Xuân Kỷ Hợi - 2019

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Kỷ Hợi - 2019

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          




          
          



          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Kỷ Hợi - 2019

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    cám heo đâu rồi ?
    ___________________________________



    Lại nói, Lưu Quan Trương Triệu mỗi người một phương sau khi gặp nhau thì mừng quá, liền tổ chức bữa nhậu ăn mừng.
    Nhưng do dân mang đến nhiều rượu quá, đồ nhắm thì đã hết mà rượu vẫn còn đến mấy thùng. Bị mới nói :
    • – Vân, ra sau bếp mang nồi cháo ra đây!
    Vân dạ dạ rồi đi ra, lát sau mang vào một cái nồi to đùng. Cả bọn lại vừa ăn vừa nhậu. Nhưng…
    Bị:
    • Vân, mày lấy cháo ở đâu mà ăn sượng sượng thế này!
    Quan:
    • Ừ, cháo gì mà toàn xương với xương thế!
    Trương:
    • Còn gạo gì mà cứ đóng lại thành từng cục thế!
    Cam phu nhân:
    • ai mang nồi cám heo của tôi đi đâu rồi ?



              
    .:lol2:
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Kỷ Hợi - 2019

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Hồn xuân
    ___________________________________
    Huy Cận





              

    Ai biết em tôi ở chốn nào?
    Má tròn đương nụ, trán vừa cao.
    Tiếng mùa về gọi lòng em dậy,
    Lơ đãng lòng tôi chẳng kịp rào.

    Ai biết người yêu nhỏ của tôi,
    Người yêu nho nhỏ trốn đâu rồi?
    Nhắn giùm với nhé, em tôi đó,
    Tròn trĩnh xinh như một quả đồi.

    Ngực trắng giòn như một trái rừng
    Mắt thì bằng rượu, tóc bằng hương.
    Miệng cười bừng nở hàm răng lựu,
    Sáng cả trời xanh mấy dặm trường.

    Anh khắp rừng cao xuống lũng sâu
    Tìm em, đi hái lộc xanh đầu.
    Trồng đâu chân đẹp tròn như cột?
    Em đẹp son ngời như cổ lâu.

    Nghe nhịp đời lên em bỏ anh,
    Đua nhau xuân nở rộn trăm cành.
    Ý mùa cũng rộn trong thân mới,
    Tóc rủ bờ tơ sợi liễu mành.

    Khách qua đường ơi! Em tôi đây.
    Chân em: cỏ mượt, mắt: hồ đầy.
    Lòng em hóa cảnh chờ anh gặp
    - Man mác hồn xuân ngọn gió hây.


              




              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Kỷ Hợi - 2019

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          




          
          




          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Kỷ Hợi - 2019

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          




          




Paris By Night Openings - Xuân Collection 1

1. Anh Cho Em Mùa Xuân (Nguyễn Hiền, thơ: Kim Tuấn) 0:07
2. Xuân Họp Mặt (Văn Phụng)
Như Quỳnh, Loan Châu, Bảo Hân, Thủy Tiên 5:13
3. LK Nếu Xuân Này Vắng Anh (Bảo Thu) & Khúc Nhạc Ngày Xuân (Nhật Bằng)
Minh Tuyết, Lam Anh, Diễm Sương, Hoàng Nhung, Nguyễn Hồng Nhung,
Don Hồ, Lương Tùng Quang, Mai Tiến Dũng, Đan Nguyên, Lê Anh Tuấn 9:35
4. Xuân Quê Ta (Nhật Trung)
Như Quỳnh, Tâm Đoan, Lương Tùng Quang, Thế Sơn 14:50
5. Ngày Tết Việt Nam (Hoài An)
Tóc Tiên, Diễm Sương, Quỳnh Vi, Kỳ Phương Uyên, Hương Giang, Nguyệt Anh 20:18

          


          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Xuân Kỷ Hợi - 2019

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương

    Tưởng niệm chị Thục Oanh






    Xuân đã đem mong nhớ trở về


    Câu thơ Nguyễn Bính, ý thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đã ... đau lòng một chữ đã. Xuân đã. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng.

    Lần này, ở đây, Xuân đã đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang.



    Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân.



    Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đã tự giam thơ giam đời trong mươi chữ:


    • Xuân đời chưa kịp hưởng
      Mây mùa thu đã sang ?



    Nhà thơ đã tự tình như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người còn giăng tơ tâm sự


    • Xuân có sang mà hoa không tươi
      Ý ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi
      Nằm say ngõ lạnh
      Buồn nghe mưa rơi
      Tuôn châu oà bật lên cười
      Ta có là ta chăng hề Ai chứ là Ngươi
      Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ
      Hoạ điệu chiều nay xác rã rời


    Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là :

    Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay



    Đã có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian ; và thơ Đường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Điều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn còn xương còn thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.


    Tác phẩm đầu lòng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.


    • Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
      Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
      Tình Xuân ai chở đầy khoang ấy
      Hương sắc thanh bình ngập lối quê.
      Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi
      Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời
      Dây đàn chầm chậm hôn lên phím
      Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi


    Thơ Say gồm có nhiều phần : Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng ... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Đã Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, vì không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như mãi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đã nhuốm màu Thiền. Bài Thoát Hình gồm 7 đoạn, một vần:


    • Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
      Đã nghe dồn cả tới đài xuân
      Đã nghe rào rạt từng cơn gió
      Về mách tin hương với cõi trần
      Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
      Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần ...


      ... Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi,
      Chưa từng hoen ố vết trầm luân
      Đêm nay xuống một bài thơ trắng
      Cầu nguyện cho đời nở Ái Ân



    Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Đạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Đạo đã róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát Hình còn mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.

    * * *


    Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay
    ...là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân.

    Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955 ; mùa xuân đầu tiên xa xứ :


    • Mười năm qua, đến bây giờ
      Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thuở nào....
      (...)

      Xuân về nhớ thuở ngát chiêm bao
      Giòng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
      Lạc lõng vàng son màu lữ thứ
      Cành mai gượng ánh mặt hoa đào
      Mười phần xuân có gầy hao
      Tấm lòng xuân vẫn dạt dào như xưa
      Mấy phen biếc đón hồng đưa
      Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền


    Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, chĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đã bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này:

    • Có nghĩa gì đâu một chữ " về "
      Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
      Nếu không ngược cả mười năm ấy
      Về tận kinh đô của ước thề


    Theo Chế Lan Viên, chữ " Về" là " cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa gì cả, thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa "[1]

    Đây là lối viết vu oan giáng hoạ, vì chữ " về ", trong bài thơ, không có ngụ ý chính trị, chỉ là một ước vọng tình cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đã là một lối tìm về :

    • Lang thang từ độ luân hồi
      U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
      Nguyện Cầu, 1950


    Còn mấy chữ " có nghĩa gì đâu ", là phỏng theo Xuân Diệu :

    • Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
      Có nghĩa gì đâu một buổi chiều

    Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ý thời sự thì nên hiểu : việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ý nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu đầu một tình cảm riêng tư - phần nào đó hoang tưởng - " có nghĩa gì đâu " . Còn về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đã nhiều lần nói đến : " Mười năm thôi nhé mộng tan tành " ...," Tình mười năm còn lại mấy tờ thư "…. Thận trọng, chúng tôi đã hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và còn cho biết thêm :‘ước thề’ ở đây không phải là chị ấy .

    Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương còn có Bài Ca Bình Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung :

    • Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
      Sầu xuân vời vợi
      Xuân tứ nao nao
      Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
      Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
      Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao


    Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc " hát ngao " hơn là một anh hùng ca.
    Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng

    • Chín giao thừa, tám năm dư
      Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
      (...)
      Khói đâu mờ tím căn buồng
      Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
      Cố đô lửa cháy gan nào
      Sài đô son sắt như bào, như nung


    Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hãi hùng cay đắng. Bài Đục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt :

    • Chợ Tết mai lan cúc
      Đắm mình trong bụi đục
      Từng phiên nép mặt hoa
      Thẹn không bằng khóm trúc
      (...)
      Liên miên khói lửa này,
      Dám đâu mơ hạnh phúc
      Lần lượt tre rồi măng
      Đã tơi bời cốt


    Đoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận :

    • Thân càng xót cho thân
      Uổng gây hình ngọc đúc


    Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao não nuột :

    • Miệng héo dần theo lòng khắc khoải
      Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
      E khi chiều xế, tuyết thay tơ
      Không cả chút tình thương nắng quái


    • Kẻ vô-hạn-hận không là gió
      Xuân đến trà mi đời tự bỏ
      Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
      Cùng ai gửi chút hương vò võ ?


    Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với hình ảnh của Tết Mậu Thân : thiều quang ngập máu đổ quyên hồng...

    Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương :

    • Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
      Người thơ giữa lúc mở bầu men,
      Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
      Đạn rót trời cao đã nổ rền


    Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài : " loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân " (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc) :

    • Đạn réo vang vang lửa bốn bề
      Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
      Sốt dâng mạch loạn càng u uất
      Máu chảy ruồi bâu thật não nề


    Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện :

    • Mong người một nước soi gương cũ
      Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...
      (Huế Cảm)


    Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, tình hình chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi :

    • Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
      Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
      Đủ thấy điềm lành hai nửa nước
      Một nhà trong ấm với ngoài êm

    (Mở Bút ghi Điềm)

    Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên :

    • Chữ lựa vần gieo đắc ý rồi
      Đèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
      Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
      Hỏi chúa xuân rằng : ai có ngôi ?

      (Hạnh phúc nào hơn)


    Vũ Hoàng Chương thi sĩ còn là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 180 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán :

    Kỷ Dậu hồi thanh

    • Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
      Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
      Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
      Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên


    Ông tự dịch :

    Tiếng vang lịch sử

    Đất xưa gà gáy mặt trời lên
    Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
    Hoa mở cánh chào ngang dọc núi
    Hoà âm cỏ ngát xuống bình nguyên


    Đặng Tiến dịch ké :

    Gà thúc bình minh sông núi xưa
    Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
    Sườn non lưng núi lời hoa mở
    Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa


    Vũ Hoàng Chương sinh năm ất Mão-1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời mình, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc :

    Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
    Bến nằm dư biết đục hay trong
    (...)
    Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
    Để ngấn vàng gieo chợt rối vòng


    Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài "Xúc Động Cuối Năm " thật buồn :

    • Chơi xuân đất này không cỏ non
      Thơ không vàng nữa, ấn không son
      Hỡi ơi lòng chợt đau như cắt
      Một nụ cười xuân cũng chẳng còn


    Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Đông Hồ : câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành : " xuân du thử địa vô phương thảo ", câu sau lấy ý từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa :

    • Mùa vàng hoa mai hoa cúc
      Mùa son hoa phượng hoa vông
      (...)
      Mùa vàng giàu thật giàu
      Mùa son sang rất sang
      (Đông Hồ)


    " Một nụ cười xuân cũng chẳng còn ", là nhắc tên tập thơ " Cô Gái Xuân " (1935) của Đông Hồ.

    Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc :

    • Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây
      Thương xuân lìa cội, Tết sa lầy
      Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
      Phá vỡ vòng sao tự giải vây
      Mách cho Lã Vọng về đây
      Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi

      Tuý Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
      Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
      Thà đợi một mùa Xuân Đích Thực
      Âm thanh Cuồng sát tự dìm luôn
      (Xuân Đối Diện)


    Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời :

    • Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
      Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
      Nhìn nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
      Vừa uống sông xuân một bụng đầy
      (Nhâm Tý khai bút)


    Tác giả tự dịch ra Hán Văn :

    • Trường chinh mộng hậu tức phong yên
      Thiên lý long câu vạn lý thuyền
      Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
      ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên


    Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy còn u ám lắm qua bài " Xuân Quạnh " :

    • Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
      Ngõ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu

      Lầu Vọng-giai-nhân mãi quạnh nằm
      Ngày xưa Kim ốc chỉ mười năm
      Đắng cay thế vị lòng vương giả
      Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm


    Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B 52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rõ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài " Đón Xuân Mười Chín " làm trước Tết Quý Sửu (nhằm ngày 3.2.1973) :

    • Bấm đốt từ di cư đến nay
      Đón xuân vừa vặn hết bàn tay,
      Sang sông Ngựa đã hai lần hí
      Vạch đất Trâu thêm một luống cày
      Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
      Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
      Bút toan chạy ngược đau lòng chữ
      Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
      Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
      Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
      Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi
      Tết đến buồn không chịu vẽ mày
      Xưa rồi lửa phóng tên bay
      Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
      Bóng ai trên đá ngồi gan
      Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
      Trời xuân chẳng én đưa thoi
      Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
      Nghé kêu đầy bến vàng hoa


    (dẫn trọn bài)

    Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quý Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi ký hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm :

    Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
    Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây


    Câu thơ ngụ ý : lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Đây là một câu thơ nặng tình dân tộc, nhưng không mấy người để ý, như một thứ cung đàn lẻ loi.

    Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đã có những tính toán chi ly, chính xác : bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đã hai lần hý là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quý Sửu (1973). Hai vần mây và say nhắc tên hai tập thơ đầu tay ; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ý bài thơ làm tại Sài Gòn, tên cũ là Bến Nghé.

    Sau đó, hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quý Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu :

    • Ma là Người ... kiếp khác
      Người là Trời ... đêm nay
      Nghe chừng lửa đã tắt
      Hai bờ Con-Sông này
      ờ nhỉ ! đâu còn Vết Cắt
      Sao lòng ai vẫn chưa hay ?
      Nằm kia, người nín bặt
      Vòng luân hồi đã ngược chiều quay
      Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày

    • (Tin Xuân)


    Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế : đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân.

    Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuý Vũ Đoản Từ, trích toàn văn, vì ít người còn lưu giữ :

    • Cỏ Bồ ôm đá ngủ
      Trong tranh từ bao giờ
      Cho đến bây giờ
      Còn say trong thơ
      Vườn bỗng hót vang chim Thuý Vũ
      Đèn xanh nến biếc đêm giao thừa
      Nét bút gầy theo mực úa
      Bao năm rồi tiêu sơ
      Có phải xuân đang từ đáy lụa
      Một chiều sâu không ai ngờ
      Truyền tin về giấc mơ
      ánh nguyệt mung lung cành lãng đãng
      Nghe lòng trời đất ươm tơ
      Nguyệt vẽ mày cong dĩ vãng
      Cành đơn hoa trắng tương tư
      Ôi thôi áo vải đã màu nâu thuyền đã hư
      Mối manh gì nữa còn ai nữa
      Đành kết vào hương Thuý vũ Từ


    Tác giả giải thích : Thuý Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa : hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai[2]. Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quý ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết " ta đành mất hết để còn nhau " (Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).


    * * *



    Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Thìn, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng vì truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đã than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn :

    Vịnh tranh Gà Lợn

    • Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
      Gà lợn, om sòm rối bức tranh
      Rằng vách có tai, thơ có hoạ
      Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
      Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
      Lòng lợn âm dương một tấc thành
      Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
      Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh


    Bà Vũ ghi chú : Thơ có hoạ có ba nghĩa : thơ có xướng thì phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ : thơ phản nghịch là tai hoạ ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác : thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ : " dừng có mạch, vách có tai " ; " xanh vỏ đỏ lòng ". Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : " tranh tối tranh sáng ", " mắt xanh ", " mắt quáng gà ", " gà cùng một mẹ ", " lợn âm dương ", " con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi ". " Khúc tân thanh ằ ngụ ý ô đoạn trường " . Còn ý nghĩa, ngụ ý dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ thì chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ. Chỉ mong văn giới ghi nhận : đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Thìn 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, " tam sao ", được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, ngày 14-3, giam ở Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm thì mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bình Thìn, lúc 23 giờ.


    * * *



    Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm vì yêu cầu của báo giới ; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để ký hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu.

    Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quý vị nào biết xin vui lòng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này.

    Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong lòng người đọc thường là :

    Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.

    Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao hình thành trên mất mát.

    Cao quý và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.


    Đặng Tiến
    Paris, Tết dương lịch, 1-1-2001
    Bổ sung 15-1-2007


    ________________________________________


    [1] Chế Lan Viên, Phê Bình Văn Học, nxb Văn Học, tr. 89, 1962, Hà Nội
    [2] Bà Vũ Hoàng Chương ( 1919- 2005 ) – nhà thơ Đinh Thục Oanh – Xuân Kỷ Mão 1999 đã có bài Mai Thuý Vũ để truy niệm phu quân :


    • Cao sâu từng nhập bóng cây già,
      Cây vẫn thân xưa bóng chẳng nhoà.
      Vườn trải băng sương trăm thức cỏ,
      Xuân còn Thuý Vũ một cành hoa.
      Lòng nghe nắng ấm say đôi chút
      Cánh để men hồng nhuốm phớt qua
      Vang tiếng chim xanh về hót đấy,
      Bồng lai hẳn nhớ kẻ đi xa.


    Tôi đã hoạ lại, nay nhắc lại để ghi kỷ niệm và tư liệu :

    • Mộng Trắng Cành Mai, trên cội già,
      Nắng thưa mưa nhạt, trắng không nhoà
      Sang Tần lỗi bước lầm Tâm Sự,
      Bút Nở Hoa Đàm lỡ xác hoa.
      Ngồi Quán, Thơ Say, Thuyền Ghé Tạm
      Rừng Phong, Đậm Nhạt – Hạc về qua.
      Mây xa, xa mãi, xa xa lắm,
      Một chị một em tình xót xa

    Đặng Tiến

    Paris, 15/8/1999
    (những chữ in nghiêng là tên tác phẩm Vũ Hoàng Chương)


    Nguồn:http://www.art2all.net


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Xuân Kỷ Hợi - 2019

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Cờ Bạc Ngày Tết




    Bầu Cua Cá Cọp



    Tháng Giêng ăn Tết ở nhà...


    Tết là một dịp để gia đình đoàn tụ, để nhớ bậc trưởng thượng đã khuất bằng những bữa cúng. Tết là ăn uống thỏa thích cho bõ những ngày cơ cực của năm cũ. Tết là pháo, là câu đối, là bánh chưng, dưa hành, nhưng còn một điều không thể thiếu trong mấy ngày Tết - là cờ bạc.

    Dưới thời Pháp thuộc ngày xưa, nước ta bị chia ra làm ba kỳ Bắc, Trung, Nam, và mỗi địa phương có một số lối chơi bài khác nhau. Như người miền Trung và người miền Nam thì thích đánh Tứ Sắc, với những cây bài bé xíu, rất khó cầm nếu không quen, trong khi ngoài Bắc thì chơi Tam Cúc, Bất, Đố Mười, Chắn, Tổ Tôm, Tài Bàn ... với quân bài to hơn, dễ cầm hơn. Trong Nam thì có Hốt Me, ngoài Bắc thì lại chơi Sóc Đĩa.

    Cho đến khi người Pháp giới thiệu bộ Bài Tây với 52 quân thì lại có thêm nhiều trò chơi như "cắc tê", bài cào, xì dách, xì phé, nào là ngầu hầm, rồi xập xám... đủ thập bát ban võ nghệ. Nhưng đặc biệt là những trò đổ bát với bài Tây thì lại thông dụng nhất ở trong Nam, còn ngoài Trung và ngoài Bắc thì ít hơn.

    Cờ bạc mỗi môn một vẻ nhưng môn nào cũng hấp dẫn người chơi, vì hình như đa số trong chúng ta, nhất là người Á Đông, đều có máu "ham mê", nên nhiều người là nạn nhân của cờ bạc, tán gia bại sản, có khi còn mất mạng vì bài bạc nữa, vì vậy cờ bạc mới là một thành viên của Tứ Đổ Tương. Bốn cái đổ!


    Tương đối thì các loại "bài Bắc" khó chơi hơn ở hai kỳ kia. Tổ Tôm đã khó chơi vì phải có trí nhớ để xếp bài thành phu, thành lưng mới ù được. Tài bàn cũng khó, dù khỏi cần nhớ nhiều như Tổ Tôm, nhưng lên bài có nhiều quân quá, nên nếu không quen, bài rớt lên rớt xuống để người khác chờ họ cằn nhằn, kỳ kèo, nói cạnh nói khóe: mấy tay mới tập tành Tài Bàn cũng mướt mồ hôi hột và khổ sở lúc ban đầu.

    Ngược lại trong Nam thì các thứ bài dễ chơi hơn nhiều, gần như ai cũng chơi được, như bài cào chỉ cần đếm nút để ăn (hay thua) tiền, gần như đố mười ngoài Bắc, hoặc như trò chơi Bầu Cua Cá Cọp thì trẻ con cũng tham dự.

    Sau đây là một số môn cờ bạc thông dụng trong mấy ngày Tết.

    Ngoài Trung và trong Nam thì có môn TỨ SẮC.

    Bài Từ Sắc rất nhỏ, chiều ngang độ 1 phân, chiều dài độ 5 phân, nên khó cầm. Mỗi bộ bài có 112 quân, chia ra 4 màu Xanh, Trắng, Đỏ, và Vàng (có lẽ vì thế nên gọi là Tứ Sắc bốn màu?), và mỗi màu đều có các quân Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Ngựa và Tốt (hay Chốt), mỗi thứ có bốn quân.

    Những quân bài Tứ Sắc giống như những quân của bàn Cờ Tướng. Lý tưởng là có bốn người chơi, nhưng nếu ghiền quá mà thiếu chân thì ba người chơi cũng thú. Mỗi một đơn vị gọi là lệnh (điểm), và khi vào sòng, mỗi người phải "đậu chến", là đặt tiền ra ngoài để chơi. Một chến có giá trị bằng 300 lệnh. Thí dụ chơi một cắc (hào) một lệnh thì đậu chến 30 đồng. Người nào thua hết tiền trước thì gọi là đứt chến, mọi người lại đậu chến mới và chơi tiếp.

    Khi chia bài thì người cái (tức là người chia bài) được 21 quân, còn ba nhà con mỗi người chỉ được 20 quân thôi, vì nhà cái phải đánh ra một quân trước. Khi nào bài tròn, tức là không còn rác (quân lẻ loi) thì gọi là tới (như "ù" ngoài Bắc). Bài tròn là trên tay hay dưới chiếu trước mặt mình chỉ có những quân bài hai quân giống nhau, hoặc ba quân giống nhau hay các phu dọc như Tướng-Sĩ-Tượng, Xe-Pháo-Ngựa, hoặc ba hay bốn quân Tốt (Chốt) khác màu, và các ông Tướng đơn độc lang thang một mình. Khi tới thì phải tính điểm, một phu tính một điểm, 3 quân giống nhau dưới chiếu tính một điểm, 3 quân Tốt khác màu được 1 điểm, 4 quân Tốt 4 màu được 2 điểm, các ông tướng lẻ loi được tính 1 điểm. Còn ba quân giống nhau trên tay gọi là "khạp" thì tính 3 điểm (nhưng nếu có ai đánh hay bốc nọc mà có quân giống như khạp thì hạ ba quân trên tay xuống gọi là khui) và được tính sáu điểm. Còn bốn quân giống nhau gọi là quằn (chẳng biết có đúng chính tả không), buộc phải hạ xuống chiếu và được 8 điểm. Nếu người nào tới mà bài có khạp khui hay quằn thì gọi là tới quan, tiền tính gấp đôi.

    Khi tới, tính điểm để người khác chung tiền thì điểm luôn luôn phải là số lẻ, nếu là số chẵn thì gọi là "tới hố", cũng tương tự như "chao ù" của Mạt Chược hoặc "ù báo" của Chắn vậy, nghĩa là phải đền. Nhưng đến khi giam tiền thì phải cộng điểm tới với ba. Thí dụ khi ù mình đếm trong bài được 5 điểm thì phải xướng 5, 8 và người ta sẽ chung mình 8 lệnh. Nếu là 7 điểm thì là 7, 10. Trong trường hợp tới quan thì phải nhân đôi. Thí dụ 17, 40 (17, 20 nhân đôi). Bài Tứ Sắc có cao thấp, và nếu vi phạm một số luật lệ cũng bị đền, nhưng chơi quen khá thú vị, chả thế mà có người ngồi ngày này qua ngày khác. Tôi nhớ khi xưa có một Bà Cô lấy chồng giàu có, nên đụng tay vào việc gì là bà than đau lưng, nhức đầu, nhưng thẩy ra bộ Tứ Sắc ra là Bà ngồi cả ngày này qua ngày khác chẳng thấy đau nhức mỏi mê gì cả, ai đi đến đâu Bà theo đến đó!

    Nhân nói chuyện Tứ Sắc, vào năm 1959, hay 1960 gì đó, tôi có một cơ duyên được chứng kiến một sòng Tứ Sắc mà người ta đậu chến chín ngàn đồng, tức là mỗi lệnh 30 đồng. Trong bốn tay đấu thủ có một ông và ba bà. Một ông và hai bà chắc là dân nhà giàu, còn người thứ tư là cô vũ nữ của một vũ trường có tiếng ở Sài Gòn. Tôi quên một tô phở vào thời đó bao nhiêu tiền, nhưng lương của một Trung Úy cấp 5 (gồm có tiền phụ cấp bằng chuyên môn) chưa tới 3 ngàn. Nghĩa là tôi phải đi làm hơn ba tháng, không ăn không uống gì mới có đủ tiền ngồi xuống đậu một chến.

    "Trận chiến" xảy ra trong một ngôi biệt thự giữa vườn trái cây trên đường từ Sài Gòn đi Thủ Dầu Một. Chúng tôi ngồi "chầu rìa" có vài giờ đồng hồ mà cũng được mời ăn trái cây nhập cảng một cách tận tình thì đủ biết chủ nhà thu tiền hồ (tiều sâu) cũng khá lắm.



    Bài Tứ Sắc.



    Bài Tứ Sắc cũng được dùng để chơi các môn như Xệp (ba người chơi), cũng hơi hơi giống Tứ Sắc, nhưng mình có thể "làm bài" dễ tới lớn hơn được, nếu muốn, và Câu Tôm. Câu Tôm thì dễ nên con nít chơi cũng được.

    Nếu Tứ Sắc được nhiều người ưa thích và "thực hành" tại Trung và Nam kỳ, thì môn cờ bạc "bình dân" nhất ngoài Bắc lại là CHẮN.

    Nói về mức độ khó khăn và rắc rối, thì Chắn cũng ngang hàng với Tứ Sắc thôi, tức là cũng có một số qui luật phải tuân thủ, một số "thế" bài phải biết để khi ù còn xướng, nếu không thì những món không xướng chẳng được ăn tiền. Chắn có 120 quân bài từ Nhất (một) đến Cửu (chín), và chia ra làm sáu quân Nhất: Nhất Vạn, Nhất Sách, Nhất Văn, Ông Cụ, Thang Thang và Chi Chi, mỗi thứ có bốn quân. Sau đó, từ Nhị (hai) tời Cửu, mỗi loại chỉ có ba hàng, Vạn Sách và Văn, và mỗi hàng cũng có bốn quân.

    Bài Chắn chia ra làm hai loại, loại bạch (trắng), và loại hồng (đỏ). Các cây bài hồng hay (điều), như Ông Cụ, Thang Thang, Chi Chi, Bát Vạn, Bát Sách, Cửu Vạn và Cửu Sách có in một dấu ấn màu đỏ in trên, còn lại thì là những quân bài bạch.

    Luật lệ của Chắn là hai quân giống nhau như một đôi Nhị Văn hay một đôi Bát Vạn gọi là một chắn. Hai quân cùng số mà khác hàng như Tứ Vạn và Tứ Văn thì gọi là một cạ. Khi nào bài đủ sáu chắn, cả trên tay và dưới chiếu, và tròn bài, nghĩa là bài chỉ gồm toàn chắn và cạ, không có quân lẻ loi, thì ù. Ù mà không có gì cả thì gọi là ù suông, tức là nhỏ nhất. Nếu bài chỉ toàn những quân trắng (không có hồng), thì gọi là ù Bạch Định, còn nếu ù mà trên bài có 10 quân có ấn đỏ thì gọi là Thập Hồng hay Thập Điều. Ù Bạch Định hay Thập Điều, nếu xướng lên thì thuộc loại ù khá lớn. Ngoài ra. Nếu có 4 quân giống nhau trên tay thì gọi là Thiên Khai, nếu có 3 quân trên tay mà có ai đánh ra, hay bốc nọc đúng thì gọi là chiếu và phải hạ 4 quân xuống. Khi ù, nếu xướng Thiên Khai hay Chiếu thì được thêm tiền.

    Nếu bài có 3 quân Cửu Vạn, Bát Sách và Chi Chi thì gọi là có Lèo, nếu mỗi thứ có 2 quân thì phải xướng là hai Lèo, còn nếu có các quân Tam Vạn, Tam Sách và Thất Văn thì gọi là Tôm. Nếu khi ù, bài toàn trắng mà chỉ có một quân Ông Cụ thì gọi là Ù Kính Cố, hay Kính Cụ, khá lớn,. Còn nếu bài toàn trắng mà có đến 4 Ông Cụ thì gọi là Ù Kính Tứ Cố, to lắm: vơ hết tiền làng gom ra. Còn nếu ù liên tiếp thì gọi là ù Thông, cũng được thêm tiền.

    Nếu bài mình có 5 chắn, mà bốc nọc ra một quân thành chắn thứ 6, thì gọi là Bạch Thủ. Còn nếu mình bốc nọc ngay cửa mà ù thì gọi là Trì. Vấn đề quan trọng là mình ù có những món gì phải xướng mới được ăn tiền. Nếu không có mà xướng thì bị phạt (đền). Thí dụ bài có 9 quân Hồng mà xướng Thập Điều là bị đền nặng, vì "nghèo mà ham". Khi ngả bài ra ù mà trên bài còn một quân lẻ thì gọi là "chao ù", hay "ù báo" cũng bị đền. Đánh Chắn không khó, chỉ quen là được. Ban đầu thì hơi vất vả, phải nhớ luật lệ để đánh bài cho đúng, đừng để "treo tranh", khi ù phải cẩn thận duyệt bài trước rồi mới hạ bài và xướng.

    Có hai loại bài sử dụng bài Chắn là Tổ Tôm và Tài Bàn.


    Tổ Tôm hơi rắc rối vì người chơi phải nhớ nhiều thứ như những quân bài nào đi với nhau để thành phu hay thành lưng. Có nhiều khi một quân bài có thể dùng cho cả hai thứ, nên người chơi phải quyết định. Nếu quyết định đúng được người ta khen là đánh cao, và nếu sai thì... thấp. Tổ Tôm là một trò chơi tao nhã, ngày xưa được các nhà Nho và người có chút chữ nghĩa ưa thích, vì cao hơn Chắn một nấc.

    Tài Bàn là một loại bài chơi rất dễ mê nhưng dành cho những người đã thuần thục trong "nghề" vì chỉ có ba tay nên mỗi người có nhiều quân bài lắm. Điều quan trọng là quen thì việc gì rồi cũng xong. Tài Bàn và Tổ Tôm phần nhiều dành cho những người đứng tuổi, chứ giới trẻ không thích thú lắm.

    Với sự có mặt của người Pháp trên đất nước, dần dần người Việt chúng ta được giới thiệu một loại bài mới mà chúng ta gọi là Bài Tây. So với bài ta, bài Tây là loại bài khổ lớn, bề ngang từ 5,5 hay 6 phân, bề dài 9 phân, và có 52 quân bài, chia ra từ số 1, còn gọi là ách hay xì, đến số 10, rồi sau đó là lá bài có hình, gọi là Bồi, Đầm và Già, mỗi thứ có bốn quân, theo các "hoa" cơ, rô, chuồn, bích. Cơ và rô màu đỏ, chuồn và bích màu đen. Bài Tây được dùng trong nhiều môn cờ bạc: Cắc-Tê (một biến thái của "écarté" của Pháp). bài Cào, Xì Dách, Xì Phé, Ngầu Hầm, Xập Xám...

    BÀI CÀO: Dễ chơi nhất là bài Cào, nên rất bình dân. Khi chơi bài Cào mỗi người được chia ba lá bài, rồi cộng điểm lại, bỏ đi 10, hay bội số của 10, còn lại ai cao điểm hơn thì được. Vì dễ và mau ăn mau thua nên người miến Nam có câu "Cắc-Tê sáu lá cầm chừng, bài Cào ba lá tuột quần không hay".

    Số người chơi chỉ được giới hạn bởi số quân bài mà thôi, cỗ bài có 52 quân, mỗi người chơi được chia 3 quân, nghĩa là số người chơi tối đa là 17 người. Có hai loại bài Cào, thông thường thì có một người làm cái, và các "tay con" chỉ ăn thua với nhà cái thôi. Nhà cái hên thì ăn nhiều, mà nếu xui thì cũng thua nhiều.

    Còn một loại nữa là "bài Cào Vùa", nghĩa là mọi người chơi đều góp một số tiền bằng nhau để bên giữa, rồi so bài với nhau, người nào lớn nhất thì tóm thu số tiền. Nếu có hai hoặc nhiều người hơn đồng điểm thì chia "chiến lợi phẩm" với nhau. Cách tính điểm bài Cào như nói bên trên, cộng ba quân bài lại, trừ ra 10, hoặc bội số của 10, còn lại là điểm của mình. Lớn nhất là Ba Tây, tức là ba quân bài Hình, rồi tới 9 điểm, còn 10 điểm thì gọi là "bù", là tệ nhất. Cách tính điểm thì quân bài số mấy (có bao nhiêu nút trên lá bài) thì chừng ấy điểm, các quân bài Hình như Bồi, Đầm và Già thì tính 10 điểm. Thí dụ bài có quân Xì, quân Đầm và quân 10, thì cộng lại là 21 điểm trừ bội số của 10, chỉ có 1 điểm thôi. Bài 1 điểm chỉ hơn được bài bù (mười hoặc bội số của 10), nên người nào được 1 điểm mà nhà cái bù thì "không hạnh phúc nào lớn hơn".

    Thông thường thì sòng bài Cào là nơi ồn ào và vui nhộn nhất, vì nhiều người chơi, và cũng có nhiều người "chầu rìa". Vì bài Cào không có đậu tiền như Chắn hoặc Tứ Sắc, không cần phải hết gió hay hết hội như Mạt Chược nên muốn nhóm lúc nào là nhóm mà muốn tan lúc nào là tan, ví vậy ngày Tết sòng bài Cào được nhiều người chiếu cố nhất.


    Bài Tây còn được dùng để chơi nhiều môn khác như đã kể trên, nhưng sau này với những người làm việc lâu ngày rồi thân cận với Pháp, với những người đi du học từ Pháp về, còn có hai trò chơi cũng được chiếu cố là bài Belote, và bài Bridge.

    Còn một vài trò cờ bạc nữa mà người chơi không cần các quân bài, mà chỉ cần mấy quân súc sắc (hột xí-ngầu) như Tài Xỉu, Tam Hường và Xí Ngầu Lác (tiếng Tiều có nghĩa là Tứ Ngũ Lục hay bốn năm sáu). Tam Hường (người Trung gọi là Xam Hường) là trò chơi được người Trung và một số người trong Nam ưa thích, tôi có hỏi nhưng hình như ngoài Bắc không có trò chơi này.

    TAM HƯỜNG: Ngày Tết cả nhà, hay bạn bè quây quần lại đổ Tam Hường cũng vui. Trò chơi cần 6 hột súc-sắc, một cái tô to và một bộ Thẻ, gồm có các Thẻ Trạng Nguyên 32 điểm, một số thẻ 16 điểm, rồi 8 điểm, bốn điểm, hai điểm và một điểm. Nếu được 5 người chơi thì lý tưởng nhất, nhưng ít hơn cũng chẳng sao. Người chơi đổ 6 hột súc-sắc, nếu có một quân 4 (màu đỏ, hay là Hường) thì được 1 điểm, nếu được 3 Hường thì được 8 điểm, nếu được 4 Hường thì gọi là đậu Trạng, được lấy thẻ Trạng 32 điểm. Ngoài 4 Hường, thì hai hạt súc sắc còn lại là tuổi của Trạng. Thí dụ bốn quân 4 một quân 3, một quân 6 là Trạng 9 tuổi.

    Cái vui là người nào đậu Trạng cũng chưa chắc đã được giữ thẻ Trạng cho đến cuối, vì nếu có người nào khác đậu Trạng mà lớn tuổi hơn thì người đó được quyền "giật Trạng", tức là lấy thẻ Trạng của người đậu Trạng trước. Còn ai "đỏ" mà được 5 quân 4 thì gọi là"Ngũ Tử Tứ", chẳng những giật Trạng mà còn được người khác giam thẻ nữa. Bàn Tam Hường chấm dứt khi ngoài "trường" không còn thẻ nữa.

    Xí Ngầu Lác: Trò chơi này chỉ dùng ba hột súc sắc, và thông thường thỉ chỉ chơi tay đôi. Mỗi người đổ cho đến khi được hai quân giống nhau, thì quân thứ ba là điểm, rồi đến lượt người kia, ai cao điểm hơn thì thắng, thí dụ người đầu được 2 quân sáu và một quân hai thì được hai điểm, người kia được 2 quân bốn và một quân năm thì là 5 điểm, và người đó thắng. Tuy nhiên nếu ai được ba quân 4, 5 và 6 thì gọi là "Xí Ngầu Lác" hay tứ ngũ lục và sẽ đương nhiên thắng, còn người nào đổ được 1, 2, và 3 thì gọi là "Mèo" (không biết từ đâu có từ này) và thua tự động.

    Trò chơi này không có gì hấp dẫn, nhưng tôi có một kỷ niệm khó quên với Xí Ngầu Lác, xin kể hầu quý vị cho thêm vui trong ngày Tết.

    Mồng Hai Tết năm đó tôi là học sinh Trung Học năm thứ Ba, đang đứng trước nhà nhìn ông đi qua bà đi lại và xem tiệm cà-phê của chú Lủ Coóng (Lão Quang) bên kia hẻm đốt pháo thì thấy "kẻ thù truyền kiếp" của tôi quẩy gánh Vò Viên của ông ta đi tới. Tôi gọi ông bán Vò Viên là kẻ thù truyền kiếp là vì ông đã bày ra trò chơi đồ Xí Ngầu ăn Vò Viên, trò chơi mà tôi mất không biết bao nhiêu tiền rốt cuộc cũng chỉ ngửi được mùi Vò Viên trong nồi và nuốt nước bọt chứ chưa từng thắng ông ta lấy một lần.

    Tôi không thua nhiều, mỗi lần chỉ hai, hay nhiều lắm là ba đồng vì làm gì có tiền mà thua nhiều, chỉ tức là có bao nhiêu "cúng" cho ông Vò Viên hết. Hôm nay, tôi bỗng có ý định "quyết tử" với ông, vì có nhiều tiền lì xì, nên tôi gọi ông ta lại một cách anh dũng. Rồi ông lấy cái bát và 3 hột Xí Ngầu để lên, với vẻ mặt đầy tự tin, nghĩ là ông ta lại cho tôi ngửi mùi Vò Viên như bao nhiêu lần trước. Nhưng hôm nay tôi đỏ quá, chỉ trong vòng hơn 10 phút, ông ta đã thua tôi một ngàn mấy chục viên Vò Viên. Mặt mày ông nhăn nhó, mồ hôi vã ra như tắm, và chửi thề liên tục mỗi khi cầm hột đổ. Cuối cùng ông ta nói "Thôi, không chơi nữa! Mầy vô nhà lấy cái nồi ra tao múc Vò Viên cho rồi tao về nhà. Còn gì đâu mà bán.

    Tôi đang say sưa với chiến thắng không nghĩ đến "thảm cảnh" của ông Vò Viên. Nhưng nghe ông nói, nghe giọng nói của ông tôi nghĩ đến cảnh ông gánh gánh hàng của ông về mà không bán được một đồng nào trong ngày đầu năm, tôi bỗng thấy tội nghiệp, và có ngay một quyết định mà cho đến hôm nay tôi vẫn còn hãnh diện: tôi đi vào nhà mang một cái tô lớn ra, nói "Tù Hia (tiếng Tiều là Đại Ca) múc cho Hóa (tôi) 20 Viên (cho bà Chị và hai đứa em của tôi). Còn lại Hóa cho Hia để đi bán Tết đi.

    Lần sau gặp Hóa Hia đừng có rủ Hóa chơi Xí Ngầu nữa nha!" Lúc đó tôi không thể tả được sắc diện của Chú Tiều Vò Viên, chú chưa chắc là đã nghe đúng lời tôi nói, hỏi lại "mầy nói cái gì, mầy không lấy Vò Viên hả, mà mấy muốn lấy tiền hả?". Tôi nói "Không, Hóa cho Hia hết. Lì xì cho Hia đó".

    Miệng chú Tiều bỗng méo đi, không biết vì chú cười hay mếu, chỉ nghe chú nói được với tôi "Lụ Má mầy tốt quá!" rồi chú kê vai gánh "giang sơn" của chú đi như chạy.


    Cho đến ngày hôm nay, chưa bao giờ tôi cảm thấy bằng lòng với bản thân và sung sướng hơn khi nghe chú Tiều chửi "Lụ Má", kể cả những lúc tôi đứng nghiêm trang trong hàng quân để nhận huy chương hay cấp bậc mới. Từ đó về sau tôi không bao giờ còn phải mất tiền để ăn Vò Viên nữa, đến độ phải trốn chú Tiều, vì không gặp tôi, chú cũng bấm chuông để người nhà mang tô ra để chú múc Vò Viên cho tôi, miễn phí lẽ dĩ nhiên.


    Bồ Đại Kỳ


    Nguồn:https://vietbao.com




              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Kỷ Hợi - 2019

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    Giám đốc và đàn heo
    ___________________________________




    Một công ty chăn nuôi quyết định cho ra mắt một quyển Nội san để quảng bá hoạt động của họ. Muốn gây ấn tượng mạnh ngay tấm ảnh bìa, ông giám đốc quyết định xắn quần đứng giữa đám heo trong chuồng.

    Việc biên tập Nội san không có gì khó khăn, trừ việc làm chú thích cho cái ảnh bìa độc đáo kia, có vị giám đốc đứng cạnh 6 con heo.

    Một ý kiến được đưa ra:
    • "Ta nên chú thích: Đồng chí giám đốc trong chuồng heo".
      "Nghe không ổn, hơi bình dân", trợ lý giám đốc phản bác.
      "Giữa đàn heo là đồng chí giám đốc có được không?", một người khác nói.
      "Cũng không được! Cứ gờn gợn cái gì đấy không hay", trợ lý đáp.
    Sau khi họp lên họp xuống mấy chục lần, cuối cùng, trưởng ban biên tập quyết định:
    • "Chú thích thế nào thì chú thích, không được dùng chữ heo đi kèm chữ giám đốc".


    Cuối cùng, mười ngày sau, trên trang bìa cuốn Nội san là ảnh ông giám đốc với chú thích sau đây:
              
    "Đồng chí giám đốc, đứng thứ 7 từ trái sang".

              

              
    .:lol2:

              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Kỷ Hợi - 2019

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Xuân
    ___________________________________
    Chế Lan Viên





              

    Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
    Ðem chi xuân lại gợi thêm sầu?
    - Với tôi, tất cả như vô nghĩa
    Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

    Ai đâu trở lại mùa thu trước
    Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
    Với của hoa tươi, muôn cánh rã
    Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!

    Ai biết hồn tôi say mộng ảo
    Ý thu góp lại cản tình xuân?

    Có một người nghèo không biết Tết
    Mang lì chiếc áo độ thu tàn!
    Có đứa trẻ thơ không biết khóc
    Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran!

    Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ!
    Một cánh chim thu lạc cuối ngàn


              




              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Xuân Kỷ Hợi - 2019

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Đi Chợ Tết Với Dì






    Chỉ còn hơn một tuần là đến phiên chợ họp tại đầu làng tôi. Tôi nghe Dì tôi nói với Cô tôi:

    - Năm nay làng mình may vì được tổ chức phiên chợ cuối năm, buôn bán sẽ đắt hàng hơn, gọi là chợ Ba Mươi Tết cơ mà.

    Cô tôi thưa lại với Dì tôi:
    - Thì có ba làng trong huyện, cứ luân phiên mỗi tháng họp chợ một lần, làng nào rơi vào ngày nào thì họp ngày nấy, thế nhưng ai cũng muốn phiên chợ cuối năm.

    Nghe Dì và Cô tôi kháo chuyện với nhau về phiên chợ Ba Mươi Tết mà lòng tôi nao nao, vu vơ nghĩ là vui lắm, đông người lắm, và ước gì được đi theo Dì. Thế nhưng tôi cũng chưa dám thưa với Dì. Một thoáng qua tôi nhớ đến Mẹ tôi, ký ức rất lờ mờ vì khi Mẹ tôi chết tôi mới lên năm tuổi. Có lẽ vì thế mà tôi nhút nhát hơn những đứa trẻ khác trong làng.

    Tôi đang say giấc ngủ, có hai, ba cái vỗ mạnh vào đùi tôi. Tôi choàng mắt dậy, Dì tôi bảo:

    - Dậy ngay đi lễ, chuông nhất rồi.

    Tôi ngồi dậy, còn bần thần trong người. Tiếc quá, không được ngủ tới sáng. Rồi tôi ra bờ giếng, ở đó có cái chum nước với cái gáo, súc miệng, rửa mặt rồi lên nhà mặc quần áo dài và theo Dì tôi đi lễ sáng. Trên đường tới nhà thờ thì chuông hai điểm, như một quy định cho cả làng. Bốn giờ sáng chuông nhất, bốn giờ ba mươi chuông hai, bắt đầu đọc kinh. Sau mười lăm phút, Cha xứ ra cử hành Thánh lễ.

    Tan lễ sáng, trời vẫn còn mờ mờ tối. Dân làng về nhà và bắt đầu một ngày cần lao. Nhưng bây giờ là thời điểm cuối năm, mọi việc đồng áng đã xong, tất cả mọi người chỉ chuẩn bị ăn Tết và sẽ ăn chơi cả tháng Giêng như các cụ nói: Tháng Giêng là tháng ăn chơi.

    Tôi thấy Dì tôi ăn mặc tươm tất hơn mọi ngày, sửa soạn một đôi quang gánh. Đôi mắt tôi không rời khỏi Dì tôi. Tôi đánh bạo thưa với Dì:
    - Dì cho con đi chợ Tết với nhé.

    Dì tôi đang vuốt lại chiếc áo trên người cho thẳng và trả lời tôi:
    - Ừ. Một tiếng ừ vừa gọn vừa khô nhưng nó lại cho tôi một niềm vui rạo rực.

    Trời đã sáng hẳn. Bầu khí mát dịu của tiết Đông-Xuân là quà tặng không của Ông Trời. Cả xóm làng vui nhộn hẳn lên. Người ta nghe thấy tiếng lợn kêu eng éc vì bị cắt tiết, tiếng giã giò thình thịch, tiếng gà kêu quang quác vì bị đuổi bắt, xen lẫn tiếng cười nói rôm rả, tiếng rít cao như hồi còi của dân điếu cày-thuốc lào. Văng vẳng tiếng chó sủa cuối ngõ. Người nào việc ấy, nhưng các bà các cô là phải đi bằng được chợ Ba Mươi Tết.

    Tôi theo Dì tôi ra chợ. Nhanh chân trên đường cái quan, khoảng gần một cây số thôi, nhưng hôm nay tôi thấy thật gần. Dọc đường tôi gặp bao nhiêu người quen, họ chào hỏi Dì tôi, họ kể nhau nghe các món ăn sẽ làm trong ngày Tết, rồi phải đi Tết những ai. Đôi khi tôi bắt gặp cái nhìn của vài cô gái trong làng, họ nhìn tôi hình như thương hại, hay chỉ mỉm cười với tôi. Có lẽ trong lòng họ đang mơ ước một năm mới duyên tình vu vơ...

    Kìa, chợ Tết đã hiện rõ ngay trước mặt tôi, đông quá nhỉ. Tai tôi nghe tiếng cười nói ồn ào, xôn xao lạ, âm thanh của phiên chợ Ba Mươi Tết thật khó tả, hàng đoàn người các làng lân cận cũng đang tiến vào chợ. Chợ làng tôi gồm ba dãy nhà tranh dài nằm song song với đường cái quan, tọa lạc trên hai mẫu đất phẳng phiu, có hàng rào bằng cây rừng bao quanh. Ngay cổng chợ là một cây đa già tỏa bóng mát.

    Tôi theo Dì tôi vào chợ. Tôi không biết Dì tôi sẽ mua những thứ gì nhưng nghe Dì bảo:
    - Con muốn đi xem các gian hàng chợ thì cứ việc đi. Mỏi chân thì ra cổng chợ chờ Dì nghe chưa.

    Thế là tôi đi tung tăng khắp chợ. Tôi cũng gặp những đứa trẻ khác như tôi hay lớn hơn, cùng làng, hỏi nhau, cười nói vui vẻ. Tôi chạy ra xa ở một góc chợ để xem vợ chồng ông lò rèn. Tôi thích nhìn thằng bé hai tay kéo bễ. Cứ tay này kéo lên, tay kia lại đẩy xuống trong hai cái ống cao gần một mét, tạo ra gió làm đỏ hồng lò than ở dưới đất trong đó có hai, ba con dao đang nung để rèn. Những tiếng đập trên đe chan chát. Con dao đỏ như cục than hồng mà phải mềm ra, với tôi rất lạ. Rồi tôi đi qua dãy nhà bán chó, bán lợn, gà, vịt, dãy hàng gạo, hàng đỗ, mè, ngô, khoai, rau quả. Đối diện là hàng bán lá dong để gói bánh. Những ống giang còn tươi mua về chẻ ra làm lạt buột. Gian hàng này vừa lớn vừa rất đông người mua. Ba dãy nhà dài thế mà hôm nay chật cứng, người đông như hội.

    Tôi dừng lại ở khu hàng xén, có lẽ hôm nay đẹp nhất khu này. Mỗi cô hàng xén có khoảng rộng hơn một chiếc chiếu để bày hàng thành một dãy dài với muôn sắc màu, toàn là các mặt hàng mà người dân quê cần vì đã mấy khi ra tỉnh hay Hà Nội mà mua sắm. Nào là gương lớn, gương nhỏ, lịch năm mới treo lên chung quanh, nào là áo len đủ màu, khăn quàng, khăn tay, mũ, nón, đồng hồ báo thức con gà, kim băng, kẹp tóc, quân cờ, những cỗ bài tam cúc, tổ tôm, son phấn đủ loại. Các loại bánh mứt, đường hộp, giấy bóng đỏ bày la liệt, chưa kể các loại dầu cù là, dầu gió mà người dân quên rất ưa. Tôi không thể kể hết các mặt hàng ở khu hàng xén. Đứng nhìn mãi, rồi tôi bước sang bên cạnh, lại một gian hàng xén khác làm tôi hoa cả mắt. Tôi được cô chủ trẻ măng, xinh đẹp mời chào:

    - Này, chị có nhiều giày và săn-đan lắm em chọn đi. Tết ai lại đi chân đất thế kia. Mẹ em đâu?!

    Lòng tôi như được mở ra, chan hòa tình yêu mến. Tôi đứng ngay trước nơi bày giày, dép, say sưa nhìn từng đôi một và tôi đã nhìn thấy một đôi giày vải màu xanh đậm, với chân tôi thì rất vừa. Tôi cầm đôi giày lên, ngắm nghía, ngửi mùi thơm đế giày làm bằng cao su. Tôi ao ước: mua được đôi giày mới để chạy tung tăng mấy hôm Tết thì sung sướng biết bao. Thế rồi tôi chào cô và đi tìm Dì tôi, trong lòng lâng lâng, khó nói.

    Kìa là nơi ồn ào, thỉnh thoảng lại có tiếng reo lên. Hóa ra đó là bàn đánh xóc đĩa. Người ngồi, kẻ đứng, vòng trong, vòng ngoài. Tôi thấy Dì tôi đang cúi xuống để đặt tiền phía bên chẵn, chờ nhà cái mở cái bát ra là biết chẵn hay lẻ, vì thế mà có tiếng ầm vang lên vì thắng hay xít xoa vì thua. Dì tôi trông thấy rồi vội bảo:
    - Thong thả hãy về. Đi xem chợ có vui không?

    Tôi chưa kịp trả lời, nhìn Dì tôi không vui lắm vì cái bát mở ra, bên lẻ thắng. Thế nhưng đôi giày màu xanh đậm đã in sâu vào lòng tôi để không biết sợ. Tôi cũng không hiểu tại sao các chú bé nhà quê như tôi rất thích đi giày. Và tôi thưa với Dì:

    - Dì, Dì mua cho con đôi giày ở hàng xén đằng kia.

    Dì tôi nhìn tôi không nói gì.

    Trời đã xế chiều, chợ vẫn họp đông vui. Dì tôi chắc đã mua đủ mọi thứ cần thiết. Tôi lăng xăng chạy theo Dì, cũng trên con đường cái quan về làng, vẫn màu đất vàng nhạt, vẫn lũy tre xanh bao lấy làng tôi, vút lên cao là tháp chuông, đôi cánh én chao đảo đón Xuân. Có tiếng chim hót, có tiếng pháo đì đẹt tan trong tiếng cười, nhưng tôi buồn và tủi thân lắm.
    Đêm hôm ấy tôi đi ngủ sớm. Trong giấc ngủ tôi vẫn mơ thấy đôi giày màu xanh đậm. Tỉnh dậy, tôi muốn nói to cho mọi người nghe:

    - Giá như Mẹ mình còn sống...!

    Kinh Nguyễn
    Xuân Ất Mùi 2015


    Nguồn:http://www.tongphuochiep.com





              
Trả lời

Quay về “Chuyên đề”