- 30/04/2020 - Tưởng niệm 45 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Sài Gòn niềm nhớ không tên

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          







          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Về những kẻ mơ "nối vòng tay lớn" trong hòa bình với kẻ thù

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Về những kẻ mơ "nối vòng tay lớn" trong hòa bình với kẻ thù
    __________________________________
    Trần Quốc Việt _ (Danlambao)





    Họ là những kẻ góp phần đắc lực vào sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Họ không ngừng cực lực lên án chính phủ Quốc gia và không ngừng xuống đường liên tục với đủ sắc áo màu cờ nhân danh phản chiến và hòa bình. Những chiến sĩ VNCH hy sinh biết bao xương máu ngoài mặt trận trong suốt 21 năm trời để bảo vệ hậu phương cho họ tự do lợi dụng và khai thác thể chế dân chủ và tự do để gây rối loạn ở hậu phương. Vô tình hay hữu ý hay thơ ngây, họ trở thành ngọn giáo nối dài của Cộng sản đâm vào hậu phương từng nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ họ và gia đình. Họ là những sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ, chính trị gia, tu sĩ, và thành phần thứ ba ở miền Nam.

    Những kẻ phản chiến và ngụy hòa này, tức những kẻ đối lập cửa trước rước giặc cửa sau vì, xét cho cùng, trung lập trong chiến tranh chính là bạn của kẻ thù. Nhưng cuối cùng khi cuộc chiến tàn, họ bị cộng sản bỏ rơi, coi thường, hay cả bị tù đày. Họ chính là những kẻ mà Lê-nin đặt tên là “những kẻ ngu xuẩn có ích” cho cộng sản. Họ hiện diện thường xuyên trên các đường phố ở miền Nam và Mỹ kêu gọi hòa bình mà thực tế là mở đường cho cuộc chiến tranh mới sau hòa bình không tiếng súng nhưng tàn ác gấp bội lần.

    Nhân dịp kỷ niệm bốn mươi lăm năm Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản cưỡng chiếm, chúng tôi trích lại lời phát biểu của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào ngày 24 tháng Mười 1972, và dịch một trích đoạn trong bài diễn văn của nhà văn Nga Alexander Solzhenitsyn tại đại học Havard vào ngày 8 tháng Sáu 1978. Những tiểu đề là của người sưu tầm và người dịch.

    *

    Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - Hai lối vào lịch sử

    Tôi thiết tha kêu gọi những ai, ở miền Nam này, đang ăn cơm miền Nam, đang thở không khí miền Nam, đang được sự che chở của xương máu Dân Quân miền Nam, mà đến ngày nay, còn âm thầm tiếp tay với Cộng sản, còn lén lút đi đêm với Thực dân, Ngụy hòa, còn tính đâm sau lưng chiến sĩ đồng bào... Tôi kêu gọi lương tri của mấy người, vì đất nước, vì dân tộc, hãy dừng chân lại, hãy dừng tay lại, hãy từ bỏ ý định đó đi mà cùng với 17 triệu rưỡi Dân Quân miền Nam chiến đấu chống kẻ thù Cộng sản. Tôi kêu gọi mấy người hãy suy nghĩ, nếu thích Cộng sản thì hãy có can đảm ra ngoài Bắc ở với Cộng sản, như vậy Cộng sản còn ít khinh rẻ mấy người hơn là làm tay sai cho chúng ở miền Nam này.

    Có thể không ai ở miền Nam tự do này giết mấy người đâu, nhưng chính Cộng sản sẽ giết mấy người.

    Mấy người nếu muốn có tên trong lịch sử, thì cũng có hai lối có tên trong lịch sử. Một đàng khi nhắc đến, thì toàn dân cúi đầu khâm phục, con cháu lại ngẩng đầu lên hãnh diện. Một đàng khác, khi nhắc đến, thì toàn dân ngẩng đầu lên nguyền rủa, còn con cháu mấy người lại cúi đầu tủi nhục. Tôi chắc mấy người sẽ được lịch sử ghi tên vào hạng thứ hai này.

    Nếu mấy người không cầm súng xông pha lửa đạn để chiến đấu, nếu không làm được một việc gì hữu ích cho hậu phương thì mấy người đừng làm gì hại dân bán nước.

    Một hành động ngu xuẩn, phản bội Tổ Quốc, Chiến Sĩ và Nhân Dân, dù có gạt được ai 5, 3 tháng, 5, 3 năm, rồi cũng sẽ bị lịch sử lôi ra chứng minh và cũng sẽ bị trừng trị nghiêm khắc.

    *

    Alexander Solzhenitsyn - Phản chiến hay phản bội

    Tuy nhiên, lầm lẫn tàn ác nhất xảy ra do không hiểu cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhiều người thực lòng chỉ muốn tất cả các cuộc chiến tranh chấm dứt càng sớm càng tốt; những người khác tin rằng nên có chỗ cho quốc gia, hay cộng sản, quyền tự quyết ở Việt Nam, hay ở Cambodia, như ngày hôm nay chúng ta thấy rất rõ ràng. Nhưng những thành viên của phong trào phản chiến Mỹ rốt cuộc liên can đến việc phản bội những nước Viễn Đông này, đến cuộc diệt chủng và đến đau khổ bị áp đặt hôm nay lên 30 triệu người ở đấy. Những người theo chủ nghĩa hòa bình xác tín này có nghe bao tiếng rên từ nơi đấy vọng đến chăng? Hôm nay họ có hiểu trách nhiệm của họ? Hay họ chẳng muốn nghe?







    Trần Quốc Việt

    https://danlambaovn.blogspot.com/2020/0 ... trong.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Thời Hậu Chiến

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Thời Hậu Chiến
    __________________________________
    S.T.T.D Tưởng Năng Tiến _ 01/05/2020



              

              
    Người đàn ông trở về sau cuộc chiến không biết đến giận hờn
    Nhưng đến tận bốn mươi năm sau
    Vẫn ngác ngơ câu hỏi
    Tại sao?

    Nguyễn Thị Thanh Yến

              


    - Tên chị là gì?
    - Thưa em tên Mơ.
    - Mơ gì? Mộng mơ hay quả mơ?
    - Tùy, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu...
    - Quê quán ở đâu vậy?
    - Em ở Thạch Thất, Hà Tây.
    - Chị công tác ở cơ quan nào?
    - Thưa, ở ty Văn Hóa Thông Tin Hà Sơn Bình.
    - Chắc chưa vào Ðảng...?
    “Nơi em về trời xanh không em...?”
    Bên này vĩ tuyến 17 không có một câu hỏi thơ mộng, lãng mạn như vậy ... Vì vậy những lời yêu đương được mở đầu bằng “Ðồng chí công tác ở cơ quan nào ?”
    (Thế Giang. Thằng Người Có Đuôi. Westminster, CA: Nguời Việt, 1987).

    Ngoài những câu hỏi “thơ mộng” và “lãng mạn” như trên, bên kia vỹ tuyến còn có nhiều câu hỏi (nghe) rất … linh tinh:
    Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em?
    Anh đi về đâu mà bụi đường vương trên mái tóc?
    Anh không biết bây giờ tháng mấy, em không biết anh đi về đâu, và hết nửa phần đất nước đều chia chung một nỗi băn khoăn (lớn) dù đang trong hoàn cảnh chiến tranh: Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai?

    Ở nửa phần còn lại thì không ai mơ hồ về thời gian cả. Mọi người đều biết chính xác ngày/tháng/năm sinh của vị lãnh tụ kính yêu, cũng như thời điểm phân phối khẩu phần lương thực (ngoài tiêu chuẩn) nhân ngày sinh nhật của NGƯỜI. Cũng chả bao giờ nghe ai hỏi ai “đi về đâu” vì ai cũng biết là mọi con đường đều dẫn ra mặt trận, và đường ra trận thì mùa nào cũng đẹp: những binh đoàn kéo nhau ra tiền tuyến, như tình yêu nối lời vô tận … Chỉ có mỗi một câu hỏi “cảm động” duy nhất được cho phép nghêu ngao trên môi mọi người thôi, dù nghe cũng không tình tứ gì cho lắm: hết rau rồi em có lấy măng không?

    Không chỉ bị ám ảnh bởi cái đói mà cả nửa nước (bên kia) còn bị nhồi nặn, và kích động bởi căm thù:

    “Phải ngày đêm hành quân để kịp tới chiến trường trước khi hòa bình, trước khi chiến thắng. Vào chậm, chỉ còn mỗi việc thu nhặt ống bơ gỉ, tháo gỡ dây thép gai thôi. Chẳng còn địch đâu mà đánh. Xe trước hát vang: Giải phóng miền Nam chúng ta thề quyết tiến bước. Xe thứ hai tiếp theo hào hùng: Diệt đế quốc Mỹ phá tan bè lũ bán nước. Xe thứ ba tiếp lời: Ôi xương tan máu rơi, lòng hận thù ngút trời.”
    (Bùi Ngọc Tấn. Biển và Chim Bói Cá. Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn: 2010).

    Ở bên này thì không thế. Ngoài những băn khoăn siêu hình về hố thẳm tư tưởng và nỗi dằn vặt triết lý nhân sinh giết người đi thì ta ở với ai (?) có kẻ còn chắp tay nguyện cầu cho chim bồ câu trắng hiện với không ít thơ ngây:

    Mẹ già cười xanh như lá mới trong khu vườn
    Ruộng đồng Việt Nam lên những búp non đầu tiên
    Một đoàn tàu đi nhả khói ấm hai bên rừng …


    Thực tại, tiếc thay, hoàn toàn không như dự tưởng:

    - “Tôi từng đi trên những chuyến tàu hỏa hành trình bắc nam mất 72 tiếng đồng hồ, trên đó chất đầy xe đạp, khung xe đạp, vải vóc, đường sữa, gạo, giấy… chuyển từ nam ra bắc. Những chuyến hàng thực chứ hoàn toàn không giả tạo chút nào đổ về nơi từng được coi là hạnh phúc, no ấm. Nhiều người vỡ lẽ, lắc đầu ngao ngán.”
    (Nguyễn Thông. “Thành Ngữ Mới: Phồn Vinh Giả Tạo”).


    - “Ở mỗi ga, khoang tàu biến thành cái chợ hay hàng ăn, tùy vào thời điểm. Ngoài sự nghèo đói, lộn xộn, mất vệ sinh và nói chung là kém văn hóa là đặc trưng của những gì xảy ra trên chuyến tàu đó hay cho cả đất nước ta thời đó, điều tôi nhớ nhất và thất vọng vô cùng là: từ Nam ra Bắc tôi hầu như không thấy một nụ cười trên gương mặt một ai cả.”
    (Trần Thành Nam. “Hãy Trả Lại Rổ Tép Khô Cho Tôi”).

    Dự đoán của Trịnh Công Sơn, rõ ràng, hơi trật: Khi đất nước tôi không còn giết nhau/ Mọi người ra phố mời rao nụ cười. Ước mơ của người nhạc sỹ tài hoa, xem ra, cũng khác với hiện thực rất xa: Mẹ già cười xanh như lá mới trong khu vườn. Cười gì nổi khi con vừa hoàn thành xong nghĩa vụ quốc tế (Giải Phóng Miền Nam) thì đến ngay lượt cháu Giải Phóng Cambodia. Thế là Em Ở Nông Trường Anh Ra Biên Giới:

    Từng vai áo phai sẽ xanh thêm đời
    Bàn tay làm nên những mùa vui
    Từ trên đất này, những con người mới
    mọc lên


    Mạng người chớ có phải là giá, nấm, hay rau cỏ đâu mà cứ mọc lên hoài vậy được, hả Trời? Hết cuộc chiến ở biên giới phía Tây rồi đến chiến cuộc ở biên giới phía Bắc, cuộc nào cũng phải trả giá bằng hàng mấy vạn sinh linh mà không nghe ai lên tiếng phản đối (hay phản chiến) gì ráo trọi. Cũng chả thấy ai (dám) chắp tay nguyện cầu cho chim bồ câu trắng hiện.

              

              

    Rồi sau khi bốn phương im tiếng súng, Đảng “dũng cảm và quyết tâm đổi mới” để chuyển đổi sang Kinh Tế Thị Trường (theo định hướng XHCN) thì đất nước lại phát sinh ra thế lực thù địch mới – giặc nội xâm:

    • Chống Tham Nhũng Là Chống Giặc Nội Xâm
    • Đã Đến Lúc Coi Ma Túy Là Giặc Nội Xâm
    • Công an thu giữ 7 tấn ma túy trong vòng 5 tháng
    • Quyết Liệt Phòng Chống Giặc Nội Xâm
    • Tham nhũng là một thế lực thù địch của nhân dân ta, đất nước ta, và Đảng ta
    • Chống Giặc Nội Xâm Đang Ở Giai Đoạn Hết Sức Quyết Liệt
    Khi đã phải thay phong bì bằng bao tải mới đủ chỗ chứa (hằng triệu Mỹ Kim) tiền lại quả, và khi mà số lượng ma túy bị tịch thu được tính theo đơn vị tấn (chứ không phải ký hay tạ nữa) thì mặt trận nội xâm đã kể như … toang!

    Ngoại xâm cũng vậy. Ngày 19 tháng 4 năm 2020, BBC loan tin: Trung Cộng lập hai hai huyện đảo quản lý Trường Sa, Hoàng Sa. Qua hôm sau, Thông Tấn Xã Việt Nam cho biết: “Việt Nam phản đối mạnh mẽ việc thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa … Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền…” Trong Lịch sử nhân loại chưa có một cuộc xâm lăng nào bị ngăn chận bởi những lời “phản đối” hay “yêu cầu” (yếu xìu) như thế cả. Thù trong giặc ngoài, nợ công cao lút đầu, đạo đức xuống thấp đến gót chân, không khí ô nhiễm, sông hồ cạn kiệt, rừng núi điêu tàn, đất nước tan hoang… là “thành quả” của cuộc cách mạng vô sản hiện nay ở Việt Nam.

    Để giảm nhẹ tình thế, TBT kiêm CTN Nguyễn Phú Trọng đã ban hành Nghị Quyết Về Cuộc Cách Mạng 4.0 với những mục tiêu sau:

    • Năm 2025, internet băng thông rộng phủ 100% các xã, duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc 3 nước dẫn đầu ASEAN.
    • Năm 2030, mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc; mọi người dân được truy cập internet băng thông rộng với chi phí thấp. Kinh tế số chiếm trên 30% GDP; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 7,5%/năm.
    • Năm 2045, Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu khu vực châu Á.
    Ông Nguyễn Phú Trọng và Nghị Quyết Về Cuộc Cách Mạng 4.0 dễ khiến thiên hạ nhắc nhớ đến những lời hứa hẹn chưa xa xưa lắm của những người tiền nhiệm:
    • Hồ Chí Minh: “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”
    • Lê Duẩn: “Chúng ta sẽ đuổi kịp Nhật trong 15, 20 năm và nhân dân ta sẽ đi trên thảm vàng!”
    Toàn là thần chú và phép lạ cả. Điều mầu nhiệm là tuy chỉ được ăn bánh vẽ nhưng cả nước vẫn không ai kêu đói, và có người cò tấm tắc khen ngon. Mầu nhiệm hơn nữa là một dân tộc dễ chịu (và dễ dậy) tới cỡ đó mà vẫn sống sót được mãi cho đến đầu thế kỷ này.







    Tưởng Năng Tiến

    https://www.rfavietnam.com/node/6193
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Đáy vực từ Nam chí Bắc

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Đáy vực từ Nam chí Bắc
    __________________________________
    Lek Hor Tan _ Tháng Ba, 1982
    Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch







    Theo báo cáo vào năm ngoái của Ân xá Quốc tế, chính phủ Việt Nam đã thừa nhận rằng cho đến 40.000 người đã bị giam cầm trong các trại cải tạo ở miền Nam Việt Nam sau ngày cộng sản chiếm miền Nam vào tháng Tư 1975. Tuy nhiên những nhóm lưu vong đã đưa ra con số những người bị giam cầm cao hơn rất nhiều.

    Được biết không một ai trong số những người bị giam cầm này đã được xét xử ở tòa án pháp luật và chỉ một vài người nghe nói là đã được thả ra trong những năm vừa qua. Đáp lại Giác thư Ân xá Quốc tế vào tháng Chín 1980 về thủ tục luật pháp của việc giam cầm, chính phủ Việt Nam giải thích rằng " cải tạo không có kết án tòa án là một chế độ cực kỳ nhân đạo mà rất có lợi cho họ (tù nhân), so với chế độ xử án trước tòa án thông thường." Nhà cầm quyền Việt Nam giải thích thêm là " theo cách nghĩ của người Việt không có kết án tòa án là tránh cho đương sự một lý lịch tư pháp xấu mà có thể ảnh hưởng xấu đến cả đời họ và đời con họ, đặc biệt trong những vấn đề liên quan đến hoạt động nghề nghiệp của đương sự: chẳng hạn, cha phó bị giam cầm sau khi thả ra thì không thể nào giảng đạo. Chế độ trong các trại cải tạo khác với chế độ trong các nhà tù, và thời gian mất tự do cũng ngắn hơn."

    Về miền Bắc Việt Nam, số tù chính trị hoặc là trong các trại cải tạo hay trong các nhà tù không bao giờ được công bố. Có nhiều báo cáo về nhiều người vẫn còn bị giam cầm từ những năm 1950 và 1960. Nguyễn Chí Thiện là một trong số những người bị giam cầm này. Ông là nhà thơ và bị bắt lần đầu vào năm 1959 vì tội nói xấu chế độ. Ông được cho là đã trải qua hai mươi năm cuộc đời mình tại nhiều trại tù khác nhau. Vào năm 1979 tuyển tập gồm có 377 bài thơ được đưa lén ra khỏi miền Bắc Việt Nam. Trong lá thư đính kèm, được chụp lại ở đây, ông khẩn cầu thế giới bên ngoài tố cáo những điều kiện trong các trại tù mà bản thân ông trải qua và tả lại trong thơ ông. Không ai biết số phận hay chỗ ở hiện nay của Nguyễn Chí Thiện. Những bài thơ này lần đầu tiên được xuất bản trong tác phẩm Tiếng Vọng Từ Đáy Vực...

    *

    Thư đính kèm của Nguyễn Chí Thiện:

    Thưa ông!

    Nhân danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chế độ độc tài, nhân danh những người đã ngã gục và nhân danh những người đang chết mòn và đau đớn trong các nhà tù cộng sản, tôi mong ông hãy xuất bản những bài thơ này trong quốc gia tự do của ông. Những bài thơ này là thành quả của hai mươi năm trời làm việc của tôi, và hầu hết những bài thơ này đều được viết ra trong những năm tù đày. Tôi nghĩ chính chúng tôi, chứ không phải ai khác, phải tố cáo cho thế giới thấy bao đau khổ không thể nào tin nổi của nhân dân chúng tôi bị áp bức và bị hành hạ.

    Cuộc đời tan nát của tôi chỉ còn lại một giấc mơ là mơ thấy càng ngày càng rất nhiều người tỉnh thức trước sự thật là cộng sản là tai họa lớn nhất đối với nhân loại.

    Xin ông chấp nhận lòng biết ơn chân thành sâu sắc nhất của tôi cũng như của những đồng bào kém may mắn của tôi.


              

              


    Nguồn: Dịch từ tạp chí Index On Censorship số ra tháng Ba năm 1982. Tựa đề của người dịch.
    https://journals.sagepub.com/doi/pdf/10 ... 8208533378






    Người dịch:
    Trần Quốc Việt

    https://danlambaovn.blogspot.com/2020/0 ... i-bac.html
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2020 - Tưởng niệm 45 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           



    Việt Nam Cộng Hòa
    lừng lững đi vào lòng đất nước



    1.

    30/4/1975, Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tức tưởi chết!

    Đọc được từ một email tình cờ lạc vào inbox tôi:
    “Còn nhớ trưa ngày 30/4/1975 dưới bầu trời u ám như muốn đổ lệ, tôi đứng ngay cổng xe lửa số 6 trên đường Trương Minh Giảng – Phú Nhuận. Lúc đó lính Cộng Hòa đã trút bỏ quần áo đi bộ từng đoàn thất thểu. Súng ống, ba-lô, quân phục họ vất đầy lề đường. Xe tăng và các binh đoàn Motolova của Cộng Sản đã tràn vào thủ đô Sài Gòn, chạy rầm rầm hướng về Bộ Tổng Tham Mưu. Chung quanh ai cũng hốt hoảng lo tìm đường chạy về nhà, giờ này đi di tản kể như đã quá trễ. Lâu lâu lại thấy một vài đứa khốn nạn Cách Mạng 30/4 đeo băng đỏ ngồi trên xe Jeep cầm súng chĩa lên trời, chúng bắn từng tràng đạn chào mừng ngày Giải Phóng. (…) Sau ngày 30/4 vào khoảng tháng 5 khi có chiến dịch Bài Trừ Văn Hóa Đồi Trụy Mỹ Ngụy, có một vụ chấn động Sài Gòn là vụ nổ ở một tiệm cho mướn sách cũ. Chủ tiệm lùa hết bọn đeo băng đỏ vào trong rồi mở kíp lựu đạn tự sát cho dính chùm. Nghe đâu chết vài mống Cách Mạng 30/4, ông chủ cũng chết. Tiệm này nằm trong phường 10, quận Phú Nhuận (chung với phường của nhà mình bên đường Thiệu Trị – Nguyễn Huỳnh Đức). Còn một vụ khác vào khoảng năm 1976, có một gia đình bên khu đường rầy xe lửa hướng đi ra Cống Bà Xếp. Gia đình này có hai vợ chồng và tám đứa con. Vì căm phẫn chế độ Cộng Sản, họ đã tìm ra đường thoát. Hôm đó, họ nấu một nồi cháo vịt, bỏ thuốc giết chuột vô, cả nhà cùng ăn chung bữa cuối cùng rồi nắm tay nhau chết hết.[ii]

    Đọc được từ một nữ bộ đội miền Bắc, sau này là nhà văn nổi tiếng Dương Thu Hương: “Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ.”[iii]




    2.

    Chao ôi, đã bốn mươi lăm năm rồi kể từ cái ngày tang thương 30/4/1975 !

    Trong những ngày này, khi tất cả chúng ta ngậm ngùi nhớ lại thời điểm bi thảm đó, thì trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc, chính quyền Cộng Sản Việt Nam đang cố gắng vô hiệu hóa công hàm nhượng bộ Trung Quốc của thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 bằng cách khẳng định tính cách hợp pháp của chế độ VNCH trong cuộc đấu tranh pháp lý giành lại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua hai Công Hàm 257-HC năm 2016[iv] và A/72/692 năm 2018 do họ gửi cho Liên Hiệp Quốc.[v] Xin dẫn một trích đoạn liên hệ: “Từ khi quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam năm 1956, chính quyền VNCH đã tiếp quản quần đảo Trường Sa từ Pháp. Bằng Sắc Lệnh Số 143-NV đề ngày 22 tháng 10 năm 1956, Chính Phủ nước Việt Nam Cộng Hoà đã chuyển quần đảo Trường Sa từ tỉnh Bà Rịa về tỉnh Phước Tuy. Trong khoảng thời gian giữa 1954 và 1975, Việt Nam tạm thời bị chia thành hai phần. Do vị trí địa lý, vào thời gian này, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới quyền cai trị của chính phủ VNCH (Miền Nam Việt Nam). Như thế, sự kiện chính phủ VNCH hành xử việc cai trị lãnh thổ hai Quần Đảo trong thời điểm đó là phù hợp với thực tế và luật pháp trong bối cảnh của giai đoạn này. Thông lệ quốc tế chỉ rõ rằng trong thời Chiến Tranh Lạnh, có sự hiện diện của hai quốc gia giống Việt Nam như Đức, Yemen…(…) Vào năm 1975, sau khi Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm cứ quần đảo Hoàng Sa (vào tháng 1 năm 1974), Chính Phủ VNCH đã công bố một Bạch Thư đưa ra những bằng chứng lịch sử xác định một cách rõ ràng và đầy thuyết phục chủ quyền lâu dài của Việt Nam trên hai quần đảo này.”[vi]

    Trong lúc nguy cấp, rốt cuộc, nhà cầm quyền Cộng Sản buộc phải bỏ cái thói kiêu ngạo cố hữu, chính thức thừa nhận sự hiện hữu hợp pháp của VNCH như một cái phao cứu sinh.
    Thực tế là, VNCH đã từng là một quốc gia có cương thổ, có quân đội, có chủ quyền pháp lý, được 87 quốc gia trên thế giới công nhận và đã là thành viên của nhiều Uỷ Ban trong Liên Hiệp Quốc, trong lúc vào thời điểm đó, chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của miền Bắc chỉ được một số rất ít các quốc gia trong khối Cộng Sản thừa nhận. Khi nói đến VNCH, thường thì người ta chỉ nghĩ đến các chính quyền: chính quyền Ngô Đình Diệm, chính quyền Nguyễn Khánh, chính quyền Nguyễn Cao Kỳ, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu… Và khi nghĩ đến các chính quyền, người ta chỉ nhìn thấy một VNCH đầy những hình ảnh tiêu cực: tham nhũng thối nát, thay ngôi đổi chủ xoành xoạch, lệ thuộc ngoại bang…và dựa vào đó, quy cho VNCH là phồn vinh giả tạo, là đầy dẫy các tệ nạn xã hội, là bất công, áp bức, vân vân và vân vân. Thực ra, cũng như những quốc gia khác, VNCH là một tổng thế, có cái tiêu cực, nhưng không thiếu những điều tích cực. Và những điều tích cực đó là hình ảnh của một VNCH khác, đẹp đẽ, nhân bản, dân tộc, thường bị che giấu bởi thiên kiến hay bị xuyên tạc một cách bất công.

    Với riêng tôi (mà cũng là cả thế hệ chúng tôi) sinh trưởng trong lòng chế độ VNCH, nơi chúng tôi được trưởng thành như những con người tự do, được học hành, được mơ ước, được tranh đấu chống bất công, áp bức, nói tóm lại, được tự hào là người Việt Nam, thì VNCH không chỉ là một một quốc gia, một dân tộc mà hơn thế nữa, đó là một quá khứ thân thuộc, êm đềm, sinh động, đa dạng và phong phú. VNCH tuy không còn nữa, nhưng với chúng tôi, VNCH không hề biến mất.






    3.

    Người bạn học thời trẻ của tôi, Lê Hiếu Đằng, một cán bộ Cộng Sản hoạt động nằm vùng, trong “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh…”, kể lại:
    “Nhắc đến đây tôi có một kỷ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lý Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến kì thi Tú tài II nhưng chúng tôi vẫn bị nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú họa xin hai chúng tôi ra thi. Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra thi. Tôi theo ban C Triết học nên chỉ còn vài ngày nữa là thi, ba tôi gửi một số sách vào cho tôi. May mắn lúc đó tôi đã đọc nhiều sách triết học của các Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn và các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại của nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, Tô Thuỳ Yên, v.v., kể cả quyển sách viết về Nietzsche của Nguyễn Đình Thi trước năm 1975. Gặp đề thi triết khá hay tôi tán đủ điều, đậu hạng thứ dễ dàng. Còn Lý Thiện Sanh học ban B vốn rất giỏi nên đậu hạng bình thứ. (…) Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có người tù nào đã được cho ra đi thi như chúng tôi hay không?”[vii]

    Những chi tiết Lê Hiếu Đằng trình bày ở trên là hoàn toàn chính xác, theo tôi. Lê Hiếu Đằng học Đệ Nhất C, Lý Thiện Sanh và tôi Đệ Nhất B, dù không ngồi cùng lớp, nhưng thường hay đi cà phê cà pháo, bàn luận chuyện văn chương thế sự với nhau. Các bạn nào đã từng học Quốc Học vào thời điểm đó (1964) đều ít nhiều biết rõ vụ Lê Hiếu Đằng và Lý Thiện Sanh bị bắt giam vì bị nghi là hoạt động cho Cộng Sản, nhưng được chính quyền địa phương cho mang sách vở vào lao Thừa Phủ học thi, được ra đi thi như những học sinh bình thường khác và rồi đậu tú tài II. Được phóng thích sau gần nửa năm bị cầm tù, Lê Hiếu Đằng tiếp tục tham gia hoạt động cho Cộng Sản ở các trường đại học Sài Gòn, còn Lý Thiện Sanh theo học Y Khoa, tốt nghiệp bác sĩ, làm việc tại bệnh viện Nguyễn Văn Học, Gia Định. Thành thật mà nói, trong nhiều bài viết có tính cách phản tỉnh một cách triệt để vào lúc cuối đời của Đằng, thì những giòng này khiến tôi cảm động, vì anh nêu ra một chi tiết rất nhỏ nhưng lại nói được một điều khá lớn và đầy ý nghĩa. Những cái “ưu việt” của Cộng Sản mà Đằng đã từng vì chúng mà theo suốt cuộc đời, hóa ra không thể so sánh được với cái “nghĩa cử” đầy tình người của chính quyền Thừa Thiên-Huế hồi đó. Nghĩa cử này chắc chắn không xuất phát từ lòng xót thương của một cá nhân, hay từ lỗ hổng của luật pháp mà từ cái cơ chế bình thường của nó, của VNCH. Biết đâu chính cái chi tiết nho nhỏ này đã ám ảnh Đằng và là động lực khiến anh chọn lựa ra khỏi đảng Cộng Sản vào lúc cuối đời!

    Nhân chi tiết khá lý thú đó, tôi thấy cần phải giới thiệu lại một bài viết, đúng hơn là một phần trong tập hồi ký của một trong những khuôn mặt trí thức tả khuynh nổi tiếng hàng đầu ở miền Nam trước năm 1975, giáo sư Nguyễn Văn Trung: “Tưởng niệm Việt Nam Cộng Hòa” (In memoriam Việt Nam Cộng Hòa); hồi ký này đượcviết từ năm 1993 và được công bố lần đầu tiên trong tạp chí Văn Học (Cali) năm 2000.[viii] Giới thiệu phần hồi ký đặc biệt này, tạp chí Văn Học viết, “Chúng tôi xem bài viết của giáo sư Trung là một biểu hiện của sự liêm khiết và can đảm của người trí thức, vì cho đến nay, trên toàn cầu, giới trí thức khuynh tả vẫn chưa có can đảm ‘tự phán’ một cách sòng phẳng, rốt ráo. Họ không dám nhận rằng chỗ đứng an toàn của họ không đâu khác hơn là xã hội cho phép họ được công khai bày tỏ lập trường khuynh tả, và khi chế độ bị họ khinh miệt tiêu vong, để thay thế bằng một chế độ toàn trị, thì số phận của họ cũng bị tiêu vong theo. Hay nói như Giáo sư Nguyễn Văn Trung, ‘tham gia cách mạng là tham gia vào một quá trình tự tiêu diệt sau này’.” (Thư tòa soạn)

    Qua hồi ký, Nguyễn Văn Trung đã phác họa lại hình ảnh chân xác của VNCH bằng cách hướng cái nhìn vào một số nét cụ thể khá đa dạng và phong phú không lệ thuộc vào các chính phủ, thường bị bỏ quên hay bị che mờ bởi thiên kiến hay bởi một nhãn quan lệch lạc, thậm chí có tính cách thù nghịch. Một trong những nền tảng của VNCH là cơ chế công chức. Theo ông, “Khi người Pháp ra đi, một trong những điều tích cực của họ để lại là một số thể chế nhà nước, cụ thể là một nền hành chánh và một giới công chức được đào tạo theo tinh thần phân biệt tôn giáo và nhà nước.”[ix] Trong vòng 20 năm (1955-1975), dù có nhiều thay đổi trong chính phủ, cái hệ thống hành chánh, guồng máy đó vẫn như thế, vẫn chạy đều như không có gì xảy ra. Công chức cấp dưới có trình độ văn hóa tương đối, còn công chức cao cấp tối thiểu cũng có bằng tú tài hay tốt nghiệp đại học. Và dù ở cấp nào, giới công chức vẫn giữ phong cách của những người làm việc công: mực thước, tôn trọng của công, tôn trọng luật pháp và phục vụ công chúng.

    Một đặc điểm khác của VNCH là “xã hội dân sự”. “Những ‘chính quyền’ hay [những] thay đổi ở miền Nam cần phân biệt với ‘chế độ xã hội’ miền Nam ít nhiều vẫn duy trì và phát huy những sinh hoạt của điều mà ta gọi là xã hội dân sự (société civile).”(…) “Nếu phân biệt ‘xã hội công’ (le social public) với ‘xã hội tư’(le social privé) thì ‘xã hội dân sự’ là một loại hình xã hội trong đó nhà nước không can thiệp vào xã hội tư về các quan hệ nghề nghiệp, giáo dục, tư tưởng, văn hóa, cứu tế, liên đới xã hội và các quan hệ về mặt tình cảm (gia đình, họ hàng, bè bạn, thầy trò…). Xã hội dân sự miền Nam, do đó, là một xã hội đa dạng với vô số tổ chức, hội đoàn tư nhân lớn, nhỏ hoạt động độc lập và hợp pháp, được chính quyền tôn trọng và giúp đỡ từ tôn giáo, nghề nghiệp, cho đến kinh doanh, văn nghệ, vân vân. Lợi dụng điều này, người Cộng Sản đã đứng ra thành lập nhiều hội đoàn, tổ chức hợp pháp để ngụy trang cho các hoạt động của mình. Có thể đây chính là lý do khiến nhà cầm quyền Cộng Sản hiện nay rất sợ hình thức “xã hội dân sự”.

    Đề cập đến pháp lý và đạo lý, Nguyễn Văn Trung viết, “Một trường hợp cũng khá phổ biến trước đây ở miền Nam: Trong cái thế đối lập giữa hai trật tự: trật tự pháp lý chính trị và trật tự đạo lý tình người, có những lựa chọn trật tự cao hơn (đạo lý tình người), chẳng hạn anh em, con cháu, bạn bè theo Việt Cộng trà trộn trong cơ quan, trong dân chúng, biết mà không tố cáo, thậm chí còn cho tá túc trong nhà vì coi tình nghĩa ruột thịt, bạn bè cao hơn quyền lợi chính trị, pháp luật…”. Mặt khác, một người có người thân hay họ hàng đi theo Cộng Sản, con cái họ chẳng gặp khó khăn gì trong việc học hành, thi cử và những quyền lợi hợp pháp khác và khi lớn lên, nếu không trực tiếp tham gia hoạt động cho Cộng Sản thì vẫn được đi làm việc bình thường, không bị phân biệt đối xử. Có người còn được cấp học bổng đi du học nước ngoài, và về sau lại hoạt động chống đối kịch liệt VNCH. Chính vì thế, “Dù người dân có khinh ghét chính quyền Sài Gòn thế nào đi nữa, có lẽ ít ai nghĩ rằng mình đang sống trong vùng Mỹ-ngụy, vùng tạm chiếm mà chỉ nhìn nhận: Việt Nam là một dân tộc, nhưng hiện đang bị chia cắt, có hai thể chế chính trị: Việt Nam Cộng Hoà và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, và mong muốn một ngày nào đó có thống nhất trong hoà bình,” theo ông.

    Nói về quân đội, Nguyễn Văn Trung nhận định, “Trong quân đội ngay từ những khóa hạ sĩ quan Nam Định hồi 1951-1952 đến các khóa học của trường Võ Bị Đà lạt, Nha Trang, Thủ Đức hồi đầu thời Đệ Nhất Cộng Hòa cũng dần dà tạo được một giới sĩ quan có trình độ tú tài hay đại học không hề mặc cảm là lính đánh thuê của quân đội viễn chinh, trái lại họ có được một điều mà nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã tạo cho họ đó là một bản sắc, một căn cước quốc gia (identité nationale).”

    Một trong những mặt xuất sắc nhất của VNCH là văn học nghệ thuật. Nó thoát thai từ sự kiện: VNCH là một xã hội mở, xã hội tự do. Theo Nguyễn Văn Trung, trong kinh nghiệm rất riêng của mình, những nhà văn, nhà trí thức miền Nam viết bất cứ cái gì mà không bận tâm mấy về an ninh bản thân. Họ chỉ bận tâm về “viết cái gì” và “viết thế nào”, chứ không phải về “có thể viết được hay không.” Có được như thế là nhờ phong cách làm việc trí thức của giới công chức trong các bộ liên hệ: bộ Văn Hóa, bộ Thông Tin và bộ Nội Vụ. Về điểm này, cũng theo Nguyễn Văn Trung, trong một bài viết khác, “Hướng về Miền Nam Việt Nam”,thì dưới chế độ VNCH, “Báo thì không phải kiểm duyệt nhưng có thể bị tịch thu đưa ra tòa. Trong khuôn khổ chính sách hạn chế tự do chính trị như vậy, nếu không xuất bản công khai, hợp pháp, vẫn có thể in ronéo, phổ biến, bày bán ngay cả trên các sạp báo và có thể bị tịch thu… Người cầm bút viết những điều cấm kỵ, phê phán chính sách này, chính sách kia của nhà nước, thậm chí họp nhau viết kháng thư phản đối, đăng trên báo mà không lo ngại về an ninh chính trị của bản thân gia đình bạn bè. Nói cách khác, viết phê phán mà không sợ nhà nước.”[x]Trong bài thuyết trình “Tính ‘văn học’ trong Văn Học Miền Nam”[xi] đọc trong buổi hội thảo về Văn Học Miền Nam tổ chức tại tòa soạn nhật báo Người Việt vào ngày 6/12/2014, tôi đã phân tích kỹ về tính chất đa dạng, tự do, hiện đại, kế tục, nhân bản… của Văn Học Miền Nam, những tính chất khiến cho tự bản thân, nền văn học đó đã mang một giá trị bất khả bàn cãi và cao hơn hẳn một nền văn học được chỉ đạo bằng các nghị quyết chính trị.

    Xin cụ thể hóa nhận định trên của Nguyễn Văn Trung bằng một trích đoạn đề cập đến việc tiếp quản trường Đại Học Vạn Hạnh sau ngày 30/4/1975 trong một bài viết ngắn của một người miền Bắc có tham gia vào công việc này:
    “Nhưng miền Bắc không chỉ giải phóng miền Nam khỏi những văn bản cổ của văn minh nhân loại hay những trước tác nóng hổi nhất trên thế giới nửa thế kỉ trước, miền Bắc chúng ta đã giải phóng họ khỏi một nền đại học được xây dựng trên ý niệm tự do. Trong số sách Thư viện Vạn Hạnh còn sót lại, có một loại sách đặc biệt, do trường xuất bản, in những bài phát biểu của các diễn giả được mời đến nói chuyện và tranh luận với giảng viên, sinh viên của trường. Đọc những cuốn sách đó, bạn sẽ nhận ra Đại Học Vạn Hạnh đương thời giống như một diễn đàn khổng lồ của xã hội dân sự, nơi tất cả các xu hướng tư tưởng khác nhau đều được cất lên tiếng nói của mình, từ chống Cộng Sản đến chống Hoa Kỳ, ủng hộ miền Bắc đến ủng hộ VNCH… Tất cả đều có một không gian bình đẳng để giải thích vì sao họ suy nghĩ và hành động như vậy. Lúc đó tôi đã tự hỏi, giữa Sài Gòn thời đó thì có những tiếng nói chống lại hệ thống Cộng Sản là đương nhiên, nhưng tại sao chế độ Việt Nam Cộng hoà lại để cho Đại Học Vạn Hạnh (và đương nhiên không chỉ Vạn Hạnh) trở thành nơi những người chống lại mình có thể phát biểu tư tưởng? Câu trả lời nằm ở Hiến pháp 1967 miền Nam Việt Nam: Đại học là tự trị. (…) Những trải nghiệm như thế làm cho mọi chàng ‘miền Bắc có lý luận’ cảm thấy mình thuộc về ‘miền Nam’.”[xii]

    Quy chế “đại học tự trị” quả là một ưu điểm đáng kể của VNCH, góp phần tạo nên một môi trường tri thức thực sự, không thua bất cứ một đại học của một nước tiên tiến nào trên thế giới. Chính vì thế mà dù sống trong thời chiến, các giáo sư và sinh viên vẫn được hưởng một không khí thoải mái trong nghiên cứu và học tập, thậm chí trong các cuộc đấu tranh đòi dân chủ, hòa bình và chống chính quyền.[xiii] Tác giả bài viết trên tỏ ra ngạc nhiên về tính cách “tự do tư tưởng” khi tiếp quản trường Đại Học Vạn Hạnh, một trường mới được thành lập sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Thực ra, sự cởi mở của VNCH về phương diện tư tưởng đã hiện hữu từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Hồi đó, hầu hết các tác phẩm được viết trước năm 1945 của những tác giả đang sống và phục vụ dưới chế độ Cộng Sản miền Bắc (trừ một số tác phẩm nặng tính chất tuyên truyền của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi…) từ Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Anh Thơ cho đến Thế Lữ, Nguyễn Tuân…đều được tái bản, không những thế, còn được đưa vào chương trình dạy văn của học sinh từ tiểu học đến trung và đại học, được đánh giá xứng đáng với giá trị nghệ thuật và vai trò của chúng trong lịch sử văn học. Các tác phẩm đó được nghiên cứu y như chúng hoàn toàn độc lập đối với lập trường và hành vi chính trị hiện đương của các tác giả. Nhờ thế mà thế hệ chúng tôi lớn lên ở miền Nam biết khá rõ giá trị văn chương của từng tác giả, để làm cơ sở đối chiếu với những sáng tác đầy tính chất tuyên truyền, phi-văn chương sau này của họ. Cũng cần ghi nhận ngay bản “Quốc ca” VNCH (đã đổi lời một phần) được sử dụng tại miền Nam hồi đó và tại hải ngoại hiện nay cũng được ghi tên tác giả là Lưu Hữu Phước vốn là một người Cộng Sản. Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường đã từng đưa lên trang mạng “Talawas” một Phụ Lục “Thay lời phi lộ” là lời của nhà xuất bản Hoa Tiên khi cho tái bản tại miền Nam các tác phẩm Lửa thiêng của Huy Cận năm 1967, Tiếng thu của Lưu Trọng Lư năm 1968, Quê ngoại của Hồ Dzếnh năm 1969… Lời phi lộ cho thấy nhà xuất bản đã tách rời văn bản ra khỏi con người tác giả.[xiv]

    Sau 1975, nhà nước Cộng Sản tìm mọi cách hủy diệt nền văn học nghệ thuật VNCH qua một chiến dịch rất bài bản, liên tục và quyết liệt bằng cách đốt sách báo và bắt bỏ tù nhà văn, nhà báo và cả những người giữ sách báo, nhưng rốt cuộc, chỉ là công dã tràng. Họ chỉ có thể đốt phá cái hữu hình nhưng không thể đốt phá được cái vô hình: tư tưởng và tấm lòng. Rốt cuộc, không những nền văn học đó không biến mất mà tồn tại, dai dẳng tồn tại và được trân trọng bảo tồn cả ở trong Nam lẫn ngoài Bắc. Càng về sau, văn học miền Nam càng được đánh giá một cách tích cực, từ những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp cho đến ngay cả từ chính nhà cầm quyền Cộng Sản. Trong bài nghiên cứu khá kỹ và ít thiên kiến, “Chiến tranh, xã hội tiêu thụ và thị trường văn học miền Nam 1954 – 1975”, đăng trên tập san “Nghiên cứu văn học”, một trong những cơ quan nghiên cứu văn học hàng đầu của nhà nước Cộng Sản, có đoạn viết: “Thật vậy, những cơ sở báo chí và xuất bản trung thực đã giúp người đọc miền Nam nhìn rõ hơn xã hội ở chung quanh mình, đã liên kết những người thiện chí trong một nỗ lực vận động cho hòa bình, tự do, độc lập dân tộc và một nền văn hóa văn nghệ tiến bộ, cho thấy mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt, sinh hoạt văn hóa miền Nam không có tính chất một chiều mà còn có những mầm mống của dân chủ, thông qua tiếng nói phản biện và phản kháng.Trong đời sống văn học miền Nam, những sáng tác và công trình nghiên cứu chứa đựng những yếu tố dân tộc, nhân đạo, dân chủ và cách tân, xuất hiện trên cái nền của hoạt động báo chí và xuất bản rất đa dạng và phức tạp của nhiều khuynh hướng khác nhau về tư tưởng cũng như về nghệ thuật. Giữa các khuynh hướng đó không có ranh giới tuyệt đối, mà có sự giao thoa, tương tác và chuyển hóa lẫn nhau. Sách báo thân chính quyền cũng có lúc ấn hành những tác phẩm đả kích quan chức của chế độ, thậm chí bị tịch thu. Sự chuyển biến của sách báo khuynh tả cũng là một quá trình từ tự phát đến tự giác. Trên một tờ báo hay một nhà xuất bản có thể xuất hiện những cộng tác viên đối lập nhau về lập trường chính trị và quan điểm văn học.”[xv]

    Một nhận định văn học khá lạ, nhất là dưới cái nhìn của kẻ thắng cuộc nhìn về kẻ thua cuộc. Nếu không trích dẫn nguồn, có thể chúng ta sẽ cho đó là bài viết của một cây bút VNCH nào đó tự đánh giá văn học miền Nam. Còn lạ hơn nữa, mới đây, “Nhân Dân”, tờ báo chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, cho đi một bài của Hạnh Nguyên, Ứng xử với văn học miền nam trước 1975, trong đó có đoạn:
    “Từ chỗ bị phê phán gay gắt, bị loại bỏ, cấm phổ biến, văn học miền Nam dần dần đã được coi là một bộ phận không thể tách rời của văn học Việt Nam, được xuất bản và nghiên cứu nghiêm túc. Nhiều tác giả (nhà văn, nhà phê bình) miền namxuất hiện trở lại trong đời sống văn học đương đại, nhiều tác phẩm (sáng tác, nghiên cứu, phê bình, văn học sử) được in lại và được bạn đọc ghi nhận. Báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam đều từng mở chuyên mục giới thiệu văn học miền nam trước 1975; nhiều tạp chí chuyên ngành ở trung ương và địa phương cũng đăng tải những nghiên cứu về các tác giả, tác phẩm, hiện tượng văn học, phê bình văn học Sài Gòn trước 1975; không ít luận án, luận văn cao học và không ít đề tài nghiên cứu cấp cơ sở, cấp Bộ, cấp Nhà nước đã lấy văn học, học thuật miền nam 1954-1975 làm đối tượng khảo sát, phân tích, đánh giá; một số nhà xuất bản, công ty văn hóa truyền thông đã chọn lọc giới thiệu những “người lạ mặt quen thuộc”… Nói cách khác, sự thay đổi trong thái độ đối với văn học miền nam diễn ra ở cả khu vực nghiên cứu, xuất bản, lẫn giảng dạy, sưu tầm, giới thiệu, phổ biến đến công chúng. Hoạt động được khuyến khích là vượt qua định kiến, thiên kiến, tỉnh táo chọn lọc những tác phẩm có yếu tố dân tộc, tinh thần nhân đạo, dân chủ, yêu nước và tiến bộ, có giá trị cách tân.Có thể nói, nếu không có không khí cởi mở, chắc chắn những sáng tác của Du Tử Lê, Trần Thị NgH, Đinh Hùng, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện…; những nghiên cứu của Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Thanh Lãng, Toan Ánh… không có điều kiện tái xuất hiện trong đời sống văn học. Nhờ sự thay đổi trong cách ứng xử, mới có những nghiên cứu về các trường hợp như Lê Tuyên, Thanh Tâm Tuyền… về tư tưởng triết học và các khuynh hướng lý luận – phê bình văn học ở đô thị miền nam 1954 – 1975. Theo GS Huỳnh Như Phương: “Từ 1975 đến nay, khoảng 160 tác giả và dịch giả ở các đô thị miền nam có tác phẩm được tái bản chính thức trong nước, trong đó có người còn sống, người đã mất và một số ít đang định cư ở nước ngoài. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân, việc làm đó chưa thật hệ thống và đầy đủ. Trong thời điểm hiện nay, xúc tiến việc tập hợp, tuyển chọn những tác phẩm, công trình có giá trị là việc làm đúng lúc và cần thiết, không chỉ để cung cấp tài liệu cho các nhà nghiên cứu mà còn góp phần làm phong phú và đa dạng đời sống tinh thần của đất nước.”[xvi]

    Từ chỗ “ngăn chặn, chống, phê phán, đấu tranh, quét sạch văn hóa nô dịch, đồi trụy, lai căng; xóa bỏ những xuất bản phẩm phản động, khiêu dâm; trừng trị nghiêm khắc những ai cố ý vi phạm các quy định của Nhà nước…” đến chỗ thừa nhận văn học miền Nam là “một bộ phận không thể tách rời của văn học Việt Nam”, “không chỉ để cung cấp tài liệu cho các nhà nghiên cứu mà còn góp phần làm phong phú và đa dạng đời sống tinh thần của đất nước” quả là một thay đổi 180 độ. Đâu là động lực của thái độ tích cực đó? Có nhiều lý do, nhưng một trong những lý do chính theo tôi, đó là giá trị thuyết phục của tự bản thân Văn Học Miền Nam. Nhận định về ảnh hưởng của văn hóa nghệ thuật miền Nam đối với miền Bắc, nhà thơ Hoàng Hưng, một trong những thành viên nòng cốt của trang mạng Văn Việt ở trong nước, nhận xét:
    Sự tiếp xúc với Văn học Miền Nam trước 1975 đã tạo bước ngoặt quyết định về khuynh hướng tư tưởng cho không ít tác giả của nền văn học “chính thống” miền Bắc. Tinh thần tự do, nhân bản và cách tân của nó đã dần dần “tẩy rửa” thói quen “tự kiểm duyệt” và “phục vụ chính trị”, giáo điều “hiện thực xã hội chủ nghĩa”… vốn ngấm sâu vào tâm trí của thế hệ cầm bút “chống Pháp chống Mỹ”. Chắc chắn nó đã khởi hứng cho những ý tưởng thay đổi mạnh mẽ của vài nhà lãnh đạo văn nghệ cuối thập niên 1970 như Trần Độ, Nguyên Ngọc… và của nhiều cây bút thành công từ sau khi có chính sách “Đổi mới”cuối thập niên 1980. Hầu hết những cây bút trẻ hiện nay ở Việt Nam đang đi theo tinh thần ấy.[xvii]






    4.
    Trong lúc các tác phẩm văn học VNCH vẫn còn được xuất bản hạn chế, thì một hình thái nghệ thuật khác của VNCH, ca nhạc, hay nói theo cách nói phổ biến hiện nay là nhạc vàng, gần như “thống trị” sinh hoạt ca nhạc trong nước. Ca nhạc miền Nam đã có ảnh hưởng từ đầu, ngay sau ngày 30 tháng Tư. “Sau khi Quân đội miền Bắc tiếp quản miền Nam, dường như nhạc miền Nam lại đổ bộ ra Bắc,” theo Jason Gibbs trong một bài nghiên cứu công phu về loại nhạc này, Nhạc vàng “hóa vàng”.[xviii]Gibbs viết:
    “Sau năm 1975, với sự sụp đổ của Sài Gòn, trước sự ra đi của người Mỹ và sự tan rã của Việt Nam Cộng hoà, những quan toà văn hoá Việt Nam đối diện với tình huống khó xử mới. Họ tiếp quản một địa bàn có đến hàng triệu tờ, đĩa và băng – gần hết là nhạc vàng – đã được mua bán trao đổi phân phối. (…) Từng bị tiêm nhiễm một thứ văn hoá, không dễ dàng để một người từ bỏ nó chỉ một sớm một chiều. Mặc dù không có khả năng nghe một bài hát cũ nữa, một người có thể nhớ nó, hát hoặc nhảy với nó trong một thời gian dài trong tương lai. Một bài hát cũ chỉ có thể chắc chắn đã chết khi nó không thể còn được nhớ đến, nhảy múa hay hát hò gì nữa. Tuy nhiên, ngoài vấn đề làm hồi tỉnh những ai đã nuốt phải thuốc độc của chủ nghĩa thực dân mới, họ phải đối phó với sự lan truyền của những người lính Quân đội miền Bắc khi họ mang theo loại nhạc này khi trở về nhà hay làng quê họ. Một nhà nghiên cứu giải thích rằng sự quảng bá của loại nhạc này đối với người miền Bắc thành ra một vấn đề cấp thiết hơn là cố ngăn dừng chúng lại ở miền Nam bởi vì người Bắc nghe nhạc ấy như một món mới lạ và chưa được “miễn dịch” chống lại trước đó.” (…) “Lần đầu đến Việt Nam năm 1993 tôi đã rất kinh ngạc là thứ nhạc phổ biến ở Việt Nam cộng sản lại giống với nhạc mà người Mỹ gốc Việt vẫn nghe, dĩ nhiên là chúng không được phát thanh, và trong mọi trường hợp là bất hợp pháp. Tuy là sản phẩm buôn lậu, những băng cassette và video vẫn được trao đổi tự do, và nhạc này có ở trong gần như mọi nhà tôi đến. Mặc dù nhạc vàng vẫn phải mang tội danh phản động, ít người nghe bình thường để ý đến điều đó.” Rốt cuộc, nhạc vàng, thay vì hiểu là thứ nhạc vàng vọt, ủy mị thì lại trở thành thứ nhạc với ý nghĩa tích cực: vàng là kim loại quý, như được hiểu trước năm 1975 ở Sài Gòn, cũng theo Gibbs.

    Nói về sự “thống trị” của ca nhạc VNCH trong sinh hoạt giải trí hiện nay ở trong nước, nhà thơ Hoàng Hưng, cho biết, “Nhu cầu ca hát, một trong những nhu cầu tự nhiên nhất của con người, sau nhiều năm bị “nhạc đỏ” độc quyền thống trị, đã bùng lên với “nhạc vàng” khắp phố phường ngõ xóm (…) Đến mức bây giờ, nhạc “bolero” một thời vốn không được đánh giá cao lắm bởi giới có học ở Sài Gòn, nay đang “tràn ngập lãnh thổ”, chiếm lĩnh không gian âm nhạc cả chính thống lẫn tự phát!” Tại sao có sự chiếm lĩnh đó? Theo nhận xét của Hoàng Hưng, một trong những điểm đáng nói là phong cách hát. “Các ca sĩ miền Bắc nhìn chung được học bài bản hơn, nhưng sau khi nghe ca sĩ miền Nam, số đông người nghe bỗng nhận ra cái gì đó không thú lắm ở lối hát miền Bắc. Thì ra kỹ thuật thanh nhạc không thay thế được tình cảm tự nhiên, càng không lại được cái hồn gửi vào tiếng hát, và ‘bel canto’ của ‘opera’ không thể cuốn hút bằng cái sự tròn vành rõ chữ tiếng Việt!”[xix]

    Nói chung là như thế, nhưng nếu đi sâu hơn, ta sẽ nhận ra rằng chuyện nhạc vàng-nhạc đỏ không chỉ thuần túy là vấn đề ca nhạc, mà hàm chứa trong đó một cuộc “đấu tranh chính trị” dai dẳng và quyết liệt. Cứ theo dõi chuyện tranh cãi về việc “cho cho cấm cấm” rồi lại “cấm cấm cho cho” một số các bản nhạc miền Nam như “Con đường xưa em đi”, “Tôi đưa em sang sông”, hay “Ly rượu mừng” chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy trước sau, nhà nước Cộng Sản đứng trước một sự chọn lựa “chẳng đặng đừng”, một chọn lựa đau đớn khi cho phép dòng nhạc miền Nam tiếp tục chiếm lĩnh thị trường giải trí cả nước. Phải nói là “không ngăn chặn được” chứ không phải là “cho phép”. Dù trực tiếp hay gián tiếp, dù bóng gió xa xôi hay êm đềm gần gũi, nhạc miền Nam nói chung chứa đựng trong đó tất cả cái không khí đa dạng, thấm đẫm tình người, tình nước của Việt Nam Cộng Hòa. Nói như Đỗ Trung Quân, sự thắng thế của nhạc miền Nam là cuộc “phục thù ngọt ngào” của bên thua cuộc. “Khán giả chọn lựa nó, thứ âm nhạc chôn mà không chết. Muốn nó chết, dễ thôi! Các anh hãy làm nhạc hay hơn nó, có tài năng hơn nó để vĩnh cửu như nó …Dèm pha, mai mỉa, xúc phạm nó vô nghĩa! Nó càng bất tử! Chỉ vậy thôi!”[xx]

    Quả thật là phục thù ngọt ngào! Trong “Trận chiến nhạc vàng”, tác giả Kiva đánh thẳng vào mục tiêu, không ỡm ỡm ờ ờ gì cả khi cho rằng:
    “Sự hồi sinh mạnh mẽ của dòng nhạc vàng cho thấy âm nhạc VNCH lúc xưa chưa có thua. Sau 40 năm chiến đấu cam go, bằng một sức mạnh mềm, nhạc vàng đã lật ngược được thế cờ, giành chiến thắng trên cả nước. Đầu thế kỷ 21, tôi đã thấy được một cuộc chiến tranh nhân dân ôn hòa, lãng mạn, thú vị mà không do những người Cộng Sản điều khiển. Một cuộc chiến tranh không có bom đạn, sắt máu, mà chỉ có lời ca tiếng nhạc du dương, êm đềm, thơ mộng. Nhạc xưa đã trở lại, nhưng không phải là sự thụt lùi mà là sự đáp ứng nhu cầu, phản ảnh tâm thức của người dân muốn hướng đến một xã hội tràn đầy yêu thương, nhân bản, thấm đượm tình quê hương dân tộc.”[xxi]

    Ngay cả trên một trong những tờ báo mạng hàng đầu ở trong nước hiện nay (vnexpress.net), ta cũng tìm thấy những lời ca ngợi âm nhạc miền Nam và thẳng thắng phê phán chính sách cấm đoán của nhà cầm quyền Cộng Sản đối với loại nhạc này:
    “Những thân phận lạc loài vì chiến tranh, kêu đòi hòa bình, kêu gọi chấm dứt chiến tranh là điểm nhấn của cả một thời kỳ người đô thị miền Nam hát vì yêu nước, đến nay cũng vẫn không được phổ biến một cách oan uổng; như ca khúc Da vàng của Trịnh Công Sơn, dù nhạc sĩ sau ngày Thống nhất cho đến tận khi mất vẫn cống hiến rất nhiều cho âm nhạc nước nhà. Nếu nghe thật kỹ ca từ “Một mai giã từ vũ khí” của Trịnh Lâm Ngân, chỉ thấy khắc khoải mơ ước hòa bình để xây dựng lại một xã hội người người thương yêu nhau, vậy mà nó luôn nằm đầu bảng danh sách các ca khúc bị cấm biểu diễn. (…) Quan trọng hơn, một thực tế không thể chối cãi, đó là rất nhiều trong những bài hát bị cấm phổ biến vẫn được mọi người yêu mến. Dù được viết đã rất lâu, bằng cách nào đó, chúng đang và còn nói được tiếng lòng đại chúng ở hiện thời. Việc cấm sử dụng các ca khúc được nhiều người yêu mến là đi ngược quy luật xã hội, vô ích trong quản lý và tốn thêm các chi phí khác cho việc giám sát.”[xxii]

    Nhạc miền Nam trở lại không chỉ bằng nhạc mà bằng cả chính các ca nhạc sĩ một thời xây dựng nên không khí VNCH. Dân miền Nam muốn sống lại những tháng năm xưa êm đềm với các thần tượng của mình, còn dân miền Bắc thì lại muốn được trực tiếp chia xẻ cái không khí chứa chan tình người mà họ không có cơ hội được hưởng vì sự biến mất đau đớn của VNCH. Những chương trình ca nhạc như thế, nhất là ở Hà Nội, là những “biến cố” xưa nay hiếm, đánh động vào một thế giới hoài niệm rưng rưng, xa xót![xxiii]

    Văn học nghệ thuật quả đã mang VNCH lừng lững đi vào, đi sâu trong lòng đất nước. Đây không phải là một diễn biến hòa bình. Cũng không phải một vận động thay ngôi đổi chủ. Đơn thuần chỉ là một hiện tượng phục hồi. Sự phục hồi của một giá trị, một giá trị vô cùng lớn lao mà nếu biết vận dụng, nó có thể đưa đến sự thay đổi ngoạn mục của dòng sinh mệnh dân tộc.

    5.
    Ngoài yếu tố tự thân, sự phục hồi này còn được hỗ trợ bởi những yếu tố khách quan khác.
    Trước hết là sự phát triển của mạng xã hội, đặc biệt là facebook. Qua mạng xã hội, lần đầu tiên người dân cảm thấy mình được tự do, được thoát ra khỏi sự kềm chế của nhà nước, được nói, được viết, được trao đổi đủ thứ thông tin đa dạng, đa chiều mà không phải thông qua một hệ thống kiểm soát nghiêm ngặt của bộ máy công an. Cũng qua mạng xã hội, họ xây dựng được một xã hội khác với thứ xã hội bị kềm kẹp bên ngoài: xã hội dân sự. Tất cả tạo thành một sức mạnh, làm đối trọng với nhà cầm quyền. Các tư tưởng dân chủ, tự do được đề cao. Và đặc biệt, các trang mạng xã hội cũng là nơi chứa đựng hình ảnh và thông tin đáng quý và hữu ích về một VNCH ngày cũ, từ âm nhạc, văn chương, nghệ thuật cho đến quân đội, giáo dục, kinh tế…

    Mặt khác, do sự biến mất các yếu tố hấp dẫn của các chiêu bài lý tưởng (độc lập, giai cấp, chủ nghĩa…) cũng như vì sự mâu thuẫn về quyền lợi phát sinh do một đảng cầm quyền quá lâu, “Nền chính trị Việt Nam đã chính thức bước vào chế độ tài phiệt (plutocracy),” theo Đoan Trang và Nguyễn Hữu Long. Phân tích về điểm này, hai tác giả nhận định:
    “Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhân vật trung tâm của chính trị Việt Nam thập kỷ qua, đã phơi bày một phần cuộc đấu đá quyền lực trong đảng ra trước mặt báo và pháp đình, thông qua chiến dịch chống tham nhũng vô tiền khoáng hậu trong lịch sử đảng. Chiến dịch này đã làm thay đổi hẳn cách nhìn về quan chức nhà nước và cơ quan nhà nước trong công chúng nước ta. Trước đây, người ta coi làm quan, làm nhà nước là một công việc ổn định, vừa màu mỡ vừa an toàn, “đến hẹn lại lên”. Nay, ấn tượng đó đã sụp đổ cùng với những Đinh La Thăng, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, v.v. (…) Hai cái chết bí ẩn của Nguyễn Bá Thanh và Trần Đại Quang, cùng với vụ mất tích kỳ lạ của Đinh Thế Huynh, tiếp tục phủ bóng chính trường với nhiều màu sắc ma quái, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ trong công chúng về những phương pháp thanh trừng nội bộ cổ xưa. Pháp luật, suy cho cùng, vẫn chỉ là công cụ thanh trừng chứ không phải là nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước. Không có thứ công lý nào đạt được với một thứ pháp luật như vậy.”[xxiv]

    Trong tình huống này, phủ nhận cơ chế nhà nước Cộng Sản hiện nay tất yếu phải dẫn đến chỗ thừa nhận những giá trị mà VNCH đã từng thể hiện trong thời gian 20 năm trước đây. Nhìn chiến hạm Mỹ Theodore Roosevelt ghé thăm Đà Nẵngvào tháng 3/2020 vừa qua, nhìn cách nhà nước Cộng Sản đang loay hoay đòi biển đòi đảo, loay hoay trườn ra khỏi ảnh hưởng của chế độ bá quyền xảo quyệt phương Bắc, tôi nhận ra một điều vừa khôi hài lại vừa chua chát: Chính quyền Cộng Sản đã mất công chiến đấu, phỉnh gạt và hy sinh bao nhiêu thế hệ để cũng đi đến cái mục tiêu mà VNCH đã từng theo đuổi: thân Mỹ, chống Tàu, biến Việt Nam thành một đất nước pháp trị với tam quyền phân lập, đa nguyên trong sinh hoạt chính trị, tự do trong kinh tế thị trường, cởi mở trong văn học nghệ thuật, đất đai thuộc sở hữu tư nhân, tự trị đại học…Bị giam giữ trong nhà tù ý thức hệ, bị nhốt kín trong nỗi đam mê thành tích quá khứ, đảng Cộng Sản tiếp tục dẫn dắt dân tộc đi vào một con đường “dead-end”, không lối thoát.

    Bốn mươi lăm năm bát nháo, ỡm ờ! Bốn mươi lăm năm loay hoay. Bốn mươi lăm năm sinh sát. Rốt cuộc, chính quyền Cộng Sản hiện hình là một cơ chế nửa nạc nửa mỡ, tiến thối lưỡng nan. Hơn thế nữa, cái chính quyền đó tự biến thành một khối u ác tính của chính mình. Nó tự đối đầu với chính nó, tự bào mòn chính nó, tự cắt xé chính nó. Thế lực phản động không còn đến từ bên ngoài, mà mưng mủ từ bên trong. Biến cố Đồng Tâm chẳng hạn là biểu hiện sinh động, là đỉnh cao của cái ung nhọt tự phát trong lòng chế độ. Chính những người đã từng hy sinh xương máu của họ để phục vụ chế độ càng ngày càng đứng lên chống lại nó, rạch ròi, dứt khoát và đầy chính nghĩa.

    Trong một bối cảnh như vậy, nếu người ta hướng về VNCH cũng là điều rất hiển nhiên. Và hợp lý. Một trong những nhà nghiên cứu văn học tiếng tăm trong nước, Vương Trí Nhàn, đã can đảm nhận định về Tô Thùy Yên và qua đó, về những con người VNCH như sau:
    “Qua nhiều tài liệu về các trại tù cải tạo được thiết lập sau 75, tôi biết có một nguyên tắc chi phối các trại tù này là làm cho những người bị giam trong đó mất hết cảm giác và suy nghĩ của một con người bình thường, không còn đớn đau mà cũng không còn hy vọng, tóm lại là chỉ biết sống qua ngày như một thứ súc vật bị làm nhục. Trường hợp con người trong Tô Thùy Yên sau khi ra tù bộc lộ qua bài thơ “Ta về” chứng tỏ mọi ý đồ loại đó đã phá sản, đây không phải trường hợp cá biệt ở một hai người mà phổ biến ở rất nhiều người. Sau khi bị tù đầy trở về họ vẫn giữ được lòng khao khát yêu đời và có đủ khả năng gia nhập vào cuộc sống hiện đại khi ra sống ở hải ngoại. Chính họ là niềm hy vọng của dân tộc chúng ta. Mà điều đó không phải là ngẫu nhiên vì nó đã được chuẩn bị từ trong cuộc sống hai mươi năm 1955-1975” (Tôi nhấn mạnh).

    Đây là một nhận định chính xác, can đảm của một nhà phê bình văn học, người ở bên phe thắng cuộc. Những người hiện đứng lên tranh đấu cho một nước Việt Nam giàu mạnh, tự do, dân chủ ở trong nước đang đòi hỏi cái mà chúng tôi đã từng tranh đấu để có và đã từng có vào những năm tháng VNCH. Giá trị VNCH, do đó, không có gì cao xa, cũng chẳng cần phải dựa trên một lý thuyết nào, trái lại, rất đơn giản. Đơn giản như lao Thừa Phủ ngày nào đã cho phép hai tù nhân học sinh Lê Hiếu Đằng và Lý Thiện Sanh được đi thi Tú Tài để khỏi đánh mất tương lai. Đơn giản như những bài hát bolero VNCH, dân dã, thắm tình. Không cần kinh qua những cuộc đấu tố cải cách long trời lở đất và những năm tháng chiến tranh hao người tốn của. Cũng không cần những bà mẹ anh hùng, những tượng đài, những địa đạo, những thi đua, những sùng bái cá nhân và lăng tẩm, vân vân.


    Xin được nhắc lại, nhất định là không thừa: Rốt cuộc, đổi mới là gì, cải cách là gì nếu không muốn nói là con đường dẫn đến những giá trị VNCH. Chả thế mà, giáo sư Nguyễn Văn Trung nhận định, “Cái gọi là “đổi mới” thực chất là “đổi mới chẳng qua là trở về những cái cũ đã bị phủ nhận”.[xxv] Hiểu như thế, VNCH không phải là quá khứ, mà chính là tương lai. Là mô hình của một Việt Nam đổi mới, dân chủ, tự do.

    Khi thừa nhận tính cách hợp pháp của chế độ VNCH, nhà cầm quyền Cộng Sản chắc không muốn nghĩ tới điều đơn giản đó.
    Không sao!
    Lịch sử có những lối đi riêng bất ngờ của nó.


    Trần Doãn Nho
    (4/2020)


    _____________________
    Tài liệu tham khảo:
    – FB Vương Trí Nhàn

    – Jason Gibbs, Nhạc vàng hóa vàng (Nguyễn Trương Quý dịch)



    Nguồn:https://news.vietluan.com.au



              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ: Miền Nam Tự Do sụp đổ

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ:
    Miền Nam Tự Do sụp đổ

    __________________________________
    Hàn Giang Trần Lệ Tuyền _ 1/11/2009






              

    Chí Sĩ Ngô Đình Diệm:
    Tổng Thống dân cử đầu tiên của Nước Việt Nam.

              


    « Tứ Bất Tử » là lời của cổ nhân đã dạy, từ thuở xa xưa, tất cả nhân loại ở trên mặt địa cầu này ai cũng đều đã biết: con người sinh ra rồi ai cũng phải chết, mỗi cái chết đều khác nhau. Nhưng, cổ nhân đã khẳng định có bốn cái chết để rồi vẫn sống mãi mãi với thời gian, đó là « Tứ bất tử », và trong bốn cái chết ấy gồm những bậc có công nghiệp như sau:

    1- Có sự nghiệp lớn;
    2- Có đạo đức lớn.
    3- Có công ơn lớn ở người đời.
    4- Có văn chương truyền được lâu dài.

    Vậy, hôm nay, nhân dịp tưởng niệm lần thứ 46, kể từ ngày 01-11-1963, ngày vị anh hùng vĩ đại của dân tộc Việt Nam: Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã Vị Quốc Vong Thân cùng với nhị vị bào đệ là Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu và Ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn. Và cứ như theo lời của cổ nhân đã dạy, thì chỉ cần một chữ « Có » thì đã trở thành Bất Tử rồi. Nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì đã chiếm được đến ba chữ « có ». Bởi, tất cả các vị anh hùng ở trên thế giới này, họ thường chỉ được từ một đến hai chữ có. Nhưng riêng Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì theo tôi, chỉ trừ chữ có thứ bốn là « Có văn chương truyền được lâu dài » thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm chưa có tác phẩm văn chương nào để lại cho hậu thế, nhưng Người đã chiếm đến ba chữ « Có » trong « Tứ Bất Tử »:

              

    Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Người đã khai sáng nền Cộng Hòa Việt Nam
    (Hình do Bác sĩ Giáp Phúc Đạt cung cấp)

              




    1 – Sự nghiệp lớn: Đó là sự nghiệp đã khai sinh ra Thể Chế Cộng Hòa, tức đã khai sinh ra Nước Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời đã xây dựng được một Miền Nam Tự Do và phồn thịnh, mà không phải do được các cường quốc viện trợ tiền rừng bạc biển.




    2- Có đạo đức lớn: Người đã nêu cao đạo đức về nhiều phương diện đối với người dân. Cả cuộc đời Người không màng đến cao lương mỹ vị, không chăn ấm nệm êm, Người đã quên mình để chỉ ưu tư cho Tổ Quốc và Dân Tộc.

    Vậy chúng ta hãy nghe những lời của Thiếu Tá, sau là Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, tác giả cuốn sách: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ngày 1-11-1963, Ông là Tham Mưu Phó, Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ, đã đề nghị Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho xử dụng Thiết giáp và Bộ binh đánh thẳng vào Bộ Tham mưu, sào huyệt của phe « cách mạng », bắt sống toán đảo chính. Tổng Thống nghe nhưng không có ý kiến gì. Khi được tin Đính đã thực sự theo phe đảo chính, Tổng Thống Ngô Đình Diệm than với Đại úy Bằng, Sĩ quan Cận vệ, là « Cháy nhà mới ra mặt chuột ». Và « Khi lục soát tử thi, người ta tìm thấy trong tử thi của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nửa bao thuốc lá Bastos xanh và một chuỗi Tràng Hạt!!! »

    « Lúc gần sáng Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã ra lệnh buông súng, vì không muốn binh sĩ đổ máu vì Ông, tôi thấy rã rời, thất vọng. Nhưng vẫn còn chút hy vọng mong manh, là Ông sẽ được đối xử tử tế bởi các tướng lãnh làm đảo chính, vì hầu hết những người này đều do Ông gắn sao cho họ. Chẳng bao lâu, được tin Ông chết. Nghĩ mà thương cho Ông, vì sợ anh em vì bảo vệ cho Ông mà đổ máu, sợ anh em giao tranh với nhau mất tiềm lực chống cộng, mà Ông bị làm nhục, phải chết trong tay những kẻ vũ phu, trong một xe thiết giáp ».

    Trên đây, là những dòng của Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ đã viết trong cuốn sách: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nơi trang số 169, thì chắc hẳn mọi người đều đã thấy được: cho đến giờ phút cuối của cuộc đời, giữa lúc tử - sinh, mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm vẫn không muốn có một người chiến sĩ nào phải đổ máu để bảo vệ cho mình. Ôi! một tấm lòng cao cả: ngất ngưỡng như ngọn Hy Mã Lạp Sơn, và mênh mông như Ngũ Đại Dương góp lại.

    Tôi cũng xin nói thêm là tấm hình của Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà tôi đã đưa lên trên của bài viết này là tấm hình của bìa cuốn sách: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, của Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, theo Đại tá, thì Ông viết cuốn sách này, mục đích là để tặng cho những người còn giữ được lòng trung thành với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chứ không có mục đích thương mại. Trước đây, lúc Ông còn khỏe Ông vẫn thường xuyên viết trên Văn Nghệ Tiền Phong, Ông đã ký tên: Nhật Lệ Nguyễn Hữu Duệ. Và Ông đã từ Hoa Kỳ gửi sang Pháp quốc, với những dòng chữ mà chính tay Ông đã viết tặng tôi vào ngày 24-11-2003. Phía sau bìa sách, Ông có chú thích tấm hình của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là của Bác sĩ Giáp Phúc Đạt cho Ông được xử dụng. Hôm nay, tôi đưa tấm hình của Tổng Thống Ngô Đình Diệm lên trên bài viết này cũng cùng như ý Nguyện của Đại tá Nguyễn Hữu Duệ và của Bác sĩ Giáp Phúc Đạt, nghĩa là để cho các vị: những người còn giữ được nguyên vẹn một tấm lòng trung nghĩa với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để các vị được thấy lại hình ảnh của Vị Anh Hùng của Dân Tộc. Vậy, tôi rất mong quý vị trên các diễn đàn chớ lấy tấm hình của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cho những mục đích khác. Đặc biệt, đối với những kẻ đã từng hạ bút viết những lời lẽ xúc phạm đến thanh danh của Tổng Thống, thì tuyệt đối không được lấy tấm hình của Tổng Thống, bởi những bàn tay đó, đã vô cùng bẩn thỉu khi dám viết lên những lời lẽ xuyên tạc, đầy ác ý, để bôi nhọ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và cả dòng họ Ngô Đình.





    Và bây giờ tôi phải trở lại với chữ « Có » thứ 3 của « Tứ Bất Tử »:
    Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có công ơn lớn với tất cả mọi người dân miền Nam: Kể từ sau ngày 20-7-1954: Đó là: Công Cuộc Xây Dựng Tự Do - Thanh Bình - Phồn Thịnh Tại Miền Nam.

    Chúng ta là những người dân của miền Nam, có lẽ nào lại quên rằng: Vào những năm từ 1954, đến đầu thập niên 1960. Dưới ánh sáng mới của Chính Thể Cộng Hòa. Dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Là những người Việt Nam đã từng sống vào thời kỳ ấy. Tất cả đều đã thấy được một Miền Nam Thanh Bình-Tự Do-no ấm thực sự.

    Ngày ấy, nếu những ai đã từng sống với những cảnh đêm về, dưới ánh trăng lành, trên khắp nẻo đường quê, bên những lũy tre làng rộn rã những bước chân của lớp người trai trẻ, với hình ảnh hiền hòa, chân phác. Họ đã đến với nhau trong những lần sinh hoạt của thanh niên, cùng nhau hòa lời ca với tiếng đàn Mandoline, với những bài hát ca ngợi quê hương dưới cảnh thanh bình. Bởi vậy, tôi vẫn nhớ dù không đầy đủ những bài ca, có bài tôi chỉ còn nhớ một đôi câu, hoặc một vài điệp khúc như sau:

    Đây phương Nam, đây ruộng Cà Mau no lành. Có tiếng hát êm đềm trong suốt đêm thanh. Quê hương anh lúa ngập khắp bờ ruộng xanh. Lúa về báo nhiều tin lành, từ khắp đồng quê cùng kinh thành …

    Đây phương Nam, đây tình Cần Thơ êm đềm. Có lúa tốt quanh vùng nuôi sức dân thêm. Quê hương em bóng dừa ấp ủ dịu êm. Những chiều trăng rọi bên thềm, vọng tiếng khoan hò về êm đềm …

    Ai vô Nam, ngơ ngẩn vì muôn câu hò. Những tiếng đó khơi lòng vui sống ấm no. Trăng phương Nam sáng tỏa khắp bờ Cửu Long. Nước chảy con thuyền xuôi giòng, vọng tiếng khoan hò làm ấm lòng… ».

    Trên đây là những lời quê mà tôi muốn ghi lại, để các vị cao niên đã từng sống, từng chứng kiến những cảnh thanh bình nơi cố lý, của một thời đã mất, và sẽ không bao giờ còn tìm gặp lại, dù chỉ một lần nào nữa.!!!

    Và đó, là « Có công ơn lớn ở người đời »; bởi Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Người đã tận hiến cả cuộc đời từ thuở còn trai trẻ, cho đến giờ phút cuối cùng đã Vị Quốc Vong Thân.






    Nhưng rồi những cảnh thanh bình ấy, đã bị bức tử khi cái gọi là « Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam » ra đời. Mà ác hại thay, những người công khai lãnh đạo cái mặt trận này lại là những "trí thức" đã được ăn cơm Quốc Gia nhưng lại thờ ma cộng sản, và những "nhà tu hành" của Phật giáo Ấn Quang. Những « nhà sư » đó sau ngày 30-4-1975, họ là "Hòa Thượng- Thượng tọa" đã được cộng sản Hà Nội trao gắn đầy những tấm Huân chương, Huy chương, là những bằng chứng về những hành vi và cũng là tội ác đã từng làm giặc, mà sư sãi Ấn Quang không có cách nào chạy chối cho được.

    Chính những kẻ "tu hành" bất nhân, thất đức như Thích Đôn Hậu – Thích Trí Quang – Thích Đức Nhuận - Thích Huyền Quang – Thích Quảng Độ v…v… và những tên đâm thuê, giết mướn như: Dương Văn Minh – Nguyễn Khánh - Trần Thiện Khiêm - Đỗ Mậu - Nguyễn Chánh Thi – Trần văn Đôn - Dương Hiếu Nghĩa v…v… chúng đã nhúng tay vào máu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Chính những kẻ này, đã làm cho Miền Nam Tự Do phải sụp đổ, khiến cho hàng triệu Quân-Dân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa phải chịu cảnh đọa đày trong các "Trại tù cải tạo", với những cực hình dã man, tàn bạo nhất, có người đã chết ở bên bờ kẽm gai oan nghiệt của nhà tù. Và đã không biết bao nhiêu người đã chết nơi rừng thiêng, nước độc ở các "vùng kinh tế mới"; và đau thương nhất là những em bé gái đã chết dưới những bàn tay của những tên hải tặc, đã làm mồi cho cá, cho thú rừng, hay đã vùi thây trên ngàn dưới biển trên đường chạy trốn ngục tù cộng sản?!!!

    Ngoài những thảm cảnh đó. Chính những kẻ này đã đẩy lớp trẻ vào bước đường cùng, thương luân, bại lý!!!

    Riêng Đỗ Mậu, vốn là một tên gian manh, phản phúc, nên chẳng những đã nhúng tay vào máu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, mà sau đó, hắn còn bắt giam rất nhiều vị, chỉ vì không ủng hộ đảo chính, trong đó có Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ. Song cũng chưa thỏa mãn, mà cho đến mãi sau này, khi đã chạy sang nước Mỹ, Đỗ Mậu cũng đã gian manh khi đã vẽ vời ra những câu chuyện láo khoét, rồi hắn đã nhờ đến mấy tên tay sai của Việt cộng, đã viết cho hắn cái cuốn: Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi; mà nội dung, thì ngoài những lời kể của hắn, lại được mấy tên lưu manh này dàn dựng thêm vô số những chuyện trên trời, dưới đất, mục đích để bôi nhọ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cả dòng họ Ngô Đình, và tên khố xanh Đỗ Mậu, hắn cũng đã về Việt Nam để công khai tái bản cuốn "Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi" và hắn đã chết sau những tháng ngày ngồi trên chiếc xe lăn tại "quê hương" của hắn. Nhưng có một điều là bọn này không biết rằng: Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng, Chủ nhiệm Bán Nguyệt San Văn Nghệ Tiền Phong, một tờ báo sống thọ nhất, kể từ lúc mới ra đời từ năm 1956, ông đã tìm hiểu, và đã biết được những tên đã núp ở phía trong cái quần của tên lính khố xanh Đỗ Mậu, để hoàn thành cái cuốn sách rác rưởi đó. Do đó, mà ông Nguyễn Thanh Hoàng đã cho mấy tên này ra rìa khỏi tờ Văn Nghệ Tiền Phong.

    Song nói đến Tổng Thống Ngô Đình Diệm, mà không nói đến Ông Ngô Đình Luyện là một điều vô cùng thiếu sót; bởi ông Ngô Đình Luyện cũng là một người đã hết lòng phụng sự cho Quốc Gia và Dân Tộc. Song cả một đời của ông Ngô Đình Luyện cũng không hề được hưởng sự giàu sang phú quý, như những lời của những kẻ bất lương xuyên tạc. Vậy, một lần nữa, tôi xin trích một đoạn ngắn những lời kể của Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ trong thời gian gặp gỡ ông Ngô Đình Luyện tại Mỹ như sau:

    « Trên máy bay, khi từ toilets ra, dây lưng bị đứt, khiến quần ông muốn tụt ra, vì ông mặc đồ cũ từ ngày xưa, nay ông ốm hơn nhiều. Tôi phải tháo dây lưng của tôi cho ông dùng. Tôi cảm thấy thương ông, vì ông nói rằng cả chục năm nay, ông chưa mua quần áo mới và thay dây lưng.

    Ông nắm tay tôi và chảy nước mắt, làm tôi cảm động.

    Khi về Pháp, ông viết cho tôi một lá thư khá dài để cám ơn, nhắc lại cái dây lưng, và nói sẽ giữ suốt đời để làm kỷ niệm ».

    Ôi! Suốt cả cuộc đời của các Huynh–Đệ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã sống trong thanh khiết, chỉ biết đặt Tổ Quốc và Dân Tộc lên trên hết.

    Còn gì đáng kính phục, đáng thương hơn, đau lòng hơn, khi một vị Tổng Thống sau khi bị bọn đâm thuê, chém mướn giết chết, khi lục lọi cả tử thi của Người mà chỉ tìm được vỏn vẹn chỉ nữa gói thuốc Bastos xanh và một chuỗi Tràng Hạt còn vương đọng những giọt máu thiêng của vị Anh Hùng của Dân Tộc: Chí Sĩ Ngô Đình Diệm!!!

    Ôi! Không có một ngôn từ nào của nhân loại để có thể diễn đạt cho vừa những trang sử đầy đau thương và đẫm máu này???!!!

    Riêng tôi, khi viết lên những dòng này, tôi đã phải bao lần bị đứt quãng, vì không cầm được nước mắt, và mỗi lần như thế, những dòng nước mắt của tôi đã rơi xuống trên chiếc bàn phím này. Đây không phải là lần đầu tiên, mà mỗi lần nhìn tấm hình của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là nước mắt của tôi lại cứ ứa ra, những giọt nước mắt của một con dân Việt đã khóc cho Người, khóc cho một Nước Việt Nam Cộng Hòa đã bị sụp đổ, song không phải sụp đổ vào ngày 30-4-1975, mà nó thực sự bắt đầu sụp đổ vào ngày 1-11-1963. Nhưng có một điều mà trước đây, ít ai nghĩ đến, là ngày đó Tổng Tổng Ngô Đình Diệm đã bị giết chết. Nhưng, Vị Tổng Thống đã Hồi Sinh ngay sau đó, và đã trở thành Bậc Anh Hùng Bất Tử.





    Nhân-Quả

    Viết đến đây, tôi muốn nói đến những kẻ đã từng tham dự vào vũng máu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng nhị vị bào đệ. Những kẻ đó, có người đã chết. Nhưng trước khi chết, họ đã sống trong những tháng ngày đau khổ từ thân xác đến tinh thần, bởi bị chính lương tâm của họ kết tội. Có kẻ hàng ngày đau đớn ngồi trên chiếc xe lăn. Cũng có người đã bị chính vợ và con của họ đày đọa. Có kẻ trước khi chết đã bị chính con trai ruột của mình đã đuổi ra khỏi nhà giữa đêm đông giá buốt của Trời Âu. Và đó, là cái "Quả" mà họ đã phải gặt từ cái "Nhân" mà họ đã từng gieo trước đó. Riêng những kẻ đã từng núp trong cái khố xanh của Đỗ Mậu hiện vẫn còn sống, nhưng tôi tin rồi sẽ có một ngày chúng cũng sẽ ngồi trên chiếc xe lăn trước khi gục chết như tên Đỗ Mậu.

    Ngoài ra, một số tên vẫn còn sống trong những thứ hư danh, những kẻ đó, có lẽ nào trong suốt bao nhiêu năm qua, mà không một lần nữa đêm tỉnh giấc, vì hình ảnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cùng nhị vị bào đệ là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn, với thân xác nhuộm đầy máu. Hoặc hình ảnh của một vị Tổng Thống với ánh mắt nhân từ, đã từng thân ái cài lên ngực áo của họ những chiếc lon từ cấp Úy, Tá, Tướng, để từ đó họ bước lên đài danh vọng. Và để rồi sau đó, họ đã lấy oán trả ân, bằng dã tâm thua cả loài lang sói. Chúng đã giết chết chính người đã thi ân cho chúng, chúng đã mất cả lương tri, thua cả một con chó, vì loài chó dù cho có đói đến đâu, nó cũng đành chịu chết, chứ chúng không bao giờ ăn thịt của đồng loại (chó). Chúng cũng không bao giờ cắn chủ, kể cả người đã cho nó ăn, dù chỉ một lần.

    Đến đây, tôi muốn nói tới Tướng Nguyễn Khánh. Bởi ông ta cũng là một kẻ bất nhân, bất nghĩa, bất lương, Nguyễn Khánh đã vô cùng tàn ác, khi xuống tay giết chết một người vô tội là ông Ngô Đình Cẩn là bào đệ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Nên biết, những người dân chân thực tại miền Trung, họ đều biết về ông Ngô Đình Cẩn là một người Đại Hiếu- Tận Trung và Nhân Từ, không như những kẻ đâm thuê, giết mướn với lòng dạ bạc ác, bất nhân đã cố tình tuyên truyền, xuyên tạc với những chuyện động Trời như: « Ông Cẩn giết các nhà sư rồi chôn dưới gốc cây cam, mỗi gốc cây cam trong vườn của ông Cẩn là một xác nhà sư ». Và cũng nên biết, trước khi ông Ngô Đình Cẩn bị xử bắn, thì một « Ủy Ban Điều Tra Tội Ác Gia Đình Nhà Ngô » đã được thành lập, và ủy ban này đã đến tận nơi, đã đào tận gốc rễ của từng gốc cây cam. Lúc ấy, mọi chuyện đều đã sáng tỏ, là không hề có một xác người hay vật gì dưới những gốc cây cam.

    Sau đó, mặc dù "Ủy Ban Điều Tra Tội Ác Gia Đình Nhà Ngô" đã lập biên bản với nhiều chữ ký của các vị trong "Ủy Ban" này, và đem trình lên các cơ quan hữu trách. Nhưng tướng Nguyễn Khánh đã không thèm ngó tới, không cần đến sự thật, mà đã cương quyết phải giết chết ông Ngô Đình Cẩn cho bằng được. Nguyễn Khánh thật vô cùng tàn ác, khi xuống tay để giết chết ông Ngô Đình Cẩn trong lúc ông đang bệnh nặng, nằm liệt giường tại khám Chí Hòa, vì thương Mẹ già, vì đau xót về cái chết thảm của nhị vị bào huynh. Nguyễn Khánh nên nhớ, khi ông ta giết ông Ngô Đình Cẩn, là ông đã giết cùng lúc thêm hai mạng người nữa, vì ngay sau đó, Cụ Bà Thân Mẫu của ba vị đã vì quá đau đớn, nên cũng đã chết theo ba người con. Ôi! ai đã từng "Tre già khóc măng" thì mới thấu được nổi đau đớn của Mẫu Thân của Tổng Thống Ngô Đình Diệm!!!

    Và cũng trong cuốn sách: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm của Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, ông đã viết về ông Ngô Đình Cẩn nơi trang số 118 - 119, như sau:

    « Ông Khánh lãnh đạo Quốc Gia, mà hành động như một thằng hề, trái hẳn với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông Khánh rất sợ báo chí, sinh viên, nhất là các thượng tọa, như sợ cha đẻ vậy. Tôi bất bình nhất là ngày ông "chỉnh lý" ông chê « ông Minh đã giết anh em ông Diệm một cách dã man » rồi ông kể lể làm như thương và phục Tổng Thống Ngô Đình Diệm lắm, để lấy lòng anh em chế độ cũ. Nhưng khi ra Huế gặp thượng tọa Trí Quang là sợ ngay, là ký giấy hành quyết ông Cẩn là người độc nhất còn ở Việt Nam. Vả lại ông Cẩn đang bệnh tật nặng ở khám Chí Hòa, và chả có tội gì rõ ràng để bị xử bắn.

    Sau này anh Tuyên là em của Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, là cháu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm kể với tôi rằng: ông Khánh cho người liên lạc với gia đình đòi một số tiền để giữ mạng sống cho ông Cẩn, số tiền là tám mươi triệu. Nếu đủ sức thì cả dòng họ sẽ đóng góp để lo, nhưng nhiều quá thì chạy đâu ra. (Anh Tuyên hiện đang ở Hoa Kỳ). Tôi thấy "gian hùng như Tào Tháo" mà mọi người vẫn gán cho ông là quá đúng".

    Thực ra, ngoài chuyện Nguyễn Khánh đã đòi tiền chuộc mạng, ông Ngô Đình Cẩn cũng đã chết vì đặt lòng tin vào những tên thầy chùa của Phật giáo Ấn Quang như: Thích Trí Quang - Thích Đôn Hậu v …v… Nên biết, vào thời đó, ông Ngô Đình Cẩn đã nuôi các sư sãi Ấn Quang trong nhiều chùa tại miền Trung, đặc biệt là các chùa Thiên Mụ, Từ Đàm, Từ Hiếu v …v… tại Huế, chính ông Ngô Đình Cẩn đã từng lo hết sức chu đáo cho mấy chùa này từ gạo, tương v…v…và cung cấp cả tiền bạc, phương tiện di chuyển, Ông đã xem Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu là thượng khách. Nhưng rồi ông Ngô Đình Cẩn đã chết về tay của chính Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu. Và tướng Khánh đã giết ông Ngô Đình Cẩn, còn vì lời giao ước với Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu.

    Nhưng Nguyễn Khánh còn một hành vi tàn ác nữa, là đã xử bắn ông Phan Quang Đông, là người chịu trách nhiệm lo cho những vị mà do ông Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn đã đưa họ trở về miền Bắc ngay khi họ vừa vào Nam, hoặc sau đó. Nên nhớ, khi giết chết ông Phan Quang Đông là Nguyễn Khánh đã chặt tay, chặt chân, cắt đứt con đường về của các chiến sĩ đã được đưa ra miền Bắc để sống trong lòng địch. Và bởi không có đường về, nên họ đã phải tự tìm cách để sống còn trong mỏi mòn chờ đợi, cho đến ngày 30-4-1975, thì họ đã hoàn toàn tuyệt vọng. Vì thế, nên có người đã phải chết trong uất hận khôn nguôi!!!

    Song rồi cuối cùng Nguyễn Khánh cũng đã biết, đã thấy rõ là Phật giáo Ấn Quang không bao giờ giữ lời giao ước với bất cứ một ai, kể cả tôn giáo, đảng phái hay người của một cường quốc.

    Bởi, Ấn Quang chỉ lợi dụng tất cả những "chính khách" hoặc cá nhân cũng như đoàn thể, kể cả ngoại nhân. Đồng thời cũng lợi dụng lòng yêu nước của người dân Việt, để tóm thâu "Sơn Hà Xã Tắc" vào trong lòng bàn tay độc nhất, và chỉ riêng là của Ấn Quang mà thôi.

    Với cuồng vọng ấy, Ấn Quang đã, đang và sẽ không từ bất cứ một thủ đoạn nào, kể cả giết hại người thân yêu, cốt nhục. Vì Phật giáo Ấn Quang đã học tập, đã thấm nhuần và đã quyết tâm lấy "Cứu cánh để biện minh cho phương tiện".

    Nhưng, như lời Đức Phật đã dạy về luật "Nhân-Quả". Vì thế, tất cả những kẻ đã gieo những "Nhân" nào, thì tất nhiên phải có một ngày sẽ phải gặt lấy cái kết "Quả" ấy.

    Riêng về việc "Vinh Danh2" Tổ chức Lễ giỗ, tạc tượng, lập đền thờ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, thì bất cứ ai muốn núp dưới ánh hào quang của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, thì muốn nói, muốn viết và muốn làm gì cũng được, vì chẳng có ai cấm. Nhưng, tất cả phải nên nhớ cho rằng: Những lời nói, những bài viết mà những kẻ đó đã viết ra bằng giấy trắng mực đen, tất cả vẫn còn lưu giữ trên sách, báo, trên mạng lưới toàn cầu, chúng sẽ không bao giờ bôi xóa cho hết được. Đừng có mơ rằng sẽ lừa bịp được thiên hạ.

    Và nhân đây, tôi muốn nói với những kẻ ấy rằng: Tại sao ông Ngô Đình Quỳnh, thứ nam của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, năm nay đã gần sáu mươi tuổi, mà vẫn sống độc thân, không lấy vợ, ông có bằng Tiến Sĩ Kinh Tế, đang làm đại diện cho nhiều công ty của nhiều nước, trong đó có Hoa Kỳ, ông không thiếu tiền bạc, song ông không bỏ tiền ra để xây mộ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn, mà tất cả tiền lương của ông, ông chỉ dành chút đỉnh để sống, còn tất cả Ông đã đem dâng hiến cho các cơ sở từ thiện???

    Nên biết, ba ngôi mộ của ba vị tại Lái thiêu, Việt Nam, chỉ khắc mỗi ngôi mộ với chữ "Huynh" và "Đệ", là không phải do các con, các cháu của ba vị, hay của các vị trong dòng họ Ngô Đình đã bỏ công, bỏ của ra để xây ba ngôi mộ đó.

    Ôi! ba ngôi mộ không khắc ghi tên tuổi, chỉ vỏn vẹn có chữ "Huynh" và "Đệ", song hiện nay, tại Việt Nam, cứ mỗi ngày sự linh thiêng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm càng vang vọng, và mỗi ngày càng tăng thêm con số của những người dân từ khắp nơi đã đổ về Lái Thiêu, để tìm đến ba ngôi mộ, để cầu xin những điều mà chính con người và khoa học không thể làm nổi, nhưng chỉ cần đến thắp một nén hương cắm lên ba ngôi mộ, với những lời cầu xin chân thành, thì Anh Hồn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm sẽ cho họ được toại nguyện.

    Mọi người cũng cần phải biết rằng: Việc tạc tượng hay lập đền thờ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm không phải là chuyện của một tổ chức hay của một nhóm người. Mà việc đó phải do một chính phủ, một chính phủ phải do mọi người dân bầu ra, rồi chính phủ ấy bắt buộc phải trả lại công đạo cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng nhị vị Bào đệ là ông cố vấn Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn, và sẽ được quyết định bởi Quốc Hội của một Thể Chế.

    Và sau khi đã được sự đồng thuận, Quốc Hội sẽ công bố một định luật, thì ngay trên đất nước Việt Nam sẽ có những Đại Lộ Ngô Đình Diệm – Đại Lộ Ngô Đình Nhu – Đại lộ Ngô Đình Cẩn, đồng thời sẽ có những Đền Thờ Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng nhị vị Bào đệ, và một trang sử mới cũng sẽ được khắc ghi thêm tên tuổi của ba vị anh hùng đã cương quyết để bảo vệ Tổng Thống, mà chính bọn Hội Đồng Gian Nhân Phản Loạn đã biết chắc chắn, là phải bước qua xác chết của cả ba người thì mới giết được vị Tổng Thống. Chính vì thế, mà bọn chúng đã giết cả ba vị, đó là: Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Đại Tá Lê Quang Tung cùng người em ruột là Thiếu Tá Lê Quang Triệu. Và rồi những Bảo Tàng Thư và những con đường sẽ được mang tên của nhiều vị Anh Hùng của Dân Tộc đã Vị Quốc Vong Thân.

    Những kẻ bán buôn chính trị hãy nhớ cho thật kỹ những điều đó.






    Tạm thay lời kết:

    Như Nhân loại đã từng chứng kiến, kể từ thời Sáng Thế, từ Đông sang Tây. Lịch sử đã chứng minh, hể cái gì nó đã trở thành chân lý, thì con người có dùng mọi thủ đoạn gian manh đến đâu, cũng không bao giờ thay đổi chân lý đó cho được.

    Bởi vậy, mà cho dù bao nhiêu năm qua, đã có rất nhiều kẻ manh tâm đã từng dùng những ngụy bút, ngụy sách, ngụy báo, để cố tình bịa đặt, xuyên tạc, để bôi nhọ, mục đích là để hạ thấp uy danh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để mong làm tróc thủy* phần nào của một tấm gương, nhưng dù cho đến ngày tận thế, thì bọn chúng cũng đừng hòng được toại ý, vì tấm gương ấy quá toàn bích.

    Chính vì thế, mà tôi đoan chắc rằng: Không phải riêng đối với những tên gian manh kia, mà cả trên quả địa cầu này, cũng không một ai có thể làm nổi chuyện đó, bởi lịch sử vốn công bằng, bởi Tổng Thống Ngô Đình Diệm Người đã có Công Nghiệp Vĩ Đại là đã khai sinh ra nước Việt Nam Cộng Hòa. Đã một thời xây dựng được một Miền Nam Tự Do Thanh Bình thực sự. Và với Tài-Đức, Liêm-Khiết, Nhân-Từ: Người đã tận hiến cả đời mình cho Quốc Gia và Dân Tộc, với chân lý đó, thì:

    Đời Đời hình ảnh của Chí Sĩ Ngô Đình Diệm: Bậc Anh Hùng đã Vị quốc Vong Thân vẫn mãi mãi uy-nghi, ngời sáng và Bất-Tử trong tâm trí của tất cả những người Việt Nam yêu nước chân chính.





    Viết nhân Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm: 1/11/2009
    Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

    ------------------------------------------

              













    Người thứ 2 : Nguyễn Khánh



    Đỗ Mậu



              
    Đỗ Mậu là phản tướng

    Ông ta tự cho mình là: "Sinh vi tướng, Tử vi thần" (sống thì làm tướng, còn khi chết thì làm thần)
    Nhưng theo ký giả Lê Triết (báo Văn Nghệ Tiền Phong) thì Đỗ Mậu là "Sinh vi tướng cướp, tử vi thần trùng"
    Vì bất mãn, không được TT Diệm cho lên tướng, mà Đại tá Đỗ Mậu tham gia đảo chánh !
    rồi lại viết lách biện minh cho hàng động gian trá của mình

    Đỗ Mậu là một kẻ luồn cúi, phản phúc, hèn hạ, và vô cùng háo danh. Cuối đời, Đỗ Mậu đã về Việt Nam và được Việt Cộng cho lên đài phát thanh của nhà nước vgcs để ca tụng công đức của tên giặc già Hồ Chí Minh đối với dân tộc, nhắc lại công lao của CSVN đối với đất nước, và kêu gọi hoà hợp hoà giải dân tộc.

    Cựu thiếu tướng Đỗ Mậu, sinh quán Quảng Bình, đi lính Pháp từ đầu thập niên 40, và đã đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền miền Nam.

    Thời chiến tranh Việt Pháp, ông Đỗ Mậu từng là tham mưu trưởng Liên Đoàn Chiến Thuật Lưu Động ở miền Bắc, Tư Lệnh Phó Phân Khu Duyên Hải, có lúc là Tùy Viên Quân Sự Việt Nam tại Pháp.

    Thời Việt Nam Cộng Hòa, ông Đỗ Mậu cũng là nhân vật then chốt trong hai cuộc đảo chính. Năm 1963, thời Đệ Nhất Cộng Hòa, với cấp bậc Đại Tá, ông Đỗ Mậu được chế độ của Tổng Thống Diệm cử làm giám đốc Nha An Ninh Quân đội. Chính với quyền hành của ngành an ninh, ông đã liên lạc thuyết phục vị tướng thân cận nhất của anh em Tổng Thống Diệm là trung tướng Tôn Thất Đính, tư lệnh quân đoàn Ba kiêm tổng trấn đô thành Saigon, tham gia đảo chính ngày 1 tháng 11/1963 do tướng Dương Văn Minh cầm đầu, lật đổ nhà Ngô.

    Ngay sau cuộc đảo chánh thành công, ông Đỗ Mậu được thăng thiếu tướng ngày 2 tháng 11/1963 và được bầu vào Hội đồng Quân nhân Cách mạng với chức vụ ủy viên. Đầu tháng 1/1964, được cử làm tổng trưởng bộ Thông tin của nội các cải tổ do ông Nguyễn Ngọc Thơ làm thủ tướng.

    Ba tháng sau, ngày 30 tháng 1/1964, tướng Đỗ Mậu xuất hiện cạnh trung tướng Nguyễn Khánh, loan báo cuộc “chỉnh lý”, bắt giam các tướng lãnh Đôn-Kim-Xuân-Đính. Sau đó, ông Đỗ Mậu tham gia Hội đồng Quân đội Cách Mạng và là một trong 3 phó chủ tịch, từng giữ chức vụ Phó thủ tướng đặc trách Văn hóa-Xã hội từ tháng 2 đến tháng 8/1964, trong nội các do trung tướng Nguyễn Khánh làm thủ tướng. Tháng 12/1964, ông Đỗ Mậu bị tướng Khánh đưa đi biệt giam tại Pleiku hơn một tháng và từ năm 1965, ông bị buộc giải ngũ.

    Định cư tại Hoa Kỳ từ 1975, ông Đỗ Mậu là tác giả tập hồi ký bán chạy nhất và cũng gây nhiều tranh cãi nhất, do việc ông kết án chế độ Ngô Đình Diệm.

    Tác phẩm:
    Việt nam máu lửa quê hương tôi
    Bản in ở Việt Nam có tựa đề "Tâm sự tướng lưu vong"

              

    Vũ Văn Mẫu (trái) viếng thăm Hoành Linh Đỗ Mậu (phải) tại Văn Phòng Phó Thủ Tướng

              





    Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

    https://hon-viet.co.uk/HanGiangTranLeTu ... oSupDo.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Em vẫn mơ một ngày về

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          







          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Tưởng Niệm 30/4 bởi Cộng Đồng Người Việt Tự Do New South Wales - Úc Châu

Bài viết bởi Bạch Vân »

          






  • Buổi Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4 Trực Tuyến tại Trung Tâm Sinh Hoạt CDDNVTD/NSW năm 2020.




          
ty
Bài viết: 1107
Ngày tham gia: Thứ bảy 08/12/18 06:03

Re: - 30/04/2020 - Tưởng niệm 45 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi ty »

:flwrhrts: anh Hoàng Vân n Bạch Vân :flower:

ty đọc 2 bài viết của tác giả Nguyễn Tiến Hưng - “Hoá ra có hai tháng Tư đen” & “30/4 Việt Nam hoá chiến tranh và bài học chơi với người Mỹ” thì buồn quá. chính người Mỹ đã góp phần bức tử đệ nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng Hoà.

có lẽ vì vậy mà ngày nay cộng sản Việt Nam chỉ dám “đu dây” giữa Mỹ và trung cộng để củng cố thế lực của họ, chứ không dám liên minh với Mỹ vì sợ bị bỏ rơi (dĩ nhiên là còn các lý do khác nữa cs không muốn làm như từ bỏ chế độ độc tài ... khi theo Mỹ).

với những tổ chức đấu tranh để lật đổ đảng csVN thì phải tự lực cánh sinh - người trong nước và Hải ngoại liên kết với nhau, không thể dựa vào chính phủ ngoại bang.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: - 30/04/2020 - Tưởng niệm 45 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           
    ty đã viết: Chủ nhật 03/05/20 10:02 ...
    ty đọc 2 bài viết của tác giả Nguyễn Tiến Hưng - “Hoá ra có hai tháng Tư đen” & “30/4 Việt Nam hoá chiến tranh và bài học chơi với người Mỹ” thì buồn quá. chính người Mỹ đã góp phần bức tử đệ nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng Hoà.

    có lẽ vì vậy mà ngày nay cộng sản Việt Nam chỉ dám “đu dây” giữa Mỹ và trung cộng để củng cố thế lực của họ, chứ không dám liên minh với Mỹ vì sợ bị bỏ rơi (dĩ nhiên là còn các lý do khác nữa cs không muốn làm như từ bỏ chế độ độc tài ... khi theo Mỹ).

    với những tổ chức đấu tranh để lật đổ đảng csVN thì phải tự lực cánh sinh - người trong nước và Hải ngoại liên kết với nhau, không thể dựa vào chính phủ ngoại bang.


    :flwrhrts: ..

    Theo anh ...

    người Mỹ đã sai khi không tin vào hai ông Diệm, Nhu để tạo lên và giữ vững một miền Nam Tự Do nên đã ủng hộ phản tướng thay đổi chế độ bằng bạo lực (Việc này mình đã thấy nhiều trên thế giới khi quân đội đảo chính một chính quyền dân cử hợp hiến)

    người Mỹ đã sai khi trực tiếp đổ quân tham chiến thay vì giúp đở miền Nam bằng mọi cách khác để đánh lại cuộc xâm lăng của miền Bắc. Người Mỹ đã sai khi "cam kết" yểm trợ miền Nam nhưng sự yểm trợ đó tùy thuộc vào nội bộ chính trị của Mỹ, trước nóng sau lạnh .. Và nhiều cái sai mà mình vẫn thấy tái diễn ở Aghanistan, ở Iraq ..




    Nhìn lại thì miền Nam Tự Do nếu không mất năm 75 thì cũng sẽ mất sau đó, vì làm sao mà đơn phương chống đỡ nổi với súng đạn của Nga Tàu và sự độc ác vô nhân tính của đầy tớ Hà Nội.

    Nhìn phiến diện thì sau này người ta nói Hà Nội đu dây giữa Mỹ và Tàu, nhưng bao nhiêu sự việc cụ thể cho thấy Hà nội đã bị Tàu mua đứt từ khuya. Nói một cách khinh miệt thì Hà Nội như một cô điếm rẻ tiền của Tàu, ngủ với Tàu đấy nhưng khi cần thiết thì ra vẻ độc thân độc lập để lừa tiền Mỹ hoặc làm nhị trùng, có mà dám phản anh Tàu vì thừa biết sự độc ác của anh ta (học độc ác từ anh ta mà ..)




    Lật đổ csVN thì chỉ có 2 cách.
    1_ là Mỹ muốn thì Mỹ lật được ngon lành, nhưng .... Mỹ không muốn .. :lol2: ..
    2_ 2/3 dân trong nước ngày đêm đồng loạt ra đường lật, chắc chắn lật được ngay lập tức .. :yes2:

    Người Việt Hải ngoại không lật được,
    chỉ có toàn lực ủng hộ cuộc Tái Kiến Thiết khi đất nước tư do.



    :cafe: :flwrhrts:
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”