30/04/2018 - tưởng niệm 43 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: 30/04/2018 - tưởng niệm 43 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    30/4/1975:
              
    Giậu Đổ Bìm Leo
    _____________________
    Hà Bắc - 18/04/2015











    • Trận mùa Xuân 1975 đã kết thúc với một bên hết đạn phải buông súng;
    • một bên được viện trợ gấp bội để xé bỏ hoàn toàn Hiệp Định Paris 1973 và hoàn tất mưu đồ xâm lăng của đế quốc Cộng-sản Nga Tàu.
    Từ đó thấm thoát đã 40 năm -gần nửa thế kỷ- để thế hệ lưu vong suy tư và "ôn cố tri tân";
    • ngõ hầu gây dựng cho thế hệ con cháu một chiến lược hoàn chỉnh cho cuộc chiến giành Tự Do, Dân Chủ vẫn chưa kết thúc
    • để lấy lại giang san mà các vua Hùng đã ngàn năm tạo lập;
    • các vua Đinh, Lê, L‎ý, Trần, Nguyễn đã mở mang bờ cõi
    • và hai nền đệ I & II Việt Nam Cộng Hòa đã bảo vệ vẹn toàn.
    Bài học 40 năm ấy cho thấy
    • chế độ nhân bản VNCH không chỉ lo đem lại cơm no áo ấm cho toàn dân
      -kể cả thân nhân kẻ bên kia chiến tuyến-
      mà còn phải cùng lúc lo đối phó với xâm lược triền miên không ngưng nghỉ;
      • với phản bội từ bên ngoài
        và nhất là những phản trắc từ bên trong.
              
    Do đó mới có ngày 1/11/1963
    và hậu quả tất yếu của nó là ngày 30/4/1975.
              
    Cảnh "giậu đổ bìm leo" 40 năm ấy được ghi nhận bởi các kí giả nước ngoài ít ỏi có cơ may mục kích tại chỗ và các sử gia chuyên nghiệp ghi chép lại một cách trung thực.
    • Nayan Chanda, Pierre Darcourt, Tiziano Terzani là các cây bút trong số đó.
    Dẫn chứng của các tay đương kim hay cựu trùm cộng sản
    • tuy không có giá trị sử học
      nhưng cũng lột trần được sự thật mà chính họ từ bên kia bức màn sắt từng lừa dối quốc tế, đồng bào và lừa dối lẫn nhau.





    1/ Quân lực VNCH Hết Đạn:

    Thứ trưởng Ngoại giao Liên Sô Nikolay Firyubin sớm đến Hà Nội giúp trang bị tối đa vũ khí cho CSBV (Cộng sản BắcViệt).

    Ngay từ đầu 1975 sau những vi phạm lớn nhỏ để thăm dò phản ứng và thấy Mỹ bất động sau ngày BMT thất thủ 10/3, CSBV đã tăng tốc kế hoạch chiếm miền Nam mà họ dự trù kết thúc năm 1976 bằng các hoạt động quân sự ráo riết. Dù vậy, TT Thiệu vẫn can đảm đến An Lộc để thăm quân sĩ đang đánh bật CSBV khỏi đây sau khi thất thủ hôm 21/3.
    • CSBV tàn sát 250 người Thượng ở Dakson,
    • VC (Việt Cộng) giết hơn 300 tín đồ Cao Đải ở Tây Ninh sau 30 giờ tấn công;
              
    đem 1,500 đặc công vào bố trí quanh TSN với 4 khẩu 105 ly tháo rời từng mảnh.

    BCH của họ đặt tại quận 7 Saigon có một Thiếu Tướng VC và cả 1 thành viên trung ương đảng CS từ 26/4.

    Tướng VC Trần Văn Trà có mặt tại Biên Hòa cùng 5 sư đoàn BV từ hôm 25/4.

    Có tin CSBV dành 300,000 đạn 130 ly để pháo Saigon.

    SĐ 25BB đóng ở Gò Dầu Hạ thiếu đạn 105 ly và 155 ly trầm trọng: mỗi ngày chỉ được bắn vài tràng!

    Ở miền Trung, CSBV áp dụng cưỡng bức hôn nhân; buộc gái miền Nam lấy thương phế binh BV như hồi 1955 ở miền Bắc; cụ thể là tại nơi chiếm đóng Quảng Nam.


    CSBV và VC vào Saigon bằng 4 hướng, BCH (bộ chỉ huy) ở Biên Hòa:
    • xa lộ 13 hướng bắc vào đường Hai Bà Trưng,
    • hướng Tây vào ngã tư Bảy Hiền từ Tây Ninh,
    • hướng tây nam vào Chợ Lớn
    • và hướng đông hùng hậu nhất với hàng trăm tăng, quân xa, đội phòng không 203 từ Hố Nai vào đường PhanThanh Giản và Hồng Thập Tự.
              
    Xe tăng số 843 do Bùi Quang Thân chỉ huy, tài xế Lữ Văn Hàng, 2 xạ thủ Thái Bá Minh, Nguyễn Văn Kỷ và chính ủy Bùi Văn Tùng. Xe khởi hành từ 5g sáng; đến Thị Nghè lúc 11g trưa. Thân gặp 2 quân nhân VNCH dọc đường Mạc Đỉnh Chi; bắt một người lên xe chỉ đường đến dinh ĐL (Độc Lập) và ngừng xe hỏi đường một cô gái đi Honda. Xe bắn chỉ thiên khi đến nhà thờ Đức Bà. Một số quân xa VNCH bị xóa dấu vết và bị trưng dụng chở bộ đội Bắc Việt theo sau.


    Các tòa đại sứ đồng minh bắt đầu di tản nhân viên.

    TQLC Mỹ đốt giấy tờ mật và cả một số tờ $100 USD lấy từ két của tòa đại sứ. TQLC Mỹ không kịp phá bỏ bảng đồng gắn nơi đồng đội của họ tử thương hồi Tết 1968; nguyên văn trích từ Lawrence of Arabia ". . .bởi đó là chiến tranh của họ và thời gian của ta ở đây có hạn".

    Dân Ấn và Pháp treo cờ nước họ trước nhà và các cơ sở kinh doanh, trường sở để tránh bị VC tấn công lầm.

    Sân bay TSN còn ngổn ngang hơn 100 xác máy bay các loại nhưng tháp điều khiển còn nguyên.

    Kí giả Ý Terzani dùng ảnh chụp chung đã lâu để xin vào TSN gặp Võ Đ. Giang nhờ chuyển tin sớm nhất về 30/4 cho báo Đức "Der Spiegel" ở Hamburg qua ngã Hà Nội-East Berlin. Số phôn của Giang để liên lạc là 924-5149 mà kí giả ngoại quốc ai cũng biết do Thiếu tá VC Phương Nam trực máy.

    Vài thành viên Canada trong ICCS bị CSBV bắt làm tù binh nhiều ngày nên sau này CP Canada phải rút lui.






    2/ Saigon Thất Thủ:

    Tại dinh Độc Lập (ĐL), (xây lại suốt gần 1 năm tốn 1.5 triệu USD; khánh thành hôm 30/10/1966), Tướng nằm vùng VC Nguyễn Hữu Hạnh mặc quân phục đeo 1 sao cùng với Vũ Văn Mẫu, Lý Qúy Chung, Ng.V. Ba và nội các đứng đón Thân. Thân quát hỏi
    • "Dương Văn Minh đâu?".
    Big Minh bước tới trả lời
    • "xin bình tĩnh; chúng tôi đã đầu hàng rồi!".
    Sinh viên Nguyễn Hữu Thái chỉ lối cho Thân leo lên tầng trên treo cờ Mặt Trận Giải Phóng hồi 12:15 trưa 30/4.
    Chính ủy Tùng đến sau 10 phút; tự giới thiệu với Big Minh và bảo Minh cùng 18 thành viên nội các rằng họ cứ tự nhiên.
    Thân ra lệnh "Anh Minh" đến đài phát thanh đọc lệnh đầu hàng chính thức do chính ủy Tùng viết tay. Lời tuyên bố ngừng bắn của Big Minh trước đó đã được thu âm vào máy của kí giả Đức Boris Gallash (Bùi Tín-HXT tr.53).
    Bọn sinh viên Thái đến đài trước nhưng không biết dùng nên loay hoay 2 giờ sau và vài lần thử mới phát thanh được lúc 2:30 chiều.
    Sau khi đọc lệnh đầu hàng, Big Minh ra lệnh giải tán Chính quyền quốc gia ở mọi cấp. Ls Vũ Văn Mẫu, thủ tướng hô hào toàn dân đón chào "hòa bình" và ra lệnh công chức trở lại làm việc. Minh và Mẫu được Cộng sản Bắc Việt chở về dinh ĐL. Phó TT. Nguyễn Văn Huyền về nhà nằm nghỉ. Nửa giờ sau, tăng Cộng sản Bắc Việt vào dinh. Người nhà ông đã chở ông bằng xe Honda đến dinh trình diện hồi 5g chiều.

    Hàng chữ "The Noble Sacrifice of The Allied Soldiers Will Never Be Forgotten" ở Tân Sơn Nhất đã bị bôi bằng sơn trắng.
    Trại Davis bị chiếm hồi 1g trưa.
    Lm Chân Tín mô tả đêm hôm 29/4 trong hầm trú ẩn của VC:
    • ". . .khi nghe DVM tuyên bố đầu hàng trên radio, cảnh tượng (trong hầm) hết sức vui mừng. Chúng tôi ra khỏi hầm gặp Tướng Tuấn. Bộ đội ôm nhau nhảy và đi tới lui. Tướng Tuấn cho giết con gà và đem chai rượu ra ăn mừng.
      Chúng tôi thấy chiếc T54 đầu tiên hồi giữa trưa nhưng không rời trại cho đến 6g chiều vì vẫn còn giao tranh ở Bộ TổngTham Mưu . . .Võ Đ. Giang kí cho chúng tôi giấy phép đầu tiên để đi đường hôm 30/4".
              
    VC ở Lộc Ninh sắm dép mới cho cán bộ về thành.

    Tướng Trà đến dinh ĐL lúc 5:30 chiều cùng chính ủy Bùi Thanh Khiết.

    Phạm Hùng ẩn nấp lâu ngày không bị lộ diện ở quận 7 Saigon; nay cũng đến đó.

    Lê Đức Thọ đến Saigon hôm 1/5 từ Lộc Ninh và Biên Hòa. Y làm bài thơ dài gởi Bắc Bộ Phủ mừng chiến thắng.

    Chiều 30/4, Hải quân Bắc Việt đến Saigon để gom tàu thuyền còn kẹt lại.

    Hồi 12:50, một chiếc Mi-6 của KQ. CSBV đến TSN để "tiếp quản"; có kí giả Lê Bá Thuyên của tờ "Hanoi Illustrated Review", dân Saigon tập kết tháp tùng.







    3/ Saigon Hỗn Loạn:

    Sau khi TT Thiệu từ chức hôm 21/4, hoang mang và hỗn loạn bắt đầu diễn ra ở Saigon không kém ở miền Trung.

    Nhóm Lm Tín, Gs Luân và Ls Liễng từ nhà Big Minh ở số 3 Trần Quí Cáp đến trại Davis gặp VC Võ Đông Giang và phải ngủ lại đêm 29/4.

    Triệu Quốc Mạnh thay Tướng Nguyễn Khắc Bình đã thả 300 tù VC rồi từ chức.

    Đã có hơn 150 chiến đấu cơ VNCH di tản sang Utapao.

    Tướng Phú tự tử bằng thuốc sốt rét Novakin tại nhà.
    Sau khi bị cộng sản Bắc Việt bắt sống hồi 1954 với cấp bậc Đại úy, ông được thả nhờ sinh viên học sinh ở Saigon biểu tình áp lực trước cửa phái bộ Bắc Việt do Văn Tiến Dũng cầm đầu hôm 20/7/1955.

    Chỉ còn 136/219 vị dân cử lưỡng viện đến Quốc Hội bầu Big Minh làm Tổng Thống.
    Lý Qúy Chung đề nghị đầu hàng VC nhưng Tướng Minh không chịu.
    CSBV không chấp nhận tướng Đôn hay ông Lắm làm Thủ tướng vì 2 người này là "tay chân của Thiệu". Ông Lắm từng kí HĐ Paris và bị TT Thiệu bãi chức do khi kí đã "hug" VC Nguyễn T. Bình. Ông Huyền từ chối chức này để tránh tiếng là thân Công giáo (CG).
    Cựu Tướng Pháp Vanuxem, cố vấn TT Thiệu đến gặp Big Minh bảo đừng đầu hàng; chờ Liên-xô, TQ can thiệp.
    Sau khi Big Minh tuyên bố đầu hàng lúc 10:20 sáng 30/4, bồi bàn "Joseph" nằm vùng ở Caravelle Hotel la lớn "C'est fini, c'est fini!" (thế là xong!)

    Một đám sinh viên Vạn Hạnh do Nguyễn Hữu Thái cầm đầu chiếm trường Đại học Vạn Hạnh; tự xưng là "Phật tử Yêu nước" rồi 2 giờ sau tự xưng "Hội Đồng Cách Mạng" in giấy phép đi đường cấp cho quân cán chính VNCH.
    Thái một mình đến Ấn Quang nhờ VC Thích Trí Quang thuyết phục Big Minh đầu hàng VC và thông báo cho MTGP 10 trung tâm Phật Giáo (PG) để họ tránh đừng pháo kích nhưng MT không trả lời! Thái nghe Vũ V. Mẫu nói trên phôn "nhờ Trí Quang xin MTGP cho một số viên chức nội các rời VN và cho đại diện quân sự của Big Minh gặp MT để thảo luận đầu hàng".
    Thái rời trường Vạn Hạnh đi tìm Lý Qúy Chung tại dinh ĐL để xin vào đài phát thanh nhưng tài xế không chịu đi.
    • Thái (cha là Sĩ quan VNCH) tâm sự y theo VC khi gặp chúng trong tù hồi 1964 khi y biểu tình chống Chính phủ Nguyễn Khánh. Thái được Đ. Tá Mỹ Wilson, cố vấn của tướng Kỳ che chở nên bị VC nghi ngờ và bị thất sủng sau này. Thái bị bắt lần 2 năm 1966 tù 2 năm; ra tù vào bưng ở Quế Sơn, Đà Nẵng nhưng VC không tin dùng. Y bị động viên vào TTVB Thủ Đức năm 1968. Y giúp VC với bí danh "Hai Hòa" phụ trách giao liên với nhóm VC ở Ấn Quang; tổ chức ám sát Trần Q. Bửu 2 lần hụt nhưng thành công giết Gs Bông. Ra tù 1974, Thái lại liên hệ nhóm Ấn Quang và Mẫu nên được có mặt trong dinh ĐL hôm 30/4.
      Y than "vào Đảng không dễ" vì lí lịch và giai cấp; hơn nữa y trông cậy vào tổ trưởng VC vụ giết Gs Bông để tên này khai tên y ra mà lập công; khốn nỗi tên VC này lại hợp tác với địch để tránh bị án tử nên mộng vào đảng CS của y tan thành mây khói!
              
    Big Minh được CSBV thả hồi 7:30 tối 2/5.
    Big Minh từng là sinh viên Y khoa ở Hà Nội, nơi ông quen biết Huỳnh Tấn Phát hồi 1945.
    Lễ trả tự do có mặt chính ủy Bùi Thanh Khiết, Tướng Trà - chủ tịch Ủy Ban Quân Quản và Cao Đăng Chiếm phụ tá. Trà phát biểu tuyên truyền:
    • ". . .vinh quang dành cho mọi người Việt".
    Big Minh đáp từ:
    • "Tôi 60 tuổi hôm nay vinh dự được một lần nữa làm công dân Việt Nam tự do"!
    Big Minh và nội các được miễn tù cải tạo. Nhà ông nay không còn VC canh gác nhưng phôn bị cắt và ít ai còn lui tới.

    Nhà PTT Huyền ở 181 Hồng Thập Tự cũng vậy. Ông Huyền tiết lộ có một số SQ. VNCH đến nhà Big Minh phản đối lệnh đầu hàng nhưng tướng Minh trấn an được họ nên cũng êm.

    Vũ V. Mẫu xác nhận "lực lượng thứ ba" không còn hiện hữu.

    Nguyễn Văn Hảo được mời vào dinh ĐL để báo cáo về kinh tế. Hảo nộp 16 tấn vàng cho VC theo luật quốc tế và có lẽ cũng để lập công. Bọn cầm quyền ở Bắc Bộ Phủ đã chia nhau bỏ túi số vàng này; tổng cộng 27 tấn (Bùi Tín-MMTK tr.147). Hình ảnh căn nhà dát vàng của Nông Đức Mạnh hiện nay là một bằng chứng hùng hồn.

    Tin đồn TT Thiệu lấy đi 16 tấn vàng do chính CSBV và VC tung ra; nguyên văn
    • "cho đến ngày 26/4 khi Thiệu và gia đình hắn đem 16 tấn vàng bạc, đô-la, của cải vội vã chạy sang Đài Loan. . ."
      (Văn Tiến Dũng -ĐTMX trang 249)!
              
    Trường Vạn Hạnh nay là trung tâm "cách mạng". Sinh viên đeo băng hiệu màu vàng của trường và làm việc không lương suốt ngày.
    • Trong sân và 2 phòng lớn có hơn 1,500 súng carbin, 2,600 M16, 400 M72, 174 M79 và 3 thùng súng ngắn.
      Bên ngoài đường có 14 quân xa;
      tất cả do cựu binh VNCH đem đến nộp và trình diện.
    Nhóm 15 sinh viên Vạn Hạnh lấy súng và lựu đạn của binh sĩ BĐQ bỏ lại trường để chiếm phân khoa Nông Nghiệp trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm cạnh đài phát thanh.
    Một sinh viên VH bị một CSQG bắn chết khi la lớn mừng MTGP.

    Bộ đội BV và "cách mạng 30" (CM30) đeo súng M16 đến chiếm Maxim Hotel cạnh Majestic Hotel ở bến Bạch Đằng.
    Một CM30 bắn thị oai để giải tán đám đông bu quanh hai cô gái "ăn sương" cãi lộn trước Continental Hotel đã bị hai bộ đội lại tước súng.







    4/ Saigon Đổi Chủ:

    Đài TV Saigon tái hoạt động hồi 7g tối 1/5 với hình ảnh cờ xí BV & MTGP và chân dung HCM.
    Sau đó, Huỳnh Tấn Mẫm phát biểu và một VC đọc lệnh cấm lưu hành "văn hóa đồi trụy" Saigon.

    Ba ngàn người kể cả một số cảnh sát viên lánh nạn ở bệnh viện Grall của Pháp đã ra về hôm 2/5.

    Bưu điện Saigon mở lại hôm 7/5.

    Con gái của Nguyễn Hữu Thọ (Chủ tịch MTGP) di tản đi Mỹ với "chồng" người Mỹ.
    Một cựu bộ trưởng của MTGP từng là bồ của một sĩ quan cảnh sát VNCH cũng đã theo di tản ra nước ngoài.

    Thống đốc Lê Q. Uyên, phụ tá và toàn bộ ban quản trị Ngân hàng quốc gia VN bị bắt tại sở làm cùng toàn vẹn 27 tấn vàng.
    Ông Uyên tốt nghiệp ở Pháp; tuổi chưa đến 40. Ông kẹt lại vì đã đem vợ con vào ngân hàng chờ máy bay Mỹ đến đón nhưng có lẽ đã không nghe thấy tiếng phi cơ. Ông được mời vào dinh ĐL nhưng sau cũng bị tù cải tạo.
    Có mấy tin đồn:
    • TT Thiệu nhờ hãng hàng không Thụy sĩ Balair chở 16 tấn vàng đi gởi nhưng bị từ chối,
      vàng được chôn bí mật ở Thủ Đức,
      vàng được gởi trong két của Banque Francaise d'Asie.
    VC Lê Minh Châu nay làm giám đốc Saigon-Gia Định National Bank.

    Lý Qúy Chung nịnh bộ đội có mặt trong dinh ĐL; nguyên văn
    • "mọi vinh quang đều thuộc phần các anh!".
              
    Một cán bộ tập kết tên Cổ Tấn Chương tức "Bảy Phan" cùng đồng chí đến chiếm bưu điện Saigon. Hai tháng sau, y phụ trách kiểm duyệt văn hóa.
    Mẹ già và anh chị em của y vẫn ở Rue Foucault phía sau nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi từ hồi 1945 đến nay. Y cũng có anh em là sĩ quan VNCH. Y từng học Lycée Chasseloup Laubat Saigon trước khi theo VM ra bắc. Anh thứ 3 của y là Đại tá KQ.VNCH di tản sang Mỹ.

    Bộ đội chiếm tòa đại sứ Anh vẫn ngủ bằng "võng Trường Sơn" giăng trong tòa nhà này; có lẽ sợ bị đầu độc?!
    Toán bộ đội khác vào tòa đại sứ Ý của đại sứ Rubino đã về nước; khoe tìm thấy "máy nghe lén" (máy massage) của CIA "cài đặt" bên trong nệm giường ở đây!?

    Cảnh tượng chiếm đóng đa dạng:
    • Lính BV không tuân thủ đèn đường;
      giặt quần áo treo đầy hàng rào dinh ĐL. Họ dùng gỗ thùng đạn để nấu cơm ngay tại công viên trước dinh.
              
    Lệnh giới nghiêm từ 6g chiều nhưng không ai chấp hành.

    Dân Saigon nhận diện để phân biệt sĩ quan và lính BV qua số bút gắn túi áo của chúng:
    • nhiều bút cao cấp hơn ít bút;
      không bút là lính quèn?!
              
    Một tu sĩ PG leo lên xe tăng CSBV trên đường Công Lí để ôm hôn các cán binh trên xe.

    Một nhóm CM30 ở đường Lê V. Duyệt gần khám Chí Hòa la lớn và đi xé cờ VNCH và các biểu ngữ.
    Một tăng CS án ngữ cổng nhà tù này rồi một cán binh xuống xe cám ơn đồng bào đã ủng hộ "cách mạng" và loan báo 7,000 tù ở đây đã được thả.

    Một sĩ quan BV cấp cao đến thăm một linh mục già ở Hố Nai; cám ơn ngài đã cứu cha mình hồi 1953.


    Lần đầu tiên, kỷ niệm chiến thắng ĐBP được tổ chức ở Saigon hôm 7/5/1975.
    Toàn bộ lãnh tụ MTGP đều có mặt; trong đó có Tướng Trần V. Trà.
    • Trà sinh 15/1/1918 ở Quảng Ngãi, gia đình nông dân, có nhiều bí danh từ 1939-1944 như Sing Tich, Lê V. Thắng, Anh Tư Chí ..vv.. Y sang Tàu tháng 2/1949, Nga tháng 12/1949; chỉ huy khu Saigon-Cholon từ 1952 và đánh An Phú Đông, Thủ Đức hồi 1968.
      Y xác nhận đã giết kí giả Pháp Lucien Bodard hồi thập niên 1950s.
      Y khoe vợ đẹp tên Lê T. Thoa và con gái luôn sống ở Saigon không bị phát giác.
      Y đeo 1 sao hồi 1958 khi chỉ huy SĐ 330 CSBV; vào nam 1964 đeo 2 sao từ 1973 dưới quyền N. Chí Thanh.
      Trà chơi máy ảnh và là "phó nhòm" duy nhất được Phạm Hùng cho chụp ảnh.
              
    Võ N. Giáp mặc thường phục cùng đi với 2 cận vệ rảo khắp Saigon sau 30/4 mà không ai hay biết.







    5/ Nam Việt Bìm Leo:

    Lm Chân Tín xin ra Côn Sơn thả tù CS để lập công nhưng không được phép. Ông ngượng ngùng bảo Terzani:
    • "đã xong cả mà không cần chúng tôi".
    CS tỏ ra rằng nay họ tự giải phóng tù của họ mà không cần tay sai hay quốc tế.

    Lm Nguyễn Gia Thụy trở lại Côn Sơn hôm 27/4 yêu cầu Đ.Tá Lâm Bùi Phương thả tù chính trị nhưng bị từ chối. Ông đại tá giám đốc nhà tù này di tản bằng ghe rồi bị VC bắt ở Bến Tre.
    Lm Phương cùng các cai tù Dậu, Hiên, Đông mở cửa tù cho VC. Trong đám tù VC Côn đảo có Lê Quang Vinh Gs Pétrus Kí, "kĩ sư Tinh", Bùi Hữu Nhan theo VM từ 1945, Lê Cầu tù từ 1962. . . Trại tù này về tay VC từ 2 giờ sáng.
    Dậu cùng Vinh, Phan Tư lập BCH và ra lệnh bắt cai tù "Bảy Dũng", Ching Kuang và 20 người khác; giao lại cho bộ đội BV hôm 4/5.
    Tất cả tù Côn đảo được đưa đến Vũng Tàu hôm 6/5 để thanh lọc.

    Lm "hốt rác" VC Phan Khắc Từ cầm cờ máu cùng một số CM30 xông vào trụ sở Tổng Công Đoàn Liên Đoàn Lao Động VN ở số 14 Lê V. Duyệt ngay sau hôm 1/5. Y phân công cho đệ tử gác cổng rồi cùng CM30, dân thất nghiệp, nằm vùng và côn đồ đi xé các biểu ngữ cũ; làm và treo các bảng "Hội Đồng Nhân Dân CM", xé bỏ các ảnh Trần Q. Bửu bắt tay TT Thiệu và Đs Bunker.
    Y ngồi vào bàn của Tr. Q. Bửu; tuyên bố sẽ lập Tổng Công Đoàn Giải Phóng và cho in lại tài liệu công đoàn XHCN dùng trong vùng VC kiểm soát.
    Vợ của Lm Từ đảng viên CS, hồi 2014 đã phổ biến trên Internet thư xác nhận mụ là vợ Lm Phan Khắc Từ.


    Những kẻ nằm vùng và CM30 nay ra mặt xông xáo khắp miền Nam.
    • Một bà bán nước mía lâu năm ngay trước cổng Ty CSQG Quảng Ngãi nay là thành viên HĐCM tỉnh.

      Một kẻ "điên" ăn xin lâu năm ở trạm xe bus và thường la hét giữa đồng ruộng; nay là sĩ quan VC ở tỉnh này.

      Một "gia đình" sống gần Hotel Anh Đào ở BMThuột; nay là nhóm chỉ đạo MTGP với tên họ không liên hệ huyết thống.

      Bồi bàn Bình của Kim Hoa Restaurant ở góc Pasteur-Lê Lợi Saigon nay là cán bộ VC trở lại để chỉ huy.

      Một bà lao công của Saigon Cercle Sportif nay là cán bộ cao cấp của MTGP.

      Cận vệ trẻ của Lm Trần Hữu Thanh nay là bộ đội du kích MTGP.
      • Lm Trần Hữu Thanh, người ủng hộ chế độ cũ và tôn thờ quốc kỳ có "3 sọc đỏ cũng là Ba Ngôi Thiên Chúa" (Trinity) được Trịnh Đ. Thảo mời vào dinh ĐL đề nghị cộng tác nhưng ông từ chối khéo. Ngay sau khi VC chiếm dinh ĐL, một nhóm "VC chiêu hồi" mà Lm Thanh giúp tìm việc làm; nay tìm thăm ông và cho biết họ hiện là du kích xâm nhập trá hàng!
                
      Thư kí Trần Thị Lan của bà Ngô Bá Thành nay là cán bộ VC.

      Hai sĩ quan phụ tá của Đại tá Đỗ Việt ở Cục CTCT nay là VC.

      Tên "Joseph" bồi bàn ở Continental Palace Hotel (CP) sau 30/4 lộ mặt VC nằm vùng: Y qui tụ nhân viên hôm 19/5 để mừng sinh nhật HCM rồi tố cáo ông Lợi quản lí là tư bản "bóc lột".
      Ông Lợi bị đuổi rồi lâm bệnh.
              
    Những ông bố "vô danh" hay "chết" trong giấy khai sinh của con em vùng sôi đậu nay về thành đoàn tụ với "vợ góa", "con côi"! Soeur giám đốc một viện mồ côi CG ở Bến Tre bất lực nhìn mấy "trẻ mồ côi" của mình bị (cha mẹ chúng) bắt cóc đem đi giữa ban ngày!
    • Sau 3 tháng "giải phóng", 1/2 trong số các "trẻ mồ côi" như thế được cha mẹ VC (tập kết, nằm vùng) đem về nhà từ các trại mồ côi CG, PG hay của chính phủ VNCH!
              
    Phan Văn Thao, lãnh tụ VC ở Mỹ Tho trước 30/4 lấy tên giả đóng vai chủ vựa lúa, để ria mép, đeo kính trắng; sau 30/4 mới lấy lại tên thật sinh năm 1927 (đã khai tử năm 1956), bạn học của Th. Tá VC Phương Nam cùng quê; học ở Lycée Le Myre de Vilers (sau này là Ng. Đ. Chiểu).
    • Phụ tá của Thao là Lê Thanh Hiên sinh 1937, một Đại úy VNCH nằm vùng chuyên cung cấp tin tức và sơ đồ hành quân cho Thao. Hiên vào đảng CS từ 1960 rồi hợp tác với Thao từ 1967.
    Thao tự xưng là anh em họ của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm nên Khiêm biết y là VC mà vẫn làm lơ!? Thao cũng khoe hôm 25/4 đã dùng Honda lên Saigon gặp Khiêm để khuyên ông ta ở lại VN nhưng Khiêm nói ông phải đi vì sợ CIA?!






    6/ Saigon XHCN:

    Chợ trời Tôn Thất Đạm đông tấp nập ngay hôm 1/5.

    Nhiều bộ đội học lái xe Honda lấy được của dân di tản.

    Dân Tàu Cholon hạ cờ Taiwan và ảnh Tưởng để treo cờ TC và ảnh Mao.

    Dép râu, ảnh Hồ và cờ BV, MTGP được Cholon sản xuất để kinh doanh. Bộ đội bảo con buôn: "Bác chỉ để tặng; không được bán"!

    Một đồng tiền BV đổi $2,000 VNCH ngoài chợ đen.

    Bộ đội "biến chất" đem xăng, rượu cognac, whisky chiếm được để đổi đồng hồ, kính râm, xe đạp và "đài" (radio).

    Xăng Mỹ màu tím nay được thay bằng xăng Liên-xô màu vàng do bộ đội "thoái hóa" trộm bán ngoài chợ trời.

    Có một tá bộ đội bị ám sát chết và 30 cuộc xử tử trộm cướp ở Saigon do bộ đội gây ra trong ba tháng chiếm đóng.

    Một bộ đội ngố ở chợ Hai Bà Trưng kiên nhẫn suốt mấy giờ đứng chờ một cậu bé đem xe đạp lại trả sau khi nó được cho "mượn đỡ vài phút"!
    Nhiều bộ đội ngố mua lầm đồng hồ Seiko giả của HongKong.

    Ngoài đồng hồ và "đài" (radio), máy ảnh Polaroid rất được bộ đội BV chiếu cố. Tuy không phải loại 3-D nhưng ảnh chụp lấy liền cho thấy hàm trên răng vẩu chìa ra khỏi cái mồm cười toe toét của mấy bộ đội trẻ quê kệch trông có vẻ lớn hơn răng thật (chắc vì cận ống kính nhất)?!

    Một bộ đội con của Trần Huy Liệu (chết 1969) tên Trần Thành Công (đổi từ Trần Huy Công sau "giải phóng") khoe đã mua dĩa Beethoven ở chợ trời đường Lê Lợi vì biết tiếng Đức; từng học ngành hóa chất ở Leipzig, Đông Đức; nay là họa sĩ.

    Khu cổng TSN cũng biến thành chợ trời đông nghẹt.

    Sách cũ bày bán vội ở hiên Cafe Rex để tránh bị cấm sau 22/5 theo thông cáo hôm 15/5 của UBQQ.


    Nhật báo độc nhất SGGP chỉ phát hành mỗi ngày không quá vài ngàn tờ; tin tức một chiều đơn điệu gây nhàm chán nên từ tháng 7/1975, bọn CM30 chỉ mánh cho VC mở thêm mục vu khống chế độ cũ; bịa đặt những bí ẩn giật gân để in thêm báo câu khách. Các tin giật gân gồm:
    • Tướng Đặng Văn Quang buôn lậu ma túy và giàu có! (VC chống TT Thiệu tất phải bôi bẩn các phụ tá đắc lực của ông. Nếu có bằng chứng, CP Mỹ, Canada và tòa án quốc tế đã chẳng để ông yên thân).
      Đường dây gạo lậu trước đây do bà Ngô Thị Huyết, dì của TT Thiệu cầm đầu!
      Cao Giao của Newsweek VC nằm vùng ở Saigon còn bịa đặt rằng TT Thiệu bận giao du với gái 14-15 tuổi do tay chân cống hiến!
              
    Ngoài Tướng nằm vùng thật Ng. Hữu Hạnh, tin đồn Tướng VNCH Đồng V. Khuyên, bà con với tướng VC Đồng Văn Cống là sai. CP Mỹ đánh giá Tướng Khuyên là tài ba, cần mẫn và thanh bần nhất của VNCH. Tướng Khuyên không có nhà riêng; vợ chỉ nuôi gà phụ đồng lương của chồng ở trong khu gia binh TTM.

    SGGP số ngày 3/7 đăng thư của "độc giả" CM30 Lê Hữu T. đề nghị cấm dân Saigon nghe "đài ngoại" như VOA, BBC; đài mà Ph.V.Đồng, Võ N.Giáp, Ng.V.Linh nghe hàng ngày (Bùi Tín-HXT tr18).

    Các rạp hát nay chỉ chiếu phim Hà Nội về HCM, "anh hùng" Ng.V. Trổi..vv.. Phim Liên-xô, TQ chiếu rất ít ai mua vé coi.


    Phần lớn giáo sư đại học Y khoa di tản (Nha khoa đi 1/2) nhưng GS ngành kiến trúc hầu hết ở lại. GS khoa xã hội do Mỹ đào tạo bị đi tù "cải tạo".

    Trường Vạn Hạnh mở lại tháng 7/75.

    Chiến dịch xóa dấu vết văn hóa Saigon bắt đầu với việc giật sập tượng TQLC trước tòa nhà quốc hội VNCH hồi 10:30 sáng 5/5.

    Một nhóm CM30 (kiểu vệ binh đỏ Tàu Cộng) ở chợ Bến Thành xúm cắt ống quần "patte" (ống loe) của một cô gái Saigon; đã bị bộ đội buộc phải bồi thường cho nạn nhân.

    Đám SVHS "CM30" có trụ sở ở đường Duy Tân chia làm nhiều toán hôm 23/5 đi từng nhà thu gom sách báo "đồi trụy". Nhiều tóan bị chủ nhà chận cửa hoặc đuổi ra ngoài.
    • Sách "Love Story" bị đốt. Sách của Steinbeck viết trước kia không bị cấm nhưng sách viết sau khi ông đến VN với lập trường ủng hộ quân đội Mỹ thì bị thu. Sách của Solzhenitsyn bị cấm tuyệt.
      Vụ phản kháng mạnh nhất là tại lề đường Nguyễn Kim: nhóm CM30 thấy có vài tờ Playboy bèn lấy cớ đòi tịch thu hết số sách báo bày bán còn lại. Người bán, một cựu binh VNCH nổi giận lấy ra một quả lựu đạn rút chốt khiến ông và 3 "CM30" chết banh xác!
              
    Nhiều xe tải chở sách giáo khoa "cách mạng" từ Hà Nội vào Saigon; cất ở VP báo chí cũ ở đường Tự Do để cung cấp cho các trường.

    Buổi hòa nhạc đầu tiên được tổ chức tại tòa nhà quốc hội cũ có Nguyễn Hữu Thọ dự. Bản "La Donna el Mobile" của Rigoletto được hát bằng tiếng Nga.







    7/ Vắt Chanh Bỏ Vỏ:

    Bọn CM30 bị giải tán sau 3 tuần lễ "làm cách mạng".
    Một số vào bộ đội khi có đợt tuyển quân hồi tháng 6/1975 để làm bia đỡ đạn sau này bên Kampuchia.

    Bọn quân quản xuất thân du kích và nằm vùng các địa phương sau này đều bị phế thải.

    Ngay cả bọn MTGP ở trung ương đều bị thất sủng gần hết.
    • Trương Như Tảng vượt biên, tên phụ tá tự tử vì bị vợ con chửi và làm nhục (hồi kí "Truong Nhu Tang: Mémoires d'un Vietcong" [1985]).
    • Bản thân tướng Trà bị cấm ra mắt hồi kí "Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng" hay "Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm" hồi 1987 (có số lượng nhỏ in lại ở hải ngoại)
      được cho là giành công với Văn Tiến Dũng qua hồi kí "Đại Thắng Mùa Xuân", NXB.QĐND 1977 trước đó.
      Cựu Tướng Trà sau bị đầu độc và chết trong một bệnh viện ở Singapore; tựa như số phận Nguyễn Bá Thanh sau này vậy!
              

    Số phận nhóm phản chiến CG:
    • Báo "Đối Diện" thân VC của Lm Tín ra hồi tháng 7/1969; sau trao cho cựu Lm Ng.Ngọc Lan đổi thành "Đồng Dao" rồi "Đứng Dậy" trước 30/4. Sau 30/4 báo bị cấm hẳn.
      Ng. Ngọc Lan tâm sự:
      • "tôi liên lạc lần đầu với Mặt Trận hồi 1968 khi Gs Luân đem tôi đến vùng GP Bến Lức gần Mỹ Tho. . .anh em và bạn bè tôi quyết định hợp tác với người Marxist và chúng tôi sẵn sàng nhận lệnh từ du kích quân . . .nhưng cán bộ bảo không cần tôi sang phía họ; chỉ cần GHCG đứng ngòai cuộc chiến".

      Lm Lan sau này lấy vợ và có đứa con gái; bị VC thất sủng và ám sát hụt súyt chết mấy lần.

      Tờ "CG và DT" số ra ngày 10/7 đăng chuyện (tuyên truyền lố bịch) ở giáo xứ Bắc Tiến, Gò Vấp:
      • "Một bà ôm bộ đội nói 'cám ơn anh đã vào giải phóng kịp bằng không chúng tôi đã rơi vào tay CS và chịu số phận tử đạo!'.
        Anh bộ đội nhìn bà ngạc nhiên, trả lời 'nhưng tôi vừa là CG vừa là CS!".
      Chủ bút là Lm Nguyễn Đình Thi trong nhóm phản chiến từ Paris về.

      TGM Bình hợp tác với chế độ và ủng hộ nhóm phản chiến các Lm Thi, Tr. Bá Cần, Huỳnh C. Minh và Chân Tín. Lm Minh vẫn còn là tai mắt của chế độ bên trong Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn.
              
    Ông Ngô Công Đức nổi tiếng thế giới với tựa đăng trên báo Tin Sáng của ông "Yankee Go Home!" khiến ông phải sống lưu vong ở Bangkok; sau 30/4 đã trở về Saigon qua ngả Hà Nội để gặp Phạm V. Đồng. Hôm 6/6, ông Đức được Nguyễn Hữu Thọ mời vào dinh ĐL. Ông tuyên bố vu vơ
    • "tôi không phải cộng sản nhưng biết đâu có ngày thành CS cũng nên!".
    • Ông sinh năm 1936, cháu của TGM Bình. Cha là địa chủ bị VM giết. Ông chống cộng kiểu cố TT Diệm (chống đem quân Mỹ vào VN) nên báo TS bị tịch thu 282 lần trước khi bị đình bản hẳn tháng 2/1972. Sau 2 lần bị ám sát hụt; có lẽ để cảnh cáo, ông phải qua Thái ẩn dật. Ông từng được ĐGH Paul VI tiếp kiến. Thụy Điển cấp passport cho ông đi công du các nước để chống can thiệp Mỹ. Trong chuyến Âu du tháng 7/1973, ông đã gặp Phạm V. Đồng.
    Sau 30/4, nhóm 29 người của ông Đức được miễn tù "cải tạo"; tuy nhiên báo Tin Sáng chỉ được tái bản một thời gian ngắn.







    8/ Tống Cựu Nghinh Tân:

    Trước 30/4 có khoảng 400 kí giả nước ngoài ở VN;
    150 đã di tản trước khi Tân Sơn Nhất đóng cửa.
    Số 127 kẹt lại sáng 30/4 được chở đi Vientiane- Lào hôm 24/5 bằng 2 chiếc Ilyushin; trong đó có Tướng Vanuxem.

    Kí giả Pháp Michel Laurent bị lạc đạn chết trên đường đi Xuân Lộc.

    Nhiếp ảnh viên Jean-Claude Labbé bị bộ đội chận xét vì đeo băng đỏ và huy hiệu HCM.
    Khi anh ta trình thẻ đảng viên CS Pháp, tên bộ đội đưa tay lên vành nón cối chào và nói "cám ơn đồng chí!".

    Hai phái đoàn ICCS Poland và Hungary được VC tổ chức tiệc tiễn về nước chiều 7/5.
    Khách gồm tướng Trà, Đ.tá Dương Đ. Thao, nữ Th. tá Phương Dung.

    Sứ thần Vatican, TGM LeMaitre gốc Bỉ bị bọn CG phản chiến xua đuổi theo lệnh VC hôm 3/6 nên bộ đội chỉ đứng nhìn không can thiệp; nhưng khi 300 giáo dân từ đường Trương M. Giảng đến giải vây cho ngài thì bị nổ súng chận ở góc Trương Tấn Bửu khiến 3 bị thương và một số bị bắt.
    Tại TSN sau khi bị trục xuất, sứ thần Vatican LeMaitre bị VC khám kỹ hành lí và chiếu đèn quay phim.


    VC trổ tài chơi xỏ -biệt tài vô địch của chúng- các đồng minh cũ của VNCH:
    • Chúng mời cựu đại sứ Pháp Merillon đến dinh ĐL dự lễ chiến thắng hôm 15/5 nhưng lại cố tình in sai giờ khiến ông bị tẽn tò!
      VC không ra lệnh trục xuất nhưng chỉ lặng lẽ đuổi ông đi hôm 5/6. Vì chỉ có máy bay của International Red Cross và UNICEF thuộc LHQ được đáp nên mãi đến tháng 6 mới có tên ông: "Jean-Marie Merillon, Nationalité Francaise, né 1926, Passeport numéro 593".
      Ông đi cùng các giáo sư và y tá Pháp bị trục xuất cùng lượt. VC vớt vát cho ông đỡ "mất mặt bầu cua" bằng một trò tiểu xảo: đuổi hết hành khách xuống sân bay rồi mời ông, hành khách đầu tiên được lên lại máy bay!
      Hành lí của ông do một phụ tá xách đã bị một bộ đội khám xét: VC tỏ thái độ cho Merillon biết ông không còn được hưởng qui chế miễn trừ ngoại giao vì "tội" đã làm đồng minh của kẻ thù chúng.
              






    9/ Cướp Đoạt và Trả Thù

    Hãng bia BGI bị chiếm sáng 30/4.
    Hơn 2,000 công nhân tịch thu súng của vài lính gác rồi lập HĐCM 5 người. Chủ tịch là Huyền Ngọc Thanh 50 tuổi từng bị tù 3 năm ở Chí Hòa về tội nằm vùng trong TCĐ để cung cấp thuốc tây cho VC trong bưng. Gia đình chủ Pháp nay chỉ còn là chuyên viên kỹ thuật của BGI. Chính ủy nay là Ng.Nam Lộc 53 tuổi từng là CT.CĐLĐ trong vùng VC; hồi 1956 nằm vùng coi kho nhà đèn Saigon bị bắt; ra tù 1961 rồi vào bưng.

    Hãng pin Con Ó cũng bị tịch thu.

    Tiệm vàng Bảo Chu ở 165 Tự Do nay phải bán cháo $150/chén.

    Continental Palace Hotel do Mathieu Franchini làm chủ từ thời Pháp. Con trai Philippe kế thừa sau khi ông qua đời; đã trao cho ông Lợi quản lí‎ vì anh ta mê hội họa hơn kinh doanh và thường xuyên sống bên Pháp. Philippe sang Saigon trước 30/4 một tháng để bán khách sạn này nhưng bất thành.
    CP Hotel bị bộ đội tịch thu hồi tháng 6/75 rồi đuổi nốt hai khách trọ cuối cùng là hai kí giả Terzani của Italia và James Fenton của Anh.

    Givral Hotel từng được đổi tên thành Garden Hotel khi chủ Pháp về hưu mở tiệm bánh kế bên và bán lại bar cho người Tàu Cholon thời Mỹ vào VN. Nhưng mọi người đều thích gọi tên cũ. Đây là trung tâm gián điệp lớn nhất và nhộn nhịp nhất ĐNÁ thời đó. Gián điệp đã cung cấp tin BMT thất thủ sớm nhất cho kí giả Pháp Paul Leandri của AFP khiến ông bị CSQG bắn chết ngay trước cổng BTL ở Saigon hồi tháng 3/75 sau khi ông gởi tin này đi.
    Một cảnh thương tâm xảy ra ở Givral trước ngày bị tịch thu: phụ nữ tên Phụng, ca sĩ, bị người tình quận trưởng (Q. X?) bỏ rơi sau khi di tản với vợ con; đã đến lảm nhảm điên loạn một mình suốt ngày.

    Xe hơi tư bị tịch thu và xung công; mang các bảng số "K1, K2, K3 . . ." để phân biệt ban ngành.

    Xe gắn máy, quạt trần (bị ngộ nhận là "máy chém" lúc đầu), TV, quạt bàn, phonograph, stereo cassette . . .bị gom chở về BV như chiến lợi phẩm.

    Chiến thuật cướp đoạt tài sản của VC bắt đầu với 300,000 dân Saigon bị đuổi đi "Kinh Tế Mới" 3 tháng sau ngày 30/4;
    • và nhất là cuộc đánh tư sản và đổi tiền sau đó chỉ là đợt 2
      sau vụ cướp 27 tấn vàng trong ngân hàng QGVN.
              

    Hàng ngàn "tòa án nhân dân" mở ra khắp miền Nam sau 30/4. Nạn nhân là các chiến sĩ quốc gia nhiều công trạng như
    • Lê Trình ở Quảng Ngãi hôm 17/4,
      xã trưởng Túy ở Tân Quí Đông, Nhà Bè hôm 4/7,
      Thiếu Úy Lê Nhật Thanh ở Châu Đốc hôm 12/7,
      Lê Văn Hội hôm 19/6 ở quận Bình Hòa với những chứng cớ viển vông đến độ "quan tòa" cũng không thể kết án tử hình!
              
    Cha xứ nhà thờ Vinh Sơn ở đường Trần Q. Toản Saigon bị vu cáo và bắt đi thủ tiêu ..vv..

    Một Đại úy viết báo tường do VC tổ chức trong một nhà tù ở Vĩnh Long đã dại dột khai thành tích thắng trận giết nhiều VC; tịch thu nhiều súng AK47 vẫn còn nguyên trong bọc mỡ bò hiện chôn dưới lòng sông. . . khúc. . .; thay vì được về sớm như mong đợi thì đã bị ra pháp trường ngay hôm sau!

    GM Thuận, cháu cố TT Diệm, bị bắt tù giam ngoài bắc lâu năm; sau bị trục xuất sang Úc, nơi mẹ ngài tỵ nạn.







    10/ Kết Luận:
    • Giậu đã đổ hôm 30/4/1975; chỉ còn hồn thiêng màu cờ tồn tại;
      nhưng bìm thì vẫn leo suốt 40 năm qua;
    thậm chí còn vươn cánh tay dài ra tận hải ngoại khắp 5 châu lục để ăn sâu bám rễ. Chúng núp danh nghĩa ngoại giao, kinh doanh, du lịch và tôn giáo để hoạt động kinh tài cho VC qua việc bòn rút hầu bao nạn nhân của chúng; những người từng bị VC cướp trắng tay 40 năm qua; từng bị giam hãm đọa đầy khổ sai nhục nhằn; thân nhân bị mất mạng trong rừng sâu nước độc có tên mỹ miều là "trại cải tạo" và vùng "kinh tế mới"; hoặc dưới đáy đại dương sâu thẳm mênh mông tăm tối. Nay bị chứng "dementia" hay thậm chí "Alzheimer" tự nhiễm nên có kẻ đã chóng quên bài học còn rướm máu; thậm chí còn manh tâm đón gió trở cờ để được VC cho chấm mút và làm tay sai.

              
    Họ lợi dụng Dân Chủ để được bảo vệ trước pháp luật bản xứ;
    lợi dụng Tự Do bản xứ để chửi quân cán chính VNCH,
    những người đã hy sinh cho họ được an lành ấm no
    suốt 20 năm điêu linh ở miền Nam vì mưu đồ bán nước của CSBV.

    Họ đồng lõa với quan thầy VC trong âm mưu dìm hồn thiêng sông núi vào vũng bùn bồn rửa;
    bôi bác một tôn giáo đã có công sản sinh ra chữ quốc ngữ Việt
    và là nền tảng tạo dựng nên cường quốc đang cho họ dung thân phì gia!

    Họ có còn xứng đáng là con người;
    nhất là con người lưu vong biết tự trọng với căn cước tỵ nạn;
    không "nhổ rồi lại liếm" lời thề chống chủ nghĩa Cộng sản
    năm xưa khi xin tỵ nạn chính trị và thi vào quốc tịch bản xứ của chính mình?

    Hay họ chỉ muốn làm thân bìm hoang dại bám víu lên bức giậu xiêu vẹo
    để làm tiền mà sống tầm gửi?
              






    HÀ BẮC
    (tham khảo tài liệu của Nayan Chanda, Tiziano Terzani, Pierre Darcourt, Bùi Tín, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, Trương Như Tảng và các báo chí khác)



              
                         
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: 30/04/2018 - tưởng niệm 43 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




              



              

    Tết Mậu Thân,
    uất hận hằn sâu lịch sử

    _________________________

              

    5/2/2018
    Trời chuyển Đông vào Xuân Mậu Tuất
    hạ bút cẩn nén hương lòng tưởng nhớ nạn nhân vô tội
    bị CSVN sát hại vào dịp Tết Mậu Thân nửa thế kỷ trước
    “bao oan vía buốt giá ủ rũ sương đất
    vạn cô phách đẫm lệ sụt sùi mưa trời”
    Vịnh Thanh







    Rạng Giao Thừa giặc tràn vào cố chiếm đất
    Tết Mậu Thân rã tan giấc mộng thái hòa

    bảy mươi hai quận, bốn mươi mốt thị thành
    lẫn kinh đô đắm chìm trong vành biển lửa
    đất rung chuyển, trời bừng cháy, người mất mạng
    thác là hồn phách song anh linh vĩnh hằng


    Rạng Giao Thừa giặc tràn vào cố chiếm đất
    Tết Mậu Thân thành tiệc máu của cộng quân
    giải phóng hay tàn sát thường dân vô tội?
    Đầu nón cối, vai súng ống, mù quáng tin
    tín điều Xô-viết, thúc giai cấp bạo quyền
    say giết đồng bào vướng xích xiềng cờ đỏ


    Rạng Giao Thừa giặc tràn vào cố chiếm đất
    Tết Mậu Thân thành tiệc máu đãi nô binh
    thành tích chiến thắng hay tội ác nghìn đời?
    Súng đạn, cuốc xẻng, dao phai cùng mã tấu
    chặt đầu, chôn sống, sát hại vô lương tri
    trẻ già, trai gái, hài nhi. Tội chi mô?



    Rạng Giao Thừa giặc tràn vào cố chiếm đất
    Tết Mậu Thân thành tiệc máu trên xác người
    linh mục, thầy dòng đến kỹ sư, bác sĩ
    danh tu, tiểu thương, học giả lẫn sinh viên
    chuyên gia thiện nguyện cùng nhân sĩ xã đoàn
    bị cầm tù, khảo tra, vùi chôn tập thể


    Rạng Giao Thừa giặc tràn vào cố chiếm đất
    Tết Mậu Thân, uất hận hằn sâu lịch sử
    bao oan vía buốt giá ủ rũ sương đất
    vạn cô phách đẫm lệ sụt sùi mưa trời

    tội cộng nô át cả đỉnh cao núi Ngự
    cạn sông Hương bất khả trừ mối thâm thù


    Rạng Giao Thừa giặc tràn vào cố chiếm đất
    Tết Mậu Thân dựng đại trai đàn chẩn tế
    cầu cô linh sương gió, hồn oan vất vưởng
    hoài đức nghĩa sĩ vị xã chính vong thân

    bảo dân vệ quốc tận hơi thở cuối cùng
    cạn sinh đuối mệnh đẩy lùi nạn cộng nô


    Rạng Giao Thừa giặc tràn vào cố chiếm đất
    Tết Mậu Thân, sử Việt khắc tạc thêm chương
    đoạn trường oan khiên song rạng ngời bất khuất
    xuyên viễn trình vất bỏ gông cùm trần ai
    sống tự do nguyền khai sơn phá đồng thạch
    thác nhân từ thề giải sạch oán hận xưa





    Vịnh Thanh



              
    Bạo nhân cầm quyền có thể cố chôn sống sự thật của lịch sử
    Nạn nhân vô tội không thể bị lãng quên bởi lương tâm của ngòi bút
    Dương Dragon Ranch
    3.2.2018

              




              
              


              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: 30/04/2018 - tưởng niệm 43 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    30 Tháng Tư,
              
    43 năm nhìn lại
    _____________________
    Lâm Văn Bé - 13/04/2018









    Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt 43 năm rồi mà tài liệu viết về cuộc chiến tranh nầy vẫn còn phong phú. Không kể các tài liệu còn nằm im trong các kho lưu trữ chưa được khai thác, chỉ kể đến tài liệu các thể loại đang lưu hành trong các thư viện, con số thật khổng lồ.

    Tham khảo thư mục World Cat (World Catalog) vào ngày 10/04/2018,
    • với cụm từ Vietnam War, độc giả có thể tìm thấy 202 070 tiêu đề (notice),
      với cụm từ Guerre du Vietnam có 6 590 tiêu đề
      và với Chiến tranh Việt Nam có 935 tiêu đề,
      đó là chưa kể với những tiêu đề khác như Vietnam History, Histoire du Vietnam, Lịch sử Việt Nam.
    Phải hiểu là với hơn 200 000 tiêu đề như trên được sử dụng trong hàng trăm thư viện trên thế giới với nhiều ngôn ngữ khác nhau, khối tài liệu liên quan đến chiến tranh Việt Nam phải có đến vài triệu.

    Chiến tranh VN được xem như cuộc chiến tranh tàn khốc nhứt trong thế kỷ 20 kể về thời gian, mức độ thiệt hại tài sản và nhân mạng.

    Chỉ riêng về Mỹ,
    • chi phí khoảng 150 tỉ Mỹ kim (thời giá hôm nay gần 1000 tỉ),
      12 tướng, 238 đại tá và 58 000 quân nhân tử trận, 300 000 bị thương.
    Về phía VN,
    • có 7 tướng lãnh và 12 đại tá tử trận,
    số thiệt hại nhân mạng và tài sản cả hai phía thật khổng lồ.

    Sở dĩ chúng tôi đề cập đến khối lượng tài liệu và mức độ tác hại của chiến tranh VN như trên, chúng tôi muốn nói đến nhiều thông tin chính yếu của cuộc chiến, mặc dù đã lần lượt được giải mật, nhưng thực sự không giải tỏa hết được những tranh luận và bất đồng. Đối với người Việt, sự mâu thuẫn trong dữ kiện và nhận định lại còn sâu sắc hơn tùy theo vị trí bên thắng cuộc hay bên thua cuộc, và ngay cả trong mỗi bên.

    Ngoài ra, chiến tranh VN còn trở nên quá phức tạp lúc kết thúc vì có quá nhiều cấp thẩm quyền có mặt trong một thời gian quá ngắn để đối phó với quá nhiều biến cố kinh thiên động địa, do đó chính trong giai đoạn nầy lại có rất nhiều mảng đen. Để làm sáng tỏ phần nào những mảng đen nầy, chúng tôi ghi lại những quyết định chiến lược của những giới chức thẩm quyền trong cuộc chiến tranh nầy để từ đó thử tìm hiểu những lý do chính yếu của cuộc bại trận của miền Nam.







    Bước đầu của cuộc kết thúc: hiệp định Paris (27/01/1973)

    Hội nghị Paris
    • bắt đầu ngày 13-05-1968 với cuộc gặp mặt chính thức giữa Lê Đức Thọ, Xuân Thủy và Averell Harriman, Cyrus Vance vào cuối thời Tổng Thống Lyndon Johnson (đảng Dân Chủ)
    • và được ký kết ngày 27-01-1973 vào đầu nhiệm kỳ thứ 2 của Tổng Thống Richard Nixon (đảng Cộng Hòa).
    Lúc bắt đầu chỉ có 2 bên là Bắc Việt và Mỹ, đến ngày 25/01/1969 trở thành 4 bên có thêm VNCH và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tuy kéo dài 4 năm với hơn 100 phiên họp, nhưng những phiên họp công khai đa số chỉ là những màn kịch diễn lại từ các cuộc mật đàm giữa Lê Đức Thọ và Kissinger tại nhà của Jean Sainteny ở Paris. Hội nghị thực sự kết thúc không phải tại Paris mà tại Bắc Kinh khi Nixon gặp Mao Trạch Đông vào tháng 2-1972, sau 2 năm Kissinger bí mật qua lại để giàn xếp cuộc gặp gỡ. Số phận của Việt Nam Cộng Hòa kể như đã được định đoạt tại đây, Mỹ sẽ rút quân khỏi Việt Nam theo những điều kiện của cộng sản.

    Để trấn an sự lo ngại của Tổng Thống Thiệu về cuộc gặp gỡ nầy, Nixon đã gởi thơ TT Thiệu:
    • White House ngày 31 tháng 12, 1971
      Thưa Tổng Thống,
      Nhân dịp tôi chuẩn bị cho chuyến đi Bắc Kinh sắp tới để nói chuyện với những người lãnh đạo Trung Quốc, tôi muốn chia sẻ với Ông vài quan điểm của tôi về các cuộc đàm đạo tại đó… Ông có thể tin tưởng tuyệt đối rằng tôi sẽ không làm một thỏa thuận nào có phương hại tới các quốc gia khác… Xin Ông tiếp tục tin vào sự yểm trợ của Hoa Kỳ về những nỗ lực của Ông nhằm đem lại hòa bình cho VN và xây dựng nền thịnh vượng mới cho nhân dân VN
      (Nguyễn Tiến Hưng. Khi Đồng Minh tháo chạy, bản chụp nguyên tác bức thơ, tr.79).
              
    Nhưng trong buổi họp với Chu Ân Lai, Nixon lại tuyên bố khác:
    • "nếu như bất cứ người lãnh đạo nào của Bắc Việt chấp nhận cuộc ngưng bắn và trả lại tù binh cho chúng tôi, chúng tôi sẽ rút quân khỏi Việt Nam trong vòng 6 tháng kể từ ngày đó".
      (Richard Nixon. Memoirs, p. 568)
              
    Kissinger lại càng lớn lối hơn. Theo ký giả Elaine Sciolino trong bài Records Dispute Kissinger on His‘71 Visit to China, đăng trong New York Times ngày Feb 2, 2002, căn cứ vào tài liệu giải mật của National Security Archive dựa vào biên bản phiên họp ngày 9 tháng 7, 1971 với Chu Ân Lai, Kissinger đã nói:
    • Chính phủ Nixon đã nhứt quyết rút quân ra khỏi Việt Nam, ngay cả đơn phương dù cho điều nầy đưa đến việc lật đổ chánh phủ miền Nam..
              
    Khi Nixon ra tái cử năm 1972, Nixon-Kissinger ráo riết làm áp lực để TT Thiệu ký vào hiệp định. Một mặt, Kissinger thảo một loạt thơ cho Nixon ký (tổng cộng 27 mật thơ từ 1972 đến 1973, không kể những trao đổi giữa TT Ford và TT Thiệu sau khi Nixon từ chức), hứa sẽ ủng hộ ông Thiệu và VNCH, một mặt dùng chánh sách đe dọa, lúc ban đầu là dọa đảo chánh, sau đó là ám sát. Trong bức thơ Nixon gởi TT Thiệu ngày 06 tháng 10, 1972 có đoạn chót như sau:
    • "…I would urge you to take every measure to avoid the development of an atmosphere which could lead to events similar to those which we abhorred in 1963 and which I personnaly opposed so vehemently in 1968"
      (Nguyễn Tiến Hưng, KĐMTC. p.91)
      Tôi yêu cầu Ông phải áp dụng mọi biện pháp để tránh xảy ra một trạng huống có thể đưa đến biến cố mà chúng tôi ghê tởm như hồi năm 1963 mà chính tôi cũng cực lực phản đối năm 1968.
              
    Rõ ràng là Nixon đã nhắc lại cuộc đảo chánh và cái chết của ông Diệm năm 1963 để đe dọa ông Thiệu. Sự đe dọa tiếp tục khi Nixon đã đắc cử mà Hiệp Định vẫn chưa ký, Nixon cần có sự vẻ vang khi làm lễ đăng quang, nên gởi tối hậu thơ cho TT Thiệu trước khi nhậm chức.
    • White House ngày 14/1/1973
      Thưa Tổng Thống,
      "…Tôi nhất quyết cho phê chuẩn bản Hiệp định vào ngày 20 tháng 1 và sẽ ký vào ngày 27 tháng 1, 1973 tại Paris. Tôi sẽ làm việc nầy dù phải một mình, trong trường hợp đó, tôi sẽ công khai tố cáo chính phủ của Ông làm cản trở cho công cuộc vãn hồi hòa bình tại VN. Kết quả không tránh khỏi là Mỹ sẽ cắt viện trợ quân sự và kinh tế lập tức mà dù cho có sự thay đổi nhân sự cũng không thể cứu vãn được."
      (NTH, tr.101).
              
    Nên hiểu là trong ngôn ngữ ngoại giao, cụm từ "thay đổi nhân sự" phải hiểu là đảo chánh.
    Như chưa đủ, 3 ngày sau (17/1/1973), Nixon lại gởi thêm một bức thơ, lập lại lời đe dọa như trên cộng thêm vài lời phủ dụ:
    • "…Tôi xin nhắc lại những cam kết của tôi như sau:
      • Thứ nhất, Hoa Kỳ công nhận chính phủ của Ông là chính phủ duy nhất hợp pháp của miền Nam VN;
      • thứ hai, HK không công nhận sự có mặt của một quân đội ngoại quốc trên lãnh thổ Miền Nam
      • và thứ ba, HK sẽ phản ứng mãnh liệt nếu Hiệp định bị vi phạm.
      Tôi nghĩ rằng Ông có hai lựa chọn chính yếu:
      • một là ông tiếp tục cản trở việc ký kết, đó là hành động có vẻ hiên ngang nhưng thiển cận,
      • hai là dùng bản Hiệp Định như một phương tiện để xây dựng một căn bản mới cho cuộc bang giao giữa HK và VNCH."
      (NTH. KĐMTC, p.102-103)
              
    Ngày 20 tháng 1, 1973, Nixon làm lễ nhậm chức nhiệm kỳ 2.
    Ngày 27 tháng 1, 1973, Hiệp định Paris được ký kết, giữa 4 bên: VNCH, Mỹ, Bắc Việt và Mặt Trận GPMN.

    Mỹ rút quân (thực ra lúc đó Mỹ chỉ còn lại có 25 000 quân) và tù binh Mỹ được thả, nhưng Nixon bội hứa cả 3 điều đã long trọng cam kết:
    • 170 000 quân Cộng Sản (Miền Nam và miền Bắc) được quyền ở lại miền Nam;
    • viện trợ quân sự Mỹ vẫn bị cắt giảm từ 2.1 tỉ USD năm 1973 còn 700 000 triệu USD năm 1975;
    • và Mỹ đã làm ngơ trước sự tấn công vũ bão của cộng sản Bắc Việt vào lãnh thổ VNCH.
              
    Miền Nam đã bị bức tử bởi người bạn đồng minh Mỹ và người đao phủ chính là Kissinger. Nhiều nhà chính trị và sử học đều nhận định là miền Nam không mất hay mất một cách tàn bạo nếu không có Kissinger. Ngạo mạn và khinh rẻ VN, Kissinger đã để lại nhiều câu nói tàn ác để đời.

    Khi Đà Nẳng bị thất thủ ngày 30/03/1975, hàng ngàn người dân chết trên đường trốn chạy cộng sản, ông ta tuyên bố: Sao những người nầy không chết hết cho rồi. Điều tệ hại nhứt là chúng cứ sống dai dẳng hoài.
    • "Why don’t these people die fast.The worst thing that could happen would be for them to linger on"
      (Ron Nessen. It Sure Looks Different from the Inside, p.98).
    Ngoài ra, ngày 17 tháng 4, khi Đại sứ Graham Martin, một trong số ít người Mỹ có lòng nhân đạo với nhân dân VN, cố trì hoãn cuộc di tản người Mỹ để có thể di tản càng nhiều càng tốt số người Việt, thì ông nhận được mật điện của Kissinger ra lịnh ông phải rút chạy cho nhanh. Chẳng những Martin không thi hành, mà khi ông nhận được lịnh di tản 50 000 người Việt, ông cho là con số nầy ít quá nên ông diễn dịch là 50 000 gia đình, do đó sau cùng số người di tản đến đất Mỹ là 140 000 người. (Vietnam Evacuation: Testimony of Ambassador Graham Martin, Jan.27, 1976, p.545). Nếu nước Mỹ có những Kissinger gian ác thì cũng có những Martin nhân ái và có nhân phẩm.


    Tổng Thống Thiệu và thế giới đâu có thể ngờ được ông Tổng Thống của một quốc gia vĩ đại nhứt thế giới lại có thể phản bội một cách nhục nhã như vậy, và khi biết thì quá trễ. Kissinger đã không giấu diếm:
    • Nước Mỹ không có kẻ thù mà cũng không có bạn trường cửu, chỉ có quyền lợi mà thôi,
    và ông Thiệu đã cay đắng than thở:
    • Làm kẻ thù của Hoa Kỳ thì dễ, nhưng làm bạn với họ thật khó.
              
    Ông Thiệu có lý do để nói như vậy. Ông bị CIA theo dõi từng bước một, bị đặt ống nghe đến nỗi có lúc ông nói chuyện với bí thư Hoàng Đức Nhã phải viết trên giấy. Về chuyện nghe lén trong Dinh Độc Lập, ông Trần Văn Đôn, trong nhật ký Việt Nam nhân chứng có viết:
    • "Trong lúc Dinh Độc Lập được sửa chữa sau vụ ném bom năm 1962, trong mấy năm trời xây cất, Mỹ đã đặt máy vi âm để nghe tất cả những gì xảy ra trong Dinh Độc Lập. Từ đó suy luận ra thì chắc chắn Việt Cộng đã cho cán bộ trà trộn khi làm công việc xây cất chỉnh trang đã lén đặt máy truyền tin cũng như người Mỹ đã làm"
      (sđd, tr.498).
              
    Trở lại chuyện bạn - thù với Mỹ, khi TT Thiệu đến Đài Loan ngày 25 tháng 4, 1975, TT Ford, người thay thế Nixon đã gởi bà Anna Chennault, người sứ giả thân tín, yêu cầu ông đừng đến Mỹ. Mãi cho đến năm 1985, khi Reagan đắc cử, ông mới được đến Mỹ định cư ở Boston cho đến khi mất (29/9/2001).







    Chiến dịch Tây Nguyên

    Khi Hiệp Định Paris được ký kết, lực lượng quân sự của VNCH còn mạnh hơn Bắc Việt, nhưng với sự cắt giảm viện trợ của Mỹ trong khi Trung Cộng và Nga Sô tăng cường tiếp tế cho cộng sản Bắc Việt, và CS Bắc Việt xâm nhập vào Nam như chỗ không người, chỉ một năm sau, lực lượng miền Bắc đã khống chế Miền Nam.

    Sau khi ký Hiệp định Paris, Hà Nội huy động 30 000 nhân công cho khởi công xây xa lộ Ðông Trường Sơn hay hành lang 613 song song với đường mòn Hồ Chí Minh (cách xa nhau 160 km ở đoạn xa nhứt) nhưng hoàn toàn nằm trong lãnh thổ VN, chạy từ Đồng Hới đến Lộc Ninh. Nếu kể cả đường chiến lược (Bắc Nam) và đường chiến dịch (Đông Tây) cũ và mới, tổng cộng đường tiếp vận từ Bắc vô Nam dài đến 20 000 km. Dọc theo Ðông Trường Sơn có hệ thống dẫn dầu từ Quảng Trị qua Tây Nguyên vào tới Lộc Ninh dài 5 000km. Đường dây điện thoại cũng đã kéo tới Lộc Ninh, từ Hà Nội có thể nói chuyện thẳng với nhiều chiến trường trong Nam.
              


    Đường mòn HCM (Trường Sơn Tây) và Hành Lang 613(Trường Sơn Đông)
    Nguồn: Nguyễn Đức Phương

              
    Văn Tiến Dũng trong Đại thắng mùa xuân đã viết:
    • "Nhà nước và nhân dân ta đã dồn sức dồn của rất lớn vào công trình này. Hàng nghìn xe máy các loại, hàng chục nghìn bộ đội, công nhân, kỹ sư, thanh niên xung phong và dân công vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ do khí hậu, thời tiết và bom đạn địch gây ra, ngày đêm phá núi san đèo, chuyển đá đắp đường, xây cống, dựng cầu, tạo ra một kỳ công rất tự hào ở phía Tây Tổ quốc.
      Đúng là "Đường ta rộng thênh thang tám thước", các xe vận tải cỡ lớn, các xe chiến đấu loại nặng chạy được hai chiều với tốc độ cao cả bốn mùa, đã ngày đêm hăm hở chuyển hàng trăm nghìn tấn vật chất các loại vào hệ thống kho tàng cho các chiến trường để bảo đảm đánh lớn."
      (ĐTMX, chương 1, tr.25)
              
    Đúng như Văn Tiến Dũng nói "đường ta thênh thang" vì phi cơ thám thính của VNCH thấy rõ sự di chuyển của đoàn quân xâm lược Bắc Việt nhưng Hoa Kỳ ngăn cản không cho không quân VNCH đánh phá, vả chăng VNCH cũng không có đủ phi cơ để làm việc nầy sau khi Mỹ rút quân. Một số giới chức quân sự cho rằng viện trợ của Nga, Trung Cộng cho miền Bắc giai đoạn sau Hiệp Định Paris gia tăng gấp 3-4 lần so với thời gian trước, nhưng sự thực không hẳn như vậy vì CS đã dốc toàn lực quân nhân và khí giới của cả miền Bắc vào chiến trường miền Nam qua những xa lộ thênh thang nầy. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 1975
    • "đoàn vận tải Trường Sơn vận chuyển vào Nam Bộ
      • 11 vạn 5 nghìn quân
        và 9 vạn tấn hàng (trong đó có 37.000 tấn vũ khí, 9.000 tấn xăng dầu).
      Riêng trong những ngày "chuẩn bị nước rút" từ ngày 5 đến 26-4, vừa khai thác vừa vận chuyển, ta đã đưa vào chiến trường
      • 10.100 tấn đạn, 2.300 tấn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, 2.600 tấn xăng dầu.
      Nhiều trạm sửa chữa ôtô, sửa chữa pháo và tăng được bố trí dọc đường, phục vụ cơ động của chiến dịch."
              
    Sau khi chuẩn bị kỹ hậu cần, từ mùa hè 1974, Bộ Chính trị, Quân Ủy Trung Ương và các cấp chỉ huy chiến trường miền Nam đã có nhiều phiên họp tại Hà Nội để thảo luận về kế hoạch hành động. Trong quyển Tổng Hành Dinh trong mùa Xuân Toàn Thắng, Võ Nguyên Giáp viết:
    • "Đầu tháng 12, các anh Phạm Hùng (Bí Thư Trung ương Cục Miền Nam ) Trần Văn Trà (thượng tướng, Tư Lịnh Miền B2 gồm Nam Bộ và Nam Trung Bộ), Phan Văn Đáng (Nam Bộ), Võ Chí Công, Chu Huy Mân (Khu 5) đã có mặt ở Hà Nội.
      Tôi và Bộ Tổng Tham mưu đã gặp và làm việc với các anh, tranh thủ thêm ý kiến của chiến trường về hướng tiến công chiến lược, về mục tiêu tiến công. Các anh cũng đã tiếp xúc, trao đổi ý kiến với một số đồng chí trong Bộ Chính trị, chuẩn bị cho cuộc họp quan trọng sắp tới.
      Về kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976, mọi người đều cơ bản nhất trí. Về hướng chiến trường chính, đã có hai ý kiến:
      • một là chọn Tây Nguyên,
        hai là chọn miền Đông Nam Bộ.
      Tây Nguyên chỉ đánh Đức Lập để mở đường vào Đông Nam Bộ.

      Về mục tiêu tiến công, đã có một cuộc tranh luận sôi nổi giữa Bộ Tổng Tham mưu với đoàn cán bộ B2 xung quanh kế hoạch tác chiến mở đầu mùa khô 1974-1975 của Bộ Tư lệnh Miền.
      • Các đồng chí ở B2 với thực tiễn và kinh nghiệm chiến đấu, nắm tình hình địch tại chỗ, chủ trương trước hết đánh Đồng Xoài, chi khu quận lỵ và là vị trí then chốt của tỉnh Phước Long. Tiếp đó tiến đánh Phước Long, giành một chiến thắng mở đầu vang dội.
      • Các đồng chí Bộ Tổng Tham mưu, trước tình hình ta rất thiếu đạn, nhất là đạn súng lớn, chủ trương đánh Bù Đăng, Bù Na là những vị trí quan trọng hơn ở phía bắc Đồng Xoài để có thêm đạn pháo chiến lợi phẩm đánh Đồng Xoài.
      • Cuối cùng mọi người thống nhất ý kiến về kế hoạch tiến công và mục tiêu tiến công là Bù Đăng, Bù Na, Đồng Xoài và cả Phước Long, mặc dù lúc đầu Bộ Tổng Tham mưu không đặt ra nhiệm vụ đánh mục tiêu này.
      Các đồng chí trong Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh cũng chấp nhận kế hoạch và mục tiêu tiến công như vậy. Kế hoạch mùa khô của B2 vì thế cũng không bị đảo lộn… Thực tiễn chiến trường đã chứng tỏ ý kiến của các anh ở B2 là đúng"
      (sđd, tr.91,92, 104).
              
    "Các anh ở B2" là Phạm Hùng và Tướng Trần Văn Trà. Trong quyển hồi ký Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, Trần Văn Trà kể thành tích và các trận đánh, có đoạn chỉ trích và mỉa mai Quân Ủy Trung Ương, đặc biệt hai tướng Văn Tiến Dũng và Lê Ngọc Hiền mà Trà gọi là "lính nhà vua". Theo Trà, chính ông ta và Phạm Hùng đã gặp anh Ba (Lê Duẫn) đề nghị đánh Phước Long trong khi Quân Ủy do dự, và đánh Ban Mê Thuột thay vì Đức Lập, Kontum hay Pleiku. Hãy đọc một đoạn văn ngắn của Trà:
    • "Điện do tôi tự viết và ký tên nhờ Bộ Tổng Tham Mưu chuyển. Nhưng chiều hôm đó trong lúc tôi đang ngồi trước bản đồ, nghiên cứu cách bố trí của địch trong tỉnh Phước Long thỉ đồng chí Lê Ngọc Hiền (Tham Mưu Phó) đến. Đồng chí đưa ra bức thơ tôi viết và nói chưa gởi đi vì trong điện tôi đã cho phép sử dụng xe tăng và pháo lớn, điều mà các anh trên đã dặn là không được sử dụng.
      Bực mình, tôi nói với đồng chí Hiền rằng tôi là tư lịnh chiến trường, không lẽ tôi không có quyền điện chỉ huy các lực lượng của tôi sao? Không lẽ điện của tôi bị kiểm duyệt bắt buộc sửa đổi ngoài ý muốn của tôi. Việc sử dụng võ khí lớn tôi đã xin phép rồi, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Yêu cầu đồng chí cho điện ngay và đồng chí sẽ chịu trách nhiệm nếu điện của tôi bị trể, lỡ thời cơ"
      (sđd, tr.177-178).
    Bàn về đề nghị đánh Ban Mê Thuột, Trà viết:
    • "Tôi ví đánh Ban Mê Thuột như đốn một cây gỗ lớn từ gốc, toàn bộ tàn lá và thân cây phải đổ. Đánh như vậy mới là đòn hiểm về chiến lược, đảm bảo chắc thắng và thắng to. Tôi trao đổi việc nầy với anh Hùng và anh Hai Văn (Võ Nguyên Giáp). Các anh đều nhất trí bỏ Đức Lập mà đánh ngay vào Ban Mê Thuột".
      (sđd tr.183).
    Trong 3 quyển hồi ký của Giáp, Dũng, Trà, ai cũng giành ý kiến đánh Ban Mê Thuột là của mình.
    • Tuy là Cộng Sản và có công lớn trong chiến thắng quyết định, nhưng Phạm Hùng và Trần Văn Trà bị trù dập bởi là người gốc miền Nam, không vây cánh và trực tính. Quyển hồi ký của Trà bị cấm lưu hành.
    • Trong số các tư lịnh chiến trường miền Nam còn có Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) được cử làm Chủ Tịch Hội Đồng Quân Quản Thành Phố Hồ Chí Minh khi cộng Sản miền Bắc ngơ ngáo vào Sài Gòn rồi làm Thủ tướng một thời gian ngắn để cứu đói và đặt nền tảng cho chánh sách mở cửa, nhưng chẳng bao lâu bị phe răng đen mã tấu Nguyễn Văn Linh hạ bệ, có tin nói là chết vì bị đầu độc.

              
    Chiến thắng Phước Long đã đưa cộng sản đến một quyết định chiến lược tối hậu:
    • Bộ Chính trị hạ quyết tâm:
      • Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền trong thời gian 1975-1976,
        đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao,
        xách động quần chúng, tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa…
      Ngoài kế hoạch chiến lược 1975-1976, Bộ Chính trị còn dự kiến:
      • Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
      (Tổng Hành Dinh trong mùa Xuân Toàn Thắng, tr. 108).
              
    Để thực hiện cuộc Tổng công kích và Tổng khởi nghĩa, Bộ Chính Trị đã cử Văn Tiến Dũng vào Tây Nguyên làm Quân Ủy Chiến dịch 275 với bí danh là Tuấn để đánh chiếm Tây Nguyên. Tư Lịnh chiến trường là Trung Tướng Hoàng Minh Thảo điều khiển 4 sư đoàn 310, 316, F10 và 3 sao vàng với hàng trăm chiến xa T-54, đại bác 130 ly, hỏa tiển 120 ly.
    • Với kế nghi binh giả vờ đánh Pleiku, Kontum để nhử quân VNCH đến giải tỏa,
    • quân cộng sản cắt các đường dẫn đến Ban Mê Thuột rồi tấn công bằng biển người, đại pháo và xe tăng vào thị xã Ban Mê Thuột ngày 10/03/1975. Đạo quân trấn đóng của VNCH chỉ có 1 trung đoàn phải chiến đấu với quân cộng sản gấp 20 lần, lại thêm không may không quân VNCH oanh tạc lầm vào Bộ chỉ huy của Trung đoàn, mọi liên lạc với Quân Đoàn 2 bị cắt đứt, đạo quân tiếp viện bị chận đánh,
      Ban Mê Thuột thất thủ vào ngày 14 tháng 3.
    Ngoài yếu tố lực lượng giữa phía phía CS và VNCH quá chênh lệch,
    • nhiều nhận định của các giới chức Mỹ - Việt, được lập lại bởi báo chí cho là việc mất Ban Mê Thuột là do lỗi của tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II đã không nghe theo tin tức của quân báo, mắc lừa kế nghi binh của cộng sản, tướng Phú không có khả năng lãnh đạo, thuộc cấp không phục tùng, không am tường địa thế vì mới được bổ nhiệm 3 tháng thì vùng cao nguyên dậy khói lửa.
    • Tuy nhiên, một số cộng sự viên của ông thì lại có những nhận định khác, rằng ông là nạn nhân của một trạng huống vượt quá khả năng quyết định vì sự bất nhất, bất minh của thượng cấp.
    Lịch sử nhiều khi có những oan khiên, do đó nếu thực sự tướng Phú có tội với tổ quốc thì sự tuẫn tiết của ông cũng là một hình thức chuộc tội. Viết tới đây, tôi chợt nghĩ:
    • History is an account mostly false, Of events, mostly unimportant, Which are brought about by rulers, mostly knaves, And soldiers, mostly fools. (Ambrose Bierce).
      Lịch sử là sự kể lại mà hầu hết là sai lầm, Những biến cố hầu hết là chẳng có gì quan trọng, tạo nên bởi những kẻ cầm quyền mà hầu hết là xảo quyệt, và bởi những quân nhân mà hầu hết là những kẻ dại khờ. (BTR)







    Kết thúc cuộc chiến
              
    • 1. Cuộc họp ngày 11 tháng 3
              
    Một ngày sau khi cộng sản tấn công Ban Mê Thuột (11/03/1975), TT Thiệu họp với 3 tướng lãnh chủ chốt của chế độ là
    • Trung Tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn An ninh,
      Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm,
      Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng.
    Sau khi duyệt xét tình hình, ông có quyết định:
    • "Với khả năng và lực lượng chúng ta đang có, chắc chắn chúng ta không bảo vệ được tất cả lãnh thổ. Như vậy, chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những nơi đông dân, trù phú vì những vùng đất đó mới thực sự quan trọng"
      (Trần Đông Phong. VNCH, 10 ngày cuối cùng, tr.116).
    Quan điểm nầy cũng trùng hợp với ý kiến của tướng Westmoreland, cựu Tổng Tư Lịnh quân Mỹ ở VN chuyển qua ông Trần Kim Phượng, đại sứ VN tại Mỹ 2 ngày sau đó:
    • "VNCH nên vừa rút quân đúng cách, vừa gây cho địch càng nhiều thiệt hại càng tốt, rồi tiến lần về vùng quan trọng là Nam Kỳ (Cochinchina) gồm Saigon và Đồng Bằng Sông Cửu Long, nơi có thể cầm cự được rồi tìm thêm tiếp liệu, và hi vọng cuộc khủng hoảng nầy sẽ làm cho Hoa Kỳ bắt đầu viện trợ lại"
      (William Westmoreland.A Soldier Reports, p.400).
              
    Phải chăng quyết định tái phối trí là một ý tưởng đã nhen nhúm từ lâu bởi lẽ từ đầu năm 1974, tướng John Murray, đại diện cơ quan Quốc phòng Mỹ DAO ở Sài Gòn đã báo động cho Bộ Tổng Tham Mưu VN phải tiết kiệm đồ tiếp liệu, nhứt là đạn dược bởi sự cắt giảm viện trợ Mỹ, đồng thời ông cũng cung cấp một ước lượng vùng lãnh thổ VN có thể bảo vệ được tương ứng với số tiền viện trợ.
    • - Nếu tiền viện trợ là 1.4 tỉ MK: có thể bảo vệ được cả 4 vùng chiến thuật
      - Nếu tiền viện trợ là 1.1 tỉ MK: không thể giữ được Vùng I
      - Nếu tiền viện trợ là 900 triệu MK: không thể giữ được Vùng I và II
      - Nếu tiền viện trợ là 750 triệu MK: chỉ giữ được một số vùng đông dân
      - Nếu tiền viện trợ là 600 triệu MK: chỉ giữ được Sài Gòn và Miền Tây.

    Ngân sách năm 1975 chỉ còn 300 triệu sau khi bị khấu trừ một số thâm hụt trước đó và trả chi phí cho cơ quan DAO. Sau nầy, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng khi gặp ông Thiệu ở Luân Đôn được biết thêm kế hoạch rút quân về Miền Tây của ông Thiệu như sau:
    • "Sau khi rút khỏi Đà Nẵng, quân chủ lực chỉ còn vỏn vẹn 63 000 người. Phải bỏ Sài Gòn, nhưng tôi sẽ để một sư đoàn ở lại trấn giữ (để chận đường) rồi rút hết về miền Tây. Khi nào qua được Bến Lức thì sẽ phá cầu đi, và đây là tuyến cuối cùng. Sau đó không quân và hải quân sẽ cứu sư đoàn còn lại ở Sài Gòn, được bao nhiêu hay bấy nhiêu"
      (NTH.Tâm tư TT Thiệu, tr. 120).
    Kế hoạch nầy giống ý của kế hoạch Westmoreland kể trên và phải chăng không thực hiện được vì những biến cố dồn dập khiến ông Thiệu và nhiều ông tướng khác đã di tản trước khi Dương Văn Minh đầu hàng. Nếu kế hoạch được thực hiện, chắc chắn sau đó không có hàng triệu người phải đi kinh tế mới và bị đi tù cải tạo, và VNCH vẫn còn có sở pháp lý trên trường quốc tế.



              
    • 2. Cuộc họp ngày 14 tháng 3 tại Cam Ranh
              
    Ba ngày sau cuộc họp tại Dinh Độc Lập, ngày 14-3, một cuộc họp mật khác tại Cam Ranh cũng gồm 4 vị trong cuộc họp ngày 11/03 thêm tướng Phú. Những quyết định của phiên họp lịch sử nầy đã đưa đến những hỗn loạn dây chuyền làm tan rã quân đội Việt Nam Cộng Hòa 55 ngày sau đó mà hậu quả là xóa tên chế độ VNCH.

    Frank Snepp, phụ tá của Thomas Polgar, Giám Đốc CIA tại VN, trong quyển Decent Interval xuất bản năm 1977, kể lại một số chi tiết của phiên họp mật nầy nhờ Đặng Văn Quang, vì
    • "cơ quan tình báo CIA đã trả lương và nâng đỡ ông Quang trong bao nhiêu năm và đã bảo đảm giúp cho ông ta có một địa vị (Cố vấn về An Ninh) bên cạnh ông Thiệu"
      (sđd, p.495).
    Thì ra, bên cạnh ông Thiệu có nhiều gián điệp chiến lược cộng sản (Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng…) và cả một hệ thống điệp viên Mỹ.

    Về Trung Tướng Quang, ông Lữ Giang, trong bài tựa là Trở lại trận Ban Mê Thuột đăng trên trang mạng Nguyệt San VN ngày 16/03/2015 có đoạn viết như sau:
    • "…Tình trạng của vị Tư Lệnh Quân Đoàn 2 cũng bi thảm không kém. Trung Tá Trần Tích, Trưởng Phòng Quản Trị của Quân Đoàn 2 cho biết, sau khi rút khỏi Cao Nguyên và chạy về tới Nha Trang, Tướng Phú còn hỏi ông:
      • “Anh xem có ai muốn đi làm tỉnh trưởng không?”
      Trung Tá Tích ngạc nhiên hỏi lại:
      • “Giờ này mà Thiếu Tướng còn tìm tỉnh trưởng làm gì nữa?”
      Tướng Phú buồn rầu trả lời:
      • “Tháng này chưa có 2 triệu đóng cho Trung Tướng”!
    Nếu sự thật nhơ nhớp như vậy thì hóa ra ông điệp viên số 1 của Mỹ trong Dinh Độc Lập cũng là ông tướng tham nhũng số 1 của VNCH thì chuyện VNCH mất vào tay cộng sản là chuyện không lạ .
    Theo Nguyễn Đức Phương, tham nhũng dưới chế độ Thiệu, căn cứ vào Viện Nghiên Cứu Quốc Tế Rand xảy ra dưới 4 hình thức:
    • buôn lậu,
      hối lộ,
      mua quan bán tước
      và lính kiễng, lính ma.
    Tham nhũng là một trong những nguyên nhân xóa tên chế độ VNCH.


    Trở lại với hội nghị Cam Ranh, theo Frank Snepp thì Thiếu Tướng Phú trả lời với TT Thiệu là
    • có thể bảo vệ được cao nguyên trong vòng một tháng nếu được tăng viện quân số, vũ khí và không quân,
    • điều mà TT Thiệu từ chối vì không còn trừ bị.
    Giải pháp duy nhứt là
    • bỏ hai tỉnh Pleiku và Kontum
    • và dùng những lực lượng nầy để tăng cường vùng duyên hải và yểm trợ cho cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột.
    Về việc triệt thoái, Tướng Phú phân vân
    • về hai con đường Quốc Lộ 19 từ Pleiku đi Qui Nhơn và Quốc Lộ 14 đi từ Ban Mê Thuột về vùng III, vì hai con đường nầy đã bị cộng sản kiểm soát từng đoạn
    • nên sau cùng Tướng Phú nghiêng theo phân tích của tướng Cao văn Viên là chọn đường Liên Tỉnh 7B là con đường nhỏ, bỏ hoang từ lâu để đi về Tuy Hòa.
    Nhưng cuộc triệt thoái là một cuộc thảm hại tàn khốc vì
    • không kế hoạch,
      bị cộng sản rượt theo tấn công,
      cầu Ea Pha bắc qua sông Ba chưa hoàn tất,
      không quân thả bom lầm ngay vào đoàn quân đi đầu làm thiệt hại một tiểu đoàn…
    Hậu quả là trong số 200 000 dân di tản chỉ có 60 000 về đến Tuy Hòa, 75% lực lượng của Quân Đoàn II bị tiêu diệt chỉ trong 10 ngày.(Trần Đông Phong, sđd, tr.119). Chính cuộc triệt thoái thất bại nầy làm bại hoại quân lực và niềm tin của quân dân với chế độ, làm sụp đổ chế độ nhanh không thể ngờ




              
    • 3. Triệt thoái Vùng I, Vùng Duyên hải phía Nam
              

              


    Nguổn: Nguyễn Đức Phương.
    Chiến tranh VN toàn tập
              

    Trong khi Văn Tiến Dũng tấn công Ban Mê Thuột thì Quân Khu I do tướng Ngô Quang Trưởng chỉ huy tương đối còn yên ổn vì được bảo vệ kiên cố bởi 5 sư đoàn. Sau khi chiếm được Ban Mê Thuột, Võ Nguyên Giáp gởi điện văn cho Quân Khu Ủy B4 (Trị -Thiên) ra lịnh đẩy mạnh tấn công để chia cắt Huế và Đà Nẳng.

    Ngày 19/03, Quảng Trị rơi vào tay CS khiến Huế bị đe dọa.
    Ngày 20/03, lúc 13 g30 TT Thiệu tuyên bố trên đài phát thanh là Quân Đoàn 1 sẽ cố thủ Huế bằng mọi giá sau khi họp với Tướng Trưởng ở Dinh Độc Lập, nhưng đến chiều cùng ngày, khi Tướng Trưởng về tới Đà Nẵng thì nhận được mật điện khẩn số 2238 của TT Thiệu gởi qua Bộ Tổng Tham Mưu ra lịnh cho Tướng Trưởng
    • "nếu tình hình bắt buộc chỉ giữ Đà Nẵng mà thôi" và cho rút Sư đoàn Dù về Sài Gòn ngay.
    Tướng Trưởng đã trả lời:
    • "Tham chiếu công điện số 2248 của Đại tướng, tôi e ngại không thi hành nổi lệnh nầy. Xin Đại Tướng tìm người thay thế tôi".
    Ngày hôm sau, Tướng Viên gởi công điện cho Tướng Trưởng:
    • "Tình hình hết sức khẩn trương, Trung tướng liệu mà làm".

              
    Khi mà ông Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng ra lịnh cho ông Tư Lịnh Chiến trường "liệu mà làm" thì xem như quân đội đó đã tan rã.
    • Dân chúng nhốn nháo "chạy giặc" khắp nơi từ trên đất liền tới biển,
      và chỉ trong 25 ngày, từ ngày 19 tháng 3 đến 16 tháng 4, 1975, ba quân khu lần lượt lọt vào tay cộng sản mà họ không cần phải đổ nhiều xương máu,
      tướng Nguyễn Vĩnh Nghi bị địch bắt, tướng Ngô Quang Trưởng và Hồ Văn Kỳ Thoại phải vất vả lắm mới thoát được chạy về Sài Gòn.



              
    • 4. Chiến dịch Hồ Chí Minh
              

    Ngày 06/04/1975,
    Lê Duẩn (anh Ba) cử
    • Văn Tiến Dũng làm Tư Lịnh Mặt Trận Sài Gòn,
      Phạm Hùng làm Chính Ủy,
      Trần Văn Trà làm Phó Tư Lịnh thứ nhứt kiêm Tham mưu trưởng,
      Sáu Nam tức Lê Đức Anh làm Phó Tư Lịnh
      và Lê Ngọc Hiền làm Tham mưu phó.
      Bộ tư lịnh đặt ở Lộc Ninh.
    Hôm sau,
    Lê Đức Thọ (Anh Sáu), nhân vật số 2 của chế độ, từ Hà Nội đến mặt trân để chỉ huy toàn bộ Chiến dịch 275 đổi tên ngày 14/04 thành Chiến dịch Hồ Chí Minh, mang theo văn thư của Chủ Tịch Tôn Đức Thắng gởi
    • "Các đồng chí phải chiến thắng, nếu không thì đừng có trở về".
              
    Ngày 9 tháng tư,
    cộng sản bắt đầu Chiến dịch Hồ Chí Minh bằng cách huy động 3 sư đoàn 6,7 và 321 tấn công thị xã Xuân Lộc.
    Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 18 BB của tướng Lê Minh Đảo
    • đã anh dũng chống trả, mặc dù CS pháo kích đến 10 ngàn đại pháo trong một ngày (theo Snepp thì 1000, có lẽ hợp lý hơn),
      đã đẩy lui được quân CS,
      và đây là lần đầu tiên sau 3 tháng chiến thắng trên nhiều mặt trận, chiếm được 14 tỉnh, quân CS bị chận bước tiến.
    Tướng Trần Văn Trà, trong hồi ký Kết thúc cuộc chiến 30 năm, đã nhìn nhận là ba sư đoàn của Hoàng Cầm bị thiệt hại rất nhiều, Tướng Trà phải tăng viện quân trừ bị của sư đoàn 6 và 7 rồi tấn công Dầu Dây trên Quốc Lộ số 1.

    Tối ngày 21 tháng tư, lúc 19g30,
    TT Thiệu nói chuyện với quốc dân qua đài truyền hình, trước các đại diện hành pháp, lập pháp, tư pháp. Ông kết tội người Mỹ đã phản bội VN, ông gằn mạnh từng tiếng và lập lại:
    • "các ông bỏ mặc cho binh sĩ chúng tôi dưới cơn mưa pháo của Cộng Sản, đó là hành động vô nhân đạo của một đồng minh vô nhân đạo…"
    và ông kết luận
    • "Tôi sẵn sàng nhận lãnh sự phán xét và buộc tội của đồng bào… Tôi từ chức nhưng không đào ngũ. Theo hiến pháp, người thay thế tôi là Phó TT Trần Văn Hương".
              
    Nguyễn Tiến Hưng, trong "Khi Đồng minh tháo chạy" (tr.389) thì cho
    • ông Thiệu từ chức vì các tướng lãnh không còn ủng hộ.
    Nguyễn Khắc Ngữ thì có nhận định tiêu cực hơn
    • "trong bài diễn văn từ chức nầy, ông đã hiện nguyên hình một tay sai của Hoa Kỳ, bị chủ đuổi lên tiếng chửi lại bằng những lời bình dân nhất không thể thấy được trong ngôn ngữ của một vị lãnh đạo quốc gia" (Ngữ, tr. 343).
    Hoàng Ngọc Thành cũng có nhận định tương tự về ông Thiệu
    • "là người thừa hành đắc lực nhất của Hoa Kỳ trong chiến tranh VN"
      (Thành tr. 559)
      là "người hèn nhát, tại sao không chịu công bố trong năm 1974 và đầu năm 1975 các bức thư hứa hẹn trả đũa Bắc Việt của Tổng Thống Richard Nixon nếu Cộng Sản Hà Nội vi phạm hiệp định Ba lê,
      tại sao không công bố sớm để Quốc hội và dân chúng Hoa Kỳ biết những điều cam kết nầy để đánh vào điểm danh dự và lương tâm người Mỹ.
      Làm như thế có lợi cho dân tộc VN, nhưng Nguyễn Văn Thiệu sợ bất lợi cho ông nên không làm"
      (Thành, tr.566).
              
    Trong khi ông Thiệu đọc diễn văn từ chức,
    • các đơn vị cuối cùng của sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo rút ra khỏi Xuân Lộc,
    • và vài giờ sau, bộ chỉ huy Quân Đoàn 3 của tướng Nguyễn Văn Toàn phải di tản về Sài Gòn.
    • Biên Hòa và Vũng Tàu bị đe dọa nặng.
    Chỉ 2 giờ sau lễ bàn giao giữa ông Thiệu và ông Hương, đài phát thanh Giải phóng và Hà nội đồng loạt tuyên bố:
    • "Đó cũng chỉ là một chế độ bù nhìn, chánh phủ Thiệu không có Thiệu"
      (Todd, p.316).
              
    Trong khi đó, một biến cố quân sự quan trọng xảy ra sát nách Sài Gòn. Lê Duẩn đánh điện cho Lê Đức Thọ và Văn Tiến Dũng đang đặt bản doanh ở Lộc Ninh yêu cầu gia tăng các cuộc tấn công càng mạnh càng mau trên khắp các mặt trận. Mọi chậm trễ có thể đưa đến những hậu quả quân sự và chính trị trầm trọng. Theo Olivier Todd thì Lê Duẩn sợ rằng nếu chiến trường kéo dài thì áp lực chính trị quốc tế có thể can thiệp để chia cắt đất đai như hồi 1954 trước hội nghị Genève.
    Tuân hành chỉ thị này, Văn Tiến Dũng ra lịnh cho tất cả các lực lượng từ chiến khu C, chiến khu D, Khu Tam giác Sắt ở miền Đông, và các lực lượng ở vùng đồng bằng Cửu Long và Cà Mau chuẩn bị tổng tấn công vào Sài Gòn và các tỉnh.
    • Để phân công, bộ phận chính trị do Lê đức Thọ và Phạm Hùng đóng ở Lộc Ninh,
      còn tướng Trần văn Trà và Văn tiến Dũng lập bộ tham mưu mặt trận ở Bến Cát, sát nách Sài Gòn.
              
    Ngày 25 tháng 4, lúc 20g30,
    ông Thiệu, Khiêm và hơn 10 người khác rời Sài Gòn. Đại sứ Martin đợi sẵn ở phi cơ để tiễn đưa.
    • "Dù buồn thảm và cam chịu số phận, ông Thiệu đi thủng thẳng, cố giữ phong độ. Ông quay lại cám ơn ông Martin. Với giọng xúc động, Martin đáp lễ: Thưa Tổng thống, đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Xin tạm biệt và chúc Ngài may mắn"
      (Nguyễn tiến Hưng, tr. 392 và Todd tr.339).
    Phi cơ trực chỉ Đài Loan.




              
    • 5. Ngày 30 tháng tư
              
    2giờ 30 sáng,
    • tại tòa đại sứ Mỹ
      • còn 1000 người Việt, 53 nhân viên dân sự và 173 thủy quân lục chiến,
      trong khi ở phi trường TSN
      • còn độ 2000 chờ hi vọng vượt thoát.

              
    4 giờ 42:
    chiếc trực thăng mang tên Lady Ace 9 đáp xuống nóc.
    • Viên phi công trình lệnh của Tổng Thống:
      • Martin phải lên phi cơ.
      Nếu Martin không tuân lệnh, viên phi công còn có một lệnh khác của Gayler, tư lịnh Mỹ vùng Thái Bình Dương là
      • áp giải Martin.
              
    7 giờ 53:
    chiếc trực thăng cuối cùng chở những binh sĩ cuối cùng (thực ra còn 2 xác thủy quân lục chiến ở Tân Sơn Nhứt), yểm trợ bằng 6 trực thăng võ trang Cobra rời tòa đại sứ.
    Họ ném hơi cay trên đầu 420 người Việt còn đứng chờ bàng hoàng, ngơ ngác. Lá cờ Mỹ đã cuốn đi mang theo nỗi thất vọng, cay đắng, oán hờn, sung sướng, của người Việt bắt đầu một trang sử mới.

    8 giờ sáng,
    tại dinh Phủ Thủ Tướng, ông Dương Văn Minh họp cùng các nhân vật quan trọng của nội các mới như Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu để trình bày
    • tình hình quân sự và chính trị đã đến hồi tuyệt vọng,
    • cuộc thương thuyết với chánh phủ Mặt Trận Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam và Hà Nội, qua trung gian của Pháp kể như không có
    • trong khi thành phố Saigon đã hỗn loạn cực kỳ.
    "Nhiều toán quân sĩ VNCH lang thang trong thành phố, họ vứt bỏ vũ khí, quân phục. Bọn cướp bóc tràn ngập trong thành phố, súng bắn loạn xạ"
    (Todd, p.390).


    9g30:
    sau phiên họp, nội các Dương Văn Minh đến dinh Độc Lập dự định theo chương trình để bàn giao với Nguyễn Văn Hảo, Phó Thủ tướng trong nội các Nguyễn Bá Cẩn, nhưng cuộc bàn giao không xảy ra mà họ chờ quân giải phóng đến.

    11g30:
    • "tiếng chân người vang dội trong đại sảnh, có cả tiếng khua vũ khí và tiếng đạn lên nòng. Rồi tiếng hô từ phía đại sảnh:
      • Mọi người đi ra khỏi phòng…
      Người bước ra khỏi phòng trước tiên là tổng thống DVM… Có tiếng hô to:
      • Mọi người giơ hai tay lên.
      Ông Minh, ông Mẫu và tôi cùng mọi người đi sau đều nhất loạt giơ tay… Một người bộ đội cấp chỉ huy nói với ông Minh:
      • Anh hãy viết một bản tuyên bố đầu hàng.
      Ông Minh trả lời rằng sáng nay ông đã có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ huy nói:
      • Anh chẳng có gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng…
      Ông Minh vẫn đứng yên lặng. Viên chỉ huy yêu cầu ông Minh đi đến đài phát thanh để thảo và đọc bản tuyên bố đầu hàng… Trước khi rời dinh Độc Lập đến đài phát thanh, ông Minh nói với vị chỉ huy bộ đội:
      • Vợ tôi vẫn ở đây. Xin các anh bảo đảm an ninh giùm.
      Viên chỉ huy đáp:
      • Anh hãy yên tâm…
      Ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Saigon trên chiếc xe Jeep của bộ đội…
      Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo.
      Ông Minh đọc và đài phát lúc 13 giờ"
      (Lý Quý Chung. Hồi ký không tên, tr. 407-08)


    Pierre Darcourt kể lại với nhiều chi tiết sống sượng hơn:
    • "Đúng 12 giờ 10 phút,
      ba chiếc xe tăng T54 cán dẹp những hàng rào cản sơn màu trắng đỏ bao quanh dinh Độc Lập. Họ bắn chỉ thiên một tràng dài, ủi sập cánh cổng lớn, cán lên trên rồi tiến thẳng vào dinh Độc Lập, cày bừa lên các bãi cỏ trong sân. Hai chiếc xe Jeep và một chiếc xe vận tải chạy đến, qua mặt các chiến xa. Tất cả mang cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miên Nam…
      Vị sĩ quan cao cấp được 4,5 lính CS hộ tống ập vô đại sảnh, nơi mà tướng Dương Văn Minh đang hội họp với các người thân cận của ông ta. Thấy vị sĩ quan đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, Tướng Minh tưởng rằng mình đứng trước một sĩ quan cao cấp nên nói:
      • – Thưa quan sáu (nguyên văn: mon général ong sau), tôi đã chờ ông từ sáng để trao quyền cho ông.
      • – Mầy (nguyên tác: tu, có thể dịch là anh, nhưng mày có lẽ đúng hơn trong hoàn cảnh nầy) dám nói là trao quyền à. Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một tên bù nhìn. Mầy chẳng có quyền nào để trao cho tao cả. Chúng tao đạt được quyền bằng khẩu súng trong tay. Tao nói cho mày rõ là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chính trị. Và kể từ bây giờ, tao cấm mầy không được ngồi xuống.
      Gương mặt tướng Minh co rúm lại. Giọng nói hung bạo và khinh miệt của người sĩ quan khiến ông Minh hiểu rõ là ông đang đứng trước mặt một sĩ quan miền Bắc (nguyên tác: Tonkinois) chớ không phải là người Mặt Trận miền Nam. Tướng Minh cố giữ bình tĩnh và nhẹ nhàng nói:
      • – Chúng tôi đã có làm sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua.
      Viên trung tá xẳng giọng
      • – Tụi bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ thức ăn tư sản cho tụi bây. Chúng tao sẽ cho tụi bây ăn cơm dã chiến, một nắm cơm vắt và một hộp thịt mặn.
      Tất cả các tổng trưởng hiện diện đều bị khám xét và bị bắt giam trong một phòng. Dinh Độc Lập bị tràn ngập bởi phóng viên báo chí"
      (Darcourt, p.209).
              
    • Lúc 16 giờ 30,
      tướng Minh được rời khỏi phòng giam lỏng ở tầng dưới dinh Độc Lập. Một phóng viên của nhật báo Quân đội giải phóng hỏi ông:
      • – Ông nghĩ sao về những biến cố mà ông vừa trải qua?
      Ông Minh ngập ngừng giây lát rồi trả lời với ngôn ngữ tuyên truyền mà CS thường sử dụng:
      • "Chúng tôi đã nhận thức được sức mạnh của Chánh phủ cách mạng lâm thời và của quân đội giải phóng. Các đơn vị thiết giáp của quân giải phóng thực hùng mạnh, quân đội Sài Gòn không thể nào đương cự được, chỉ còn có việc đầu hàng không điều kiện mà thôi…
        Các ông đã đạt được chiến thắng một cách nhanh chóng, chúng tôi vô cùng sung sướng. Chúng tôi và gia đình chúng tôi bình yên, thật là may mắn"
      (Darcourt, tr. 213).
              

    Và sau đó, các nhân vật trong nội các cuối cùng của VNCH lưu xú với những câu nói bất hủ.
    • - Ông Vũ Văn Mẫu thì hớn hở, nhảy nhót:
      • "Các anh đánh hay lắm. Tôi rất sung sướng đã đuổi được người Mỹ ra đi. Bây giờ thì chúng ta với chúng ta mà thôi.
      Sau khi nhắc lại quê ông ở quận Thường Tín, phía Nam Hà Nội và chuyện ông cạo đầu phản đối ông Diệm, ông nói:
      • Kể từ hôm nay thì tôi sẽ để tóc lại được rồi"
    • - Ông Nguyễn Văn Hảo đưa tay lên và nói lớn:
      • "Các anh thật đáng phục vì đã đánh bại được nước Mỹ, chúng tôi hi vọng là tài nguyên của đất nước sẽ được sử dụng để xây dựng đất nước chúng ta".
      (Darcourt, tr.213).
              


    • Nếu Cộng Sản Miền Bắc và Miền Nam là những kẻ thù của VNCH
    • thì những những người làm chính trị vọng tưởng, u mê, cơ hội chủ nghĩa, tranh đấu hay núp bóng dưới nhãn hiệu hòa giải hoà hợp, thành phần thứ ba, cũng là những kẻ thù của dân tộc
      bởi lẽ họ đã vô tình hay cố ý đánh phá phe quốc gia, góp công cho chiến thắng của cộng sản mặc dù cộng sản vẫn xem họ là kẻ thù.
              
    • Trong khi các chánh khách ba mươi và thứ ba tranh nhau nịnh bợ chánh quyền mới,
    • trên khắp các nẻo đường đất nước, quân nhân các cấp phẩn uất, nhiều tướng tá tử tiết thay vì đầu hàng. Chỉ cần đan kể một vài anh hùng liệt sĩ:
      • tướng Phạm Văn Phú (tự tử bằng độc dược ngày 29, chết tại nhà thương Grall ngày 30),
      • Nguyễn Khoa Nam,
      • Lê Văn Hưng (tại quân đoàn 4 Cần Thơ),
      • Lê Nguyên Vỹ (tại quân đoàn 3, Lai Khê),
      • Trần văn Hai (tại căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho),
      • Đại tá Đặng Sĩ Vinh (tại Sài Gòn) tự tử cả gia đình gồm vợ và 7 người con bằng súng lục.
      • Nhưng đó chưa phải là những phát súng cuối cùng vì sau đó, nhiều quân nhân vô danh cũng tự sát để bảo toàn danh dự của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa.






    Kết luận

    Hôm nay, đọc lại những tài liệu cũ về những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi không giữ được nỗi bàng hoàng nhớ lại nỗi kinh hoàng của những ngày quốc biến 43 năm trước. Chẳng phải là sử gia cũng không phải là chính trị gia, đa số người Việt ngoài nước lẫn trong nước đều cảm nhận nỗi bất hạnh của quê hương mình và dân tộc mình đã từ hơn một thế kỷ qua, luôn là mảnh đất để các cường quốc ngoại bang và các tập đoàn người Việt, nhân danh những khẩu hiệu giả ân giả nghĩa, đã thay phiên nhau xâu xé, thống trị và bóc lột một dân tộc không ngớt gánh chịu điêu linh.

    Bài viết không mục đích định công buộc tội bởi đó là lãnh vực của lịch sử, tuy khi từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Thiệu đã nói trước đồng bào là
    • khi tôi ra đi, tôi xin đồng bào, chiến sĩ cán bộ, tất cả các đoàn thể nhân viên tôn giáo, hãy thứ lỗi cho tôi những lỗi lầm gì đã có với quốc dân trong suốt 10 năm qua;
    và khi gặp Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng ở Luân Đôn đề cập đến cuộc thua trận, ông nói:
    • Je suis responsable mais pas coupable
      - Tôi chịu trách nhiệm nhưng tôi không có tội
      (Tâm tư TT Thiệu, tr. 61).
              
    Tuy nhiên, nhìn qua các biến cố, đa số người bình luận có nhận định là VNCH rơi vào tay cộng sản vì 3 lý do chính yếu :
    • - Thứ nhứt:
      Muốn rút quân, Mỹ đã phản bội VNCH bằng cách nhượng bộ CSBV nhiều điều nhục nhã và giảm bớt viện trợ quá nhiều và quá nhanh. Hậu quả là VNCH không có đủ thời gian và phương tiện cần thiết để tổ chức lại một quân đội và một chiến thuật quân sự tự lập, khả dĩ chống đỡ lại sức tấn công vũ bão của đạo quân Bắc Việt hùng mạnh hơn gấp nhiều lần, nhất là lúc CS tổng tấn công Ban Mê Thuột, VNCH đã can kiệt súng đạn và nhiên liệu mà theo tướng Cao Văn Viên chỉ còn đủ sử dụng đến tháng 6/1975;

      - Thứ hai:
      Những người cầm vận mạng quốc gia của Đệ nhị cộng hòa, một số tướng lãnh, bị xem là thiếu khả năng lãnh đạo và dũng khí, tham nhũng và phe nhóm, đã làm suy giảm nhiệt quyết của giới sĩ quan trung cấp mặc dù quân sĩ vẫn can trường trên các chiến trận;

      - Và sau cùng,
      sự suy giảm uy tín của chánh phủ TT Thiệu đã dấy lên những cuộc biểu tình chống đối của những phần tử đối lập chân chính và thời cơ, những thành phần thứ ba thật và giả, những thành phần thân cộng và cộng sản trà trộn trong các đoàn thể sử dụng chiến lược tổng nổi dậy của cộng sản làm hậu phương rối loạn khiến cộng sản thắng nhanh hơn.
              

    Nhưng nghĩ cho cùng, khi con người đã quá khổ đau, con người chỉ còn biết bám víu vào định mệnh. Nếu nước VN có một định mệnh thì định mệnh đã bắt VN phải gánh chịu quá nhiều bất hạnh từ 1945 đến nay mà cái bất hạnh lớn nhứt, nguy hại nhứt,
    • là VN đã bị Hồ Chí Minh áp đặt chế độ cộng sản trên miền Bắc năm 1954, gây nên chiến tranh nồi da xáo thịt,
    • rồi thống nhứt chế độ độc tài cộng sản trên toàn cỏi Việt Nam năm 1975.
              

    Sau 43 năm miền Nam rơi vào tay Cộng Sản,
    • đất nước càng thêm tang thương, lạc hậu nhất vùng Á Châu Thái Bình Dương,
    • xã hôi băng hoại đạo đức,
    • bị thế giới khinh rẻ vì cấp lãnh đạo, từ trên xuống dưới đều là bọn ngu đần, tham nhũng, độc tài và lưu manh.
    Hãy nhìn cuộc viếng thăm chính thức nước Pháp gần đây, từ ngày 25 đến 27 tháng 3, 2018 của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng. Trọng lơ láo bước xuống phi trường nội địa Orly với đám Việt kiều yêu nước và các nhân viên sứ quán VN tại Pháp, không kèn trống dàn chào, chỉ có một nữ nhân viên Sở Nghi Lễ đến bắt tay. Lần đầu tiên trong lịch sử bang giao quốc tế, nước Pháp dành cho nhân vật số 1 của VN cái "danh dự" nhục nhã nầy. Trong suốt 3 ngày, Trọng chỉ có vài buổi thăm viếng xã giao với Chủ tịch Quốc Hội, không dạ tiệc khoãn đãi (nhưng có ăn trưa với Tổng Thống Macron) không thông cáo chung. Truyền thông Pháp lặng im về cuộc thăm viếng nên đảng ta phải viết bài tự đánh bóng và trả hơn 150 000 euros để đăng nguyên trang trong phần quảng cáo của báo Le Monde. Nhục ơi là nhục.

    Chưa hết, tuần lễ trước đó (17/03), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, khi tham dự Hội Nghị Asean-Australia ở Sydney ngồi ngủ gục thoải mái trong đủ các tư thế được báo chí chụp ảnh "triển lãm" khắp thế giới.

    Năm 2005, khi Thủ tướng Phan Văn Khải công du ở Mỹ tổ chức họp báo ở Seattle bị dân VN chất vấn không trả lời được bèn ra lịnh cho đám cận vệ "ĐM đuổi tụi nó ra ngoài" rồi chấm dứt cuộc họp báo.
              
              

    Làm nhục quốc thể vì cung cách nhà quê, thất học, ăn nói lật lọng kiểu đá cá lăn dưa là sở trường của các đảng viên lớn nhỏ của bác. Vài câu phát ngôn điển hình:
    • Đỗ Mười, thợ thiến heo, khi thắng cuộc làm Tổng Bí Thư đã phun ra câu nói của bọn côn đồ du đảng
      (xem hình và lời nói trên),
    • Vũ Minh Giang, giáo sư Đại học Quốc Gia Hà Nội thuộc loài súc sanh:
      • "Đào mồ tổ tiên tôi thì được, nhưng giật đổ tượng Lê-Nin là thiếu văn hoá;
    • Phạm Gia Yên, Chánh Thanh Tra:
      • Dự án chục tỉ, sai phạm 1 tỉ là tốt rồi;
    • Bùi Xuân Gương, Giám Đốc Sở Giao Thông:
      • Kẹt xe kéo dài ở TPHCM chỉ là ùn ứ vì xe vẫn có thể nhúc nhích được"
              

    Một quốc gia bị cai trị bởi một tập thể vô học, vô đạo đức như vậy thì làm sao khá được?
    VN đang bị khai thác bởi Tàu Cộng và nhiều quốc gia tư bản. Các nhà đất của người dân bị tịch thu để xây phố thị với nợ công chồng chất mà người dân phải trả không biết bao đời mới hết,
    • tất cả chỉ để cho 20 % thị dân thụ hưởng gồm các đảng viên lớn nhỏ bu quanh bởi các đại gia thỏa hiệp với tham nhũng,
    • trong khi 80% người dân nghèo khổ, xã hội chỗ nào cũng thấy chuyện kỳ dị không giống ai.
              
    Nhưng chế độ độc tài nào cũng có ngày phải tàn rụi. Nào có ai ngờ Liên Sô phút chốc bị tan rả, Gaddafi cầm quyền sắt máu xứ Lybia trong 42 năm đột nhiên bị dân Lybia xuống đường giết phanh thây bỏ trên đường phố. Với VN, tuy bị đàn áp, cầm tù, nhưng những cuộc biểu tình của người dân bất mãn với chế độ, những cuộc gặp gỡ giữa các linh mục với giáo dân công khai vạch trần tội ác và sự hèn hạ của chế độ trước Trung Quốc là những đớm lửa cháy ngầm sẽ làm bùng nổ nồi thuốc súng căm hờn đốt rụi đảng cộng sản một ngày không xa.

    Người Việt ngoài nước, hơn lúc nào hết,
    • cần góp lửa vào cuộc tranh đấu của đồng bào trong nước,
      đưa tin vượt thoát bức tường bưng bít,
      tố cáo với thế giới các tội ác vi phạm nhân quyền,
      và điều tối quan trọng,
      • không gởi tiền dưới mọi hình thức,
        không du lịch VN để kẻ thù không có ngoại tệ củng cố chế độ.
    Đối với những người đang hợp tác hay dự định hợp tác với chế độ, có lẽ đến lúc phải đặt lại vấn đề vì công sức bỏ ra vô bổ mà trước hay sau cũng sẽ bị dính bùn nhơ.



    Để kết thúc, chúng tôi xin mượn lời của Uwe Siemon-Netto, người ký giả gốc Đức đã có mặt trên khắp các chiến trường Việt Nam từ 1965 đến 1972, đã chứng kiến những cảnh tượng cộng sản tàn sát tập thể dân Huế và các giáo sư người Đức đến giảng dạy thiện nguyện cho Đại học Y khoa Huế. Ông viết:
    • "Chiến thắng của cộng sản dựa vào những căn bản độc ác, khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên, tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm điều chỉnh lại hậu quả tàn khốc đó, cho dù có khả thi đi chăng nữa.
      Là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc VN, tôi tin là cuối cùng họ sẽ tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xảy ra"
      (Duc: A reporter's love for the wounded people of Vietnam / bản dịch của Lý Văn Quý).
              
    Vâng, điều đó sẽ xảy ra,
    chế độ cộng sản sẽ phải chấm dứt,
    nước Việt Nam sẽ được xây dựng lại từ đầu,
    trên căn bản đạo lý của dân tộc VN và triết lý của nền giáo dục VNCH:
    dân tộc,
    nhân bản,
    khai phóng
    và khoa học.
              




    Thứ sáu 13 04/2018 (Quốc hận năm thứ 43)
    Lâm Văn Bé


    Thư mục tham khảo chính yếu

    - Lê Duẩn. Thư vào Nam.
    - Trần Văn Trà. Kết thúc cuộc chiến 30 năm.
    - Văn Tiến Dũng. Đại thắng mùa Xuân.
    - Võ Nguyên Giáp. Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng.
    - Lưu Văn Lợi. Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris.
    - Lý Quý Chung. Hồi ký không tên.
    - Nguyễn Đức Phương. Chiến tranh Việt Nam toàn tập. -Toronto: Làng Văn, 2000
    - Nguyễn Tiến Hưng. Khi Đồng minh tháo chạy. - San José: Hứa Chấn Minh, 2005.
    - Nguyễn Tiến Hưng. Tâm tư Tổng Thống Thiệu. - San José: Hứa Chấn Minh, 2010 .
    - Trần Đông Phong. Việt Nam Cộng Hòa: 10 ngày cuối cùng. - California: Nam Việt, 2006.
    - Nguyễn Khắc Ngữ. Những ngày cuối cùng của VNCH.- Montreal: Tủ sách Nghiên cứu Sử Địa, 1979.
    - Darcourt, Pierre. Viêtnam, qu’as-tu fait de tes fils. -Paris : Albatros, 1975.
    - Nixon, Richard. The Memoirs of Richard Nixon.- New York: Grosset and Dunlap, 1978.
    - Todd, Olivier. La chute de Saigon : Cruel Avril. - Paris : Robert Laffont, 2005
    - Snepp, Frank. Sauve qui peut.- Paris : Éditions Balland, 1977. (Dịch từ : Decent Interval).
    - Uwe Siemon-Netto. Duc : A Reporter’s Love for A Wounded People / Bản dịch của Lý Văn Quý.Vinh quang của sự phi lý.
    - Westmoreland, William C. A Soldier Reports. - Garden City: NY Doubleday, 1976.

              
                         
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: 30/04/2018 - tưởng niệm 43 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

          



Nỗi Lòng Dâng Mẹ Việt Nam!
(Quốc Hận 2018)










Bốn mươi ba năm rồi
Con vẫn đi tìm MẸ
Vết thương mồ côi còn hoen máu lệ
Bao đêm ác mộng bùng lên.
Giữa trùng dương thuyền như lá lênh đênh
Con quỳ lạy khi tầm xa quê cũ.
Trời lưu vong tượng đá đầy rêu phủ
Góc công viên con gọi MẸ, đâu rồi ?
Con đã về : – tìm hơi ấm trong nôi
Ôm tay MẸ, sống nguyên đời thơ dại.
Viên gạch lót đường, xuyên rừng đêm biên ải
Phút sa cơ, con thấy MẸ bên mình.
Đời trung niên hằn dấu ấn điêu linh
Trong ngục tối, máu đen thành mực viết.
Xin dâng MẸ, dòng Thơ con tha thiết
Chỉ cầu mong tồn tại, tiếp Lên Đường.
Rồi hôm nay, nhìn lại cảnh quê hương
Con vẫn thấy MẸ cằn khô áo rách.
Tóc bạc cuối đời, con vẫn xin làm gạch
Lót đường đi cho thế hệ Em-Con.
Xin MẸ thương con, dù sức yếu mỏi mòn
Nâng con dậy, không quay đầu bỏ cuộc.
Bạn bè con theo tuổi đời bay vút
Bóng cô đơn còn lại giữa đêm trường.
Dù ngày mai theo tiếng gọi Vô Thường
Hồn con vẫn cá Hồi quay tìm MẸ.
Con sẽ về – hòa chung cùng Tuổi Trẻ
Thét vang lên đòi lại Quyền Người.
Đồng hành bên nhau, vang vọng tiếng cười
Quỳ ôm MẸ giữa trời Xuân Dân Tộc.
Tuổi hoàng hôn, con không còn tiếng khóc
Nhưng vẫn còn nguyên vẹn máu hồng tim.
Hơn bốn mươi năm, con còn mãi đi tìm
Hình bóng MẸ nuôi đời con Trung Nghĩa.
Cách không gian nhưng cùng chung tuyến địa
Con nguyện lòng theo bước MẸ ngày đêm.
Con không về – khoe cảnh sống ấm êm
Nơi xứ lạ lãng quên hồn Tổ Quốc.
Không làm khách nhàn du giữa nguồn đau Dân Tộc
Thản nhiên nhìn bao bạo ngược tàn hung.
Đến cuối đời xin tâm nguyện cùng chung
Bao thế hệ lau khô dòng lệ MẸ.
Đất Nước hồi sinh giữa trời Xuân muôn vẻ
Như nghìn xưa theo MẸ lúc lên non.
Hoa Nhân Bản, viết lại Sử vàng son
Dâng lên MẸ – xin vuông tròn Đạo Lý.
Phút tàn hơi chỉ mong lòng toại ý
Được quỳ hôn từng mảnh đất Quê xưa.
Đàn Cháu Con thôi dãi nắng dầm mưa
Trời lại sáng, đường tương lai rộng mở.
Ngẩng cao đầu, nhịp hòa chung hơi thở
Cùng năm Châu sống đẹp với Nhân Quyền.
MẸ VIỆT NAM ! Cho con vẹn lời nguyền
Chung góp sức, trọn đời xin dâng MẸ !.
Hơn bốn mươi năm, trầm luân dâu bể
Vẫn nguyện tình chung thủy với Quê Hương.






Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)
Hải ngoại, 43 năm Quốc Hận – 2018




Nguồn:http://vietluan.com.au

          
          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: 30/04/2018 - tưởng niệm 43 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Ngoc Han
Bài viết: 1577
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: 30/04/2018 - tưởng niệm 43 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Ngoc Han »

Bravo ba ca sĩ, quá hay, nghe mà nhớ lại những ngày xưa. Sau 1972 những bài hùng ca đã được đài phát thanh Quân Đội truyền đi, binh sĩ lên tinh thần nhiều lắm, cũng như tiếng nói Dạ Lan, đêm mưa hay sao trời lung linh, nằm ghế bố, nghe nhạc với những lời ngọt ngào của "em gái "hậu phương khiến bao chàng trai mơ mộng....thả hồn thăng hoa vào chốn bình yên.
:flwrhrts: :flwrhrts: :flwrhrts: :flower: :bravo:
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: 30/04/2018 - tưởng niệm 43 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          



... :giggles: :cafe: .. anh N.Hân ...
:flwrhrts:



          
Hình đại diện
nắng thủy tinh
Bài viết: 3530
Ngày tham gia: Thứ sáu 15/05/15 06:14

Re: 30/04/2018 - tưởng niệm 43 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi nắng thủy tinh »

Wow ...wow...hihi, đâu có dè anh Hoàng Vân nhanh tay dữ dzị nè :rotfl:. Hồi sáng N. có vòng ngang nhà nhưng có chuyện lại phải chạy gấp. Đến chiều nay lò dò vào đây, đúng là bất ngờ á hihi.
Nghe hùng hồn lắm chứ ha Bạch Vân, dù chỉ có ba người :D .

N. cám ơn anh Hoàng Vân đã mix, đã hát :flwrhrts: :cafe: . Cám ơn người đẹp Bạch Vân nhiều :flwrhrts:. Cám ơn anh Ngọc Hân đã ghé vào sớm nhất ủng hộ cây nhà lá vườn :cafe: :flwrhrts:
Tối trời N. ngồi làm cái YT và mang vào FB hihi .... :rotfl:
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: 30/04/2018 - tưởng niệm 43 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

nắng thủy tinh đã viết: Thứ năm 19/04/18 06:03 ...
Tối trời N. ngồi làm cái YT và mang vào FB hihi .... :rotfl:
          



.... :giggles: :allright3: ....



          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: 30/04/2018 - tưởng niệm 43 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Đã 43 năm với niềm Quốc Hận.

    _________________
              
    Đến lúc tiến hành
    Quốc Kháng chưa
    ?
              
    _____________________
    Lão Ngoan Đồng - 04/2018









    Tuổi trẻ Việt Nam, hỡi dòng bất khuất!
    Nào, đứng lên, vì dân tộc, sơn hà!!
    Độc ác phải tàn, chính nghĩa khai hoa
    Mau xin dựng một Mùa Xuân Huyền Diệu!


    (Trích Bài thơ viết riêng cho ngày Quốc Hận
    - Ngô Minh Hằng)

              
    Lịch sử Việt Nam những ngày xa xưa, không biết có ngày tháng nào mà dân tộc Việt Nam ghi vào lịch sử là ngày Quốc Hận, nhưng gần nhứt dưới triều đại phong kiến, tháng 10 năm Mậu Thân 1788, để cứu nguy cho triều đại thối nát, vua Lê Chiêu Thống đã rước quân tàu Mãn Thanh vào, đặt nước Việt Nam dưới ách đô hộ của quân tàu thêm một lần nữa.

    May mắn thay! Đã có một vị anh hùng Tây Sơn Nguyễn Huệ, tập hợp những đồng bào yêu nước thành một lực lượng quyết tử, xả thân vì Tổ Quốc, đánh đuổi quân Mãn Thanh ra khỏi bờ cõi nước Việt, dựng lại chủ quyền cho dòng dõi Hùng Vương. Bọn bán nước Lê Chiêu Thống theo chân tên tướng tàu Tôn Sĩ Nghị, hớt hải, mất hồn mất vía, chạy qua Tàu rồi bỏ thây ở đó. Theo thiển ý của người viết, có thể coi đây là một chiến công giải trừ Quốc Hận lần thứ nhứt cho dân tộc Việt Nam.



    Ngày 30 tháng 4 năm 1975, dưới chiêu bài “giải phóng” xão trá, quân cộng sản Bắc Việt đã thừa lịnh của Nga-Hoa, xua quân đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hoà, đặt nền móng của chủ nghĩa cộng sản, với chính sách cai trị sắt máu bằng chế độ toàn trị, độc tài độc đảng, bằng dùi cui, bằng súng đạn của bầy lang sói tay sai Tàu cộng. Ngày đó, dân tộc Việt Nam không kể là dân Bắc hay Nam, đều ghi khắc là Ngày Quốc Hận thứ hai của toàn dân.
              
    • Cái nguồn gốc gây nên đau thương, thống hận, lệ thuộc ngoại bang phát xuất từ ngày 2 tháng 9 năm 1945,
    • ngày mà tên tội đồ Hồ Chí Minh đã quỳ lụy bọn cộng sản quốc tế, mang cái chủ nghĩa cộng sản ác ôn, ngu xuẫn về nước
    • để dựng nên cái nhà nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” do đảng cộng sản lãnh đạo, dẩn đến sự tàn sát dân tộc, tạo nên cảnh nồi da xáo thịt.
    • Người dân còn sống sót sau các trận thảm sát bởi bọn đầu sỏ đảng và nhà nước việt cộng từ Bắc chí Nam, phải sống một đời nô lệ cho những tên có quyền có thế.
    • Lảnh thổ đã bị bọn chúng dâng hiến cho tàu cộng từng phần từ biên cương phía bắc đến biển đảo ở phía Đông Nam.
    • Dân đã kêu gào thảm thiết, thấu tận trời xanh, mà bọn bán nước buôn dân chẳng mảy may động não.

              
    Trong 43 năm đã qua, mỗi năm người việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại đã tổ chức những buổi lễ tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng 4, trong khi người dân trong nước, dưới sự kềm kẹp của nguỵ quyền hán gian việt cộng, cũng đã có những buổi lễ tưởng niệm, nhưng phải tổ chức trong bí mật với mọi sự dè dặt.

    Toàn thể nhân dân Việt Nam đều biết, sống dưới chế độ việt cộng, một chế độ tay sai của tàu cộng, không ai có quyền tự do căn bản của một con người, sống trong sự lo sợ triền miên, không có tương lai cho bản thân và con cháu, sống ngày nào hay ngày đó, trong khi bọn cầm quyền và tay sai, sống một đời sống vương giả, làm giàu trên xương máu, trên niềm thống khổ của người dân dưới sự cai trị dã man của bọn việt gian cộng sản.

    Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, trải qua đời sống nghèo đói, tủi nhục, nhọc nhằn, người dân trong nước cũng có những cá nhân, những phong trào chống đối sự cai trị hà khắc của bọn cầm quyền bằng những cuộc biểu tình, những hành động phản kháng bằng tự thiêu, bằng “súng hoa cải”, bằng “bom bình ga”, bằng giết cán bộ việt cộng cướp đất cướp nhà...

    Tuy nhiên những đòi hỏi đó chưa triệt để, đa số chỉ yêu cầu bọn cầm quyền hãy nới tay, sửa đổi vài điều luật phản dân chủ phản nhân quyền, nhưng chưa có quyết tâm lật đổ bọn ngụy quyền việt cộng. Những đòi hỏi dù chính đáng, nhưng chỉ là những tiếng vang trong sa mạc mà thôi. Bọn cầm quyền còn chẳng cần nghe theo lời phản kháng của nhiều nước trên thế giới về sự cai trị độc tài độc đảng, về vấn đề vi phạm thô bỉ nhân quyền, thì xá chi tiếng kêu gào thảm thiết của người dân mà chúng coi là nô lệ của chúng.

    Hoài niệm nỗi tủi nhục, căm hờn trong im lặng suốt 43 năm, chế độ cộng sản độc đảng, độc tài vẫn còn đó, bọn cầm quyền tàn ác với dân, hèn hạ với kẻ thù truyền kiếp vẫn còn ngất ngưởng trên địa vị cai trị nước theo ý muốn của chúng, không màng gì đến đời sống của người dân, không kể gì đến sự phê phán của thế giới về chính sách cai trị tàn ác của chúng. Tất cả vẫn còn nguyên nếu không muốn nói là ngày càng bi thảm, tàn ác hơn.

    Hơn thế nữa, sự giành giựt quyền thế ngôi vị trong đảng, trong bộ máy nhà nước, giữa bọn chúng với nhau như bọn cướp, tranh quyền, tranh ăn, tranh lảnh địa để hà hiếp dân với tham vọng làm giàu hơn, khiến cho người dân càng ngày càng sống trong tột cùng khốn khổ, chưa biết đến ngày nào gia đình bị cướp nhà, cướp đất, và còn có thể bị cướp đi sinh mạng khi bị “mời” vào đồn công an để bị tra khảo, cưỡng ép giao nhà giao đất cho bọn chúa trùm quan chức việt cộng, và khi ra khỏi đồn công an, đôi khi đã biến thành xác chết vì đã “tự tử bằng dây thung lưng quần”, hoặc “dùng dao rọc giấy của các quan công an để tự cắt cổ chết”.



    Đồng bào Việt Nam không những đã đau đớn với niềm đau Quốc Hận, mà còn mang nỗi nhục nhã khôn cùng:

    Trước hết là Quốc nhục

    Bọn chóp bu việt cộng, trong bộ chánh trị trung ương đảng, trong các bộ phận nhà nước XHCN, mỗi lần đi ra nước ngoài để “ăn mày bọn tư sản giảy chết”, đã để lộ cái bộ mặt dốt nát ngu đần, qua các hành động, cử chỉ và lời nói làm nhục Quốc Thể, khiến cho báo chí, truyền thanh, truyền hình của nước sở tại có những chương trình hài hước chửi xéo cái “trò diển hề” của chúng, làm cho dân tộc Việt Nam phải bị nhục lây.

    Chưa hết, bọn chúng còn tỏ vẻ khúm núm , vâng vâng dạ dạ với “chỉ thị của tàu cộng” mỗi khi chúng qua tàu hay tàu đến nước Việt. Điều nầy chứng tỏ chúng đã đội tàu cộng lên đầu, cúc cung thần phục nước tàu cộng, trong khi miệng nói láo leo lẻo với người dân Việt là đảng và nhà nước tuyệt đối “bảo vệ chủ quyền của tổ Quốc”.



    Kế đến là cá nhân của người Việt tự thấy nhục
              
    • - Nhục
      là vì bị bọn đảng và nhà nước gạt gẫm hết lần nầy đến lần khác,
      mà không đủ lý trí để nhận xét;

      - Nhục
      là vì bị đàn áp, bị gông cùm
      mà không dám phản kháng do lòng sợ hải đè bẹp chí quật cường của tiền nhân tryền lại cho dân tộc;

      - Nhục
      là vì vô cảm,
      thấy người bị hà hiếp áp bức mà lòng vẫn dửng dưng;

      - Nhục
      là vì bả vinh hoa, danh lợi bán linh hồn cho quỷ, tiếp tay với kẻ thù của dân tộc,
      mà ngày trước đã liều mạng vượt biên để chạy trốn chúng, nay quay lại về phe với chúng đàn áp dân mình;

      - Nhục
      là vì không dám tham gia, chỉ biết đùn đẩy người khác
      tranh đấu cho tự do, cho quyền làm người của toàn dân
      thay cho mình, làm kẻ bàng quan vô tâm;

      - Nhục
      là vì dân mình bị bán ra ngoại quốc làm nô lệ tình dục, làm kẻ tôi đòi cho ngoại nhân
      qua cái chủ trương “xuất cảng lao động”;

      - Nhục
      là vì đã phản bội lời thề “Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm”
      mà ngày nào đã cùng tuyên thệ với đồng đội trước Bàn Thờ Tổ Quốc, trước Anh Linh của Tiền Nhân.

      - Nhục
      là vì Quốc Thể bị chà đạp
      do bọn cầm quyền ươn hèn, lì lợm, mù quáng, làm tay sai cho một chủ nghĩa vô luân, không tưởng, bị cả thế giới khinh rẻ,
      mà vẫn cúi đầu cam chịu;…

              


    Toàn dân Việt Nam đã chịu nhẫn nhục để sống
    • qua hơn 70 năm cho người miền Bắc,
      và 43 năm của người miền Nam.
    Thời gian chịu đựng và nhẫn nhục nầy đã quá dài, Quốc Hận tiến thêm một bước khác là Quốc Nhục.



              
    • Không thể nào ngồi chờ chết mòn mõi trong ngục tù của loài ác quỷ;
    • không thể nào chờ mất đến mảnh đất cuối cùng;
    • không thể nào chờ chết đói vì dù đã làm việc cật lực;
    • không thể nào làm tôi mọi cho bọn độc tài, tham quan ô lại;
    • không thể nào lặng yên không chống trả với bọn hán cẩu xâm lăng;
    • không thể nào chờ đợi bọn độc đảng độc quyền nhủ lòng, để ban ơn mưa mốc bằng những ngoa ngôn xão ngữ.
    • Còn nhiều thứ không thể nào chờ đợi được nữa, vì đã chờ đợi hơn 70 năm qua.

              
    Do vậy đã có một số người thấy trước là không thể chờ, nên đã dấn bước tiên phong,
    • đối diện với bọn cai trị dân,
    • đòi hỏi quyền sống,
    • đòi hỏi quyền tự do mà con người vốn dĩ phải có,
    • đòi hỏi luật pháp phân minh, công bằng cho xã hội,
    • đòi hỏi chống quân giặc ngoại xâm hán tặc…
    Tuy những tiếng gào thét, những trang giấy với chữ nghĩa yêu cầu, đã vang xa tận thế giới năm châu để mọi người đều biết, nhưng
    • bọn người vô liêm sĩ cầm đầu chế độ chẳng chịu nghe, chẳng muốn nghe.
    • Chúng đã bất chấp những cam kết tôn trọng tự do nhân quyền đối với người dân Việt, khi chúng lạy lục van xin để được chấp nhận vào tổ chức Liên Hiệp Quốc, vào WTO để được đối xử công bằng trên chính trường thế giới.
    • Tất cả những cam kết với Liên Hiệp Quốc, bọn chúng ký để cho qua truông, sau đó chúng vẫn ngang nhiên vi phạm, coi LHQ và các quốc gia liên hệ như trẻ con, như trò đùa.
    • Chúng đã bịt miệng người bày tỏ niềm khao khát Tự Do bằng cách giết hại, tù đày, trù dập bởi những luật lệ rừng rú của độc tài, độc đảng.

              
    Vậy chỉ còn một cách là phải thực hiện cuộc Quốc Kháng,
    phải dùng sức mạnh của ý chí Tự Do Dân Chủ,

    toàn dân Việt Nam chúng ta hãy sát cánh bên nhau,
    thực hiện điều mình mong muốn tốt đẹp cho tương lai Dân Tộc,
    giành lấy Tự Do, Nhân Quyền và lòng yêu nước,
    từ trong tay của bọn người lảnh đạo Việt cộng tàn ác vô nhân.

              
    Muốn thực hiện cuộc Quốc Kháng hãy tâm niệm khẩu hiệu
    “Tự Do hay là chết”,

    có nghĩa là
    thà chết trong chiến đấu với cộng sản,
    hơn là tương lai cũng chết dần chết mòn
    bởi thực phẩm độc hại, do mưu sâu diệt chủng của bọn tàu cộng với bàn tay trợ lực của việt cộng,
    bởi không khí và nước ô nhiễm quá mức an toàn,
    chết đói vì sinh kế đã bị bọn cường hào ác bá việt cộng cướp đọat,
    chết vì bị bọn nha sai công an mời vào đồn làm việc…
    và cuối cùng, nếu còn do dự,
    thì sẽ bị tàu cộng đồng hóa, vì Việt Nam của chúng ta, trong tương lai gần, sẽ biến thành một tỉnh lẽ của Trung Hoa do đảng cộng sản Việt Nam dâng hiến, dân tộc Việt Nam sẽ là một dân tộc thiểu số trong nước Trung Hoa.

              
    Đừng lầm tưởng rằng
    • chỉ có những người đang lên tiếng cho Tự Do Nhân Quyền mới bị bọn việt cộng bắt bớ giam cầm để hành hạ, tra tấn, ghép tội là có “âm mưu chống lại đảng và nhà nước”,
    • mà một ngày nào đó, sẽ đến phiên mình, cũng sẽ bị gán ghép cho
      • tội “cản trở lưu thông công cộng”
      • hoặc “chống lại người thi hành công vụ” vì cản trở chúng cướp nhà cướp đất của mình,
      • tệ hơn nữa sẽ bị ghép vào tội danh “có liên hệ với thế lực thù địch”, vì có thân nhân và bạn hữu là người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngọai.

              
    Nếu nhận thấy đã đến lúc bày tỏ thái độ vì dân vì nước, không thể ngậm đắng nuốt cay mà ôm kín trong lòng,
    • ngay sau tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 2018 nầy,
      chúng ta hãy hành động,

      hãy đứng dậy bằng mọi cách, nung nấu chí khí quật cường của cha ông thuở trước,
      nghĩa là phải chống lại những gì đã tạo nên nổi căm hận và nhục nhả, mà đã mấy mươi năm qua bị chúng đè nặng trong lòng.

    Trong tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ với hung thần việt cộng, xin đừng khư khư ôm lấy chủ thuyết của Ông Ghandi bên Ấn Độ là “tranh đấu ôn hòa, bất bạo động”. Với chế độ bạo tàn của cộng sản, không giống như thời Ấn Độ là thuộc địa của Anh Quốc,
    khi đấu tranh với chúng
    hãy tùy thời thế, tùy tình trạng đàn áp của chúng mà thực hành chiến thuật.
    Nếu đi đến tình trạng cần bạo động
    để bảo toàn tánh mạng cho mình và cho đồng đội,
    thì không nên ngần ngại,
    vì nếu không triệt hạ chúng, chúng sẽ tiêu diệt mình.

              
    • Hãy quyết tâm tiến hành đồng loạt cuộc “cách mạng Quốc Kháng”,
    • đè bẹp và tiêu diệt đảng và nhà cầm quyền việt cộng, cái nguyên do tạo nên Quốc Hận và Quốc Nhục.
      Dù có chết,
      hãy chết cho Tổ Quốc trường sinh.

              
              
    Hãy can đảm cùng nhau vùng lên

    làm thành cuộc “Quốc Kháng”,
    diệt trừ bọn việt cộng,
    giựt sập chế độ độc tài độc đảng của chúng,


    hầu cứu vãn cho bản thân và tương lai của con cháu đời sau,

    để luôn vẫn là người Việt Nam,
    người kế thừa của Quốc Tổ Hùng Vương.

              

              




    Lão Ngoan Đồng



              
                         
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”