- 30/04/2020 - Tưởng niệm 45 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Hát cho ngày Sài Gòn quật khởi

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          






Hát cho ngày Sài Gòn quật khởi
Nguyệt Ánh
Bạch Vân



          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2020 - Tưởng niệm 45 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Sài Gòn những ngày cuối tháng Tư 75



    Thoắt hiện đã 45 năm từ ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Trong khi ngày càng nhiều hồ sơ và sử liệu quý giá được công bố, những bài báo của các ký giả Mỹ và phương Tây được tường trình từ Sài Gòn hay các văn phòng Á Châu trong những ngày cuối cùng tháng 4 năm 1975 đã cung cấp thêm một số thông tin mang giá trị báo chí riêng biệt khi nhìn về lịch sử.

    Từ kho dữ liệu chiến tranh Việt Nam, chúng tôi đã tổng hợp và trích dịch một số bài báo đã được đăng liên tục trên các số báo đặc biệt của Time vào tháng 4 và tháng 5 năm 1975, riêng về những dàn xếp chính trị để dẫn đến cuộc thất thủ miền Nam VN và đưa đến làn sóng di tản 1975 ra sao.


    Một chiếc C-130 tại Tân Sơn Nhứt ngày 22/4/1975. ảnh: Jacques Pavlovsky



    1. Dàn xếp sau những tấm rèm nhung

    Trong bốn tiếng đồng hồ, đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin tại Nam Việt Nam đã nóng nảy, cố điện thoại cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhưng không được. Ngày hôm sau, ông lên chiếc limousine Cadillac đen trực chỉ thẳng đến Dinh Ðộc Lập, chỉ cách tòa đại sứ một khúc đường. Tổng thống bên trong, còn Martin thì mặt mày tỏ vẻ giận dữ.

    Trong vài tháng qua, ông đã là người sống chết binh vực tổng thống Thiệu. Còn bây giờ là một nhiệm vụ cay đắng khác, chuyển một thông điệp đã thỏa thuận với đại diện Bắc Việt tại Paris: Bắt đầu đêm Chủ Nhật, tổng thống Thiệu có đúng 48 tiếng đồng hồ để từ chức, hoặc Sài Gòn trở thành bình địa.

    Nước Mỹ cuối cùng đã phải chối bỏ người mà họ đã đặt cược trong chính sách Việt Nam. Và hệ lụy là, phải từ bỏ cả Nam Việt Nam. Ðối với Bắc Việt, sự ra đi của TT Thiệu là một chiến thắng to lớn của họ. Sau hơn hai thập niên can dự vào Việt Nam, tuần rồi tổng thống Gerald Ford đã tuyên bố rằng cuộc chiến đã chấm dứt.

    Một lực lượng lớn quân Cộng Sản đang bao vây mọi phía Sài Gòn và Sài Gòn chỉ còn cơ hội cuối cùng để tránh cuộc đổ máu. Theo yêu cầu từ Bắc Việt, các lực lượng quân sự Mỹ phải rời khỏi Việt Nam và một tân chính phủ VNCH mà họ chấp nhận, sẽ được thành lập để có thể thương thuyết một cuộc đầu hàng với quân CS. Hoặc giả họ sẽ tổng tấn công. Ước tính có khoảng 130 ngàn quân CS đang bao vây Sài Gòn và vẫn đang tiếp tục tăng viện, so với 60 ngàn binh lính VNCH bên trong. Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng Lâm Thời Miền Nam VN đã đưa tuyên bố rõ ràng như vậy.



    Tổng thống Nguyễn văn Thiệu đọc diễn văn từ chức ngày 21/4/1975



    TT Nguyễn Văn Thiệu đành tuyên bố từ chức vào ngày 21/4/1975. Trong diễn từ 90 phút đầy cay đắng. Ông lên án đích danh Ngoại trưởng Henry Kissinger và chính phủ Hoa Kỳ đã cắt viện trợ, phản bội lại lời hứa của mình, cũng như ám chỉ cả Quốc Hội và dân Mỹ. Nước mắt ràn rụa, ông tuyên bố cùng quốc dân rằng, “Tôi từ chức hôm nay. Xin đồng bào, các binh sĩ và quý vị các tôn giáo hãy tha thứ những lỗi lầm của tôi khi đương nhiệm. Tổ quốc và tôi sẽ luôn biết ơn quý vị.” Ngay sau đó, ông lên máy bay quân sự Mỹ sang Ðài Bắc, để rồi ông có thể sang lưu vong tại Anh hoặc Thụy Sĩ theo chọn lựa.

    Phó TT Trần Văn Hương, 71 tuổi lên nắm quyền tổng thống. Nhưng ngay lập tức, Bắc Việt tuyên bố không chấp nhận. Lại biến chuyển theo một tình thế mới. Liệu TT Hương cứ đương chức, bất chấp lời quân CS, vừa chuẩn bị tử thủ nếu cần, vừa có thể thương thuyết với Hà Nội? Nhưng rồi TT Trần Văn Hương nắm quyền chỉ đúng một tuần lễ. Để cuối cùng, Đại Tướng Dương Văn Minh, một Phật tử trung hòa và người cầm đầu cuộc đảo chính TT Ngô Ðình Diệm năm 1963, được đưa lên thay thế ông Trần Văn Hương vào ngày 28/4, thành lập một chính phủ trung lập với hy vọng có thể thương thảo với phía cộng quân để tìm một giải pháp tốt hơn.



    Ông Trần văn Hương



    Nhưng cũng không xoay chuyển được tình thế. Quân cộng sản tấn công vào Sài Gòn rạng sáng 30/4. Và đến gần trưa xe tăng húc ngã cổng dinh Độc Lập. TT Dương Văn Minh được áp giải đến đài phát thanh Sài Gòn, nơi ông phát lịnh đầu hàng vô điều kiện và kêu gọi quân đội VNCH buông súng để tránh đổ máu. Nam Việt Nam đã bị bức tử và cuộc chiến Việt Nam chính thức kết thúc ngày 30/4/1975.

    2 . Những cuộc di tản tháng Tư
    Lực lượng cảnh sát đặc biệt và an ninh phi trường chặn xét và vẫy tay cho qua những chiếc xe bus đen chở đầy người Mỹ và các thân nhân Việt Nam của họ, liên tục chạy vào phi trường Tân Sơn Nhất. Một cuộc di tản cho người Mỹ và các nhân viên VN đã được chính phủ Hoa Kỳ chuẩn bị. Cứ nửa tiếng đồng hồ, chiếc phi cơ C-141 Star-lifters và C-130 Hercules lại chở khoảng 100 người cất cánh, đưa sang căn cứ quân sự Clark của Mỹ tại Philippines hoặc chuyển tiếp sang đảo Guam.



    Người nước ngoài được di tản từ phi cảng Tân Sơn Nhứt



    Nhiều người Mỹ, dân sự hay quân sự mang theo hàng chục người thân, nội ngoại, dâu rể người Việt Nam. Có người dắt đến 39 “người thân”. Những người VN có liên hệ với các người Mỹ này có thể là vợ, hôn thê hay nhân viên của họ. Và theo sau là gia đình, bà con của những người này. Thêm vào đó là những người là các nhân viên chính phủ VNCH nằm trong danh sách gặp nguy hiểm một khi quân CS chiếm Sài Gòn.

    Hàng ngàn người chen chúc trong rạp hát phi trường đã tháo bỏ ghế để điền đơn, khai các mối quan hệ để được cho di tản. Ðàn bà, con nít, hành lý ngổn ngang. Phía ngoài sân banh, hàng người dài đã được chấp nhận cho di tản đứng sắp hàng dài, đợi đến phiên mình lên máy bay; có người đợi cả 24 tiếng đồng hồ.

    Cuộc di tản được thực hiện khẩn cấp sau khi TT Thiệu từ chức và chính phủ Mỹ e rằng sẽ có một cuộc tấn công dữ dội xảy ra nếu các cuộc thương thuyết không thành. Phái bộ quân sự Hoa Kỳ DAO lẽ ra đã muốn thúc đẩy một kế hoạch di tản từ trước nhưng đại sứ Martin và thượng cấp của ông là Ngoại Trưởng Kissinger lại phản bác, vì sợ rằng làn sóng sợ hãi sẽ làm hoảng loạn cả Sài Gòn.

    Ðầu tháng 4, Sài Gòn còn lại khoảng hơn 7,500 người Mỹ. Nhưng kế hoạch di tản còn áp dụng cho cả các công dân nước ngoài, cùng khoảng 140 ngàn người Việt trong danh sách của chính phủ Mỹ cho rằng họ bị de doạ tính mạng và được chấp nhận cho di tản theo kế hoạch. Quốc hội Hoa Kỳ đã chuẩn chi 327 triệu đô la cho các kế hoạch di tản và trợ giúp các người tị nạn này.

    Bên ngoài là con số đông vô kể những người muốn tìm một cơ hội để được di tản. Một kế hoạch dự phòng “Giai đoạn Hai”, di tản bằng 60 chiếc trực thăng CH-46 và CH-53 từ Hạm Đội 7 còn được Ngũ Giác Ðài đặt ra một khi Tân Sơn Nhất bị khống chế dưới tầm pháo 130 ly hay hỏa tiễn SA-2 và SA-7 của cộng quân.

    Tất cả người Mỹ còn kẹt lại Sài Gòn đã được mật báo rằng, ám hiệu của chiến dịch “Phase Two” sẽ là bản tin dự báo thời tiết trên đài Mỹ cho hay Sài Gòn nóng “trên 105 độ” trên đài Mỹ, theo sau bản nhạc White Christmas được phát mỗi 15 phút; những người Mỹ còn kẹt lại phải đổ về 13 địa điểm “LZs” – landing zone, ám hiệu các địa điểm bốc người bằng trực thăng trên nóc các tòa cao ốc của người Mỹ tại trung tâm Sài Gòn. Chiến đấu cơ Mỹ sẽ bay sang từ Thái Lan để bắn hạ các hỏa tiễn SA-2 hay SA-7 của địch quân và hộ tống các trực thăng này ra biển.

    Phía bên ngoài, các nhân viên làm việc với nước ngoài cùng các viên chức chính phủ cũng tìm cách di tản. Thành phần trí thức và giới giàu có, các thương gia tìm mọi cách liên lạc các đầu mối quan hệ nước ngoài để được ra đi. Phía bên ngoài đại sứ quán Hoa Kỳ lúc nào cũng đông đúc người ăn bận lịch sự, xin các quân cảnh Mỹ được gặp người này người kia.
    Bưu điện Sài Gòn không dứt những hàng người liên tục điện tín cầu cứu khắp thế giới. Số điện tín tăng gấp bốn lần ngày thường, lên đến 20 ngàn bức điện được gởi ra từ lúc bưu điện mở cửa đến tận 8 giờ tối – giờ giới nghiêm. Các hãng Mỹ, ngân hàng hay các hãng thông tấn nước ngoài cũng đầy người chầu chực.

    Không chỉ người Việt, giới ngoại giao nước ngoài cũng ra Tân Sơn Nhất di tản khỏi Sài Gòn. Ðại sứ Anh, Ðức, Canada, Thái Lan, Nhật Bản… đều đồng loạt ra đi, chỉ còn nhân viên đại sứ quán Pháp và Bỉ là các quốc gia có giao hảo ngoại giao với Hà Nội còn ở lại. Không còn mấy chuyến bay ra vào Sài gòn vì các hãng hàng không thế giới đã hủy toàn bộ các chuyến bay thường lệ đến VN của mình.

    Tại đại sứ quán Mỹ, một người đàn ông đang được phỏng vấn, là giáo sư đại học và không ai khác hơn là cháu ruột của Phạm văn Ðồng, Thủ Tướng Bắc Việt. Nhân viên sứ quán hỏi “Bộ ông không tin vào chú mình hay sao?”. Ông ta chỉ trả lời ngắn gọn “Không”. Những người may mắn được chấp thuận di tản chính thức là những người nằm trong danh sách 140 ngàn người có thể bị nguy hiểm của Bộ ngoại giao Mỹ, nhưng không chắc họ sẽ được ra đi hết bằng phi cơ. Một kế hoạch di tản mạo hiểm khác được các viên chức Mỹ chịu trách nhiệm vạch ra là đi cả bằng đường thủy nếu không còn đủ thời gian, và có thể ngang qua họng súng của địch quân.

    Dân chúng các thành phố sắp hay đã bị thất thủ đổ dồn về Sài Gòn. Sự hoảng loạn châm ngòi cho sự hoảng loạn. Và người dân Nam Việt Nam có lý do để hoảng loạn. Năm 1954, sau khi hàng triệu người di cư vào Nam, phong trào cải cách ruộng đất và đấu tố tại miền Bắc đã sát hại hàng vạn người, một con số ước tính dè dặt. Tết Mậu Thân 1968, sau khi chiếm đóng Huế, Cộng quân đã có một danh sách dài những người cần bị thủ tiêu; hàng ngàn thường dân vô tội đã bị sát hại tập thể.

    Chọn lựa cuối cùng với nhiều người Việt là di tản. Những ngọn đèn cuối cùng rồi đã tắt.



    “Coup de grace”


    Đinh Yên Thảo dịch
    21 Tháng Tư, 2020

    Nguồn : Time Magazine Archive


    https://baotreonline.com



              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Thương Tiếc Viết Về Tướng Nguyễn Khoa Nam

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Thương Tiếc Viết Về
    Tướng Nguyễn Khoa Nam

    __________________________________
    Nguyễn Khoa Phước _ 1998



              

              

    Cuối tháng 3 năm 1998, anh Thời, cựu SVSQ khóa III Thủ Ðức đến nhà tôi mượn tấm ảnh của Tướng Nguyễn Khoa Nam và tặng tôi một số đặc san NKN do các anh đồng khóa ấn hành từ mấy năm nay. Anh Thời đã yêu cầu tôi viết vài hàng về anh Nam, người anh ruột của tôi. Tôi xúc động vô cùng! Từ mấy năm nay, tôi không muốn viết về anh Nam nữa, tôi muốn để cho tâm tư lắng xuống và nỗi buồn chia cắt ruột thịt sẽ vơi theo thời gian, nhưng với anh Thời và cũng như tất cả các anh cựu khóa III Thủ Ðức, tôi không thể từ chối được vì các anh là bạn của anh tôi. Ðến giờ phút này, các anh đã ngoài 70, còn ngồi lại với nhau để viết cho nhau và cho các chiến hữu QLVNCH những tâm tình, những kinh nghiệm. Ðó là điều đáng quý. Tôi kính trọng các anh là ở chỗ đó. Những gì tôi viết ở đây về Thiếu Tướng Nguyễn Văn Nam là của chính tôi biết, những gì do anh em sĩ quan hay bạn kể lại, nhất là suốt 12 năm trong lao tù Cộng Sản, có lẽ tôi muốn kể ra. Thời gian Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam ở trong quân ngũ, từ 1953 đến 1975, tôi rất ít biết vì anh em tôi phải xa nhau, mỗi người một lãnh vực, mỗi người một hoàn cảnh.



    • 1. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam gốc Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, sinh tại Thành phố Tourane (Ðà Nẵng) ngày 23 tháng 9 năm 1927.

      Gia đình chúng tôi có nhiều anh em nhưng các anh lớn đều mất sớm, đến năm 1975, chúng tôi còn một bà chị là Nguyễn Khoa Diệu Khâm, năm nay 82 tuổi đang ở Sài Gòn, anh Nam và tôi là em út. Anh Nam lớn hơn tôi 8 tuổi, đúng hơn là 7 năm, 7 tháng. Ông thân sinh chúng tôi trước là Thanh Tra Học Chánh tại Ðà Nẵng thường gọi là Cụ Thái Thường Nguyễn Khoa Túc, về hưu năm 1941 và về nghỉ hưu tại Huế. Mẹ chúng tôi là bà Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lúy Vương.


                
    • 2. Anh Nam học Tiểu học tại Trường École des Garcons thành phố Ðà Nẵng, từ năm 1933 đến năm 1939 ra Huế tiếp tục học Lycée Khải Ðịnh và ở nội trú. Anh đậu bằng Thành Chung năm 1943 và tiếp tục học lên đến Nhị Cấp. Ðến năm 1946, chiến tranh bùng nổ, cả gia đình chúng tôi phải tản cư, lúc bấy giờ anh đã 19 tuổi, định theo kháng chiến trong hàng ngũ Thanh Niên Tiền Phong nhưng Mẹ tôi giữ lại. Năm 1947, hồi cư, anh Nam tiếp tục học lớp Ðệ Nhị Toán nhưng sau đó theo học lớp Hành Chánh tại Huế. Năm 1951 anh giữ chức chủ sự Tài Chánh cho đến năm 1953 thì được gọi nhập ngũ Khóa III Thủ Ðức. Lúc đó tôi có giấy gọi vì đã đủ 18 tuổi được miễn vì còn vài tháng nữa tôi phải thi Tú Tài 2.


                
    • 3. Tháng 9 năm 1953, tôi vào Sài Gòn theo học Faculté des Sciences (Université de Saigon) thì gặp anh Nam. Chủ nhật nào hai anh em chúng tôi cũng gặp nhau. Chiều Chủ Nhật, tôi đưa anh lên nhà thương Grall, ở đó có xe của quân trường chở về Thủ Ðức.

      Tháng 10 năm 1953, anh ra trường tình nguyện vào binh chủng Nhảy Dù, đi học chuyên nghiệp rồi theo đơn vị ra Bắc luôn, tôi không hề hay biết gì cả (lúc này cha mẹ tôi mất rồi nên anh làm theo ý thích của mình). Mãi đến khi nhận được thư anh từ một KBC ngoài Bắc, tôi mới biết anh ở trong đơn vị Nhảy Dù đang hành quân ngoài đó. Tôi không có ý kiến gì vì biết tính anh tôi khi quyết định rồi thì không thay đổi được.

      Tháng 8 năm 1954, sau hội nghị Genève, anh theo đơn vị vào Sài Gòn, tôi đến thăm thấy anh mang lon Trung Úy, tôi có hỏi anh năm nay 27 tuổi rồi, hòa bình rồi, có tính chuyện vợ con không. Anh cười và nói:
      • "Mình nhảy dù, lấy ai thì người đó dễ trở thành quả phụ, tội lắm."
      Tôi biết anh không muốn lấy vợ. Về sau này, bà con, cô bác làm mai mối cho anh nhiều nơi xứng đáng, rồi anh cũng lờ đi.

      Năm 1955, anh làm Ðại Ðội Trưởng thuộc TÐ7ND và hành quân đánh Bình Xuyên tại Sài Gòn. Sau đó anh được thăng Ðại Úy và Sư Ðoàn cử anh đi học kỹ thuật ở Pau (Pháp) khoảng 8 tháng. Lúc này anh có mua được một căn phố nhỏ, một phòng ngủ, một phòng khách ở Cư Xá Nhảy Dù trước Trường Ðua Phú Thọ. Anh vẫn ở căn nhà này, không sửa sang cho đến 30-4-1975. Thật ra thì ít khi về đây, phần lớn thời gian ở trong đơn vị, vả lại về nhà một mình cũng buồn lắm, có lẽ ở đơn vị vui hơn. Tháng 5 năm 1975, tôi có xuống thăm căn nhà này, nhưng thấy hai thằng quân quản đứng đó nên tôi bỏ đi luôn.

      Năm 1956, anh Nam ở Pháp về làm Ðại Ðội Trưởng kỹ thuật Dù trong trại Hoàng Hoa Thám. Anh mang lon Ðại Úy từ 1955-1964. Qua đầu năm 1965 anh giữ chức Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ5ND, tôi mới thấy anh lên Thiếu Tá. Từ lúc nắm TÐ5ND, anh đi hành quân khắp bốn Vùng Chiến Thuật. Năm 1966, khoảng tháng 3, TÐ5ND tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Ðoàn 22 BB tổ chức, anh có về thăm gia đình tôi. Anh rất thương các cháu con tôi và có thì giờ rảnh là về nhà tôi tắm rửa, ăn cơm và thăm các cháu. Thời gian này, tôi là Hiệu Trưởng Trường Trung Học Ðệ Nhất Cấp Trần Quốc Tuấn, Quảng Ngãi.

      Ðây là lúc anh em chúng tôi gặp nhau nhiều nhất cả thời gian sau này. Thấy anh có vẻ buồn dù ta đang thắng, tôi hỏi anh, anh nói:
      • "Chiến tranh đem lại chết chóc và đau thương, hàng trăm xác Việt Cộng 15, 16 tuổi phơi thây trên núi Tròn, bên đơn vị mình có mười mấy bạn phải hy sinh, tội quá. Vợ con họ ở nhà chắc đau khổ lắm. Kỳ này về phải lo cho gia đình tử sĩ."
      Lần đó, anh được ân thưởng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.

      Sau đó tháng 5 năm 1966, TÐ5ND đi Huế về vụ Phật Giáo, cũng là điều bất đắc dĩ.

      Năm 1967, thăng cấp Trung Tá và được bổ nhiệm làm Lữ Ðoàn Trưởng LÐ3ND. Lữ Ðoàn được nổi danh với trận đánh đồi Ngok Van ở Kontum. Cuối năm 1967, anh được thăng cấp Ðại Tá với Ðệ Tam Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.

      Năm 1968, LÐ3ND về Sài Gòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Ðô Thành Sài Gòn Chợ Lớn.

      Năm 1969, được cử giữ chức Tư Lệnh SÐ7BB kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Tháng 11 năm 1969, được vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức tại Mặt Trận. Ðến tháng 10 năm 1971 được thăng chức Chuẩn Tướng Thực Thụ.

      Năm 1972, được thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức. Tháng 10 năm 1973, được thăng cấp Thiếu Tướng thực thụ.

      Tháng 11 năm 1974, được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV Vùng IV Chiến Thuật cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

      Chiều ngày 1 tháng 5 năm 1975, Trung Úy Danh, Sĩ Quan Tùy Viên của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lên Sài Gòn tin cho chị tôi là bà Diệu Khâm biết là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tuẫn tiết. Trung Úy Danh nói thêm Thiếu Tướng tự sát vào khoảng nửa đêm 30-4-75 rạng 1-5-75. Ông ngồi trên chiếc ghế bành, mặc quân phục đại lễ với đầy đủ huân chương. Ông dùng tay mặt cầm khẩu Colt 45 bắn vào màng tang bên phải, máu thấm đầy quân phục, đầu ngã sang bên trái. Trên bàn giấy, chiếc cặp của Thiếu Tướng có một số giấy tờ và khoảng 40.000 đồng tiền Việt Nam. Bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng và một số Chiến Hữu lo tẩm liệm và đưa ra an táng tại Nghĩa Trang Quân Ðội Cần Thơ ngày 1 tháng 5 năm 1975.

      Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, chị tôi là bà Diệu Khâm và cô con gái xuống Cần Thơ làm mộ bia Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.

      Tháng 3 năm 1994, người em dâu là bà Nguyễn Khoa Phước từ Sài Còn về Cần Thơ xin hốt cốt, lúc này tôi (Phước) đang ở tù tại trại Nam Hà - Ba Sao). Khi hài cốt được đưa lên, nhà tôi thấy còn nguyên bộ xương, đặc biệt hàm răng còn rất tốt chưa trám và hư hỏng cái nào, một thẻ bài quân nhân có tên Nguyễn Khoa Nam, một quyển kinh Phật đựng trong bao nylon và một khẩu Browning. Bộ xương đã được thiêu liền khi đó. Khi thiêu xong tro hài cốt được gia đình đựng trong bình xứ, đem về Sài Gòn ngay hôm đó.

      Vài ngày sau lễ phục tang được tổ chức tại Chùa Già Lâm với sự tham dự đông đủ thân nhân và bà con nội ngoại. Hiện nay tro hài cốt của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được đặt thờ tại chùa Già Lâm, đường Lê Quang Ðịnh, quận Gò Vấp, Tỉnh Gia Ðịnh.





    Nếu nói về con người của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là một chuyện rất khó vì anh em tôi tuổi cách xa nhau.

    Trong gia đình, Tướng Nguyễn Khoa Nam là một người ít nói, thích sống riêng một mình, nhiều lúc có tâm sự gì cũng không nói với ai nên có vẻ khó hiểu.

    Thời kỳ còn làm công chức cũng như khi nắm quyền chỉ huy trong quân đội, tôi thấy Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam sốt sắng với mọi người nhưng lạnh nhạt với bà con thân thuộc, nhiều bà con đã chê trách khi cần nhờ vả việc gì.

    Tôi nghĩ Thiếu Tướng Nam có tình cảm, nhưng tình cảm san sẻ đồng đều cho mọi người nhất là những người nghèo khổ như gia đình binh sĩ. Bà con đến nhờ vả việc gì, ông không tiếp. Là một quân nhân thuần túy, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không muốn chính trị, tôn giáo xen vào quân đội. Hồi còn làm Tư Lệnh SÐ7BB, có một lần một vị Thượng Tọa đến nhờ một việc mà Thiếu Tướng Nam không tiếp. Các Cha, các Thày cũng vậy thôi.

    Thiếu Tướng Nam là một nghệ sĩ. Hồi nhỏ, lúc còn học ở bậc trung học, đã là một họa sĩ. Năm 1945, tranh vẽ đã được trưng bày ở triển lãm. Trong các năm tản cư 1946-1947, suốt ngày ông say mê bên khung vải, tranh vẽ đủ loại: sơn dầu, sơn bột, chì. Cũng là một người có khiếu về âm nhạc và có trình độ ký âm khá.

    Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ nhỏ luôn luôn thích sống cô đơn, thấm nhuần tư tưởng Khổng giáo và Phật giáo. Ông luôn luôn lẩm bẩm "Sắc Sắc, Không Không", làm việc có trách nhiệm và chịu khó học hỏi.





    Nguyễn Khoa Phước
              

    http://chinhnghia.com/nguyenkhoanam.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

TÔI ĐI VIẾNG TRO CỐT THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Tôi đi viếng tro cốt
    Thiếu tướng
    NGUYỄN KHOA NAM

    __________________________________
    Nguyễn Minh Thanh _ Jun 16th, 2011





              

              



    Vào khoảng giữa năm 1993, như các anh em cựu tù Chính Trị, tôi làm thủ tục xuất cảnh cả gia đình theo diện HO (có người nói diện H, ko có O) để đi Hoa Kỳ. Ở Miền Tây, chúng tôi phải lặn lội lên Sài Gòn làm giấy tờ, khám sức khỏe… Anh bạn tù rất thân tình là Nguyễn Khoa Phiên, được thả về trước, sống ở Sài Gòn. Anh có họ hàng rất gần với Tướng Quân Nguyễn Khoa Nam, anh cho biết là Tro Cốt Tướng Nam được thân nhân gởi thờ ở Quảng Hương Gìa Lam. Chúng tôi bàn nhau, tiện dịp sẽ cùng đi viếng Tro Cốt Tướng Nam và chào Tướng Quân trước khi xuất cảnh để Tị Nạn Chính Trị. Và ngày ấy đã tới.

    1. Chùa Quảng Hương Già Lam:

      Ngôi chùa lớn, tọa lạc trên đường Lê Quang Định số 498/11 Phường 1, Gò Vấp, Sài Gòn.

      Sau thời gian khoảng 20 phút bằng Honda dame, xuất phát từ đường Lê Văn Duyệt, anh Phiên lái, chúng tôi đến trước cỗng chùa. Cỗng cao lớn với biển đại tự chữ quốc ngữ: QUẢNG HƯƠNG GIÀ LAM, phía trong là tự viện khang trang, tôn nghiêm với sân rộng. Giữa sân có pho tượng Quán Thế Âm Bồ Tát.

      Dắt xe chầm chậm đi vào cỗng, gặp vị sư già, hỏi thăm, chúng tôi được biết gian nhà để Tro Cốt nằm hơi chếch phía trước bên phải ngôi chùa. Hỏi rõ nơi đặt hũ Tro Cốt Tướng Nam, chúng tôi thay nhau, người đi viếng, người giữ xe. Tôi được đi trước.

      Nhà Tro Cốt:
      Đó là ngôi nhà khá lớn, cửa vào nằm ở phía đầu hồi (cánh én). Bước vào, đối diện, phía cuối là bệ thờ đức Điạ Tạng Vương Bồ Tát. Hai bên là 2 dãy kệ nhiều tầng chạy dọc để những hũ tro cốt. Có lối đi giữa, từ cửa vào đến bệ thờ Bồ Tát dài khoảng 20m, rộng chừng 2m. Đi thẳng vào, theo lời chỉ của vị sư già, tôi tìm thấy hũ Tro Cốt của Tướng Quân được đặt tầng số 4 (khoảng 9 tầng), bên trái lối vào, nếu lấy pho tượng Địa Tạng làm chuẩn thì hũ Tro Cốt nằm phía tay phải. Ngoài hũ, có in ảnh Tướng Nam, ảnh màu, nhỏ, đầu đội bê rê dù nằm trong vòng khung bầu dục tương tợ như trứng ngổng to, dựng đứng vậy. Dưới di ảnh là biển tên hình chữ nhật nằm theo chiều dài cũng in trên da hũ dài khoảng kém 2 tấc, ngang chừng 1,50 tấc, khắc 5 dòng chữ, thứ tự từ trên xuống là:

      - Ô. NGUYỄN KHOA NAM
      - Sanh 1927 Thừa Thiên
      - Từ trần 1-5-1975
      - (20-3- Ất Mão)
      - Cải táng 12-2- Giáp Tí 1984.

      Sau khi xác định đúng hũ Tro Cốt Tướng Quân, tôi nghiêm chỉnh đứng chào theo kiểu nhà binh, rồi khoanh tay chiêm bái,nghĩ ngợi một hồi… với nỗi xót xa trong lòng và ngậm ngùi cho những chuyện riêng chung…

      Xong, tôi chào Tướng Quân lần nữa và buồn bã quay gót trở ra. Đến lượt anh Phiên vào viếng.



                
    2. Những chuyện bên lề:
      1. Trại tù “Cải Tạo” Cần Thơ:
        là trại Quân Lao cũ Cần thơ, của VNCH:


        Sau ngày tang Tổ Quốc VNCH (30-4-1975), ngày 9-5-1975, tôi bị VC bắt tại thị xã Châu Đốc, chỉ có bộ đồ dính da. Nửa tháng sau, nhà tôi tìm khắp và được tin nên mang đến cho tôi vài bộ đồ và các thứ lặt vặt. Ở trại giam Châu Đốc chừng ba tháng, các anh em tù từ cấp Thiếu Tá trở lên, bọn VC chuyển đi xuống giam ở Long Xuyên (An Giang). Rồi sau đó, lại chuyển xuống trại Quân Lao Cần Thơ. Lúc đầu cỗng trại có biển đề “Doanh Trại Quân Đội Giải Phóng”. Sau ít lâu, VC sửa lại là “Doanh Trại Quân Đội Nhân Dân” Nơi đây có quí tướng lãnh cùng bị giam:
        • Chuẩn Tướng Huỳnh Văn Lạc (Tư lệnh SĐ 9 BB),
          C/T Mạch Văn Trường (Tư lệnh SĐ 21 BB),
          C/T Trần Quang Khôi (Tư lệnh Thiết Đoàn)
          và quí Đại Tá, Trung tá, Thiếu Tá…

        Đường vào Quân Lao Cần Thơ, ngay ngả ba, phía tay trái có Nghĩa Trang Quân Đội với biển vàng chữ đỏ khang trang. Sau 30 – 4 – 1975, VC sửa lại tên biển, với hàng đại tự là: Mồ Chôn Quân Giặc. Từ ngoài đường nhìn vào, thấy có vài ngôi mộ mới đấp, cỏ mọc lơ thơ, đất còn mới với màu vàng vọt hắt hiu. Có người cho biết, trong số các mộ mới, có mộ Tư Lệnh Vùng IV, Tướng Nam.

        Ở trại tù Cần Thơ, rất ít khi đi lao động. Thỉnh thoảng VC mới tập hợp một số tù nhân đi làm cỏ, dẹp dọn chung quanh khu trại. Vì Quân Lao liền ranh với Nghĩa Trang Quân Đội, cho nên, môt hôm đi lao động, có dịp ngang qua phần mộ Tướng Nam, tôi đã dừng lại giây phút… ngậm ngùi nghiêm chào trước phần mộ theo kiểu nhà binh, với nỗi xót xa cho Ông và cho chính bản thân mình, rồi bâng khuâng quay gót…

                  
      2. Đại Tá Khiếu Hữu Diêu và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam:

        Khoảng cuối năm 1974, Đại Tá Khiếu Hữu Diêu, Trung Đoàn Trưởng Tr/Đ. 15, có mấy cuộc họp hành quân bỏ túi với thuộc cấp. Sau khi họp xong, những phút thoải mái, Đại Tá Diêu hay nhắc về Tướng Nam. Có lần Đại Tá nói với vẻ thích thú:
        • - Hôm qua, tôi mới gặp Tướng Nam, Tư Lệnh Vùng, cứ mỗi lần tôi gặp Ông, y như rằng Ông đều chào tôi trước.
        Trong số anh em chúng tôi có người ngạc nhiên hỏi:
        • - Sao lạ vậy Đại Tá?
        Đại Tá Diêu có phần hãnh diện đáp:
        • - Thì có gì đâu, khi tôi là Thiếu Tá làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù khoảng năm 1961, Ông Nam lúc ấy là Đại Úy làm Trưởng Ban Ba cho Tiểu Đoàn tôi, Ông nghĩ tình nghĩa cũ ấy mà.
        Ngừng một chút, Đại Tá Diêu lại thêm:
        • - Mà hồi đó, tôi đã nhận thấy khả năng xuất sắc của Đại Úy Nam rồi. Có khi tôi thầm nghĩ, một ngày nào, Đại Úy Nam sẽ qua mặt tôi và có thể sẽ là cấp chỉ huy của tôi nữa. Y như bây giờ các anh đã thấy.

        Được nghe nói nhiều về vị Tư Lệnh Vùng: tài năng, đức độ liêm khiết, đặc biệt còn độc thân, và ăn chay những ngày sóc vọng nữa, là cấp nhỏ chúng tôi rất hâm mộ. Mong có dịp gặp Ông.

        Rồi dịp may đã đến. Số là, khoảng đầu năm 1975, Tư Lệnh Vùng IV, Tướng Nam ban lệnh họp Sư Đoàn 9 Bộ Binh tại Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của S/Đ 9 ở Biệt Khu 44, Cao Lãnh, gồm Tư Lệnh Sư Đoàn 9, Tướng Huỳnh Văn Lạc, các Trung Đoàn Trưởng 14, 15 (Đ/T Diêu), 16, và các cấp: Tiểu Đoàn Trưởng, Chi Đoàn Trưởng, Pháo Binh, Sĩ Quan Tham Mưu, Ban Nghành… Tướng Nam Tư Lệnh Vùng chủ toạ. Đây là lần đầu cũng là lần cuối tôi được thấy Ông. Ngồi cách Ông hơn 10m, tôi lắng nghe Ông nói, chú ý nhân dạng và cung cách của Ông. Thấy Ông có vẽ chừng mực, nhã nhặn.

        Cho đến ngày tang thương của Dân Tộc ập đến, tôi nghe tin Ông đã tự sát. Tự sát một cách hào hùng! Tôi rất xúc động và bùi ngùi….


      Tiếc thương Ông, người Anh Hùng Quân Lực VNCH, người con yêu của dân tộc, sau đây là bài thơ nhỏ, để bày tỏ lòng kính cẩn của một thuộc cấp nhỏ mà Ông chưa hề biết mặt:

                
      Tiếc thương Tướng quân NGUYỄN KHOA NAM

      Vận nước nổi trôi đến bước cùng
      Tướng Quân thà chết với non sông
      Tang bồng xếp lại hoa dù đỏ
      Khí tiết vang theo tiếng súng đồng
      Núi Ngự xót thương cây rủ lá
      Sông Hương tiếc nhớ nước khô dòng
      Nghiêng mình kính cẩn trang trung liệt
      Gương sáng muôn đời sóng Cửu Long…!!

      Nguyễn Minh Thanh




                
    3. Đời người đo bằng Hành Động, không đo bằng thời gian:
      1. Văn Thiên Tường (1236-1283),
        Tể Tướng đời Nam Tống, Trung Hoa, bị quân Nguyên bắt và đày ải cùng cực, thà bi giết, nhứt định không hàng kẻ thù, dù chúng dụ phong y chức Tể Tướng. Vì trải qua qúa nhiều gian khổ trong cơn quốc nạn, Ông có bài thơ “Quá Linh Đinh Dương”, mô tả tình cảnh non sông cũng như tình cảnh của riêng ông đang khi sơn hà bị xâm lăng. Trong bài, có 2 câu cuối, bất hủ, rất nhiều người biết qua bài “Chí Nam Nhi” của cụ Nguyễn Công Trứ :

                  
        “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
        Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”

                  

        Dưới đây là nguyên văn toàn bài:
                  
        QUÁ LINH ĐINH DƯƠNG

        Tân khổ tao phùng khởi nhất kinh
        Can qua liêu lạc tứ châu tinh
        Sơn hà phá toái phong phiêu nhứ
        Thân thế phù trầm vũ đả bình
        Hoàng Khủng than đầu thuyết hoàng khủng
        Linh Đinh dương lý thán linh đinh
        Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
        Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

        VĂN THIÊN TƯỜNG



        QUA BIỂN LINH ĐINH

        Cay đắng kinh qua lắm cảnh tình
        Bốn năm xiêu lạc lụy đao binh
        Tả tơi mành gió đau hồn nước
        Tan tác bèo mưa xót phận mình
        Ghềnh Khủng Khiếp trập trùng khủng khiếp
        Biển Lênh Đênh lai láng lênh đênh
        Xưa nay ai sống mà không chết
        Để tấm lòng son rạng sử xanh!

        NGUYỄN MINH THANH dịch

                  

                  
      2. Thủ Khoa Huân tức Nguyễn Hữu Huân (1830 – 1875),
        người Định Tường, sĩ phu yêu nước đã chiêu mộ nghĩa binh kháng Pháp. Binh bại, bị giặc bắt. Giặc dùng bả vinh hoa dụ hàng. Ông khẳng khái từ chối, bị giặc Pháp hành hình. Ông bình thản trước khi mất và đã để lại Tuyệt Mệnh Thi:

                  
        TUYỆT MỆNH THI

        Hãn mã gian quan vị quốc cừu
        Chi nhân binh bại trí thân hưu
        Anh hùng mạc bả dinh du luân
        Vũ trụ trường khang tiét nghĩa lưu
        Vô bố dĩ kinh Hồ Lỗ phách
        Bất hàng cam đoạn tướng quân đầu
        Đương niên Tho thủy lưu ba huyết
        Long đảo Thu phong mộ mộ sầu

        T. K. HUÂN




        THƠ TUYỆT MẠNG

        Diệt thù vó ngựa buị mù tung
        Chỉ tại thua binh mạng phải cùng
        Hãy lắng nghĩa trung lưu vũ trụ
        Chớ đem thành bại luận anh hùng
        Nổi xung Hồ Lỗ* kinh hồn khắp
        Liều thác thân tàn rạng tiếng chung
        Sóng nước Mỹ Tho pha máu đỏ
        Gió Thu hiu hắt nhuộm cồn Rồng!

        NGUYỄN MINH THANH cẩn dịch

        * Chỉ giặc Pháp

                  
      3. Ngư dân Nguyễn Trung Trực (1838 – 1868),
        người Long An, mộ quân đánh giặc Pháp với Lãnh Binh Trương Công Định, năm 1861 đốt tàu giặc L’espérance trên sông Nhựt Tảo. Năm 1868 Ông đánh úp đồn giặc ở Kiên Giang. Đạo Nghĩa Binh của Ông đã lập được nhiều chiến công hiển hách. Nhưng sau vì binh yếu thế cô, khoảng cuối năm 1868, trong tình thế ngặt nghèo, giặc bắt mẹ của Ông, làm áp lực. Để cứu Mẹ và bảo toàn lực lượng, Ông tự nạp mình. Chúng dụ hàng phong quan. Nguyễn Trung Trực quyết liệt từ chối, và còn dõng dạc nói tạt vào mặt chúng:
        • “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam,
          mới hết người Nam đánh Tây”.
        Trước khi bị giặc chém đầu Ông đã để lại:

                  
        Tuyệt Mênh Thi:

        Thư kiếm tòng nhung tự thiếu niên
        Yêu gian đảm khi hữu Long Tuyền
        Anh hùng nhược ngộ vô dung địa
        Bảo hận thâm cừu bất đái thiên

        NGUYỄN TRUNG TRỰC




        Thơ Tuyệt Mạng

        Trai trẻ binh nhung đã học bàn
        Long Tuyền kiếm báu quyết trừ gian
        Anh hùng mạt lộ cam đành thác
        Thề chẳng chung trời với sói lang

        NGUYỄN MINH THANH cẩn dịch

                  



                
    4. Phần Kết:

      Trở lại Tướng Quân Nguyễn Khoa Nam, một trong Ngũ Hổ Tướng* VNCH đã lẫm liệt tuẫn tiết, viết trang sử sáng ngời cho Quân Lực VNCH, cho Dân Tộc VN nói chung.
      Với Việt Sử, Ông đã:
      • “Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.
      Với vũ trụ, Ông đã:
      • “Vũ trụ trường khang tiết nghĩa lưu”.
      Với quân giặc, Ông đã:
      • “Anh hùng nhược ngộ vô dung địa
        Bảo hận thâm cừu bất đái thiên”.


      Ôi, hỡi những anh hùng, hỡi những người lẫm liệt của thiên thu, đã để lại cho hậu thế niềm tiếc thương bao la biển cả. Những Võ Tánh, Nguỵ Văn Thà, Nguyễn Khoa Nam, đã: Thành mất, mất theo Thành; Tàu mất, mất theo Tàu; Nước mất, mất theo Nước. Ngạn ngữ Tây phương có câu:
      • “Đời người đo bằng hành động, không đo bằng thời gian”
      . Qúi anh hùng liệt nữ đều kết thúc đời mình một cách hiên ngang trang trọng và lẫm liệt như thế đó!

      Sau 36 năm, lưu lạc nơi xứ người, hồi ức lại những chuyện đã ngàn trùng xa cách về thời gian lẫn không gian, mà sao thấy rõ mồn một như mới hôm qua. Đọc bài viết của vị sĩ quan làm tuỳ viên cho Tướng Quân, Trung Úy Lê Ngọc Danh (sách NKN trang 417), mô tả lúc Tướng Quân tới bệnh viện Phan Thanh Giản chiều 30-4-1975, đi thăm thương binh từng người, từng người… mà ngùi ngùi, ngùi ngùi…

      • (trích):
        ” ……………………Tư Lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư Lệnh đi qua giãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ thăm viếng thương, bệnh binh buồn tẻ và nặng nề. Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xoá, máu còn rịn ra lốm đốm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư Lệnh đứng sát bên và hỏi:
        • - Vết thương của em đã lành chưa?
          - Thưa Thiếu Tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu chưa lành.
        Với nét mặt buồn buồn, Tư Lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư Lệnh chưa kịp nói thêm thì anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư Lệnh mếu máo:
        • - Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em nhé Thiếu Tướng.
          - Qua không bỏ các em đâu! Qua ở lại với các em.
        Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư Lệnh đưa tay nâng cặp mắt kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương của ông. Tư Lệnh cố nén xúc động, nhưng người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư Lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:
        • - Em cố gắng điều trị… có qua ở đây.
        Tư Lệnh bước nhanh ra cửa bệnh viện, khi ra đến ngoài sân Tư Lệnh dừng lại quay mắt nhìn về bệnh viện. Tư Lệnh đứng yên bất động khoảng một phút rồi bước vội ra xe không nói gì nữa cả. …….”
        (hết trích)


      Tới đoạn Tướng Quân với 2 tùy viên lên sân thượng vào sáng sớm 1-5-1975 (sách NKN trang 428), rồi 3 Thầy, trò đứng tựa lan can cùng khóc. Người viết càng bùi ngùi… thêm, và không cầm được nước mắt!


      • (trích):
        “…………………….. Tư Lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư Lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra đại lộ Hoà Bình trước cửa dinh, tôi đứng bên tay phải Tư Lệnh, anh Việt đứng bên trái. Trên lộ, chỉ có vài chiếc xe qua lại, người thưa thớt, khung cảnh vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu Tướng bật khóc. Tư Lệnh cố nén không khóc thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt tuôn trào chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy. Ba người đứng trên sân thượng trước mặt tiền dinh, mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy…………………”
        (hết trích)


      Hôm nay, ngồi viết tiểu truyện này, nhằm: trải tấm lòng trân trọng của tôi đối với thượng cấp kính yêu cao quí Tướng Quân Nguyễn Khoa Nam.
      • Ôi người anh hùng: Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục (thà chết quyết không chịu nhục).
        Người đã: Sanh vi Tướng tử vi Thần (sống làm Tướng chết làm Thần).
      Sách xưa nói: “Cánh hoa rụng chọn gì đất sạch”. Nhưng, những anh hùng liệt nữ đều chọn những vùng đất sạch trong lịch sử để an giấc ngàn thu.

      Danh ngôn có câu: “Người quân tử có một lần để chết, kẻ tiểu nhân có nhiều lần để chết”. Quí anh hùng liệt nữ đều kết thúc đời mình một cách hiên ngang trang trọng và lẫm liệt như thế đó!

      Hỡi những anh hùng, liệt nữ chúng tôi xin nghiêng mình: chào kính cẩn tận tâm trung.

      Để kết thúc bài biên soạn bi cảm trong niềm đau xót riêng, chung: cá nhân và dân tộc; nơi đây, xin mượn 2 câu thơ xưa: xót xa tưởng niệm Tướng Quân Nguyễn Khoa Nam:
                
      “Giai nhân tự cổ như danh tướng
      Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”

      (Xưa nay mỹ nữ như danh tướng
      Chẳng muốn cho ai thấy bạc đầu!)

                
    * Ngũ hổ tướng: Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai.





    Viễn xứ, mùa Quốc Hận 2011.
    Trân trọng.

    NGUYỄN MINH THANH
              

    https://nhanquyenchovn.blogspot.com/201 ... guyen.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Thương Tiếc Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân - Tổ Quốc Ghi Ơn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Thương Tiếc
    Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân
    Tổ Quốc Ghi Ơn

    __________________________________





    Danh sách các quân nhân Quân Lực VNCH đã tự sát trong những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa 

    HỌ TÊN - Cấp bậc - Chức vụ - Đơn vị - Ngày tự sát

    1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, cựu tư lệnh Quân Đoàn II 30/4/1975
    2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV 30/4/1975
    3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn IV 30/4/1975
    4- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, tướng tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh 30/4/1975
    5- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh 30/4/1975
    6- Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh- khóa 16 Đà Lat. 31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn
    7- Đại Tá Lê Câu, trung đoàn trưởng 47 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Tự sát ngày 10/3/1975
    8- Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn (bào đệ của Trung Tướng Lê Nguyên Khang). 30/4/1975
    9- Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Gia Tập, đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ. Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ
    10- Trung Tá Nguyễn Văn Long CSQG 30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Sài Gòn
    11- Trung Tá Nguyễn Đình Chi Phụ Tá Chánh sở 3 ANQĐ - Cục An Ninh Quân Đội. Tự sát 30/4/1975 tại Cục An Ninh
    12- Trung Tá Phạm Đức Lợi, phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM 30/4/1975
    13- Trung Tá Vũ Đình Duy, trưởng Đoàn 66 Đà Lạt 30/4/1975
    14- Trung Tá Nguyễn Văn Hoàn, trưởng Đoàn 67 Phòng 2 Bộ Tổng Tham m ưu. Tự sát ngày 30/4/1975
    15- Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát ngày 28/4/1975 cùng vợ, 2 con và cháu (bằng súng)
    16- Thiếu Tá Đặng Sỹ Vĩnh, trưởng Ban Binh Địa P2 Bộ TTM, sau biệt phái qua Cảnh Sát 30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con
    17- Thiếu Tá Mã Thành Nghĩa, tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu- khoá 10 Đà Lạt. 30/4/1975 tự sát cùng vợ
    18- Thiếu Tá Lương Bông, phó ty An Ninh Quân Đội Cần Thơ- Phong Dinh. Tự sát ngày 30/4/1975
    19- Thiếu Tá Trần Thế Anh, đơn vị 101. Tự sát ngày 30/4/75
    20- Đại Úy Vũ Khắc Cẩn, Ban 3, Tiểu Khu Quảng Ngãi. Tự sát 30/4/1975
    21- Đại Úy Tạ Hữu Di, tiểu đoàn phó 211 Pháo Binh Chương Thiện. Tự sát 30/4/1975
    22- Trung Úy CSQG Nguyễn Văn Cảnh, trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8. Tự sát ngày 30/4/1975
    23- Chuẩn Úy Đỗ Công Chính, TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát ngày 30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản
    24- Trung Sĩ Trần MinhTrần Minh, gác Bộ Tổng Tham Mưu. Tự Sát 30/4/1975
    25- Thiếu Tá Đỗ Văn Phát, quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên 1/5/1975
    26- Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc, tiểu đoàn trưởng, Tiểu Khu Hậu Nghĩa 29/4/1975
    27- Trung Tá Phạm Thế Phiệt 30/4/1975
    28- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân, Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2 /Bộ TTM. Tự sát ngày 1/5/75
    29- Trung Tá Phạm Đức Lợi, Phòng 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội. Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975
    30- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu, trưởng Ban Văn Khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM
    31- Thiếu Úy Nguyễn Phụng, CS đặc biệt, 30/4/1975 tại Thanh Đa, Sài Gòn
    32- Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái, khoá 5/69 Thủ Đức. 30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã 6 Chợ Lớn.
    33- Trung Úy Đặng Trần Vinh (con của Thiếu Tá Đặng Sĩ Vinh), P2 BTTM. Tự sát cùng vợ con 30/4/1975
    34- Trung Úy Nghiêm Viết Thảo, An Ninh Quân Đội, khóa 1/70 Thủ Đức. Tự sát 30/4/1975 tại Kiến Hòa
    35- Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan (Quan Đen), phi công PĐ 110 Quan Sát (khóa 72). Tự sát chiều 30/4/1975
    36- Hồ Chí Tâm B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau). Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau
    37- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu
    38- Thượng Sĩ Bùi Quang Bộ, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu

    Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ, cần có một cơ quan nào đó làm việc cập nhật bản danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế.





    https://langa20xuanphuoc.blogspot.com/p ... -tiec.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Chiến sĩ vô danh

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           



              






              
Ngoc Han
Bài viết: 1577
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: - 30/04/2020 - Tưởng niệm 45 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Ngoc Han »

Cám ơn anh Hoàng Vân, nghe bài này nhớ lại một thời xa xưa, hình bóng của những anh hùng đã tuẫn tiết theo thành,
" Gươm anh linh đã bao lần vấy máu
Còn xác xây thành, thời gian luống vô tình.
Rừng trầm phai sắc
Thấp thoáng tàn canh
Hỡi người chiến sĩ vô danh..."
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: - 30/04/2020 - Tưởng niệm 45 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    .............................. anh Hân .. :cafe: ...


              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Ngày tàn của cuộc chiến

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Ngày tàn của cuộc chiến
    __________________________________
    Lê Nguyên Bình
    (Trích Ðặc san Nguyễn Khoa Nam
    Tiểu đề do tòa soạn đặt)




    LTS:
    Tác giả bài dưới đây, Ðại tá Lê Nguyên Bình, là một chiến hữu nguyên là sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Ở phương vị này, Ðại tá Bình đã có dịp được chứng kiến nhiều sự kiện đã xảy ra trong và ngoài khuôn viên của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV trong ngày cuối cùng của cuộc chiến đấu cho tự do.

    Ðọc những lời tường thuật của một nhân chứng trong cuộc, và đặc biệt những lời tường thuật chưa hề được tiết lộ trên báo chí, người đọc, nhất là những cựu quân nhân chúng ta, không khỏi bồi hồi, xúc động nghĩ rằng chúng ta đã có những vị tướng, tá như thế mà đành phải thất trận, không cứu vãn nổi tự do thì âu cũng là tại lòng Trời còn muốn đày đọa dân Việt vậy.

    Những tràng đại liên chính xác từ bốn chiếc trực thăng võ trang thuộc Sư đoàn 4 Không quân đổ trên đầu toán tuần thám thuộc Trung đoàn Cộng Sản D1 miền Tây Nam Bộ, đang vượt kinh Thác Lác với ý đồ mở đường cho Trung đoàn này xâm nhập vòng đai Alpha bao quanh thị trấn Cần Thơ và phi trường Trà Nóc. Tiếng gào thét rợn trời, từng xác người tung lên khỏi mặt nước như xé tan bầu trời, sau đó trả lại cho màn đêm dần dần phủ kín lớp sông dài.

    Ðội hình hàng dọc các đơn vị thuộc Trung đoàn D1 được lệnh phân tán tại chỗ, chờ động tĩnh. Những bóng đen xì với những chiếc nón tre bọc lưới, ẩn hiện nhấp nhô như những bóng ma sau đám cây, những bụi chun bàu. Dưới sông, đám bèo tây vẫn lững lờ vô tình trôi, cuốn theo vài xác chết.

    Thời gian trôi qua khoảng chừng tàn một nén nhang, Thủ trưởng Trung đoàn ra lệnh toàn bộ vượt sông với hàng trăm ghe xuồng lớn nhỏ đã được bố trí từ buổi sáng. Tiếng đập của mái chèo khua nước dồn dập như cố thúc đẩy những con thuyền gia tăng tốc độ chóng qua bờ. Tiếng người xì xào nho nhỏ pha trộn hai giọng Bắc và Nam tạo nên nhưng âm thanh kỳ lạ, bí ẩn. Cuộc vượt sông tưởng như diễn tiến tốt đẹp.

    Ðột nhiên, những "coup départ" khai pháo từ phi trường Bình Thủy, từ Tiểu đoàn 21 Bộ binh ở Vị Thanh, từ các pháo đội địa phương Rạch Gỏi, Cầu Nhím, Phong Ðiền như xé bầu không khí nổ tới tấp theo tuyến vượt sông, dọc theo hai bờ kinh, mưa trên đầu các đơn vị từ tiền phong tới hậu tập.

    Tiếng người xô đẩy chạy ngược xuôi, khi hàng ngũ rối loạn. Cuộc tiến quân bất thành vì bị bại lộ. Trung đoàn D1 bị cắt làm hai, phải phân tán vào các thôn xóm lân cận hai bên bờ sông.

    Yên lặng lại trở về trong màn đêm cho miền Tây hiền hòa. Bấy giờ là vào khoảng thượng tuần tháng Tư năm 1975.

    Tôi ngồi trước bản đồ Quân khu IV. Màu đỏ chỉ những vị trí của Việt Cộng, tạo thành một vòng đai bao quanh các thị trấn Quân khu 4. Ðúng theo nghị quyết số 14 của Trung Ương Cục Miền Nam, Cộng Sản bỏ nông thôn tiến về thành thị theo kế hoạch thanh toán toàn miền Nam theo chỉ thị của Trung Ương Ðảng Cộng Sản. Màu xanh trên bản đồ chỉ những vị trí của các đơn vị bạn được tái phối trí chặt chẽ hơn. Sư đoàn 21 phụ trách việc bảo vệ vòng đai Alpha, từ phi trường Bình Thủy tiếp nối liên tỉnh lộ Cần Thơ Chương Thiện. Sư đoàn 9 trải quân trấn giữ con lộ huyết mạch của Quân đoàn 4, từ phà Mỹ Thuận đến ngã ba Trung Lương. Sư đoàn 7 Bộ binh, đơn vị lừng danh của QLVNCH đã từng xóa bỏ Sư đoàn 5 và 9 của cộng sản giữ ải địa đầu của Quân khu 4, đoạn vòng cung từ Chợ Thày Yên, Bến Tranh đến ranh tỉnh Long An.




    Lập căn cứ ở Quân khu 4?

    Trong thời gian này, tại Cần Thơ, Bộ Tư Lệnh Quân khu 4 và Quân đoàn 4 đã đặt nỗ lực vào việc xây cất nhiều địa ốc thật kiên cố, chuẩn bị cho Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Lực và các đơn vị bạn, khi cần, có thể rút về giữ tuyến cuối cùng bảo vệ đất nước. Tình hình chung lúc ấy là, sau cuộc rút lui của Quân khu 2, kế tiếp là Quân khu 1, vòng đai của Quân khu 3 bảo vệ Thủ đô Sài Gòn dần dần bị thu hẹp. Vì những rối loạn chính trị đương thời tại thủ đô, vì Quân khu 3 thiếu yếu tố địa thế hiểm trở, chắc chắn việc tử thủ tại thủ đô sẽ gây ra nhiều tổn thất cho quân lực và dân chúng. Tôi liên tưởng tới sự thành công của cuộc phòng thủ Quân khu 4, mảnh đất cuối cùng của đất nước.

    Với vị trí thiên nhiên của sông Tiền Giang cắt ngang miền Nam, với địa thế sình lầy của vùng Ðồng Tháp có thể làm giảm thiểu tốc độ chuyển quân của địch, sự di chuyển của chiến xa và trọng pháo sẽ bị trở ngại. Với sự tồn tại của toàn bộ các thị trấn, chưa nơi nào lọt vào tay địch; với các căn cứ Không quân và Hải quân vẫn còn nguyên vẹn dùng làm căn cứ cho các lực lượng liên hệ từ các quân khu khác rút về. Với ba Sư đoàn Bộ binh, cộng thêm gần nửa triệu Ðịa phương và Nghĩa quân, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chống cự một thời gian chờ cơn sốt chánh trị gây rối loạn và hoang mang trong hàng ngũ qua đi, chúng ta sẽ tìm thế phản công trong tương lai, chiếm lại phần đất nước đã bị mất. Tôi nghĩ đến gương của nước người, nước Trung Hoa vĩ đại của Tưởng Giới Thạch với hàng triệu binh sĩ, đã không đánh mà tan, phải bỏ chạy trước đạo quân của Mao Trạch Ðông. Ðến khi tàn quân chạy ra Ðài Loan, một mảnh đất nhỏ bé, họ Tưởng đã tổ chức lại hàng ngũ, đẩy lui bao nhiêu cuộc tiến công của cộng sản, rồi tổ chức được một xã hội bền vững đến bây giờ.

    Tôi nghĩ lại nước Việt Nam thân yêu rồi sẽ đi về đâu. Tưởng Giới Thạch còn có Ðài Loan, mình thì có gì? Phú Quốc? Hòn đảo này quá nhỏ và quá gần đất liền, không bảo toàn được. Tôi nghĩ đến giải đất vùng biên giới Việt Miên, bao gồm các khu vực có giáo dân Hòa Hảo sinh sống, có dẫy Thất Sơn, có căn cứ an toàn, có ba, bốn ngàn hang động hiểm trở thành những phòng tuyến kiên cố chống giữ các cuộc tiến công từ biên giới sang thì việc phòng thủ Quân khu 4 sẽ lâu bền hơn. Tôi mang ý kiến ra bàn với vị Tư lệnh Quân đoàn, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam thì được sự tán thành của ông ngay. Nhưng rủi thay, việc hợp tác với giáo dân Hòa Hảo đã gặp trở ngại ngay từ bước đầu vì trước đó Thiếu tướng Nam đã có lần nhận chỉ thị của Tổng thống Thiệu để giải giới lực lượng Hòa Hảo Huỳnh Trung Hiếu và bắt giữ ông Hai Tập nên đã gây ra sự nghi kỵ và hiềm thù trong lòng những người bạn Hòa Hảo.

    Khoảng trung tuần tháng Tư năm 1975, Thiếu tướng Nam cùng tôi qua Mỹ Tho họp với các Tư lệnh Sư đoàn các Tỉnh trưởng miền Hậu Giang để thảo luận về kế hoạch ngăn chặn hoạt động của Cộng sản gây ảnh hưởng với tình hình an ninh Quân khu 4, Tướng Ngô Quang Trưởng từ Bộ Tổng Tham Mưu xuống tham dự buổi họp. Trong buổi họp, tôi có trình bầy tường tận về nghị quyết "Tổng tấn công, Tổng khởi nghĩa" để đi đến dứt điểm chiến trường của Cộng Sản. Một số sĩ quan tham dự buổi họp tỏ vẻ hoài nghi về khả năng của Cộng sản để thực hiện nghị quyết ấy ở miền Tây. Vào cuối tháng Tư, tại các vùng khác quân ta phải triệt thoái liên miên; riêng Vùng 4, cho đến ngày cuối cùng vẫn giữ được sự toàn vẹn lãnh thổ. Cuộc phòng thủ Bộ Chỉ Huy cuối cùng của quân đội vẫn được ráo riết thực hiện. Các đà sắt làm cầu được xuất kho để hoàn thành những nhà hầm kiên cố, có thiết trí hệ thống truyền tin, chuẩn bị đón tiếp Bộ Tổng Tham Mưu nếu Sài Gòn thất thủ.

    Chiều 26 tháng Tư, Thiếu tướng Nam cho lệnh họp các sĩ quan của Bộ Tổng Tham Mưu và các đơn vị trưởng thuộc Quân đoàn 4 tại Trung tâm Hành quân. Họp xong, ông yêu cầu tôi lấy cuốn phim tài liệu tịch thâu được của Việt Cộng chiếu cho mọi người xem. Ðó là cuốn phim "Chiến thắng Hạ Lào" liên quan đến cuộc hành quân Lam Sơn 719 của quân đội ta. Tôi còn nhớ khi phim chiếu cảnh bọn Việt Cộng dẫn giải những chiến sĩ QLVNCH bị chúng bắt, những khuôn mặt quen thuộc hiện ra trên màn ảnh làm rung động sự cảm xúc của mọi người. Ðại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ đoàn trưởng 3 Nhảy dù hiện thoáng qua; anh bị thương phải chống gậy. Anh vẫn mặc bộ quân phục Dù, ốm hẳn đi nhưng khuôn mặt vẫn còn nét rắn rỏi. Theo sát anh là một tên Việt Cộng bé con, mặt còn non, hờm khẩu AK như chực nhả đạn. Hình ảnh này làm máu tôi sôi lên trong huyết quản. Tôi liếc nhìn Thiếu tướng Nam, ngồi bên cạnh, ông cũng nhìn lại tôi với cặp mắt buồn. Tôi biết rằng ông còn xúc động hơn tôi vì ông nguyên là Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù trước khi nhận lãnh chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh. Ông khẽ bảo tôi:
    • "Nếu đời mình như thế là hết!"


    Ngày hôm sau, để nhận định thêm tình hình, tôi qua thăm Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 12 thuộc Sư đoàn 7, đóng tại Tân Lý Tây, quận Bến Tranh. Tôi gặp Ðại tá Ðặng Phương Thanh, Trung đoàn trưởng, cho biết tình hình trận chiến. Anh nhận định trung đoàn của anh đủ khả năng đối đầu với Sư đoàn Công trường 5 Cộng Sản đang dàn quân trước trận tuyến của anh. Anh đưa tôi đi xem chiến địa, nơi vừa xảy ra giao tranh ngày hôm qua. Xác địch còn nằm ngổn ngang trên các bờ bụi. Nhìn anh Thanh với dáng đi lầm lũi, chắc nịch, tôi cảm thấy anh là sĩ quan sẽ không hề lùi bước trước địch. Tốt nghiệp Khóa 16 Võ Bị Ðà Lạt, suốt thời gian trong quân ngũ, anh luôn có mặt tại đơn vị chiến đấu và mới được thăng cấp Ðại tá vào hôm trước. Sau này, tôi được biết anh đã lựa chọn thà tự sát còn hơn đầu hàng địch.




    Chúng ta là quân nhân ...

    Thời gian lặng lẽ trôi, bi thảm dần dần tới. Lúc đó vào khoảng tối 28 tháng Tư 1975, tiếng nói của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu vang lên từ Ðài phát thanh Sài Gòn yêu cầu toàn bộ Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ và Cơ Quan D.A.O. rút ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Lời yêu cầu trên được lập lại nhiều lần như xoáy vào tim óc, như nổ trong lồng ngực. Thế là hết! Họ đã âm mưu bỏ chúng ta thực sự rồi. Thành tích bao nhiêu năm chiến đấu đã tan thành mây khói. Ðêm đó và sáng hôm sau, quang cảnh thị xã Cần Thơ nhộn nhịp hẳn. Các loại xe ba bánh chở đồ từ các cơ sở Mỹ chạy ngược xuôi. Những trực thăng Air America không ngừng lên xuống các tàu nhỏ nhưng nhiều mã lực của Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ rời bến trực chỉ hướng Ðại Ngãi, đem theo toàn bộ người Hoa Kỳ và nhiều người Việt làm việc với họ.

    Cảm nghĩ của tôi lúc đó là tôi không nuối tiếc sự ra đi của người Mỹ; vì dù họ có ở lại cũng không đóng góp được gì cho công cuộc chống Cộng của chúng ta. Nhưng sự ra đi của họ, trong bối cảnh bấy giờ đã trở thành một đoàn cân não trí mạng, đánh mạnh vào tâm trạng hoang mang của toàn thể nhân dân Việt Nam và làm suy yếu hẳn sự kháng cự cộng sản của QLVNCH.

    Trọn ngày 29, tôi có dịp gặp Thiếu tướng Nam nhiều lần nhưng chỉ bàn qua về tình hình có ảnh hưởng trực tiếp đến Quân khu 4 mà thôi. Nhìn ông trầm tư, tôi không nhắc tới chuyện thiết lập mật khu vì tôi biết ông cũng cảm thông với những gì tôi muốn nói.

    Chiều hôm đó, khi đi qua sân Bộ Tư Lệnh trở về phòng làm việc, tôi có gặp Chuẩn tướng Tham mưu trưởng Quân khu 4. Ðây là lần cuối tôi gặp ông vì nửa đêm hôm đó, tôi bắt được nghị quyết số 15 của cộng sản đề cập đến việc chuẩn bị tiếp thu các thành phố, đến kế hoạch thâm độc nhắm tiêu diệt những quân nhân và cán bộ quốc gia một khi chúng nắm được quyền hành.

    Sáng sớm ngày 30 tháng Tư, không khí Bộ tư lệnh Quân khu 4 có vẻ khẩn trương vì sự ra đi của Chuẩn tướng TMT và một số sĩ quan trong đêm trước. Tiếp theo đó, qua đài phát thanh Sài Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh toàn bộ QLVNCH buông súng đầu hàng địch và chuẩn bị bàn giao căn cứ cho chúng. Mọi người đều rúng động; không khí căng thẳng đến cực độ. Sự thật quá phũ phàng. Trước đó, có người còn hy vọng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống để sửa soạn một giải pháp trung lập, hòa giải chứ đâu có ngờ ông ta lên làm Tổng thống để đầu hàng địch.

    Ðại tá Nguyễn Ðình Vinh được chỉ định thay thế Chuẩn tướng TMT để triệu tập tất cả sĩ quan có mặt tại Bộ tư lệnh và các đơn vị trực thuộc và vị Tỉnh trưởng Cần Thơ tại Trung tâm Hành Quân để Thiếu tướng Nam nói chuyện.

    10 giờ 30 sáng, Thiếu tướng bước vào Hội trường, mọi người nghiêm chỉnh đứng lên chào. Ông từ từ tiến lên bục cao, xoay mình đối diện với các sĩ quan trực ộc, khuôn mặt vẫn đầy cương nghị nhưng ánh mắt thật buồn.
    • "Các sĩ quan thân mến," ông nói,
      "Như anh em đều biết, đất nước chúng ta đang rẽ vào khúc quanh quan trọng nhất của lịch sử. Chúng ta là quân nhân thì phải tuyệt đối tuân lệnh chánh phủ. vậy tôi để các anh lát nữa trở về đơn vị, tùy tiện sắp xếp công việc để bàn giao cho họ. Về phần tôi, mặc dù có sẵn trực thăng, tôi sẽ không đi đâu hết."


    Nói xong, ông rời phòng hội để về văn phòng ông. Tôi đẩy cửa bước theo để được nói chuyện với ông lần cuối:
    • "Ông Tướng ơi, ông đành chịu vậy sao?"
    Tôi vẫn xưng hô kiểu đó khi chuyện vãn chỉ có ông và tôi. Ông cười buồn:
    • "Biết làm sao được bây giờ hả anh."
    Rồi ông im lặng hút thuốc, thở khói nhè nhẹ, vẻ mặt đăm chiêu. Trước mặt ông là cái gạt tàn thuốc lá khổng lồ đầy ắp, chắc đêm qua ông đã thức trắng đêm. Trong thâm tâm, tôi muốn đề nghị với ông cùng tìm cách thoát hiểm nhưng tôi không mở lời được vì biết ông sẽ từ chối.

    Một lúc sau, tôi đứng thẳng người, kính cẩn chào cấp chỉ huy lần cuối rồi quay trở về phòng.

    Bấy giờ, tôi còn nhớ rõ, Trung uý Danh, Sĩ quan Tùy viên của Thiếu tướng Nam chạy theo, gọi tôi nhờ chỉ dẫn cách sử dụng khẩu súng lục màu xanh biếc mà Thiếu tướng vừa cho anh vào buổi sáng. Tôi không hiểu ông đã cho sĩ quan tùy viên khẩu súng xinh xắn để làm gì?

    Tôi âm thầm đếm bước chân trên lối đi dẫn về phòng tôi ở. Tôi liên tưởng ngày mai đây, cũng trên những bục đi này, bàn chân kẻ thù cũng sẽ bước chồng lên dấu chân tôi. Cuộc chiến này đã kéo dài trong bao năm trường, không ngờ lại tàn nhanh đến thế. Lòng tôi đầy bi phẫn. Mặc dù tôi không có cách gì để kháng cự địch nữa nhưng tôi không cam lòng đầu hàng chúng. Suy nghĩ mãi, tôi thấy mình phải tìm cách thoát hiểm, dù bỏ mạng trên đường thoát hiểm cũng đành. Ý nghĩ này làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi nhảy lên xe jeep, lái ngang qua Tiểu khu Cần Thơ gặp Ðại tá Huỳnh Ngọc Diệp, một sĩ quan trừ bị bạn đồng khóa với Thiếu tướng Nam, để tìm phương thoát hiểm. Tôi trình bầy với anh về nghị quyết 15 của cộng sản và những tủi nhục và chúng sẽ dành cho mình khi chúng chiếm được phần đất này. Tôi đề nghị anh cùng tìm cách thoát hiểm. Ban đầu anh từ chối lời đề nghị, nhất quyết tử thủ. Nhưng sau tôi thành công trong sự thuyết phục anh và chúng tôi tìm phương tiện di chuyển.

    Chúng tôi rời bến Cần Thơ vào chiều ngày 30 tháng Tư 1975 trên một con đò máy chật hẹp, hướng ra cửa biển. Cuộc hành trình đầy cam go, tổn thất đã đánh dấu sự chấm dứt binh nghiệp của chúng tôi, trong sự tủi nhục, ê chề. Trên đường vượt thoát, được tin Thiếu tướng Nam, Chuẩn tướng Hưng và một số bạn hữu đã tự sát hoặc bị cầm tù, tôi đã nhắm nghiền cặp mắt để nén lệ trào ra, lòng ngậm ngùi nhớ đến những khuôn mặt thân yêu đó mà trọn đời tôi sẽ không bao giờ quên...





    Lê Nguyên Bình


    Đại Tá Lê Nguyên Bình
    Sinh 1931 tại Sơn Tây
    Khóa 7 Võ Bị Đà Lạt
    Trưởng Phòng 2 Sư Đoàn 7 năm 1960
    Phụ Tá Trưởng Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu năm 1969
    Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn IV năm 1971


    http://doanket.orgfree.com/quansu/ngtannam.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Con bướm đen

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Con bướm đen
    __________________________________
    Nguyễn quang Thành _ 2017




    Lời người viết:

    -Bài viết này là nén nhang thắp lên để tưởng nhớ anh tôi là Nguyễn quang Khóa, nguyên Trung tá phi công phản lực, Trưởng phòng kế hoạch Không đoàn 41 Chiến thuật, xuất thân khóa 61A SVSQKQ đã chết tại trại tù số 3 Kỳ sơn, Tam kỳ, tỉnh Quảng nam.

    -Chân thành cảm ơn anh Phan Trừng,và anh Dan Hoài Bửu, nguyên Trung tá phi công phản lực, bạn học cùng khóa của anh tôi, đã giúp tôi hoàn thành bút ký này.

    -Quý vị nào là bằng hữu, chiến hữu hoặc cựu tù binh biết về cái chết và mộ phần của anh tôi, xin liên lạc với tôi qua địa chỉ email:

    Xin đa tạ.


    Gia đình tôi ít anh em. Không phải do ba mẹ tôi hiếm muộn mà do thời gian ba tôi ở Pháp khá lâu. Hơn mười năm từ khi mẹ tôi sinh ra anh, hai ông bà mới gặp lại nhau, nên tôi kém anh tôi đúng một con giáp.

    Mặc dù khoảng cách tuổi tác sai biệt khá nhiều, nhưng anh em tôi đều có điểm tương đồng là yêu thích toán học và ôm mộng viễn du. Vì thế chúng tôi đều học ban khoa học Toán và tình nguyện gia nhập quân đội sau khi đậu tú tài toàn phần:
              
    “Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
    Nợ tang bồng vay trả, trả vay
    Chí làm trai, nam bắc đông tây
    Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”

              
    Mùa hè 1960, anh tôi nhập học khóa 61A SVSQKQ. Khoảng tháng sau lại có giấy báo nhập học ban Toán của trường Đại học sư phạm gửi về nhà, ba tôi mở ra, đọc đi đọc lại nhiều lần, mặt đăm chiêu, ra chiều nghĩ ngợi nhiều lắm.

    Mười năm sau, tôi cũng vừa thi vào đại học sư phạm, đồng thời làm đơn xin gia nhập trường Võ bị Đà lạt để được sống và học tập trong khung cảnh hào hùng và thơ mộng của vùng đất cao nguyên, mà tôi đã bị quyến rũ trước đây qua bài “Ai Lên Xứ Hoa Đào” của nhạc sĩ Hoàng Nguyên và một số hình ảnh của người sinh viên sĩ quan Đà lạt trong đoạn phim giới thiệu về trường Võ bị Quốc gia Đà lạt, đã chiếu tại trường vào dịp cuối năm lớp Đệ nhất ( lớp 12 ) tại trường Quốc học, Huế.

    Tôi đã trúng tuyển vào trường đại học sư phạm nhưng không thấy giấy báo nhập học trường Võ bị Quốc gia Đà lạt gửi về nhà. Vì thế, sau này tôi đã trở thành một giáo sư khoa học tại một trường nữ trung học đúng theo ý nguyện của ba mẹ tôi, nhưng tôi không bao giờ quên được hình ảnh hào hùng và lịch lãm của người trai thế hệ mà mình mơ ước.

    Sau khi học đại học sư phạm được vài tháng, nhân một buổi ăn tối của gia đình, ba tôi mới ôn tồn cho tôi biết là ông đã nhận được giấy báo của trường Võ bị Quốc Gia Đà lạt gửi về nhà, nhưng ông không cho tôi biết, vì anh tôi đã là pilote de guerre vào sinh ra tử trên bốn vùng chiến thuật (ba tôi có thói quen nói nửa Việt nửa Pháp, như ông thường viết các toa thuốc cho bệnh nhân).

    Anh tôi du học tại Hoa kỳ năm 1961. Gia đình tôi đều đặn nhận được thư từ và hình ảnh của anh tôi, chụp tại các trường huấn luyện phi công, luôn luôn kèm bên chiếc phi cơ đã bay, hoặc các hình ảnh chụp tại các tiểu bang đã đi qua nhân dịp cuối tuần hoặc các dịp lễ lạc. Tôi ước mơ một ngày nào đó mình cũng được như vậy.

    Ngoài thư từ gửi cho gia đình, anh tôi còn gửi cho chị M.T., sinh viên trường CSYT, con gái của một người bạn của ba tôi, mà ba tôi đã chấm theo tiêu chuẩn “Công-Dung-Ngôn-Hạnh” cho anh tôi, trong lúc hai người chưa một lần gặp gỡ.

    Nhiều lần tôi cảm thấy xót xa cho chị, khi chị đưa lá thư anh gửi cho tôi xem với hai câu thơ mở đầu:
    • “Người ơi, gặp gỡ làm chi
      Trăm năm biết có duyên gì hay không”





    Năm 1963 anh về nước. Hai câu thơ trên trích trong tập truyện Kiều của cụ Nguyễn Du mà anh đã lồng vào trong bức thư, gửi cho chị M.T. như một định mệnh đã an bài. Ba tôi đã phải nói lời xin lỗi với cha mẹ chị, vì việc đi hỏi chị là do ba tôi đơn phương quyết định. Một lần nữa, ba tôi lại đăm chiêu, suy nghĩ nhiều lắm.

    Dĩ nhiên, anh tôi từ đó không về nhà, cứ ở mãi Sài gòn. Lúc đầu, anh ở Liên Phi đoàn 33 Vận tải tại căn cứ Tân sơn nhất, sau đó chuyển qua Phi đoàn 518 Khu trục tại căn cứ Biên hòa.

    Thỉnh thoảng anh gửi thư cho ba mẹ tôi nói rằng anh quen một người con gái gốc Bắc, con của một sĩ quan cấp tá, bạn của cậu tôi. Chị là sinh viên trường Đại học Luật khoa Sài gòn và cũng là bạn cùng học tại ĐHLK với anh tôi ( sau khi ở Hoa kỳ về, anh lại ghi danh học ĐHLK). Chị có tên rất ấn tượng: Phạm Chất L.

    Thư từ giữa hai anh chị chất đầy như núi. Một lần vào cư xá thăm anh, tôi tò mò đọc được một lá thư của chị gửi cho anh, với bài thơ mà tôi chỉ nhớ được hai câu:
    • “Đời phi công có mấy người chung thủy
      Mỗi đường bay thay một cánh hoa yêu”
    Hay một lá thư khác:
    • “Oublie, c’est le nom d’une fleur
      N’oubliez pas, c’est le vœux de mon cœur”
      ( Xin người giữ lấy hoa quên
      Và đừng quên nhé lời nguyền trong tâm )

    Chị cũng không quên ép vào những trang thư tình màu tím một con bướm đen đậu trên nhánh hoa Forget Me Not. Điều này làm tôi liên tưởng đến sự trùng hợp màu sắc một cách ngẫu nhiên: Bộ áo bay của anh tôi màu đen với khăn quàng cổ màu tím, tôi thường thấy anh tôi mặc trong những phi vụ đặc biệt.




    Đời phi công thật hào hùng và bay bướm. Trong tủ sách anh tôi để lại cho tôi học, tôi thích thú khi đọc cuốn Đời phi công của Toàn Phong, Chuyến bay đêm (Vol de nuit), Cõi người ta (Terre des hommes) của nhà văn phi công Saint Exupery. Càng thích thú hơn, khi biết Toàn Phong là bút hiệu của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, tác giả cuốn Hình học Không gian không thua kém gì các cuốn Géométrie dans L’espace của Le Bosse hoặc của Caronner mà anh em tôi xem như là quyển Tự điển Toán Hình học Không gian.

    Suy cho cùng, toán học và văn chương tuy thuộc hai phạm trù khác nhau nhưng luôn luôn có sự tương quan logic. Toán học tuy khô khan, nhưng nhà toán học lại là người rất nhạy cảm. Sự nhạy cảm là khởi đầu cho bao đề tài lãng mạn trong văn chương.

    Thời gian dần trôi, tình hình chiến sự ngày càng ác liệt, anh tôi được điều động ra căn cứ Đà nẵng. Ác liệt nhất là trận đánh Tết Mậu Thân 1968 và sau đó là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.

    Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cố đô Huế dịp Tết Mậu Thân, chiếc Khu trục cơ Skyraider AD6 do anh tôi lái bị bắn với chi chít lỗ đạn phòng không của Bắc quân, đặc biệt là bánh đáp bị bắn gãy nhưng anh tôi đã đáp bụng an toàn.

    Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cổ thành Quảng trị, chiếc phản lực cơ A 37 của anh tôi bị bắn rơi trên bầu trời cổ thành, anh đã nhảy dù thoát hiểm và may mắn được một trực thăng cứu thoát, đưa về căn cứ Đà nẵng an toàn.

    Năm đó, tôi đang học năm thứ hai. Vừa ra khỏi giảng đường, một con bướm đen to bằng bàn tay, bay lởn vởn và đậu trên vai tôi vài tích tắc rồi biến mất. Sau đó tôi gặp một viên thiếu úy phi công trực thăng đến trường tìm một người bạn, vô tình kể lại chuyên anh ta vừa cứu thoát một thiếu tá phi công phản lực A 37 bị bắn rơi tại Quảng trị, tôi nghe chuyện và hỏi tên người phi công lâm nạn, thì ra người phi công phản lực đó chính là anh tôi.

    Sau này, trong tập san Lý Tưởng của binh chủng Không quân có đăng bài Cánh Thiên Thần Trên Bầu Trời Cổ Thành Quảng Trị của ký giả L.R.viết về anh lúc cánh dù bung ra từ chiếc phản lực cơ lâm nạn trên vùng trời lửa đạn.

    Bạn bè cùng khóa 61 A SVSQKQ và các khóa sau đã có nhiều người ra đi không bao giờ trở lại như tráng sĩ Kinh Kha qua sông Dịch không hẹn ngày về. Chiến tranh đồng nghĩa với mất mát, đau thương, cô đơn và giá lạnh:
    • “Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
      Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
      Chinh phu, tử sĩ mấy người
      Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”





    Biến cố khó quên đối với gia đình tôi xảy ra vào ngày 29/3/1975 sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp và sự vụ lệnh bổ nhiệm làm giáo sư tại trường trung học được vài tháng. Đà nẵng đang trong cơn hấp hối. Tình hình chiến sự vô cùng căng thẳng.

    Anh tôi một mình lái xe jeep ra nhà, hối hả chở cha mẹ tôi vào phi trường Đà nẵng, còn tôi không liên lạc được phải chạy một mình ra cảng Tiên sa mong thoát thân bằng đường biển. Vừa đến cảng thì bị pháo kích dồn dập, tôi chỉ kịp nằm bẹp xuống một mương nước, và chiếc vali trong tay tôi rơi lúc nào cũng không hề hay biết. Một quả đạn pháo kích rơi ngay trước mặt tôi chừng mươi thước, đúng lúc một chiếc xe jeep trờ tới, mọi người trên xe bị hất tung lên và trở thành tro bụi trong phút chốc.

    Quá hoảng sợ, tôi chạy lùi theo một số người tìm đường ra biển Sơn trà. Lúc này có một vài chiếc phi cơ bay vút qua, hướng ra biển Đông. Tôi ngửa mặt lên trời, ước gì ở trên cao có anh tôi thấy để cứu vớt tôi. Thế nhưng, tất cả đều đã bay xa cho đến khi chỉ còn là vài chấm đen trên nền trời ảm đạm.

    Lúc này tôi đã ra đến bờ biển Sơn trà, gặp được một chiếc tàu đánh cá đang đậu cách bờ chừng vài trăm thước. Mừng quá, tôi cởi vội quần áo và lao nhanh xuống biển. Lúc tay tôi chạm vào mạn tàu cũng là lúc trên bờ xuất hiện vài người có vũ khí cầm tay, ra hiệu cho tàu vào bờ. Một số người trên tàu vội vã kéo tôi lên đồng thời tàu nổ máy chạy thẳng ra khơi.

    Nhóm người võ trang nhắm thẳng vào tàu bắn liên tục nhưng chỉ làm bị thương một người trên tàu, còn lại đều vô sự. Một tiếng sau, tàu này được tàu Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cứu vớt và chuyển lên một chiến hạm của hải quân Hoa kỳ.

    Trên boong tàu, tôi đưa mắt nhìn vào phía đất liền. Mịt mù trùng khơi. Biển vây kín biển cả. Tiếng sóng vỗ ào ào. Tàu lắc lư chao đảo. Tôi ngửa mặt lên trời, tự nhủ:
    • Có phải đây là giờ phút vĩnh biệt của anh em tôi?
    Đột nhiên bầu trời trở nên u ám, vài hạt mưa đã rơi nhanh xuống sàn tàu.

    Sau này, qua một người quen cho biết: khuya 29/3/1975 anh tôi đã lên và lái một chiếc phản lực cơ A 37 ra phi đạo nhưng không thể cất cánh được vì đã bị hư hại. Vì thế anh tôi đã trở thành tù binh tại trại tù số 3 Kỳ sơn, Tam kỳ, tỉnh Quảng nam.




    Hơn một năm sau, trong lúc gia đình đang ăn cơm trưa, bỗng nhiên có một con bướm đen to bằng bàn tay, bay vòng vòng trong phòng và đậu trên vai từng người rồi cuối cùng đậu ngay chính giữa bàn thờ gia đình. Năm phút sau, nhận được tin báo là anh tôi đã chết, nằm trong một bụi cây bên ngoài trại tù chừng 800 mét. Mọi người đều sửng sốt, bàng hoàng nhưng không dám bật thành tiếng khóc. Đến khi bình tĩnh lại, nhìn về phía bàn thờ, con bướm đen cũng đã vỗ cánh bay ra khỏi nhà.

    Đêm hôm đó, tôi nằm mơ thấy anh tôi mặc bộ áo bay màu đen với khăn quàng cổ màu tím, đang lái chiếc xe jeep về nhà nhưng máu đã đẫm ướt phi bào. Sáng dậy, nhớ lại giấc mơ đêm qua, tôi cảm thấy một vị đắng, chua cay tràn ngập cổ họng. Tôi nghe như đâu đây phảng phất tiếng hát .của một nữ ca sĩ nỗi tiếng một thời:
    • “Ngày xưa khi anh vừa khóc chào đời
      Mẹ yêu noi gương người trước đặt lời

      Người phi công giữ khung trời
      Vẫn còn mang số phận con người”
    Bất giác hai dòng nước mắt tuôn trào lúc nào không hay.

    Hai mươi năm sau, một mình tôi trở lại vùng rừng thiêng nước độc, nơi anh tôi đã bị lưu đày, khổ nhục. Trại tù giờ đây chỉ là một vùng lau lách đầy cỏ dại, rất khó xác định.

    Nghĩ mình đã vượt núi, băng rừng, lội suối trong mùa nước lũ, chẳng lẽ bó tay trở về. Trời đã nhá nhem tối, tôi thì thầm khấn nguyện anh tôi. Bỗng từ đâu một con bướm đen to bằng bàn tay bay đến trước mặt tôi, như có ý dẫn đường. Tôi tiếp tục khấn nguyện. Con bướm đen bay vòng vòng, tôi chạy theo và bị té sấp vào một bờ đất.

    Sau phút hoảng hốt, tôi lồm cồm bò dậy và nhận ra một số nấm mộ nho nhỏ nằm khuất dưới đám cỏ dại. Tất cả gồm 12 nấm mộ vô chủ. Người dân địa phương cho biết đó là mộ của tù binh tại trại 3 Kỳ sơn. Tôi vội vàng hốt 12 nắm đất bỏ vào 12 bao nilon nhỏ và đánh dấu theo số thứ tự, rồi đến nhà dân xin ngủ tạm qua đêm. Sáng hôm sau về lại Tam kỳ, tìm đến nhà một thầy ngoại cảm. Thầy cho biết anh tôi nằm ở ngôi mộ số 3.

    Tuy nhiên tôi vẫn mong trong tương lai, khi bài viết này của tôi được nhiều người biết đến, tôi có thể có nhiều tin tức hữu ích và cụ thể để xác định chính xác mộ phần của anh tôi.





    Nguyễn quang Thành

    http://www.nguyenkhapnoi.com/2017/08/26 ... more-11476
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”