- 30/04/2019 - tưởng niệm 44 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

30 tháng Tư 1975: Máu và Nước Mắt

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    30 tháng Tư 1975:
    Máu và Nước Mắt

    ___________________________
    Hàn Giang Trần Lệ Tuyền





              


    Thích Đôn Hậu                                        Thích Trí Quang                                        Dương Văn Minh

              


    Kể từ giờ phút tên phản tặc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng để dâng Miền Nam Tự Do vào tay của cộng sản Hà Nội; thì hàng năm cứ đến ngày Quốc Hận 30- 04, là mọi người dân Việt, dù ở quốc nội, hay nơi hải ngoại cũng đều cảm thấy xót đau; bởi tất cả đều không bao giờ quên; và mãi mãi vẫn nhớ đến một ngày tang thương đã trùm phủ xuống quê hương. Ngày nước Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay giặc thù cộng sản.

    Nhưng riêng thành phố Đà Nẵng quê hương tôi vì nhờ có “công lao” của “Lực lượng Hòa hợp Hòa giải Phật Giáo Thống Nhất” (Khối Ấn Quang) đã đưa từng đoàn xe ra tận núi rừng để đón rước bộ đội Bắc Việt vào thành phố sớm hơn một tháng: Ngày 29/03/1975.

    Từ ngày vượt biển ra hải ngoại cho đến hôm nay, tôi vẫn hằng mong đợi một bài viết thật trung thực và đầy đủ về những cuộc bạo loạn, cũng như những ngày cuối cùng của thành phố Đà Nẵng trước khi mất nước. Song cho đến giờ phút này tôi vẫn chưa hề thấy, nên tôi, một phụ nữ không biết gì về văn chương lại thấp kém về mọi mặt. Nhưng, bởi mấy chục năm qua lòng tôi vẫn xót đau, khi những hình ảnh của những người đã bị chết oan, trong đó có những bé thơ, cứ hiện về như trách móc bảo tôi hãy lên tiếng. Vì thế, tôi phải hết sức cố gắng để viết lại những gì mà chính tôi đã mắt thấy, tai nghe, những điều mà có rất nhiều người đã biết, nhưng vì một lẽ nào đó nên tất cả đều im lặng. Họ không muốn hay không dám nói.

    Tôi đã chứng kiến từ ngày 20/03/1975, với từng đoàn người di tản từ các tỉnh Trị-Thiên, Nam-Tín-Ngãi, đổ về Đà Nẵng mỗi ngày một đông, họ chỉ mong được lên tàu di tản vì ở những nơi đó VC đã hoàn toàn kiểm soát, không còn gì để hy vọng.

    Tại Đà Nẵng, trong khi từng đoàn người bồng bế nhau chạy xuống bến Bạch Đằng, thì từng loạt pháo kích của VC bắn theo nổ chặn đường, làm kẻ chết, người bị thương, ai còn sống, bỏ tất cả lại để chạy thoát thân. Nhưng rồi chuyến tầu cuối cùng cũng đã rời bến Bạch Đằng; những người còn lại đành quay trở về. Trên đường phố từng toán người dìu dắt nhau trở lại, sau khi trở về nhà, họ đóng cửa, chỉ nhìn ra đường qua cửa sổ, họ đã sống trong những giờ phút hãi hùng, chờ đợi, không biết những gì sẽ xảy ra. Thành phố ngưng mọi sinh hoạt.



    Thầy chùa đã đưa xe ra tận núi rừng để đón Cộng quân vào Đà Nẵng:

    Tôi vẫn nhớ mãi về buổi sáng 29/03/1975, lúc ấy, vì phải đi tìm người thân bị thất lạc nên tôi có mặt tại ngã ba Huế, nhìn kim đồng hồ tay đương chỉ đúng tám giờ, khi nghe những tiếng động ồn ào, đồng bào mở cửa nhìn ra. Tôi cùng đồng bào đều nhìn thấy trên đường phố, từng đoàn xe đủ loại, xe Jeep, xe chở khách, xe nhà binh của các đơn vị quân sự bỏ lại.Trên các đầu xe, tất cả đều có cắm song song một lá cờ ngũ sắc của Phật giáo và một lá cờ nửa đỏ, nửa xanh, ở giữa có ngôi sao vàng của “Mặt trận Giải phóng miền Nam”, tất cả đều có gắn loa phóng thanh đang ầm ầm tiến ra hai ngã một về phía Hòa Mỹ hướng ra đèo Hải Vân để đi Huế; và một về phía Phước Tường hướng về Hòa Cầm để đi vào Tam Kỳ-Quảng Nam. (xin lỗi tôi phải nói như thế, để các vị chưa biết về Đà Nẵng sẽ dễ hiểu hơn).

    Đến 13 giờ cùng ngày, cả thành phố đều nghe những tiếng hô vang dậy:
    • “Chúng tôi Lực luợng Hòa hợp-Hòa giải Thị bộ Đà Nẵng, yêu cầu đồng bào hãy mau mau mở cửa ra để chào mừng và hoan hô bộ đội giải phóng miền Nam anh hùng!”.

    Cả thành phố đều mở cửa nhìn ra. Trên đường phố từng đoàn xe từ hai ngã đang tiến vào thành phố, đồng bào nhìn kỹ thì ra là hai đoàn xe đã ra đi hồi tám giờ sáng, chỉ khác hơn là trên các xe bây giờ chở đầy bộ đội miền Bắc, còn được cắm thêm những cành lá mà trước kia VC thường gọi “cành lá ngụy trang”. Tiếp theo sau là những xe thiết giáp trang bị đầy đủ hỏa tiển phòng không, đại bác và tiếng hô vẫn tiếp tục vang vang, bây giờ mọi người mới nhìn thấy rõ ràng, tất cả các xe, ngoài người tài xế, còn có một “ông hoà giải” và một “vị sư” mặc áo cà sa vàng ngồi bên cạnh, và những tiếng hô đó cứ thay phiên phát ra từ hai cái mồm của hai người này.

    Đến chiều, vẫn chưa tìm được người thân, tôi được tin là có nhiều người đã bị “An ninh Phật giáo” bắt giam ở các “chùa”, nên tôi đến chùa Pháp Lâm tức chùa tỉnh Giáo hội Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng, số 500 đường Ông Ích Khiêm ĐN, để cầu cứu “Thượng tọa” Thích Quang Thể, Chánh đại diện Phật giáo QN-ĐN. Vì thế, khoảng 17 giờ tôi nhìn thấy một chiếc xe Jeep nhà binh dừng lại ngay cổng chùa, từ trên xe có hai “thầy” bước xuống đó là
    • “Đại đức” Thích Minh Tuấn, người Huế, Hiệu trưởng trường trung học Bồ Đề, Phó Đại diện tỉnh Giáo hội QN-ĐN, Thích Minh Tuấn là một trong những người lãnh đạo trong Viện Hóa Đạo 1 của Ấn Quang. Sau đó là “Thượng tọa-Thị giả” của Hòa Thượng Thích Huyền Quang tại Tu viện Nguyên Thiều. Và hiện nay là Thượng tọa Viện chủ Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định.
    • “Đại đức” Thích Như Ký tức Mai Đăng Em, quê ở Mân Lập, quận 3, Đà Nẵng, “Tổng thư ký Giáo hội Tăng già Quảng Nam – Đà Nẵng”.
    Tiếp theo là hai “ông hòa giải” quần tây, áo sơ mi trắng, cả hai cùng mang băng đỏ như hai “thầy”. Cả bốn người cùng vào nhà khách của chùa gặp Thượng tọa Thích Quang Thể.

    Mở đầu bằng giọng Huế, Thích Minh Tuấn nói:
    • “Bạch Thượng Tọa, tôi đã đưa xe ra tận đèo Phú Gia ruớc sư đoàn Sao Vàng của tướng Nguyễn Chơn vào thành phố, mọi việc đều tốt”.

    Tiếp theo, Thích Như ký nói:
    • “Bạch Thượng Tọa, tôi đã đưa xe vô tận Hà Lam, Thăng Bình, đã đón bộ đội ta, do Đại Tá Phan Hoan chỉ huy vào thành phố một cách an toàn”.

    ”Thượng tọa” Thích Quang Thể gật đầu vui vẻ định nói gì với hai “thầy”, Nhưng ngay lúc đó Lê Quang Hòa (Trung tướng Việt cộng) tức Nguyễn Văn Hòa, quê Điện Bàn, Quảng Nam, tập kết ra Bắc trở về, là “Tư lệnh phó quân khu 5” cùng đi với mấy tên cận vệ bước vào chùa, Thượng Tọa Thích Quang Thể đứng lên chào, Lê Quang Hòa nói:
    • “Tôi đến đây để thăm chùa, đồng thời để nói lên lời cám ơn Thượng Tọa và giáo hội đã tích cực trong công việc đưa, đón bộ đội giải phóng vào thành phố, một thành quả không ngờ, vì khi nghe Ngô Quang Trưởng tuyên bố: “Các Lực luợng Quân-Cán-Chính tại Đà Nẵng sẽ tử thủ và có 45 ngày để dân Đà Nẵng di tản”. Chúng tôi nghĩ là sẽ có môt lực luợng hùng hậu, nên Bộ tư lệnh quân khu 5 đã dự tính lập vòng đai bao vây trong vòng ba tháng, mới có thể vào thành phố Đà Nẵng được. Vì vậy, khi các thầy đưa xe ra đón, chúng tôi không tin, nên phải lấy tin từ quân báo thật chính xác, mới dám cho bộ đội lên xe của các thầy”.

    Quay sang hai “thầy” Lê Quang Hòa nói:
    • “Tôi đặc biệt khen ngợi Đại đức Thích Minh Tuấn đã đưa xe ra tận đèo Phú Gia để đón Sư đoàn Sao Vàng của tướng Nguyễn Chơn vào thành phố một cách an toàn. Tướng Chơn rất vui mừng khi được trở lại quê hương Thanh Khê, Đà Nẵng, và công lao của Đại đức Thích Như Ký cũng không kém vì Đại đức cũng đưa xe vào tận Hà Lam, Thăng Bình để đón bộ đội của Đại tá Phan Hoan vào thành phố không hề gặp trở ngại”.

    Giữa lúc đó, tôi nhìn thấy Thượng tọa Thích Quang Thể quay vào phía góc chùa nhìn tôi một cách ái ngại. Tôi hiểu ý, nên liền chào Thượng tọa và ra về.

    Sau đó, “Lực luợng Hòa hợp-Hòa giải Phật giáo” (Ấn Quang) đã hướng dẫn các đoàn xe của bộ đội VC vào chiếm giữ các đơn vị của quân đội cũ, và lại dùng loa phóng thanh kêu gọi:
    • “Yêu cầu tất cả đồng bào hãy treo cờ Phật giáo!”

    Phải công nhận là Phật giáo nói Phật tử chiếm 80% là đúng, Nhưng chỉ đúng trong những ngày này mà thôi, vì thấy các “chùa” đồng loạt treo cờ “Mặt trận giải phóng miền Nam” cũng như thấy khí thế của Phật giáo như vậy, nên nhiều người bình thường chỉ theo đạo thờ cúng ông bà hoặc Khổng Giáo nhưng vì muốn an thân, họ đã đến các “chùa” mua cờ ngũ sắc đem về treo trước cửa, xem như là lá bùa hộ mệnh. Trừ ba tôn giáo đã chấp nhận mọi thứ, cương quyết không treo cờ Phật giáo đó là Công Giáo, Tin Lành và Cao Đài.

    Ngoài ra, để lập công với “cách mạng” Đại đức Thích Minh Tuấn, đã nhân danh: “Phó đại diện tỉnh giáo hội Phật giáo (Ấn Quang) QN-ĐN, Hiệu trưởng trường Trung tiểu học Bồ Đề, xin dâng hiến tất cả các trường Bồ Đề và các cơ sở khác của giáo hội cho cách mạng”. Thấy vậy, có nhiều Phật tử phản đối, Thích Minh Tuấn trả lời:
    • “Bây chừ mình đâu có cần gì những thứ đó nữa, vì chúng ta có công đánh đuổi Mỹ-Ngụy, thống nhất đất nuớc, mọi việc Giáo hội cần đến thì có chính phủ giúp đỡ”.

    Khi nói đến LLHG, thì ngoài những công lao trên họ còn có những thành tích khác đáng kể như sau đây:

    Trong lúc đồng bào trên đường di tản, LLHG đã xuống tận bến Bạch Đằng dùng loa phóng thanh kêu gọi:
    • “Chúng tôi Lực luợng Hòa hợp, Hòa giải thị bộ Đà Nẵng. Trụ sở đặt tại chùa Pháp Lâm ở số 500 đường Ông Ích Khiêm Đà Nẵng, thiết tha kêu gọi đồng bào đừng di tản, hãy ở lại với chính quyền cách mạng ; ngụy quân, ngụy quyền cấp bậc, chức vụ gì sẽ được trả nguyên cấp bậc và chức vụ ấy”.

    Vì thế, mà ở trại cải tạo T.154, Tiên Phước, Quảng Nam, tôi biết có người không phải sĩ quan mà đã khai là “Trung úy”, mục đích để được “trả lại”…cấp bậc cũ! Nhưng không ngờ, rồi sau đó họ đã phải ở tù như những sĩ quan thật. Và rồi, cấp bậc, chức vụ gì thì phải ở tù theo cấp bậc, chức vụ ấy!!!

    Nhân đây, tôi xin viết thêm một trường hợp khác. Trong cơn say máu người, Hòa giải Phật giáo cũng đã đến nhà ông bà Trần Quốc Thái ở số 06 đường Lý Thường Kiệt, Đà Nẵng, Nhưng khi ập vào nhà thì chỉ còn căn nhà trống. Ông bà Trần Quốc Thái đã chạy thoát, mất mồi, chúng tức tối la hét, đập phá lung tung. Tôi nghĩ là ông bà Trần Quốc Thái đã có được một hồng ân quá lớn, nếu không thì chúng đã xé xác ông rồi, nhẹ lắm cũng như ông Trần Sô vậy.

    Nhân đây, tôi xin nói rõ về ngôi nhà này: Tôi biết ông bà Trần Quốc Thái đã vay muợn của nhiều người để xây cất, Nhưng sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị bọn đâm thuê chém mướn giết chết, Hội đồng Gian nhân Phản loạn đã tịch thu với lý do là “tài sản của đảng Cần Lao” và dùng làm cơ quan Nha Cảnh sát Quốc gia vùng 1. Ông bà Trần Quốc Thái đã dắt con cái đi ở nhờ nhà người khác; nhưng cũng phải thắt lưng, buộc bụng để có tiền trả cho đến mười năm mới hết nợ làm nhà. Năm 1973, vì truy tìm mãi vẫn không có bằng chứng là «tài sản của Cần Lao» nên ngôi nhà mới được trả lại cho ông bà Trần Quốc Thái. Đến năm 1975, Hòa giải Phật giáo chiếm giữ, sau đó giao cho VC lấy làm Bộ chỉ huy công an vũ trang.

    Từ ngày 30/04/1975, Việt cộng ra lệnh truy tầm ông Trần Quốc Thái, “Bí thư đảng Cần Lao miền Trung”. Tôi cũng biết ông Trần Quốc Thái là người Bắc di cư, thời Đệ Nhất Cộng Hòa có làm Quận trưởng quận Điện Bàn, Quảng Nam, còn có Cần lao hay không thì khó biết được, vì đảng Cần Lao không công khai hoạt động như các đảng phái khác.

    Một nạn nhân khác là ông Trần Quốc Dân,người Thanh Khê, quận 2, Đà Nẵng, đi kháng chiến chống Pháp, sau đó là Thiếu tá Quân đội Bắc Việt xâm nhập vào Nam. Lúc đó, ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Sao Vàng, (sau là Sư đoàn Sao Vàng) Nguyễn Chơn cũng người Thanh Khê, Đà Nẵng là Trung đoàn phó. Ông là người đầu tiên rời bỏ hàng ngũ VC trở về với Chính Nghĩa Quốc Gia vào năm 1962. Ông kể với người thân:
    • “Trước đó tôi có gặp người của ông Ngô Đình Cẩn, nên mới dám quyết định trở về. Sau khi quyết định, tôi đã lợi dụng trong một lần giao tranh với quân đội VNCH tại chiến trường Đại Lộc, Quảng Nam, tôi vượt sông Thu Bồn và theo sự hướng dẫn của người tôi đã gặp, tôi được gặp ông Ngô Đình Cẩn. Và tôi được sự giới thiệu của ông Cố vấn nên tôi vào Sài Gòn trình diện Tổng Thống Ngô Đình Diêm., vì tôi tin tưởng rằng Tổng Thống chắc chắn hiểu được những người đi tham gia kháng chiến chống Pháp. Và tôi đã nghĩ đúng, vì khi gặp mặt Tổng Thống, sau khi nói rõ về mình và trình bày ý nguyện của tôi, thì Tổng Thống dạy rằng:
      • Tôi đã hiểu được chú em, bây giờ đáng lẽ ra tôi trả lại em quân hàm Trung tá, vì ngoài đó có cấp Thượng tá, Nhưng thôi vì danh dự Quốc Gia em hãy nhận quân hàm Thiếu tá.
      Tôi xin được ra chiến đấu, Nhưng Tổng Thống bảo:
      • Không được, hãy về đoàn tụ với gia đình trước khi nhận công tác.
      Và Tổng Thống ban thưởng tôi ba trăm ngàn đồng từ tay của Tổng Thống”.

    Ông Trần Quốc Dân trở về Đà Nẵng, sau một thời gian ngắn ông mua một căn nhà tại đường Trần Cao Vân và cuới vợ. Rồi ông được làm việc tại Bộ Công Dân Vụ.

    Một năm sau, Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị bọn đâm thuê, chém mướn giết chết. Là một người cứng cỏi, Nhưng ông Dân đã rơi nuớc mắt, ông kêu lên:
    • “Thế là hết! Tổng Thống không còn nữa, thì sẽ không còn ai hiểu tôi ngoài Tổng Thống”.

    Vài tháng sau ông tâm sự với người thân:
    • “Tôi chán nản trước nạn kiêu binh và kiêu tăng ngày càng lộng hành trên đất nuớc, chắc tôi sẽ xin xuất ngũ”.

    Tôi không nhớ rõ ngày tháng, Nhưng sau đó ông đã xin xuất ngũ và cộng tác với cụ Vũ Hồng Khanh. Chức vụ cuối cùng VNQDĐ của ông là một trong bốn Phó chủ tịch Thành bộ Đà Nẵng.

    Ngày 24-03-1975, trong lúc ông Trần Quốc Dân chuẩn bị đưa gia đình đi di tản, thì bất ngờ hai ông: Đại đức Thích Như Ký, Tổng thư ký Giáo hội Tăng già Quảng Nam-Đà Nẵng cùng Huỳnh Phổ, cư sĩ Chánh đại diện Giáo hội Phật giáo quận 2, Đà Nẵng(cả hai đều là cố vấn của LLHG Thị bộ ĐN) dắt theo một đám “Thanh niên Phật tử” có vũ trang đến nơi (sau này tất cả trở thành công an VC). Hai người này vào nhà ông Dân, Thích Như Ký nói:
    • ”Chúng tôi Ban lãnh đạo Lực luợng Hòa giải Thị bộ Đà Nẵng, mời ông lên chùa tỉnh Giáo hội để cùng làm việc, ông hãy tin tưởng vào chúng tôi và ông sẽ có một chỗ đứng trong lòng lịch sử”.

    Nói là “mời” Nhưng đám thanh niên Phật tử đứng sau lưng hai ông, tên nào cũng lăm lăm tay súng. Không còn cách nào khác, ông Dân đành phải theo chúng lên chùa.

    Ông Dân đi rồi, gia đình biết ông sẽ gặp nguy, nên vợ ông dắt hai đứa con thơ của ông bà đến chùa Pháp Lâm tức chùa Tỉnh Giáo hội Phật giáo Quảng Nam-Đà Nẵng để xin gặp chồng; Nhưng đội An ninh Phật tử chặn ngay ở ngoài cổng không cho vào. Vợ ông Dân khóc lóc, van lạy thế nào cũng không được, nên đành dắt hai con trở về.

    Ngày 30-03-1975, khoảng 10 giờ sáng, LLHG Phật giáo đưa ông Dân từ chùa Pháp Lâm đến nhà giam Kho Đạn ở số 15, đường Đào Duy Từ, Đà Nẵng. Lúc giải giao, chúng đã trói hai tay ông ra sau, còn tròng thêm một vòng thòng lọng lên cổ, cách trói này giống như chúng đã trói các vị quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa, trong cuộc bạo loạn bàn Phật xuống đường, vào mùa hè 1966; khi áp giải các vị nói trên đến chùa Phổ Đà. Bởi cách trói này, nếu nạn nhân bỏ chạy, thì sợi dây sẽ tự thắt cổ lại mà chết. Như thế, vẫn chưa đủ, mà đội “An ninh Phật tử” còn cầm súng đi kèm hai bên. Thấy vậy, đồng bào Đà Nẵng đã gọi chúng là “Ủy ban Áp giải”.

    Ngày 03-04-1975, khoảng 21 giờ tối, Nguyễn Chơn, tướng VC. Đến nhận ông Dân tại nhà giam Kho Đạn. Sáng hôm sau, người ta phát hiện xác của ông Dân đã chết, xác được bỏ vào Nhà Vĩnh Biệt của Quân Y Viện Duy Tân ĐN, trên thân thể của ông có nhiều vết đạn.

    Chúng tôi xin nhắc lại. Năm 1962, ông Dân là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Sao Vàng, thì Nguyễn Chơn là Trung đoàn phó. Sau khi ông Dân bỏ đơn vị trở về với Chính Nghĩa Quốc Gia, thì Nguyễn Chơn đã thay thế ông Trần Quốc Dân làm Trung đoàn trưởng. Đến 1975, Nguyễn Chơn lên tướng. Như vậy, cho chúng ta thấy, một mặt Phật giáo Ấn Quang đã bắt ông Trần Quốc Dân đem giam trong chùa Pháp Lâm. Mặt khác ra lệnh cho Thích Minh Tuấn đem xe ra tận đèo Phú Gia để rước Sư đoàn Sao Vàng của Nguyễn Chơn (tướng VC), rồi sau đó giao ông Dân cho Nguyễn Chơn xử bắn, theo chỉ thị của VC một cách rõ ràng không thể chối cãi.

    Sau khi ông Dân chết, bọn “An ninh Phật tử” đã hướng dẫn VC, xông vào nhà ông Trần Quốc Dân dùng bạo lực đuổi vợ con ông ra khỏi nhà, mà chúng nói là “Nhà của Diệm”. Vợ ông Dân chỉ được ôm mấy bộ áo quần và dắt các con ông bà về nương tựa với gia đinh tại chợ Tân Lập, Đà Nẵng.


    Những người đã chết dưới bàn tay tàn bạo của “Lực luợng An ninh Phật giáo Ấn Quang”:

    Tối 29-03-1975, Đội “An ninh Phật giáo” (Ấn Quang) đã bắn chết bảy người tại quận 3 Đà Nẵng. Trong số này chúng tôi biết mặt, biết tên bốn người, đó là các ông:
    • 1- Hồ Hân, quê Quảng Ngãi, nhà ở An Thị, An Hải Bắc, nguyên Trưởng ban Thẩm vấn Ty Cảnh sát Quốc gia, thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Năm 1964, ông bị Phật giáo bắt đánh về tội “Dư đảng Cần Lao”.

      2- Nguyễn Phận, nhà ở An Tân, An Hải Bắc, nhân viên ban 2 Chi khu quận 3, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, thuộc Khu đảng bộ Yên Bái.

      3- Phạm Lý, quê Tứ Câu, Thanh Thủy, Điện Bàn, Quảng Nam, nhà ở An Cư 3, An Hải Đông, công nhân sở Mỹ, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cả hai vị nói trên đều trực thuộc Trung ương Pháp định do cụ Vũ Hồng Khanh lãnh đạo.

      4- Riêng ông Bùi Ngọc Cang, Phường trưởng Phường An Hải Bắc. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa ông là nhân viên phòng 2, Thị đoàn Bảo An Đà Nẵng. Năm 1964, ông bị Phật giáo bắt đánh về tội “Dư đảng Cần Lao”.

      Lúc “Lực luợng An Ninh Phật giáo” (Ấn Quang) đến nhà, vợ ông Cang ra mở cửa. Vừa thấy mặt ông Cang là một tên đã bắn xả vào người ông liền mấy phát. Ông Bùi Ngọc Cang gục chết ngay giữa nhà, trước sự kinh hoàng của vợ con; bà Cang ngất xỉu, các con ông gào thét lên kêu cứu, còn “Đội An Ninh Phật Giáo” (Ấn Quang) lạnh lùng bỏ đi ra!!!

      Cùng bị bắn với bốn vị kể trên, còn có ba người nữa. Tôi nhớ một người tên Mua, một người tôi quên tên cả hai người này đều là người An Hải Đông, quận 3 Đà Nẵng, là Cán bộ Liên hiệp Nghiệp đoàn lao công, đảng viên Đảng Công Nông do Chủ tịch Trung ương Trần Quốc Bửu lãnh đạo; và một người khác là nhân viên Cảnh sát, người Quảng Trị (tôi cũng quên tên) đã bị bắn chết ngay trước Trại Ngô Quyền, An Hải Bắc, quận 3. Sau khi chết được đồng bào chôn cất ngay tại chỗ. Cho đến trước ngày vượt biển, tôi vẫn còn thấy nấm mộ của người này tại đó, đồng bào vẫn thường đến thắp hương cho nấm mộ vô chủ này. Không biết bây giờ có dời đi nơi khác hay không?!


    Ngoài ra, vào buổi chiều 29-03-1975, khoảng 19 giờ, vì không lên tầu di tản được, tôi trở về nhà; lúc ấy tôi còn rất trẻ, độc thân, nên mẹ tôi lo sợ không muốn cho tôi đi đâu; nhưng tôi muốn biết những gì đang xảy ra tại thành phố Đà Nẵng. Vì thế, một mình tôi đã chạy xe đến ngã ba Huế, thì bỗng thấy một đám đông vây quanh trước một căn nhà ở góc phía trái thuộc phuờng An Khê, quận 2, Đà Nẵng làm kẹt xe. Tôi phải dừng lại, trước mặt tôi là một nhóm “An ninh Phật giáo” (Ấn Quang) đang đằng đằng sát khí trực chỉ vào một căn nhà khá khang trang, đang đóng cửa, bọn này la hét:
    • “Tất cả mọi người ở trong nhà phải đều ra ngoài hết, nếu không thì chúng tao sẽ đốt nhà”.

    Sau một hồi lâu không thấy động tĩnh; tôi nhận thấy trên khuôn mặt của đồng bào ai cũng đều lo sợ. Có lẽ ở gần nhà nên họ biết về những người trong nhà này. Trong lúc đồng bào đang lo lắng, thì bỗng có hai người đàn ông khoảng chưa tới ba mươi tuổi đã mở cánh cửa ở bên hông trái của căn nhà bước ra. Nhưng thật bất ngờ là khi hai người này vừa bước xuống chưa hết bậc tam cấp; thì bọn “An Ninh Phật Tử” liền nổ súng bắn xả vào hai người này. Cả hai vị đều gục chết trên vũng máu, thân thể nằm vắt ngang nửa trên nửa dưới của bậc tam cấp nơi thềm nhà của họ. Thấy vậy, tôi mới hỏi thăm đồng bào ở đó và tôi được biết: hai vị đó là hai anh em ruột và đều là nhân viên Cảnh Sát.

    Trước cái chết của hai vị này, đồng bào đã khiếp đảm vội giải tán ngay, ai về nhà nấy, tôi cũng phải rời hiện trường lập tức. Nhưng cho đến bây giờ và mãi mãi, tôi vẫn không bao giờ quên được hình ảnh của hai vị cũng như căn nhà của họ, tôi vẫn tâm nguyện sẽ có một ngày được trở lại quê hương để tìm cho ra tên họ của những người đã chết một cách tức tuởi và oan uổng dưới bàn tay tàn ác của Phật giáo Ấn Quang; bởi tôi không muốn tên tuổi của họ sẽ bị đi vào quên lãng!





    “Ủy ban lãnh đạo Lực luợng hòa hợp, hòa giải dân tộc thị bộ Đà Nẵng”:

    Người đứng đầu cái Ủy ban nầy là La Thành Tỵ, một tên tàn ác đã từng ra tay sát hại đồng bào trong cuộc tấn công phường Thanh Bồ – Đức Lợi, làm Chủ tịch LLHHHG Thị bộ, trụ sở được đặt tại chùa Pháp Lâm ở số 500 đường Ông Ích Khiêm Đà Nẵng, nơi trụ trì của Thượng tọa Thích Quang Thể, Chánh Đại diện Phật giáo (Ấn Quang) Quảng Nam – Đà Nẵng.

    Tôi vẫn nhớ, bắt đầu từ ngày 01/04/1975, sau khi đã có công ra tận vùng giặc đón VC vào thành phố, LLHHHG liên tiếp từng ngày cho xe chạy khắp đường phố dùng loa phóng thanh kêu gọi:
    • “Chúng tôi Lực luợng Hòa hợp-Hòa giải Thị bộ Đà Nẵng. Yêu cầu tất cả ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái chính trị thuộc chế độ Sài Gòn, hãy mau mau tập trung về chùa Pháp Lâm, tức chùa tỉnh giáo hội giao nộp vũ khí và trình diện”.

    Đối với Quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa đều chưa biết số phận mình sẽ ra sao, khi nghe lời kêu gọi đó họ đã đến “chùa” để trình diện. Một điều mà chắc nhiều người còn nhớ, là lúc chạy giặc đa số sĩ quan vứt bỏ súng, khi đến chùa trình diện không có súng đã bị La Thành Tỵ, một trong những tên sát thủ trong cuộc tấn công hai Phường Thanh Bồ – Đức Lợi, 24-8-1964. Lúc này là Chủ tịch LLHHHG thị bộ Đà Nẵng, cùng lũ lâu la trong cái thị bộ này, lớn tiếng la lối, nạt nộ đủ điều:
    • “Các anh phải giao nộp súng ngắn, vì sĩ quan phải có súng ngắn, các anh giữ súng lại để tìm cách chống phá cách mạng à? Không có súng ngắn chúng tôi không cấp giấy chứng nhận đâu”.

    Vậy là các vị sĩ quan này phải về đi tìm súng, Nhưng súng còn đâu nữa mà tìm, bởi lúc hỗn loạn xảy ra, La Thành Tỵ đã ra lệnh cho thanh niên Phật tử phải đi thu nhặt hết đem về chất trước sân chùa. Nhưng có vị đã đi đến những hang cùng, ngõ hẻm tìm được súng, có vị tìm được cả chục khẩu súng như M.16, AR.15… vác lên chùa. Trong số đó, tôi biết có một người là Thiếu Tá Đỗ Công Hào, Thuộc Tiểu đoàn 10, Chiến Tranh Chính Trị, cũng ôm một bó súng, ông yên tâm đem vào chùa; Nhưng không ngờ khi nộp súng ông lại càng bị La Thành Tỵ la hét càng to hơn nữa:
    • “Các anh có đem hàng trăm súng dài cũng không được, vì Sĩ quan thì phải giao nộp súng ngắn, các anh phải nộp súng ngay, không thì đừng có trách”.

    Đến nuớc này, thì các vị không có “súng ngắn” chỉ còn có một cách là về nhà đem tiền lên chùa để đưa cho “Lực Luợng An Ninh phật Giáo” đám này hễ ai có tiền thì chúng lấy những cây “súng ngắn” trong cái đống súng ở trước sân chùa trao cho, để nộp và để đổi lấy cái “Giấy chứng nhận trình diện” của “Thị Bộ Hòa Hợp-HòaGiải”. Thiếu tá Đỗ Công Hào cũng phải đem tiền mua súng. Sau đó, ông đã phải vào nhà tù “cải tạo” T.154, đến gần mười năm sau khi đã bị què một chân mới được ra tù. Và bây giờ, dù đã trải qua những năm dài bị hành hạ, đọa đày, nhưng Thiếu tá Đỗ Công Hào vẫn còn giữ nguyên được cái cây… súng ngắn. Chẳng biết bây giờ bọn Hòa hợp-Hòa giải Phật giáo có còn muốn đòi Thiếu tá Đỗ Công Hào phải trình ra cái cây… súng ngắn nữa không???




    Việt Cộng trả công cho “Lực luợng Hòa hợp Hòa giải Phật giáo Ấn Quang”:

    Trở lại với cái gọi là LLHHHG, sau khi Quân – Cán, – Chính Việt Nam Cộng Hòa đã giao nộp vũ khí, thì trước sân chùa một đống súng cao như núi; thì Lực luợng Hòa hợp – Hòa giải đã đến Tòa Thị Chính mời “Ủy ban Quân quản” đến nhận súng. UBQQ cử Hoàng văn Lai, “ủy viên an ninh” (sau Lai là Đại tá Trưởng ty công an QN-ĐN) đến chùa Pháp Lâm, Lai đứng ở sân “chùa” dằn từng tiếng:
    • “Các anh hãy trả lời: Cách mạng chiến thắng hay Phật giáo chiến thắng? Hòa giải là cái gì? Mỹ, ngụy bỏ chạy, chúng tôi tiếp thu chớ có có ai đánh đâu mà hòa giải, còn súng, chúng tôi không cần, cho các anh đấy!!!”.

    Bấy giờ đến luợt “Ban lãnh đạo hòa giải” lạy Hoàng Văn Lai để y chở đống súng đi, vì để đống súng nằm hoài ở sân “chùa” thì … không tiện. Sau đó “Ủy ban quân quản” ra lệnh như sau:
    • “– Sĩ quan trình diện tại số 03 Duy Tân.
      – Ngụy quyền trình diện tại số 12 Bạch Đằng.
      – Đảng phái chính trị trình diện tập thể tại số 09 Gia Long”.

    Có người nghĩ rằng đã có giấy chứng nhận của “Lực lượng Hòa hợp, Hòa giải Phật giáo”(Ấn Quang) nên không đi trình diện nữa. Nhưng nhiều vị đã bị bắt vì không có giấy chứng nhận của “Ủy ban quân quản”, có người xuất trình giấy chứng nhận của ”LLHHHG” thì bọn an ninh nói:
    • “Giấy chứng nhận của hòa giải hãy bỏ vào sọt rác vì không có giá trị, chỉ có giấy chứng nhận của ủy ban quân quản, có chữ ký của ông Hoàng văn Lai mới có giá trị”.

    Cuối cùng Quân – Cán – Chính Việt Nam Cộng Hòa ở thành phố Đà Nẵng phải đi trình diện hai lần; nhưng may là lần sau không bị đòi nộp “súng ngắn” nữa!!!

    Bây giờ đến lượt “cách mạng thưởng công” cho “Lực luợng hòa giải: Qua sự thanh lọc, một số đông bị rớt, riêng La thành Tỵ được tiếp tục làm việc trong “Mặt trận tổ quốc”, hiện nay La Thành Tỵ là “Trưởng ban hướng dẫn gia đình Phật tử Quảng Nam – Đà Nẵng”.




    “Chính quyền Phật Giáo”:

    Một điều, hơn ai hết chính LLHG Phật giáo chắc khó quên, ấy là trong thời gian hơn một tháng từ 20/03/1975, LLHG đã nổi lên cướp chính quyền phường, khóm, xã, thôn, bởi chính quyền cũ có người đã di tản, còn những người kẹt lại vì thấy những bộ mặt đằng đằng sát khí của những “ông” hòa giải nên chẳng ai dám nói gì. Họ cũng tự xưng là Phường trưởng, Xã trưởng, Thôn, Khóm trưởng, đã làm mưa làm gió, bắt giết người, lập tòa án nhân dân đấu tố nhiều người đến 29/03/1975, VC vào thành phố rồi, chúng cũng không hề nói gì mà còn vui vẻ bắt tay “các ông hòa giải” gọi là “đồng chí”.

    Nhưng sau ngày 30/04/1975, Việt cộng mới yêu cầu các khuôn hội bàn giao chính quyền cho chúng. Điều này đã làm “Hòa giải Phật giáo” bị mất mặt trước dân chúng, nên “Chính quyền Hòa giải” nhất định không chịu bàn giao, vì đã nắm quyền hơn một tháng rồi, giết người chẳng ít, bắt giam cũng nhiều (như tôi đã viết ở bài trước). Nên chính quyền hòa giải Phật giáo đòi Việt cộng phải hợp thức hóa cho họ trở thành những cán bộ lãnh đạo phuờng, khóm, xã, thôn vì đã có công lao đưa xe đi đón “bộ đội” Bắc Việt vào thành phố.

    Cuối cùng Việt cộng tổ chức một cuộc mít-tinh tại Đài phát thanh Đà Nẵng, trong buổi mít tinh ban tổ chức đã giới thiệu tên Trần Thận, “Thường vụ tỉnh ủy Quảng-Đà” lên phát biểu như sau:
    • “Sở dĩ có cuộc mit-tinh hôm nay là do sự đòi hỏi của Phật giáo. Tôi nhấn mạnh là Phật giáo chớ không có hòa hợp, hòa giải chi hết á. Vì cái chiêu bài hòa hợp, hòa giải là chỉ do Phật giáo tổ chức ra để lừa bịp với chế độ Sài Gòn mà thôi. Chúng tôi công nhận Phật giáo Ấn Quang đã có công đóng góp với cách mạng đánh đổ Mỹ- ngụy. Nhưng, đó là nghĩa vụ công dân chớ không vì thế mà Phật giáo đòi cầm quyền.
      Hiện nay, còn có một số phuờng, khóm, xã, thôn thuộc các khuôn hội còn nắm giữ không chịu bàn giao cho ủy ban nhân dân các địa phương. Phật giáo nên biết, ngày xưa ông Lý Vạn Hạnh là cha ruột ông Lý Công Uẩn nên Phật giáo muốn làm gì thì làm, còn hiện nay ông Đôn Hậu không phải là cha của đồng chí Lê Duẩn, và chính quyền cách mạng chứ không phải là triều Lý. Vậy chúng tôi yêu cầu Phật giáo phải khẩn trương bàn giao gấp, nếu chậm trễ chúng tôi sẽ có biện pháp…”.

    Nói đến đây, y nổi nóng vung tay hét:
    • “Nay đất nước đã có độc lập tự do rồi mà không lo tu thân, tăng gia sản xuất để góp phần xây dựng đất nuớc, mà cứ đòi cầm quyền! Phật giáo lấy tư cách gì để đòi cầm quyền? Ai cho cầm quyền? Phật giáo chỉ có cầm …cầm … cầm…”

    Bỗng nhiên có tiếng cười nổi lên, nhiều bà cuời lớn quá khiến tên Thận phải khựng lại, rồi không biết phải nói tiếp những gì nên y nói đại:
    • “Ơ…ơ … cầm … cầm … cầm … cái gì cũng được nhưng không được cầm quyền”.




    Thích Đôn Hậu bắt buộc đồng bào phải đi diễn hành mừng sinh nhật Hồ Chí Minh:

    Ngày 18/05/1975, Thích Đôn Hậu chỉ thị tỉnh giáo hội Quảng Nam – Đà Nẵng và Thị bộ Hòa giải tổ chức sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Pháp Lâm. Trước khi tổ chức sinh nhật, các khuôn hội tại các quận lân cận và thành phố Đà Nẵng ra lệnh cho đồng bào phải tập trung về “chùa” Phổ Đà “để bắt đầu cuộc diễn hành chào mừng chiến thắng và dự sinh nhật của bác Hồ vị cha già của dân tộc”.
    “Lực luợng Hòa hợp-Hòa giải “ đã bắt đồng bào ở các quận như: Duy Xuyên, Điện Bàn, Hội An, Hòa Vang… phải đi bộ, mọi người phải tay cầm đèn gió để đem xuống thì thắp sáng lên cho nó ra vẻ “phấn khởi hồ hởi” và gói cơm đem theo để ăn dọc đường vì có nơi phải đi bộ một ngày một đêm mới tới Đà Nẵng. Trước khi đi, các khuôn hội đã tập dượt cho đồng bào hô khẩu hiệu như sau: Khi những “ông” hòa giải tay cầm loa phóng thanh, mồm hô:
    • “Hoan hô bộ đội giải phóng miền nam anh hùng”
    ,thì đồng bào phải hô lớn
    • “hoan hô …hoan hô…”
    còn khi mấy “ông” hô:
    • “Đả Đảo đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai bán nuớc”
    , thì đồng bào phải hô
    • “đả đảo…đả đảo…”

    Nhưng sau một đêm ngày đi bộ vì mệt và buồn ngủ, nên đồng bào chẳng còn nhớ những gì khác cả, mà chỉ còn nhớ bốn tiếng “hoan hô” và “đả đảo” mà thôi. Tôi vẫn nhớ như in vào đêm ấy đã hơn một giờ sáng ngày 19/05/1975. Lúc đó tôi đang ngủ, thì bỗng nghe tiếng chân người đi, tiếng ồn ào, tiếng loa phóng thanh cùng với tiếng hô “hoan hô…đả đảo…”. Bây giờ mỗi lần nhớ lại chuyện đêm ấy, nếu có ai thì tôi kể lại để cùng cười, còn nếu chỉ mình tôi, thì tôi … cười một mình.

    Đêm ấy, khi đoàn người đã bị các “ông” hòa giải hành hạ đang đi qua nhà, tôi đã vừa cảm thương đồng bào vừa không nén được tiếng cuời, khi nghe mấy “ông” hòa giải tay cầm loa phóng thanh mồm la ơi ới:
    • “Bà con ơi! ai rớt gói cơm?
    thì có tiếng của đồng bào đáp trả
    • “hoan hô… hoan hô…”

    Nghe vậy mấy “ông” hòa giải lại la lớn:
    • “Bà con ơi! gói cơm ai rớt?”

    Đồng bào lại hô:
    • “đả đảo … đả đảo …”.

    Cứ tiếp tục như vậy, một hồi lâu, đồng bào cứ mắt nhắm, mắt mở cũng chỉ biết có ”hoan hô”với “đả đảo” cái… gói cơm. Cuối cùng, các “ông Hòa giải” tức quá mới đi tới gần từng nhóm người, tay đập mạnh vào người họ mồm hét:
    • “Gần sáng rồi, tỉnh táo đi, nghe chúng tôi nói đây nè ai… làm… rớt… gói… cơm… thì nhận lại, chứ nghe cái gì đâu mà cứ hoan hô với đả đảo hoài… vậy hả?”

    Lúc đó đồng bào mới biết là có “sự cố”.

    Nên biết là lúc đó, đồng bào rất sợ Hòa giải Phật giáo, các khuôn hội buộc mỗi gia đình ít nhất phải có một người phải cầm đèn gió đi diễn hành.Tại thành phố Đà Nẵng, để cho nó có “hệ thống” trước khi diễn hành đến “chùa” Pháp lâm, các khuôn hội dùng loa phóng thanh kêu gọi:
    • “Yêu cầu tất cả đồng bào hãy tập trung về tại “chùa” Phổ Đà ở số 340 đường Phan Châu Trinh ĐN, tức Phật học viện Trung phần, để bắt đầu cuộc diễn hành trên khắp thành phố suốt đêm để mừng cách mạng chiến thắng, cho đến sáng ngày 19-05, trước khi đến chùa Pháp Lâm tại số 500, đường Ông Ích Khiêm để mừng sinh nhật Hồ Chủ tịch vĩ đại!”

    Trở lại với cuộc diễn hành hay đúng hơn là Hành diễn. Sau khi đã thấy những sự kiện kể trên, tôi nghĩ chờ Trời sáng sẽ xuống chùa Pháp Lâm xem thử mọi việc ra sao. Khi đến đến “chùa” Pháp Lâm, tôi cùng vào với đồng bào diễn hành. Chúng tôi đã chứng kiến “Thượng tọa” Thích Đôn Hậu ngỏ lời nói:
    • “Yêu cầu đồng bào từ nay hãy lập tại nhà một bàn thờ thật trang trọng, phải có ảnh bác Hồ kính yêu để thờ vị cha già của dân tộc, ảnh đang có tại các chùa, đồng bào hãy đến để mua đem về mà thờ”.

    Tiếp theo Thích Đôn Hậu (dân Đà Nẵng thường gọi là Thích Đoản Hậu hoặc Thích Đâm Hậu), giới thiệu một “cán bộ cách mạng lên nói chuyện với đồng bào” khi người này lên nói chuyện đã tự giới thiệu tên là Hoàng Châu Ký, Giám đốc Sở Thông tin văn hóa khu trung, Trung bộ. Hoàng Châu Ký đã ngỏ lời khen ngợi có đoạn như sau:
    • “… Quý Thượng tọa, đại đức và quý vị thuộc lực luợng hòa hợp hòa giải, là những người đã có công với cách mạng, tham gia đánh đổ Mỹ- ngụy, thật là đáng ngợi khen. Trước đây, quý vị nói là bị Mỹ-Ngụy áp bức, kềm kẹp không có tự do, nay cách mạng đã giải phóng, không còn ai bị áp bức nữa. Từ nay, quý vị tu sĩ đều được tự do ở lại chùa tu hành. Ngoài ra, cách mạng sẽ giúp đỡ bằng cách tạo điều kiện cho có đất đai để quý vị được tự do làm chủ, tự do lao động sản xuất, để góp phần xây dựng đất nước, và để được vinh dự là không còn ăn bám vào thiên hạ nữa.

      Còn đối với những người không phải tu hành, tôi biết ở đây có nhiều người có bằng cấp cao như tiến sĩ, bác sĩ, giáo sư, kỹ sư … Các anh sẽ được trọng dụng trở lại, làm việc theo nghành nghề chuyên môn, bác sĩ trở lại bệnh viện, giáo sư trở lại trường học … Các anh sẽ được bình đẳng như những giáo sư, bác sĩ, kỹ sư cách mạng miền Bắc. Nghĩa là, hàng tháng họ được bao nhiêu ký rau muống, bao nhiêu mì chính (bột ngọt)… thì các anh cũng được lãnh bấy nhiêu. Ngoài ra, muốn cải thiện, nếu ở thành phố không có đất, chúng tôi sẽ giúp đỡ cho các anh có điều kiện để tự do nuôi heo, tự do nuôi gà, tự do nuôi vịt, tự do …tự do…”.

    Hoàng Châu Ký còn nói thêm nhiều thứ tự do nữa, Nhưng sao tôi thấy trên từng khuôn mặt của những “vị trí thức” này bỗng trở nên nhợt nhạt khi biết mình đã có đầy đủ những thứ … tự do!!!

    Trong lúc y còn nói chuyện, Nhưng chúng tôi không thể đứng nhìn những đồng bào tội nghiệp của mình, mà chúng tôi biết chắc chắn là họ phải nằm đường, ngủ chợ, lê lết một ngày, một đêm nữa mới trở về đến nhà của họ, nên chúng tôi phải ra về.




    “Trại Cải Tạo T.154”:

    Đến đây, tôi xin nói qua về trại cải tạo T.154, là hậu thân của trại cải tạo Đá Trắng. Nhân đây, vì tôi vốn là dân gốc tại làng Thạnh Bình, Tiên Phước, Quảng Nam; từ nhà tôi đến nhà cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ cần đi bộ, tôi biết rất rõ về trại này, nơi Bác ruột của tôi đã bỏ mình tại trại vào năm 1964, nên tôi phải nói rõ về cái tên T.154. Bởi khi quận Tiên Phước mất vào ngày 13/03/1975, thì VC đã cấp tốc khởi công phá bỏ trại Đá Trắng vốn ở dưới hầm, để thành lập trại tù mới lớn hơn, từ lúc đầu VC đã bắt thanh niên quận Tiên Phước làm công việc xây dựng bằng nhà tranh vách đất, đến ngày 15/04/1975, Việt cộng cho “khánh thành” và trại Đá Trắng chính thức đổi tên thành “Trại cải tạo T.154”, để rồi các vị ai đã vào đấy, thì ít có vị nào ra trại trước muời năm, có vị đã bỏ mình tại trại vì bị hành hạ đến bệnh tật không được điều trị, có vị bị xử bắn, bị bỏ đói chết trong nhà biệt giam.

    Sau đó, khi đưa tất cả các vị quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã trình diện tại “chùa” Pháp Lâm vào đây, VC lại bắt các vị tù trong trại tự xây nhà tù mới, mái lợp ngói, nền lát gạch. Trại chính là Trại 1, bên nam gồm có 12 (mười hai) nhà, mỗi nhà có bốn phòng, mỗi phòng có hai dãy sạp gỗ dài song song và một sạp chiếc, mỗi sạp chứa được trên dưới 20 (hai mươi) người. Tất cả các phòng, các cánh cửa đều có gài một thanh sắt dài có gắn khóa sắt, để mỗi tối sau một ngày lao động, mọi người tù phải vào phòng để một công an gọi là “Cán bộ trực trại” điểm danh xong rồi khóa cửa lại. Nhưng chưa đủ mà còn có một nhà Biệt Giam, trong nhà nầy có những thanh sắt gài hai chiếc cùm sắt xuyên qua Tường gạch kiên cố, để cùm hai chân người tù, phòng chỉ bốn mét vuông, không có cửa sổ, chỉ có một lỗ thông hơi hình tròn đường kính khoảng 08 cm (tám phân), bên ngoài là cánh cửa sắt có gài một thanh sắt có khóa sắt. Trong trại còn có nhà cấp duỡng (nhà bếp), một trạm xá.

    Ngoài ra, quanh trại VC còn xây thêm các phân trại như các trại: Trại Thôn Năm, Thôn Tư, Na Sơn, Nà Thao, Lò gạch, Nhà chăn nuôi, Nhà máy ly tâm sản xuất đường (chỉ phân phối cho công an, còn tù cải tạo thì chỉ được nhìn mà thôi). Đầu năm 1979, vì đánh nhau với Tàu nên VC chuẩn bị đưa một số vị tù ra Bắc, đã phải ngưng lại, thay vào đó VC đã lập thêm nhà biệt giam 02.79 (Đồng Mộ). Rồi thay vì đưa ra Bắc; vào đêm 03-05-1979, các vị này đã bị trói dính chặt vào nhau. Sau đó, các vị đã bị công an vũ trang dao kề cổ, súng kề lưng, đưa vào nhà biệt giam 02.79 (Đồng Mộ) trong một đêm khuya tối Trời. Trong số này có bốn vị tu sĩ đó là quý ngài:

    – Linh mục Đặng Đình Canh, hiện nay quản nhiệm giáo xứ Thanh Bồ, Đà Nẵng,
    – Linh mục Vũ Dần, hiện nay quản nhiệm giáo xứ Phú Thượng, Đà Nẵng,
    – Linh mục Nguyễn Đình Ánh.

    Riêng Linh Mục Tống Kiên Hùng sau khi ra tù ngài trở về giáo xứ Tam Tòa, Nhưng công an QN-ĐN đã trục xuất ngài vào miền Nam, rồi ngài sang Hoa Kỳ, hiện nay ngài đã vào dòng tu kín tại Hoa Kỳ, và Mục sư Dương Đình Nguyện, hiện cũng đã tiếp tục hầu việc Chúa ở Hoa Kỳ.

    Ngoài các trại tù nam, VC cũng lập thêm phân Trại Nữ gồm có năm nhà, có nhà cấp dưỡng, trạm xá riêng, các phòng cũng kiên cố như trại nam. Nhưng mỗi khi nữ tù “vi phạm nội quy” thì công an trại nữ lại “Lập biên bản” để đưa vào cùm trong nhà biệt giam của trại nam, vì trại nữ không có nhà cùm biệt giam. Ví thế, nữ tù vì mắc cỡ nên rất sợ bị vào nhà cùm ở bên trại nam; bởi bất kể một nữ tù nào chỉ cần có một giờ bị ôm áo quần đi vào nhà cùm ở trại nam, là cả hai trại nam – nữ tù đều biết tất cả.

    Hai trại nam, nữ cách nhau một giòng suối nhỏ, “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa” chung một hội trường để hai trại nam, nữ cùng học tập chính trị, hoặc họp toàn trại mỗi khi trong trại có nhiều người “vi phạm nội quy” hoặc xem văn nghệ vào dịp Tết, hay ngày 2/09, “nghệ sĩ” là các anh chị em đa số thuộc Chiến Tranh Chính Trị cũ.



    Nói đến nhà tù này, thật là kinh hoàng, khủng khiếp!!! Vì là nhà tù lao động chuyên về nông nghiệp, nên cả nam lẫn nữ tù đều phải làm những công việc vô cùng nặng nhọc. Hàng ngày, nữ tù chúng tôi thường đi làm chung với quý vị nhà 08 do Trung tá Nguyễn Văn Chuớc “Tự quản” (nhà trưởng) quý vị này đã từng qua nhà biệt giam 02-79 (Đồng Mộ) và nhà 10 do Thiếu tá Trương Quang Dõng làm nhà trưởng, ngày nào hai nhà này cũng thay phiên lao động bên nữ tù.
    • Các anh đã thay trâu bò cày, bừa cho nữ cấy, gặt. Với chỉ tiêu chung, ba người một sào, bắt buộc phải đạt trong ngày.
    • Ngoài ra phải leo lên đồi cao cuốc đất trồng sắn, mỗi ngày với chỉ tiêu vừa cuốc vừa trồng phải “đạt” 500 cây hom sắn,
    • hay cuốc đất trồng mía, tỉa đậu, trồng khoai,
    • lên rừng nam đốn củi, nữ vác xuống chất thành mét khối, cũng phải “đạt chỉ tiêu”.
    Nói tóm lại làm việc gì cũng phải “đạt chỉ tiêu” hết.

    Nhưng không phải “đạt chỉ tiêu” rồi mà tối về phòng được ngủ sớm,
    • mà tất cả chúng tôi, sau giờ ăn tối còn phải “làm tranh thủ” hái đậu phụng (lạc) cũng “chỉ tiêu” cho ba người đầy một thúng mới được về phòng,
      đặt lưng xuống chưa được bao lâu thì 06 giờ sáng phải thức dậy để bắt đầu một ngày lao động khác.
    • Có khi vừa ăn tối xong, phải “tranh thủ” làm cỏ mía…
      Thôi thì đủ thứ «tranh thủ» không làm sao kể hết.

    Chúng tôi vẫn nhớ, có những lần suốt ngày dầm mình dưới sình, lầy, tới ngực, tới bụng làm mồi cho đỉa; Nhưng vẫn “không đạt chỉ tiêu”. Vì vậy, đến chiều về trại, chúng tôi đã bị phạt, bằng cách không cho tắm rửa. Những lần như thế, chúng tôi cứ khóc như mưa, chẳng làm sao nuốt nổi chén sắn độn cơm, cũng không sao ngủ được vì trên người còn dây dính những bùn lầy, hôi hám!!!

    Chúng tôi cũng không bao giờ quên những năm tháng lao động bên các vị Quân, cán, chính VNCH, thuộc nhà 08 và nhà 10. Tôi vẫn nhớ mãi những ánh mắt đầy thương cảm và lo lắng của các anh, khi nhìn chúng tôi với những tấm thân yếu đuối, mà các anh chỉ nhìn thấy từ bụng, từ ngực nổi trên sình lầy, trong những ngày đông buốt giá, đến những ngày hạ nắng như thiêu đốt. Đôi chân của chúng tôi lúc nào cũng phải lần bước theo những cây đà, do chính các anh đốn từ trên rừng đem bỏ xuống ruộng. Các anh luôn luôn lưu ý đến chúng tôi, để khi nào nữ tù có ai lỡ trượt chân khỏi cây đà, thì các anh kịp thời nối cuốc, nối tay, kéo chúng tôi lên. Vì thế, có nhiều người rơi xuống ruộng, nhưng không hề có một ai bị chết vùi thân dưới sình lầy cả.

    Nhưng với tôi, mặc dù bị tù đày. Tôi vẫn thấy mình có cái “may mắn” là “được” chứng kiến những trận đòn thù dã man, tàn bạo nhất mà công an trại đã giáng trên những tấm thân gầy yếu, trơ xương của nhiều vị tù, nhưng vì là một bài viết có hạn, nên tôi chỉ nói đến những trường hợp như sau đây:

    – Thiếu tá Hồ Minh, ông đã bị “kỷ luật” cùm tay, chân, miệng, và ở phòng biệt giam. Chẳng những thế, mà ông còn bị công an trại dùng những khúc củi đánh đập nhiều lần, đến nỗi mỗi lần ông bị đánh, tù nhân chỉ nghe tiếng hét, tiếng rú của ông chứ không hề nghe tiếng ông nói thành lời. Một lần, tù nhân nghe tiếng mở cửa của thanh sắt phòng biệt giam. Họ thấy ông Hồ Minh bị hai tên công an vũ trang lôi ra khỏi phòng, rồi dùng những khúc củi đánh tới tấp lên người ông. Đau quá, ông bỏ chạy quanh khu biệt giam, lúc ấy, nhiều người mới nhìn thấy chiếc cùm đã không còn trên miệng của ông nữa, Nhưng ông không còn hét thành lời, mà chỉ có tiếng rú vô cùng man dại, đôi mắt vô hồn, nét mặt thất thần, có lẽ ông đã mất trí, cũng có thể vì chiếc cùm lâu ngày trên miệng đã làm ông không còn nói được nữa. Nhưng bọn công an vẫn đánh vì nói ông giả câm, chúng cứ tiếp tục đánh, buộc ông phải nói. Khi ông ngã sấp xuống mặt đất thì chúng không đánh bằng những khúc củi nữa, mà chúng thẳng chân giày đạp lên đầu, lên lưng ông, cho đến lúc ông nằm bất động, chúng mới cho “trật tự” trại khiêng xuống trạm xá trại 1. Nhưng đã quá trễ, vì khi vào trạm xá, thì thân xác ông đã lạnh ngắt tự bao giờ. Mọi người mới hay rằng bọn công an trại đã đạp lên cái xác chết của ông.

    – Đại úy Nguyễn Phuợng, bị cùm bỏ đói cho đến chết. Khi chết rồi, mà đôi chân của ông vẫn còn trong đôi cùm sắt treo trên tường, thân thể quắt queo trên nền gạch lạnh lẽo của phòng biệt giam tăm tối!!!

    – Thiếu tá Nguyễn Xuân Giáo, cựu Trưởng ty Cảnh sát Quốc gia Quảng Nam (thời Đệ Nhất Cộng Hòa). Trước khi chết, ông đã bị hành hạ đến không còn nhìn ra được là con người nữa. Ngày ông chết trong nhà biệt giam, khi đưa ra ngoài, không biết là vô tình hay hữu ý, mà bọn công an đã cho người con trai ruột của ông cùng đồng tù là anh Nguyễn Xuân Đức khiêng xác đi chôn, mà vẫn không biết đó là cha ruột của mình. Cho đến khi huyệt mộ đã lấp đất xong, tên công an trại ra lệnh cho « trật tự » trại mang tấm bảng gỗ đến và viết tên Nguyễn Xuân Giáo, đem cắm dưới chân mộ. Lúc ấy, anh Đức mới kinh hoàng, chết điếng ngã lăn xuống đất, ôm lấy nấm mộ của đấng sinh thành vừa lạy vừa kêu Trời. Nhưng Trời thì ở trên cao và xa quá, còn công an thì ở gần, nên chúng ra lệnh cho “trật tự” trại vực anh dậy và lôi về phòng. Trước cảnh Trời sầu, đất thảm ấy, tất cả tù nhân chỉ biết rơi lệ vì cảm thương và đau xót!!!

    – Chúng tôi cũng đã chứng kiến tại “Đồng Cừ”, hôm ấy là ngày cấy lúa, bọn công an bảo Trung tá Không quân, anh Nguyễn Văn Đức nấu ăn, đến khi dọn cơm ra cho chúng, bỗng chúng nói anh rửa rau muống không sạch, là muốn đầu độc chúng, rồi mấy tên công an vũ trang đã dùng báng súng, dùng giày, đánh, đạp vào người anh đến ngã ngụy xuống mặt đất trước mặt Mục sư Dương Đình Nguyện và Giáo sư Đồng Sĩ Ninh, là hai vị tù chịu trách nhiệm đắp nước ruộng và đồi sắn tại “Đồng Cừ”, cùng đông đảo tù cải tạo. Chúng tôi hết sức kinh hoàng và vô cùng đau đớn, nhưng không biết phải làm gì hơn là cúi mặt để dấu đi những dòng nuớt mắt cứ trào tuôn từ đáy lòng thương cảm, và cũng từ nỗi uất hận. Bởi, anh Đức đã lớn tuổi, mắt kém nhưng không có kính, nếu anh có rửa rau không được sạch thì đó không phải là lỗi của anh. Tại sao chúng không bảo những người tù khác mắt còn nhìn rõ hơn để nấu ăn cho chúng. Vả lại, chúng biết rõ là anh Nguyễn Văn Đức không có ý đầu độc chúng, Nhưng chúng muốn đánh anh vì lòng thù hận. Nên biết, bọn công an luôn luôn tìm một sơ hở nhỏ nào đó của tù cải tạo để có cớ mà đánh, đập, cùm kẹp để hành hạ trả thù mà thôi.

    – Trung tá Nguyễn Tối Lạc, quận trưởng quận Đức Dục, người từng bị cùm cả tay, chân, có khi bị cùm cả miệng. Trước khi bị cùm miệng, ông đã xin Linh mục Vũ Dần, Linh Mục Đặng Đình Canh, Linh Mục Nguyễn Đình Ánh, Linh Mục Tống Kiên Hùng, truyền dạy Kinh Thánh cho ông, nên mỗi lần bị cùm miệng, nhưng còn hai tai nên qua cái lỗ thông hơi của phòng biệt giam, ông vẫn học thuộc hai câu Kinh Thánh mỗi ngày. Và nhiệm mầu thay, ông đã thoát chết. Bây giờ ông đã sang Hoa Kỳ theo diện tù “cải tạo”. Người ta thường bảo khi cùng đường, sắp chết mới thấy Trời. Quả đúng như vậy, khi vào các nhà tù của Việt Cộng là đi vào tử lộ, và chính ở nơi ấy con người mới biết đến Đấng Toàn Năng.

    – Ngoài ra, còn có nhiều vị bị xử bắn tại trại như Đại tá Nguyễn Văn Bình …

    - Đặc biệt là Kỹ sư Trung úy Trần Quang Trân đã bị xử bắn vì tổ chức giải thoát tất cả tù nhân. Nên biết, ông Trần Quang Trân là một Kỹ sư điện tử, từng được tu nghiệp tại Nhật và Hoa Kỳ, ông được công an trại giao cho tất cả công việc bảo quản điện, đài trong trại, được tự do về thành phố Đà Nẵng mua phụ tùng các loại máy móc cho trại, ông cũng là một tay trống của đội văn nghệ trại, Nhưng ông không thể ung dung để huởng những ưu đãi của Việt cộng, không thể nhìn những người đồng cảnh ngộ bị đọa đày. Nên ông phải hành động, để rồi ông phải chịu chết thảm!!


    Ngày ông Trần Quang Trân bị xử bắn, một buổi chiều khoảng 06 h 30 ngày 27/05/1982, khi cả hai trại nam, nữ đã ăn “cơm” xong. Trại nam đã điểm danh khóa cửa, nhưng trại nữ chưa điểm danh. Vì thế, chúng tôi còn rủ nhau đi quanh sân trại để “tâm sự”. Bỗng nhiên, chúng tôi thấy một tiểu đội công an vũ trang xuất hiện, chúng kềm ông Trần Quang Trân ở giữa và dắt theo bốn nam “trật tự” khiêng một chiếc quan tài, tất cả đang đi về hướng Hố Ông Hức, là nơi dành để chôn tù cải tạo. Riêng tôi, là thợ cắt, may được Âu-Việt phục, nên thỉnh thoảng công an trại bảo đi lấy số đo ở gia đình chúng để vào may trong trại nam, vì trại nam có bốn máy may, trại nữ không có, máy may chỉ dành để may áo quần cho công an, còn tù phải tự vá áo quần rách bằng những sợi nylon, tách ra từ bao cát mà ngày xưa thường dùng để làm hầm tránh đạn. Mỗi lần một “cán bộ” nào muốn nhờ tôi cắt, may, thì chính “cán bộ” ấy phải đích thân ra trại nữ xin phép “cán bộ trực trại” để nhận và cùng đi với tôi đến nhà, sau khi đo, đến ngày tôi vào trại nam để may công an cũng phải đi kèm, may xong, lại dắt tôi về trả cho “cán bộ trực trại”.

    Vì vậy, lúc ấy tôi đang từ nhà của vợ chồng Phó giám thị Nguyễn Văn Bá và vợ là Nguyễn Thị Thanh Yên người Kỳ Hà, quận Lý Tín, Quảng Tín. Yên là “cán bộ y tế”. Thời gian này Nguyễn Văn Bá đã lên Phân trại Thôn 05 để kiêm luôn chức “Giám thị” trại Thôn 5. Nhưng không hiểu vì quên giờ hành quyết ông Trần Quang Trân, hay vì tôi đo áo quần cho cả gia đình nên bị chậm trễ giờ giấc. Nhà của vợ chồng tên Bá ở gần Hố ông Hức. Trên đường về trại có “cán bộ” Yên đi kèm, tôi đã nhìn thấy ông Trần Quang Trân bị bịt mắt và cùm miệng, vì sợ ông Trân có thể có lời nói bất lợi, hoặc hô khẩu hiệu, ngay như Trung tá Nguyễn Tối Lạc, khi bị kỷ luật cũng phải bị cùm miệng, bọn công an trong trại không bao giờ cho tù nói những lời mình muốn nói.. Ông Trần Quang Trân bị đưa đến Hố ông Hức. Vừa thấy tôi, mấy tên công an hét lớn, bảo tôi nhanh chân về trại, “cán bộ” Yên bảo tôi chạy ngay về trại, không được nhìn cái gì cả, còn y thị cũng chạy biến vào đám mía của nhà “Phó giám thị” Nguyễn Văn Tài và vợ là Trần Thị Lệ cán bộ phụ trách hồ sơ tù cải tạo. Tôi lén nhìn ông Trân rồi cúi đầu đi thẳng. Khi về trại, tôi thấy mọi nữ tù đều khóc, vì họ cũng đã thấy, và đã biết những gì sẽ xảy ra!!! Khoảng nửa giờ sau, có mấy phát súng nổ. Mặc dù trừ bốn “trật tự” và đội công an hành quyết, không có một ai biết, hay thấy được giây phút cuối cùng của ông Trần Quang Trân, Nhưng nữ tù đều hiểu khi nhìn thấy chiếc quan tài khiêng đi bên cạnh ông, nên họ biết chắc chắn những phát súng đó là đã bắn vào ông Trân. Không cầm lòng được nữa, cả trại nữ khóc thét lên, tiếng khóc thấu Trời, làm bọn công an trên cơ quan nghe được. Vì thế, “cán bộ trực trại” tên Trịnh Thị Thu vợ của “Phó giám thị” Huỳnh Văn Hưng người Bình Dương, Thăng Bình, Quảng Nam, đã xuống trại, y thị phùng mang trợn mắt hét chúng tôi, bảo tất cả vào phòng khóa cửa lại. Y còn nói:
    • “Nếu các chị còn khóc tui sẽ cùm đầu hết”
    . Nhưng chúng tôi không sợ, vì cùm hết thì lấy ai ngày mai đi lao động.

    Trong những ngày đi cắt bổi (cắt những cành lá trên ngọn để bỏ vào chuồng trâu, bò làm phân bón ruộng) quanh Hố ông Hức, tôi đã bốn lần lén lút đến gần ngôi mộ ông Trần Quang Trân. Ông được chôn riêng trên ngọn đồi, dưới chân mộ là một gốc cây cao, có bóng mát tỏa xuống chở che một nắm xương tàn, một linh hồn, mà lúc sinh tiền là một tâm hồn cao Thượng. Những ngày bị cùm kẹp trong phòng biệt giam, những vị tù bị cùm bên cạnh phòng của ông, vẫn thường nghe ông hát lên những Bài Thánh Ca với lời nguyện cầu cho đất nuớc, cho đồng bào, cho những người tù đồng cảnh ngộ. Mỗi lần viếng mộ ông, tôi chỉ vừa đi vừa nhìn, chứ không bao giờ dám đứng lại, vì tất cả tù nhân nếu ai đến thăm mộ ông mà bị chúng bắt được, sẽ bị vào nhà cùm biệt giam cả.

    Tôi cũng biết chắc chắn, khi VC mở tòa án tại trại để tuyên án tử hình ông Trần Quang Trân, cũng như lúc xử bắn VC đều không cho thân nhân và vợ, con ông ở Xuân Hòa, Xuân Lộc, Đồng Nai được biết.

    Tôi cũng xin nói thêm: Sở dĩ “Ban giám thị” trại tù phải xử bắn ông Trần Quang Trân vào giờ gần tối, lúc cả hai trại nam, nữ đều đã đóng cửa, là để không một người tù “cải tạo” nào được nhìn thấy cảnh xử bắn một vị đồng tù. Các vị cựu tù tại trại 1 (Trại chính), chắc còn nhớ, Hố ông Hức nằm ở phía sau nhà “kho lương thực” của trại, và gần các đồng ruộng. Gồm có “đồng giữa , đồng lò rèn”, (vì gần lò rèn của trại) và ”đồng khách” (nhà thăm nuôi còn gọi là “nhà khách”, nên gọi cánh đồng gần đấy là “đồng khách”). Và ở khu vực này, luôn luôn có mặt các vị tù “cải tạo”, là những người được “cắt công” cho ra làm những công việc như: đắp nước ruộng, giữ mía, rèn đúc các dụng cụ “sản xuất” như cuốc, rựa… Tôi còn nhớ tên từng vị Sĩ quan đã có mặt làm những công việc ấy ở khu vực Hố ông Hức. Ngoài ra, địa điểm xử bắn ông Trần Quang Trân là Hố ông Hức, nơi được chọn làm “nghĩa địa” để chôn các vị tù đã chết lại nằm đối diện với “nhà thăm nuôi”, nên thường xuyên có mặt rất đông đảo các thân thân của những người tù, họ đã đến đó từ nhiều thành phố, để chờ “thăm nuôi” thân nhân của họ.

    Một điều khác nữa, là khu “nghĩa địa” Hố ông Hức, là nơi thường xuyên có mặt của dân chúng ở ngoài trại. Trong số đó, có những người thường gọi là “dân bám trụ”. Nghĩa là những năm vùng đất này, đã bị Việt cộng hoàn toàn kiểm soát, họ đã bị kẹt lại, hoặc muốn ở lại với Việt cộng, không trốn chạy ra vùng Quốc Gia. Bên cạnh đó, còn có những người dân đang sống tại một “vùng kinh tế mới”. Họ là những người dân ở các thành phố, bị đưa đến đây. Tất cả những người dân này, dù “dân bám trụ” hay “dân kinh tế mới” họ đều được công an trại tù cho phép đi “mót” khoai, sắn còn sót lại của trại tù, sau khi tù “cải tạo” đã đào, bới xong. Họ cũng thường xuyên vào khu rừng chồi gần Hố ông Hức phía trên đám mía, để lấy củi về nấu ăn nữa.

    Chính vì thế, “Ban giám thị” trại tù phải xử bắn ông Trần Quang Trân lúc gần tối, vì VC không bao giờ để cho những người tù “cải tạo”, những thân nhân của người tù “cải tạo” đang chờ đợi ở “nhà thăm nuôi”, cũng như những người dân của vùng “kinh tế mới”, kể cả “dân bám trụ” được nhìn thấy vụ xử bắn ông Trần Quang Trân, để rồi sau này, họ là nhân chứng.

    Nói về những vị đã chết trong trại tù còn nhiều lắm, khó có thể viết đầy đủ trên một trang báo. Nên tôi lại xin phép một lần nữa để viết về một hòan cảnh thương tâm khác của một người, hay nói đúng hơn là của một gia đình đã bị VC đọa đày đến cảnh khốn cùng, nếu không có niềm tin nơi Đấng Tối Cao thì tôi chắc họ đã không làm sao vuợt qua được những đớn đau, nghiệt ngã, oan khiên mà đảng Cộng sản Việt Nam đã giáng cho gia đình ấy, đó là trường hợp của gia đình
    Giáo Sư Thượng Nghị Sĩ Bùi Văn Giải. Khi di cư vào Nam năm 1954, ông làm nghề dạy học, bà tảo tần buôn bán, tiết kiệm dành dụm tạo được một căn nhà tại phuờng Tam Tòa, đường Trần Cao Vân Đà Nẵng. Khi ông vào tù cải tạo, công an Đà Nẵng đã tịch thu căn nhà của ông bà. Bà đau buồn, ngã bệnh rồi mất ở tuổi đời 36. Ngày mất mẹ, các con ông và người thân đồng cầu khẩn VC cho ông về chôn cất vợ xong rồi tiếp tục vào tù, Nhưng VC vẫn không cho. Ông đã không được nhìn mặt người bạn trăm năm vào giây phút cuối cùng!!! Nhờ bà con giúp đỡ, các con ông chôn mẹ, trong lúc cha vẫn ở trong tù!!! Chỉ có Trời cao mới thấu được nỗi đau thương của các con ông Bùi Văn Giải khi vấn vành khăn tang khóc mẹ, cũng như nỗi đớn đau của ông Bùi Văn Giải ở trong trại tù “cải tạo”!!!

    Những năm dài ở trong lao lý, Giáo Sư Bùi Văn Giải đã từng bị đưa vào nhà “Biệt giam 2.79” tức Đồng Mộ và nhà “Biệt giam Nhà Trắng” cùng với nhiều vị sĩ quan cao cấp và các vị cán bộ lãnh đạo cao cấp của các chính đảng. Khi bị bệnh nặng Giáo sư Bùi Văn Giải phải vào bệnh xá Trại 1 (trại chính), khi xuất viện ông lao động ở tổ rau xanh sau trại nữ, thời gian này tôi vẫn thường thấy ông với mái tóc bạc phơ, tấm thân gầy yếu, Nhưng tiếng hát của ông qua những Bài Thánh Ca nghe vẫn vút cao như bay đến tận Trời xanh.

    Ngày ra tù, theo lời Thầy, tôi đến thăm các con của Thầy. Được biết khi tịch thu nhà, công an Đà Nẵng nói là vì “nhân đạo” nên chừa lại một phòng trong căn nhà của ông bà chỉ bốn mét vuông, để các con ông ăn, ngủ, còn nấu nuớng thì phải nhóm bếp ngoài sân. Nhưng những ngày mưa và mùa đông thì phải dời bếp vào phòng, bốn đứa con ông bà phải ăn, ngủ chung với tro và khói bếp. Nhưng chưa đủ, công an còn buộc các con của Giáo Sư Bùi Văn Giải phải trả tiền nhà hàng tháng cho “Ty nhà đất”, vì căn nhà đã thuộc sự “quản lý của nhà nuớc”!!!

    Với hoàn cảnh bơ vơ, cha ở tù, mất mẹ, các con ông phải bỏ học, đứa vá xe đạp, đứa làm thuê. Riêng Thư, con gái út, là con gái yếu đuối lại còn nhỏ, nên phải làm nghề thêu, may mướn để góp phần trả tiền thuê cho chính căn nhà mà do mồ hôi, nuớc mắt của cha mẹ mình đã tạo nên. Vì nếu không trả thì sẽ bị đuổi ra khỏi phòng, rồi phải lang thang đầu đường xó chợ. Và sau 13 năm tù cải tạo, Giáo sư Bùi Văn Giải đã sang Hoa Kỳ và hiện đang là Chủ nhiệm Nguyệt san Về Bên Mẹ La Vang tại Portland, Hoa Kỳ.





    Tạm thay lời kết

    Khi viết đến những dòng này, tôi bỗng thấy có hơi buồn; bởi tôi biết có rất nhiều người đã biết, đã thấy những hành vi tàn ác của “Khối Ấn Quang” trong suốt bao nhiêu năm qua. Song cho đến giờ này cũng chỉ thấy xuất hiện một số ít bài viết về các biến cố như:
    • Cuộc thảm sát tại Thanh Bồ – Đức Lợi, 24-08-1964 –
      Cuộc Bạo Loạn bàn thờ Phật xuống đường tại thành phố Đà Nẵng, mùa hè 1966 –
      Cuộc Thảm Sát Tết Mậu Thân, 1968,
      và ngày nước Việt Nam Cộng Hòa đã rơi vào tay của Cộng sản Hà Nội: 30-04-1975.
    Nhưng, tất cả họ đã vì một lẽ nào đó, nên đều tránh né, không muốn hay không dám viết hết những sự thật. Tôi nghĩ rằng,
    • có thể bởi bị ám ảnh với những hình ảnh giết người của “Khối Ấn Quang” nên họ sợ đụng chạm,
    • hoặc vì đang đứng ở vào một tổ chức nào đó mà phải cần đến “Khối Ấn Quang”;
    • và còn một lý do khác nữa là họ sợ một ngày nào đó phải cần đến lá phiếu của “Khối Ấn Quang.”
    Riêng kẻ viết bài này là một người không hề có tham vọng về chính trị, nên dù bất kể một thế lực nào cầm quyền tại Việt Nam, kẻ này cũng không màng đến một địa vị, chức tước gì hết. Vì thế, nên không bao giờ cần đến bất cứ một lá phiếu nào; mà điều duy nhất của người viết những loạt bài này là đã tâm nguyện: Suốt đời chỉ làm một người cầm bút, để viết lên tất cả những gì mắt thấy, tai nghe, thấy sao nói vậy, nhớ đâu viết đó. Viết với tất cả tâm thành để cho lớp trẻ sau này còn biết đến những hành vi tàn ác, bất nhân của những kẻ đã từng gieo rắc tang thương, máu lệ cho đồng bào vô tội; hầu cho họ biết đường mà tránh xa phuờng lục lâm, tặc phỉ, để khỏi rơi xuống hố sâu của tội ác. Bởi đó, chính là lương tâm và trách nhiệm của người cầm bút.




    Quốc Hận 30/4/1998
    Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

    nguồn: baovecovang2012.wordpress.com

              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: - 30/04/2019 - tưởng niệm 44 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2019 - tưởng niệm 44 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Tâm sự cuối đời về tượng Thương Tiếc
    của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu







    Điêu khắc gia (ĐKG) Nguyễn Thanh Thu nói với tôi rằng, ông làm nhiều tượng quá đến nỗi bây giờ, ở tuổi già, ông không sao nhớ hết, thậm chí nhìn tượng mà không thể nhớ được tên tượng và nơi đã đặt tượng.

    Người lính Cộng Hòa là đề tài quan trọng trong sáng tác của ông nên ông khó mà quên được. Đó là tượng Chiến Sĩ Vô Danh, tượng Ngày Về, tượng Lính Thủy Quân Lục Chiến, tượng Trung Liệt, tượng Tết Mậu Thân và tượng Thương Tiếc. Như một định mệnh, tượng Thương Tiếc trở thành bức tượng gắn liền với tên tuổi và cuộc đời đầy sóng gió của ông.


    Tiếng vang của bức tượng Thương Tiếc

    Do nổi tiếng từ bức tượng Trung Liệt đặt tại Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, ngày 22/08/1966 ông đã được Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia – Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu giao thực hiện bức tượng Thương Tiếc đặt tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Tượng ngồi, bằng bê-tông cốt thép, màu đen, uy nghiêm, cao 4m, nếu tính cả mô đất dưới chân người lính và bệ tượng thì chiều cao của tượng đài là 8m.



    Tượng hoàn tất và được khánh thành vào ngày Quân Lực VNCH 19/06/1967. Ngay lập tức, tượng đã tạo nên sự xúc động đối với những ai một lần đi ngang qua nơi đây hay chỉ nhìn thấy qua phim ảnh. Do vậy, năm 1970 tượng được đúc đồng, đã đẹp nay càng đẹp hơn.





    Trên không gian rộng thoáng, từ mọi hướng, người ta có thể nhìn thấy bức tượng cao, nổi bật trên nền trời xanh. Đó là người lính từ chiến trường về thăm mộ đồng đội, quân phục, ba-lô lấm bụi, súng trường gác trên hai đùi, lưỡi lê ngang hông, dây quai nón sắt buông thỏng như sợi buồn rơi vào cõi vô định. Anh ngồi thẫn thờ, đôi mắt buồn nhìn xa xăm, thương tiếc cho người bạn vừa nằm xuống. Bức tượng trong bối cảnh đó trở nên có hồn hơn và nhiều chuyện linh thiêng của bức tượng không ngớt lưu truyền trong dân chúng lúc đó. Khó có thể kiểm chứng nhưng cũng không thể không ghi nhận về những câu chuyện cảm động và linh thiêng quanh bức tượng người lính Cộng Hòa này.





    Tiếng tăm của ĐKG Thu và các tác phẩm của ông đã vang xa ra khỏi quê hương. Ngày 20/07/1967, đại tá H.G. Fuller – Bộ Chỉ huy Lục quân Hoa Kỳ ở Việt Nam (USARV) đã gửi thư cho đại tá William P. Jones – Chủ Tịch Ủy Ban Đài Tưởng niệm Chiến Tranh Hoa Kỳ, ca ngợi ông Thu và các bức tượng về đề tài chiến tranh.

    Ông William xem ông Thu là ĐKG xuất sắc nhất ở Việt Nam và đánh giá bức tượng Thương Tiếc là một kiệt tác nghệ thuật. Ông William đã viết: “… xét về đề tài tượng đài chiến tranh, tôi trân trọng đặt tượng Thương Tiếc và các tác phẩm khác của ông ngang hàng với bức ảnh nổi tiếng “Raising The Flag on Iwo Jima” (Dựng Cờ Trên Đảo Iwo Jima) ở Arlington”. Ông cũng tiến cử ông Thu với Ủy ban để thực hiện việc dựng tượng ở Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh trong các dự án tương lai.




    “Raising The Flag on Iwo Jima” (Dựng Cờ Trên Đảo Iwo Jima): đó là tên của bức ảnh đoạt giải Pulitzer do nhiếp ảnh gia Joe Rosenthal chụp ngày 23/02/1945. Đây là trận đánh trong Thế Chiến Thứ II trên đảo Iwo Jima của Nhật. Sau 1 tháng với thương vong lớn cho cả 2 phía, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đã chiếm được đảo. Hình ảnh này được xem là một biểu tượng chiến tranh tuyệt đẹp của phe thắng trận.



    Marine Corps War Memorial (Đài tưởng niệm chiến tranh cho lính Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ): được dựng từ bức ảnh “Rasing The Flag on Iwo Jima”, do ĐKG Felix de Weldon tạc ngày 10/11/1954, hiện đặt tại Arlington County, bang Virginia
    .

    Số phận của bức tượng Thương Tiếc

    Ngay sau khi Sài Gòn thất thủ, “bên thắng cuộc” đã giật đổ bức tượng Thương Tiếc bằng đồng, được dựng năm 1970, rồi chuyển về Dĩ An, cho đến nay không ai biết được số phận của nó. Chưa dừng lại, ít lâu sau đó, một nhóm vài chục bộ đội đã kéo tới tư gia ĐKG Thu để truy tìm bức tượng Thương Tiếc bằng bê-tông cốt thép đã tạc và đặt tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa năm 1967. Đó là tượng dùng để đúc đồng (khuôn gốc) và hình thành nên bức tượng Thương Tiếc bằng đồng cuối cùng năm 1970.

    Nhóm người hung hãn này đã ra sức đập phá bức tượng Thương Tiếc một cách không… thương tiếc và chỉ dừng lại khi tượng chỉ còn lại phần bụng và chân (xem ảnh). Hiện nay tượng bê-tông bị đập phá này vẫn còn nằm trong sân sau nhà của ông Thu, cạnh các ngôi mộ gia tiên, cây dại che phủ nên ít ai chú ý. Sau khi đập phá bức Thương Tiếc, nhóm người này tiếp tục đập phá bức tượng Lính Thủy quân Lục chiến cao 4m, chỉ để lại đầu tượng.



    Tượng Thương Tiếc bằng bê-tông đặt tai Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa năm 1966, đã được đưa về xưởng sáng tác (tư gia) của ĐKG Nguyễn Thanh Thu. Năm 1970 tượng này được dùng làm khuôn đúc đồng để hình thành tượng Thương Tiếc bằng đồng năm 1970. Tượng bê-tông này đã bị đập hết phần đầu và thân, hiện vẫn còn nằm trong sân nhà ĐKG Thu.



    Ngày trở về nhà từ trại tù Hàm Tân với thân hình tiều tụy, ông lê bước chân thẳng đến bên bức Thương Tiếc. Tất cả đã thành tro bụi. Ông đã ngã quỵ dưới chân tượng và ngồi ở đó rất lâu cho đến khi trời sụp tối. Ông nói sự trả thù này con ác hơn những đòn thù mà ông phải gánh chịu trong 8 năm dài nơi ngục tối…





    Võ Văn Hai, giờ này anh ở đâu?

    Hạ sĩ Võ Văn Hai, Tiểu Đoàn II binh chủng Nhảy Dù bỗng dưng trở nên nổi tiếng cùng với ông Thu và bức tượng Thương Tiếc lịch sử khi được chọn làm người mẫu. Giống như ĐKG Thu, cuộc đời bí ẩn của hạ sĩ Hai cũng chìm nổi theo bức tượng.

    Không lâu sau bức tượng được dựng lên, người ta đồn ông Hai đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị. Nhiều bài thơ khóc ông đã ra đời làm cho hình ảnh ông Hai bất tử theo pho tượng Thương Tiếc. Thật ra ông Hai chưa chết!

    Trong thời gian ông Thu ở tù, ông Hai đã 2 lần thăm gia đình của ông Thu. Lần đầu, rất sớm sau năm 1975. Tim ông như vỡ vụn khi thấy tượng Thương Tiếc – như là phần xác của ông – giờ đây chỉ là một đống đổ nát. Lần thứ hai, nhiều năm sau đó. Ông nghe gia đình ông Thu kể rằng ông Thu được cai ngục đưa về thăm nhà với đôi chân yếu không tự đi.

    Ông Hai hoảng loạn, lo sợ sẽ có một ngày những người CS tìm đến ông rồi cuộc đời ông sẽ chìm xuống địa ngục như thiếu tá Thu hay bức tượng Thương Tiếc. Ông đã nhanh chóng rời khỏi nhà và không ai có tin tức của hạ sĩ Hai từ ngày đó. Có lẽ ông Hai đã thay tên đổi họ, “mai danh ẩn tích” để trở về cuộc sống nông dân ở đâu đó trên đất Khánh Hòa, ông Thu nghĩ vậy.

    Ra đi rồi lại trở về

    Trong 8 năm tù tội với 22 tháng biệt giam trong conex, thần kinh của ông Thu đã bị tổn thương rất nặng. Những ngày tháng bỏ đói với vô số những trận đòn thù đã làm cho tai ông điếc và cơ thể chỉ là da bọc xương cùng những vết thương nhiễm trùng. Ra khỏi nhà tù, thấy cảnh gia đình tan nát, ông quyết tâm đào thoát.

    Hơn 10 năm ở Mỹ ông trông mong cộng đồng giúp ông phục dựng lại bức tượng Thương Tiếc, nhưng niềm hy vọng đó cuối cùng chỉ là những “conffetti nằm vương vãi trên sàn nhà”. Không sống được bằng nghề điêu khắc ông không biết làm gì khác. Với thính lực gần bằng không, ông thấy ngày càng bế tắc trong việc mưu sinh ở xứ người. Cô độc giữa muôn vạn người ngưỡng mộ, ông không tìm thấy niềm vui ở chốn này và miễn cưỡng trở về Việt Nam.

    Trở lại mái nhà xưa, gần gia đình, trong không gian sáng tác quen thuộc, ông lại tiếp tục tạc thêm nhiều bức tượng, dựa trên các ý tưởng đã hình thành từ trước như: Được Mùa, Cửu Long Được Mùa… Tuy nhiên, đó chỉ là những tượng tỷ lệ nhỏ, tạc chỉ để thỏa mãn đam mê nghệ thuật. Ông hiểu rằng với thân phận của kẻ hàng binh, ông không bao giờ được trao cơ hội để tạo nên những tác phẩm để đời. Giấc mơ lớn của ĐKG tài năng đã khép lại mãi mãi.

    Những tâm sự trong bối cảnh tháng Tư đen ở trên, khiến chúng ta không khỏi ngậm ngùi. Cuộc đời sóng gió của ĐKG Nguyễn Thanh Thu đã làm cho pho tượng Thương Tiếc đẹp hơn và trở nên bất tử. Những kẻ hậu sinh sau này rồi sẽ còn nhắc mãi về ông: “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”.

    _____


    Dưới đây là bản dịch bức thư của Đại tá H.G. Fuller, gửi cho đại tá William P. Jones Jr., nói về điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu và các tác phẩm của ông.

    • Đại tá H.G. Fuller, 025936
      HQ USARV Engr Section
      Facil Svc Division
      APO Sanfrancisco 96375

      Ngày 20 tháng 7 năm 1967

      Đại Tá William P. Jones Jr. (về hưu)
      Ủy Ban Đài Tưởng niệm Chiến Tranh Hoa Kỳ
      Washington, D.C. 20315

      Thân gửi Bill,

      Tôi xin đính kèm theo thư này là bộ ảnh về nghĩa trang [Quân đội Biên Hòa] giống như nghĩa trang Arlington của chúng ta, cùng các tác phẩm điêu khắc khác được thực hiện bởi Trung úy Nguyễn Thanh Thu – là người đã tạc bức tượng đặt tại lối vào của Nghĩa Trang [Quân Đội Biên Hòa].

      Theo tôi, pho tượng do Trung úy Thu tạc (tượng Thương Tiếc – người dịch) thực sự là một tuyệt tác nghệ thuật và xét về đề tài tượng đài chiến tranh, tôi trân trọng đặt tượng Thương Tiếc và các tác phẩm khác của ông ngang hàng với bức tượng nổi tiếng “Dựng Cờ trên đảo Iwo Jima” tại Arlington.

      Khi Ủy Ban [Đài Tưởng niệm Chiến Tranh Hoa Kỳ] bắt đầu hoạch định tưởng niệm Các Lực lượng vũ trang của Thế giới Tự do và Hoa Kỳ đang tác chiến tại Việt Nam, tôi đề nghị ông Thu được xem xét để hoàn thành bất kỳ tác phẩm điêu khắc nào có liên quan.

      Ở Việt Nam ông Thu được đánh giá là điêu khắc gia xuất sắc nhất. Đối với tôi, tài năng của ông Thu là vượt trội, đặc biệt khi ông Thu chưa từng được được tu nghiệp ở Hoa Kỳ hay châu Âu. Chuyến xuất ngoại đầu tiên của ông Thu sắp tới là để tham dự một hội nghị ngắn hạn ở Philippines. Không cần phải nói, ông Thu rất vui nếu có cơ hội trình bày những phác thảo của ông trước Ủy ban, thích hợp nhất là trong kỳ nghỉ phép.

      Tôi sẽ gửi một bộ ảnh về các tác phẩm của ông Thu cho tướng Ploger để Bộ Chỉ huy Lục quân Hoa Kỳ ở Việt Nam (USARV Command Group) và Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ ở Việt Nam (MACV) cùng xem xét. Tôi sẽ cung cấp thêm bất kỳ chỉ dẫn nào để có thể triển khai.

      Mong gặp lại các bạn trong tháng 12 tới.

    • (Nguyễn Tuấn Khoa dịch)

    Ảnh chụp bức thư:





    Nguyễn Tuấn Khoa
    2-4-2019



    Nguồn:https://baotiengdan.com



              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2019 - tưởng niệm 44 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

          


Nhớ chuyện tháng Tư




(Nhớ bạn Dũng Hải quân)


Sấm chớp vang rền mưa chưa tới
Bom rơi sáng loé phía phi trường
Những lớp người đi về phía biển
Ta buồn sấp mặt giữa tang thương

Loạng quạng hoàng hôn đầy tiếng nổ
Ta ngồi run rẩy đợi chuyến bay
Bầu trời phành phạch cành cây đổ
Chấp cả hai tay cầu rủi may

Phố xá đùn lên dân hôi của
Máy móc thức ăn úa vỉa hè
Những chiếc xe lướt qua vội vã
Nửa đêm chờ đợi nằm nghiêng nghe

Có tiếng ai la trong bóng tối
Thiên hạ nhao nhao thoát ra ngoài
Ta bị đẩy ra rìa cánh cửa
Thiếu nước không cơm bỗng mệt nhoài

Người chia hai hướng đi hai ngã
Ta chán cuộc chơi bỏ trở về
Phố phường lác đác vài tiếng nổ
Cảm thấy lạc loài trong cơn mê


*********


Bạn lái chở ta ra Ba Son
Đêm qua người đợi đã mỏi mòn
Thời gian nguy cấp tàu đi sớm
Tuyệt vọng thoái lui đường chẳng còn

Qua cầu một đám mang băng đỏ
Giương súng giơ tay giọng lạnh lùng
Hai thằng lặng lẽ luồn qua ngõ
Không dám nhìn quanh bước đường cùng

Trưa nắng tháng tư cháy vỉa hè
Xe tăng rầm rập với còi xe
Lính cởi quân trang tràn ngập phố
Thất thểu băng qua mấy xác đè

Cờ màu xanh đỏ chen cây lá
Áo trận súng gờm pháo chĩa ngang
Người đưa tay vẫy người cúi mặt
Những xác không hồn miệng nín khe

Từ đấy ta làm người ở lại
Sáng sáng lang thang đứng góc đường
Xem người lính mới cười ngơ ngác
Làm kẻ man di giữa phố phường

Bạn ta lưu lạc về đâu mất
Năm tháng qua đi chẳng thấy về
Rồi mười năm nữa qua như mộng
Tin bạn lang thang nơi miền quê

Rồi nghe bạn chết vì quá đói
Khi gắng chuyến thồ rau cuối năm
Gục giữa phố đông mồm thổ huyết
Không chốn thân quen chẳng chỗ nằm

Ta đi tìm mộ bạn nơi quê
Không có ai biết chỗ bạn về
Ta đứng sông Hoài mà nhớ bạn
Thắp nén nhang trầm mắt đỏ hoe


5.4.2018
Đỗ Duy Ngọc



Nguồn:https://sangtao.org




          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Ngày Thật Chết Với Quê Hương

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Ngày Thật Chết
    Với Quê Hương

    ___________________________
    Phan Nhật Nam







    Hóa ra cảm giác nhạt nhạt nơi miệng, buồn buồn đè nặng, đau đau ở trũng ngực làm đứa nhỏ có thói quen luôn rờ tay lên ngực áo như muốn gỡ đi một khối nặng vô hình dính sâu đâu trong người, mà sau nầy khi khôn lớn, nó mới biết đó là vị trí gần quả tim, chặn ngang đường thở. Tâm cảnh nầy vốn có từ rất lâu, nên dẫu vốn tinh nghịch, hiếu động, đứa bé có lúc bất thần ngồi lặng, rũ xuống; hay đang trong giấc ngủ, chợt giật mình thức dậy giữa bóng tối với cảm giác lo sợ bồn chồn - Cảm giác thời thơ ấu còn nhỏ dại nó chưa biết gọi nên tên.

    Hoặc, buổi thanh xuân, đang ở tuổi hai-mươi nơi trường Đà Lạt, đầu những năm 60. Hằng đêm, khi bóng tối chìm rét lạnh phủ kín dầy khu rừng phía sân bắn, đối diện Vũ Đình Trường, anh khắc khoải nhìn ra hướng vườn Bích Câu nơi xa, đường vòng Hồ Xuân Hương chập chờn giàn đèn màu tím đẫm lẫn trong mù sương. Và thế rồi, sinh hoạt ồn ào với đồng bạn bỗng nhiên chững lại, lắng xuống, mất biến. Anh lần tìm thấy, hiểu ra: Sẽ chỉ còn một mình với Nỗi Buồn, về một điều Không Thật. Nhưng quả tình anh cũng chưa biết từ đâu? Là gì? Tại sao?

    Sau những năm kể trên, ra đơn vị, lần chịu phạt quân kỷ đầu tiên tháng 8, năm 1964 ở Bộ Tổng Tham Mưu, đường Võ Tánh, Gia Định. Phòng giam mờ đục, ngột ngạt, suốt ngày nằm dán xuống chiếc giường sắt lót nệm rơm cũ ẩm, khô khan, anh nghe sự sống bên ngoài qua tiếng mưa chợt ào đến, vụt tắt dưới mái hàng hiên - Mưa Miền Nam - Mưa mùa Hè thất thanh, vùng vẫy. Và anh thấy trước sẽ có một mất mát rất lớn ắt phải xẩy ra - Mà đã thật xẩy ra như khi người vô cùng thương mến bỏ đi. Không biết đi đâu. Tiếp kỳ bị giam của những năm sau, cũng nơi nầy: Bộ Tổng Tham Mưu, cơ quan chỉ huy tối cao, cuối cùng của Quân Lực Miền Nam. Những lần trở lại nơi nầy giúp anh hiểu rõ thêm cường độ về Nỗi Đau - Cái Đau của Sự Chết - Hiện thực với khoảng tối của phòng giam tầng tầng chụp xuống, anh há miệng ra như đang bị bóp cổ, mắt ráo hoảnh trừng trừng nhìn lên đỉnh chiếc mùng nhà binh - tấm vải trắng nhờ nhờ như như nắp quan tài.. bay lên cao.. cao.. cao nơi xa dật dờ như một giải khăn tang.. Giật mình, anh ngồi dậy, mồ hôi đẫm ướt mặt, và tận hiểu về một điều bí ẩn nhưng cụ thể: Người có thể thật-chết khi đang hiện-sống.

    Nhưng không hẳn chỉ là thế, sâu xa hơn những ám ảnh tuổi thơ, phiền bực tuổi trẻ còn có điều gì khác, lớn lao, kinh hoàng, khốc liệt hơn: Đấy là Nỗi Đau-Sự Chết dần hiện thực sắc nét như chính bản thân - Là cuộc đời anh với thân phận Người Lính trên quê nhà, dọc suốt quê hương.




    Nầy đây, hình như mới đây, của ngày hôm trước, giờ vừa qua - Cảm giác gần kề, rờn rợn, dẫu tính đến nay đã gần hết một thập niên. Năm 1965, sau trận chiến bùng nổ ngày 11 tháng 6, với mưa Miền Nam, nơi Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp. Mưa không đủ lớn, không dài lâu để cho người có cảm giác được tẩy rửa, cuốn trôi. Mưa âm âm, ngột ngạt làm bốc dầy thêm mùi xác chết của những đơn vị,
    • Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 7, Sư đoàn 5 Bộ Binh;
      của Biệt Động Quân, Tiểu đoàn 52;
      và đơn vị đầu đời, thiết thân, thương mến, Tiểu đoàn 7 nhẩy dù
    với những người lính anh quen mặt từ buổi trưa cuối năm 1963 mang chiếc xắc marin nhà binh bước qua cổng doanh trại, vào trình diện tiểu đoàn trưởng.. Đấy là xác của
    • Binh nhất Thái,
      Binh nhì Niên;
      xạ thủ đại liên Phan Niên,
      tải đạn Phan Thỏn..
    Những người lính với sức chịu đựng dường như vô hạn dưới khối nặng của thùng đạn, ba-lô, nón sắc, vũ khí họ mang trên vai, vác lên lưng, để từng ngày cúi gầm mặt bước xuống vùng sình lầy mênh mông, trèo lên dốc đá núi thăm thẳm, lội xuyên rừng rậm ngút ngàn không tiếng nhỏ than van. Họa chăng chỉ có hơi thở dài nặng nhọc ghìm lại. Trong đám xác chết còn có những người đã cùng anh vui đùa với hân hoan bất tận bằng hữu..
    • Những Trần Trọng Hợp với cách nói rất nhanh dẫu miệng vẫn ngậm chặt chiếc tẩu;
    • với Dương Văn Chánh người thấp đậm, rắn chắc, đang học văn khoa Pháp, tình nguyện nhập ngũ Thủ Đức, cố xin được ra tiểu đoàn tác chiến dù người thân là sĩ quan cao cấp của binh chủng;
    • là Trần Văn Ký, á khoa khóa 17 Đà Lạt, ngày ra trường, sẵn có trước mắt một hàng đơn vị để tự do chọn lựa, nhưng cuối cùng đã thuyên chuyển về đây, tiểu đoàn nhảy dù tân lập, nhận tập trận, huấn luyện từ chiến trận hung hãn nguy biến;
    • là Trần Trí Dũng, cùng đoàn Hướng Đạo, cùng trường, cùng lớp, với những trò chơi con trẻ ở Đà Nẵng mười năm trước với anh..
    Nay tất cả những người gần gũi thân mến nầy đã là những xác chết căng cứng, da tím sẫm bốc mùi xanh xao tanh tưởi; khuôn mặt, dạng người tinh anh tươi trẻ của tuần, tháng trước biến dạng thành những khối thịt ủng lầy máu, đất đỏ, nhầy nhụa thêm bởi thấm mưa của bao ngày nằm nơi chỗ đụng trận, một chốn gọi là xã Đồng Xoài, quận Đôn Luân, tỉnh Bình Dương, xa Sài Gòn khoảng 50 cây số đường chim bay. Nghĩa trang ngày ấy âm âm tiếng người khóc kể..
    • Cháu ơi sao chết trẻ bỏ bà!!.
      Con ơi, biết bao giờ mạ mới gặp lại con con ơi Dũng ơi là Dũng ơi!!
      Anh ơi là anh ơi.. anh chết sao cho đành bỏ mẹ con em anh ơi là anh ơi!!
    Có bà lão ngồi im không đủ sức khóc, không còn lực khéo chiếc fermeture bao xác đựng người lính tuổi hẳn còn rất trẻ. Vòng khăn tang của thân nhân những người lính chết trận dần lấm đỏ chạch của đất nghĩa trang mà nay đã thành một bãi bùn sênh sếch thêm máu từ những thây người rỉ ứa. Mưa Miền Nam Mùa Hè từ đấy đối với anh có mùi máu. Máu của người.




    Nhưng những người chết của cảnh tượng kể trên vẫn còn có điều an ủi oan nghiệt: Họ chết với nguyên dạng người và được tẩm liệm, đem chôn. Chết Mậu Thân, 1968 và chết mùa Hè 1972 tiếp theo lại là những cái chết toàn diện. Những cái chết tận diệt mà anh chứng kiến, sống cùng.

    Từ Giao Thừa Mậu Thân, bắt đầu ở Huế, ngõ Âm Hồn, lối đi ra đường Mai Thúc Loan, hướng Cửa Đông Ba. Khoảng đường u thẫm chập dầy bóng đen mà đứa nhỏ thất thần, cuống quýt, lạc lõng vào lúc chiều đổ tối một ngày mưa hai-mươi năm trước, 1948 lập lại hôm nay, đêm Xuân 1968, với tình thế nguy biến tang thương hơn qua hoạt cảnh người lính xao xác chạy dọc những khu nhà đổ nát, vừa chạy tránh đạn, vừa kéo xác đồng đội.. Anh đi ngang qua căn nhà có xác người đàn bà chết trong vị thế quỳ trước chiếc bàn thờ xiêu đổ tung tóe, hẳn đang khấn lạy, cầu xin, nhưng chỉ còn thân người, bởi chiếc đầu đã bị cắt lìa, vất tung đâu đó. Bên cạnh, thây cô gái tóc dài lây lất, khuôn mặt chỉ còn những tảng thịt rời rã.. Nhận biết đấy là người thiếu nữ do chiếc áo dài trắng và áo len màu tím than, màu riêng biệt đặc trưng của người thiếu nữ xứ Huế. Trước mặt ngôi nhà bên cạnh là một ngôi mồ chôn vội với chân người chết lú ra qua lớp đất vụn mỏng. Đấy là cảnh tượng ngày tiểu đoàn anh từ Quảng Trị đổ bộ vào Huế, mồng 5 Tết. Qua những ngày sau, dãy nhà không còn hình dạng, dần bị vỡ tan, đỗ xuống, hoang tàn bày ra những xác chết khác- Những người thoát nạn những đợt pháo kích đầu tiên, nay, sự may mắn không thể kéo dài, lập lại nên dấu hiệu sự sống, người còn sống cũng dần mất hẳn đi, lượng xác chết thêm nhiều lớp lớp. Cũng bởi lý do, cán binh cộng sản sau hai tuần tạm chiếm thành phố đã có được kinh nghiệm điều chỉnh đạn pháo, nên đạn bắn vào "mục tiêu" càng thêm chính xác - dân chúng thương vong, thiệt hại dần tăng trội. Cuối cùng người chết ở đâu nằm ở đấy, không còn người sống để lo toan. Lũ chó đói kéo lê nhưng bộ phận, tay chân người vương vãi. Xác dân, xác lính chen chúc, lẫn lộn vào nhau. Nhưng, như một an ủi khốn cùng, ở Huế, hay quanh ngoại ô Sài Gòn, vùng Nhị Bình, Thạch Lộc, Hốc Môn, Gia Định trong dịp chiến loạn Mậu Thân, người ta vẫn còn khả năng phân biệt đấy là xác chết của lính hay của dân; của dân chúng Huế hay gã bộ đội Sinh Bắc-Tử Nam, hoặc cán binh Mặt trận giải phóng.. qua áo quần, dạng tướng, đôi dép Nhật làm ở Chợ Lớn, giày botte de saut, hay loại dép râu mang theo từ Miền Bắc. Bởi người chết làm sao nói lên được điều gì ngoài đôi mắt đứng tròng, khô rốc chống ngược nhìn lên trời mù mưa xứ Huế, hoặc ngày nắng sáng phương Nam, nơi cù lao sông Sài Gòn chảy qua Bình Phước, Bình Triệu, Thạnh Lộc, Nhị Bình, Gò Vấp.. Cả một vùng hoa Mai tàn tạ trong ánh nắng rung rinh mùi tử khí.




    Nhưng đến năm 1972, cảnh chết trên quê hương miền Nam tăng vụt cường độ; bất hạnh, tang thương nhân lên bội phần cho dù trí tưởng tượng về tình cảnh khốn cùng từ lâu đã được người Việt hằng mang nặng, chuẩn bị chịu đựng. Trên chín cây số từ La Vang, nam Quảng Trị đến Cầu Trường Phước lớp nhựa đường đã hoàn toàn chảy nhão, đun nóng sôi bởi một thứ lửa nhân tạo. Lửa được cháy lên do từ xăng, dầu, gỗ, thép của khối quân trang cụ, vũ khí của các đơn vị thuộc mặt trận giới tuyến bị phục kích trong cuộc lui binh rời bỏ Thị Xã Quảng Trị ngày 29 tháng 4. Nhưng ngọn lửa ác nghiệt kia sở dĩ còn thoi thóp tồn tại cho đến ngày quân lực miền Nam vượt tuyến sông Mỹ Chánh phản công (27 tháng 6) vì chúng được tiếp bồi bởi những vật chất cháy đượm - những áo quần, tay nải, bao bị, gồng gánh, và những tế bào thịt da của người - Những người dân chạy loạn. Bởi trong ngày 29 tháng 4, toán quân miền Nam dẫu bị rơi vào thế trận phục kích, họ vẫn còn có bản năng người lính- bản năng vượt thoát, tránh né, chống cự đối với cái chết. Người dân thì hoàn toàn toàn bất động và bất lực. Họ giương mắt nhìn đám lính Sư đoàn 308 bộ binh Bắc Việt; họ nghe rõ từng tiếng nổ của loạt đạn chống chiến xa, chống công sự của giàn sơn pháo Súng Không Giật có đạn đạo thẳng - đạn bay thẳng tới mục tiêu - loại vũ khí đặc biệt của binh đội cộng sản. Và tiếp liền, xác họ bay lên như nùi rơm bị xáo tung. Nhưng đấy chỉ là lần chết đầu tiên. Những thây xác tan nát kia tiếp bị xé tơi, nung cháy, miết xuống mặt đường nhựa, tẩm vào lưỡi lửa của áo quần, xăng nhớt, biến thái nên ngọn lửa bền bỉ âm ỉ. Trên quãng đường chín cây số nam Thị Xã Quảng Trị mà báo chí Miền Nam đặt nên tên đau thương Đại Lộ Kinh Hoàng hoàn toàn không còn dạng thây ma để được gọi nên là xác chết, mà chỉ là những mảnh xương cốt rời rã, lăn lóc, lẫn lộn đất, đá, cát vương vãi dưới gầm khung xe cháy nám, nơi ổ súng cong queo, sau những bụi lùm trơ trọi, những gò, đụn oan khiên mà ổ mối đùn lên gây gây tanh mùi máu.

    Ở An Lộc, vào thời điểm đầu mùa Hè, 1972 nơi Bệnh viện Tiểu Khu Bình Long cũng xẩy ra tình cảnh kinh hoàng đau thương tương tự. Vì pháo binh cộng sản yểm trợ cho các Công trường (sư đoàn) 5, 7 bộ binh đã học được một kinh nghiệm hữu dụng: "Ban ngày pháo kích xuống nhiều điểm bên trong thị xã để dân chúng tin rằng, "bộ đội giải phóng" không pháo kích vô chỗ bệnh viện!" Nhưng vào đêm, điển hình của những đêm 9, 10 rạng 11 tháng 5, 1972, tám ngàn (8000) quả đạn cùng tập trung vào những điểm "chọn lọc điều nghiên": Trường Trung Học Cộng Đồng, Bệnh Viện Tiểu Khu.. nơi lớp lớp người bị thương đang lê lết trong bãi máu, giữa những người hấp hối để cầu sống sót, cầu được lúc bình yên - cho dẫu bình yên được chết. Những điểm tập trung người dân tị nạn, và người bị thương nầy là điểm pháo tập trung dội xuống trong khoảng thời gian mà Hà Nội ra lệnh Trung ương Cục Miền Nam quyết dứt điểm An Lộc để lấy Bình Long làm thủ đô ra mắt Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam trước cộng đồng báo chí quốc tế! Tám ngàn quả đạn 130 ly rơi xuống xé tung đám xác người (người sống lẫn kẻ chết), ném tung lên dăm lần, ba lượt (hoặc rất nhiều lần) để thân thể con người chỉ còn là những mảnh vụn tơi tả lẫn với bụi, khói, mãnh thép.. Không thể phân biệt con người nào đã chết, hoặc đang còn sống ở An Lộc trong những đêm, ngày cào xé kể trên. Sau đêm 10 rạng 11, tháng 5 ấy, người cha sống sót của một gia đình gồm năm con người (vợ và ba con); hoặc người mẹ có ba con gái đồng tử nạn ngồi giữa đống xác chết ngổn ngang.. Họ không thể phân biệt đầu lâu nầy, chân tay nọ là của những ai, nên cuối cùng, đành gói những đống thịt, xương hỗn độn kia nên thành những bó riêng biệt, chôn chung vào một hố với hàng chữ ghi số lượng và tên người chết lên tấm bảng gỗ thay mộ bia. Đám táng tập thể ở sân Trường Trung Học Bình Long thực hiện với xe ủi đất dưới đạn pháo nổ chụp. Không ai đủ sức để khóc. Trận Đồng Xoài năm xưa trên vùng đất nầy đã trở nên là cảnh tượng nhỏ nhoi, bởi ở Đồng Xoài năm 1965 chỉ với những người lính tác chiến gục ngã do đạn súng tay. Thây xác họ may mắn còn nguyên vẹn hình hài.

    Năm 1972, trên quê hương miền Nam cái chết đã có những "tiến bộ vượt bực" theo đánh giá của Bộ chính trị trung ương đảng cộng sản ở Hà Nội - Thủ đô của "niềm tin và hy vọng" - cách gọi đầy hàm súc, nhiều tính trí tuệ của những người viết văn, làm thơ, viết nhạc gọi là "văn nghệ sĩ cách mạng" ở miền Bắc Việt Nam.




    Với những tình cảnh sống-chết đan kín, xen kẽ cùng nhau trong suốt chặng đường dài từ ngày ra đơn vị, nên đã rất nhiều lần, bất chợt anh nghe ra tiếng gọi oán hờn từ Nghĩa Trang Quân Đội.. Và có nhiều đêm, một thân từ Căn cứ Nguyễn Huệ, Lữ đoàn II Dù, anh ra xa lộ, dừng xe ở chân Tượng Tiếc Thương, nhìn lên dạng người - Người Lính Chờ Đợi - Anh nghe tự trong thân âm động thảm thiết vang dội cơn gầm ghìm kinh hoàng của lần "phải sống đau đớn khó khăn hơn được ngã chết."

    TẤT CẢ HIỆN ĐỦ TRONG BUỔI SÁNG HÔM NAY.

    Sự Chết bắt đầu trùm chiếc cánh tối tăm hung hiểm lúc 6 giờ 15 chiều ngày 28 tháng 4, khi chuỗi bom dưới cánh những chiếc A37 do viên phi công phản trắc Nguyễn Thành Trung hướng dẫn rơi nhanh xuống phi đạo Tân Sơn Nhất. Anh đã sống trong những phi trường từ ngày ra trường, về đơn vị nhảy dù, vì lực lượng nhảy dù (theo tổ chức quân đội Pháp) luôn có chung doanh trại cùng binh chủng không quân, trong các phi trường. Tân Sơn Nhất là chốn đầu đời, cũng là nơi làm việc cuối cùng của anh, Ban Liên Hợp Quân Sự, tổ chức trung ương thành hình ngày 27 tháng 1, 1973 theo điều khoản của Hiệp Định Paris. Anh đã sống cùng Tân Sơn Nhất dài lâu trong ánh sáng đèn cao áp luôn rực sáng. Anh đã qua tuổi trẻ trong những căn cứ không quân, lúc phi đạo phi trường Biên Hòa còn lót bằng vỉ sắt PSP; quanh Tân Sơn Nhất là những khu rừng cao su xanh ngắt màu lá, hoặc lũy tre vùng Hốc Môn, Gò Vấp đan dày.. Quả bom rơi xuống phi đạo, phá bung hệ thống nhà máy điện, và Tân Sơn Nhất lần đầu tiên từ ngày thành lập chìm ngập vào bóng tối, bừng bừng bốc lên lưỡi lửa. Đạn phòng không bắn lên, phi cơ F5 đuổi theo muộn màng, vô vọng. Cửa ngỏ tháo chạy của Sài Gòn đóng sập lại. Cuối cùng, Tân Sơn Nhất thật sự vùng vẫy, hấp hối, chìm dần trong lửa hỏa ngục khi dàn đại pháo, hỏa tiễn cộng sản từ Đồng Dù, Củ Chi, ranh giới Hậu Nghĩa, Gia Định bắt đầu đỗ xuống không ngắt nhịp.. Hơn hai năm trú đóng điều nghiên trong Tân Sơn Nhất, phái đoàn cộng sản ở Ban Liên Hợp Quân Sự đã có đủ yếu tố các điểm tác xạ.. Một trái đạn, chỉ một trái thôi đủ phá tan đài kiểm báo; thêm một hỏa tiễn hạ sập bồn chứa nhiên liệu. Từng trái đạn 130 ly, từng hỏa tiễn 122 ly chính xác rơi xuống..Tân Sơn Nhất vật vã, co quắp, rã chết, sụp vỡ, hấp hối trong khói đen, lửa ngọn.. Cuộc hành hình kéo dài từ 4 giờ sáng ngày 29 tiếp tục đến rạng đông. Ở căn cứ DAO (Văn phòng Tùy Viên Quân Lực Mỹ), ba ngàn người tỵ nạn chờ đợi di tản bằng C130, hoặc C141 qua Guam đưa mắt nhìn lên trời, giữa vũng lửa, đếm rõ từng viên đạn pháo rơi xuống.. đống hành lý khổng lồ gồm quý kim, vàng, kim cương, giấy bạc Năm Trăm Trần Hưng Đạo của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam; giấy bạc đô-la của ngân khố Mỹ.. tất cả cùng trộn lẫn với thịt da thân thể người thành một thứ pháo bông tan tác bay tung tóe, hiện thực cảnh địa ngục vô vàn của Dante nơi trần thế. Cùng lúc, tại phòng hội La Celle St. Cloud, địa điểm nghị hội "Thi Hành Hiệp Định 27 tháng 1, 1972, Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam ", sau khi nhận được tin Dương Văn Minh tiếp cầm quyền từ Tổng Thống Trần Văn Hương (5 giờ chiều cùng ngày), và cuộc oanh tạc, pháo kích Tân Sơn Nhất đang thực hiện.. Phát ngôn nhân phái đoàn Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ra thông cáo: "Dân chúng Sài Gòn nổi dậy và quân đội buông súng đầu hàng.." Con trai Dương Văn Minh nhân cơ hội đòi Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Paris bàn giao nhiệm sở. Và cũng lần đầu tiên, Đài Phát Thanh Giải Phóng chính thức xác nhận: "Dương Văn Minh chẳng đại diện cho ai. Y cũng không phải là thành phần thứ Ba nào cả.." Phái đoàn "ngoại giao" của "tổng thống Dương Văn Minh" gồm Trần Ngọc Liễng, Châu Tâm Luân và Chân Tín vào Camp Davis gặp Võ Đông Giang để tìm giải pháp chính trị giải quyết tình thế trong tinh thần "anh em một nhà"- Chữ của Dương Văn Minh trong diễn văn nhậm chức mấy giờ trước. Thầy su cai đồn điền Nguyễn Nhã (tên thật của Giang) bắt luôn cả đám, gởi điện văn ra Hà Nội xác nhận: "Nghị quyết ngày 26 là quan điểm cuối cùng để chỉ đạo thực hiện: Loại trừ hẳn chế độ Miền Nam.." Số phận "chính quyền Dương Văn Minh" đã được quyết định, và chỉ cần đợi thêm vài ngày sẽ thấy thêm một nạn nhân không lường trước- Cái gọi là "Chánh phủ lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam".

    • Những viên tướng lãnh đã ra đi, những sĩ quan cấp tá cũng rời bỏ nhiệm sở, đơn vị, nhưng, Trung Úy Phi Công Nguyễn Văn Thành còn lại. Thành (có biệt hiệu "Thành mọi" bởi nước da ngâm đen quá độ) ra chỗ đậu tàu, anh nỗ máy chiếc C119 Hỏa Long, đơn độc bay lên trời xanh bảo vệ, cứu viện Tân Sơn Nhất. Từ trên cao, Thành thấy rõ những vị trí pháo của binh đội cộng sản.. Chúng đang ngang nhiên pháo kích, nhả đạn vào Tân Sơn Nhất không che dấu từ lúc đầu đêm đến bây giờ, ngày rạng của buổi sáng 29, tháng Tư. Thành nghiêng cánh, chúc mũi chiếc Hỏa Long căm phẫn trút xuống tràng đạn 7.62 ly, và tất cả hỏa lực cơ hữu của hai khẩu đại bác 20 ly gắn dưới cánh.. Lửa nháng lên dưới thân tàu, toán phòng không cộng sản phản pháo, nhưng không kịp, Thành bình tĩnh, tài giỏi lách ra khỏi vùng hỏa tập lưới đạn của giặc. Anh đáp xuống lại phi đạo thân yêu quen thuộc đang bốc khói mù bởi cuộc dội bom chiều hôm qua do kẻ phản bội Nguyễn Thành Trung hướng dẫn, và cuộc pháo kích cường tập từ sau nửa đêm về sáng của ngày đau thương tang tóc nầy. Mặc, Thành tự tay nạp đạn vào tàu, anh nhìn quanh phía sau phi đạo, những dãy nhà của Bộ Tư Lệnh Không Quân, xa hơn nữa, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - Quân Đội Cộng Hòa - đời sống máu thịt của chính bản thân anh. Thành là Thiếu Sinh Quân, người con thân yêu của quân đội chịu số phần bão táp bi tráng cùng vận mệnh quê hương. Anh không có thi giờ để suy nghĩ thêm.. Tân Sơn Nhất vừa có được phút hồi sinh sau gần một đêm dài chịu pháo. Nhiều thân tàu cất cánh rời khỏi không phận Sài Gòn bay về hướng Tây - Hướng Thái Lan, nơi khơi xa của Hạm Đội 7. Trong số có trực thăng của những tướng lãnh rời Bộ Tổng Tham Mưu. Mặc, Thành trở lại bầu trời trên phi cảng Tân Sơn Nhất - Cửa ngỏ của Miền Nam. Anh nhìn xuống những vị trí pháo cộng sản mà giờ nầy tạm ngưng hoạt động vì vừa bị anh tấn công.. Hóa ra cả một quốc gia chỉ còn được lần cứu viện bi hùng tuyệt vọng nầy. Thành nghiêng cánh, bấm chặt hệ thống kích hỏa bên cạnh chỗ ngồi, một mình anh lấy đường nhắm.. Một mình anh.. Phải chỉ một mình anh - Trung úy Nguyễn Văn Thành, "Thành Mọi - Thành Thiếu Sinh Quân". Thành hạ thấp hơn để đường đạn thêm phần chính xác. Thân tàu rung mạnh.. Lửa! Lửa! Lửa cháy ngang cánh trái con tàu, ngay bình xăng, sát cạnh ghế ngồi.. Thành giật mạnh chốt thoát hiểm để bung thân ra khỏi con tàu. Tất cả kẹt cứng. Anh dùng tay đẩy cửa buồng lái phóng mình ra, chiếc dù bung mạnh.. Các múi, giây dù vướng vít rối rắm. Anh bị giữ chặt bởi chiếc dù và khung cửa. Lửa bừng bừng! Lửa ào ạt.. Người phi công chìm trong lửa, gục ngất giữa không gian..


    Dưới đất, anh theo dõi cảnh chết của người bạn (lúc ấy chưa biết là ai) từ khi chiếc hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 bay lên cắt đôi thân tàu.. Anh đứng ở cổng Trại Trần Quý Mại của Tiểu Đoàn 8 Nhẩy Dù, nhìn chéo vào căn nhà Tử Sỹ Đường của Không Quân, nhìn lên trời, nghe rõ tiếng gào kêu im lặng của người phi công đang vùng vẫy trong trong vũng lửa vàng tươi. Anh ôm con vào lòng (đứa bé anh vừa tìm ra sau một đêm chạy xuyên hỏa ngục Tân Sơn Nhất), hai người bạn, Phạm Gia Cổn và Minh "Râu" trờ chiếc xe sát cạnh hỏi gắt..
    • Ông đi đi chứ còn đợi gì? Có đi không?
    Anh đưa tay kiệt lực, vô nghĩa.. Anh muốn chỉ lên hướng trời- Nơi có Người Phi Công vừa chết cho Tổ Quốc, giữa Không Gian. Nhưng anh không nhấc nổi cánh tay. Anh cũng muốn đưa chiếc máy hình lên.. Nhưng tất cả đã là vô ích. Trên cao, thân máy bay dần rã ra từng mảnh, có phần chiếc dù của Thành kẹt nơi khung cửa.. Anh nhìn lên cổng trại Tiểu đoàn 8 Dù. Tiểu đoàn đầu tiên của Đại Úy Trương Quang Ân,1960. Trung tá Ân, chiến đoàn trưởng ngày anh ra trường; Chuẩn Tướng Ân, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh.. Người lính chết trên vùng trời cao nguyên.. Tướng lãnh đầu tiên chết nơi trận địa.. Người chết cùng phu nhân giữa vũng lửa trên trời cao. Người đầu tiên. Người cuối cùng chết cùng vận nước. Với quê hương. Những Thiếu Sinh Quân, những người lính nhỏ nhất, cũng vô vàn cực lớn của quân lực cộng hòa.

    Anh lục túi lấy hết giấy tờ...Chứng Chỉ Tại Ngũ, Thẻ Lãnh Lương, Thẻ Báo Chí, Chứng Minh Thư mang Danh số 41 Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương...Có cảm giác buồn cười..."Hoá ra đến giờ nầy vẫn chưa có chứng chỉ sĩ quan mới, sau lần lên trung uý, trận Đồng Xoài. Tờ giấy chứng nhận đầu tiên và cuối cùng về một lý lịch, bị mất năm 1965". Anh đặt tất cả vào trong chiếc ví, vật dụng tương đối có giá trị vật chất của bản thân, lại là chiếc ví kỷ niệm nhận được hôm sinh nhật vừa qua. Anh ném tất cả xuống miệng cống trước trước nhà sách Khai Trí, đường Lê Lợi.. Coi như mình đã chết...Hình như anh vừa nói ra lời. Có cảm giác thanh thản của người vừa cất xong gánh nặng quá lớn. Vất bỏ cùng lần với đời sống chính mình. Tay giữ chặt hai chiếc máy ảnh trước ngực.. Ít ra mình còn có vật dụng để thực hiện một công việc, làm một nhiệm vụ. Đây là những hình ảnh không thể thiếu cho mai sau. Để tương lai còn có người biết đến, hiểu ra. Anh nhắc nhở, nâng đỡ. Cũng chỉ là cách tự an ủi trong một hoàn cảnh kiệt cùng. Với ứng phó, giải thích tội nghiệp, thảm hại nầy anh đi về phía Công Trường Lam Sơn, trước trụ sở Hạ Viện. Chung quanh Sàigòn vắng hoe. Trời bỗng nhiên trở mưa.. Cơn mưa ngắn, từng giọt khô nồng, u uất.

    Chiếc xe Molotova Trung Cộng (sau khi đi tù mới biết đấy là xe Zin) từ hướng đường Trần Hưng Đạo, chạy chậm rãi qua bùng binh chợ Bến Thành, những người đi đường nhìn lên, ngó mông trống trải. Xe tới trước thềm Hạ Viện, đám thiếu nữ nhẩy xuống, một anh đội mũ tai bèo, chắc là người chỉ huy trung đội lính phụ nữ, từ ca-bin xe bước ra, chỉ trỏ, ban lệnh, kéo từng người vào vị trí "chiến đấu"... các đồng chí, các đồng chí... bố trí đây nì, sẵn sàng tác chiến... Giọng người vùng miền Bắc Trung Việt cấm cẳng, the thé. Anh cùng hai phóng viên người Nhật đi đến tổ súng thượng liên đang ngồi nơi những bậc thềm; ba người đưa máy hình lên, nhắm góc độ, điều chỉnh ánh sáng.. Những thiếu nữ ngồi bất động nghiêm trọng. Tất cả đều mặc áo quần mới, áo mầu xanh dương, quần đen, vải nội hóa còn nguyên dấu hồ, giây đạn đeo chéo qua thân, miết xuống những thớ thịt ở ngực, phần bụng. Đạn cũng mới tinh, đỏ au. Cơ thể cô gái phụ xạ thủ như muốn nức toang do chiếc áo quá chật bó thắt vào khối thịt căng phồng. Đôi mắt nhỏ nhắm hờ, một lằn chỉ khép kín để khỏi nhìn thấy ống kính, cô ta ngồi im, cánh mũi phập phồng, mồi hôi ứa đẫm trên lớp da mặt đỏ nâu lốm đốm dấu mụn.

    Từ góc nhà hàng Givral, Công Trường Lam Sơn, đầu đường Nguyễn Huệ, đám đông dần tập trung để xem mặt "bộ đội Việt cộng". Thêm hai xe đổ quân trước rạp Rex. Lính nhẩy xuống, chạy vội vào hàng hiên, nằm, trườn, bò, nháo nhác. Từ Hạ Viện, anh đi băng qua hành lang Eden.

    Tiếng đập đục rầm rập từ những cơ sở ngoại quốc, những khối cửa sắt lay động, phá bung, những tấm kiếng tủ lớn bị đập vỡ, đồ đạt kéo lê hỗn độn, vội vàng trên mặt đường. Người mỗi lúc mỗi đông. Người dồn dập ùn ùn, la ó, chưởi thề, giành giựt. Đám đông chạy về phía Building Brink, khu Đồn Đất, nhà thương Grall, những nơi có cơ sở của Mỹ kiều, những văn phòng mà chủ nhân đã bỏ đi. Bất chợt, tất cả lắng lại để nghe rất rõ ..Có người tự tử. Có người mới bắn chết. Ai? Lính, không biết, chỉ thấy mặc đồ lính mình. Ở đâu? Ở ngoải, chỗ tượng Thủy quân lục chiến.. Lời trao đổi đứt khúc, vội vã, mất hút giữa những tiếng thở dồn dập, bước chân cuống cuồng nôn nóng của đám đông đang hăm hở tiến tới những kho hàng, cơ sở đầy ắp vật dụng quí giá, thức ăn đắt tiền. Anh cũng nhập vào đám đông xô đẩy đó trong giờ phút vỡ toang mối nối thời - không với những động tác, việc làm bất định, bất ngờ, vô nghĩa, vô ích. Anh kiểm soát lại số phim đang còn trong máy, trong túi, đi băng qua lối ngang trong thương xá, ra ngõ quán Thanh Vị, quẹo phải, men theo hàng hiên tiệm kem Đô Chính. Súng nổ.. Súng Aka và những bóng người chạy lúp xúp vào cổng Tòa Đô Chính. Anh tiếp tục làm "nhiệm vụ", đưa máy hình lên.. Động tác quen thuộc, thuần thục từ bao năm, anh và các bạn, những phóng viên chiến trường của báo chí miền Nam hằng thực hiện nơi những chốn sự chết, lửa đạn vây bủa. Đồng một lúc anh chợt nhói đau - Đây là lần cuối cùng. Đây là giờ cuối cùng. Hình như một nhân vật trong Doctor Zhivago cũng đã kêu lên như thế. Anh chỉ nhớ loáng thoáng bởi đang có cảm giác người cạn ly rượu hành quyết trước khi bịt mắt, dẫn đi. Anh chạy theo đám lính cộng sản với hai thanh niên cầm cờ đỏ. Thật ra chỉ là một mẫu vải màu đỏ. Loại hàng may áo dài.

    • Thoáng rất ngắn, anh ngừng lại, liếc về phía khối tượng đài Thủy Quân Lục Chiến, nơi có Người Lính vừa chết. Anh cúi gập người. Nôn khan.

      Buổi Sáng 30 tháng Tư, 1975. Chen giữa âm sắc xích xe tăng đổ nhào cửa Dinh Độc Lập có tiếng nổ khô nhỏ của viên đạn ghim vào, nằm sâu trong đầu Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia NGUYỄN VĂN LONG.


    Anh lên yên, nhấn mạnh bàn đạp, động tác bàn chân quay vòng không chủ đích. Xe đi dọc đường Lê Văn Duyệt, qua Chợ Đũi, nơi các bạn anh hôm qua (nay đã trở thành xưa cũ) hằng vui vầy, sống động.. Tạ Ký, Nguyễn Xuân Hoàng, Đoàn "càn", Tôn Thất Trung Nghĩa và thỉnh thoảng có cả Bùi Giáng với con mèo ôm trước ngực. Các bạn bây giờ ở đâu? Quán vắng, cửa đóng kín, ghế úp ngược lên bàn chỏng chơ, hàng me rũ xuống gờn gợn như giải phướn. Định rẽ vào Yên Đỗ về Phú Nhuận, nhưng không hiểu từ đâu thúc dục, anh đạp dài theo Lê Văn Duyệt giữa giòng âm động dồn dập của Sài Gòn đang hồi tẩm liệm với nhịp chày vồ dộng mạnh xuống trăm, ngàn quan tài. Mà quả thật có nhiều quan tài của những người vừa chết.. Thầy tướng số M.Y, bạn của Hoàng Ngọc Liên, một mình tử thủ căn lầu vùng Ngã Ba Ông Tạ trước nhiều đợt tấn công của một đại đội lính cộng sản, và trận đấu không cân sức chỉ kết thúc sau khi ông ta đã dùng hết số đạn và lựu đạn xin được của lính Tiểu Đoàn 2 Dù của Trần Công Hạnh. Đơn vị đã bắn cháy những chiếc T54 cuối cùng nơi Ngã Tư Bảy Hiền trước khi đồng đập vỡ súng XM16, đại liên 60 lên mặt đường, vất nón sắt, cởi giây đeo đạn ba chạc. Đến trước cổng trại Nguyễn Trung Hiếu, hậu cứ Tiểu Đoàn 1 Dù, anh hỏi Hạnh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2:
    • "Bây giờ bạn tính sao?"
    Hạnh im lặng nhìn ra đường lộ đang ùn ùn lớp người chạy loạn về hướng trung tâm Sài Gòn. Tròng mắt bạn khô khan ráo hoảnh sau bao ngày đêm không ngủ. Có một xác con trẻ trần truồng không biết ai vất ra từ bao giờ.. Cô gái áo trắng nữ sinh đi đến, gác chiếc xe đạp mini cạnh lề đường, bình thản, thành thạo đưa máy ảnh lên, lấy góc cạnh thây đứa trẻ chết. Cháu chụp tấm hình nầy làm gì? Anh không dám nhìn đến thây đứa trẻ mà giờ nầy đã miết xuống mặt nhựa đường do đám người chạy loạn dẫm lên.
    • Để làm chứng tội ác Mỹ-Ngụy trước khi bọn chúng rẫy chết!
    Giọng cô gái đanh lại, mắt quắt lên sau lớp kính trắng. Anh thoáng kinh hãi vì chứng kiến một điều ghê rợn: "Hóa ra Sự Ác có thể chụp xuống lòng người mau chóng đến thế sao?" Bấy giờ, chỉ mấy mươi phút sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Khi Hạnh châm điếu thuốc; anh lập lại câu hỏi với bạn mà biết rằng chẳng có trả lời. Hạnh nói dứt khoát, dẫu mệt nhọc, rời rã:
    • "Tôi còn đến 500 người lính; tất cả các đại đội trưởng đang đợi lệnh tôi, anh xem tôi có thể làm gì, đi đâu?!"
    Anh đạp xe vào Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa cốt đến thăm gia đình người em.. Biết đâu là lần cuối cùng! Anh không dám, không thể nghĩ gì thêm. Có trung đội lính Dù (thật sự chỉ khoảng hơn một tiểu đội) giữ nhiệm vụ an ninh cư xá đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu (Tư lệnh phó Sư đoàn Dù trước 1972). Chuẩn Tướng Hậu đang trải chiếc bản đồ trên mui xe jeep, bàn tính với những viên sĩ quan. Khi biết lệnh đầu hàng đã thi hành, ông vất tung chiếc bản đồ, gầm lên
    • ..Đ.. m.. đồ chó đẻ!
    Anh nói với viên thiếu úy trung đội trưởng: Anh vừa gặp ông Hạnh ngoài cổng tiểu đoàn 1. Ông Hạnh không có ý kiến, bảo anh em ai về nhà nấy. Viên thiếu úy quyết liệt:
    • "Em không đầu hàng, em với trung đội sẽ ra bến tàu.."
    Thái, Thiếu úy Huỳnh Văn Thái tập họp trung đội, hô nghiêm, xếp hàng, ra lệnh di chuyển.. Trung đội lính ra khỏi cư xá theo lối cổng Đường Tô Hiến Thành, rẽ vào Nguyễn Tri Phương, đi về phía chợ Cá Trần Quốc Toản, hướng bến tàu. Nhưng những Người Lính Nhẩy Dù của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái không ra đến bến Bạch Đằng, tới đến bùng binh Ngã Sáu Chợ Lớn, họ xếp thành vòng tròn, đưa súng lên trời đồng hô lớn.. Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm..Con chết đây cha ơi! Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng bực nỗ sau lời hô vĩnh quyết cùng đất nước Miền Nam.

    Sau nầy, anh biết thêm, trên con đường anh vừa đi qua, đường Bắc Hải, ngõ nhỏ băng ra Chợ Ông Tạ, trong một căn nhà đã diễn nên hoạt cảnh uy nghi bi tráng của cả một gia đình quyết tử cùng vận nước. Thiếu Tá Đặng Sĩ Vĩnh (em của Bà Hà Thượng Nhân, Trung Tá Phạm Xuân Ninh, niên trưởng của giới báo chí quân đội Miền Nam) Khóa 1 Nam Định là sĩ quan của ngành tình báo đặc biệt, biệt phái ngoại ngạch qua ngành viễn thông, phụ trách đường giây quốc ngoại. Người con trai lớn của gia đình, Trung Úy Đặng Trần Vinh sĩ quan Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu.. Hai người cùng trao đổi đối thoại sau khi có lệnh đầu hàng.. Tùy con, riêng bố đã quyết như đã nói với con từ trước. Nếu bố đã quyết như thế, con và các cháu cũng đồng lòng. Toàn gia đình uống chậm những liều thuốc độc cực mạnh đã chuẩn bị từ trước. Trung Úy Đặng Trần Vinh kết thúc bi kịch với viên đạn bắn tung phần sọ não sau khi đứng chào tấm Đại Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ với lời hô khiến sông núi cũng quặn thắt thương đau.. Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm!

    • Và ở vùng IV, chị Nguyễn Thị Thàng vợ một Nghĩa Quân Đồn Giồng Trôm, thay chồng giữ đồn đến trái lựu đạn cuối cùng. Chị kết thúc đời sống bên cạnh thây của chồng, các con, với những vũ khí, máy truyền tin đã bị phá hủy.. Không để cho Việt cộng một cái gì cả! Người chồng đã dặn chị trước khi lâm tử.

      Cùng lần với những danh tướng vị quốc vong thân Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn... rất nhiều người không ai biết đã chết cùng lần vĩnh quyết Miền Nam. Anh đi qua biên giới tử sinh nầy với mặc cảm phạm tội - Tội đã được sống sót - Cảm ứng có thật từ ngày 15 tháng 3, 1975 khi anh theo đoàn người di tản dọc tỉnh lộ 7 từ Pleiku về Phú Bổn, xuống Tuy Hòa.. Khi đứng trên Đèo Hải Vân ngày 25 tháng 3, nhìn đoàn người chạy từ Quảng Trị, Huế vào Đà Nẵng. Nghe ra tiếng hờn đau ai oán của người đàn bà chân trần, tóc rối, lật vạt áo dài ra để thấy đứa con nhỏ đã chết từ lâu trên tay.


    Anh đạp xe với màn nước mắt pha máu; trên áo, ở đầu ngón tay, nơi cánh mũi rây rây, nồng gắt mùi máu do khi anh đến gần, cúi xuống chụp hình viên thiếu úy và những người lính nhảy dù tự sát. Mắt người chết nhìn anh trừng trừng khốc liệt. Hai chiếc máy ảnh vừa chụp những "đoạn phim lịch sử" kia cũng đã bị một gã nào đó bên đường cướp giật, anh cũng chẳng màn kể đến. Và không hiểu anh đã về đến nhà theo lối nào, lúc mấy giờ, nhưng đây thật là đoạn đường dài nhất, mệt nhọc nhất, gớm ghê nhất anh vừa đi qua với cổ đắng, miệng khô rốc, trí óc vỡ loãng trỗng không. Đến đầu ngõ đường Hồ Biểu Chánh, anh kiệt sức, xuống xe, dắt đi xiêu ngã.. Người đứng dưới tàng cây vú sữa trước căn nhà kín cửa đưa tay ngoắt anh dồn dập...
    • Trời ơi.. sao mầy còn đây... Tại sao, tại sao mầy còn đây?!
    Hoàng hỏi anh thất thanh, mắt bạn hốt hoảng. Anh biết bạn đang lo sợ, băn khoăn cho số phận anh chứ không vì tình thế của riêng mình. Cơn đau được nhẹ đi, anh tránh tầm mắt xao xuyến, se thắt của bạn. Bởi, anh thật muốn cầm lấy bàn tay đang rung rung giật giật trên ghi đông xe, và bật òa khóc với bạn. Người chứng kiến phút giây anh đi, về từ sự chết.





    Hậu từ,

    Ngày 14 tháng 1, 2002 tại Đại Học Ngoại Ngữ thuộc hệ thống Đại Học Đông Kinh, trong hội thảo tìm hiểu Nguyên nhân và Tác động của Chiến Tranh Việt Nam đối với các quốc gia Á Châu hằng tham dự vào cuộc chiến: Nhật, Đại Hàn, Trung Hoa và Việt Nam. Anh đã có lời kết luận cho phần nói chuyện của mình..
    • "Người Nhật là một dân tộc vĩ đại qua nghi lễ hiến tế - Sepuku (mổ bụng tự sát) khi danh dự cá nhân, tập thể, tổ quốc bị xúc phạm. Dân tộc Việt Nam chúng tôi không có nghi thức uy hùng, dũng cảm ấy. Tuy nhiên, Người Việt cũng có phương thức riêng để bày tỏ Lòng Yêu Nước, cách gìn giữ phẩm giá Con Người. Chúng tôi xử dụng Cái Chết để chứng thực nguyện vọng kia qua cách thế im lặng và đơn giản nhưng không kém phần cao thượng.
      Khác với những vị tướng quân ôm ảnh tượng Nhật Hoàng nhảy xuống biển trầm mình khi quân đội Nhật phải đầu hàng sau hai quả bom nguyên tử rơi xuống Nagasaki và Hiroshima. Sau ngày, 30 tháng 4, 1975 khi quân đội Miền Nam buộc phải buông súng đầu hàng kẻ nghịch đi từ phương Bắc xuống, từ rừng rậm về, đã có hàng loạt những vị tư lệnh quân đội đồng lần tự sát trong im lặng. Nhưng không chỉ những tướng quân chỉ huy những đại đơn vị cấp quân đoàn, sư đoàn, mà ngay cả những viên thiếu, trung úy cùng quyết định với những người lính của mình - Những tập thể trung, tiểu đội nổ tung thân xác sau lời hô vĩnh biệt quê hương. Và không phải riêng đối với những người lính phải buông súng, mà cả gia đình, vợ, con họ cùng lần kết liễu cuộc sống khi tổ quốc lâm tử.
      • Ba thế hệ ông, cha, cháu của gia đình Thiếu Tá Đặng Sĩ Vĩnh, Trung Úy Đặng Trần Vinh và những trẻ nhỏ thuộc gia đình nầy
      là một hiến tế uy nghi bi tráng vô cùng cho Tổ Quốc Việt Nam, nước Việt Nam Cộng Hòa.
      Cuối cùng, bi kịch không chỉ xẩy ra với thời điểm 30 tháng tư, 1975 mà sau đó, suốt hai thập niên 70, 80, hai triệu người Việt Nam, không phân biệt người Nam, hay người Bắc (những người đã sống dài lâu dưới chế độ cộng sản Hà Nội từ 1945, từ 1954) đã phá thân băng biển lớn, rừng rậm của vùng Đông-Nam Á, với giá máu 600.000 người chết trên đường di tản ra khỏi nước.
      Hóa ra Dân Tộc Việt, những người Việt Nam bình thường đã đồng lần thực hiện một điều mà họ không hề diễn đạt nên lời: Con người sống được nhờ bánh mì, cơm gạo, do những nhu cầu vật chất, nhưng Người cũng có thể Chết về những điều Cao Thượng Siêu Hình - Chết vì Tự Do, để bảo vệ Phẩm Gia, Quyền Làm Người. Người Việt Nam đã, đang hiện thực điều mầu nhiệm nầy qua từng ngày vượt sống trên quê hương khổ nạn, với chính thân xác của mình."

    Anh nói những lời trên không riêng cho hội thảo ở Đông Kinh mà muốn gởi đến thế giới về Vĩ Đại Đau Thương của toàn Dân Tộc Việt.

    Xin tất cả hãy lắng nghe.





    Phan Nhật Nam
    Viết lại cho Ngày 30 Tháng Tư,
    Hai-mươi tám năm sau, (1975-2003).




    nguồn: vietmessenger.com

              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: - 30/04/2019 - tưởng niệm 44 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




              
              
    Đừng hỏi chúng là ai
    _________________________






    Đã đến lúc này rồi
    Cứ thẳng thừng chỉ rõ
    Đừng hỏi chúng là ai
    Chúng là loài quỉ đỏ
    Đang hiến đất cho Tàu


    Một ngàn năm thương đau
    Bao xương chồng chất ngất
    Một ngàn năm bất khuất
    Chúng phủi sạch sành sanh
    Miệng phun máu hôi tanh


    Đã đến lúc nầy rồi
    Cứ thẳng thừng chỉ rõ
    Đừng hỏi chúng là ai
    Chúng là loài quỉ đỏ
    Đang hủy diệt Giang San


    Chúng củng cố lòng tham
    Bằng điêu ngoa dối trá
    Chúng là phường xỏ lá
    Mượn hai chữ vinh quang
    Vùi linh hồn Việt Nam


    Đã đến lúc này rồi
    Còn chần chờ gì nữa
    Cho dù vào biển lửa
    Hay vào vạt dầu sôi
    Cùng đứng dậy đi thôi
    Đập tan loài bán nước


    Đã đến lúc nầy rồi
    Cứ thẳng thừng chỉ rõ
    Chúng là loài quỉ đỏ
    Đang hủy diệt Giang San !





    Trạch Gầm

              


              

              
              

              
              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Quân Dân Bình Thuận không tuyên bố tử thủ nhưng đã chiến đấu đến ngày cuối cùng (30-04-1975)

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    Quân Dân Bình Thuận
    không tuyên bố tử thủ
              
    nhưng đã chiến đấu
    đến ngày cuối cùng
    (30-04-1975)

    ___________________________
    Mường Giang







    Sáng ngày mồng Một tháng 4 - 1975, một cuộc họp tại Tòa Hành Chánh Tỉnh, gồm BCH Hành Chánh, Tiểu Khu và bảy quận trưởng nhằm mục đích đối phó với đoàn người di tản từ Cao Nguyên và miền Trung sắp vào tới Phan Thiết.
    • Trong khi tình hình tại Lâm Đồng rất sôi động nhất là tại vùng giáp ranh với Định Quán (Long Khánh), QL1 tại Rừng Lá đã bị Cộng quân đóng chốt, quân số cấp Sư Đoàn, chuẩn bị đánh vào Sư Đoàn 18BB tại Xuân Lộc.
    • Tại Bình Tuy, Đại Tá Tỉnh Trưởng Trần Bá Thành cũng đã lập một nút chận hùng hậu từ Căn Cứ 10 cho đến thị xã La Gi.
    Trước tình hình này, Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa quyết định bỏ ngỏ Phan Thiết để đoàn di tản đi qua.

              

              




    Ngày 2-4-75, sau khi Bộ Tư Lệnh/Quân Đoàn II lần lượt bỏ Pleiku, Kontum, Buôn Mê Thuột rút về Nha Trang, Bộ Tổng Tham Mưu / QLVNCH ra quyết định sáp nhập phần lãnh thổ còn lại của Quân Đoàn II vào Quân Đoàn III. Cuộc bàn giao lãnh thổ tại Lầu Ông Hoàng nơi đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Tiểu Khu Bình Thuận, giữa Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Q Đ II và Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Q Đ III. Coi như kể từ 1 giờ 45 phút ngày 2 – 4 – 75 Quân đoàn II không còn.

    Trước tình hình như vậy, BCH/ Tiểu Khu Bình Thuận điều động Tiểu Đoàn 229/ĐP do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tiến làm Tiểu Đoàn Trưởng, lúc đó đang làm nhiệm vụ giữ an ninh cho Khu định cư Nghĩa Thuận, nằm bên kia Đập Đồng Mới, thuộc xã Lương Sơn.Tiểu Đoàn rút về tăng cường cho Nam Bình Thuận. Vào ngày 1-4-75, Đại đội 4/248/ĐP do Tr/úy Nguyễn Tấn Hợi làm Đại Đội Trưởng thay thế T Đ /229/ĐP. Trong ngày này Tiểu Đoàn được tăng phái cho Chi Khu Hàm Thuận, riêng Đại Đội 4/229/ĐP do Trung úy Cao Hoài Sơn làm Đại Đội Trưởng, phụ trách bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ và đồng bào hồi hương từ Campuchia tại Bình Tú, thế cho đơn vị của Đại úy Huỳnh Văn Quý đã di chuyển tăng cường cho mặt trận Ba Hòn (Kim Bình, Hàm Thuận ).





    Ngày 3-4-1975, toàn bộ Tiểu Đoàn 229/ĐP được lệnh di chuyển về phòng thủ bảo vệ Tiểu Khu và Tòa Hành Chánh Tỉnh. Đại đội 2/229 do Đại úy Lê Viết Duyên làm Đại Đội Trưởng, phòng thủ chu vi Tòa Hành Chánh. Đại đội 3/229 do Tr/úy Nguyễn Dương Quang làm Đại Đội Trưởng trú đóng tại Vườn Hoa, Lầu nước. Đại Đội 1/229 do Tr/úy Nguyễn Văn Thứ làm Đại Đội Trưởng, đóng từ Bưu Điện qua Ngân Khố dọc theo đường Hải Thượng Lãng Ông. Đại Đội 4/229 đóng dọc theo đường Nguyễn Hoàng, bảo vệ mặt sau cho Tiểu Khu.





    Một ngày đêm trôi qua êm ả, cuối cùng đoàn di tản cũng tràn vào Phan Thiết theo ngã Quốc Lộ 1 từ Bắc Bình Thuận vào, sau khi đã tàn phá các làng mạc, thị trấn trên đường đi, gồm các thị trấn Long Hương, Phan Rí Cửa, Chợ Lầu, Lương Sơn.....Tại Phan Thiết, sáng ngày 4-4-1975,trên các con đường phố tràn ngập những quân xa, có cả Thiết vận xa M113 và Tank M41, M48. Xe Honda và người tràn ngập trên vỉa hè, tất cả các Chợ, Quán ăn, Tiệm tạp hóa, Cây xăng đều đóng cửa.

    Tuy vậy đoàn di tản và một số côn đồ lợi dụng tình thế cướp giật, không ít Cộng quân đã trà trộn đột nhập vào thị xã Phan Thiết, gây tình trạng rối ren hầu tìm cách đánh úp ta.Tất cả đều bị đập phá tang hoang, các cửa tiệm, cây xăng bị cướp phá. Các nơi chứa gạo dự trữ bị dân tràn vào cướp đi. Chúng tôi nhìn cảnh này lòng đau như cắt, nhưng được lệnh không được nổ súng vì sẽ gây thêm hỗn loạn, dân lành sẽ chết và Đặc cộng địch sẽ lợi dụng cơ hội giết thêm dân vu vạ cho ta. Phan Thiết đã thật sự bỏ ngõ,để tránh đổ thêm máu vô ich.

    Sáng ngày 4-4-75 tại Cầu Bằng Lăng ở đoạn đường vắng gần núi Tà Dôn, đoàn di tản đã bị VC phục kích. Có hai binh sĩ của Đại đội 4/229 đang công tác may mắn thoát chết.Theo lời tường thuật của hai nhân chứng thì đoàn di tản bị thương vong rất nhiều, vì VC bắn bừa bãi vào đoàn xe, trên đó đa số là Dân chạy nạn từ vùng hỏa tuyến về. May nhờ có chiến xa tiến lên tiêu diệt địch quân,yểm trợ cho đoàn di tản tiếp tục tiến vê Phan Thiết.

    Cơn lốc tàn phá cuối cùng cũng chấm dứt vào buổi chiều, khi một số lượng lớn người và xe di tản vào Bình Tuy. Phan Thiết tưởng chừng như qua khỏi cơn đại nạn, cho đến 10 giờ đêm thì bỗng nghe một tiếng nổ rất lớn ở hướng phố Gia Long làm cháy ngôi Chợ Lồng Phan Thiết. ĐĐ4/229 của Tr/U Cao Hoài Sơn đã được lệnh đến hiện trường, tìm cách giúp đỡ dân chúng chữa lửa cùng trấn áp bọn tội phạm thừa lúc hỗn loạn cướp phá.




    (05-04-75)
    Cho đến trời vừa hừng sáng mới dập tắt được đám cháy trong chợ thì VC bắt đầu pháo kích vào BCH / Tiểu Khu. Nhưng đạn lạc ra ngoài quanh Vườn Hoa, dọc bờ sông đường Trưng Trắc, và Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín. Có hai trái rớt vào khu dân cư ở Khu II Bình Hưng làm nhiều thường dân vô tội thương vong. Nhờ ta pháo trả kịp thời nên đã bịt kín họng súng của đích lúc đó đang đặt tại Xuân Phong, Đại Nẫm.

    Ngưng được một thời gian ngắn đến lúc 10 giờ, địch tiếp tục pháo vào Phan Thiết, nhưng chỉ trúng nhà dân, làm tử thương thêm vài người. Một bọn du đảng ở Lò Heo nhặt đâu được một chiếc xe Jeep quân đội bỏ lại, bọn này cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tay cầm súng AK 47, mang băng đỏ, lái xe băng qua cầu Quan đi dạo phố như chỗ không người, tới trước rạp Chiếu bóng Bình Thuận và Khách sạn Anh Đào thì đụng ngay với Đại đội 1/229/ĐP của Tr/úy Nguyễn Văn Thứ. Những tràng đạn M16 của ta đã diệt gọn không sót một tên, xác chết nằm vắt trên xe, bọn này có lẽ bị VC nằm vùng giật dây, cho rằng chính quyền đã bỏ chạy hết, nên tìm cách cướp chính quyền lập công dâng đảng.

    Buổi trưa có hai hỏa tiễn 122 ly từ hướng Xuân Phong, Trinh Tường pháo vào Trung Tâm Phan Thiết làm thương vong thêm một số người. Lúc đó đoàn di tản mới chịu rời thành phố nhưng lại rơi vào ổ phục kích của VC tại Cây Số 37 trên QL1. Số còn lại chạy thoát vào căn cứ 10 thì bị Tiểu Khu Bình Tuy giải giới hết.Tuy vậy Tiểu Đoàn 229/ĐP vẫn được lệnh tiếp tục bảo vệ thị xã Phan Thiết thêm hai hai ngày mới rút.





    Ngày 7- 4 – 75 VC theo đường Tỉnh Lộ 8 tấn công quận lỵ Thiện Giáo sau khi Lâm Đồng bỏ ngõ. Đại úy Mai Vi Thành lúc này là quyền tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 230/ĐP kiêm Chi Khu Trưởng Thiện Giáo (thay Thiếu Tá Lê Văn Thông..). Trận chiến diễn ra ác liệt, địch bỏ lai nhiều xác chết và rút lui trước sự chống trả anh dũng của quân ta.

    Để bảo vệ vòng đai Phan Thiết, toàn bộ Tiểu Đoàn 229/ĐP di chuyển đến phối hợp với Tiểu đoàn 202/ĐP của Đại Úy Huỳnh Văn Hoàng làm quyền tiểu đoàn trưởng (thế Thiếu Tá Bính..), BCH tiểu đoàn đóng tại căn cứ Tân An.




    Ngày 12/4/75 khi TĐ229/ĐP đến phòng tuyến mới Cầu Sở Muối, thì Tân Điền đã lọt vào tay địch. Cho đến ngày 15/4/75 VC tập trung pháo kích vào Thiện Giáo. Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa Tiểu Khu Trưởng ra lệnh cho Tiểu Đoàn 230/ĐP bỏ Thiện Giáo rút về phòng thủ thị xã Phan Thiết, đơn vị này được phối trí đóng quân tại vùng nhà thờ Lạc Đạo.

    Lúc này mặt trận tại Phú Long đang hồi khốc liệt, tiếng đạn nổ bom rơi ì ầm suốt cả ngày đêm. Trong ngày 12/4/75 Đại Úy Huỳnh Văn Quý liên đội trưởng Liên Đội Đặc Nhiệm Bảo Vệ Nông Trường Sao Đỏ, được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 249/ĐP (thay thế Thiếu Tá Phan Sang) và Đại Uý BĐQ Nguyễn Văn Hạnh (TĐP) được tăng phái thêm Đại Đội 283 Biệt Lập do Đại Úy Nguyễn Văn Ba làm đại đội trưởng. Lúc 4 giờ chiều ngày 13-4-1975, Tiểu Đoàn 249/ĐP và Đại Đội 283 ĐPQ đã đánh vào Phú Long, được tăng cường thêm một đơn vị của Trung đoàn 6/Sư đoàn 23BB đã chiến đấu oanh liệt chặn địch và chiếm lại Phú Long cho đến ngày cuối cùng 18/4/75. Khi mà các Binh Đoàn của Cộng Sản thanh toán xong các nút chận và đang tiến về Phan Thiết theo QL1.

    Từ ngày 12/4/75 , Tiểu Đoàn 229/ĐP lập phòng tuyến tại Cầu Sở Muối trên Quốc lộ 1. BCH/Tiểu Đoàn đóng tại Cầu Sở Muối. Đại Đội 1 , 2 , 4 lập thành vành đai từ Tân An đến Tân Điền, dựa theo địa thế tự nhiên mương rạch chằng chịt trong khu vực. Đại Đội 3 nằm bên kia QL1 trong những đám ruộng muối. Có một đồn nhỏ sát với QL1 ngang với Tân Điền do một Trung Đội Nghĩa Quân đóng chốt. Trong phạm vi phòng thủ có vài ngôi nhà dân còn lại là ruộng chưa gieo cày.

    Trong những ngày cuối cùng của tháng 3 năm 1975, Tiểu Đoàn 275/ĐP do Thiếu Tá Lê Văn Tư làm Tiểu Đoàn Trưởng chịu trách nhiệm an ninh vùng Cây Số 25, thì vào thời điểm đầu tháng 4-1975 bộ đội Cộng Sản đã tăng cường áp lực lên Chi Khu Thiện Giáo và vùng Nora – Tùy Hòa. Chúng đem một đơn vị cấp Tiểu đoàn có pháo yểm trợ tấn công đồn NORA và chiếm giữ đồn. Tiểu Khu Phòng 3 đã ra lệnh cho Tiểu đoàn 275/ĐP bằng mọi giá phải lấy lại đồn này không để mất vào tay Cộng sản.





    Vì vậy trong đầu tháng 4/75. Tiểu đoàn đã tiến về đánh chiếm lại Đồn NORA. Trận chiến diễn ra ác liệt với sự yểm trợ của Pháo Binh đặt trên núi Tà Dôn. Sau nhiều giờ giao chiến tiểu đoàn đã chiếm lại được đồn NORA với tổn thất nhẹ. Đại Đội 1 do Trung úy Nguyễn Minh Luân làm ĐĐT đã có một Trung đội Trưởng hy sinh anh dũng.

    Áp lực địch càng ngày càng gia tăng lên xã Tùy Hòa, Tiểu khu không còn lực lượng để trấn giữ nên ra lệnh Tiểu đoàn 275/ĐP rời bỏ vùng NORA kể cả đồn này trước đó đã đổ máu để lấy lại để về giữ vững Tùy Hòa. Tiểu đoàn tăng viện Đại đội 2 do Trung úy Lợi làm ĐĐT giữ mấy khẩu pháo tại núi Tà Dôn. Cộng quân đem một đơn vị rất lớn đánh vào Tùy Hòa nhưng không làm gì được bên ta, Tiẻu đoàn đã cầm cự với Cộng quân trong hai tuần tại đây. Ý đồ của chúng là sau khi chiếm được Tùy Hòa rồi mới dồn nỗ lực đánh phá phòng tuyến Phú Long do Tiểu đoàn 249/ĐP cùng một số đơn vị tăng phái trấn giữ. Nhưng Cộng quân chiếm không được Tùy Hòa nên chúng thay đổi kế hoạch bằng cách đem toàn bộ lực lượng đi vòng đánh chiếm Phú Long. Tại đây chúng gặp sức kháng cự mạnh mẽ của các đơn vị đồn trú gây cho chúng nhiều thiệt hại cho đến ngày 18-4-1975, sau khi thanh toán xong Bắc Bình Thuận. Binh Đoàn Cộng Sản có tăng yểm trợ đã tiến vào Phú Long.

    Tiểu Đoàn 275/ĐP lại được lệnh bỏ Tùy Hòa để về tăng cường phòng thủ Phú Long vào trung tuần tháng 4-75. Tiểu đoàn phải di chuyển theo triền động cát rút về Kim Ngọc bảo vệ khu nhà Thờ Kim Ngọc. ĐĐ1/275 /ĐP của Tr/úy Luân chỉ huy chịu trách nhiệm bên đây cầu còn bên kia do Tiểu đoàn 249/ĐP trấn giữ. Trong hai tuần tại đây cộng quân đã tiến đánh ngày đêm nhưng cứ điểm Phú Long như thành đồng vách sắt không thể nào chúng phá nỗi.





    Sáng ngày 15/4/75 Đại Đội 1/229/ĐP bắt được một Đặc công của địch đang ẩn náo trong nhà dân gần đó điều chỉnh pháo binh pháo kích vào quân ta.




    Trưa ngày 18/4/75 Đại Đội 4/229/ĐP do Tr/úy Cao Hoài Sơn chỉ huy được lệnh tấn công chiếm lại Tân Điền dưới sự yểm trợ của Đại đội 1 + 2/229 của Tr/úy Thứ và Đại Úy Duyên. Quân số địch tại Tân Điền rất đông lại có chuẩn bị hầm hố vững chắc, có cả vũ khí hạng nặng. Mặc dù lúc sáng, tiểu đoàn có nhận được một số lớn M72 chống xe Tank và nhiều đạn cối 81 ly xuyên phá dùng để phá hầm đich.

    Lúc 7 giờ tối 18-4-1975 nhận được lệnh sẳn sàng “chờ lui quân“. Trung đội Nghĩa Quân ở đồn bên cạnh liên lạc với ĐĐ4/229 xin cho sáp nhập vào đoàn di tản. Chờ mãi đến 8 giờ tối mà chưa nghe bất cứ một hiệu lệnh gì! Hướng Phú Long thì im hơi lặng tiếng khác với ngày thường. Chính lúc đó, đoàn xe tăng địch đã qua Cầu Phú Long và đang hướng về Cầu Sở Muối vào Phan Thiết.

    Đoàn xe Địch khi băng qua khu Kim Ngọc đã dùng đại liên bắn vào tháp chuông nhà thờ. Khi đoàn xe đi qua đồn Nghĩa Quân thì dừng lại quay pháo tháp, tôi nghe cả tiếng kẹt kẹt của pháo tháp quay và nổ nhiều phát đạn vào đồn, lửa văng tung tóe. Khi xe chạy ngang vị trí ĐĐ4/229 thì hai quả chiếu sáng do tiểu đoàn bắn lên, binh sĩ tình nguyện hạ xe tăng địch chạy về vị trí phòng thủ bị địch phát hiện nên quay họng súng đại bác 100 ly vào vị trí của đại đội bắn trực xạ. Đằng sau xe tăng địch đang tràn lên tiếp ứng, mặt sau Tân Điền không biết địch quân có phối hợp với xe tăng để tấn công ta hay không chưa biết, nên tiểu đoàn rút lui về Tân An để cũng cố đội hình là phương án tốt nhất.

    Khi xe Tank địch đi qua Cầu Sở Muối thì BCH/Tiểu đoàn 229/ĐP còn dưới cầu, tất cả lợi dụng bóng đêm rút về Tân An an toàn, trừ Đại đội 3/229/ĐP của Trung úy Nguyễn Dương Quang không băng qua Quốc Lộ 1 được nên rút xuống Bình Hưng tim ghe về Vũng Tàu. Lúc này xe Tank địch truy đuổi theo con đường đất nối liền QL1 với đường Lương Ngọc Quyến, Tỉnh lộ 8 nối dài.Có lẽ địch đang chờ phối hợp với bộ binh tại Tân Điền mới tiến đánh. Tiểu Đoàn 202/ĐP đã rút khỏi Tân An, trong đồn vỏ xe hơi đốt cháy sáng rực.

    Lúc này BCH/ Tiểu đoàn liên lạc được với Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa hiện đã di tản bằng ghe chài ra Chiến hạm Trần Khánh Dư HQ4 đang neo ngoài biển Phan Thiết để lập kế hoạch di tản toàn bộ Quân Dân Cán Chính Bình Thuận vào ngày mai 19/4/75 theo kế hoạch. TĐ229/ĐP xin phi cơ yểm trợ để lui binh, Quân đoàn III đã cho một Hỏa Long C47 đến yểm trợ do Phi Công Trưởng là Đại úy Minh chỉ huy. Ông đã hết lòng “ giãi vây cho người lính Bộ đang nguy khổn “ bằng cách thả đèn và bắn chận đich đang từ Tân Điền tiến vào Tân An. Qua ánh hỏa châu, thấy xe Tank địch tấp vào núp dưới các tàn cây trên đường đất. Phòng không đich từ Tân Điền và Bình Lâm bắn lên đầy trời như sao xa, bao vây chiếc Hỏa Long đơn độc.Sau mười lăm phút quần thảo với địch, giúp đon vị Ban cũng cố đội hình, vượt sông Cà Ty qua ngõ Xuân Phong, Đại Nẫm tiến về Bình Tú. Chiếc C47 bị trúng đạn phòng không của địch nên chào từ giã ĐIA PHƯƠNG QUÂN BÌNH THUẬN và chúc may mắn. Ông lấy làm tiếc vì không giúp được nhiều hơn.

    Tại Bắc Bình Thuận, theo tường thuật của Trung úy Nguyễn Tấn Hợi, Đại đội trưởng Đại đội 4/ TĐ 248/ĐP là đơn vị tiền phương xa nhất của Tiểu Khu Bình Thuận. Đơn vị đóng bên này Cầu Đá Chẹt (Cà Ná) là ranh giới của Tiểu khu Bình Thuận và Ninh Thuận trên Quốc Lộ 1.

    Vì tình hình chuyển biến quá nhanh, nên sau khi liên lạc về BCH/TĐ248 ĐP, Đại Đội 4 nhận được lệnh bỏ Cà Ná và rút toàn bộ đại đội (-) về xóm Vĩnh Hảo nhưng vẫn phải thường xuyên liên lạc với BCH/TĐ và Liên Đoàn 925 ĐP để báo cáo diễn biến của địch từng phút một. Vì khi còn ở Cà Ná, nhận thấy xóm Vĩnh Hảo không có vị trí phòng thủ tốt, nên ĐĐ4/248 đã di chuyển đến đóng quân ở một ngọn đồi thấp, đối diện với Sở Nước Suối Vĩnh Hảo.
    • Đây là một vị trí phòng thủ thiên nhiên rất lý tưởng, hơn nữa nếu nguy cấp đại đội có thể rút ra phía sau núi là bờ biển. Chỉ có biển là nơi thoát thân tốt nhất, chuyện đã đến nước này rồi phải lo cho đơn vị được an toàn rút lui, bảo vệ mạng sống cho những binh sĩ đã theo “tôi” trong suốt đoạn đường gian khổ
      (lời tâm sự đầy máu lệ của Trung Uý Hợi).


              

              




    Mờ sáng ngày 16-4-75 Đại Đội 4/248 đã đóng quân trên núi. Khoảng 10 giờ sáng qua ống dòm thấy đoàn xe địch di chuyển từ Cà Ná vào và dừng lại tại xóm Vĩnh Hảo. Nghĩ tới mấy cây cầu, ĐĐ có xin lệnh cung cấp cho tôi chất nổ để phá hủy nhưng không có ai giải quyết. Lúc này mặt trận Phan Rang còn đang tiếp diễn ác liệt thì làm sao có thể phá hủy cầu Đá Chẹt được là đường duy nhất để đoàn quân tại Phan Rang lui quân.

    Đại đội liên lạc về BCH/TĐ xin phi vụ để oanh kích đoàn xe địch đang dồn cục tại Vĩnh Hảo và phá hủy cầu Đá Chẹt. Đây cũng là một phương cách giải quyết của một Đại đội trưởng trực tiếp ở tuyến đầu, còn có được hay không là do ở cấp thẩm quyền cao hơn. Có một điều đáng nói nữa là tôi báo đoàn xe chỉ cách tôi 4-5 cây số, và cách BCH/TĐ 10 cây số, tôi cứ gọi liên tục về BCH/TĐ để xin lệnh, máy tuyền tin của tôi cứ yếu dần rồi mất hẳn kể cả Chi khu Tuy Phong. Tôi cố gọi mà không một nơi nào trả lời đành chịu thua và tự tìm cách giải quyết. Thật ra đơn vị tôi chưa có đụng lớn, chỉ có đụng lẻ tẻ với đám Du kích trên đường rút từ Cà Ná vào Vĩnh Hảo. Cùng ngày, tôi liên lạc được với không quân khoảng giữa trưa, tôi chỉ rõ mục tiêu cần oanh kích cho viên Phi công là đoàn xe địch tại xóm Vĩnh Hảo, nhưng không hiểu vì lý do gì ? Hai chiếc F5 lại thả hai trái bom xuống vị trí đóng quân của tôi, cũng may bom lạc ra phía sau hướng về cầu Đại Hòa nên không ai bị thương vong. Tôi vẫn nghe họ gọi danh hiệu tôi là “Bản Thế” theo đặc lệnh truyền tin, song tôi không lên tiếng. Tôi sợ nếu họ biết được đơn vị tôi còn thì dám có thể ăn tiếp hai trái nữa lắm. Không nghe tôi trả lời trả vốn, và tôi nghe họ nói với nhau là bay về hướng “Lê Lai-Sơn Tây” tức Lương Sơn, tôi nghĩ chắc là họ vô dội 2 trái còn lại vô một đơn vị nào đó mà họ biết, không biết em nào đây ! Quả thật sau này có gặp Thiếu Úy Đỗ Văn Khuyến ĐĐP/ĐĐ4/TĐ/212/ĐP đóng tại Đồn Cây Táo hiện ở Seattle có nghe tiếng tôi báo tất cả mọi tình hình và rút ra khỏi đồn Cây Táo và cuối cùng quả nhiên đồn này nhận 2 quả bom còn sót lại. Đoàn xe địch khi vào đến gần Lương Sơn thì bị chặn lại tại dốc Bà Chá với bãi mìn chống chiến xa làm 7 chiếc bị phá hủy. Dấu tích còn lại sau 1975 là xác 3 chiếc xe tăng địch còn nằm tại bờ Sông Lũy gần dốc Bà Chá xóm Ruộng Lương Sơn. Công lao này do Đại Úy Vĩnh ĐĐT/ĐĐ1/TĐ212/ĐP.

    Mọi sự liên lạc với Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 248 và Chi Khu Tuy Phong, Liên Đoàn 925 Địa Phuơng Quân (Đại Tá Lại Văn Khuy) coi như chấm dứt, phía sau tôi còn có những đơn vị nào ? Tôi nghĩ lúc này tại Tuy Phong chỉ còn duy nhất một đại đội (-) của tôi thôi. Tôi cố gắng củng cố lại phòng tuyến, bố trí binh sĩ đâu vào đó. Đứng trên núi cao, qua ống dòm tôi thấy trên QL1 tôi thấy dân chúng chạy bằng đủ loại phương tiện, tôi xuống dọ hỏi thì mới biết là dân địa phương Vĩnh Hảo khi thấy đoàn xe của Cộng sản dừng lại ở đó nên họ bỏ chạy, bởi vì hôm trước tôi không thấy có một đoàn xe nào di tản ngang qua tôi. Họ cho biết là Việt Cộng có cả một đoàn xe dài ngừng ngay trước xóm Vĩnh Hảo. Tôi nghĩ ngay đến việc chắc Phan Rang đã mất, nên đoàn xe địch mới di chuyển được đến đây. Sau này đoàn xe chạy qua tôi thấy có những chiếc GMC mang phù hiệu con voi trắng của Tiểu khu Ninh Thuận.

    Tôi phát họa đường rút quân cho đơn vị, nếu rút về Phan Thiết thì xa quá, lương thực không có, đạn dược cũng cạn, tạm thời tôi rút đơn vị xuống chân núi, trước mặt là một giao thông hào, nguyên là đường mương thoát nước của con đường QL1, mương này rất rộng và sâu, không thể vượt qua bằng xe hay bộ binh nếu không có cầu nhỏ bắt qua, rất an toàn cho đơn vị cộng thêm có núi che chắn. Bất cứ một đơn vị trưởng nào cũng phải nghĩ tới khi có chuyên, tôi để lại tiểu đội Viễn thám kích trên lưng chừng núi để có gì thì yểm trợ cho nhau.

    Tôi ra đường chận dân hỏi tiếp tình hình vì lúc đó không thấy một sự di chuyển gì của đoàn xe địch và được cho biết là sẽ có một chiếc xe Jeep sắp sửa chạy trước đến đây. Nếu một chiếc xe Jeep thì quá dễ dàng với chúng tôi, còn nếu cả đoàn xe địch tiến tới thì chúng tôi như trứng chọi với đá. Thật tình mà nói lính Địa Phương Quân từ trước giờ chưa có kinh nghiệm chống chiến xa, mìn chống chiến xa lại không có.

    Tôi ra lệnh phải tiêu diệt chiếc xe Jeep bằng Đại liên M60 và M79 cùng súng cá nhân M16. Theo địa hình tôi ở trên cao nên quan sát rất rõ, khi xuống chân núi thì tầm nhìn có giới hạn bởi trước mặt là một khúc cua cùi chỏ. Chúng tôi nằm chờ, trong tầm nhìn không thấy chiếc xe Jeep mà thấy nguyên đoàn xe đang tiến đến càng lúc càng gần. Dẫn đầu là một chiếc PT76, chúng tôi nổ súng vào đoàn xe nhưng nó vẫn tiến tới, Bọn chúng bắn trả dữ dội, chung quanh tôi chỉ thấy toàn lửa và lửa và âm thanh chát chúa của các loại súng. Trước tình thế đó, tôi ra lệnh rút lui theo đường thông thủy, con đường an toàn thiên nhiên do cây cối và đá bảo vệ và rút về hướng biển.

    Nói tới vùng biển từ Cửa Xuất tới Long Hương (Chi Khu Tuy Phong) tôi nằm ở gần giữa về hướng Cửa Xuất, đến khi ra tới bờ biển thì trời đã gần tối, dọc theo bờ biển chỉ có hai loại cây sống được là cây Ma Vương bò sát mặt cát và cây Rù Rì mọc từng đám um tùm có khoảng cách, nhờ vậy mà chúng tôi có chỗ ẩn nấp an toàn không bị địch phát hiện. Tôi cho đào hố cá nhân phòng thủ và hy vọng sẽ liên lạc được với tàu Hải quân còn đang ở trong vùng này. Nhờ còn đặc lệnh truyền tin nên tôi đã gọi kêu cứu khắp nơi nhưng chẳng một ai hồi đáp. Nhìn lại những người lính dưới quyền đã theo tôi trong suốt bao năm qua mà lòng thấy đau nhói, không thể để cho họ chết được, tôi phải cố gắng để vượt thoát cùng họ.

    Tất cả nằm im lặng giữa bãi cát vắng, giờ thì họ chỉ còn đặt niềm tin vào tôi, nên không cho phép tôi được hốt hoảng. Giữa cái sống chết kề cận mới thấy gắn bó tình cảm anh em, và mới là vinh hay nhục chỉ do quyết định của tôi. Nhìn ra ngoài biển những con sóng lớn vẫn gào thét ập vào bờ, bầu trời tối đen nghĩ rằng không còn hy vọng gì. Trong lúc đó có những toán du kích đang đi lùng sục tìm dấu vết của chúng tôi về hướng Long Hương nhưng tôi không cho nổ súng vì để bảo toàn bí mật. Xa xa có những tiếng nổ vọng lại tôi đoán là những kho hậu cứ của Chi khu bị nổ trong đó có kho hậu cứ của Đại đội tôi. Tôi ngồi dưới hố sâu trên được phủ kín Poncho rọi đèn pin tìm tần số để gọi nhưng tất cả đều vô vọng, lúc này không biết đã mấy giờ rồi, ngoài trời tối đen như mực, sóng biển vẫn đập vào bờ những cơn giận dữ. Cái đồng hồ của tôi đã bị rớt mất khi di chuyển ở đường thông thủy, đó cũng là vật kỷ niệm của tôi, nó đã cùng tôi đi suốt cả đoạn đường chinh chiến.

    Tôi có suy nghĩ là sẽ lợi dụng đêm tối, băng ra QL1 để đi, nhưng không biết sẽ đi đâu trong khi lương thực, đạn dược thì thiếu thốn. Vì vậy tôi vẫn cố gắng để gọi trên các tầng số, chẳng lẽ đã đến bước đường cùng. Niềm an ủi duy nhất là đến giờ phút này mà các binh sĩ thuộc quyền vẫn còn nghe lệnh tôi. Giữa lúc đang tuyệt vọng thì tôi nghe được tiếng trả lời, niềm vui chột đến với tôi dù hy vọng mong manh. Tôi chưa rõ là tiếng nói của bạn hay của Cộng Sản rà được tần số của mình, sau tôi mới biết anh em Hải Quân đã rà và nghe được tiếng gọi cầu cứu của tôi. Xưng danh hiệu thuộc Duyên Đoàn 27 từ Phan Rang vô nhưng họ bảo phải có ai đó có thẩm quyền xác nhận tôi là “Bản Thế“ là họ vô bốc đơn vị tôi ra liền. Kể cũng thật may tôi nhận ra tiếng nói của Thiếu Tá Hà Văn Thành, Chi Khu Trưởng Chi Khu Tuy Phong. Tôi đoan chắc là Thiếu Tá Thành đang ở trên chiếc chỉ huy của Duyên Đoàn 27, nhờ vậy đơn vị tôi được cứu sống.

    Lại một lần nữa ơn trên phù hộ, cuối cùng toàn bộ đơn vị tôi cũng ra được tàu, nhưng thật vất vả. Đến khi điểm danh quân số thấy đầy đủ tôi rất mừng, không phải mừng vì mình được ra tàu mà là đầy đủ anh em được an toàn. Xong cuộc cứu vớt trời cũng gần sáng, tàu chở chúng tôi tới chiếc Dương Vận Hạm 503 luôn. Mờ sáng đơn vị chúng tôi đã có mặt trên chiếc Dương Vận Hạm 503 đó là ngày 17-3-75, con tàu đang nhấp nhô trên biển với những cơn sóng cao dữ dội. Tôi nhìn về đất liền hướng mũi Dinh, thấy lấp lánh ánh sáng từ những kiếng xe phản chiếu ánh sáng mặt trời nhiều vô kể như sau lấp lánh giữa trời đêm. Chiếc tàu đang lênh đênh ngoài vịnh Cà Ná - Cửa Xuất, tôi thấy các vị Sĩ quan Hải quân trên tàu ra dấu hiệu cho những chiếc ghe đánh cá lại gần, cho họ dầu nhờ họ đi vào bờ bốc lính ra.

    Khi công tác cứu vớt lính còn đang tiếp diễn, thì những đạn pháo từ trong bờ bắn ra, bởi vì chiếc DVH 503 ở rất gần vịnh Cà Ná, đó là pháo binh của VC mà tôi đoán là 130 bắn trực xạ, những trái đầu tiên bay qua tàu và rớt ở xa, tôi nghe chiếc loa trước pháo tháp đài chỉ huy phát tiếng gọi, những trái đạn kế tiếp pháo trúng pháo tháp chỉ huy và những loạt đạn sau trúng boong tàu. Trên tàu lúc này có rất ít người nên thương vong không đáng kể. Chúng tôi là bộ binh mà cũng không biết nơi nào để ẩn núp đành chụi trận. Những tiếng nổ chạm sắt nghe thật chát chúa như muốn bể tung tàu. Bỗng dưng tôi thấy một nấp hầm bật lên, tôi và một số lính của tôi chạy xuống lòng tàu, lúc này tàu lắc dữ lắm. Tôi chạy ra trước mũi rồi chạy lên boong tàu, vì ở trên boong tàu có thể dễ dàng xoay sở nếu tàu lỡ may chìm. Trong tư thế vừa đứng vừa ngã nghiêng vì chiếc tàu đã bị thương. Chiếc tàu lắc lư dữ dội có lẽ tàu ở sóng ngang, nên khi sóng vào đập vào mạn hông là tàu nghiêng, cứ thế tôi phải vịn vào lan can tàu để cùng lắc lư với nó. Nhìn ra ngoài khơi thấy có 5 cột khói bốc cao, kế đó Hải pháo bắn vào tới tấp vào chỗ đặt súng của địch để giải cứu cho con tàu DVH 503 đã bị thương. Trong tình huống như thế mà lính của tôi còn lo lắng cho tôi, đã đưa hai cái bi đông không có nước có dây cột vào người tôi làm phao để khi lỡ tàu chìm tôi có thể lội.


    Tiếng súng từ bờ biển bắn ra đã im bặt vì Hải Pháo của ta bắn vào dữ dội. “Phước bất trùng lai” đây là lần thứ 3 chỉ trong vòng ba ngày tôi thoát chết nhờ ơn trên phù hộ. Có một chiếc chiến hạm từ từ cặp vào bên hông nên dần dần chiếc DVH 503 trở lại bình thường. Chiếc tàu DVH được bơm nước ra và kè đi trong đêm tối. Mệt mỏi, ê chề tôi đã thiếp đi đến khi tĩnh dậy đã thấy gần đất liền và tàu cập bến Vũng Tàu đâu khoảng 10 giờ sáng ngày 18-4-75.

    Chúng tôi được đưa lên những chiếc xe GMC do Quân Cảnh hướng dẫn. Khi đến nơi tôi mới biết đó là TTHL /Vạn Kiếp khu tiếp tân. Đến đây thì tôi lại nhớ lúc trước nguyên tôi là đại đội phó Đại Đội 966 Địa Phuơng Quân của Đại Úy Lộc khi tôi mới thiếu úy, sau này mỗi người mỗi ngã, tôi đi học Khóa Đại Đội Trưởng còn Đại Úy Lộc về TTHL/Vạn Kiếp





    Tại Phú Long, đến ngày 18-4-75 khoảng 2 đến 3 giờ chiều, sau khi bị trận địa mìn ở Dốc Bà Chá Lương Sơn làm cháy mất 3 chiếc và hư hại nhiều chiếc khác do công của TĐ 212/ĐP. Đoàn Tank địch sau hơn một ngày dò dẫm đã tiến vào Phú Long, Trước tình hình địch như vậy Tiểu Đoàn 249/ĐP + ĐĐ283 ĐP và Tiểu Đoàn 275/ĐP cùng các đơn vị tăng phái lần lượt rút bỏ Phú Long di tản chiến thuật theo kế hoạch về Bình Tú để chờ Tàu Thủy vào rước vễ Vũng Tàu.

    Mặc dù vậy xe tăng địch chưa dám tiến đánh vượt qua cầu Phú Long vì sợ lại lọt vào trận địa mìn bẫy. Đại Đội 1/275 được lệnh giữ vững cầu và tiêu diệt xe tăng địch. Lúc này đơn vị kiểm điểm lại chỉ còn 7 quả M72 vì đã bắn nhiều trong nửa tháng không được cung cấp thêm. Xe tăng địch thì rất nhiều như những con thiêu thân chờ đêm tối mới tràn qua cầu.

    Trung Úy Luân liên lạc với Phòng 3/TK thì được biết đã có lệnh rút lui về Bình Tú, nhưng tiểu đoàn rút đi mà không thông báo cho đơn vị biết. Dầu vậy anh đã ra lệnh chờ xe tăng địch tới gần 30m mới cho bắn, để chắc chắn. Tuy vậy xe tăng địch không dám qua cầu mà rẽ đường vào Phước Thiệu Xuân tấn công đồn Nghĩa Quân do anh Néo làm trung đội trưởng. Tại đây một chiếc tăng T54 đã bị Nghĩa Quân bắn hạ. Trung Úy Luân gọi Hải Pháo bắn chận địch để đơn vị rút quân. Đơn vị anh từ đó đã về Thanh Hải và tan hàng tại đây, tự tìm đường đi về Vũng Tàu. Riêng anh nhờ một chiếc ghe vớt anh trên thúng khi đang lênh đênh ở ngoài biển đưa vào Vũng Tàu, gặp lại Tiểu đoàn tại đây.





    TRUNG ĐOÀN BÌNH THUẬN TẠI MẶT TRẬN PHƯỚC TUY VÀO NHỮNG NGÀY CUỐI THÁNG 4 – 75

    Qua rồi ba mươi bảy năm ngày tàn cuộc chiến. Nay hồi tưởng lại những ngày cuối cùng của Quân Dân Bình Thuận, cũng cảm thấy rất tự hào cho những người Dân, Lính vùng biển mặn. Nhưng cũng không làm sao giấu được nỗi xót xa, bồi hồi trong tâm khảm, khi chạnh nghĩ tới những bạn bè, đồng đội đã hy sinh trong giờ thứ 25, giữa lúc cả nước từ trên xuống dưới (trừ lính) gần như tìm đường lánh họa Cộng sản.

    Tiểu đoàn 202/ĐP của Đại Úy Huỳnh Văn Hoàng làm Tiểu đoàn Trưởng đã đến đây từ khuya, phối hợp với Liên đội Bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ, trước đây do Đại Úy Huỳnh Văn Quý chỉ huy đóng tại Ba Hòn. Vừa dọn bãi vừa giữ an ninh cho Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, đồng thời di chuyển Thương Bệnh Binh ra bãi biển chờ tàu Hải quân vào đón. Đến trưa thì Tiểu Đoàn 275/ĐP của Thiếu Tá Lê Văn Tư tại Kim Ngọc, Lại An, và Tiểu Đoàn 274/ĐP của Thiếu Tá Trịnh Văn Bình là đơn vị đóng xa nhất tận Bầu Gia, Phú Hội, Mương Mán.. cũng đến được bãi biển Kim Hải.

    Ngoài ra còn có Đại đội 954 ĐPQ của Đại úy Mai Xuân Cúc và nhiều Đại Đội khác của các Tiểu Đoàn 249/ĐP, 230/ĐP cũng về được điểm hẹn. Nói chung thì hầu hết các đơn vị tại Nam Bình Thuận gần như có mặt đầy đủ tại đây, trừ lực lượng cơ hữu của Chi Khu Hàm Thuận, trong số này có Đại đội 288/ĐPQ của Đại Úy Phạm Văn Sáu theo Thiếu Tá Dụng Văn Đối di tản từ chiều 18 - 4 - 75 bằng đường bộ tới Hàm Tân và bị Tiểu Khu Bình Tuy giải giới tại đây, coi như tan hàng mạnh ai nấy lo kể cả Đại bàng. Riêng Chi Khu Hải Long do Thiếu Tá Hàng Phong Cao làm chi khu trưởng rời Mũi Né vào trưa ngày 18 - 4 - 75 bằng ghe chở nước mắm và chiếc Thương thuyền Hương Giang từ Nha Trang vào bi kẹt bỏ lại. Các đơn vị tại Bắc Bình Thuận gồm 4 Chi Khu Tuy Phong, Hải Ninh, Phan Lý Chàm, Hòa Đa và Liên Đoàn 925/ĐP đóng tại Lương Sơn, phần lớn cũng được di tản vào Vũng Tàu bằng tàu Hải quân và ghe đánh cá tại các bến Cà Ná, Long Hương, Phan Rí Cửa, Hòn Rơm.. Riêng Chi Khu Thiện Giáo coi như tan hàng trước ngày 16 - 4 - 75.

    Tại bãi biển Kim Hải tình hình mỗi lúc một thêm căng thẳng. Trời về trưa càng oi bức ngột ngạt, gió biển vẫn không đủ xoa dịu nỗi cái nóng của hơi cát bốc lên từ bốn hướng. Theo đúng kế hoạch lui quân của Bộ Tư Lệnh vùng II Duyên Hải, đầu tiên là sự xuất hiện của Duyên Đoàn 28 Phan Thiết, từ ngoài khơi vào bốc các Thương Bệnh Binh của QYV Đoàn Mạnh Hoạch. Kế tiếp là đoàn tàu Ferro Ciment và tàu há mồm ào ạt ủi bãi trong lúc thủy triều đang lên cao, lần lượt bốc hết các đơn vị tại chỗ. Trong lúc đó nhiều chiến hạm kể cả Chiến hạm Trần Khánh Dư HQ04 cũng tiến sát vào bờ, sẵn sàng nhả đạn yểm trợ cho các cánh quân bên trong, đang dồn dập ủi bãi đón người. Đại đội 4/229/ĐP là đơn vị rút sau cùng vì làm nút chặn cho đoàn người rút ra biển. Ba chiếc Hải thuyền tiến vào bờ đón đại đội 4/229/ĐP, lúc này bãi biển Kim Hải trở nên vắng lặng. Cuộc di tản chiến thuật của Tiểu Khu Bình thuận và các đơn vị từ Phan Rang vào coi như kết thúc vào lúc 1 giờ trưa ngày 19-4-75 thành công tuyệt diệu.

              

              

    Trong giây phút sắp giã từ Phan Thiết yêu thương, bỏ lai sau lưng vợ con, cha mẹ, bạn bè, không biết bao giờ mới gặp lại, trái tim người lính trận bổng dưng khựng điếng như vô cảm. Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa hiện đang có mặt trên Soái Hạm Trần Khánh Dư HQ04, bên trong những boong tàu có hơn 6,000 quân được vớt từ bãi Kim Hải.

    Một ngày một đêm lặn lội trong máu lệ đạn bom, cái chết trước mắt đã làm cho ai nấy quên đi hết sự đói lạnh. Giờ này được ngồi yên trên tàu xa vùng khói lửa, ngắm nhìn trùng dương xanh thẩm, cái đói như từ trên trời xập xuống. Tôi ăn vội gói mì tôm sống chai ngắt nhạt nhẻo và uống ngụm nước lạnh múc ở suối hồi khuya còn sót lại trong bi đông, mới thấy lòng ấm lại đôi chút.Tình cờ đưa mắt nhìn lên boong tàu Trần Khánh Dư, tôi thấy Hải Quân Trung úy Nguyễn Văn Tạo là cậu họ.Tôi mừng quá đưa tay vẫy và hỏi lớn có gì ăn không? Chừng mười phút sau một gói giấy được ném qua tàu tôi, mở ra thật ngỡ ngàng với 4 con cá khô khét nướng và một vắt cơm. Thì ra thân phận người lính VNCH là thế đó, đù họ có là sĩ quan hay binh sĩ, là người lính kiêu hùng Dù,Thủy Quân Lục Chiến, Lực Lượng Đặc Biệt, Biệt Động Quân hay Nghĩa Quân, Xây Dựng Nông Thôn.. là Bộ Binh, Không Quân hay người Lính Biển.. thì nỗi cam khổ hiểm nguy, tất cả đều giống nhau không ai ngoại lệ.

    Nằm gối đầu trên chiếc ba lô mơ mơ màng màng, nhớ lại những buồn vui đời lính, thì giật mình vì tiếng còi báo động từ Soái hạm HQ04 vang lên. Tôi nghe tiếng loa phát ra “Phi cơ địch xuất hiện, tất cả vào vị trí chiến đấu”. Tôi bật ngồi dậy như cái máy, thấy các anh lính Hải quân đang khoắc vào mình chiếc áo phao màu cam, tiến đến các ổ súng Cao Xạ Phòng Không trên tàu. Trong lúc hệ thống Ra đa trên tháp chỉ huy không ngớt di động để tìm dấu vết phi cơ địch. Các tàu chở lính được lệnh tách rời Soái Hạm và hướng về Nam. Cuối cùng giờ chót phi cơ địch không tấn công đoàn tàu, nhưng Soái Hạm HQ04 ở lại vùng biển Phan Thiết để đoạn hậu bảo vệ đoàn tàu xuôi Nam.

    Gần tối đoàn tàu qua mũi Kê Gà với tháp Hải đăng chiếu sáng cả một vùng biển. mệt mỏi và say sóng, chúng tôi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, tới lúc ánh mặt trời chiếu vào mặt mới thức giấc.Nhìn ra ngoài thì thấy đây là Bến Đình nhưng tàu còn bỏ neo ngoài biển chưa cặp bến vì còn chờ lệnh Quân Trấn Vũng Tàu.

    Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tiến, Tiểu đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 229/ĐP, được sự ủy nhiệm của Đại tá Ngô Tấn Nghĩa lên bờ trước gặp Quân Cảnh Quân Trấn Vũng Tàu để bàn kế hoạch giao nạp vũ khí, quân dụng cho Quân Trấn vì sợ chúng tôi làm loạn khi được lên bờ.Từng người một bị khám xét, và bị tịch thu tất cả mọi thứ kể cả bản đồ, địa bàn trước khi lên Bến Đình. Chỉ có Thiếu tá Tiến là còn giữ được một khẩu Colt 45 và một máy PRC 25 dùng để liên lạc với Đại Tá Nghĩa.

    Hỡi ôi! Đánh trăm trận không chết vì đạn pháo mìn chông của VC mà nay đoàn lính trận Bình Thuận lại bị chết nhục vì tuân lệnh giao súng cho Quân Cảnh trong giờ thứ 25 này, qua những lệnh lạc từ trên trời rơi xuống. Nhưng chúng tôi là những người lính có kỷ luật và tuyệt đối tuân lệnh cấp chỉ huy, nên không có chuyện gì xảy ra.Nhưng đây cũng là lý do làm cho một số anh em lên được bờ thì bỏ về Sài Gòn vì trong tay không còn vũ khí và quyền chỉ huy, khiến lính không ra lính quan không ra quan. Một số cảm thấy bị xúc phạm đến danh dự khi bị đám quân cảnh trấn lột thẳng tay.

    Nhưng trái lại, đồng bào tại Đặc Khu Vũng Tàu đã dành hết sự ưu ái nồng nhiệt đón tiếp đoàn quân di tản từ Bình Thuận vào. Dọc theo Bãi Trước gần cầu tàu, các quày thức ăn cung cấp tự do cho mọi người. Xen lẫn trong số này có các quày của các Soeur bên Thiên Chúa giáo và quý Ni Sư Linh Sơn Tự. Các món ăn chay vừa ngon vừa gợi nhớ, làm cho các quân nhân Phật tử cảm động muốn khóc vì nhung nhớ gia đình, không biết giờ này họ ra sao? Nói chung đồng bào và các đoàn thể ở Vũng Tàu, chính quyền đã tiếp đón thật nồng hậu những người con trở về từ giới tuyến. Mối ân tình sâu đậm ấy là những hình ảnh nồng nàn diểm tuyệt, luôn theo tôi trong suốt cuộc hành trình không bao giờ phai lạt trong suốt cuộc đời còn lại.

    Đoàn quân xa gồm mấy chục chiếc luân phiên chở chúng tôi về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Khi đi ngang qua Đặc Khu Vũng Tàu có ghé lại, để các cô nữ quân nhân ủy lạo cấp phát cho mỗi người 5 gói mì tôm, của ít lòng nhiều nên chúng tôi vô cùng cảm động, nói lên được tình huynh đệ chi binh.Trưa 20-4-75 gần như các đơn vị di tản từ Phan Thiết vào đều có mặt tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc gia Vạn Kiếp Bà Ria. Tỉnh Phước Tuy, ngoại trừ một số ít bỏ ngũ trốn về Sài Gòn tìm thân nhân.

    Tôi ước lượng có khoảng 10.000 người tập trung về đây, đủ các quân binh chủng, nhưng đông nhất là Tiểu khu Bình Thuận hơn 3.000 ngàn người. Trong khi đó từng đoàn xe GMC chở đầy binh sĩ Sư đoàn 18/Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo vừa từ Xuân Lộc rút về được tái phối trí phòng thủ Sài Gòn Vũng Tàu, chạy ngược về hướng Long Thành trên QL15.

    Cũng tại Trung Tâm Vạn Kiếp, thấy có mặt Đại Tá Lại Văn Khuy, Liên Đoàn Trưởng 925/ĐP (Bắc Bình Thuận) và Thiếu Tá Nguyễn Quốc Quân tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 212/ĐP. Sau khi chận đánh đoàn xe tăng địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, Đơn vị này rút quân theo lộ trình Lương Sơn, Sông Lũy ra Bàu Trắng trong mật khu Lê Hồng Phong để chờ tàu Hải quân đến đón. Đại Úy Bá, tiểu đoàn phó cùng một số binh sĩ vài chục người tách ra đi ngược về Lương Sơn tìm đường khác để đi, nhưng từ đó đến nay không nghe tin tức gì về đoàn quân này.

    Sáng ngày 19-4-75 Đại Đội Trưởng Đại Đội 1/212/ĐP, Đại úy Vĩnh là người trực tiếp chỉ huy phá chiến xa địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, cùng một số anh em dùng ghe nhỏ ra biển đón được 3 ghe giả cào lớn vào bờ rước toàn bộ BCH/Liên Đoàn 925/ĐP và binh sĩ còn lại của Tiểu đoàn 212/ĐP vào Vũng Tàu an toàn. Lúc này, Đại tá Khuy và Thiếu Tá Quân không mặc quân phục hiện cũng có mặt tại đó nhưng Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến được Đại tá Ngô Tấn Nghĩa chỉ định thay thế ông trực tiếp chỉ huy binh sĩ Bình Thuận trong thời gian ông về Sài Gòn xin lương bổng và tái trang bị cho đơn vị.





    Ngày 21 tháng 4-75 hầu hết các đơn vị từ Bình Thuận di tản vào được chở ngược về Đặc Khu Vũng Tàu và tập trung tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Bãi Sau. Trung Đoàn Bình Thuận được thành lập và được tái trang bị vũ khí cùng quân trang quân dụng. Gạo được tiếp tế dư thừa nên một số đơn vị tính bán bớt để mua cá thịt cho anh em ăn. Ngày 22-4-75 Đại Tá Nghĩa dùng trực thăng đáp xuống căn cứ TQLC Vũng Tàu mang theo 5 triệu đồng cấp phát tạm cho anh em mua thực phẩm, mỗi người nhận tạm 200 đồng/ngày. Ngày 25- 4 lại nhận thêm 2 triệu..

    Đích thân Thiếu Tá Tiến nhận tiền từ Đại Tá Nghĩa và Trung Úy Cao Hoài Sơn giúp phát số tiền này (Thiếu Tá Tiến đã qua đời tại Úc vì bệnh sau khi nhiều năm ở trong trại tù khắc nghiệt ngoài Bắc).

    Quân số Trung Đoàn Bình Thuận lúc đó vào khoảng 3000 người gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ của các đơn vị tác chiến. Riêng BCH/Tiểu Khu, BCH/Liên Đoàn 925, và các BCH Chi Khu, An ninh Quân Đội, các ban ngành coi như tan hàng ngày 19-4-75 , ngoại trừ “ người Lính già Ngô Tấn Nghĩa, đã theo anh em đến giờ phút cuối cùng từ mọi nẻo đường “.nên đã bị kẹt lại ở Sài Gòn dù ông có đầy đủ phương tiện để ra đi trong giờ phút cuối, nhưng ông vẫn không đi khi những chiến binh của Bình Thuận còn đó.




    Trong ngày 25-4-75, Đặc Khu Vũng Tàu cấp cho Trung Đoàn Bình Thuận một xe Dodge, Các tiểu đoàn nhận lại Máy PRC 25 và bản đồ Tỉnh Phước Tuy. Lúc này bắt đầu hổn loạn vì VC bắt đầu áp sát thành phố, pháo kích bừa bãi vào dân chúng đang tập trung tại Sân vận động. Phi trường bị pháo kích liên tục làm tê liệt các chuyến bay. Tệ hại nhất là tai sân vân động, những người không nhà lại phải bồng bế nhau tháo chạy dưới làn pháo của VC. Hơn 10.000 người tại đây hoảng loạn kêu khóc rất thương tâm. Không thấy có ai có lấy một lời lên án hành động dã man này. Lương tâm loài người đâu rồi? Các đài BBC, VOA, PHÁP ở đâu sao không tố cáo tội ác chống nhân loại này?

    Đạn bom lửa khói đã bắt đầu tiến vào đường phố, xác người cháy đen nằm trên lề đường, quân cướp giật lợi dụng hoành hành, làm cho tình hình thêm rối rắm. Tình hình trở nên nguy ngập khi Sư Đoàn 18/BB được lệnh rút về Biên Hòa. Các Tiểu Đoàn 274/ĐP của Th/tá Bình và 275/ĐP của Th/tá Tư chỉ huy thuộc Trung Đoàn Bình Thuận được lệnh bung ra Long Hải làm tiền đồn chận giặc, bảo vệ phía Đông Bắc thành phố Vũng Tàu.Các đại đội biệt lập và Tiểu Đoàn 229/ĐP trách nhiệm giữ căn cứ TQLC làm phòng tuyến chính, tiếp ứng cho các đơn vị bảo vệ Vũng Tàu.




    Ngày 29-4-75 Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn và một số tùy viên thân cận từ Biên Hòa dùng trực thăng đáp xuống Căn cứ TQLC, lúc đó do Trung đoàn Bình Thuận trấn giữ. Buổi trưa cùng ngày các vị di tản chiến thuật bằng trực thăng ra Hạm đội Mỹ đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu. Buổi trưa VC tấn công vào Long Hải, hai Tiểu đoàn của Trung Đoàn Bình Thuận rút về phòng thủ căn cứ TQLC, trước áp lực của đich quá lớn mà không có yểm trợ hỏa lực của Đặc Khu Vũng Tàu.

    Trên QL15 dẫn vào Vũng Tàu, Cầu Cỏ May do TQLC đóng giữ, bị VC tấn công dữ dội nhưng gặp sự chống trả mãnh liệt nên gây nhiều thương vong cho giặc. Tại căn cứ TQLC do Trung đoàn Bình Thuận trấn giữ, Cộng quân bắt đầu tấn công bằng lối tiền pháo hậu xung cổ điển. Trung đoàn đã đánh với giặc trận chiến cuối cùng vô cùng oanh liệt. Từng đơn vị địch như những con thiêu thân lao vào, ác liệt nhất là mặt phía tây có rừng dương liểu, và động cát. Xác địch nằm ngỗn ngang vì mìn bẫy và những lằn đạn của ta. Tới chiều gần tối biết không thể nào ngăn chặn được nữa, Trung đoàn Bình Thuận rút đi doc theo bãi biển tiến về bãi trước. Chúng tôi bỏ lại tất cả chỉ mang theo đạn dược,vũ khí nhẹ và lương thực vì vũ khí nặng không còn đạn nên phá hủy trước khi rút.

    Chúng tôi chiếm ngọn núi Nhỏ có tượng Chúa ngó ra biển làm vị trí phòng thủ. Đây là một căn cứ quân sự mà quân đội Nhật Hoàng đã xây dựng trước đây hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Trong đó có hệ thống giao thông hào, hầm trú ẩn kiên cố và có giếng nước. Dân chúng xung quanh kéo đến đây lánh nạn rất đông trên vài ngàn người.




    Lại một đêm dài không ngủ đi qua rất chậm như những đêm dài VN suốt 20 năm chinh chiến trên quê hương khổ đau. Tiếng súng trong thành phố vẫn tiếp diễn không ngớt, kéo dài tới cả buổi sáng ngày 30-4-75 và cuối cùng là lệnh đầu hàng của Tổng Thống Hai Ngày Dương Văn Minh. Kết thúc vận hội của dân tộc VN Tự Do, bước vào ngưỡng cửa của thế giới đói nghèo.



    Ba mươi bảy năm qua rồi, nhưng lịch sử cận đại của nước Việt vẫn còn đó chứ không sang trang như nhiều người đã ngộ nhận lúc ban đầu. Hãy nói lên những sự thật của lịch sử để tự trọng và xứng đáng là người cầm bút, là người Lính hay ít nhất cũng là một bình dân lương thiện. Đó là cách duy nhất đền đáp lại mối ân tình đối với người chiến sĩ một đời hy sinh hạnh phúc và mạng sống của mình cho đời.

    Người Lính Bình Thuận, những Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cán Bộ Cảnh Sát.. một đời xứng đáng để các thế hệ sau trân quý, noi gương. Chúng ta đã không lầm lẫn khi viết bất cứ một trang sử nào nói về “sự hy sinh cao quý của người lính VNCH”.







    Xóm Cồn Hạ Uy Di
    31-03-2012

    Mường Giang
    và Một Nhóm Cựu Sĩ Quan TK Bình Thuận :
    HUỲNH VĂN QUÝ - MAI XUÂN CÚC - MẶC NHÂN THẾ - NGUYỄN DUY SÂM - CAO HOÀI SƠN - NGUYỄN TẤN HỢI - NGUYỄN MINH LUẬN




    nguồn: hon-viet.co.uk

              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

30-4-1975 NGÀY QUỐC HẬN

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




              
              
    30-4-1975
    NGÀY QUỐC HẬN

    _________________________

              
    gữi
    phạm ngọc cửu, uyên nguyên nguyên,
    tâm vô lệ, sơn cao, mặc nhân thế, phương hồng quế,
    lê thuận, cao khắc tiệp, huỳnh văn quý, pháo thủ chupao,
    trầm kha, ngô xuân tâm, hung503, thiếu khanh, lê như bái. tô phạm thái




    Nó là ai, dám xoá ngày Quốc Hận !
    Ngày toàn quân đã rã ngủ tan hàng
    Ngày đồng bào cả nước chịu tóc tang
    Ngày đất Viêt lọt vào tay Hán tặc


    Nó chính nó những thằng theo gót giặc
    Đâm sau lưng người chiến sĩ Quốc Gia
    Bằng chiêu bài tranh đấu kiểu Tàu-Nga
    Mà Việt cộng đã tuyên truyền đầu độc


    Nó chính nó những thằng khoe có học
    Nhưng trong đầu thì vô cãm vô tri
    Chữ “ Ái Quốc “ cũng không hiểu là gì
    Vì thực chất chúng chưa hề yêu nước


    Nó chính nó nhửng thằng “ Hề “ buổi trước
    Giữa chợ đời làm bia miệng ngươi khinh
    Sống ký sinh, ích kỷ chỉ riêng mình
    Lại kêu gọi hòa bình qua hòa giải


    Nó chính nó những thằng mang oan-trái
    Đầy nợ nần với Dân Tộc, Quê Hương
    Ngay trong ngày “ Quốc Hận “ đẳm tang thương
    Khi rợ Bắc từ rừng về phố thị


    Nó chính nó, lũ đươi ươi cốt khỉ
    Ngồi trên ngai, để bán nước, buôn dân,
    Bốn mươi năm theo Lê Mác ngu dần
    Chôn người Việt trong thiên đàng xã hội


    Nó chính nó những thằng gây tội lỗi
    Nên tới ngày Quốc Hận “ Tháng Tư Đen
    Phải đối diện với ác tính, nhục hèn
    Cùng tiếng khóc, triệu oan hồn bất hạnh


    Nó còn sống thì làm sao trốn lánh
    Nên đã tìm đủ trăm kế, ngàn phương
    Xóa cho được Ngày tang tóc, đau thương
    Do chính nó gây ra cho dân tộc !!!





    mường giang

    Xóm Cồn Hạ Uy Di
    Tháng Ba, 2015

              


              

              
              

              
              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

“Đài vinh quang… xây xác quân thù!”

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    “Đài vinh quang
    … xây xác quân thù!”(*)

    ___________________________
    Nguyễn Nhơn








    • “Ta đánh đây (đánh Mỹ cứu nước) là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”.
    Câu nói của TBT Lê Duẩn sau 1975, và đã được ghi khắc trước đền thờ của ông - bây giờ vẫn hiện hữu – đã xác nhận rất rõ ràng cho một cuộc chiến:
    • không phải cứu nước, giải phóng dân tộc,
    • mà là “đánh thuê”, làm tay sai cho cộng sản quốc tế (CSQT) trong mưu đồ “cộng sản hóa” toàn thế giới, mà CSVN do Hồ Chí Minh lãnh sứ mạng thi hành.


    Hằng năm họ tổ chức rình rang để mừng chiến công và thành tích.
    • Lòn cúi không biết nhục,
    • làm tay sai không biết hổ thẹn,
    • và đem dâng nạp đất đai, lãnh thổ,
    • đưa dân tộc đến cùng cực khổ nghèo, đi vào bước đường làm nô lệ, họ không hề cải hối ăn năn.
    Vẫn cao ngạo, tự hào cho “sự nghiệp làm tôi tớ”. Vẫn vui say, an hưởng vinh sang trên những tiệc “đầu lâu”. Họ không còn là giống người… từ lâu đã là dã thú rừng xanh, và tiến dần lên loài ác quỷ.
    • “Đất nước ta chưa bao giờ có được như hôm nay”?
    Phải. Đất nước trải qua trên mấy ngàn năm, biến thiên qua bao thời đại với những thăng trầm: vui buồn, sướng khổ, với những thịnh, suy… Đã có lúc ta mất nước. Lúc yếu, thế cô, giặc mạnh, ta đành phải thua cuộc, qui hàng, làm dân nô lệ. Nhưng mà, chờ cơ hội, tổ tiên ta vùng lên, và đã bao phen đánh đuổi quân xâm lược, dựng lại cõi bờ. Không khiếp nhược, không tự nguyện làm khuyển mã. Không cúi lòn để được hưởng “quang vinh”. Và nhất là không bao giờ hèn với giặc, ác với dân… Đó là lịch sử dân tộc hào hùng thuở trước.

    Nhưng bây giờ: Tự hào cho một thành tích
    • “chưa bao giờ có được như hôm nay”
    là đem đổi chác sự tồn tại sống còn bằng dâng nạp lãnh thổ. Mưu cầu vinh sang lợi quyền là quyết tâm đàn áp người dân, đưa đưa dân tộc vào nô lệ… Đó là thời đại của hôm nay - thời đại HCM gian manh lừa dối -
    • Thời đại tự hào cao ngạo một đảng quang vinh
      mà đất nước phát triển đi lùi,
    • đầu độc ngu dân
      để độc quyền cai trị.





    Đài vinh quang … xây xác Dân lành
    Tội ác diệt chủng CẢI KÁCH RUỘNG ĐẤT


    “…Thống kê chính thức của nhà nước Cộng sản Việt Nam được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam tập hai cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” nghĩa là không bị bắn tại chỗ thì cũng bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam.

    Con số này có thể không chính xác, nhưng số nạn nhân quyết không thể thấp hơn thế được vì nó được ghi trong Văn kiện đảng toàn tập do nhà xuất bản chính trị quốc gia ấn hành, và vì nó không nói gì đến những người bị kết án là Quốc Dân đảng thừơng thì bị bắn ngay tại chỗ. Trong số này, có cả những đảng viên Cộng sản trung kiên, mà trước khi chết vẫn còn hô to khẩu hiệu: đảng Cộng sản muôn năm.

    Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 ngừơi bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế…”






    Đài vinh quang … xây xác quân mình
    Chiến tranh chống Pháp 1946 – 1954


    Chiến tranh Việt Nam kỳ thứ nhất 1946-1954.

    Ngay sau khi đệ nhị thế chiến chấm dứt 1945, cộng sản Việt Nam vận động được toàn dân, cướp chính quyền, tuyên ngôn độc lập.

    Năm 1946 Pháp theo chân người Anh trở lại Việt Nam. Cuộc chiến chống Pháp bắt đầu. Toàn dân tham gia kháng chiến, không phân biệt Quốc Cộng. Nhưng về sau phe quốc gia đa số là dân thành thị, trí thức, tiểu tư sản từ bỏ cộng sản, về hợp tác với Pháp chống kháng chiến do phe cộng sản tiếp tục lãnh đạo nông dân. Cuộc chiến gia tăng từ 1946 đến 1954. Phe quốc gia dần dần dành được chủ quyền nhưng cuộc chiến vẫn do người Pháp chỉ huy. Chiến tranh kéo dài trong 8 năm. Sau khi Pháp thất trận Điện Biên Phủ, hai phe ký kết hiệp định Genève chia đôi đất nước. Một triệu dân miền Bắc từ bỏ cộng sản di cư vào Nam. Hơn 100 ngàn cán bộ cộng sản từ Nam ra Bắc. Phe cộng sản chiếm giữ miền Bắc được Nga Sô và Trung Cộng yểm trợ. Phe quốc gia xây dựng miền Nam do Hoa Kỳ yểm trợ. Pháp hoàn toàn rút lui. Tổng kết tổn thất của Pháp là 140, 000, trong đó có 79.000 chết và mất tích, 65.000 bị thương. Quân đội Quốc gia Việt Nam tổn thất chung là 419.000 chết, bị thương hoặc bị bắt..

    Số thương vong của Việt Minh là 192.000 người chết. Khoảng 300.000 đến 400.000 dân thường thiệt mạng.





    Đài vinh quang ... xây xác quân mình
    Chiến tranh Việt Nam chống Mỹ cứu nước


    Chiến tranh Việt Nam kỳ thứ hai 1962-1975.

    Đất nước chia đôi tại vỹ tuyến 17. Sông Bến Hải là ranh giới của tự do và cộng sản. Đầu thập niên 60, Hà Nội đưa cán bộ tập kết trở về.Tổ chức Mặt Trận Giải Phóng miền Nam bắt đầu cuộc chiến võ trang để đánh phá trong Nam. Luôn luôn có sự yểm trợ toàn diện và chỉ đạo từ miền Bắc. Năm 1964 quân Mỹ chính thức tham chiến. Cộng sản đã thực hiện 2 cuộc tổng tấn công lớn năm 1968 và năm 1972. Cả hai chiến dịch này, QLVNCH trực tiếp chiến đấu và đã chiến thắng trong việc phòng thủ. Năm 1973 hai phe ký kết hiệp định Paris, Mỹ rút quân. Năm 1975 trong trận cuối cùng, miền Nam thất thủ.

    Chấm dứt cuộc chiến 13 năm. Trong cuộc chiến lần thứ hai tổng kết tổn thất là bao nhiêu, xin xem phần kế tiếp. Trong cuốn phim tài liệu The Vietnam War hai nhà báo phe cộng sản là Huy Đức và Bảo Ninh đều có kết luận như nhau. Số người bị hy sinh quá nhiều. Nói một cách khác. Cái giá của chiến tranh quá cao.

    Ghi nhận tổn thất từ Việt Museum.

    Tổng cộng hơn 3 triệu người chết ở cả hai phe và trên 2 miền đất nước.
    • Hoa Kỳ chết 58 ngàn chiến binh với 300 ngàn thương binh trong đó có trên 50% bị tàn phế, hoàn toàn bất khiển dụng. Đa số tử sĩ là bộ binh và Thủy quân Lục Chiến.
    • Trong số phe Đồng Minh thì Hàn quốc tổn thất 5 ngàn lính và 11 ngàn thương binh.
    • Việt Nam Cộng Hòa có 320 ngàn chiến binh tử trận cùng với một triệu 200 ngàn thương binh.
                
    • Phía cộng sản đã hy sinh 1 triệu chiến binh và có 500 ngàn thương binh.




    Sách có chữ:
    • “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô”.

    Nay cải biên:
    • Nhất “đảng” công thành triệu nhà tan!

    Mà phải chi sau khi “cướp chánh quyền” với triệu mạng vong, đảng ăn cướp việt cọng đem lại cho dân Việt chút bình an, no ấm thì cũng mang ơn. Đàng nầy, bọn sói lang, hồ tinh bác cụ chỉ mang lại thêm tội ác chất chồng và lớn hơn hết là tội bán nước – diệt tộc.




    Đài vinh quang ... xây xác tương tàn
    “Tù cải tạo” tận diệt Quân – Dân – Chính Miền Nam


    “HỌC TẬP CẢI CẢI TẠO”: TỘI ÁC CHỐNG NHÂN LOẠI CỦA CỘNG SẢN
    SỐ NẠN NHÂN BỊ GIAM CÂM, SỐ NẠN NHÂN CHÉT và SỐ “TRẠI TÙ CẢI TẠO”


    Theo sự ước tính của các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm đã được phổ biến tại Hoa Kỳ và Âu Châu
    “…According to the published academic studies in the United States and Europe…”
    thì số nạn nhân và số các “trại tù cải tạo” được ước tính như sau.
    • - 1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết án hay xét xử
      (without formal charge or trial).
      - 165,000 nạn nhân chết tại các “trại tù cải tạo.”
      - Có ít nhất 150 “trại tù cải tạo” sau khi Sàigòn sụp đổ.


    Thời Gian “Cải Tạo”: Theo bộ ngoại giao Hoa Kỳ thì tuyệt đại đa số những người tù bị giam cầm từ ba tới 10 năm. Nếu lấy con số trung bình là bẩy năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm.

    Tất cả những sự kiện trình bày trên đây đã chứng minh rằng cái danh xưng “học tập cải tạo” là nguỵ danh để che đậy năm tội ác chống nhân loại
    1. Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế
      (Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law)
    2. Tội tra tấn, hành hạ
      (Torture)
    3. Tội Giết Người
      (Murder)
    4. Tội Bắt Làm Nô Lệ
      (Enslavement)
    5. Tội Thủ Tiêu Mất Tích Người
      (Enforced disappearance of persons)

    của Hồ Chí Minh và bè lũ cộng sản đối với những quân dân cán chính VNCH đã bị chúng giam cầm phi pháp sau ngày 30-4-1975.





    Đài vinh quang … xây xác dân lành
    Tội ác diệt chủng “ Kinh Tế Mới “


    Kinh tế mới

    Đầu năm 1977, cậu bé Thái Cẩm Hoàng thấy nhà mình thường xuyên có khách. Ông tổ trưởng tổ dân phố cùng vài cán bộ ngày nào cũng tới vận động gia đình đi kinh tế mới. Ông nói với mẹ Hoàng:
    • “Chị phải đi thì chồng chị mới được về sớm”.
    Cha Hoàng, Đại úy Thái Tú Bình, đại đội trưởng đại đội chiến tranh chính trị thuộc tiểu khu Quảng Nam, giờ ấy đang là tù cải tạo. Ông Bình bị bắt ngay sau ngày 29-3-1975, ngày Đà Nẵng được “giải phóng”.

    … Mẹ Hoàng hình dung được điều gì chờ đợi gia đình ở khu kinh tế mới. Nhưng đấy không phải là lựa chọn của những người vợ lính. Hàng xóm chạy qua chạy lại, những người có cùng hoàn cảnh chỉ biết nhìn nhau gạt nước mắt. Biết không thể “chống chính quyền cách mạng”, trước thời điểm rời Hội An, mẹ Hoàng nhờ bà nội qua sống cùng, hy vọng giữ lại được căn nhà. Bà nội tuổi cao, chính quyền không thể buộc bà đi kinh tế mới.

    … Từ những ngày cuối tháng 8-1975, chính quyền cho xe chở hàng chục nghìn dân về quê. Tính đến đầu tháng 10-1975, có hơn 15.000 dân được đưa đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Người thì lên Bình Phước, Tân Phú, Tây Ninh; người thì xuống Sóc Trăng, Kiến Tường, Vĩnh Long. Chỉ riêng tháng 10-1975, đã có “hơn 100.000 đồng bào Thành phố lên đường xây dựng vùng kinh tế mới. Tính cả gần năm tháng sau giải phóng, đã có gần 240.000 người phấn khởi trở về quê cũ làm ăn”. Ngày 28-10-1975, hội nghị mở rộng của Thường vụ Thành ủy chính thức thông qua chủ trương “đẩy mạnh cuộc vận động chính trị sâu rộng trong quần chúng nhân dân nhằm đưa 1,5 triệu người không có công ăn việc làm đi xây dựng các vùng kinh tế mới”.

    … Một lượng lớn người dân thuộc diện “hồi hương” hoặc đi kinh tế mới sau đó đã quay trở về Thành phố. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 1975-1980, vẫn còn hơn 700.000 người dân đã từng sống ở Sài Gòn trước ngày 30-4-1975 không có cơ hội quay lại Sài Gòn sau khi bị buộc “hồi hương” hoặc bị đưa đi kinh tế mới. Từ 1976-1995, có gần 4,5 triệu người từ các địa phương trên cả nước được đưa đi xây dựng vùng kinh tế mới.



    Trong số 4 triệu rưởi nhân mạng “ giải phóng “ đi Kinh Tế Mới hồi đó, bao nhiêu người tử vong vì rừng sâu, nước độc, vì dói khát, bệnh tật?!

    Mồ hoang, rừng thẩm, nào ai biết!





    Đài vinh quang … xây xác “vượt biên”
    Tội ác tống dân bỏ xứ tị nạn ôn hoàng cọng sản


    Sau đây là vài trích đoạn từ các tác phẩm viết về tỵ nạn:

    “Người Việt Nam chỉ ra đi trong thế cùng, không còn cách nào có thể sinh sống tại quê hương của mình. Ðây là một cuộc bỏ phiếu vĩ đại chống lại chế độ cộng sản Hà Nội bằng chính mạng sống của mình. Trong số nầy, rất nhiều người mang hoài bảo sẽ có một ngày trở về quang phục quê hương. Số người tử nạn trên bước đường vượt biên không thể thống kê chính xác được. Người ta phỏng chừng từ 400.000 đến 500.000 thuyền nhân bỏ mình trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết.

    Vượt biên năm 1975 là cuộc xuất ngoại vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam kể từ ngày lập quốc. Ðây là một sự kiện hoàn toàn bất ngờ đối với Nam Việt, Bắc Việt, Hoa Kỳ và cả thế giới. Trước đó, không một ai có thể tiên đoán được phong trào vượt biên sẽ xảy ra đến mức lớn lao như thế. Phong trào vượt biên kéo dài từ 1975 đến 1996 ngang bằng với thời gian chiến tranh từ 1954 đến 1975. Tổng số người rời bỏ đất nước bằng tất cả các cách, cộng với những người tử nạn trên đường vượt biên, lên đến khoảng gần bằng tổng số dân chúng và quân nhân Việt Nam cả Nam lẫn Bắc tử trận trong cuộc chiến từ 1954 đến 1975 (khoảng 3,000,000).
    • “Chúng tôi cần gạo và thực phẩm. Trong những ngày này, chúng tôi không có tiền để mua thêm thức ăn. Chúng tôi không được phép có công việc làm. Nếu thực phẩm được phát trễ, chúng tôi chỉ việc nhịn đói. Chúng tôi có rất ít nước uống, vì đang là mùa khô. Tôi nghĩ nếu mọi chuyện không thay đổi, chúng tôi sẽ chết hết."

    • Trong tổng số 3 triệu người gạt nước mắt rời bỏ Đất nước Quê hương ra đi
      có đến 4–5 trăm ngàn vùi thân nơi biển cả!

      Con số lạnh lùng và tàn nhẫn!
                
    • Đó là tội ác diệt tộc của hán ngụy việt cọng
      chớ không phải vinh quang.



    Tháng Tư buồn, ngồi ghi lại những oan khiên ngày cũ.

    Thắp nén nhang vọng bái những oan hồn uổng tử đồng bào.

    Chỉ trông ngóng cho những ai có hiểu biết trong nước
    • lấy lại dũng khí,
      noi gương anh thư Bà Trưng Bà Triệu, hào kiệt Lê Lợi Quang Trung
      đứng ra dẫn dắt đồng bào vùng lên diệt sói lang phản nước, hại dân việt cọng,
      giải trừ ách nạn cọng sản cho quê nhà Việt Nam.






    Nguyễn Nhơn
    Quốc Hận 44
    6/4/2019

              
    (*) quốc ca việt cọng

              


    nguồn: hon-viet.co.uk

              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: - 30/04/2019 - tưởng niệm 44 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    Cộng Đồng Người Việt
    Tỵ Nạn Cộng-sản
    tại Anh-quốc

    ___________________________




    ỦY BAN TỔ CHỨC BIỂU TÌNH NGÀY QUỐC HẬN 30/4

    Tưởng niệm 44 năm nước Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay Cộng sản


    THƯ MỜI






    Kính gởi:
    • Quý cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng sản,
      Quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo trong cộng đồng người Việt Tỵ nạn Cộng sản;
      Và quý Đồng hương Tỵ nạn Cộng sản tại Vương Quốc Anh.


    Thưa quý vị,

    Quốc Hận 30 tháng Tư năm nay lại đến! Đất nước và người dân Việt tại quốc nội vẫn ngày càng chìm đắm trong tối tăm và nguy cơ Tầu hóa càng gần kề, rõ rệt qua việc làm tay sai của đảng CSVN.

    44 năm qua, bằng súng đạn cùng quân trang quân dụng của Nga, Tầu, đảng CSVN đã cướp trọn nước Việt Nam Cộng Hòa. Tới nay, toàn dân Việt đã thấy rõ bản chất của đảng CSVN là cướp và bán nước!

    Nhìn về đất nước thân yêu, luân lý và đạo đức hoàn toàn bị băng hoại; … Người dân bị cướp bóc, khủng bố bởi lực lượng công an dưới nhiều hình thức ngày càng gia tăng. Lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam bị nhượng bán dần cho giặc Tầu phương Bắc cùng rất nhiều đặc quyền đặc lợi.

    Trước hiện tình trên, để kêu gọi và cùng chung tay với 90 triệu đồng bào trong nước đứng lên làm cuộc cách mạng thực sự cho một Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ đến với mọi người, mọi nhà được an hưởng hạnh phúc ấm no, công lý và hòa bình được trải dài trên mọi miền đất nước.

    Kinh nghiệm xương máu qua dòng lịch sử dựng và giữ nước của Tiền nhân: Sự tồn vong, cường thịnh của đất nước và dân tộc Việt phải do chính bàn tay, khối óc và lòng yêu nước của người Việt Nam hy sinh mà có.

    Nhằm đập tan âm mưu buôn dân, bán nước của đảng CSVN đã và đang làm tay sai cho Tầu cộng ngày càng lộ liễu trắng trợn trên quê hương thân yêu của chúng ta.



    Năm nay, tưởng niệm Quốc Hận 30 tháng 4 lần thứ 44, một cuộc biểu tình sẽ được tổ chức như sau:

    • –Thời gian: Chúa nhật, ngày 28/04/2019, từ 13 giờ 00 đến 16 giờ 00.
    • –Địa điểm tập trung: Lúc 13 giờ 00 tại Palace Gate, Kensington High Street, Kensington Gardens, London, W8. (chỗ cũ như thường lệ)
    • –Địa điểm biểu tình: Lúc 14 giờ 00 Trước sứ quán Cộng sản Việt Nam, Victoria Road, London, W8 5RD.

    Kính mời quý Đồng hương cùng tham dự thật đông đảo cuộc biểu tình Quốc Hận năm nay.

    Trân trọng,




    TM. Ban Tổ Chức,
    Ông Lê Phát Định
    Trưởng Ban


    Để biết thêm chi tiết, xin quý vị liên lạc với những vị đại diện sau đây:

    Birmingham:
    Ô. Lê Phát Định 07960 856335.
    Ô. Lê Thành Lập 07947 627184,
    Cộng Đồng người Việt tỵ nạn Cộng sản vùng Midlands, Tel. 0121 5549685.

    London:
    Ô. Ngô Ngọc Hiếu 07956289246.



    CHÚ Ý:
    • Đồng hương vùng Tây Bắc và Midlands sẽ có xe đưa đi biểu tình và đón về trong ngày miễn phí, địa điểm tập trung trước Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản vùng Midlands và xe Coach sẽ khởi hành đi London đúng 09 giờ 00 sáng ngày Chúa nhật, 28/4/2019.
    • Vì không biết hết địa chỉ của tất cả quý Đồng hương. Kính mong quý vị nhận được thư mời này xin vui lòng phổ biến đến mọi người thân quen. Chân thành cám ơn.



              

              



    nguồn: hon-viet.co.uk


              
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”