá
    Thăm thẳm mù khơi sương mấy từng

    10.

    Một thời thân đá cuội
    Nắng chảy dọc theo suối
    Cọng lau già trầm ngâm
    Hỏi người bao nhiêu tuổi

    11.

    Bước đi nghe cỏ động
    Đi mãi thành tâm không
    Hun hút rừng như mộng
    Tồn sinh rụng cánh hồng

    12.

    Thân tiếp theo thân ngày tiếp ngày
    Mù trông dư ảnh lá rừng bay
    Dõi theo lối cũ bên triền đá
    Sao vẫn còn in dấu lạc loài

    13.

    Khi về anh nhớ cài quai nón
    Mưa lạnh đèo cao không cõi người.





    2011-2012

    Tuệ Sỹ

    https://vietbao.com/a279862/tho-tue-sy

              


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân Tân Sửu ...

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Rừng mai






    Mùa xuân đã về phủ một màu vàng tươi quanh ngôi chùa nằm giữa rừng mai. Ngôi chùa nhỏ, đơn sơ nhưng vẫn toát ra vẻ uy nghi. Chiếc mái cong nhô lên bầu trời xanh cùng những tấm vách và cột gỗ đen chống đỡ bên dưới vẫn còn vững chãi trước vô thường. Các phiến đá trên lối đi vào đóng một lớp rêu dày, ngôi chùa tựa hồ bị bỏ quên ở nơi hẽo lánh này.

    Rừng mai nằm nghiêng nghiêng dọc theo vách đá, rồi trải dài xuống hướng chân núi tuởng chừng như vô tận.Trong những ngày xuân đẹp trời, sau thời khóa kinh buổi sáng và một tuần trà, sư cụ bỏ dở công việc thường nhật, bước ra khỏi chùa chuẩn bị đi dạo trong rừng mai. Lúc đó nắng ấm cũng vừa chan hòa, thời tiết đã bớt giá lạnh nhiều. Cũng như thường lệ sư cụ không cất bước ngay mà hãy còn đứng yên giây lát ở sân chùa. Người nhìn lên bầu trời, nhìn xuống nền đất, nhìn cả những cây cỏ dại bên các phiến đá. Sau đó người bắt đầu dạo từng bước vào rừng mai.

    Năm nào cũng thế, mai trổ nụ vào tháng mười một. Do thời tiết lạnh lẽo ở vùng rừng núi, phải đến tháng hai mai mới bắt đầu nở rộ. Từ trên đỉnh cao nhìn xuống rừng mai bên dưới, màu hoa tựa như dãy lụa vàng bao la từ trời buông xuống phủ lên rừng cây. Có những cây mai đã trở thành cổ thụ, gốc to, thân nhỏ dần, mọc thẳng bên vách núi đá thành những hình dạng khác nhau. Hoa mai vùng này nở thành chùm, mỗi đóa hoa có năm cánh màu vàng tươi của quả chanh chín mọng. Trong không khí giá lạnh của rừng núi, hoa tỏa ra mùi hương dịu nhẹ gây cảm giác sảng khoái. Trời càng lạnh, nồng độ hương hoa càng tăng phần thanh khiết. Dù đã lê gót vân du cả nửa đời người trước khi dừng chân tại ngôi chùa vắng này, sư cụ chưa từng thấy một loại hoa mai như thế. Người thường cảm nhận như đang nhắp một chung trà ngon ướp hoa. Ɖôi lúc cao hứng, người mang theo cả một bình trà pha sẵn lang thang suốt ngày trong rừng mai đang độ.

    Sư cụ vừa cất bước vừa ngắm nhìn những đóa hoa mai trên cành. Màu vàng của mai rợp trời. Những đóa hoa rụng cũng tô vàng tấm thảm thiên nhiên lót dưới bước chân người. Lững thững đến khúc quanh, sư cụ nhìn lên phía trước. Một người đã đứng yên lặng tự bao giờ. Sư cụ chỉ nhìn thấy phía sau lưng chiếc áo khoác trắng như bông, búi tóc đen và ngang vai người đó nhô lên một chuôi kiếm cũng cùng màu trắng. Cơn gió xuân vừa thoảng qua, hoa mai rơi rụng như cơn mưa vàng nặng hạt, thêu lên áo và tóc người áo trắng. Không muốn phá tan sự chiêm ngưỡng xuất thần của chàng kiếm sĩ trước vẻ đẹp của rừng mai, sư cụ toan rẽ sang lối khác. Mặc dù bước chân của người rất êm, tiếng gió thổi qua rừng cây vang tiếng xào xạc, nhưng chàng kiếm sĩ dường như cảm nhận có người hiện diện. Chàng quay phắt lại, bàn tay đã đặt trên chuôi kiếm. Nhìn thấy nhà sư già, chàng buông chuôi kiếm, chắp hai tay thi lễ. Cử động ứng biến thật nhanh nhưng vẫn nhẹ nhàng, từ tốn. Chàng kiếm sĩ toan mở lời nhưng sư cụ đã lên tiếng:

    – Lão tăng xin lỗi đã quấy rầy tráng sĩ. Cử động vừa rồi của tráng sĩ khiến lão tăng hiểu được tráng sĩ đôi phần.

    Trên vầng trán rộng đôi mày của chàng kiếm sĩ khẽ nhíu lại trong tích tắc. Ɖôi tay chàng trong tư thế thi lễ vẫn chưa rời ra. Dù thoáng ngạc nhiên về câu nói của nhà sư già mới gặp lần đầu, nhưng thấy thái độ của nhà sư thân mật, hòa nhã, chàng kiếm sĩ bèn hỏi:

    – Bạch sư cụ, người đã hiểu gì về con?

    – Lão tăng hiểu rằng đối thủ của tráng sĩ khó có cơ hội thấy được hình dạng thanh kiếm của tráng sĩ.

    Chàng tráng sĩ mĩm cười trước câu trả lời của sư cụ, hỏi tiếp:

    – Nếu sư cụ có nhận xét như thế, ắt hẳn người cũng thấu hiểu nghệ thuật sử dụng kiếm và cũng đã từng dùng kiếm.

    Sư cụ tươi cười:

    – Lão tăng vốn không có kiếm tráng sĩ à.

    Chàng kiếm sĩ và sư cụ cùng cười thoải mái. Cơn gió xuân lại thổi qua, một cơn mưa vàng lại được dịp đổ xuống. Những đóa mai vàng tiếp tục thêu lên màu áo trắng của chàng kiếm sĩ. Sư cụ đưa tay làm dấu và quay bước. Chàng kiếm sĩ lẳng lặng bước theo. Nơi chàng kiếm sĩ đã đứng vẫn còn hai dấu chân. Những đóa mai vàng chưa kịp rơi trên đó.

    ***

    Sương chiều lãng đãng trong rừng mai như các đám mây mỏng. Những cây mai đàng xa chợt ẩn chợt hiện. Màu vàng tươi buổi sáng biến thành sậm hơn. Hàng vạn mảnh nhung tí hon thay đổi theo màu sắc của ánh thái dương đang dần rơi xuống sau núi. Dáng áo trắng của chàng kiếm sĩ vô danh hiện ra trong sương chiều. Chàng lang thang suốt ngày trong rừng mai, quên cả ăn uống và quên cả sương chiều miền núi thấm lạnh.

    Sáng nay trong một cuộc cờ gay go cùng sư cụ, chàng đã cáo lỗi bỏ dở dang và bước nhanh ra rừng mai. Chính sư cụ cũng khuyên chàng nên nhân thời điểm này mà thưởng thức hoa mai đang nở. Ô những đóa mai vàng! Chàng chợt nhớ đến khung cảnh im vắng trên chánh điên của ngôi chùa lúc lên lễ Phật. Ɖiều lạ lùng là bàn thờ Phật vẫn khói hương nhưng không có một cành mai nào được chưng bày. Nhìn kỹ, chàng chỉ thấy một vài đóa mai nằm gọn trong chiếc đĩa sành. Mỗi đóa mai có đài hoa xanh đỡ năm cánh mỏng màu vàng xếp hình rẻ quạt rời nhau, viền cánh hoa lượn sóng, nhị hoa cũng cùng màu vàng chanh. Ɖó là tất cả những gì của rừng mai mà sư cụ đem cúng dường chư Phật.

    Khu rừng mai thật bao la. Sương chiều càng xuống mờ, hương mai càng bốc lên nồng nàn. Chàng kiếm sĩ quay lại đường cũ để trở về chùa bằng lối cửa sau. Chàng bỗng cảm nhận một mùi hương lạ lẫn trong hương mai. Khướu giác chàng không thể lầm lẫn được. Mùi hương tuy lạ, nhưng gây cảm giác sảng khoái thanh khiết. Tò mò chàng đi theo mùi hương lạ đó. Rừng mai đang thay đổi từ giây phút và mùi hương lạ phảng phất như đang dẫn dắt chàng kiếm sĩ bước đi trong mơ. Chiếc áo bào trắng khẽ lay động theo từng bước chân. Mùi hương lạ càng lúc càng đậm đà hơn. Lúc dừng lại nơi xuất phát mùi hương lạ, chàng kiếm sĩ suýt buột miệng kêu ồ lên một tiếng. Trong khoảng rừng gần ngõ sau chùa, trên dãy đất như ngọn đồi con, một cây mai mọc vươn lên với những cành khẳng khiu vô cùng mỹ thuật. Dưới ánh chiều tà còn sót lại, chàng kiếm sĩ kịp nhận ra vô số bông hoa trắng đậu trên những cành trụi lá như một đàn bướm nhung đông đảo. Chàng bước đến gần cây mai, một đóa mai trắng từ cành nhẹ rơi xuống phía trước. Chàng kiếm sĩ đưa tay hứng lấy. Ɖóa mai trắng trong lòng bàn tay chàng có sáu cánh xếp cạnh nhau, dày và mịn hơn năm cánh của hoa mai vàng.

    Chàng kiếm sĩ chưa từng thấy một cây mai nào với hương hoa như thế trên bước đường phiêu bạt giang hồ. Ɖứng sững chiêm ngưỡng cây mai, trước khi kịp ý thức, bàn tay chàng đã đưa đóa mai trắng lên môi tự bao giờ. Nhưng chàng kiếm sĩ chợt quay phắt lại với phản ứng của kẻ luôn cảnh giác cao độ trong bất cứ hoàn cảnh nào. Không phải sư cụ. Một dáng thân yểu điệu đang đứng nhìn chàng. Mái tóc cô gái lạ đen tuyền phủ xuống bờ vai. Người nàng khoát xiêm y toàn màu trắng. Ɖó phải là thứ xiêm y kết lại bằng những cánh mai trắng chàng vừa thấy. Nàng xuất hiện thật liêu trai, ma quái giữa khung cảnh chiều tà nơi vùng rừng núi. Nơi đây chỉ có ngôi chùa nhỏ, còn chung quanh toàn là rừng mai và tùng, bách. Dù ngạc nhiên nhưng chàng kiếm sĩ vẫn êm đềm hỏi một câu ngắn gọn:

    – Nàng là ai?

    Cô gái lạ nhìn chàng dịu dàng, giọng nói như ru:

    – Thiếp có hề hỏi tráng sĩ là ai đâu?

    Ɖây là lần thứ hai trong cùng một ngày chàng kiếm sĩ thoáng phân vân khi đối thoại với người trước mặt. Nếu chàng phân vân như thế trong chiêu kiếm trước một đối thủ, có lẽ giờ này chàng đã không còn đứng nơi đây. Chàng lên tiếng:

    – Giữa ta và nàng không biết ai là kẻ lạ?

    Cô gái áo trắng lại cất giọng ôn nhu:

    – Nếu tráng sĩ biết yêu hoa mai thì thiếp và chàng đều không phải là kẻ lạ.

    Hương mai trắng vẫn lãng đãng hòa lẫn với hương mai vàng. Bỗng cô gái xoay người lại nhẹ nhàng cất bước. Nàng bước nhanh nhưng dáng thân vẫn thướt tha. Mái tóc dài đổ xuống quá ngang lưng, tà áo trắng khẽ bay ẩn hiện trong sương chiều. Không dừng được, chàng kiếm sĩ đuổi theo bước chân cô gái áo trắng nhưng vẫn giữ khoảng cách. Hai bóng trắng xuyên qua sương chiều, lướt qua những gốc mai. Ɖột nhiên bóng nàng khuất đi sau một cội mai. Chàng kiếm sĩ có cảm tưởng cô gái đang bay bằng hai tà áo trắng. Chàng lướt đến thật nhanh và nhận ra nàng đã trở về nơi cũ. Cô gái đang đứng tựa vào gốc mai trắng. Bóng tối rơi nhanh xuống rừng mai nhưng chàng kiếm sĩ vẫn còn nhận ra một đóa mai trắng đang đậu trên mái tóc của nàng…

    Chàng kiếm sĩ về chùa rất muôn. Ngọn bấc trên chiếc bàn gỗ nâu trong hậu liêu vẫn còn cháy leo lét. Ánh sáng ngọn bấc soi lờ mờ các quân cờ trên bàn cờ dang dở buổi sáng. Những ngày kế tiếp cũng như thế. Ban ngày chàng kiếm sĩ lang thang trong rừng mai. Khi buổi chiều sắp xuống, chàng quay bước trở về nơi cây mai trắng. Rồi trở về chùa rất muộn. Bàn cờ vẫn dang dở. Chàng kiếm sĩ vẫn chưa mở lời hỏi nhà sư trụ trì về gốc gác của cô gái áo trắng trong rừng mai.

    ***

    Hai tuần đã trôi qua. Màu vàng của hoa mai vẫn tươi nhưng trên đầu cành đã xuất hiện những chiếc lá non. Màu lá lại xanh mướt, không hề nhuộm các sắc tím, vàng như lá mai non bình thường.

    Ɖêm đó nàng để yên đôi tay mình trong lòng bàn tay của chàng kiếm sĩ. Trời trong, trăng treo chênh chếch tỏa ánh vàng nhợt nhạt xuống rừng mai. Hai bóng trắng gần như hòa làm một. Nàng chợt lên tiếng, âm thanh vẫn êm đềm nhưng lần này như vọng lại từ cõi xa xăm nào:

    – Chàng nhất định ra đi vào sáng mai?

    Chàng kiếm sĩ nhìn vào cây mai trắng. Dưới ánh trăng chàng nhìn thấy rõ những đóa hoa trắng và vô số những lộc non. Trong cái ẩm lạnh của sương đêm, chàng có cảm tưởng những đóa mai trắng đang âm thầm chờ đợi câu trả lời:

    – Năm nào cũng thế, ta đều hẹn tái ngộ với bằng hữu của ta ở miền Nam vào khoảng thời gian này. Ɖó là người bạn thân duy nhất của đời ta. Lần này chắc ta trễ hẹn. Có lẽ nàng và rừng mai đã biết tại sao.

    – Người đó cũng là một kiếm sĩ như chàng?

    – Không. Hắn chỉ là một kẻ lang bạt biết làm thơ. Nhưng những bài thơ của hắn còn sắc bén và mãnh liệt hơn đường kiếm của ta rất nhiều. Lưỡi kiếm ta chỉ chạm được một người hay hơn, thơ hắn có thể chạm trăm người, ngàn người cùng lúc.

    Sau khoảnh khắc im lặng, chàng kiếm sĩ nói tiếp:

    – Ta còn có những chuyện phải giải quyết. Mong nàng hiểu tại sao ta phải ra đi vào sớm mai.

    – Thiếp đã hiểu. Bởi vì hoa mai nở rồi lại tàn. Bởi vì chàng đã là kiếm sĩ. Tuy nhiên thiếp vẫn chờ đợi chàng.

    Giọng chàng kiếm sĩ cũng chìm vào cõi xa xăm:

    – Ta sẽ trở lại vào tháng hai mùa hoa mai nở năm sau.

    Chàng khẽ vuốt tóc nàng. Trong lòng bàn tay những sợi tóc mềm mại như nước chảy. Dưới ánh trăng bàn tay của chàng kiếm sĩ hiện rõ trên nền đen của màu tóc. Bàn tay năm ngón thuôn, bàn tay của kẻ cầm đàn hay cầm bút. Nàng ngẩng đầu lên nhìn chàng, đôi mắt như ướt đẫm sương đêm. Tiếng động của núi rừng về khuya chợt im bặt. Hai bóng trắng dìu nhau ẩn hiện qua những cành mai.

    Sáng ngày hôm sau chàng tráng sĩ nai nịt gọn gàng để ra đi. Chàng bước vào hậu liêu để giã từ sư cụ. Người ngồi bên chiếc bàn có bàn cờ dang dở. Chàng kiếm sĩ quỳ xuống thi lễ:

    – Con xin tạ ơn tấm thịnh tình của sư cụ trong những ngày qua.

    Sư cụ vẫn ngồi yên, khẽ gật đầu. Chàng tráng sĩ đứng lên thưa tiếp:

    – Con lên đường bây giờ và sẽ không quên cuộc hội ngộ cùng sư cụ và rừng mai. Kính chúc sư cụ pháp thể khinh an.

    Chàng kiếm sĩ quay lưng dợm bước đi. Chợt tiếng trầm trầm của sư cụ vang lên:

    – Bàn cờ hãy còn dang dở tráng sĩ à.

    Chàng kiếm sĩ bước đến chiếc bàn gỗ nâu. Mỗi đêm chàng đều có dịp trông thấy bàn cờ dang dở này. Tiếng sư cụ lại vang lên:

    – Nước cờ này đến lượt tráng sĩ.

    Sau khoảnh khắc do dự, chàng tráng sĩ đi liền một nước cờ. Sư cụ chợt thở dài. Tiếng thở dài của nhà sư làm chàng kiếm sĩ lạnh buốt. Chàng có cảm tưởng đường kiếm sắc lẻm của một cao thủ vừa lướt qua ngấn cổ mình.

    – Tráng sĩ vừa đi nước mã. Bàn cờ này tráng sĩ xem như thua cuộc. Hãy cẩn trọng khi sử dụng thanh kiếm của mình.

    Chàng kiếm sĩ nhìn lại bàn cờ rồi bước nhanh ra cửa. Sư cụ vẫn ngồi im lặng bên chiếc bàn gỗ nâu.

    ***

    Năm nay hoa mai cũng nở đúng kỳ hạn vào tháng hai. Cả một vùng rừng núi khoác áo vàng tươi. Bước chân từ tốn của sư cụ đặt trên con đường trải lá mai rụng vào mùa đông vừa qua. Người đi đến khúc quanh, nơi đã gặp chàng tráng sĩ năm nào. Dáng áo bào trắng năm xưa biệt tăm. Ngọn gió xuân lướt nhẹ qua. Những đóa mai rơi không có cơ hội thêu lên màu áo của chàng kiếm sĩ.

    Xuân, Hạ, Thu, Ɖông. Rồi lại Xuân. Sư cụ thong thả dạo bước. Một đôi bướm đang lượn qua những cội mai vàng phía trước. Năm nay côn trùng thức giấc khá sớm. Thời tiết có những điều khác lạ. Tà áo người phất phơ theo những làn gió nhẹ. Những đóa mai vàng rơi rụng có cơ hội thêu trên màu áo nâu, cũng chỉ đậu lại trong khoảnh khắc rồi rơi xuống. Dường như hoa không thể bám vào áo của sư cụ. Bước chân của người như dẫm trùng lên những bước chân năm rồi. Người cũng vừa đến khúc quanh quen thuộc. Một người khóac áo choàng trắng đang đứng im phía trước.

    Chàng kiếm sĩ đã trở lại rừng mai. Vẫn thế đứng như ngày nào, lưng quay về hướng sư cụ. Có lẽ chàng đứng im như vậy lâu lắm. Tóc và vai áo đã điểm đầy các đóa mai rơi. Sư cụ lẳng lặng rẽ sang hướng khác, tiếp tục bước đi thong dong như chưa hề trông thấy chàng kiếm sĩ.

    Một ngày trong rừng núi trôi qua nhanh. Mặt trời lặn khá sớm. Sư cụ châm ngọn bấc trên chiếc bàn gỗ nâu. Bên ngoài cửa bóng tối đã phủ dày đặt xuống rừng mai. Trời trở lạnh vào đêm. Sư cụ bước đến khép cánh cửa lại. Dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn bấc, bàn cờ và các quân cờ năm nào vẫn còn nằm an vị. Thế cờ chưa thật sự chấm dứt.

    Cánh cửa xịch mở, một bóng trắng len vào. Chàng kiếm sĩ bước đến, quỳ xuống thi lễ:

    – Bạch sư cụ, người vẫn an khang?

    Sư cụ mĩm cười:

    – Lão tăng chờ tráng sĩ đã lâu. Nhưng tráng sĩ không cần phải khách sáo như thế. Hãy đứng dậy và ngồi xuống đây.

    Chàng kiếm sĩ ngồi vào bàn. Một khoảng im lặng. Sư cụ và chàng kiếm sĩ như hai pho tượng, một nâu và một trắng. Chính giữa là bàn cờ. Chợt chàng kiếm sĩ nghe giọng trầm của sư cụ:

    – Phải chăng tráng sĩ khám phá ra có điều bất ổn trong đường kiếm của mình dù đường kiếm vẫn nhanh như ánh chớp?

    – Vâng! Kể từ lúc con rời chùa hành trình về phương Nam. Bạch sư cụ, ngôi chùa, rừng mai, nàng con gái áo trắng. Tất cả tựu thành cái đẹp. Sau giây phút thâm cảm, con bỗng nhận ra …

    – …

    – Con bỗng nhận ra nghệ thuật sử kiếm của mình có chỗ sơ hở. Nhất là lúc đi nước cờ sau cùng khi từ giã sư cụ là cả một sự phân vân trong lòng. Kể từ lúc đó…

    – Kể từ lúc đó tráng sĩ thừa hiểu nếu gặp một cao thủ, tráng sĩ đã mất mạng trong khoảnh khắc bất an đó.

    – Vâng!

    Giọng nói sư cụ vẫn đều đều:

    – Nhưng kể từ lúc tráng sĩ trở lại rừng mai và không gặp cô gái áo trắng, một tay kiếm tầm thường cũng có thể đánh bại tráng sĩ dễ dàng.

    Chàng kiếm sĩ lặng thinh, sau đó cất tiếng hỏi:

    – Bạch sư cụ, người biết rõ về cô gái áo trắng ấy?

    – Lão tăng biết rõ lai lịch nàng. Lão tăng sẽ kể cho tráng sĩ nghe. Nàng và tráng sĩ chẳng lạ gì nhau bởi tráng sĩ là một người biết yêu hoa mai.

    Chàng kiếm sĩ động tâm. Sư cụ vừa nói một câu tương tự như câu nói của cô gái huyền bí. Sự tịch mịch lại buông xuống trong liêu phòng. Rồi giọng trầm của sư cụ lại đưa lên:

    – Trong rừng mai, trên lối dẫn về phía sau chùa, hẳn tráng sĩ đã thấy một cây mai trắng. Cây mai trắng duy nhất của rừng mai.

    – Thưa vâng.

    – Mùi hương của những đóa mai trắng thật đặc thù. Có thể xem đó là một cây mai chúa của rừng mai. Theo năm tháng ban ngày mặt trời soi, ban đêm mặt trăng chiếu, cây mai hấp thụ khí âm dương nên tượng thành một cô gái vô cùng xinh đẹp. Nàng mặc toàn một thứ lụa trắng, trắng như các đóa hoa mai. Hàng đêm nàng đều nghe tiếng kinh kệ nên căn tính của nàng thật hiền hòa. Nhưng cỏ cây vốn còn nặng nghiệp. Tráng sĩ đã lạc bước đến rừng mai năm kia và tình cờ cũng là người biết thưởng thức tận cùng vẻ đẹp của hoa mai. Vô tình giữa nàng và tráng sĩ có sự chiêu cảm với nhau. Nàng yêu thương tráng sĩ từ ngày đó và đã chờ đợi tráng sĩ đến mỏi mòn.

    Chàng tráng sĩ nói như biện minh:

    – Sau khi gặp người bạn tri âm ở miền Nam, với nghiệp kiếm sĩ, con còn có những chuyện phải làm. Con không quên lời hẹn trở lại rừng mai. Nhưng sư cụ đã biết rõ biến động bất an trong lòng của con, nó ảnh hưởng đến nghệ thuật sử kiếm kể từ khi con rời khỏi rừng mai. Trong rừng núi hoang vu ở những nơi khác, con đã tập dượt đường kiếm của mình hàng ngàn lần, nhưng cũng thế thôi. Thấm thoát mà đã hai năm.

    Rồi chàng kiếm sĩ lên tiếng hỏi:

    – Bạch sư cụ, hiện cô gái áo trắng ở đâu, tình trạng của nàng như thế nào?

    – Chắc tráng sĩ đã nhìn thấy cây mai trắng? Ɖang vào thời điểm mai rừng nở rộ nhưng hoa mai trắng đã rụng quá nhiều, ngay cả những nụ chưa kịp nở, cây lại rất ít hoa hơn bình thường.

    – Thưa vâng!

    – Ɖiều đó chứng tỏ cô gái áo trắng đang lâm trọng bệnh vì mong đợi tráng sĩ theo lời hẹn ước. Nàng sẽ qua đời khi những đóa mai trắng trên cành rụng hết.

    Giọng chàng kiếm sĩ như nghẹn lại:

    – Bạch sư cụ. Con phải làm cách nào để cứu nàng.

    – Hãy còn cứu vãn được. Tráng sĩ phải gìn giữ những đóa mai trắng còn lại rơi đúng kỳ hạn.

    – Bằng cách nào, bạch sư cụ?

    – Bằng chính tình yêu của tráng sĩ. Ɖiều này đối với một người yêu hoa mai như tráng sĩ không khó lắm. Tình yêu cũng có sự nhiệm mầu. Nó có thể làm chết người mà cũng có thể cứu sống người. Ɖể cứu cô gái áo trắng, ngoài tình yêu, tráng sĩ còn phải đối phó với hoàn cảnh bên ngoài. Lão tăng xem thiên văn đoán rằng từ lúc nửa đêm cho đến rạng sáng, thời tiết của vùng rừng núi này sẽ có nhiều biến đổi bất thường. Thôi, tráng sĩ hãy đến với cây mai trắng ngoài kia.

    Chàng kiếm sĩ thi lễ, bước vội ra ngoài. Liêu phòng trở lại tịch mịch sau cánh cửa khép kín.

    ***

    Chàng kiếm sĩ đứng lặng người nhìn cây mai trắng. Ɖêm khá lạnh, bầu trời chi chít những vì sao. Với nhãn lực của chàng và nhờ ánh sao, chàng thấy rõ ràng từng phần của cây mai. Hoa mai rụng nhiều quá, chỉ còn trơ lại những cành khẳng khiu, gầy guộc. Chàng đếm thử, chỉ hơn một chục đóa mai trắng còn sót lại. Chàng phải giữ những đóa mai này rơi đúng kỳ hạn. Sương đêm xuống càng lúc càng nhiều. Các đoá mai trắng đẫm sương như đang nức nở. Chàng từ từ quỳ xuống ôm lấy gốc mai trong đôi tay, thì thầm những lời xin tha lỗi vì đã trễ hẹn ước năm xưa. Dường như cả thân cây đều chuyển động. Chàng kiếm sĩ hôn nhẹ thân cây và ngẩng mặt nhìn lên. Chợt chàng nghe mát lạnh. Một đóa mai trắng vừa rơi trên mặt chàng. Cơn gió núi vừa thổi qua.

    Chàng đứng vụt dậy, đem thân mình chắn gió bảo vệ cây mai. Gió bắt đầu nổi lên, càng về khuya càng mạnh dần. Áo choàng của chàng kiếm sĩ bay phất phới. Chàng tựa như con đại bàng trắng đang vỗ cánh trong đêm. Ɖôi lúc gió thổi quá mạnh làm các đóa mai trắng sau lưng chàng run rẩy từng hồi. Những vì sao biến mất sau các đám mây đen. Một tia chớp lóe lên, kéo liền theo âm thanh vang dội như muốn xô bạt cả núi rừng. Ánh sáng tia chớp giúp chàng kiếm sĩ thấy rõ vài đóa mai trắng lại biến mất trên cành. Núi rừng vẫn vang vọng tiếng sấm sét không thôi.

    Từ trên cao những hạt nước nhỏ li ti nhưng lạnh buốt bắt đầu rơi xuống. Núi rừng phủ thêm màn mưa mỏng. Một tiếng sét lại vang lên, mưa đột nhiên đổ xuống như thác. Chàng kiếm sĩ quay lại nhìn lên cây mai. Còn đúng mười đóa hoa oằn oại trong mưa gió qua ánh sáng của sấm sét. Chàng chưa kịp phản ứng, trận mưa dồn dập đã làm rơi liền ba đóa hoa một lúc. Rất nhanh, chàng mở áo choàng và tung lên. Chiếc áo choàng như một đám mây trắng phủ xuống cành mai, che chở các đóa hoa còn lại trước những giọt mưa phũ phàng. Trong giây phút bận rộn cột góc áo choàng vào các cành mai, một cơn gió thổi mạnh qua người chàng. Lại thêm ba đóa mai bị cuốn đi mất.

    Như để trêu gan chàng tráng sĩ, gió bây giờ không thổi theo chiều nhất định mà giật mạnh từ nhiều hướng khác nhau. Thêm ba đóa mai bị thổi tung đi mất. Qua ánh sáng của tia chớp, trên cành chỉ còn một đóa mai trắng duy nhất run rẩy trước cơn thịnh nộ của núi rừng.

    Chàng kiếm sĩ cắn chặt răng lại, bàn tay đặt lên chuôi kiếm, ánh thép lóe lên. Chàng vừa lướt người quanh gốc mai vừa xuất ra hàng loạt chiêu kiếm. Bây giờ đóa mai được che chở thêm bởi bức tường loang loáng ánh thép. Gió mưa có mãnh liệt đến đâu cũng bị ngăn lại bên ngoài rồi dội đi bốn hướng. Chàng kiếm sĩ như không còn nghe tiếng gió hú thổi qua núi đá, tiếng ầm ì của sấm sét cùng tiếng cây rừng ngã đổ. Trong cuộc đời mình chưa bao giờ chàng kiếm sĩ sử dụng nhiều chiêu kiếm như thế.

    Thời gian trôi qua không biết bao lâu, gió mưa bắt đầu thưa dần.Tốc độ của chàng kiếm sĩ cũng chậm lại. Cả biến động trong đêm chỉ còn lại những hạt mưa cuối cùng với các luồng gió nhẹ. Gom hết sức lực, chàng kiếm sĩ vung lên chiêu kiếm cuối cùng. Ánh thép lóe lên cùng lúc với ánh dương đầu tiên của ban mai. Trời sáng dần.

    Thanh kiếm đã được tra vào người chàng kiếm sĩ, chỉ còn chuôi kiếm nhô lên khỏi vai. Chàng đứng thắng người nhìn quanh. Hầu hết những cây mai gần đó nằm ngả nghiêng, đưa lên những chiếc rễ bê bết bùn đất. Màu sắc rừng núi thay đổi đột ngột sau cơn bão tố. Không còn đóa mai nào sót lại trên cành. Trên mặt đất lầy lội những dòng nước chảy xuống bên dưới, cuốn theo những cánh hoa mai dập nát vẫn còn vươn lại màu vàng như tiếc nuối thời xuân sắc đã vội trôi qua. Chàng quay lại nhìn cây mai trắng, đưa tay mở nút thắt, rút nhanh chiếc áo choàng phủ trên đó. Một đóa mai trắng hiện ra rực rỡ dưới ánh mặt trời mới mọc, lay nhẹ trong gió ban mai như đang mĩm cười cùng chàng kiếm sĩ. Ɖóa hoa duy nhất còn lại của rừng mai.

    Cuộc chiến đấu cùng thiên nhiên đã qua. Cũng là lần đầu tiên trong đời chàng kiếm sĩ thật sự thấu hiểu thế nào là kiệt sức. Những ngày dong ruổi trên đường, những ngày bất an trong lòng, những ngày sầu khổ đứng bất động trong rừng mai cộng với cuộc chiến vừa qua thấm sâu vào thân thể. Chiếc áo trắng ướt đẫm dán sát vào người. Chàng kiếm sĩ có cảm tưởng mình sắp ngã xuống. Nhưng chàng vẫn đứng vững để thấy một bóng dáng với xiêm y trắng đang bước đến gần. Chính là nàng. Tóc dài buông xõa, đôi môi nhợt nhạt, gương mặt hao gầy nhưng ánh mắt vẫn tha thiết cuốn hút như ngày nào. Nàng đến bên chàng, nàng hiện thân bằng xương bằng thịt do chính tình yêu của chàng.

    ***

    Sự cụ khẽ động thân, sau đó thực hiện các nghi thức xả thiền. Người vẫn ngồi yên lặng trong tư thế kiết già suốt đêm qua trong khi gió bão giăng đầy rừng núi. Người bước sang hậu liêu. Trên nền nhà còn đọng lại một vũng nước mưa, dấu tích thời tiết của đêm qua. Người tự nhũ:

    – Chàng kiếm sĩ chắc đủ dũng lực để chiến thắng được gió bão. Nhưng thanh kiếm của chàng không thể cắt đứt được một đóa hoa mai.

    Sư cụ nhìn xuống bàn cờ, trên đó đã phủ một lớp bụi mờ:

    – Thế cờ của chàng kiếm sĩ thật ra vẫn còn có nước cứu vãn.

    Sau thời khóa kinh, sư cụ thu xếp công việc, đặt một bình trà nóng mới pha trong chiếc giỏ con, bước ra ngoài sân chùa. Sư cụ không tiếp tục cất bước mà hãy còn đứng yên giây lát. Người nhìn lên bầu trời, nhìn xuống nền đất, nhìn cả những cây cỏ dại bên các phiến đá. Sau đó người bắt đầu đi bách bộ, ngắm cảnh tang thương của rừng mai. Hoa mai đều rụng hết. Mưa cũng đã tạnh. Núi non trở nên tịch mịch. Mùa xuân đã tàn tạ. Trong rừng mai bỗng vang động một tiếng chim kêu.

    Nguyễn Hoàn Nguyên


    Nguồn:https://sangtao.org


              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân Tân Sửu ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           



    Cuối Năm
    _________________________
    Khánh Trường




              

    Khánh Trường

              




    Hoan đặt chiếc ly không xuống mặt bàn ngổn ngang vỏ chai.
    “Mình về.”
    “Dạ, anh về.”
    “Không, chúng ta cùng về.”
    Cô gái nhìn Hoan vẻ hơi ngạc nhiên.
    “Em với anh?”
    “Ừ, chúng ta. Đêm nay em thuộc về anh.”
    “Đâu có ngang xương vậy được. Phải xin phép chị Tư.”
    “Thì xin phép...”
    Cô gái đứng dậy, lách mình giữa hai dãy bàn đầy khách, hướng về phía người đàn bà có vẻ mặt lúc nào cũng như đang ngái ngủ ngồi trên chiếc ghế cao chỗ quầy rượu. Hoan theo sau, cố thu gọn người, nhưng đến giữa phòng chàng vẫn sơ ý vung tay làm rơi chiếc bóp đặt chênh vênh trên góc một mặt bàn. Hoan cúi lượm, khi ngẩng lên chợt bắt gặp ánh mắt lạnh lùng của chủ nhân món đồ. Hoan nhẹ nhàng để chiếc bóp đúng vị trí cũ.
    “Xin lỗi...”
    Cô gái không trả lời, mặt khó đăm đăm. Hoan hơi ngượng. Máu giang hồ chợt trổi dậy. Chàng khom người ngang tầm cô gái.
    “Em đẹp, đừng nhăn nhó thế, xấu đi.”
    Và quay về phía người khách ngồi chung bàn với cô ta, cà khịa.
    “Phải không ông bạn?”
    “Ông bạn” tuổi tác đã cao, muốn yên thân nên vội nhoẻn miệng cười. Hoan chẳng còn lý do gây hấn, xoay người bước đi.
    “Bộ anh khoái sinh sự lắm hả?” Cô gái hỏi.
    Hoan nhún vai.
    “Bày đặt đấy mà, cho đỡ buồn.”
    “Nhỡ gặp thứ thiệt, đánh nhau thì sao?”
    “Càng vui. Con bé nào thế?”
    “Đồng nghiệp của em.”
    “Sao lối vậy? Có ngày ăn đòn.”
    “Thôi đi ông, hung hăng vừa vừa chứ.”
    Hoan leo ngồi trên chiếc ghế cao rút thuốc châm hút.
    Cô gái đứng cạnh, quàng tay ôm ngang lưng chàng, chồm người về phía người đàn bà.
    “Chị Tư, hôm nay em về sớm...”
    “Mới mười hai giờ mà.”
    Cô gái chưa kịp trả lời Hoan đã nhanh nhẹn vất lên mặt quầy tờ giấy trăm.
    “Bồi thường thiệt hại.”
    Người đàn bà nhìn Hoan vui vẻ.
    “Nói thế chứ cũng sắp đến giờ đóng cửa. Hai người cứ tự nhiên.”
    Bà ta vơ vội tờ bạc thẩy vào hộc, quay qua cô gái.
    “Mai đến không?”
    “Chưa biết, chị Hai. Mai, ba mươi rồi.”
    Hoan khoác tay cô gái bước ra. Đèn tối mờ, chỉ vừa đủ nhìn thấy lối đi. Gã đàn ông ngồi ủ rũ trên chiếc ghế đẩu ngẩng đầu nhìn hai người, hắn chậm chạp đứng đậy, đưa tay đẩy nhẹ cánh cửa gỗ. Hoan cảm thấy hơi nóng bên ngoài phà vào mặt, dù đã khuya. Cuối năm nhưng khí hậu vẫn oi bức như giữa mùa hè, cái nóng thường kéo dài dai dẳng đến gần sáng. Cái nóng khiến những đêm cúp điện, Hoan phải mang chiếc giường xếp ra đặt ngoài hành lang để tránh cảm giác ngột ngạt trong căn phòng nhỏ. Hơi nóng đặc quánh trong không khí, bám trên da thịt, mồ hôi tươm nhớp nháp khắp thân thể. Hoan nằm vật vã xoay trở đủ mọi tư thế, hai mắt nhắm mà thần trí dật dờ nửa tỉnh nửa mê. Nhiều đêm trằn trọc đến hai ba giờ sáng vẫn chưa yên giấc. Không ngủ được, đầu óc dễ suy nghĩ bậy bạ, đòi hỏi xác thịt có cơ hội bộc phát. Rút kinh nghiệm, bữa nào cúp điện Hoan thường la cà ở các quán rượu tới tận khuya, khi trở về không bao giờ chàng quên mang theo một “cái gối ôm”.
    Chiếc taxi trờ tới khi hai người vừa ra đến lề đường. Hoan đưa cô gái lên xe. Đêm sâu. Phố xá vắng người, mặt lộ trở nên rộng thênh thang. Rác, giấy vụn bị gió cuốn giạt vào lề trắng xóa. Chiếc taxi chạy chậm giữa hai hàng kiền kiền giao lá trên cao như trôi giữa dòng kinh. Thỉnh thoảng sau những gốc cây, bọn gái ăn sương váy ngắn đến bẹn đứng lấp ló đón khách. Trước kia Hoan vẫn thường bắt mấy em thợ chọi này về giải quyết qua đêm, nhưng từ bữa được một em cấp giấy giới thiệu cho vào Trung tâm Bài Trừ Hoa Liễu nghỉ phép, Hoan cạch, xoay qua các nàng chiêu đãi. Dĩ nhiên có tăng thêm phần tốn kém, nhưng tiền nào của đó, mức độ an toàn tốt hơn nhiều.
    Cô gái ngồi bên ngáp ngắn ngáp dài. Hoan choàng tay qua vai cô ta,
    “Em buồn ngủ?”
    “Dạ, em không quen uống rượu.”
    “Bia mà, giã ngay thôi.”
    Hoan lòn tay vào áo cô gái, vày vò trái vú mềm. Cô ta thun người.
    “Nhột em... Bác tài chiếu tướng kìa.”
    “Bác ấy chẳng thèm nhìn đâu...”
    Hoan vừa nói vừa tiếp tục thả lỏng bàn tay. Cô gái không còn phản đối, rúc rích cười. Chiếc xe vòng qua bùng binh C.R., chạy ngang công viên, trực chỉ hướng bờ sông rồi dừng lại trước một cao ốc.
    “Đến rồi cô cậu.” Bác tài cất tiếng.
    Hoan trả tiền, dìu cô gái lên thang lầu.
    “Anh ở một mình?” Cô gái hỏi lúc vừa bước chân vào phòng.
    “Không một mình thì với ai?”
    “Ừ nhỉ.”
    Chợt thấy sự ngớ ngẩn trong câu hỏi của mình, cô gái vớt vát.
    “Các ông độc thân vẫn thường chung phòng cho có bạn, đỡ buồn.”
    “Anh ghét chung đụng... Em tắm đi.”
              

    tranh Khánh Trường

              
    Trong lúc đợi cô gái tắm, Hoan ngồi đọc vẩn vơ những mục lỉnh kỉnh ở trang trong một tờ báo cũ, cách giải đáp huề vốn của mục gỡ rối tơ lòng khiến chàng bật cười. Sống nhiều năm trong nghề viết lách, Hoan chẳng lạ gì trò nhảm nhí này. Nào mấy ai vô công rỗi nghề ngồi còng lưng viết ra giấy những tâm sự lòng thòng thảm thiết thế kia? Chín mươi chín phẩy chín phần trăm các lời vấn đáp đều là sáng tác của bọn đực rựa (nhưng bao giờ cũng giả dạng nữ lưu bằng những bút hiệu nghe rất thơ mộng trữ tình). Điều khá mai mỉa, mấy anh nhà báo hạng bét này thường đa số ngửi không được, nhân dáng cũng như cuộc sống tình cảm hoàn toàn dưới trung bình, thậm chí có anh chưa từng một lần trong đời được cái hân hạnh nắm tay vuốt tóc đàn bà con gái! Nắm tay vuốt tóc thôi, chứ đừng nói chi đến chuyện yêu đương thắm thiết, chuyện nửa đường đứt gánh, chuyện trái ngang phụ rẫy... hầu có được chút kinh nghiệm bản thân để khuyên răn dạy dỗ người! Vậy mà ba chuyện tào lao đó lại rất đắt khách, nhất là bên cạnh trò gỡ rối còn có thên mục tử vi Đông Tây nữa thì ăn trùm. Tử vi Đông Tây! Lại cũng chẳng có chiêm tinh gia, tướng số gia nào phụ trách cả, lại cũng chỉ một anh ký giả hạng cá kèo nào đó giả dạng. Mỗi tuần, anh ta tương đại mười hai lời đoán... mò. Tinh ý chút xíu, sẽ thấy tất cả đều rập theo một công thức bất di: Vô đề, có kẻ tiểu nhân ám hại, công việc làm ăn gặp đôi điều trở ngại, người yêu giận dỗi, đi đứng cẩn thẩn coi chừng tai nạn... Kết luận, nhờ quới nhơn phù trợ, nhờ phúc đức ông bà, mọi chuyện rồi cũng xuôi chèo mát mái, hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai... Đọc xong mấy lời tiền hung hậu kiết này, bảo đảm anh (hay chị) nhất định thơ thới hân hoan, về sau, bọn phụ trách mục Tử Vi thấy viết nhăng viết cuội mãi vẫn chỉ chừng đó chuyện, thêm tốn công mệt óc, bèn nghĩ ra cách tiết kiệm sức lao động rất hiệu quả: chịu khó bỏ chút ít thời giờ, thu nhặt tất cả mọi lời giải đoán trên mọi tờ báo, rồi cứ thế mà “xào”.
    Cô gái từ buồng tắm bước ra, cô quấn quanh người chiếc khăn lông ngắn, chỉ đủ che phần giữa của thân thể. Vừa giũ giũ mái tóc, cô ta vừa chặc lưỡi.
    “Mới tắm xong mà vẫn nóng chịu không thấu.”
    “Nóng thật.”
    Hoan đứng dậy đến mở rộng thêm hai cánh cửa sổ. Động cơ xích lô máy gầm rú dưới lòng đường, Hoan nhìn xuống, trong lòng xe một cặp trai gái quấn siết lấy nhau, anh đàn ông gần như leo hẳn lên người chị đàn bà, bất kể bác tài xế ngồi lênh khênh trên cao có nhìn thấy cảnh mê tơi hấp dẫn bên dưới hay không, cặp tình nhân thả cửa hôn hít sờ soạng, thực thi đúng đắn câu “mục hạ vô nhân”. Chiếc xe vụt qua, nhanh chóng mất hút vào bóng đêm.
    Khi Hoan trở lại giường thì cô gái đã vất chiếc khăn lông xuống sàn nhà từ bao giờ. Cô ta nằm ngửa tênh hênh trong tư thế chờ đợi. Ánh sáng đèn đường hắt qua khung cửa sổ, tráng trên thân thể cô gái một lớp kem mịn, màu da như trắng hơn, những đường nét cũng trở nên thanh tú, gợi tình. Hoan cúi xuống hôn môi cô gái. Cô ta vòng hai cánh tay trên lưng Hoan, ưỡn người hôn trả. Hai người rời nhau, cô gái nói.
    “Anh tắm đi.”
    Hoan gật đầu đi vào buồng tắm. Nước mát lạnh giúp cơn váng vất trong đầu tan nhanh. Nửa năm trở lại đây tửu lượng Hoan xem ra có chiều hướng đi xuống. Tuổi tác chăng? Ba mươi tuổi, cái tuổi vẫn được xem như “chín tới” nhất ở một người đàn ông, vậy mà Hoan lại trở nên dễ nóng giận, mau chán, thường xuyên bất mãn trước mọi vấn đề. Chắc chắn nguyên nhân không đến từ tuổi tác. Phải có một điều gì không ổn đang ngự trị trong nội tâm chàng. Điều gì? Hoan suy nghĩ mãi vẫn chưa tìm ra căn nguyên. Phải chăng cuộc sống bấp bênh chẳng có ngày mai? Phải chăng cái vực tối cô đơn mãi tăng trưởng không ngừng? Phải chăng niềm tự tin ở tài năng mỗi ngày mỗi mòn mỏi trước thực tế chẳng thể phủ nhận? Phải chăng những thú vui phóng đãng, buông thả từ bao năm nay, như một chất cường toan, hủy hoại dần thể lực? Hoan đứng yên dưới vòi sen, nhắm mắt đón nhận từng sợi nước mát lạnh rưới đều trên hai vai, chảy phủ khắp thân thể. Chàng tỉnh hẳn. Khi Hoan định tắt nước, thôi tắm, thì cô gái cũng vừa lên tiếng gọi. Hoan với tay lấy chiếc khăn lông, lau khô người, bước ra.
    “Xong rồi, cô bé.”
    Chàng chậm chạp đến cạnh giường. Cô gái xoay người lăn một vòng vào sát tường, chừa một khoảng nệm rộng. Hoan nằm xuống. Cô gái với tay qua vuốt ve khuôn ngực trần của Hoan, bàn tay táy máy bò chậm từ ngực đến phần hạ thể. Da thịt cô gái hâm hấp nóng. Bàn tay cô ta mềm mại uyển chuyển. Hoan xoay nghiêng. Mùi thuốc gội đầu từ mái tóc rậm tỏa ra đầy ngập khứu giác. Hoan kéo khuôn mặt cô gái lại gần, nhìn thấy hai đóm sáng lấp lánh trong đôi mắt ngước lên tình tứ.
    “Yêu em đi.” Cô gái thì thầm.
    “Yêu anh đi.” Hoan trả lời.
    Cô gái cười khúc khích.
    “Lười đến thế cơ à?”
    Nhưng cũng trườn người lên, mái tóc thơm phủ kín trên mặt Hoan, mái tóc di chuyển xuống ngực, xuống sâu hơn...
    Hoan vừa ân ái với cô gái vừa nghĩ đến những việc phải làm, ngày mai. Bỗng nhiên chàng nhớ đến hình ảnh đứa con hoang của Gide. Đứa con sau thời gian dài lang bạt, một ngày cảm thấy mỏi mệt, hắn trở về. Những tưởng sẽ bắt gặp đôi mắt xót xa của mẹ, bao lời chì chiết của cha... Nhưng không, “Bay đâu, hãy lấy rượu ngon, hãy mổ dê béo, hãy bày tiệc linh đình chào đón con ta, đứa con tưởng đã mất nay vừa tìm lại được.” Hoan cũng nhớ đến đoạn cuối câu chuyện. Trong đêm tối, hai anh em - đứa con hoang và thằng em trai - nằm bên nhau. Đứa con hoang kể cho em nghe về những dặm trường hắn đã đi qua, những cảnh thổ hắn đã đặt chân đến, những lạ lùng, bất ngờ, tủi nhục, vui sướng hắn đã nếm trải... Lời kể của thằng anh khích động giấc mộng phiêu lưu của đứa em. Để rồi, đêm sắp tàn, tiếng gà eo óc xóm xa... Đứa con hoang trở dậy, đốt đèn soi đường cho thằng em thực hiện cái công việc hắn từng làm, và thất bại. “Thôi em đi nhé, và chớ trở về.” Lời nhắn nhủ đứa em ruột thịt hay cái khát vọng vẫn còn cháy bỏng trong lòng, chưa chịu ngủ yên? Câu chuyện Hoan đã đọc thuở còn trung học vẫn hiện về hầu như không sót lần nào, vào những lúc năm cùng tháng tận. Như đứa con hoang của Gide, ngày mai Hoan cũng sẽ trở về, cũng sẽ gặp anh gặp em, gặp cha gặp mẹ, khác chăng sẽ chẳng có rượu ngon, dê béo, mà chắc chắn chỉ là đôi mắt dò hỏi kín đáo của mẹ, lời chất vấn nghiêm khắc của cha, Anh làm gì một năm nay? Rồi lại cái lắc đầu ngao ngán. Lông bông mãi, thật chẳng ra làm sao...
              

    tranh Khánh Trường

              
    Sau cơn hoan lạc, Hoan nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Cô gái nằm một lúc, ngồi dậy đi vào phòng tắm. Khi cô ta trở ra, tiếng ngáy của Hoan đã đều đều một nhịp say. Cô gái vẫn nghĩ, đối với bọn đàn ông, không có thứ thuốc ngủ nào hiệu nghiệm cho bằng một quả làm tình. Sau trận mây mưa, chân khí hao tổn, thân xác anh nào cũng đòi hỏi bù đắp. Một giấc ngủ say, đó là nhu cầu tất yếu nhất. Cô gái định nằm xuống, chợt nhìn thấy cái ví da rơi trên nền gạch, bên dưới chiếc quần Tây vắt cẩu thả chỗ cái ghế mây kê sát vách tường. Cô gái bước đến, cầm lên. Không dừng được tò mò, cô ta vừa liếc mắt về phía Hoan vừa vội vàng mở bung chiếc ví. Một xấp tiền dày cộm xổ tung, rơi vung vãi trên sàn nhà. Cô gái luống cuống cúi xuống nhặt nhanh những tờ bạc. Không kịp sắp xếp lại cho ngay ngắn, cô ta vơ xấp bạc nhét vội vào xách tay của mình rồi hấp tấp mặc quần áo, mở nhẹ cửa lỉnh ra ngoài, xuống đường. Trong ngực cô ta, nhịp tim đập thình thịch. Cô gái đi như chạy ra khỏi khu building. Một chiếc xích lô máy giảm tốc độ tấp vào lề. Cô gái nhanh nhẹn bước lên, ngắn gọn ra lệnh.
    “Xa cảng.”
    “Ba mươi đồng.”
    “Nhiêu cũng được, chạy gấp giùm.”
    “Giờ này chưa có hãng nào bán vé đâu, cô chẳng cần gì phải gấp.”
    Cô gái không trả lời. Chiếc xe chuyển bánh vút nhanh về hướng xa cảng. Cảm giác sợ hãi dần tan, cô gái thấy lòng mừng khấp khởi. Ba mươi tết, những tưởng năm nay sẽ không thể về quê thăm gia đình được. Ai ngờ. Phải, ai ngờ. Mình gặp hên. Cô gái tuy có hơi áy náy cho gã đàn ông, nhưng cô tự vỗ về, trông cách tiêu pha hào phóng, chắn chắn anh ta chẳng phải dân khố rách áo ôm. Cô gái nghĩ đến xấp tiền, dễ chừng cũng trên dưới hai mươi nghìn. Lớn thật. Nhưng - cô gái tự trấn an - chỉ lớn với mình thôi, với anh ta, chắc chẳng quan trọng. Cô gái hình dung cảnh người đàn ông sáng mai thức dậy, phát hiện ra sự vắng mặt của cô, phát hiện thêm xấp tiền không cánh mà bay, có lẽ anh ta sẽ vung chân đá chiếc ghế mây, hoặc sẽ ném mạnh cái ví vào góc tường, hoặc sẽ dang tay đấm vào cánh cửa phòng, và nhất định sẽ văng tục một thôi một hồi... Rồi thôi, rồi lại mặc quần áo xuống phố, vào ngân hàng, rút mớ tiền mới, lững thững thả đến Bona, ngồi xuống chiếc bàn quen thuộc, gọi xong ly cà phê, hất hàm hỏi thằng bạn vừa mới đến.
    “Ê, mày biết con Tuyết?”
    “Tuyết nào?”
    “Con nhỏ mắt lá răm làm ở bar Y.”
    Thằng bạn có thể sẽ trả lời biết, có thể sẽ lắc đầu.
    “Không. Này, sao mặt mũi táo bón thế? Chuyện gì?”
    “Khốn nạn, tối hôm qua con nhỏ nâng nhẹ của tao mất hai mươi mấy thiên.”
    “Trong trường hợp nào? Kể nghe.”
    Anh ta kể. Thằng bạn nghe xong cười rống.
    “Sướng con cu mù con mắt. Đáng đời.”
    Cô gái cũng bật cười, cái cảnh dở khóc dở cười cô vừa tưởng tượng khiến lương tâm cô tạm yên ổn. Cô gái hình dung tiếp khuôn mặt rạng rỡ của mẹ khi cô đưa cho bà xấp tiền.
    “Ở đâu nhiều vậy?”
    “Dạ, con để dành...”
    “Nếu con không về, mẹ chẳng mua sắm nổi cái gì. Nhưng sao con không về sơm sớm vài ngày? Ba mươi rồi.”
    “Dạ, công việc bề bộn quá mẹ ơi.”
    “Có cực lắm không con?”
    “Dạ... Ông chủ cũng dễ dãi, chẳng đến nỗi nào.”
    “Ừ, mẹ mừng.”
    Và thở dài, tiếp.
    “Cả nhà chỉ trông mong vào con. Ba mầy thế kia, mấy đứa em thì nhỏ dại...”
    Mẹ mừng! Cô gái thở dài. Trong đầu mẹ, nàng vẫn là cô thư ký rất được việc của một hãng xưởng bề thế tại Sàigòn. Mẹ mừng! Cô gái tự hỏi mẹ sẽ còn mừng đến bao giờ? Mỗi ngày cô mỗi thấy mình chìm sâu hơn vào bệ rạc. Rồi sẽ đến một lúc nào đó chút lòng thương nhỏ nhoi của cô dành cho gia đình cũng sẽ rệu rã. Thực tế cay nghiệt đã bào mòn dần chút lương năng còn sót lại, rất mong manh, trong tâm hồn cô. Trách nhiệm với chính bản thân, cô còn chưa giữ được, làm sao giữ tròn trách nhiệm với gia đình? Cô gái nghĩ đến người cha bê tha, đắm chìm triền miên trong men rượu. Ông không làm được bất cứ chuyện gì ngoài chuyện khảo tiền người vợ khốn khổ để đổi lấy chất nước đục nhờ cay xé độc hại, triền miên từ ngày này qua ngày khác. Cô mong cho cha chết. Cha chết, may ra mẹ đỡ khổ hơn, may ra cô thoát được cảnh sống hiện tại. Cô gái nhớ đến thằng con trai của “người bà con xa”. Nhớ cái đêm hắn mò vào buồng dụ hoặc cô. Nhớ cái đau cắt ruột của lần thất tiết. Nhớ những lời đường mật hắn rót vào tai cô. Nhớ sự cả tin của mình trước bùa phép của một thằng con trai thành thị khôn lỏi. Nhớ “người bà con xa” đã khám phá ra chuyện gian díu vụng trộm. Để rồi cô đã phải dứt áo ra đi, đau đớn, tủi nhục, trước đôi mắt dửng dưng của thằng con trai. Lần đầu tiên trong đời, cô gái hiểu được lòng dạ bọn đàn ông. Rồi cuộc sống, như cuồng lưu, cuốn cô trôi băng không thể cưỡng chống vào vũng lầy đọa lạc.
    Chiếc xích lô bỏ cô gái xuống sân xa cảng đang còn thiêm thiếp. Trước các quầy bán vé, lổn ngổn những thúng mủng hàng hóa và trên những chiếc chiếu nhỏ, hành khách đang yên giấc. Cô gái ngồi xuống băng ghế trống. Dưới chân cô, một thằng bé lăn ra khỏi vòng tay mẹ, nằm dạng chân ngủ mê mệt. Cái áo thằng bé đang mặc tốc lên, để lộ khoảng bụng no căng với chiếc rốn lồi dị hợm. Cô gái không cảm thấy buồn ngủ, dù gần như trọn đêm chưa chợp mắt được một phút.
    Đêm đã chuyển sang ngày mới từ lâu. Những ngọn đèn vàng cạch chung quanh khu xa cảng hắt xuống mặt nhựa một thứ ánh sáng tù mù hiu hắt. Cô gái ôm chiếc xách tay trong lòng, kiên nhẫn ngồi chờ sinh hoạt thức giấc. Trong đầu cô, hình ảnh của mẹ, của cha, của những đứa em và hình ảnh người đàn ông say ngủ sau cuộc làm tình trộn lẫn vào nhau, rời rạc, chắp vá.





    * * *
    Hoan giật mình thức giấc. Tiếng xe chạy dưới đường lôi chàng ra khỏi giấc ngủ.
    Cô gái bỏ đi từ bao giờ. Nhanh chóng, Hoan phát hiện xấp tiền đã biến mất. Đúng như cô gái mường tượng, Hoan tức giận đá chiếc ghế mây lăn long lóc. Chàng vừa văng tục luôn miệng vừa chạy bổ xuống cầu thang, phóng ra hè đường. Phố xá vẫn chưa thực sự vào nhịp, các cửa tiệm vẫn còn đóng im ỉm. Mặt lộ vắng trở nên rộng thênh thang. Hoan hết nhìn ngược lại nhìn xuôi. Bóng chim tăm cá mịt mù! Em chơi trội thế này, ác quá! Hoan tiếp lục lôi tam tứ đại cô gái ra chà xát kỹ lưỡng mà lòng chẳng nhẹ đi một ly. Chợt nhìn xuống, Hoan nhận ra không có tí quần áo nào dính trên thân thể ngoài cái xì-líp nhỏ xíu nổi cộm phần hạ bộ thô tục. Chàng vội vàng quay lưng trở về phòng, nằm vật ra giường thở hắt từng cơn. Ba mươi tết! Dự tính sáng nay sẽ về thăm gia đình đành gác lại, chẳng biết đến bao giờ. Lời hứa với đứa em gái cũng coi như... theo gió bay đi! Anh về ăn tết kỳ này nhớ cho em ít tiền mua cái xe đạp. Từ nhà đến trường những ba cây số, mỗi ngày hai bận đi bộ muốn lả đôi chân. Anh nhớ nhé, bớt tiêu pha giúp em. Anh hứa đi.... Hoan hứa, rất thành thật, Hoan hứa, và chạy đôn chạy đáo từ tòa soạn này qua toà soạn khác, gặp hết ông chủ bút này đến ông chủ bút khác, uốn ba tấc lưỡi, “Sang năm, tôi sẽ viết cho ông cái phơi-dơ-tông, bảo đảm hết xẩy”. “Thôi đi, lúc nào cũng lằng nhằng tư duy với khắc khoải. Chuyện cậu viết nhức đầu bỏ xừ.” “Không, lần này nhất định mê ly rùng rợn từng trang.” “Viết nổi không? Các cậu ưa có cái tật làm cho chữ nghĩa câu kéo tối mù. Độc giả chẳng nhá nổi đâu. Muốn chở gì thì chở, phải trong sáng rành mạch mới ăn tiền.” “Ông khinh tôi vừa vừa chứ, ba cái chuyện lảm nhảm máu đổ đầu rơi, lâm ly bi đát đó ngoáy một cái có ngay vài mươi trang.” “Chắc chứ?” “Chắc.” “Thôi được, tôi sẽ dành cho cậu mỗi tuần ba chục nghìn chữ.” “Tốt lắm. Này... a-văng chút đỉnh tiêu tết...” Hoan đi rã giò, ghé trên hai chục tờ báo, chỗ nào cũng bổn cũ soạn lại: Mê ly, rùng rợn, hết sẩy... Có anh vừa thấy Hoan mở miệng đã lắc đầu quầy quậy, tìm lời từ chối khéo léo. Có thằng nghe xong màn quảng cáo, gật đầu bằng lòng, nhưng đến mục a-văng, lại lắc đầu cật lực. Có đứa đốp chát thẳng thừng: Tin mấy cha cũng chẳng khác bao nhiêu tin mấy mợ đồng cô, mấy thằng cốt cậu, chắc nhất, tiền trao cháo múc cho nó an tâm. Hoan cảm thấy tủi nhục, nghề buôn văn bán chữ thời nào cũng vậy, chẳng thể nuôi ấm bản thân. Nhưng đã lỡ hứa với cô em, không làm tròn lời hứa còn ra thể thống gì? Đành ngậm bồ hòn làm ngọt, tiếp tục du thuyết. Cuối cùng rồi Hoan cũng xoáy được ngót hai mươi lăm thiên. Cầm mớ tiền trong tay, Hoan vừa mừng vừa lo. Mừng, năm nay Hoan sẽ áo gấm về làng, mẹ chàng hẳn cười rất tươi, cha chàng hẳn hết lắc đầu ngao ngán, và nhất là cô em gái, hẳn sướng lịm người. Lo, hai mươi lăm thiên, tính cho sâu sát cũng trên dưới sáu cái phơi-dơ-tông! Chữ nghĩa của chàng có đâu lắm thế? Vả dẫu có cũng chưa chắc đã viết nổi! Nhưng mà... Mặc mẹ mấy anh chủ bút, mặc mẹ mê ly với rùng rợn... Từ từ rồi giải quyết cũng xong. Không xong, ì ra, làm gì được nhau? Hoan đổ liều, cố quên cái viễn tượng chẳng mấy tươi đẹp của tương lai. Chuyện quan trọng hiện tại là sử dụng thế nào cho hợp lý món tiền vừa xoáy được. Chàng tính toán cẩn thận: Bỏ ra năm thiên chi tiêu lặt vặt, kể cả mục xả xui cuối năm. Số còn lại ngày mai mua cho cô em gái chiếc xe đạp, mua cho mẹ xấp vải the, mua cho cha bộ cờ tướng quân ngà... Vậy mà, bây giờ... Hoan thở dài ngửa mặt nhìn trần phòng. Mẹ, khốn nạn thật. Con điếm chết toi chơi ác không thể tưởng. Hoan nghĩ đến những ngày sắp tới, mùng năm ngày tết, chẳng lẽ vác mặt đi ăn bóng ăn gió bè bạn? Chẳng lẽ nằm dài người trong phòng, ép bụng xuống chiếu nhịn đói?
    Dưới đường, xe cộ đã tấp nập. Ngày cuối năm, thiên hạ hối hả đi mua sắm lần chót. Hoan ngóc dậy, mặc quần áo thất thểu rời căn phòng độc thân chó chết. Đi đâu bây giờ? Nhưng chẳng lẽ nằm mãi trong bốn vách tường ám bụi để nhẩn nha gặm nhấm nỗi sầu đời?
    Thang lầu ngập ngụa rác, khoảng trống lưng chừng thang chỗ góc tường, nước tiểu lưu cữu bốc mùi khai nồng nặc. Một vũng trơn nhớt dưới chân làm Hoan lảo đảo suýt trượt ngã nếu không níu kịp lan can. Chàng định chửi thề nhưng dừng lại kịp. Chính mình, những đêm về khuya, lúc hồn xác chìm đắm trong cơn say bí tỉ, cũng vẫn thường dừng lại chỗ này, gác tay lên mặt tường ngổn ngang những bộ phận sinh dục đàn ông, đàn bà được biểu thị bằng các hình vẽ vụng về hoặc bằng chữ viết, cúi đầu nhìn vòi nước tưới vào vách, chạy ngoằn ngèo trên nền xi-măng, bò xuống từng bực cấp ra đến tận hè đường... Nhiều lần như vậy, chàng nghiệm thấy, chưa có một khoái lạc nào ngang bằng với cái giây phút thần tiên đó. Đời sống, ước mơ, tham vọng, bon chen, tị hiềm... Tất cả theo dòng nước khai nồng bốc men tuôn ra, khiến thể xác, tâm hồn chợt nhẹ tênh bay bổng, kể cả đoạn đời tám năm khó nhọc mải mê tìm kiếm chút hư danh cũng trở nên vô nghĩa đến tội nghiệp.
              

    tranh Khánh Trường

              
    Tám năm! Kể từ lúc bước chân ra khỏi nhà, Hoan đã mang theo trong lòng một núi hoài bão. Những cuốn sách đã đọc; những tinh hoa của tư tưởng, của văn chương; những giai thoại về nếp sống khoáng đạt, bất cần, ngông nghênh của các tiền bối, đã như chất ma túy ăn sâu trong tủy máu. Hoan hăng say sáng tác, Hoan tự tin ở khả năng thiên phú của mình... Rồi sẽ có lúc mình nổi tiếng, tên tuổi sẽ được nhắc đến, tác phẩm sẽ lưu danh kim cổ... Ngày tháng qua đi, Hoan cố phấn đấu để bò dần từ một anh thầy cò lên ký giả hạng B, rồi C, rồi tác phẩm đầu tay... Hoan nghĩ, nó sẽ như một trái “bom”, nổ tung tóe trên chiến trường chữ nghĩa. Nhưng chờ mãi, trái “bom” tịt ngòi, rơi hẫng vào lãng quên. Như thế, đã tám năm! Chẳng có gì hết, chẳng là cái gì hết. Cuộc đời vẫn chảy xuôi lạnh lùng, Hoan đang bước vào tuổi trung niên. Có trễ quá chăng khi cho đến lúc này Hoan mới vỡ ra cái sự thật buồn bã này: Văn chương, thi ca, nghệ thuật sẽ chỉ là những thứ áo giấy trang sức rẻ tiền, nếu kẻ tạo ra nó chưa thể hủy diệt được cái tôi kệch cỡm của chính mình.
    Xuống đến đường, mũi Hoan tràn ngập mùi thơm của nước lèo tỏa ra từ chiếc xe phở chỗ góc tường ngân hàng Việt-nam Thương tín, cạnh tòa cao ốc. Lão chủ vừa nhìn thấy Hoan đã vội cười rất tươi.
    “Thầy nhà văn làm tô phở cho ấm bụng.”
    Không nửa xu dính túi. Hoan định lắc đầu. Nhưng bụng chàng bỗng sôi ùng ục. Một đêm thức khuya, thêm trận làm tình chí chát. Hoan đói cồn cào. Chàng đánh liều ngồi xuống chiếc ghế đẩu.
    “Năm nay thầy nhà văn không về thăm nhà?”
    “À... À... Chưa biết.”
    “Con gái tui đọc truyện của thầy, mê lắm. Nó bảo hôm nào thầy ra sách mới cho nó một quyển có chữ ký mần kỷ niệm.”
    “Có phải cái cô để tóc thề, người thâm thấp, vẫn thường giúp ông bưng phở?”
    “Dạ, con gái đầu của tôi đấy.”
    Hoan ngao ngán. Thói thường, mấy cô mê văn chương chữ nghĩa đều... chán mớ đời. Điển hình như cô con gái ông hàng phở. Người ngợm như chị nạ dòng, thấp lủn đủn, mặt đầy mụn, chân tay u nần cục mịch, mắt liếc ngang liếc dọc trông vừa dâm vừa gian chịu không thấu. Tuy nhiên, để lấy lòng khổ chủ, Hoan cố vén môi cười thật tươi.
    “Nhất định có sách mới tôi sẽ tặng cô ấy một bản quý. À, sao hôm nay không thấy cô ấy?”
    “Dạ, ba mươi tết rồi, con nhỏ ở nhà phụ mẹ thu vén nhà cửa.”
    Ông hàng phở đẩy đến trước mặt Hoan tô phở bốc khói nghi ngút. Chàng cúi xuống, vừa ăn vừa lo. Ăn xong, phải nói với lão chủ thế nào đây? Dù gì, mình cũng là “thầy nhà văn”, chẳng lẽ năm cùng tháng tận lại đi ký sổ? Nhưng liệu còn cách nào khác nữa không?
    Hoan vớt hết những sợi phở cuối cùng, húp thêm lưng tô nước lèo, rồi đẩy cái bát ra xa. Chàng đứng lên, cố bình thản đưa tay rút cây tăm ngậm miệng, vòng tay ra sau móc bóp. Dù những ngón tay đã chạm vào lớp da mềm của chiếc bóp nhưng Hoan vẫn bật kêu.
    “Ô, cái bóp. Đâu rồi nhỉ?”
    “Thầy có bỏ quên trên phòng không?”
    “Chẳng biết, tối qua đi nhảy về tôi hơi say. Để tôi lên xem lại. Lát nữa xuống thanh toán nhé?”
    “Dạ, không sao thầy nhà văn.”
    “Nhỡ mất thật, năm hết tết đến, thiếu nợ coi soi đặng. Ngân hàng cũng đã đóng cửa phải chờ qua mùng ba mới rút tiền được. Thế này thì phiền quá.”
    “Có là bao, thầy nhà văn. Tui cũng chẳng kiêng cữ đâu, bao giờ thầy cho cũng được.”
    “Để tôi lên tìm cái bóp.”
    “Dạ, thầy lên. Mong thầy đừng gặp xui. Tiền bạc chẳng kể, mất hết giấy tờ phiền phức mất công lắm.”
    Hoan thở phào nhẹ nhõm. Chàng trở về phòng, để nguyên quần áo nằm dài ra giường. Buổi sáng coi như tạm ổn. Còn trưa nay, chiều nay, và những ngày kế tiếp? Quả là xui tận mạng. Tiên sư cha con đượi. Khốn kiếp. Hoan lại văng tục, giận dữ.





    Khánh Trường




    https://vietbao.com/p278364a280292/cuoi-nam
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân Tân Sửu ...

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           



    Truyện cười tết Tân Sửu 2021




    Cứ bảo tuổi”sửu” được không?

    Đồn rằng có một ông quan huyện rất thanh liêm, không ăn của dút bao giờ. Bà huyện thấy tính chồng như vậy cũng không dám nhận lễ của ai. Có làng nọ muốn nhờ quan huyện bênh cho được kiện, nhưng mang lễ vật gì đến, quan cũng gạt đi hết. Họ mới tìm cách đút lót với bà huyện. Bà huyện cũng chối đây đẩy:

    – Nhà tôi thanh liêm lắm, tôi mà nhận của các ông thì mươi, mười lăm năm sau, ông ấy biết ông ấy cũng vẫn còn rầy la tôi cơ đấy! Dân làng năn nỉ mãi, bà nể tình mới bày cách:

    – Quan huyện nhà tôi tuổi “tí”. Dân làng đã có ý như vậy, thì hãy về đúc một con chuột bạc đến đây, rồi tôi cố nói giùm cho, họa may được chăng!

    Dân làng nghe lời, về đúc một con chuột cống thật to, ruột đặc, toàn bằng bạc đem đến.


    Một hôm, ông huyện trông thấy con chuột bạc, mới hỏi ở đâu ra, bà huyện liền đem sự tình kể lại. Nghe xong, ông huyện mắng:

    – Sao mà ngốc vậy! Lại đi bảo là tuổi “tí”! Cứ bảo tuổi “Sửu” có được không!


    :giggles:



    ‘Mượn đồ’ đêm giao thừa


    Trong lúc đang xem bắn pháo hoa đêm giao thừa, một người đột nhiên hét lên:

    – Này, tại sao anh lại thò tay vào túi áo tôi?

    – À, tôi chỉ mượn cái bật lửa thôi.

    – Tại sao anh không hỏi tôi?

    – Xin lỗi, vì chúng ta có quen nhau đâu mà hỏi!




    Ông Cống làm trâu




    Bà Huyện Thanh Quan (tên thật là Nguyễn Thị Hinh) là nữ thi sĩ nổi tiêng với những bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật hết sưc cân chỉnh và mực thước. Nhưng trong đời thường và khi giải quyết những công việc khác, bà lại tỏ ra khá hóm hỉnh. Ông Huyện có lần đi vắng ít ngày đã tạm giao quyền xét xử cho Bà (kể cũng liều). Thời kỳ đó, do mới trải qua đợt dịch bệnh nên triều đình hạ lệnh cấm giết trâu bò để duy trì sức kéo. Trường hợp đặc biệt phải làm đơn xin phép quan huyện. Bấy giừo có một ông vừa đỗ Hương Cống (cử nhân) làm đơn xin mổ một con trâu để khao làng xóm. Xem xong đơn, Bà Huyện bèn phê vào góc lá đơn với cách chơi chữ thật hóm hỉnh: “Người ta thì chẳng được đâu. Còn như thì Ông Cống làm trâu thì làm”.

    :giggles:

    Chỉ nhặt có một sợi dây thừng

    Hàng năm triều đình thường cử người đi thanh tra lại việc xử án của quan lại cấp dưới, tránh cho dân bị xử oan sai. Ở một địa phương nọ, một tên tù kêu oan vì chỉ nhặt có một sợi dây thừng bên lề đường mà bị xử tới 3 năm tù (!) Khi bị chất vấn, viên quan huyện trả lời cấp trên: “Bẩm Ngài, khổ nỗi ở đầu sợi dây thừng ấy là một con trâu mộng cơ ạ!”.



    Chuyện ba anh em


    Ba anh em. Một người 92 tuổi, một người 94 và người kia 96. Ba cụ sống chung một nhà.

    Một đêm nọ, cụ 96 đổ đầy nước bồn tắm, định bước vào. Cụ cho một chân vào rồi dừng lại. Cụ la to: “Chúng mày ơi, tao đang bước vào hay bước ra khỏi bồn tắm ấy nhỉ?”

    Cụ 94 la lên: “Không biết, chờ tí tao lên xem cho.” Cụ bắt đầu bước lên cầu thang và đột nhiên dừng lại. Cụ nói: “Ủa tao đang đi lên hay đi xuống cầu thang ấy nhỉ?”

    Cụ 92 ngồi uống cà phê nghe thấy thế thì lắc đầu buồn bã. Cụ nói: “Ù nuôi, hy vọng sau này mình không đãng trí đến thế.” rồi gõ lên mặt bàn gỗ để cầu may. Và rồi cụ la lên: “Chờ đấy, tao đi xem ai gõ cửa rồi lên giúp chúng mày.”

    :giggles:


    Người đẹp chạy quá tốc độ vì sợ gây tai nạn

    Một cô gái chạy quá tốc độ bị cảnh sát giao thông chặn lại hỏi:

    – Cô làm gì mà lái xe nhanh vậy?

    Cô gái ấp úng:

    – Dạ tại em muốn an toàn.

    – Muốn an toàn mà lại chạy quá tốc độ sao? – viên cảnh sát nhướng mày.

    Cô gái cười gượng:

    – Dạ tại lúc đang lái xe thì em chợt nhớ mình mới lấy bằng, lái xe không giỏi nên chạy nhanh về nhà vì sợ gây tai nạn.



    Lý do trộm không vào nhà giàu



    Hai người đàn ông ngồi tán gẫu với nhau, một người nói:

    – Từ đầu năm đến giờ trộm cắp liên miên. Vậy mà nhà ông Tèo giàu sụ lại chẳng bị mất trộm bao giờ. Tại sao lại có chuyện kỳ lạ vậy nhỉ?

    Người kia nhún vai:

    – Chuyện đó cũng hợp lý mà! Tôi có là trộm cũng chẳng bao giờ vào nhà đó đâu.

    – Tại sao chứ?

    – Có tên trộm nào lẻn vào khi vợ thì thức suốt đêm để canh chồng về, còn ông chồng thì về bất kỳ lúc nào kể cả nửa đêm.



              
Trả lời

Quay về “Chuyên đề”