- 30/04/2020 - Tưởng niệm 45 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

40 năm trước- nhìn từ đài VOA (Lê Văn)

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          



40 năm trước- nhìn từ đài VOA
________________________
(Lê Văn)














          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

CUỐI ĐƯỜNG...!!!

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    CUỐI ĐƯỜNG...!!!
    __________________________________
    VƯƠNG MỘNG LONG + TRÂU ĐIÊN... _ 25-09-2014







    Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của Quốc Lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, Quốc Lộ 1 sẽ chấm dứt. Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-Bình thì Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên Đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư Đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu,

    -"Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!"

    Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để "phòng thủ thủ đô". Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên Quốc Lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ. Vào giờ này, quân số Tiểu Đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân Khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu Tá Vương Mộng Long), Thiếu Úy Thủy, Trung Úy Trâm, Chuẩn Úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại Úy Ngũ Văn Hoàn, Tiểu Đoàn Phó chết đêm 28 tháng Tư. Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Phước và Trung Úy Đăng mất tích. Thiếu Úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu Úy Học, Thiếu Úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn Úy Gấm, Chuẩn Úy Trung, Chuẩn Úy Lê Văn Phước (Ban 3) cùng Trung Úy Trần Văn Phước thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua.

    Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi. Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên-Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là Quốc Lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.

    Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương Văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương Văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là "những người anh em" Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi,
    -"Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?"

    -"Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?"

    Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt,

    -"Thiếu Tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu Tá ơi! Hu...hu ...hu..."

    Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...

    Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này. Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương Văn Minh lên chức tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng Thống Việt- Nam Cộng -Hòa được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quyệt nước mắt.

    Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền-Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,

    -"Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!"

    - "Hoan hô!...Hoan hô!"

    Thùng!... Thùng!... Hoan hô!...Hoan hô!... Thùng!... Thùng!... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió; lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.

    -"Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?"

    Chửi thề xong, ông Hạ Sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn.

    -"Thôi! Ta đi!" Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.

    -"Mình đi đâu bây giờ, Thiếu Tá?" Thiếu Úy Thủy băn khoăn hỏi.

    -"Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ."

    Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.

    -"Thùng!... Thùng!...Hoan hô!...Hoan hô!" , chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.

    -"Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!" Hạ Sĩ Phi lại đổ quạu.

    -"Cành! Cành! Cành!... Cành!... Cành! Cành!" Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết.

    Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi,

    -"Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!"

    Tôi nghe tiếng Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng LĐ24/BĐQ,

    -"Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!"

    giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.

    Nghe ba tiếng "Đường-Sơn Quán", tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ Chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sé San là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương Bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông. Họ quen gọi tôi là "Anh Hai". Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng "Anh Hai" của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, "Anh Hai" lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn II giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim "Đường-Sơn Đại-Huynh" được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh "Đường-Sơn Đại-Huynh" chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý Tiểu Long, tài tử chính của phim này.

    Sau khi "Anh Hai" vào Plei-Me nhận Tiểu Đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái "Đường-Sơn" khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía. Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu? Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,

    -"Có phải Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?"

    -"Phải rồi! 82 đây!"

    -"Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!"

    -"Có ai ở đó không?"

    -"Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng"

    Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung Úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,

    -"Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!"

    Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho "hòa bình" có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ Sĩ Phi, một của Trung Sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.

    Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la,

    -"Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!"

    Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. "Hòa bình" rồi, tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?

    -"Choác! Choác! ....Choác!"

    Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun "phì...phì..." che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,

    -"Đưa tao!"

    Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. "Oành!" một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu; máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.

    Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu. Hạ Sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, "Cành! Cành!..." -"Choác! Choác!..." - "Xoẹt! Xoẹt!..." -"Oành! Oành!..." Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.

    -"Cành! Cành! Cành!..." Trên xe, Hạ Sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,

    -"Đù má tụi mi! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!"

    Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của Quốc Lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung Sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài vòng chiến.

    Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, Vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh Nhứt Liêu Chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ).

    Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng Trung Úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,

    -"Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !"

    -"Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!"

    Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ "đúp" (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ Sĩ Phi vỡ óc. Hạ Sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút chạy vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.

    Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung Sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung Sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào,

    "Chạy đi!...Ông thày...chạy đi!..."

    Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ "toang toác!" trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.

    -"Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi!"đó là tiếng Trung Úy Trâm.

    "Toác!Toác!"- "Chíu! Chíu!" đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất.

    Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban-Mê-Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,

    -"Ôi!...Ôi!... Ông Trời ơi!...Ông Trời ơi!...ơi...ơi..."

    Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của Trung Úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.

    -"Trâm ơi ! Làm ơn! ...Cho anh chết! Trâm ơi!..."

    Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung Úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn đường,

    -"Ông Thiếu Tá bị thương hả?"

    Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng,

    -"Ông Trung Úy lấy xe này đưa Thiếu Tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!"

    -"Cám ơn cụ!"

    Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.

    Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,

    -"Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?"

    Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, "Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!"

    Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn,

    -"Thày ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày ơi! "

    Trung Úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau. "Hu ... hu... hu...."

    Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.

    Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng Quốc Lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ,

    -"Thiếu Tá lên xe, em chở đi trốn."

    Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.

    -"Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai có ông Thiếu Tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác Thiếu Tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa Thiếu Tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt."

    Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,

    -"Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!"

    Cánh cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc Di-Cư,

    -"Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!"

    -"Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!"

    Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,

    -"Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!"

    Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà. Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp,
    -"Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không?" một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.
    -"Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng..."

    Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,

    -"Chứ hai anh kia làm chi rứa? "

    -"Anh Cả và anh Hai của tôi đó!" Hải nhanh miệng.

    -"Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt." Bà cụ phân trần.

    Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,

    -"Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!"

    Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về,

    -"Thiếu Tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi."

    -"Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!" bà cụ ân cần.

    -"Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào." Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la.

    -"Thưa Mẹ! Con đi!"

    -"Thưa Mẹ! Con đi!"

    -"Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!"

    Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo.

    Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi,

    "Thái Sơn ơi! Trâm ơi!"

    Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu Úy Trần Văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố.

    Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tài, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?)

    Còn cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.

    Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. Chiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt-Nam Cộng-Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô...

    Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn Gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng Đoàn Phòng Vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy.

    Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...

    Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung Úy Trần Văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay mất.

    Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu "Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh". Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi,

    "Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!"

    Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn.

    Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu Úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.







    Thời gian trôi...

    Mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca "Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh". Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời,

    -"Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!"

    -"Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!" anh Bắc-Kỳ mừng rỡ.

    Bà chủ nhà nghệch mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.

    Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không?

    Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân Xã, đến Quốc Lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số "82" màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.

    Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,

    -"Các chú tha lỗi cho anh..."

    Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột,

    -"Thày ơi! Chạy đi!... Thày ơi!..."

    Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ...







    VƯƠNG MỘNG LONG + TRÂU ĐIÊN...




              

              


Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Việt cộng - Việt cộng

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           








              
    Việt cộng - Việt cộng
    __________________________________
    Lê Dinh _ 2017






    Hai tiếng này, tôi không hiểu sao, cho đến ngày nay, nó trở thành hai tiếng xấu xa, kinh tởm nhất trong số những danh từ để ám chỉ những hạng người mà ai ai cũng oán ghét, hận thù và muốn xa lánh. Nhưng hai tiếng Việt Cộng nguyên thủy đâu có gì là xấu xa, nó chỉ là một danh từ ghép thường thôi, như rừng núi, biển khơi, đồng áng… nhưng theo thời gian biến đổi, nó trở thành một danh từ ghê tởm và rùng rợn lúc nào chúng ta không hay.

    Nếu ai chỉ một tên nào đó mà nói “Mầy là thằng Việt Cộng” thì có nghĩa người đó là một người xấu xa nhất trong xã hội hiện nay. Chẳng thà chửi cha người ta, người ta không giận bằng chủi “Mầy là thằng Việt Cộng”. Như vậy đủ biết hai chữ Việt Cộng bị người đời thù ghét như thế nào rồi. Mà nghĩ cũng đúng thôi.

    Nhớ lúc tôi còn nhỏ, năm tôi 11 tuổi, còn học ở trường Tiểu học Vĩnh Lợi, cách làng Vĩnh Hựu của tôi chừng ba cây số. Mỗi sáng thứ hai đầu tuần, mẹ tôi phải đưa tôi đến trường và tôi lưu trú tại nhà dì tôi cho đến cuối tuần mới trở về Vĩnh Hựu. Một buổi sáng thứ hai đầu tuần, cũng như mọi khi, mẹ tôi xếp đâu 2 chục trứng gà vào một cái giỏ để khi đưa tôi đến trường xong là mẹ tôi ra chơ bán 2 chục trứng gà đó, lấy tiền mua các thức ăn khô khác. Hai mẹ con đang đi, độ còn nửa đường là tới làng Vĩnh Lợi, thình lình trong một bụi cây rậm rạp, có một người mặc đồ đen, tay cầm khẩu súng ngắn sáng loáng, nhảy ra chận mẹ con tôi lại, quát to: Đứng lại! Anh ta đưa họng súng ngay truớc trán mẹ tôi, rồi đưa sang qua tôi, quơ qua quơ lại trên đầu tôi, hỏi mẹ con tôi có phải đem trứng ra chợ để bán cho Tây không? (Lúc đó, ở tại chợ Vĩnh Lợi, ngay phía bên kia đầu cầu sắt, có một cái đồn của người Pháp đóng tại đó). Mẹ tôi run run nói:

    - Dạ thưa ông, đâu phải, tôi đem trứng này ra chợ bán để lấy tiền mua thức ăn.
    - Chứ không phải mẹ con bà đem lương thực cung cấp cho Tây sao?
    - Dạ thưa ông, đâu có phải như vậy.
    - Thôi lần này tôi tha cho mẹ con bà đó, nhưng giỏ trứng thì bị Ủy ban tịch thu. Nhớ lần sau, còn gặp mẹ con bà đem trứng ra chợ như vậy nữa là tôi sẽ bắn bỏ.
    - Dạ mẹ con tôi đội ơn ông.

    Thật hú hồn hú vía. Lần đầu tiên trong đời, tôi mới nhìn thấy khẩu súng lục. Sao nó uy dũng, hiên ngang, trông rất dễ sợ. Và cũng lần đầu tiên trong đời tôi mới biết đó là những kẻ gọi là Việt Minh, những người mặc đồ đen, đầu quấn khăn rằn, rồi sau này trở thành Việt Cộng và hai chữ Việt Cộng đã ám ảnh tôi từ suốt thời bé thơ cho đến khi khôn lớn.

    Nếu không có lần bị đón đường, bị đe dọa bắn bỏ hôm đó, tôi đã trở thành một tên Việt Minh từ thời trẻ dại này rồi. Tôi còn nhớ rất rõ, ở tuổi 11, 12, tôi say mê những bài hát êm đềm, như:

    “Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
    Bên đèo lắng suối reo, ngàn thông reo
    Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
    Bên đèo đoàn quân réo, đạn bay vèo…”

    Hay hùng dũng, như:

    “Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến…”

    Hoặc:

    “Đoàn giải phóng quân một lòng ra đi
    Nào có sá chi đâu ngày trở về…”

    Và còn nữa:

    “Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng
    Kiếm nguồn tươi sáng…”

    Hay là những bài thơ mà giờ đây hơn 60 năm qua, tôi vẫn còn nguyên trong trí nhớ:

    “Tôi muốn tôi là một cứu thương
    Cạnh theo chiến sĩ đến sa trường
    Nằm lăn trên lá hay rơm ủ
    Băng trắng đầu mình những vết thương”

    Thật là lãng mạn, thật là dễ thương. Làm sao mà tôi không bị quyến rũ bởi nét nhạc, lời thơ như vậy được. Cho nên tôi có ý nghĩ là mình sẽ phải theo mấy anh lớn để được vào bưng, được nghe tiếng suối reo, ngàn thông reo, được nằm lăn trên lá hay rơm ủ, được nữ y tá săn sóc vết thương… Rồi một ngày nọ, tôi được theo đoàn biểu tình đi bộ từ làng Vĩnh Hựu của tôi lên tới tỉnh Gò Công, cách xa làng tôi 14 cây số, để gọi là… ủng hộ Việt Minh. Thức dậy từ 3 giờ khuya, chuẩn bị cơm vắt muối mè, tập hợp lại rồi tháp tùng đoàn người, đi theo nhịp trống quân hành “rập rập thùng, rập rập thùng”… lội bộ suốt 14 cây số, nhờ vừa đi vừa hát “Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng”, cho nên thằng con nít 11 tuổi như tôi, khi đến nơi, nào có thấy chút mệt mỏi gì đâu? Nhưng sau lần gặp gã Việt Minh với khẩu súng giết người đó, tôi đã bừng tỉnh giấc mơ bỏ học, trốn cha mẹ để ra bưng biền.

    Việt Cộng! Chỉ hai tiếng thôi, nhưng sao thiên hạ hoảng hốt, kinh hoàng khi nghe đến nó. Năm 1954, gần một triệu đồng bào miền Bắc, cũng vì hai tiếng này mà phải bỏ hết của cải, quê hương, làng xóm, mồ mả ông bà để chạy vô miền Nam xa lắc xa lơ, trốn khỏi bè lũ Việt Cộng. Năm 1975 cũng vậy, vì hai tiếng này mà hơn hai triệu người dân miền Nam phải liều chết, bằng đủ mọi cách để lánh xa loài quỷ dữ. Ở thôn quê miền Nam, khi nghe mấy tiếng “Việt Cộng về” hay “Mấy ổng về” là bà con gồng gánh, già trẻ, bé lớn chạy trối chết về phía thành phố để trốn khỏi bọn Việt Cộng. Rồi nào Việt Cộng pháo kích vào thành phố, vào quận lỵ giết hại dân lành, giết hại trẻ thơ nơi trường học. Việt Cộng đào lộ, đấp mô, đặt mìn, phá cầu… Còn Việt Cộng ngày nay thì ngoài tham nhũng còn tội bán nước, buôn dân, bàn tay chúng phạm trăm ngàn thứ tội ác. Việt Cộng ngày nay bán rừng, bán biển, bán giang sơn cha ông cho Tàu, Việt Cộng ngày nay độc ác, tàn nhẫn với dân chúng, nhưng co ro, cúm rúm trước thằng Tàu như sợ ông nội, ông cố của chúng, bắt dân bỏ tù nếu dân đứng lên yêu nước chống lại lũ Hán xâm lăng.

    Rồi tôi miên man suy gẫm, không biết những tên như Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng nghĩ sao - nhưng không biết những tên này có biết suy nghĩ không – chúng có thấy rằng sao mình đi đến đâu, thiên hạ bỏ chạy hết vậy? Mình giành được phân nửa xứ sở miền Bắc, đáng lẽ dân chúng phải ở lại với mình để kiến thiết xứ sở chứ, sao gần cả triệu người lại bỏ chạy vào Nam. Rồi mình cướp được luôn phân nửa miền Nam còn lại, thiên hạ lại ùn ùn bỏ chạy nữa, cả hơn hai triệu người xa lánh mình. Tại sao và tại sao? Chúng không tự đặt câu hỏi đó với chính chúng sao? Mình đi đến đâu thì người ta chạy trối chết khỏi nơi đó. Mình là thứ gì vậy? Nhìn hình ảnh cuộc di cư năm 1954, trên những chiếc tàu há mồm, nhìn những gương mặt hớt hơ hớt hãi, mất hồn, chạy đôn chạy đáo để rời khỏi Saigon tháng tư năm 1975, rồi nhìn những cảnh liều chết vượt biển lên đến cao điểm, từ năm 1975- 1980, nếu chúng là người, chúng phải suy nghĩ chứ? Mình cũng là người như họ, đầu, mắt tay chân cũng đầy đủ như họ, tại sao họ sợ mình mà chạy hết như thế? Mình có phải là quỷ dữ hay ác thú gì đâu?

    Nhưng tôi nghĩ, Việt Cộng còn đáng sợ hơn là quỷ dữ nữa. Nhìn lại, từ cái thời bé thơ, thuở mà mẹ con tôi đem hai chục trứng gà ra chợ bán để có tiền mua thức ăn cho gia đình, đến ngày nay, đã hơn 60 năm trôi qua, tôi cảm thấy rùng mình, ghê sợ. Từ những việc bắt người cho mò tôm, thả xác trôi sông thuở đó, cho đến những vụ lường gạt, gian dối cướp giật của Việt Cộng ngày nay, nhìn sự dã man tàn ác của Việt Cộng đối với người dân cùng chung máu mủ … thật không thể nào tưởng tượng nổi. Quỷ chỉ nhát, chỉ hù người ta thôi, chứ không hại người ta, mà nếu quỷ có hại thì chỉ hại một người thôi. Còn Việt Cộng hại cả một dân tộc, tiệu diệt tất cả, đất đai, sông biển, núi rừng không còn, nhưng đó là nói về mặt những gì còn nhìn thấy được. Còn về mặt không nhìn thấy được thì là Việt Cộng tàn phá cả đạo đức, dung dưỡng tội ác, giết chết sự trong trắng trong lòng trẻ thơ, đưa nhiều thế hệ con em chúng ta vào vòng tối ám, dạy chúng dối trá, dạy chúng tội ác…

    Nhưng như vậy cũng chưa đủ. Những nguời đã quá sợ chúng mà bỏ xứ ra đi, để xứ cho chúng ở cũng chưa được yên thân. Chúng còn cho tay chân bộ hạ, núp bóng dưới danh nghĩa này, danh nghĩa nọ, chạy theo ra ngọai quốc để quyết hành hạ những người tỵ nạn Cộng sản này cho đủ… 36 kiểu của chúng. Thật trời không dung, đất không tha. Ngày xưa, chúng đã chiếm được phân nửa nước Việt Nam, tưởng đâu rằng chúng cùng miền Nam thi đua làm cho dân giàu nước mạnh, nhưng như chúng ta đã biết, Việt Cộng cho đến 1975, còn chưa thấy cái thang máy “biết tàng hình” là gì, chưa được nhìn chiếc đồng hồ “12 trụ, 2 cửa sổ, không người lái” là gì, không hiểu cái bồn cầu “để rửa rau” hay để làm gì, trong khi miến Nam lúc đó đã là một trong những quốc gia tân tiến ở Đông Nam Á châu. Rồi lòng tham vô đáy, thực hành chủ nghĩa Cộng sản toàn cầu của chúng, chúng cướp luôn miền Nam. Thiên hạ lại bỏ chạy, chúng rượt theo ra đến ngoại quốc để áp dụng… 36 kiểu lên đầu lên cổ người đã sợ chúng mà bỏ chạy 36 năm trước.

    Nếu tôi có làm anh muôn vàn bực tức, xin anh cứ chửi tôi là thằng mất dạy, thằng láu cá, thằng bỉ ổi, thằng đê tiện, thằng vô học, thằng… thằng gì cũng được, hay bảo tôi là thằng không cha không mẹ, hay là thằng do… con gì sanh ra cũng được nốt, nhưng xin đừng bảo tôi là Việt Cộng. Mầy là thằng “Việt Cộng”, hai tiếng này nặng lắm, anh biết không? Nói như thế là anh chửi tôi đấy, mà chửi tôi thật nặng, đó là tiếng chửi ghê gớm nhất, đáng sợ nhất trong những tiêng chửi đương thời. Vì hai tiếng này đồng nghĩa với ác nhân, hung đảng, ác quỷ, ác tinh, man di, mọi rợ, lưu manh, gian xảo, côn đồ, thảo khấu… , lọai quỷ quái tinh ma, nghĩa là bọn trời đánh thánh đâm, trời tru đất diệt.






    Lê Dinh


    http://hon-viet.co.uk/LeDinh_VietcongVietcong1.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Vụ ám sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm ở Ban Mê Thuột

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           








              
    Vụ ám sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm ở Ban Mê Thuột
    __________________________________
    Hướng Vân Thiên







    Cho tới bây giờ, mà vẫn còn một số "sử gia tỵ nạn" của chúng ta cứ thích nằm mơ giữa ban ngày, khi viết rằng, sở dĩ có cuộc mưu sát cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong buổi lễ khai mạc Hội Chợ Kinh Tế cao Nguyên ở Ban Mê Thuột vào ngày 22 tháng 2 năm 1957, là vì ông Diệm "bách hại đạo Cao Đài khiến giáo chủ Phạm Công Tắc lưu vong, nên tín đồ Hà Minh Trí đứng lên rửa hận".

    Có ba lý do khiến các "sử gia" tin như thế:

    Lý do thứ nhất, sau khi bị tóm cổ vì tội mưu sát Tổng Thống , Hà Minh Trí khai là cư dân sống ở Tây Ninh, một tỉnh lỵ có Thánh Thất của đạo Cao Đài. Điều này, tuy không sai, nhưng cũng chẳng đúng hoàn toàn. Đã đành Hà Minh Trí có sống ở Tây Ninh thật. Nhưng y sinh năm 1935 ở Nghệ An di cư vào miền đông Nam phần.

    Lý do thứ hai khiến một số "sử gia" tin Trí là "chiến sĩ Cao Đài xả thân trả thù cho đạo", là vì sau cuộc mưu sát ông Diệm ở Ban Mê Thuột, đài phát thanh và báo chí trong nước theo lệnh Phủ Tổng Thống chỉ phát đi bản tin vắn tắt: "Ngô Tổng Thống bị mưu sát, nhưng nhờ ơn trên, Tổng Thống đã thoát nạn trở về Thủ đô trong ngày và hung thủ đã bị bắt". Bản tin ngắn gọn đó được những cái miệng ăn mắm ăn muối diễn dịch như là thái độ… há miệng mắc quai (đàn áp Cao Đài) của chính quyền. Thành thử theo họ, ông Diệm đành phải phiên phiến mọi chuyện đi cho xong.

    Đã thế, trong lệnh trả tự do cho Hà Minh trí vào năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu, cũng là một tín đồ Cao Đài, còn tôn vinh Hà Minh Trí là… "một chiến sĩ quốc gia Cao Đài xả thân chống độc tài".

              

    Hà Minh Trí bị bắt ngay sau khi ám sát hụt Tổng Thống Ngô Đình Diệm 1957

              

              

    vợ chồng Hà Minh Trí gặp Võ Nguyên Giáp

              


    Sự thật:

    Nhưng rốt cục lại, mọi người đều bé cái lầm cả ! Bởi ngay từ bản chất, câu chuyện đã bố láo trăm phần trăm rồi !

    Làm cóc gì có cái chuyện "đàn áp tôn giáo" dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Là người lãnh đạo một Quốc Gia phải đối phó với nạn thù trong, giặc ngoài, ông Diệm nếu không giải giới những tập đoàn giáo phái vũ trang, thì làm sao có thể tái lập kỷ cương phép nước ? Và làm sao tập trung được sức mạnh của toàn dân, để đối đầu với bọn cộng sản cùng lũ thực dân cuối mùa đang muốn bắt tay nhau làm gỏi miến Nam ? Chấm dứt tệ trạng… nhiều quốc gia trong một quốc gia, là một điều mà bất cứ người lãnh đạo nào cũng phải làm.

    Hơn thế, trong một bài viết tựa là: "Nhân kỷ niệm 50 năm Lực Lượng CAND" (chữ viết tắt của Công an Nhân dân), một tờ báo trong nước đã trả lại cái… đuôi đỏ đít của tên thích khách Hà Minh Trí cho Hà Minh Trí.

    Bài báo viết: "Từ tháng 8-1956, Hà Minh Trí với cái tên mới là Trần Văn Sơn được Tỉnh ủy (Việt cộng) Tây Ninh giao phụ trách Tổ Công an xung phong vũ trang diệt ác ôn, gồm những thanh niên cùng lứa tuổi mười tám, đôi mươi đầy nhiệt huyết… Ngay khi mới thành lập tổ, anh Năm Xếp, Tỉnh ủy viên, Trưởng ban đặc tình của Tỉnh ủy Tây Ninh, đã trực tiếp trao cho tổ 2 khẩu súng ngắn và giao nhiệm vụ… thi đua diệt ác trừ gian; mà đối tượng chủ yếu lúc bấy giờ là Ngô Đình Diệm…"

    Cuộc mưu sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm của cái "tổ xung phong diệt ác" điếc không sợ súng đó được chuẩn bị kỹ lưỡng, có tay trong làm nội ứng hẳn hoi.

    Bài báo viết: "Thời cơ đầu tiên những tưởng đã đến khi các anh (thuộc tổ xung phong) được cơ sở từ Sài Gòn mật báo cho biết: Trong tháng 10-1956, Ngô Đình Diệm sẽ đích thân lên Tây Ninh ký hòa ước dàn xếp với Cao Đài, nhưng chưa rõ ngày giờ cụ thể. Trần Văn Sơn (tức Hà Minh Trí) cùng anh em trong tổ liền vạch kế hoạch hạ sát ngô Đình Diệm trong dịp này. Nhưng tiếc thay, tổ chỉ biết thời gian Diệm lên Tây Ninh trước có 1 ngày, sớm hơn thời gian dự kiến hành động, nên phương án không kịp triển khai".

    "Vào giữa thàng 11 năm 1956, Trần Văn Sơn tức Hà Minh Trí lại nhận được "tin mật báo từ nội thành cho biết Ngô Đình Diệm sẽ dự lễ Giáng Sinh đêm 24-12-1956, tại Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn". Trí và đồng bọn lập tức giả dạng làm giáo dân, trà trộn vào buổi lễ chuẩn bị ra tay. Nhưng vào phút chót, Tổng Thống Ngô Đình Diệm lại bất ngờ đổi ý đi đến khu trù mật Đức Huệ - Long An để dự lễ với giáo dân di cư, nên mưu đồ của chúng không thành.

    Lần thứ ba, vào cuối tháng 1-1957, tờ báo viết tiếp: "tin từ sở nội thành Sài Gòn báo ra: Trong tháng 2 Ngô Đình Diệm sẽ chủ trì khai mạc Hội chợ Kinh tế cao nguyên. Một kế hoạch hết sức tỉ mỉ và táo bạo trong dịp này được tổ khẩn trương vạch ra".

    "Theo đó, vào sáng ngày 22/2/1957, Trần Văn Sơn tức Hà Minh Trí cải trang làm cán bộ Công Dân Vụ, khoác áo bờ lu dông xám rộng thùng thình, ngực đeo phù hiệu của Ban tổ chức, bên trong vai phải đeo khẩu tiểu liên Mat 49 với băng đạn 22 viên dược gấp lại dọc theo nòng súng".

    Thích khách Hà Minh Trí được bố trí cho đứng ở gần lễ đài tới mức chỉ cách chỗ của Diệm chào cỡ khoảng 5 mét, chếch bên phải phía sau...

    Tờ báo viết tiếp: "Đúng 9 giờ, Diệm vừa đặt chân lên tấm thảm nâu dành riêng cho hắn, cùng lúc quốc thiều… vừa nổi lên, thì cũng là lúc Trần Văn Sơn (tức Hà Minh Trí) bật băng đạn và quay nòng súng chĩa về phía Ngô Đình Diệm và bóp cò".

    Súng nổ, Tổng Thống Ngô Đình Diệm thoát chết nhờ phép lạ! Vì vào năm 1957, lính quốc gia chỉ được trang bị súng Carbine bắn từng phát một. trong khi đó, chỉ cần đưa tay xiết cò khẩu tiểu liên tự động đặt cách mục tiêu 5 mét, Trí sẽ thổi nguyên 22 viên đạn bay khỏi nòng. Nhưng Thiên bất dung gian, sau phát súng đầu gây thương tích cho ông Bộ trưởng Cải cách Điền địa, khẩu Mat của Trí bị kẹt đạn. Thực ra, không phải kẹt đạn vì lý do kỹ thuật. Mà kẹt vì tên thích khách, trong lúc hốt hoảng đã quên không gỡ thẳng băng đạn mà trước đó y đã gấp lại. Bởi thế, 21 viên đạn còn lại trong băng không có đường để tự nạp lên nòng.

    Sau cuộc mưu sát bất thành, bài báo viết tiếp: "Ngô Đình Nhu cùng hai người nữa, trong đó có một người mặc áo sơ mi trắng, tầm thước, vào thẳng nhà giam hỏi cung Trần Văn Sơn:

    - Ai tổ chức cho anh giết Tổng Thống - người mặc áo trắng hỏi.

    Trần Văn Sơn, (tức Hà Minh Trí) thản nhiên nói rành rọt :

    - Tôi là một tín đồ Cao Đài, do nhóm Mai Hữu Xuân, Giám đốc nha An ninh quân đội; cùng với Dương Văn Minh, Tư lệnh Biệt khu thủ Đô kiêm Tổng trấn Sài Gòn; và Nguyễn Hữu Châu, Bộ trưởng Bộ Nội vụ - ở trong nước liên kết với các ông Nguyễn Văn Hinh, Trần Văn Đôn và Nguyễn Văn Tâm ở nước ngoài, sử dụng tín đồ của giáo phái Cao Đài chúng tôi để hạ Diệm, lật đổ chính quyền thân Mỹ, lập lại chính quyền thân Pháp".

    Cuối năm 1962, Trần Văn Sơn tức Hà Minh Trí bị đưa ra tòa quân sự kết án tử hình. Nhưng bản án chẳng qua chỉ là để răn đe và làm rõ phép nước thôi, chứ Trí và cả 12 tên tử tù phiến loạn Bình Xuyên khác đều còn sống nhăn cho tới sau cuộc đảo chánh 1963. Riêng Hà Minh Trí, sau đó, được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký lệnh ân xá vào năm 1965.

    Tưởng cũng cần nhắc thêm là sau khi cộng sản thôn tính miền Nam xong, Trần Văn Sơn, tức Hà Minh Trí mới biết người mặc áo trắng hỏi cung y trong vụ mưu sát ông Diệm, chính là Đại tá Phạm Ngọc Thảo. Khi đó, vì vi xi đã xác nhận Đại tá Phạm Ngọc Thảo là điệp viên do cộng sản gài vào chính quyền miền Nam.




    Từ những câu chuyện trích dẫn ở trên, chúng ta rút ra dược vài điều đáng chú ý sau đây:

    Trước hết, Hà Minh Trí là người của cộng sản cấy vào đạo Cao Đài để khơi rộng thêm hiềm khích giữa chính quyền và tôn giáo. Dĩ nhiên quốc Trưởng Phan Khắc Sửu cũng như các chức sắc Cao Đài cũng không biết điều đó.

    Kế đến, nguồn tin tay trong từng 3 lần mật báo lịch trình di chuyển của TT Ngô Đình Diệm cho Hà Minh Trí biết, ắt phải là những những người thân cận, hoặc hết sức gần gũi với ông Diệm, hoặc được giao phụ trách an ninh cho Tổng thống vi hành. Chính cái lũ bán Chúa này, chứ chẳng ai khác đã cấp phù hiệu của Ban tổ chức buổi lễ cho tên cộng sản Hà Minh Trí, đồng thời sắp xếp để Trí đứng cách lễ đài 5 mét, hầu ra tay cho dễ.

    Ngoài ra, tuy khác nhau về mục dích, nhưng lũ tay sai thực dân mai phục chung quanh Tổng thống miền Nam và bọn cộng sản ngày ấy đều muốn giết TT Diệm cả. Sở dĩ sát thủ Hà Minh Trí không nhắc đến chi tiết "đồng minh giai đoạn" này là vì "cán bộ cách mạng".






    Hướng Vân Thiên
    Mục Bút Chẳng Tà: Văn Nghệ Tiền Phong

    http://hon-viet.co.uk/HuongVanThien_VuA ... nhDiem.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

một ngày ở trại tỵ nạn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           







              
    Một ngày
    ở trại tỵ nạn

    __________________________________
    Trân








    Tôi bồn chồn đứng đợi đến phiên mình lãnh nước. Dãy người đằng trước dài dằng dặc. Chắc lại có người mới nhập trại. Chỉ trong một tháng, mà trại Phanat Nikom có tới ba bốn đợt thuyền nhân chuyển về từ các trại nhỏ gần biên giới. Dạo đó, vào những năm gần cuối thập niên tám mươi, đường dây vượt biên từ Campuchia qua Thái Lan rất thịnh hành. Khởi hành từ Châu Đốc,qua biên giới Campuchia bằng ghe nhỏ. Rồi từ Nam Vang, theo đường xe vận tải cắt ruộng, băng rừng để tới cảng Kompong Som-một bến cảng sầm uất ở phía Tây Nam Phnompenh. Nếu xe chạy thẳng đến tận cảng thì quá lộ liễu dễ bị bắt, nên người vượt biên phải đi bộ chừng một hay hai quãng rừng. Đây là đoạn đường gay go nguy hiểm nhất. Nếu thoát đến cảng an toàn, thì chỉ cần vượt một đoạn biển ngắn là tới Thái Lan, tránh được giông bão và hải tặc. Thật ra, vượt biên nửa bộ, nửa biển có muôn hình vạn trạng, qua những tuyến đường thập phần gian truân khác nhau, nhưng tỷ lệ thành công vào những năm đó tương đối cao. Vì vậy, số lượng thuyền nhân đến trại tỵ nạn Thái Lan ngày càng nhiều. Tuần trước, tôi cũng vừa đón bốn em mình từ trại Songkla tới. Sáu chị em mừng tủi, ôm nhau khóc cười, vì được trùng phùng trên đất Thái sau hai chuyến đi bão táp- điều mà chúng tôi không hề mơ thấy nổi.

    Mãi miên man suy nghĩ, thoắt cái đã đến lượt mình. Tôi vội đẩy hai thùng tôn vào dưới vòi nước, rồi dợm mình quay về lô để gọi chị tôi ra, thì đã thấy chị đứng bên cạnh hồi nào. Nước trắng xóa, chảy tung tóe. Một vài giọt nghịch ngợm đụng phải quai thùng, bắn hàng vạn tia li ti ra ngoài. Dưới ánh nắng buổi sáng, những tia nước nhỏ lóng lánh, rực rỡ như những hạt kim cương. Khi nước đầy, tôi và chị, mỗi người xách một bên thùng, rồi thoăn thoắt bước. Bờ vai của cánh tay nắm quai thùng trĩu thấp hơn bờ vai kia vì nặng. Cánh tay còn lại vẫy lia lịa trong không khí để lấy đà và giữ thăng bằng. Chúng tôi chỉ có đúng vài giây đồng hồ để xách nước về lô, đổ vào cái lu cao nghễu nghện, và quay trở lại cho kịp lúc thùng nước thứ hai vừa đầy. Vội vã hứng thùng rỗng vào, xách thùng đầy về. Cứ nhịp nhàng như thế đến sáu lần. Nhớ lại ngày đầu mới xách nước, chị và tôi cứ lóng nga lóng ngóng, vừa đi được một hai bước là té oành oạch. Vậy mà, thùng nước chỉ bị vơi đi một ít. Ở đây, nước quý vô cùng. Hàng ngày, mỗi người chỉ đuợc lãnh một thùng nước duy nhất để tắm rửa, giặt giũ, nấu ăn…, trừ phi có tiền mua thêm. Do do, lúc té, hai chị em ráng gồng cứng cánh tay nắm quai, để thùng nước đừng bị đổ. Nước hiếm lắm; nên thỉnh thoảng nếu có mưa rào, cả lô nhộn nhịp ùa hết ra sân; người lớn tất tả hứng nước, trẻ con hí hửng tắm táp; vui như ngày hội lớn.

    Lúc xách thùng nước cuối cùng về lô, tôi đã thấy con bé em đang lúi húi nấu cơm. Nghe tiếng động, em ngẩng lên; hai bên tóc mai bết đẫm mồ hôi, vương đầy tro; mặt mũi lấm lem nhọ; nhưng cặp mắt sáng long lanh. Bếp lửa reo tí tách, nồi canh bí đỏ sôi sùng sục. Cơm đã nấu xong; thảo nào em vui thế. Một chút nữa, mấy chị em sẽ cùng nhau đến lớp, không đứa nào phải ở lại lô để nấu cơm cả. Dù chỉ đang lấp ló ở ngưỡng cửa thiên đường, chúng tôi vẫn chuẩn bị ráo riết. Chị họ ở Mỹ viết thơ bảo, các em ráng trau giồi anh ngữ để dễ dàng hội nhập với xã hội mới. Vì vậy, chúng tôi cứ lê lết hết lớp này đến lớp kia suốt ngày. Để kịp giờ học, mỗi ngày em tôi dậy từ sáng sớm, loay hoay nhóm bếp. Củi độn mạt cưa nên rất khó nhen lửa. Đầu tiên, phải khéo léo chồng những khoanh củi lên nhau như dựng nhà lầu. Sau đấy, nhét mồi lửa - những miếng nhựa cắt từ đôi dép Lào bị đứt quai-vào bên trong, rồi hì hục quạt. Khi bếp đỏ lửa, đặt nồi cơm lên, em ào đi lãnh thực phẩm: vài loại rau củ héo hắt, lèo tèo mấy con cá hay dăm ba miếng thịt. Thức ăn có chừng ấy thứ, gia vị thì độc có một hũ muối, nên em chỉ nấu nướng qua loa. Đun nước sôi, nêm chút muối rồi bỏ rau vào; thế là đã có tô canh. Còn thịt kho, em ướp một muỗng muối, rưới vào chén nước lã rồi đun cho chín. Thật ra, chúng tôi cũng còn ít chỉ vàng, và mỗi tháng vẫn nhận thơ bảo đảm; có thể mua thêm thức ăn ngoài chợ. Nhưng vì ngày được định cư còn quá xa vời, tương lai thật mờ mịt nên mấy chị em bảo nhau ráng dè sẻn, tiện tặn.

    Buổi chiều, sinh hoạt trong lô có vẻ nhộn nhịp, rộn ràng hơn. Ngoài sân, vạt nắng chiều le lói vẫn còn đang nhảy nhót. Lâu lâu, một vài cơn gió nhè nhẹ mơn man thổi qua, không đủ cường độ làm dịu mát bầu không khí gay gắt, oi ả. Trước lô, ba đứa bé nhễ nhại mồ hôi đang cãi vã chí choé, giành nhau từng ca nước để tắm. Mẹ chúng, cô Trang, vừa nấu cơm, vừa phân xử- miệng la hét om xòm. Từ góc bếp nhà hai mẹ con chị Hoàng-gia đình giàu nhất lô, mùi thịt bò bí tết thơm phức bay ngào ngạt, làm những cái bụng lép kẹp ở xung quanh kêu rồn rột. Ở trên mảnh sân lót xi-măng xù xì, nơi nối lô này với lô khác, các bà các cô đang tụ tập giặt giũ, nói cười huyên thuyên. Dãy nhà bên kia, nơi mấy anh thanh niên độc thân vui tính ở, đang văng vẳng tiếng đàn guitar trầm bỗng với những bài tình ca ngọt ngào, du dương. Mọi người như tạm quên thân phận tha hương bọt bèo trong chốc lát, để tận hưởng những giây phút thoải mái cuối ngày. Đúng lúc ấy, bài quốc ca Thái Lan hùng dũng phát ra từ các loa phóng thanh. Ngay lập tức, mọi âm thanh náo nhiệt ngưng bặt. Đến giờ chào cờ rồi đấy. Đang lui cui xào rau, cô Trang bật dậy đứng trang nghiêm, không kịp bắt chảo rau xuống đất. Con cô, bé Trung giành mãi mới được ca nước từ tay hai anh, đang hí hửng sắp dội lên đầu, vội dừng lại, chắc lưỡi tiếc rẻ. Bên cạnh Trung, anh nó đang nhăn nhó như khỉ ăn ớt vì nước chảy tong tong trên mặt mà không dám đưa tay vuốt. Đàng kia, anh Du đứng như trời trồng, tay phải khuỳnh khuỳnh ôm chiếc guitar, tay trái buông thõng thượt, khuôn mặt lộ vẻ nhẫn nhục, chịu đựng. Mấy chị em tôi lúc đó đang quây quần bên mâm cơm đạm bạc, vội vàng bỏ đũa, đồng loạt đứng dậy; miệng bé út còn đang nhai cơm nhóp nhép.

    Năm phút đồng hồ trôi qua; nhạc chấm dứt. Mọi người trở lại sinh hoạt bình thường. Tôi chợt thấy no ngang, không muốn ăn tiếp. Hình ảnh người thanh niên bị đánh tàn nhẫn hôm nào lại hiện về. Hôm ấy, đang trên đường từ bưu điện về lô, nghe tiếng nhạc quốc ca trỗi lên, tôi vội bấm bụng đứng lại và gồng mình chịu trận cho xong phút chào cờ. Đang lơ mơ ráng nhớ lại tâm trạng mình ngày xưa đứng chào cờ dưới lá cờ đỏ sao vàng như thế nào, tôi bỗng nghe tiếng đấm đá bình bịch đâu đây. Thì ra, anh thanh niên mới nhập trại, chưa quen thuộc luật lệ, nghe tiếng nhạc chào cờ mà cứ phom phom đi, liền bị trật tự cho ăn đòn chí tử. Từ đó, hàng ngày vào tám giờ sáng và năm giờ chiều giờ chào cờ, tôi lại nhớ tới cảnh tượng ấy. Rồi buồn bã cho đời tỵ nạn. Hình như chúng tôi cũng có một đất nước, một quốc kỳ để sống và để tự hào. Nhưng bị buộc ra đi, sống kiếp lưu đầy, chúng tôi biết làm sao hơn ngoài việc ngậm ngùi chấp nhận. Một năm trời sống vật vờ ở trại, chị em tôi được phái đoàn Mỹ nhận. Ngày rời trại, kỷ niệm mang theo là những thùng nước mát lạnh làm oằn vai tôi và chị, là bếp củi mạt cưa khói cay nồng đôi mắt em tôi, nhưng sâu sắc nhất vẫn là những giây phút chào cờ tủi nhục.






    Trân

    http://etetet.net/bb/?spost=22765
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20030
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Mấy dặm sơn khê

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          







http://etetet.net/bb/?spost=22835
          
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”